Giáo trình Từ láy trong truyện ngắn nhóm Việt - Bùi Thanh Thảo

pdf 6 trang huongle 2200
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Từ láy trong truyện ngắn nhóm Việt - Bùi Thanh Thảo", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tu_lay_trong_truyen_ngan_nhom_viet_bui_thanh_thao.pdf

Nội dung text: Giáo trình Từ láy trong truyện ngắn nhóm Việt - Bùi Thanh Thảo

  1. Khoa học Xã hội & Nhân văn 41 TỪ LÁY TRONG TRUYỆN NGẮN NHÓM VIỆT REDUPLICATIVE WORDS IN VIET’S GROUP SHORT STORIES Bùi Thanh Thảo1 Tóm tắt Abstract Nhóm Việt là một trong những bút nhóm văn Việt was one of the most famous literary groups chương nổi bật nhất trong dòng văn học yêu nước of the patriotic literature in the Southern urban ở thành thị miền Nam 1965 - 1975. Ở mảng truyện area 1965 – 1975. In the area of short stories, ngắn, nhóm Việt gồm những cây bút tiêu biểu: Trần this group highlighted typical, young and talented Hữu Lục, Trần Hồng Quang, Trần Duy Phiên, writers: Trần Hữu Lục, Trần Hồng Quang, Trần Huỳnh Ngọc Sơn, Tiêu Dao Bảo Cự, Võ Trường Duy Phiên, Huỳnh Ngọc Sơn, Tiêu Dao Bảo Cự, Chinh. Họ đều là những cây bút trẻ, tài năng. Tác Võ Trường Chinh with their patriotic and true phẩm của họ không chỉ là phương tiện tranh đấu masterpieces. The use of reduplicative words is mà còn là văn chương thực sự. Trong đó, việc sử part of their remarkable contribution. This article dụng từ láy là một đóng góp nổi bật. Trong bài is to study 36 short patriotic stories of these writers viết này, chúng tôi nghiên cứu 36 truyện ngắn của in order to get the understanding of the above nhóm Việt để tìm hiểu vấn đề trên. mentioned issue. Từ khóa: từ láy, nhóm Việt, dòng văn học yêu Keywords: Reduplicative words, Viet’s group, nước ở thành thị miền Nam. the patriotic literature at the Southern Urban area. 1Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam được nhìn ra thế giới ở phương diện văn chương, kế thừa nghiên cứu từ lâu và trên nhiều phương diện. thành quả của người đi trước, lại có điều kiện tham Trong đó, nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý đến gia vào thị trường báo chí - xuất bản sôi động của văn học quốc ngữ Nam Bộ - thành tựu rất đáng ghi các đô thị lớn, nhất là Sài Gòn. Tất cả những yếu tố nhận của mảnh đất phương Nam. Tuy nhiên, văn đó cộng với một điều kiện quan trọng, tiên quyết: học quốc ngữ được ghi nhận như là sự khởi đầu, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng sục sôi, đã còn thành tựu quan trọng nhất của sự hiện đại hoá hình thành nên một lớp người cầm bút rất đặc biệt hẳn nhiên thuộc về văn học 1930 - 1945, nhất là ở miền Nam lúc bấy giờ, những người dùng ngòi các nhà Thơ Mới và các nhà văn Tự lực văn đoàn. bút đấu tranh cho đất nước nhưng đồng thời cũng Giai đoạn 1945 -1975, do hoàn cảnh lịch sử, văn dùng ngòi bút góp phần kiến tạo nên diện mạo hiện học phải tập trung làm nhiệm vụ lớn nhất là góp đại cho văn học đương thời. phần đấu tranh chống ngoại xâm, thống nhất Tổ Khi nói về các cây bút yêu nước ở thành thị quốc, vì thế người ta cũng thường chú ý nhiều tới miền Nam trước 1975, không thể không kể đến nội dung mà có phần xuề xoà khi nói về hình thức. một hiện tượng đặc biệt: nhóm Việt. Hình thành Điều này không phải không có lý. Mãi đến khi bắt từ bước đi ban đầu là Hội Hồng Sơn ở Đại học đầu thời kỳ Đổi mới, những dấu hiệu cách tân văn Sư phạm Huế năm 1965, nhóm Việt đã nhanh học mới lại có điều kiện thể hiện rõ ràng. Nhưng chóng trưởng thành và mở rộng, riêng về truyện nói như thế không có nghĩa là giai đoạn 1945 - ngắn có thể kể đến những cây bút như Võ Trường 1975 về mặt nghệ thuật chỉ là một khoảng trống, Chinh, Tiêu Dao Bảo Cự, Trần Hữu Lục, Trần Duy một đoạn đứt gãy quá trình hiện đại hoá. Văn học Phiên, Trần Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Sơn Văn yêu nước ở thành thị miền Nam 1954 - 1975 nói chương nhóm Việt là tiếng nói của những trí thức chung, truyện ngắn nói riêng, đã có đóng góp đáng yêu nước, những thanh niên tràn đầy nhiệt huyết kể không chỉ vào cuộc đấu tranh giải phóng dân và lý tưởng. Được sự dẫn dắt của Đảng, họ thực tộc mà còn vào diện mạo chung của văn học nước sự đi đúng hướng trong việc dùng văn chương nhà. Công bằng mà nói, các cây bút yêu nước ở làm vũ khí đấu tranh với kẻ thù, để thức tỉnh đồng thành thị miền Nam trước 1975 đã có những điều bào, để bày tỏ ý thức và kêu gọi hành động của lực kiện rất thuận lợi cho việc tạo ra những tác phẩm lượng tiến bộ trong xã hội miền Nam lúc bấy giờ. văn học hiện đại về cả tư tưởng lẫn nghệ thuật thể Bên cạnh đó, chúng tôi chọn nhóm Việt còn do hiện. Nhất là những tác giả trưởng thành từ thập nhận thấy ngoài nội dung tiến bộ, đây là nhóm văn niên 60, họ được đào tạo khá bài bản, có điều kiện chương rất chú ý đến hình thức nghệ thuật. Họ có lối viết khá hiện đại, đặc biệt là ngôn từ vừa gần 1 Thạc sĩ, Khoa Khoa học Xã hội & Nhân văn – Trường Đại học Cần Thơ Số 17, tháng 3/2015 41
  2. 42 Khoa học Xã hội & Nhân văn gũi vừa trau chuốt, thể hiện được nội dung tranh lượt từ láy, bình quân mỗi trang có 7.7 lượt từ, chỉ đấu phù hợp với quần chúng nhưng vẫn tạo được bằng khoảng 2/3 của nhóm Việt. Qua khảo sát sơ cho ngôn từ vẻ đẹp hiện đại, đem lại cho người đọc bộ nói trên có thể thấy số lượng từ láy trong truyện sự thú vị khi thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật. ngắn nhóm Việt vượt trội hơn hẳn. Điều đó cho Mỗi cây bút có một nét riêng, nhưng đồng thời ở họ phép chúng ta nghĩ rằng, đây hoàn toàn không phải lại có một số điểm tương đồng, chứng tỏ sự trưởng sự ngẫu nhiên trong việc dùng từ mà là lựa chọn có thành, hiện đại trong cách viết. Nghệ thuật sử dụng ý thức của các tác giả. từ láy là một trong những điểm tương đồng tạo nên 3. Về sự phân loại từ láy trong truyện ngắn sức hấp dẫn cho tác phẩm của nhóm Việt. nhóm Việt 1. Giới thuyết về từ láy Trước hết là sự phân chia từ láy tượng thanh Về khái niệm từ láy, Từ điển tiếng Việt (Hoàng và tượng hình trong truyện ngắn nhóm Việt. Từ Phê chủ biên) định nghĩa đơn giản là “từ song tiết láy tượng hình và từ láy tượng thanh: có 1016 trong đó một âm tiết có hình thức là láy âm của âm lượt, chiếm 24%, trong đó từ láy tượng hình chiếm tiết kia”2. Tuy nhiên, sự phân loại từ láy lại không khoảng 60%. Láy tượng hình và tượng thanh có thật đơn giản. Thông thường, người ta chia thành giá trị biểu đạt cao, vì thế được các tác giả sử dụng láy bộ phận và láy hoàn toàn, nhưng theo Trương khá nhiều, và đặc biệt là sử dụng chủ yếu để miêu Thị Nhàn (trong bài viết “Bàn thêm về vấn đề nhận tả sắc thái chứ không phải hành động (chỉ có hơn diện từ láy tiếng Việt”) trong trường hợp láy hoàn 10% trong số từ láy tượng hình và tượng thanh toàn cần loại trừ những trường hợp là từ đơn đa âm được sử dụng là động từ). Quan sát từng tác giả, (như chích choè, ba ba, thuồng luồng ) và những chúng tôi nhận thấy người dùng nhiều từ láy tượng trường hợp là từ ghép hợp nghĩa mà một bộ phận hình - tượng thanh nhất và dùng khá đồng đều ở trong đó đã bị mờ nghĩa (chim chóc, hỏi han, chùa các tác phẩm là Võ Trường Chinh, kế đến là Huỳnh chiền ) Do còn nhiều vấn đề liên quan đến việc Ngọc Sơn. Trần Hữu Lục và Trần Duy Phiên dùng phân định từ loại ở một số trường hợp nên trong khá nhiều ở một vài tác phẩm (như Người tình lạ bài viết này chúng tôi vận dụng kết hợp: vẫn chọn mặt, Tư Giò) nhưng ở các tác phẩm khác thì lại cách phân chia từ láy thành các loại như đã thấy chỉ dùng rải rác chứ không tập trung. Trần Hồng trong Từ điển từ láy (Hoàng Văn Hành chủ biên), Quang dùng không nhiều và cũng không đều, mặt khác loại khỏi đối tượng khảo sát những từ là riêng Trường Sơn Ca dùng rất ít, có lẽ vì tác giả từ đơn đa âm và từ ghép hợp nghĩa có một bộ phận này thường tập trung miêu tả hành động, sự kiện là bị mờ nghĩa (dù những từ này vẫn xuất hiện trong chính nên không lưu tâm nhiều đến sắc thái tu từ. Từ điển từ láy). Về giá trị biểu hiện của từ láy tượng thanh – 2. Số lượng từ láy trong 36 truyện ngắn của tượng hình: việc sử dụng khéo léo lớp từ này đã nhóm Việt làm cho lời văn trở nên hết sức sinh động, chẳng Với giới hạn như vừa trình bày ở trên, chúng hạn đoạn văn sau trong Về miệt rừng tràm của Võ tôi khảo sát 36 truyện ngắn (sáng tác trong khoảng Trường Chinh: “Đại bác vẫn rền rền hàng đêm thời gian 1965 - 1975) của nhóm Việt để nghiên trong tiếng loa bền bỉ vang vang bên kia bờ. Chiếc cứu nghệ thuật sử dụng từ láy. Với 470 trang sách đồn canh thin thít nhiều đêm lắng nghe những in, chúng tôi tìm được 4495 lượt từ láy với 1505 bước chân người rầm rập kéo qua giữa một vùng từ láy khác nhau, bình quân mỗi trang có 9.6 lượt trời nước mênh mông. Có người, sau đó kể lại từ (chỉ có 4/470 trang không có từ láy) và mỗi tác làng xóm nghe là đã thấy ông Tốn cao lêu nghêu, phẩm có 125 lượt từ láy. Đây là một con số rất đáng đầu tóc bạc phơ cùng đi giữa một đoàn trai tráng, 3 chú ý. Trong công trình Từ láy trong truyện ngắn ở miệt rừng tràm” . Chỉ một đoạn văn chưa đầy Nguyễn Quang Sáng (Luận văn Thạc sĩ, Đại học 5 dòng mà đã có 7 từ láy, trong đó có 6 từ (gạch Cần Thơ), tác giả Nguyễn Thị Hạnh đã khảo sát 35 dưới và in đậm) là từ tượng thanh – tượng hình. truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng (gần bằng số Chính những từ này đã làm cho đoạn văn cuối tác phẩm chúng tôi khảo sát của nhóm Việt) và thu cùng này của tác phẩm trở nên hết sức sinh động, được kết quả: có 1495 lượt từ láy với 717 từ khác tạo ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc về nhau, chỉ bằng 1/3 số từ láy của nhóm Việt. Trong một không khí sôi nổi, hào hùng, về hình ảnh hiên bài viết “Các lớp từ vựng giàu sắc thái tu từ trong ngang của người chiến sĩ nông dân. truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, tác giả Nguyễn Hoặc đoạn văn sau trong Giấc mơ êm đềm Thị Mẫn Vy đã khảo sát tập truyện Cánh đồng bất (Huỳnh Ngọc Sơn): “Mà hình như lũ dưa, đám tận và thống kê được trong 211 trang sách có 1634 2 Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), tr.1053 3 Tuyển tập truyện ngắn Việt, NXB Trẻ, TP.HCM, 1997, tr.300 Số 17, tháng 3/2015 42
  3. Khoa học Xã hội & Nhân văn 43 lá xanh và gió đang rì rào, ca hát líu lo nữa đó! Như vậy, có thể thấy cả về số từ và số lượt, từ Không, đâu phải tiếng gió thì thầm của lá trong láy hoàn toàn chiếm khoảng 14 - 17% và từ láy bộ ngọn gió lùa. Bà nghe lảng vảng một âm thanh phận chiếm khoảng 83 - 86%. Trong từ láy hoàn lạ tai ( ). Chân nhướng, đầu ngẩng, mái tóc toàn, từ láy hoàn toàn ở dạng giống nhau cả âm bạc phơ cọ sột soạt mấy cành dưa loà xoà. Tiếng đầu, vần và thanh điệu chiếm số lượng nhiều nhất. trống? Lạ quá! Thình thịch, nhịp nhàng, dồn dập Trong từ láy bộ phận, láy âm đầu chiếm số lượng từng hồi ”4. Sự kết hợp hàng loạt từ tượng thanh nhiều nhất, gấp 3 lần láy vần. Kết quả này tương và tượng hình làm cho đoạn văn trở nên sống động đối phù hợp với thực tế từ láy tiếng Việt, bởi số hẳn lên, thiên nhiên cũng vui tươi hơn, phù hợp với lượng từ láy bộ phận bao giờ cũng chiếm tỉ lệ rất tâm trạng hồi hộp của người mẹ già khi nghe vẳng lớn so với từ láy hoàn toàn. từ xa tiếng trống hát bội rộn ràng quen thuộc. Thứ tư là phân loại dựa theo số tiếng: chúng Thứ hai là phân loại từ láy trong truyện ngắn tôi thống kê được trong từ láy nhóm Việt sử dụng, nhóm Việt theo từ loại. Theo đó, từ láy là danh từ láy đôi có 1494 từ (chiếm 99.3% số từ) với 4479 chiếm số lượng ít nhất: 57 lượt (chỉ khoảng 1,2%), lượt (chiếm 99.6% số lượt), láy tư có 11 từ (chiếm động từ: 1083 lượt (24,1%), tính từ - phụ từ: 3355 0.7% số từ) với 16 lượt (chiếm 0.4% số lượt), và lượt (74,7%) (trong đó đại đa số là tính từ). Qua không có từ láy ba. Có thể thấy số lượng từ láy tư đó có thể thấy, nhóm Việt chú trọng việc dùng từ quá ít so với từ láy đôi. Điều này phù hợp với thực láy để khắc hoạ tính chất, sắc thái của đối tượng tế từ láy tiếng Việt, ở một mức độ nhất định cũng hơn là nhấn mạnh hành động. Đối với văn học yêu chứng tỏ khả năng vận dụng linh hoạt và sự tìm tòi nước nói chung, điều này nghe có vẻ hơi lạ, bởi sáng tạo của các tác giả. Trong số này, có những từ dòng văn học này thường tập trung khắc hoạ nhân láy tư khá quen thuộc như bù lu bù loa, hớt hơ hớt vật thông qua hành động hơn là biểu hiện sắc thái. hải, ngật ngà ngật ngưỡng, trùng trùng điệp điệp, Tuy nhiên, đây lại là văn học yêu nước tồn tại công tùm lum tà la. Bên cạnh đó, còn có những từ không khai ở đô thị, vì thế tính chất có phần khác với văn thường xuất hiện, thậm chí không tìm thấy trong học cách mạng. Hành động cách mạng ở đây bị Từ điển từ láy như điên điên tàng tàng, lởn vởn xếp xuống hàng thứ yếu (để tránh sự kiểm duyệt lờn vờn, khật khà khật khùng Những từ này dù ít gắt gao của chính quyền Sài Gòn), trong khi đó nhưng cũng góp phần làm mới và phong phú vốn tâm tư tình cảm, nhận thức, ý thức của nhân vật từ, đồng thời đem lại sự hứng thú cho người đọc. được đưa lên hàng đầu (đấu tranh trên mặt trận văn 4. Về giá trị biểu đạt của từ láy trong truyện chương ở đô thị tập trung vào phương diện này). ngắn nhóm Việt Vì lẽ đó nhóm từ láy là động từ xuất hiện ít hơn hẳn so với tính từ cũng là điều hợp lý. Có ba nhóm nội dung chính mà từ láy tập trung Thứ ba là phân loại từ láy trong truyện ngắn khắc hoạ: nhân vật, thiên nhiên và đời sống. Nhóm nhóm Việt từ phương diện cấu tạo (gồm từ láy hoàn nội dung thứ nhất thu hút nhiều từ láy nhất, chiếm toàn và từ láy bộ phận). Theo đó, từ láy hoàn toàn đến khoảng 70% số lượt từ. Nhóm nội dung thứ gồm có ba dạng: giống hoàn toàn về âm đầu, vần hai chiếm khoảng 11% và nhóm thứ ba chiếm và thanh điệu; giống âm đầu và vần nhưng khác khoảng 22%. thanh điệu; khác âm cuối theo quy tắc biến âm của Từ láy miêu tả nhân vật tập trung vào các khía các cặp p-m, t-n, k-ng và nh-ch. Từ láy bộ phận cạnh chính: hành động, tính cách, ngoại hình và gồm hai dạng là láy âm đầu và láy vần. Dựa vào nội tâm nhân vật. Trong đó, từ láy liên quan đến căn cứ này, chúng tôi thu được kết quả phân loại từ hành động của nhân vật là nhiều nhất, đến 1707 láy trong 36 truyện ngắn của nhóm Việt như sau: lượt từ. Tuy nhiên, điều này không mâu thuẫn với LOẠI SỐ TỪ / TỈ LỆ SỐ LƯỢT / TỈ LỆ nhận định về từ loại ở trên (tính từ nhiều hơn động Láy hoàn toàn 268 / 17.8% 633 / 14.1% từ) vì không phải tất cả từ láy liên quan đến hành Giống âm đầu, vần 116 295 động của nhân vật đều là động từ. Một bộ phận và thanh điệu khá lớn trong số đó là tính từ, phụ từ có tác dụng Giống âm đầu, vần, 78 164 bổ trợ cho động từ. Chính điều này tạo nên nét độc khác thanh điệu đáo cho tác phẩm, bởi những từ láy bổ trợ này làm Khác âm cuối 74 174 cho hành động được miêu tả sinh động hơn, giàu Láy bộ phận 1237 / 82.2% 3862 / 85.9% sắc thái biểu cảm hơn. Trường Sơn Ca đã tận dụng Láy âm đầu 933 2888 ưu thế biểu cảm của từ láy để khiến người đọc cảm Láy vần 304 974 động trước phản ứng tội nghiệp của người nông TỔNG CỘNG 1505 4495 dân nghèo bị bắt oan và bị tra tấn dã man (trong 4 Viết trên đường tranh đấu, NXB Thuận Hóa, 2005, tr.311 Tự do hay là chết): “Bác thét lên be be như heo bị Số 17, tháng 3/2015 43
  4. 44 Khoa học Xã hội & Nhân văn chọc tiết, cả người oằn oại dữ dội làm cái ghế bác tuổi thơ, là mây óng ả của ngày thu ” (Người ngồi lắc lư lảo đảo”5. Chỉ một câu văn ngắn mà tình lạ mặt)9. Và một Trường Sơn Ca với cái nhìn có đến 5 từ láy đôi, đặc tả sự đau đớn kinh hoàng đầy xót xa thương cảm: “Người tù cởi tấm áo đen của bác T. Chính những từ láy này khiến nội dung rách rưới ra ( ). Hai cánh tay khẳng khiu như miêu tả trở nên ám ảnh hơn. hai que củi. Những đường hằn thâm tím chằng chịt khắp người. Một vài chỗ còn rướm máu. Một Trong bộ phận từ láy miêu tả nhân vật, chiếm vài nơi khác đã thành ghẻ ung thối hôi hám” (Tự số lượng ít nhất là nhóm từ miêu tả tính cách, chỉ do hay là chết)10. Có thể thấy các cây bút nhóm có 120 lượt từ với 76 từ khác nhau. Con số này Việt đã khéo tận dụng giá trị biểu đạt của từ láy để phù hợp với khuynh hướng xây dựng nhân vật của làm cho ngoại hình nhân vật hiện lên sống động nhóm Việt, họ quan tâm đến “hoàn cảnh”, “tình hơn, có khả năng tác động mạnh đến cảm nhận của cảnh” nhiều hơn “tính cách”, vì thế từ láy thể hiện người đọc. tính cách cũng hạn chế về số lượng. Tuy nhiên, mỗi khi được sử dụng, chúng đều phác hoạ một Trong khi đó, nhóm từ thể hiện nội tâm xuất cách sinh động tính cách nhân vật: “Bảy Chất sống hiện nhiều hơn gấp đôi ngoại hình, có 760 lượt từ ngất ngơ và hơi khật khùng”, “cung cách của với 243 từ khác nhau, tần suất lặp lại là 3.12 lần/ con người đồng ruộng mộc mạc” (Bảy Chất – Võ từ. Tần suất lặp lại cao hơn so với ngoại hình (1.6 Trường Chinh) 6. lần/ từ) cho thấy các tác giả đã có nhiều điểm gặp gỡ khi miêu tả tâm trạng nhân vật. Đối chiếu với Điều làm chúng tôi chú ý nhất trong nội dung nội dung tác phẩm chúng tôi thấy nhận xét đó là có miêu tả nhân vật chính là nhóm từ láy tả ngoại căn cứ. 36 truyện ngắn được khảo sát tập trung vào hình và tả nội tâm nhân vật. Nhóm từ tả ngoại những nét tâm trạng chính: nỗi buồn đau của người hình không nhiều, chỉ 320 lượt từ, nhưng trong đó nông dân khi làng xóm điêu tàn hoặc bị buộc tản có đến 196 từ khác nhau, nghĩa là tần suất lặp lại cư, sự khổ tâm bế tắc của thanh niên – trí thức và của một từ khi tả ngoại hình là rất thấp (1.6 lần). cả người lính quân đội Sài Gòn trước thực tại, nhận Điều này chứng tỏ vốn từ phong phú và sự sáng thức và quyết tâm hướng về ánh sáng của một số tạo của các tác giả khi xây dựng nhân vật. Đây là nhân vật (thuộc nhiều tầng lớp). Chính vì tập trung hình dạng thằng Đém, nhân vật chính trong Thằng vào những nét tâm trạng chính như vậy nên các tác thuốc lá của Huỳnh Ngọc Sơn: “Thằng Đém khoác giả khó tránh khỏi việc sử dụng từ trùng lắp. Trong chiếc áo rằn ri dài lụng thụng, hai ống quần xoè khi đó, ngoại hình nhân vật lại không cần quy về to bê bết đất thất thểu bước trên đường phố đông một khuôn mẫu nào, cho nên các tác giả đã thể người. Tóc dài che khuất cả cần cổ gầy, phủ xuống hiện sự sáng tạo, khả năng vận dụng từ ngữ linh lê thê trên da mặt xanh xao”7. Còn cô gái trẻ đi hoạt của mình ở phương diện này. trên phố, cũng trong tác phẩm trên, thì “mặc một cái váy ngắn cũn cỡn. Hai cánh tay trắng nõn, Bên cạnh tần suất lặp lại, có lẽ cần nói thêm mát mẻ và cặp đùi nung núc, da thịt rung rinh một chút về từ láy tả tâm trạng nhân vật. Trong theo mỗi bước chân”8. Với 10 từ láy, chủ yếu là từ 760 lượt từ láy thuộc nhóm này, chúng tôi thống láy tượng hình, trong chưa đầy 5 dòng, người đọc kê được 152 lượt từ mang sắc thái trung tính và không mấy khó khăn khi hình dung ra diện mạo dương tính, như vậy có đến 608 lượt từ mang sắc trái ngược của hai nhân vật. Và thật ra, đó không thái âm tính, một tỉ lệ rất đáng chú ý. Với 608 lượt chỉ là diện mạo của riêng thằng Đém hay một cô từ này, các tác giả đã đem lại cho người đọc hình gái tình cờ đi trên phố mà có thể xem là diện mạo dung rất cụ thể về tâm trạng buồn bã, đau đớn, bế chung của rất nhiều thanh niên đô thị lúc bấy giờ, tắc, tuyệt vọng, dằn vặt của các nhân vật: ảo não, những cô gái ăn diện, sống gấp và những cậu trai bàng hoàng, bức bối, chán chường, chơi vơi, đau tàn tạ khi mạt vận. đớn, ê chề, hãi hùng, héo hon, hụt hẫng, khốn khổ, lạc lõng, não nùng, ngao ngán, nơm nớp, Bên cạnh một Huỳnh Ngọc Sơn hết sức tỉnh phập phồng Chẳng hạn, trong truyện ngắn Bán táo, lạnh lùng khi phác hoạ chân dung nhân vật, máu, Võ Trường Chinh đã miêu tả trạng thái của chúng ta bắt gặp một Trần Hữu Lục ít nhiều lãng bác phu xích lô già khi đi bán máu để tìm cái ăn mạn: “Nụ cười rực rỡ, con mắt đằm thắm mời gọi, cho cả nhà: “Một tiếng tách bật lên khô khan, chai giọng nói ngọt mềm. Hội là giọt mưa xuân thánh máu rè rè quay tròn. Bác Tám liếc nhìn những thót một đời người. Hội là vùng sương khói của đợt máu đỏ tươi nhập nhằng nhảy nhót, muốn ói 5Viết trên đường tranh đấu, Tlđd, tr.89 mửa. ( ) Những cơn nhức nhối kỳ dị cứ lớn dần 6 Nhìn lại một chặng đường văn học, NXB TP.HCM, 2000, tr.184 7 Viết trên đường tranh đấu, Tlđd, tr.307 9Tuyển tập truyện ngắn Việt, Tlđd, tr.21 8Viết trên đường tranh đấu, Tlđd, tr.308 10Viết trên đường tranh đấu, Tlđd, tr.99 Số 17, tháng 3/2015 44
  5. Khoa học Xã hội & Nhân văn 45 trong óc rồi nổ tung, điên cuồng từ mắt mũi bác vơ, tong teo, tả tơi, quằn quại, rã rời, nhoè nhoẹt, lao ra vun vút. Trong một giây ngắn quá sức, bác mịt mù, lởm chởm, loang lổ, lở lói, ): “Con sông Tám thấy mình mẩy tay chân xương da rời ra từng mùa nước lớn dào dạt, cuồn cuộn đưa những âm miếng quăn queo, thoát bay lên cao rồi từ từ ráp vang dồn dập khi gần sát bên, khi xa vời vợi mất lại, thân thể nhẹ tênh như một phiến khói rơi dần hút đâu tận tít mù rồi lại ào ào ập đến. Tiếng con xuống miệng hố nhoè nhoẹt màu sắc loạn cuồng. nước đong đưa như tiếng chày giã gạo vọng lại Hình như có tiếng súng nổ ầm ầm vang động. Bác trong những trưa hè vắng vẻ, tiếng thầm thì ỉ ôi mở mắt nhìn trừng trừng nửa chai máu múa may, của lũ ếch nhái ngoài vườn ” (Nắng mới trên cố lắng nghe tiếng súng nổ cheo chéo qua đầu”11. biền đất bồi, Trần Hồng Quang)13. Đoạn văn trên chỉ có 8 dòng nhưng có đến 14 từ Ở nội dung miêu tả đời sống, có 466/1087 lượt láy, tập trung vào tâm trạng, cảm giác của người từ láy được sử dụng mang sắc thái trung tính và phu xe tội nghiệp khi phải bán đi những giọt máu dương tính, và có đến 621 lượt từ láy mang sắc thái ít ỏi của mình, bất chấp nguy hiểm, vì sự sống còn âm tính. Đời sống được miêu tả bằng rất nhiều từ của vợ con. Với những đoạn văn như vậy, người láy thể hiện sự tàn tạ, khốn khổ, bất ổn (áo não, âm đọc thấy thấm thía cảm giác của những con người u, bấp bênh, bê bết, bơ vơ, bức bối, buồn bã, chật nhỏ bé phải vật lộn một cách tuyệt vọng với cuộc vật, chông chênh, côi cút, dật dờ, dữ dội, ghê gớm, sống khó khăn và sự vô tình hờ hững của kẻ khác. hãi hùng, kham khổ, ). Nhưng không phải chỉ có Chính lớp từ láy đã giúp cho việc thể hiện của các những từ láy mang sắc thái âm tính mới miêu tả tác giả hiệu quả hơn, ám ảnh hơn, tác động được cảnh sống khổ sở của người dân, nhiều khi chính đến tình cảm của người đọc, giúp người đọc dễ những từ láy mang sắc thái dương tính lại nhằm dàng hình dung được tình cảnh, tâm trạng đầy đau miêu tả một cảnh đời đầy “âm tính”: “Xóm chỉ đớn của nhân dân miền Nam lúc bấy giờ. Truyện thực sự rộn rã vào khoảng năm giờ chiều khi đám ngắn yêu nước ở đô thị không thiên về hành động lính đen trắng xí xô xí xào từ trong khu ra-đa kéo anh hùng, vì thế việc xoáy sâu vào thế giới tâm hồn tới dãy nhà gần hàng rào tre, cửa sổ có treo màn nhân vật dễ tạo được sự đồng cảm, thấu hiểu, khơi đỏ và bên trong có tiếng khui la-ve bôm bốp, tiếng gợi nhận thức của người đọc. cười cợt ngả ngớn, tiếng nhạc rậm rật theo nhau Trong nội dung miêu tả thiên nhiên và đời sống, ùa ra từng đợt” (Bảy Chất, Võ Trường Chinh)14. chúng tôi nhận thấy có điểm tương đồng là tần suất Không gian rộn ràng trên lại chính là điều làm lão lặp từ ở đây rất thấp, 1.76 đối với thiên nhiên và Bảy đau đớn, bởi nó lột tả sự sa đoạ của xóm tạm 1.92 đối với đời sống. Điều đáng ghi nhận là phạm cư, sự nhục nhã của những người phụ nữ sau bức vi hiện thực trong 36 tác phẩm mà chúng tôi khảo màn đỏ và cả sự nhục nhã của người bố như lão, sát không quá lớn, vì vậy việc tránh lặp từ nhiều chỉ có cách ngồi nhà chờ con gái đem những đồng lần chứng tỏ nỗ lực làm phong phú đối tượng miêu tiền từ cái không gian nhơ nhớp đó về nuôi cả nhà. tả của các tác giả. Hàng loạt từ láy tượng thanh làm cho không gian rộn ràng bao nhiêu thì cũng chính chúng làm cho Về nội dung miêu tả thiên nhiên, chúng tôi tâm trạng lão Bảy giằng xé bấy nhiêu. thống kê được 506 lượt từ láy, nhưng chỉ có 210 lượt từ mang sắc thái trung tính và dương tính, Như vậy, điểm chung ở hai nhóm từ láy tả thiên trong đó chủ yếu là trung tính, còn những từ sắc nhiên và đời sống xã hội là tỉ lệ từ mang sắc thái thái dương tính miêu tả sự tươi đẹp, êm đềm của âm tính luôn lớn hơn từ mang sắc thái trung tính khung cảnh thiên nhiên chiếm tỉ lệ rất nhỏ (êm ả, và dương tính. Qua đó, người đọc có thể phần nào êm đềm, dặt dìu, hiền hoà, lấp lánh, líu lo, lồng hình dung được tính chất của hiện thực được miêu lộng, màu mỡ, mịn màng, nõn nà, óng ả, ). tả trong tác phẩm, nhờ số lượng và khả năng gợi Những hình ảnh êm đềm không nhiều nhưng cũng tả của từ láy. có lúc xoa dịu được tâm hồn nhân vật (và cả người Có một điều chúng tôi cần nói thêm là tần suất đọc): “Gió rì rào xuống thung lũng, đàn ong vù vù lặp từ ở trên được tính chung cho 36 tác phẩm của bay đi kiếm mật sớm, nước leo reo chảy qua gờ 6 tác giả. Khi tách riêng từng tác giả, chúng tôi đá hợp thành một điệu trầm êm ả” (Tư Giò, Trần nhận thấy tần suất lặp từ láy của từng người là rất Duy Phiên)12. Trong khi đó, có đến 296 lượt từ láy thấp, nghĩa là mỗi tác giả rất ít lặp lại những từ láy tả thiên nhiên mang sắc thái âm tính, gợi lên sự đã xuất hiện trong tác phẩm của mình. Chẳng hạn cằn cỗi, tiêu điều, hoặc dữ dội (xơ xác, xanh xao, trong 8 truyện ngắn của Trần Hữu Lục, có 70 lượt vàng vọt, vật vờ, vần vũ, um tùm, trống trơn, trơ từ láy tả ngoại hình nhân vật, trong đó có đến 59 từ 11 Tuyển tập truyện ngắn Việt, Tlđd, tr.328 13 Viết trên đường tranh đấu, Tlđd, tr.244 12 Tuyển tập truyện ngắn Việt, Tlđd, tr.151 14 Nhìn lại một chặng đường văn học, Tlđd, tr.183 Số 17, tháng 3/2015 45
  6. 46 Khoa học Xã hội & Nhân văn khác nhau, nghĩa là chỉ có 11 lượt từ lặp lại. Hoặc lại chú ý nhiều đến diễn biến tâm trạng nhân vật. trong 7 truyện ngắn của Huỳnh Ngọc Sơn, chúng Huỳnh Ngọc Sơn, Tiêu Dao Bảo Cự, Trần Hồng tôi thống kê được những con số như sau: Quang thiên về miêu tả hiện thực khốc liệt với hoàn cảnh khắc nghiệt và những phận người nhỏ Ngoại hình: 78 lượt, 61 từ bé. Trần Duy Phiên lại khá cân bằng giữa hai chiều Hành động: 293 lượt, 204 từ hướng, một số tác phẩm thiên về hiện thực khốc Nội tâm, thái độ: 89 lượt, 53 từ liệt nhưng số khác lại tập trung thể hiện nội tâm nhân vật. Về tổng thể, các tác giả thiên về lãng Tính cách: 19 lượt, 13 từ mạn hoặc thiên về nội tâm nhân vật (như Trần Hữu Thiên nhiên: 80 lượt, 67 từ Lục, Võ Trường Chinh) có xu hướng sử dụng từ láy nhiều hơn một chút so với các tác giả thiên về Đời sống: 168 lượt, 133 từ hiện thực xã hội. Sự lựa chọn này cũng phù hợp Như vậy, có thể thấy, nỗ lực sử dụng từ ngữ nói với tính chất và nội dung biểu đạt của từ láy. chung, từ láy nói riêng, một cách phong phú, đa Khảo sát 36 truyện ngắn của nhóm Việt, có thể dạng chính là ưu điểm nổi bật của nhóm Việt. Khi thấy từ láy xuất hiện ở đó không phải chỉ như một so sánh số lượng từ láy xuất hiện trong tác phẩm, sự tình cờ hay một sự góp mặt tất yếu mà là sự lựa chúng tôi nhận thấy trong số 6 cây bút nhóm Việt chọn đầy dụng ý của người viết. Qua việc sử dụng được khảo sát, Trần Hữu Lục là tác giả có số lượt từ láy, tất cả các cây bút nói trên vừa thể hiện vốn từ láy nhiều nhất (1311 từ /8 tác phẩm/106 trang, từ vựng phong phú, vừa chứng tỏ khả năng vận bình quân 12.36 lượt từ/trang). Các thứ tự còn lại dụng linh hoạt, tài tình trong từng hoàn cảnh và là Võ Trường Chinh (11.18 lượt từ/trang), Huỳnh vẫn phù hợp với phong cách riêng của từng người. Ngọc Sơn (10.49 lượt từ/trang), Trần Hồng Quang Nhờ việc vận dụng khéo léo ấy mà nội dung yêu (8.7 lượt từ/trang), Trần Duy Phiên (6.42 lượt từ/ nước được bộc lộ một cách thuyết phục và đầy trang) và Trường Sơn Ca (5.25 lượt từ/trang). Điều tính nghệ thuật, giúp cho tác phẩm của họ vượt đáng lưu ý là các tác giả nói trên tuy cùng chọn qua khỏi ranh giới những sáng tác cổ động nhất khuynh hướng văn học yêu nước nhưng mỗi người thời. Có thể nói không quá rằng, nỗ lực đó của họ có lối viết riêng. Trần Hữu Lục thường phác hoạ đã làm đẹp thêm tiếng Việt, làm cho văn chương hiện thực bằng ngòi bút lãng mạn. Võ Trường của họ thực sự là những tác phẩm nghệ thuật ngôn Chinh cũng luôn xuất phát từ hiện thực nhưng từ dành tặng cho người đọc. Tài liệu tham khảo Hoàng Phê (chủ biên). 1992. Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ, Hà Nội. Hoàng Văn Hành (chủ biên). 1995. Từ điển từ láy tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Thị Hạnh. 2013. Từ láy trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Cần Thơ. Nguyễn Thị Mẫn Vy. 2012. “Các lớp từ vựng giàu sắc thái tu từ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu khoa học lần thứ 8, Đại học Đà Nẵng. Nhiều tác giả. 1997. Tuyển tập truyện ngắn Việt, NXB Trẻ, TPHCM. Trần Hữu Tá. 2000. Nhìn lại một chặng đường văn học, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, TP.HCM. Trương Thị Nhàn. 2011. “Bàn thêm về vấn đề nhận diện từ láy tiếng Việt”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Ngữ học toàn quốc năm 2011, 21-23/4/2011, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam phối hợp với Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng tổ chức. Trần Thức (chủ biên). 2005. Viết trên đường tranh đấu, NXB Thuận Hóa, Huế. Số 17, tháng 3/2015 46