Giáo trình Vai trò của việc dạy hát dân ca cho sinh viên khối sư phạm nghệ thuật - Tạ Bích Ngọc

doc 5 trang huongle 4970
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Vai trò của việc dạy hát dân ca cho sinh viên khối sư phạm nghệ thuật - Tạ Bích Ngọc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docgiao_trinh_vai_tro_cua_viec_day_hat_dan_ca_cho_sinh_vien_kho.doc

Nội dung text: Giáo trình Vai trò của việc dạy hát dân ca cho sinh viên khối sư phạm nghệ thuật - Tạ Bích Ngọc

  1. VAI TRÒ CỦA VIỆC DẠY HÁT DÂN CA CHO SINH VIÊN KHỐI SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT Tạ Bích Ngọc [*] Việt Nam là một nước có nhiều dân tộc với bề dày lịch sử trên bốn nghìn năm văn hiến; có nền văn hóa, nghệ thuật dân tộc cổ truyền rất phong phú về nội dung và hình thức. Dân ca là một loại hình nghệ thuật đã đi vào đời sống tinh thần, tham gia vào sinh hoạt lao động hàng ngày của nhân dân, trở thành suy nghĩ và sự rung động của tâm hồn từ thế hệ này qua các thế hệ khác . Trong cuốn “Dân ca Việt Nam - những thành tố của chỉnh thể nguyên hợp”, Tiến sĩ Lê Văn Chưởng cho rằng: “Dân ca là những bài hát cổ truyền do nhân dân sáng tác, được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác và được nân dân ca hát theo phong tục tập quán của từng địa phương, từng dân tộc. Tiếp cận trên cái nhìn chỉnh thể, chúng ta tìm hiểu bản thân dân ca như nó đang sống: nói cụ thể hơn là nghiên cứu các thành tố lời thơ, làn điệu, diễn xướng dân ca trong mối quan hệ tương tác với nhau. Đây như là cách tiếp cận thực tiễn các sinh hoạt dân ca để cảm thụ sắc màu, cung bậc vẻ đẹp hồn nhiên, thuần khiết những bông hoa nơi đồng quê, núi rừng để có thể nắm bắt bản chất và linh hồn của dân ca ” Như vậy, Dân ca là một biểu hiện của Folklore vừa hàm chứa nếp sống văn hóa vật chất và tinh thần, vừa phản ánh cái hay, tính thẩm mỹ thuộc các lĩnh vực nghệ thuật ngôn từ, âm thanh và trình diễn. Trong phạm vi hẹp, dân ca Việt Nam là tiếng nói của con tim, tiếng hát của tâm hồn hằng hữu trong mọi tầng lớp nhân dân, chủ yếu là tầng lớp bình dân. 1. Sơ lược về dân ca Việt Nam Dân ca và ca dao, hai hiện tượng này tuy hai mà một, là một tổng thể hoàn chỉnh (chỉnh thể) có tính nguyên hợp. Tiếp nhận trên cái nhìn chỉnh thể, chúng ta tìm hiểu các thành tố lời thơ, làn điệu, diễn xướng dân ca trong mối quan hệ tương tác với nhau. Đây như là cách tiếp cận thực tiễn các sinh hoạt dân ca để cảm thụ sắc màu, cung bậc vẻ đẹp hồn nhiên, thuần khiết những bông hoa nơi đồng quê, núi rừng để có thể nắm bắt bản chất và linh hồn của dân ca. Thành tố làn điệu
  2. Làn điệu hay giai điệu thuộc lĩnh vực âm nhạc tức là thang âm điệu thức của dân ca. Đây là một cấu trúc về hệ thống và về chức năng của những âm khác nhau để hình thành âm điệu và nhịp điệu của nét nhạc dân ca. Làn điệu dân ca có tính ổn định, bền vững và đóng vai trò chủ đạo, cụ thể là tổ chức, chi phối, điều tiết lời thơ và diễn xướng. Làn điệu dân ca có nhiều tiểu loại, mỗi loại có nét nhạc đặc thù gọi là điệu, lối gọi này không những phổ biến trong dân gian mà còn có tính khoa học, chẳng hạn như điệu hò, điệu hát, điệu lý, điệu ngâm cùng một điệu nhưng khi thể hiện lại có nhiều sắc thái khác nhau về âm điệu nên được gọi là “giọng”, chẳng hạn như giọng Bắc, giọng Nam trong phát âm tiếng Việt, giọng sổng, giọng vặt, giọng hãm trong hát Quan họ, giọng ngoài, giọng trong trong hò Mái Nhì Nói chung, làn điệu, điệu, giọng vừa thể hiện sắc thái nét nhạc dân ca, vừa thể hiện mối quan hệ với thanh điệu của lời thơ. Thành tố lời thơ Lời ca là một tổng thể có hai thành phần là lời thơ và những tiếng đệm, lót, láy, trong đó lời thơ là một thành tố của dân ca, còn những tiếng đệm, lót, láy cài vào lời thơ để đưa đẩy luyến láy thuộc về làn điệu của ca từ. Thành tố lời thơ thuộc lĩnh vực văn học đàm nhận vai trò trọng tâm của dân ca, đó là những bài thơ dân gian lục bát, song thất lục bát, biến thể, hợp thể Nói tóm lại, lời thơ dân ca là những bài thơ dân gian hàm chứa giá trị về nội dung, ý nghĩa, nghệ thuật có mối tương tác với làn điệu để hình thành lời ca. Thành tố diễn xướng (hai thể thức là Đồng diễn và Đơn diễn) Ba thành tố nêu trên quan hệ hữu cơ và tương tác với nhau Tuy phân tích ra ba thành tố, những bản thân của nó là một tổng thể có tính nguyên hợp cho nên để tiếp cận được bản chất và linh hồn của thực thể dân ca, chúng ta cần phải xác định đối tượng nghiên cứu. 2. Các điệu dân ca Điệu nói Điệu nói tức là lối nói có âm điệu và nhịp điệu khác với lối nói thông thường và cũng khác với các làn điệu dân ca tiêu biểu như hò, hát, lý. Nét nhạc đơn sơ của điệu nói cũng ở trong thang âm ngũ cung hò, xư, xang, xê, cống, dung hợp với nhịp điệu của những bài thơ bốn, năm. sáu tiếng hay lục bát, biến thể để thể hiện tình cảm, tư tưởng qua các hình thức nói lối, nói vè, nói thơ.
  3. Nói lối là hình thức nói có vần, có lối những bài thơ dân gian mà phổ biến là bốn, năm, sáu tiếng. Nói lối trong đó có Đồng dao, nét nhạc nghèo nàn, nội dung mộc mạc ngây ngô, diễn xướng đơn sơ, chưa phải là một điệu dân ca đúng nghĩa, có thể là hình thức sơ đẳng của dân ca. Nói vè là hình thức nói có vần có điệu những bài thơ lục bát, cũng có những bài vè mỗi câu bốn, năm tiếng hay sáu, bẩy, tám tiếng Nói vè như là một hình thức kể chuyện bằng văn vần, kể văn vè về người thực,việc thực có tính thời sự ở một địa phương giống như một loại “báo miệng”. Vè thường có khuynh hướng phê phán, chỉ trích những việc trái tai gai nắt, những hiện tượng không bình thường trong xã hội, hoặc là những sự kiện lịch sử, những nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tốt hoặc xấu với nhân dân Vè thường có tính chất tự sự được diễn xướng với làn điệu đơn sơ, những cũng có những bài vè trữ tình, được diễn xướng rất mượt mà gợi cảm. Nói thơ là hình thức nói có nhạc điệu theo nhịp những bài thơ dân gian hay bác học, chủ yếu là thơ lục bát. Nói thơ cũng tương tự như nói vè, những nói thơ có ngân nga, giàu âm điệu hơn nói vè cho nên nói thơ gần giống với ngâm thơ. Điệu ngâm Ngâm thơ còn gọi là đọc thơ, nói thơ, là hình thức diễn xướng thơ cũng ở trong thang âm ngũ cung có âm điệu mà chưa có tiết tấu đầy đủ. Nói cách khác, ngâm thơ là phổ nhạc theo vần tiết của bài thơ có ngân nga mà không có tiếng đệm, lót, láy. Theo Phạm Duy, trong cuốn “Đặc khảo về dân nhạc Việt Nam thì “làn điệu ngâm cũng ở trong hệ thống ngũ cung (re fa sol la do), nét nhạc dựa vào ba cung chính la re fa Thuật ngữ ngâm thơ phổ biến nhiều ở miền Bắc và miền Trung, miền Nam gọi là nói thơ, tức nhiên nét nhạc của ngâm khác với nói. Người ta ngâm nhiều thể thơ khác nhau: thơ Đường, thơ lục bát, song thất lục bát, thơ mới Tùy theo sắc thái nét nhạc mà có các tên gọi: ngâm Sa mạc, Bồng mạc, Tao đàn, ngâm Huế Điệu ru Ru là lối diễn xướng phổ nhạc vào những bài thơ theo thang âm ngũ cung, chủ yếu là thơ dân gian với các thể lục bát, biến thể để đưa trẻ vào giấc ngủ. Nhạc điệu của Ru hòa quyện vào nhịp điệu, vần điệu của bài thơ cùng với những tiếng đệm, lót: “ru hời, ạ ơ hờ, ầu ơ” Ru cũng là một lối hát cho nên trong dân gian nhất là ở miền Bắc và miền Nam gọi là Hát ru, ở Bình Trị Thiên ru theo làn điệu hò. Thường thường thì mẹ ru con, những cũng có bà ru cháu, chị ru em, chủ yếu là mẹ ru con ngủ, những ru cũng là cách thế mẹ giãi bày tâm sự, ru cảnh ngộ của mình.
  4. Điệu Hò Hò là hô lên, hát lên những bài thơ dân gian có kẻ xướng người xô theo những làn điệu đặc thù để lao động và để thỏa mãn nhu cầu của đời sóng vật chất tinh thần. Làn điệu hò cũng ở trong thang âm ngũ cung, hình thành do sự quyện hòa giữa các tiếng đệm, lót, tiếng láy với vần tiết của những bài thơ dân gian. Hò rất phong phú, hiện diễn khắp mọi nẻo đường đất nước và nhiều môi trường khác nhau. Nơi nào cũng có giọng hò, câu hát: hò Thái Bình, hò sông Mã, hò Huế, hò Nam Bộ Tùy giọng điệu, mỗi địa phương còn có nhiều điệu hò khác nhau: hò Qua sông hái củi, hò Rời bến, hò Đường trường, hò Mái nhì, hò Mái đẩy, hò Giã gạo, hò Nện, hò Giã vôi, hò Đồng Tháp, hò Trà Vinh, hò Bạc Liêu mà tiêu biểu là hò Huế. Ở góc độ môi trường thì có hò trên cạn, hò trên nước; ở góc độ âm nhạc lại có hò nhịp chặt và hò nhịp lơi; trên cái nhìn sân khấu thì có hò đơn diễn và đồng diễn. trong đồng diễn có lớp trống là đoạn của người hò cái đảm trách vế xướng, lớp mái là đoạn của người hò con đảm trác về xô. Điệu hát Hát là một khái niệm để gọi chung cho tất cả các hình thức diễn xướng lời ca, chẳng hạn như hát Bộ, hát Quan họ, hát Ví Những từ “hát” ở đây được sử dụng với tư cách là một thuật ngữ để gọi các hình thức diễn xướng dân ca, mà dân gian thường gọi như hát Quan họ, hát Trống quân, hát Giặm, hát Sắc bùa để phân biệt với các hình thức diễn xướng các làn điệu dân ca khác như hò, lý Hát cũng như dân ca nói chung là dung hóa nhạc điệu vào thanh điệu và nhịp điệu những bài thơ, chủ yếu là thơ dân gian theo thang âm ngũ cung với nhiều giọng điệu khác nhau để biểu hiện tình cảm trong các sinh hoạt xã hội. Hát không những thể hiện theo lối đối đáp lời ca giữa hai nhóm theo thể thức đồng diễn mà trong Quan họ còn hát đối giọng giữa liền anh và liền chị cho nên hát Quan họ có thể biểu diễn hàng chục giọng. Hò phổ biến ở miền Trung và miền Nam thì hát là quê hương của hát; hò thường gắn liền với lao động; hát lại sống với lễ hội nhất là hội xuân và bội thu cho nên gọi là Hát Xoan, Hát Đám, hát Hội. Tùy theo nhạc điệu và chức năng, điệu hát có nhiều tên gọi: Hát Quan họ, hát Ví, hát Giặm, hát Xẩm, hát Trống quân, hát Sắc bùa, hát Chầu văn tiêu biểu nhất là hát Quan họ. Thơ ca dân gian và dân ca nói riêng hình thành do nhiều nguồn gốc, hoặc từ trong môi trường lao động, hoặc từ trong các hoạt động thực tiễn xã hội, hoặc do nhu cầu của đời sống tinh thần. Từ thời kỳ đầu cũng như các giai đoạn phát triển về sau này, thơ ca dân gian thường gắn với âm nhạc và nhảy múa nhằm thể hiện tình cảm và tư tưởng của con người trong mối quan hệ với thế giới xung quanh
  5. Dân ca có nhiều điểm tương đồng với thơ ca dân gian những không đồng nhất với thuật ngữ này. Do vậy, các nhà nghiên cứu, nhất là giới âm nhạc thường sử dụng thuật ngữ dân ca, một mặt như là để đối lập với quan ca (ca hát cung đình), mặt khác là để nhấn mạnh vai trò nghệ thuật âm thanh và nghệ thuật trình diễn của đời sống thơ ca dân gian. Dân ca vốn là một loại hình nghệ thuật dân gian, ngoài Tính nguyên hợp còn có Tính truyền miệng, Tính tập thể, Tính truyền thống và Tính ứng tác Do vậy dẫn đến hiện tượng phong phú về thể loại, thuật ngữ, làn điệu, lời ca, diễn xướng, dị bản. Qua công tác thống kê về dân ca ba miền Bắc - Trung - Nam, chúng tôi nhận thấy khối lượng dân ca này là rất lớn và rất đa dạng. Đối với việc giảng dạy dân ca tại Đại học Sư phạm nghệ thuật Trung ương của một người giảng viên, chúng tôi cho rằng nếu chỉ nói chung chung “Dân ca bắc - Trung - Nam” là chưa đủ. Quả thật, những di sản và kiến thức mà cha ông ta để lại thật đa dạng, lớn lao và sâu sắc, để hiểu được nó trên mức độ tổng quát đã là rất khó những dây lại là tiến trình không thể thiếu trong việc phấn đấu đưa giảng dạy thanh nhạc nói chung, giảng dạy dân ca nói riêng tiến lên một bước mới. Việc đi sâu vào một số làn điệu dân ca ba miền tiêu biểu, luyện tập và gặp gỡ nghệ nhân để bươc đầu nắm được phong cách âm nhạc cũng đòi hỏi chúng tôi phải rất nỗ lực và đòi hỏi phải có một quá trình thời gian tương đối dài lâu. Tuy nhiên, qua việc tổng hợp và nghiên cứu mang tính chỉnh thể này, chúng tôi cũng đã trưởng thành lên rất nhiều và đặt cho mình những mục tiêu cụ thể trong phương pháp giảng dạy dân ca tại Khoa và bước đầu có những đóng góp nhỏ trong quá trình phát triển bền vững của Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương trong những năm đầu thế kỷ XXI. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Trọng Ánh (2000), Âm nhạc Quan họ, Viện Âm nhạc. 2. Nguyễn Trọng Ánh (2005), Những giá trị của Nghệ thuật Ầm nhạc trong hát Quan họ, Luận án Tiến sĩ Nghệ thuật, Nhạc viện Hà Nội. 3. Trần Bảng (1992), Kỹ thuật biểu diễn Chèo, Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh - Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo. 4. Nguyễn Khắc Bảo (2004), “Nguyễn Du hiểu về từ Quan họ”, Tạp chỉ Ngôn ngữ, số 5. 5. Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức (1999), Hoạt động dạy học, tập 1, Nxb. Giáo dục. ___ [*] Lớp Cao học k3– Chuyên ngành Lí luận và phương pháp dạy học Âm nhạc