Giáo trình Tư tưởng của Trần Đức Thảo ề nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức - Hoàng Thúc Lân

pdf 8 trang huongle 2360
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Tư tưởng của Trần Đức Thảo ề nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức - Hoàng Thúc Lân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tu_tuong_cua_tran_duc_thao_e_nguon_goc_cua_ngon_n.pdf

Nội dung text: Giáo trình Tư tưởng của Trần Đức Thảo ề nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức - Hoàng Thúc Lân

  1. TRIẾT - LUẬT - TÂM LÝ - XÃ HỘI HỌC Hoàng Thúc Lân Tư tưởng của Trần Đức Thảo về nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức Hoàng Thúc Lân * Tóm tắt: Tư tưởng biện chứng duy vật của Trần Đức Thảo về nguồn gốc ngôn ngữ và ý thức được thể hiện khá đậm nét trong triết học của ông. Để luận giải sâu sắc, khoa học về sự xuất hiện ngôn ngữ và ý thức trong con người, Trần Đức Thảo đã so sánh sự tiến hóa của các loài động vật với sự phát triển của con người. Đồng thời, ông còn vận dụng sáng tạo các nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, cùng các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật vào luận giải quá trình hình thành ngôn ngữ và ý thức. Ông đã chỉ rõ mối liên hệ nhân quả giữa não bộ, các giác quan với đời sống tinh thần, ý thức của con người và mối liên hệ biện chứng giữa cái sinh học, cái xã hội và tâm thần trong ý thức con người. Ông khẳng định rằng tâm lý người tiến hóa từ tâm lý động vật; ngôn ngữ, ý thức là sự thống nhất biện chứng giữa cái khách quan và chủ quan. Tư tưởng biện chứng duy vật về ngôn ngữ và ý thức của Trần Đức Thảo đã cống hiến cho nền triết học Việt Nam nói riêng và triết học nhân loại nói chung những giá trị sâu sắc và quý báu. Từ khóa: Trần Đức Thảo; ngôn ngữ; ý thức; duy vật; biện chứng. 1. Mở đầu cấp và đồng thời là cái khác, tức là con Phương pháp biện chứng duy vật là cách người nhân cách, với những xu hướng, đòi thức xem xét sự vật một cách khoa học. hỏi, giá trị tinh thần đã sinh ra và phát triển Phương pháp biện chứng duy vật thể hiện ở từ thời cộng sản nguyên thủy”(*)[7, tr.83 - các nguyên tắc như khách quan, toàn diện, 84]. Trần Đức Thảo có đóng góp đáng kể lịch sử cụ thể, phát triển, thống nhất giữa lý vào kho tàng văn hóa triết học của nhân luận và thực tiễn Các nguyên tắc này loại. Sự sáng tạo triết học của Trần Đức được rút ra từ cách giải quyết biện chứng Thảo được đánh dấu bằng các tác phẩm duy vật về các vấn đề của triết học. Trần Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện Đức Thảo đã vận dụng sáng tạo các nguyên chứng, Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý tắc trên để nghiên cứu về nhiều vấn đề của thức. Trong tác phẩm Tìm cội nguồn của triết học, trong đó có vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức, ông đã vận dụng sáng ngôn ngữ và ý thức. Trần Đức Thảo khẳng tạo các nguyên tắc biện chứng duy vật để định: “Chính phép biện chứng mới là luận giải về nguồn gốc ra đời của ngôn ngữ phương pháp tư duy toàn diện. Khi nghiên và ý thức của con người. Tư tưởng của Trần cứu về vấn đề con người thì phải nhận thức Đức Thảo về nguồn gốc của ngôn ngữ và ý rằng, lịch sử loài người là một quá trình thức có tính duy vật và biện chứng. Bài viết thống nhất biện chứng. Do đó, cần nhận thức con người trong mâu thuẫn và quan hệ (*) Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. “mỗi người là bản thân nó, con người giai ĐT: 0977531719. Email: hoangthuclan@gmail.com. 21
  2. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 này trình bày nội dung cơ bản trong tư năng lượng thần kinh, năng lượng tâm thần tưởng biện chứng duy vật của Trần Đức diễn ra trong bộ óc của con người. Đồng Thảo về nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức. thời, ông cũng khẳng định rằng ý thức của 2. Tư tưởng duy vật về nguồn gốc con người là sự thống nhất biện chứng giữa ngôn ngữ và ý thức cái khách quan và cái chủ quan. Quan điểm Trần Đức Thảo đã vận dụng nhiều nội của ông giống quan điểm của C.Mác khi dung của phép biện chứng duy vật để luận khẳng định ý thức có nguồn gốc từ não giải một cách khoa học về sự ra đời của người trong quá trình phản ánh sáng tạo thế ngôn ngữ và ý thức. Ông so sánh con người giới khách quan. với các loài động vật khác để làm nổi bật Trần Đức Thảo so sánh sự phát triển của đặc điểm riêng có của con người, nguồn con người với các loài động vật khác để gốc của ngôn ngữ và ý thức, quá trình hình luận giải khoa học về phát triển tâm lý, ý thành và phát triển giống người. Nghiên thức con người. Ông đã vận dụng sáng tạo cứu về sự hình thành ngôn ngữ và ý thức, quy luật chuyển hóa dần về lượng dẫn đến Trần Đức Thảo dựa trên quan điểm duy vật thay đổi về chất và ngược lại để phân tích của C.Mác. Trên tinh thần đó, ông khẳng và làm sáng tỏ sự khác nhau về chất trong định ngôn ngữ và ý thức có nguồn gốc từ tự mỗi giai đoạn phát triển của con người. nhiên và xã hội. Quan niệm này của Trần Điều đó được minh chứng qua quá trình Đức Thảo đồng nhất với quan điểm duy vật tiến hóa chuyển từ khỉ cao cấp sang người biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, khéo, rồi đến người khôn. Sự khác biệt giữa song vẫn mang nét riêng trong tư duy triết khỉ cao cấp và người khéo với người khôn học của ông. thể hiện ở sự khác biệt cơ bản về đặc tính Để nghiên cứu và làm sáng tỏ bản chất xã hội trong cộng đồng của chúng Ông đã khoa học cho sự ra đời ý thức con người, dựa vào các hoạt động và phản xạ của con Trần Đức Thảo đã đứng vững trên lập vật để giải thích sự hình thành cử chỉ của trường duy vật biện chứng. Tư tưởng biện con người, điều này tạo nên sự khác biệt cơ chứng của ông được thể hiện qua việc vận bản trong quan niệm của Trần Đức Thảo so dụng sáng tạo các nguyên tắc biện chứng với các nhà triết học duy tâm trước đó (triết duy vật vào luận giải đúng đắn cội nguồn học duy tâm cho rằng thần thánh hay chúa của sự ra đời ngôn ngữ và ý thức. Các trào trời sinh ra con người). lưu triết học trước C.Mác đều giải thích sai Trong Tìm về cội nguồn của ngôn ngữ lệch hay thiếu triệt để về sự ra đời của ý và ý thức, Trần Đức Thảo đã nghiên cứu sự thức. Chẳng hạn chủ nghĩa duy tâm cho hình thành ý thức theo hai con đường: cử rằng ý thức do lực lượng siêu nhiên sinh ra, chỉ ngôn ngữ trẻ em và tư liệu của người còn chủ nghĩa duy vật siêu hình lại cho tiền sử. Sự ra đời của ý thức đi từ cử chỉ rằng, óc sinh ra ý thức như gan tiết ra mật vòng cung, đến cử chỉ đường thẳng, rồi đến Trần Đức Thảo đã khắc phục hạn chế của ý thức rời rạc và hình ảnh thiên tính; ý các quan niệm trên, đi sâu nghiên cứu chức tưởng hóa cử chỉ biểu đạt rồi ý thức ra đời. năng, vai trò và sự tác động biện chứng Trong giới động vật, mỗi con vật hoạt động giữa não bộ và các giác quan, các chi để lý theo hệ thống phản xạ cá thể của nó để bảo giải sự hình thành và phát triển đời sống vệ sự sống của bản thân. Phản xạ cá thể tinh thần, tâm lý, ý thức con người. Sự ra động vật là do cái hệ thống bản năng xuất đời của ý thức theo ông là do thần kinh vận phát từ những nhu cầu cơ bản của sự sống động trong sự tác động biện chứng giữa quy định. 22
  3. Hoàng Thúc Lân Khi lý giải về sự tiến hóa của thế giới vật phổ biến về sự tiến hóa của con người, và chất trong quá trình vận động, Trần Đức mối liên hệ phổ biến của con người với thế Thảo đã đi từ nghiên cứu các điều kiện giới khách quan. sống và phản xạ của loài cá đến loài chim, 3. Tư tưởng biện chứng về nguồn gốc gà, voi, trâu, bò; đã chỉ ra sự giống và khác ngôn ngữ và ý thức nhau giữa chúng; đồng thời so sánh biểu Tư tưởng biện chứng về nguồn gốc ngôn hiện phản xạ đó với sự phát triển ý thức của ngữ và ý thức của Trần Đức Thảo còn được mỗi con người [8]. Ở lớp cá, phản xạ tập thể hiện rõ trong so sánh sự khác biệt cơ đoàn xuất hiện được coi là một loại phản xạ bản giữa tâm lý động vật đặc biệt là tâm lý rất đặc biệt, thể hiện phổ biến ở tuổi trẻ. Cá giữa loài khỉ cao cấp với tâm lý của con bột, con nòng nọc bao giờ cũng bơi với người. Ông so sánh sự khác biệt về tập tính nhau, nương tựa và bảo vệ nhau, con nào của loài động vật và chỉ rõ nguyên nhân của tách ra ngoài cái khối chung thì không thể sự khác biệt đó để lý giải sự khác biệt con sống sót, bất kỳ con vật ăn thịt nào trong người với động vật. Trần Đức Thảo đã dựa nước cũng có thể nuốt nó liền. Những con vào sự tiến hóa của cơ thể loài vật để khẳng chim con, gà con, voi con, chó con, mèo định rằng, tính bầy đàn của các loài động con cũng vậy; bao giờ chúng cũng đi với vật khác nhau thì tính tổ chức và chặt chẽ nhau, dù có hay không có mẹ dẫn đường. cũng có sự phân cấp khác nhau. Chẳng hạn, Rồi đến những loài khỉ mà mỗi lứa chỉ có do loài bò, trâu, chó, lợn có sự tiến hóa cơ một con, nhưng khi những con khỉ con thể thấp hơn loài khỉ, tinh tinh, nên tính bầy không còn bú mẹ, thì chúng tập hợp lại đàn của bò, trâu, chó, lợn thiếu chặt chẽ, thành nhóm. Nếu con nào tách ra khỏi thiếu tính tổ chức hơn. Tính bầy đàn của khỉ nhóm, thì không thể nào giữ được an toàn. và tinh tinh có sự liên kết chặt chẽ hơn, có Vì thế, phản xạ tập đoàn là điều kiện, tiền tính tổ chức hơn; chúng đã biết phân biệt đề tồn tại của cá thể loài ở mỗi loài động ngôi thứ, đi săn, chia quả, chống chọi kẻ thù vật. Bắt đầu từ lớp cá, khi những con vật thông qua sự chỉ hiệu của con vật đầu đàn nhỏ lớn lên, thì trong một số loài, chúng Điều này đã xuất hiện những dấu hiệu gần mất phản xạ tập đoàn để tiến hành đời sống giống con người. Sở dĩ loài khỉ và tinh tinh riêng lẻ. Nhưng đa số các loài động vật thì có đặc tính như vậy là do sự tiến hóa của não vẫn duy trì phản xạ đó và phát triển lên bộ, nhiễm sắc thể của chúng có sự chênh thành một số cử chỉ tập đoàn. Trong hoạt lệch, cao hơn so với động vật khác. Để hiểu động phản xạ của con vật, đây là mặt khác được sự khác biệt đó cần có các quan điểm biệt, đối lập với hệ thống phản xạ cá thể, khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể tức là xuất phát từ bản năng, tức là đối lập với cần có tư duy biện chứng duy vật. tính động vật. Sở dĩ sinh ra mặt đối lập như Trần Đức Thảo đã dựa vào trình độ của thế là do sự lựa chọn tự nhiên. Đời sống tập sự phát triển động vật để chia làm hai loại: thể là điều kiện bảo vệ tốt hơn, sinh ra động vật bậc thấp và động vật bậc cao. Sự những phản xạ tập thể, lúc đầu là có điều phát triển của động vật từ thấp đến cao, với kiện, về sau là sự lựa chọn tự nhiên làm cho mỗi trình độ phát triển nhất định của vật cái hình thái phản xạ tập thể trở thành vô chất đều gắn với cơ chế phản xạ thích ứng. điều kiện, tức là bẩm sinh. Điều này đã giúp Ở động vật bậc thấp (động vật không xương cho Trần Đức Thảo có cái nhìn toàn diện về sống), quan hệ giữa các cá thể được quy sự phát triển thông qua cái nhìn sâu sắc và định theo những đặc điểm hữu cơ và đời 23
  4. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 sống tập thể tiến hành hầu như máy móc, quan điểm duy tâm siêu hình khi nghiên diễn ra chủ yếu theo những phản xạ không cứu con người và xã hội. điều kiện. Tính tổ chức cao nhất trên con Trần Đức Thảo đã lý giải các giai đoạn đường này thể hiện ở loài ong. Ở động vật phát triển khách quan và khẳng định, phản có xương sống thì quan hệ giữa các cá thể xạ của con người cũng được diễn ra theo phát triển ngày càng mềm dẻo, phong phú, quy luật khách quan, vốn có của sự tiến hóa do vai trò ngày càng tăng của những phản vật chất. Sở dĩ loài khỉ cao cấp phát triển xạ có điều kiện so với vai trò của những âm thành con người là do nguồn gốc xã hội. hiệu và chỉ hiệu. Trong quan hệ với tự Điều này được Ph.Ăngghen khẳng định: nhiên và cộng đồng, ở động vật có xương “Theo tôi thì bản năng xã hội là một trong sống đã xuất hiện phản xạ tập đoàn (bao những đòn bẩy quan trọng của sự phát triển gồm phản xạ tập thể và những phản xạ liên của con người từ khỉ” [2, tr.598 - 599]. hệ với tập đoàn). Sự lựa chọn tự nhiên làm Chính vì vậy, khi nghiên cứu triết học về cử cho một số phản xạ tập đoàn trở thành vô chỉ của con người trong những giai đoạn điều kiện. Tính tập đoàn đối lập với tính cá phát triển cụ thể, Trần Đức Thảo dựa vào thể động vật, điều đó xuất phát từ bản năng trình độ phát triển của cơ thể để luận giải sự thỏa mãn nhu cầu cơ bản của sự sống. Theo hình thành và phát triển ý thức của con Ph.Ăngghen: “Các tổ tiên người - vượn của người trong sự tiến hóa của các loài. Trần chúng ta là những động vật có tính hợp Đức Thảo đã khẳng định rằng sự hình thành quần; rõ ràng là không thể kết luận rằng con và phát triển của tâm lý, ý thức của con người, tức là một loài động vật có tính hợp người diễn ra theo quá trình từ thấp đến quần hơn hết, lại là do một tổ tiên gần nhất cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự hình không có tính hợp quần sinh ra” [3, tr.644]. thành con người trải qua quá trình tiến hóa Trần Đức Thảo khẳng định rằng, tổ tiên lâu dài, đi từ khỉ cao cấp rồi chuyển thành của loài người được bắt nguồn từ loài khỉ người khéo, tiếp đó đến người khôn. Mỗi theo quy luật tiến hóa của bộ óc diễn ra từ giai đoạn phát triển lại gắn với trình độ tâm thấp đến cao, nó phải qua những trình độ tổ lý khác nhau. Ông viết: “Đến 12 tháng tuổi, chức nhất định trong lớp thú và bộ linh nó đạt tới độ tuổi của loài tinh tinh. Nó ngồi trưởng. Tất cả các loài khỉ hiện nay đều ở tư thế rất thẳng. Nó cho một khối vuông sống tập đoàn, như Ph.Ăngghen đã từng đổi lấy một khối khác, nó lấy đồ chơi đập khẳng định: “động vật có tính tập đoàn cao vào một đồ chơi khác, nắm một đầu sợi chỉ nhất”. Nhờ phân tích trên, Trần Đức Thảo và kéo về phía mình một đồ vật buộc vào đã chia quá trình phát triển của ý thức thành đầu dây kia. Nó biết cười với hình ảnh của các dạng từ đơn giản đến phức tạp, đã so mình trong gương. Nó có thể dắt tay đi, học sánh các phản xạ của động vật với phản xạ vỗ tay hoan hô và vẫy tay tạm biệt. Tất cả của con người, đã khẳng định tương ứng những điều kỳ tích này thuộc về trình độ với các hình thức vận động của vật chất ở loài tinh tinh. Đến 14 tháng tuổi, nó biết các cấp độ khác nhau là các cấp độ phản làm động tác chỉ, hành vi này là đặc điểm ánh, đã luận giải quá trình hình thành và sự thuộc về trình độ loài Vượn phương Nam khác biệt về chất giữa con người với con phát triển, điều này được khẳng định bằng vật ở năng lực hình thành và phát triển ý khả năng của đứa bé có thể tự nó đi trên đôi thức con người. Điều đó là sự thể hiện quan chân của mình. Từ 12 đến 14 tháng tuổi, điểm biện chứng duy vật, chống lại các việc sử dụng các tín hiệu tiền ngôn ngữ của 24
  5. Hoàng Thúc Lân đứa trẻ cho phép ta coi hoạt động thần kinh dựa trên quan điểm khách quan, toàn diện của nó là tiền sống trải và tiền tâm lý, điều để phân tích và luận giải sự khác biệt đó xác định một trình độ cao nhất của động một cách thuyết phục, khiến cho chúng ta vật. Đến 15 tháng tuổi xuất hiện bước nhẩy thấy quan điểm này giống quan điểm của vọt cơ bản về chất chuyển từ tính động vật C.Mác - Ph.Ăngghen, song vẫn tạo nên nét sang tính người dưới hình thức khởi nguyên độc đáo trong tư duy triết học của ông. của Con người khéo léo. Từ 15 tháng đến 5 Trần Đức Thảo khẳng định, sự khác tuổi, việc hình thành ngôn ngữ và ý hoạt nhau giữa loài vượn và con người thể hiện động tâm lý (bao gồm cái sống trải, ý thức, ở sự khác biệt giữa cái tâm thần cảm giác tiềm thức và vô thức), được nhịp độ chín vận động của động vật với cái tâm thần hữu muồi của vỏ não tạo điều kiện và được các thức của con người. Vì thế, mà ở loài vượn, truyền thống giáo dục của cộng đồng gia hoạt động thích nghi của nó chỉ làm cho lao đình thúc đẩy, lấy lại các ý nghĩa và giá trị động thích nghi khéo léo; nó không có khả xã hội về tâm lý thuộc loại con người trong năng chế tạo công cụ lao động, lao động phép biện chứng về sự phát triển lịch sử của thích nghi có ở loài vượn cũng không đạt nó, từ cộng đồng địa phương các Con người tới hình thức sản xuất đặc thù của con khéo léo đến bộ lạc đang phát triển của người. Con người không chỉ là động vật Người thời đại đồ đá giữa và Người thời biết tư duy mà còn có ngôn ngữ, có khả đại đồ đá mới đầu tiên” [5]. năng chế tạo, sử dụng công cụ lao động. Trần Đức Thảo đã chỉ rõ nguyên nhân Trần Đức Thảo kết luận rằng vượn người của sự khác biệt giữa ý thức con người so không có cử chỉ chỉ dẫn bằng dấu hiệu sơ với tâm lý con vật. Ông chứng minh rằng: đẳng nhất nên nó không có ý thức. sự xuất hiện tâm lý không thể tách rời mặt Trần Đức Thảo dựa vào sự tiến hóa của sinh vật trong con người vốn có tiền sử từ động vật để lý giải khoa học về nguồn gốc xa xưa trong sự xuất hiện giống loài, nghĩa của ý thức. Gốc rễ, cội nguồn của sự tiến là trong sự xuất hiện của tế bào thần kinh hóa động vật là sự phát triển hoạt động cho đến lúc thần kinh phát triển thành não dụng cụ tính, thực sự tạo bước chuyển từ bộ. Ở loài khỉ, hộp sọ là 500 cm3, đến người vượn người sang giai đoạn loài người. Ý khéo là 700 cm3, và người khôn là 1.200 thức phải được khảo cứu ở trong “tính hiện cm3, đến người tinh khôn là 1.300 cm3. Sự thực trực tiếp”. Ngôn ngữ bắt đầu từ lao phát triển của thần kinh và não bộ gắn liền động thích nghi của người vượn. Tuy nhiên, với tập tính của loài động vật, ở loài khỉ là ông cũng khẳng định sự khác biệt giữa con biết sống theo tập đoàn, ở khỉ cao cấp là người và vượn ở chỗ: chỉ con người mới có biết sống theo tập đoàn ít nhiều có tính tổ được ngôn ngữ và cách chế tạo công cụ lao chức, ở loài người là biết sống thành xã hội. động, chỉ trỏ là nét riêng của con người. Sự Trong tác phẩm này, việc chỉ rõ điểm xuất chỉ của con vật chỉ diễn ra theo lối vòng phát của xã hội loài người là từ đâu, ở đâu cung, con vật không có khái niệm khoảng chính là sự sáng tạo của Trần Đức Thảo. cách, nó vồ thẳng vào vật mình cần. Con Việc Trần Đức Thảo chỉ rõ rằng, sự khác vượn tuy tri giác sự vật ở bên ngoài, nhưng biệt cơ bản về cấu trúc não bộ của loài khỉ đối tượng là cái nó có thể đụng tới trực tiếp so với người khéo và người khôn cũng như hay qua một trung gian (cái gậy). Loài vượn với con người ngày nay là sự khác biệt giữa Nam Phương (đã đi hai chân trên mặt đất, tâm lý với ý thức của con người. Ông đã trong quá trình tiến hóa thích nghi với các 25
  6. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 điều kiện khó khăn của môi trường bao nguồn của ý thức con người. Điều đó đã quanh) đã biết sử dụng một số đối tượng tự góp phần chống lại các quan điểm duy tâm, nhiên với tư cách là dụng cụ, có sẵn, không siêu hình của các nhà triết học trước đó khi hề có chức năng công cụ tự nó. Loài vượn nghiên cứu con người; khẳng định giá trị này đã thốt lên được một số âm thanh có khoa học của quan điểm duy vật biện chứng tính chất tình thế, không có ý nghĩa chỉ đối trong tiếp cận về ngôn ngữ và ý thức. tượng, tức là chưa có ý nghĩa chỉ trỏ theo Trần Đức Thảo khẳng định rằng tiêu chí nghĩa đen. Cử chỉ đó đồng thời có chức để đánh giá sự phát triển ý thức của con năng kêu gọi và cũng thể hiện bằng tiếng người là tính xã hội. Tính xã hội của con cảm thán của con người hay con vật được tinh tinh khác với tính xã hội của con người tập thể đáp lại Con người thì chỉ thẳng về cấp độ và trình độ. Nếu như con tinh tinh vào vật mình cần. Khi ngón tay trỏ vào cái ít nhiều mang tính xã hội, thì người khéo đã vật ở bên ngoài xa mình, thì khái niệm vật mang tính xã hội rõ rệt, bởi người khéo vừa mang nghĩa là hiện thực khách quan đem lại là kết quả vận động tự nhiên, vừa là chủ cho con người trong cảm giác [4]. nhân của tự nhiên và lịch sử. Giống như Từ việc so sánh quá trình hình thành, quan điểm của C.Mác, Trần Đức Thảo cũng phát triển của ý thức con người và vượn khẳng định vai trò của lao động trong việc người, Trần Đức Thảo đi đến kết luận rằng hình thành ngôn ngữ và ý thức của con ý thức con người phải trải qua nhiều bước người. Thông qua quá trình lao động, con trung gian từ thấp đến cao và phải vượt qua người đã chế tạo công cụ lao động làm cho giai đoạn của vượn người. Cụ thể, sự phát sản phẩm dư thừa, xuất hiện quan hệ sở hữu triển của ý thức con người đi từ bước thứ chung và sở hữu riêng trong quan hệ cộng nhất (ý thức rời rạc) đến bước thứ hai (ý đồng. Chính mối quan hệ sở hữu chung và thức tập thể) và bước thứ ba (hình thành cái riêng đó là cội nguồn của ngôn ngữ và ý tôi). Lúc đó ý thức mới ra đời. Ở bước thứ thức. Theo Ph.Ăngghen: “Trước hết là lao nhất và bước thứ hai, loài vượn người đạt động; sau lao động và đồng thời với lao được, chúng ý thức được các hiện tượng động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích đơn lẻ bên ngoài và tìm ra được cử chỉ hay chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con cách diễn đạt bằng âm thanh để thể hiện cái vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến vật mình muốn chỉ trỏ bằng một dấu hiệu chuyển thành bộ óc người” [3, tr.646]. Trần riêng. Chỉ có con người mới đạt được tới Đức Thảo khẳng định, trong quan hệ với bước thứ ba, hình thành cái tôi của mình cộng đồng, con người buộc phải trao đổi trong quan hệ với cộng đồng xã hội. thông tin với người khác; đó là cơ sở, cội Trần Đức Thảo đã luận giải sự hình nguồn để ngôn ngữ, ý thức ra đời. Ngôn thành và phát triển ý thức con người thông ngữ và ý thức là một trong những giá trị qua việc so sánh sự phát triển của con được sở hữu quan trọng nhất trong con người so với trình độ tiến hóa của các loài người, bởi vì không có ngôn ngữ và ý thức, động vật không xương sống và động vật có thì con người không thể liên hệ với nhau để xương sống; chỉ ra cơ chế hình thành phản sống và duy trì sự sống, không thể tiến hành xạ trong mỗi loài động vật và sự tiến hóa sản xuất. của loài vượn thành người. Trên cơ sở đó, Trần Đức Thảo đặc biệt nhấn mạnh đến ông cũng chỉ rõ sự khác biệt cơ bản của loài tính xã hội của ngôn ngữ và ý thức. Ngôn người so với động vật khác, đó chính là cội ngữ và ý thức vừa là sản phẩm của xã hội, 26
  7. Hoàng Thúc Lân vừa là kết quả của các quan hệ xã hội phát xây dựng xã hội mới tốt đẹp, chúng ta phải triển, được phản ánh vào trong đầu óc con có những hiểu biết đúng đắn, sâu sắc, khoa người; môi trường, tính chất, trình độ phát học về con người và tôn trọng quyền con triển xã hội khác nhau thì ngôn ngữ khác người như là sản phẩm tất yếu của sự sống. nhau. Con người sáng tạo ra ngôn ngữ như Ngôn ngữ và ý thức ra đời dựa trên nguồn là cái vỏ vật chất để chứa đựng những quan gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội, là sự hệ hiện thực xảy ra trong đời sống. C.Mác thống nhất giữa cái sinh học và cái xã hội, khẳng định: ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của diễn ra như một dòng chảy của loài người. tư duy. Kế thừa quan điểm đó, Trần Đức Vì vậy, muốn nhận thức và giải quyết đúng Thảo đã sáng tạo ra lý thuyết về sự vận đắn những vấn đề liên quan đến cuộc sống động của hình ảnh thân thể xã hội có trong của con người chúng ta cần hiểu đúng về bản thân và hình ảnh của chính bản thân nguồn gốc, bản chất của sự hình thành và được phản ánh vào trong óc người. phát triển của ngôn ngữ và ý thức con Trần Đức Thảo so sánh sự khác biệt căn người. Trần Đức Thảo có đóng góp quan bản giữa âm hiệu và chỉ hiệu của con người trọng trong việc lý giải nguồn gốc của ngôn so với loài tinh tinh và luận giải cặn kẽ căn ngữ và ý thức của con người. Tư tưởng đó cứ, cội nguồn của sự khác biệt đó. Ông cũng như các tư tưởng triết học khác của khẳng định, khi con người nói “cái này” thì Trần Đức Thảo cần được ghi nhận như là trước con người phải có đối tượng để chỉ và một đóng góp cho chủ nghĩa duy vật biện khi chỉ thì trong đầu con người đã biết là có chứng. cái gì. Bản chất của âm hiệu và chỉ hiệu của con người khác hoàn toàn với tiếng kêu của Tài liệu tham khảo loài tinh tinh. Âm hiệu và chỉ hiệu của loài [1] Nguyễn Đình Chú (1993), “Giáo sư triết vượn người chỉ phát triển một số lượng hết học Trần Đức Thảo”, Báo Giáo dục và sức tối thiểu, còn ngôn ngữ và hành vi của thời đại, số 23. con người thì phát triển với một tần số vô [2] C.Mác, Ph.Ăngghen (1983), Tuyển tập, cùng, trong quá trình con người lao động để t.4, Nxb Sự thật, Hà Nội. cải tạo thế giới, cải tạo chính mình. Điều đó [3] C.Mác, Ph.Ăngghen (2002), Biện chứng của chính là sự vận động biện chứng của hiện tự nhiên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tượng tinh thần, cái lực lượng mang bản [4] Phan Ngọc (2000), “Về công trình “Tìm chất người mà Husserl mơ hồ cho đó là lực hiểu nguồn gốc ngôn ngữ và ý thức” của lượng vật chất. Trần Đức Thảo đã chỉ rõ, cố giáo sư Trần Đức Thảo (Nhân dịp xét lực lượng vật chất ấy chính là sự chuyển tặng giải thưởng Hồ Chí Minh)”, Tiền hóa mang tính biện chứng giữa năng lượng Phong chủ nhật, số 22 - 23. thần kinh và năng lượng tâm thần. [5] Trần Đức Thảo (1973), Recherches sur 4. Kết luận l’origine du langage et de la conscience. Tư tưởng biện chứng duy vật của Trần Paris: Editions Sociales. Đức Thảo về ngôn ngữ và ý thức của con [6] Trần Đức Thảo (1989), Vấn đề con người người đã góp phần khắc phục sai lầm của tư và chủ nghĩa lý luận không có con người, tưởng duy tâm siêu hình về con người. Tư Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. tưởng đó giúp ta hiểu sâu sắc về sự hình [7] Trần Đức Thảo (2004), Sự hình thành thành và phát triển ngôn ngữ và ý thức, nắm con người, Nxb Đại học Quốc gia Hà bắt khuynh hướng tất yếu trong sự vận Nội, Hà Nội. động của lịch sử xã hội loài người. Muốn [8] www.vietnamnet.vn 27
  8. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 28