Giáo trình Về học thuyết hình thái kinh tế-Xã hội của C.Mác- Dương Văn Thịnh
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Về học thuyết hình thái kinh tế-Xã hội của C.Mác- Dương Văn Thịnh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_ve_hoc_thuyet_hinh_thai_kinh_te_xa_hoi_cua_c_mac.pdf
Nội dung text: Giáo trình Về học thuyết hình thái kinh tế-Xã hội của C.Mác- Dương Văn Thịnh
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,CHÍNH số 5( 102TR)Ị 201 KINH6 TẾ HỌC Về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác Dương Văn Thịnh * Tóm tắt: Học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội từ khi ra đời đã cung cấp cho giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ một vũ khí lý luận khoa học để đấu tranh giải phóng con người. Học thuyết đó đã và đang bị nhiều người phê phán. Trong thời đại hiện nay, trước những biến đổi to lớn của thực tiễn xã hội, đặc biệt trước sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô, sự phê phán học thuyết đó của C.Mác càng tăng cường hơn không chỉ từ phía các thế lực thù địch, mà ngay cả từ hàng ngũ những người mác-xít. Từ khóa: Tính khoa học hạn chế; học thuyết C.Mác; hình thái kinh tế - xã hội. 1. Mở đầu biết, một trong những phát kiến lớn nhất Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số của C.Mác chính là việc ông đã áp dụng 2(87) - 2015 có đăng bài báo tựa đề “Học chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã lịch sử phát triển của xã hội loài người và hội dưới ánh sáng thời đại ngày nay” của chỉ ra rằng: lịch sử phát triển ấy chẳng qua tác giả Nguyễn Chí Dũng. Những vấn đề là lịch sử của những sự thay thế nối tiếp được đặt ra trong nội dung bài là không đơn nhau của những phương thức sản xuất. Còn giản và không nhỏ. Với mục đích để hiểu rõ nguồn gốc thay đổi của phương thức sản hơn vấn đề, tôi xin trao đổi với tác giả bài xuất, sự mất đi của hình thái kinh tế - xã hội báo một số điểm được nêu ra trong bài báo này và sự ra đời của hình thái kinh tế - xã này. Sự trao đổi chỉ giới hạn xung quanh hội khác chính là do mâu thuẫn giữa lực những nhận định của tác giả trong mục 2 lượng sản xuất (yếu tố động) và quan hệ sản của bài báo với tựa đề Tính khoa học và xuất (yếu tố tương đối tĩnh) quyết định, hạn chế trong học thuyết C.Mác về hình trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố quan thái kinh tế - xã hội. Theo tựa đề này có 2 trọng, quyết định xu hướng và sự thay đổi” vấn đề phải làm rõ: tính khoa học trong học [2, tr.34]; “Phân tích sâu sắc những yếu tố thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã cấu thành lực lượng sản xuất, C.Mác chỉ ra hội thể hiện ở điểm gì? những hạn chế trong rằng, chất của công cụ sản xuất là cái quan học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - trọng nhất quy định chất của quan hệ sản xã hội là gì? xuất.(*)Với ý nghĩa đó nó càng là cái quan 2. Tính khoa học trong học thuyết của trọng nhất, quy định chất của phương thức C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội thể hiện ở điểm gì? (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã Tác giả Nguyễn Chí Dũng đưa ra nhận hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. định khái quát sau: “Như mọi người đều ĐT: 0989374675. Email: dvthinhtriet@yahoo.com.vn. 38
- Dương Văn Thịnh sản xuất hay một hình thái kinh tế - xã hội C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội. Với xác định trong lịch sử” [2, tr.34]. Cũng theo cách giải thích đó, nội dung tinh túy nói lên tác giả, quá trình phát triển các hình thái tính khoa học thực sự trong học thuyết của kinh tế - xã hội theo tiến trình “cộng sản C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội bị biến nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, mất. Tác giả không nói gì đến quan hệ biện tư bản và đang cố gắng thiết lập hình thái chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ cộng sản chủ nghĩa”. Mỗi hình thái kinh tế - sản xuất, không nói gì đến yếu tố con người xã hội ra đời trong lịch sử tương ứng bị trong lực lượng sản xuất. Quan điểm coi quyết định bởi các công cụ sản xuất với một công cụ sản xuất là cái quan trọng nhất quy “chất” xác định theo lược đồ: sự ra đời của định sự biến đổi của quan hệ sản xuất là xã hội cộng sản nguyên thủy tương ứng bị quan điểm duy kỹ thuật, quan điểm đó tìm quyết định bởi cây gậy chọc hốc và chiếc nguyên nhân cuối cùng của sự thay đổi xã cung tên; sự ra đời của xã hội chiếm hữu nô hội ở sự thay đổi của công cụ sản xuất, mà lệ bị quyết định bởi cái cuốc với sự hợp sức không tính đến nhân tố con người và hoạt có tổ chức của lao động nô lệ; sự ra đời của động của con người. Quan điểm đó không xã hội phong kiến bị quyết định bởi sự xuất thể giải thích được vì sao một xã hội mới lại hiện của chiếc cày làm cho năng suất lao ra đời thay thế xã hội cũ. Điều đó trái với động cao; sự ra đời của xã hội tư bản bị quan điểm của C.Mác. quyết định bởi sự xuất hiện của máy hơi C.Mác xem xã hội là một cơ thể sống nước, hệ thống máy móc. động được cấu thành từ sự hoạt động của Theo sự trình bày như trên của tác giả, con người trong những điều kiện tự nhiên người đọc phải đặt ra câu hỏi: sự nhận định sẵn có và những điều kiện do con người tạo của tác giả bài báo trên đối với học thuyết ra. Sự vận động biến đổi của xã hội do của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội có những yếu tố cấu thành xã hội quyết định. chính xác không? Phải chăng C.Mác cho Để nhận thức được quy luật chi phối sự vận rằng lực lượng sản xuất, trong đó có “chất động của xã hội, xu hướng vận động, phát của công cụ sản xuất, là cái quan trọng nhất triển của xã hội thì phải nghiên cứu một quyết định sự thay đổi phương thức sản cách toàn diện sự tác động lẫn nhau của xuất và kéo theo sự thay đổi các hình thái những yếu tố cấu thành xã hội hiện thực tạo kinh tế - xã hội”? Có phải câu nói của nên các quan hệ xã hội hiện thực. C.Mác (mà tác giả nêu trong bài báo) Nếu cho rằng trong hai nhân tố người và “Những thời đại kinh tế khác nhau không nhân tố vật của lực lượng sản xuất, nhân tố phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở con người là thứ yếu, nhân tố vật (công cụ chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với sản xuất) là cái quan trọng nhất, cái quyết những tư liệu sản xuất nào” là nhằm khẳng định nhất thì điều đó không đúng với quan định rằng “chất của công cụ sản xuất là cái điểm của C.Mác. Đối với C.Mác, để thấy quan trọng nhất, quy định chất của quan hệ lực lượng sản xuất là yếu tố động, cần phải sản xuất” hay không? xem xét mối quan hệ giữa lực lượng sản Theo tôi, sự khái quát của tác giả xuất với quan hệ sản xuất, phải thấy sự phát Nguyễn Chí Dũng chưa phản ánh đúng thực triển của lực lượng sản xuất diễn ra dưới tác chất tính khoa học trong học thuyết của động của quan hệ sản xuất. Trong quan 39
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(102) - 2016 niệm của C.Mác con người vừa là chủ thể cách một sức hoạt động tổng thể). Ngay từ của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử. năm 1847, trong tác phẩm Sự khốn cùng C.Mác bao giờ cũng xuất phát từ con người của triết học, khi phê phán quan điểm duy hiện thực, con người hoạt động trong những tâm của ông Pruđông về lịch sử các phạm điều kiện lịch sử nhất định để nghiên cứu sự trù kinh tế, C.Mác cho rằng, con người làm vận động, phát triển xã hội. Không phải ra da, vải, lụa trong phạm vi những quan hệ công cụ sản xuất quyết định tính năng động sản xuất nhất định; những quan hệ xã hội của lực lượng sản xuất, mà chính hoạt động nhất định ấy cũng do con người sản sinh ra sản xuất vật chất của con người là nhân tố giống như vải, lanh [1, 1995, t.4, tr.187]. quyết định. Công cụ sản xuất muốn trở Sau khi khẳng định như vậy C.Mác đã viết: thành một sức hoạt động thì phải có con “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật người, hơn nữa công cụ sản xuất không thiết với những lực lượng sản xuất. Do có phải tự nhiên sinh ra được, mà nó cũng do được những lực lượng sản xuất mới, loài con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt người thay đổi phương thức sản xuất của động thực tiễn, trong những quan hệ xã hội mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, nhất định. Cho nên cái quyết định trình độ cách kiếm sống của mình, loài người thay phát triển của lực lượng sản xuất không đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. phải là chất của công cụ sản xuất, mà phải Cái cối xay quay bằng tay, đưa lại xã hội có là sự tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước trình độ phát triển của con người là quyết đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”, định nhất. Trình độ của công cụ sản xuất “Chính những người thiết lập nên những chỉ là một biểu hiện, một thước đo, một tiêu quan hệ xã hội phù hợp với năng lực sản chí đánh giá quan trọng của trình độ phát xuất vật chất của họ, cũng là những người triển năng lực sản xuất của con người với tư sản sinh ra những nguyên lý, những ý niệm, cách là một nhân tố của lực lượng sản xuất những phạm trù phù hợp với những quan hệ mà thôi. C.Mác luôn xem xét các nhân tố xã hội của họ” [1, 1995, t.4, tr.187]. của lực lượng sản xuất trong mối quan hệ Ở đoạn trích trên, mặc dù C.Mác chủ biện chứng với nhau và trong các quan hệ đích chống lại quan điểm duy tâm của sản xuất hiện thực của xã hội. Nếu không Pruđông cho rằng các phạm trù kinh tế là thấy điều này thì không thấy được tính khoa cái tồn tại trước và sản sinh ra các quan hệ học thực sự của học thuyết của C.Mác về kinh tế - xã hội hiện thực. Nhưng trong đó, hình thái kinh tế - xã hội. khi đề cập đến mối quan hệ giữa quan hệ C.Mác không cho rằng chất của công cụ sản xuất và lực lượng sản xuất, đến sự biến sản xuất là cái quyết định nhất của lực đổi quan hệ sản xuất thì C.Mác nhấn mạnh lượng sản xuất và cũng không cho rằng chất đến vai trò chủ thể hoạt động của con của công cụ sản xuất là cái quan trọng nhất người, chứ không phải chỉ nhấn mạnh quy định sự biến đổi của quan hệ sản xuất. công cụ sản xuất thuần túy. Chính con Khi xem xét vai trò của công cụ sản xuất, người, hay loài người làm thay đổi lực C.Mác luôn gắn với hoạt động của con lượng sản xuất xã hội, trong đó có công cụ người (con người với tư cách là cá nhân sản xuất và làm thay đổi cả quan hệ sản tương đối độc lập, hoặc con người với tư xuất nữa, chứ không phải là công cụ sản 40
- Dương Văn Thịnh xuất tự bản thân nó làm thay đổi quan hệ hoàn sinh cho chúng, biến chúng từ những sản xuất. Quá trình hoạt động đó phải được giá trị sử dụng chỉ có tính chất khả năng xem xét một cách lịch sử cụ thể, không thể thành những giá trị sử dụng hiện thực và tác tùy tiện tưởng tượng ra được. Cũng trong động” [1, 1993, t.23, tr.271]. tác phẩm đó khi nói về vai trò của những Trong đoạn trích trên C.Mác xem lao hoạt động chính trị xã hội của giai cấp động sống của con người là nhân tố chủ công nhân đối với sự thay đổi xã hội từ xã động, nhân tố quyết định nhất của lực hội nọ sang xã hội kia, C.Mác còn nói: lượng sản xuất. Công cụ sản xuất nếu “Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì không có lao động sống của con người thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản không thể hoạt động được và như vậy thân giai cấp cách mạng”. Trong luận điểm không thể là nhân tố quyết định nhất sự này rõ ràng nhân tố con người là quan biến đổi của lực lượng sản xuất cũng như trọng nhất của lực lượng sản xuất. quan hệ sản xuất được. Trong bộ Tư bản, khi nghiên cứu những Cũng trong bộ Tư bản, khi nghiên cứu yếu tố giản đơn của quá trình lao động sự ra đời và phát triển của máy móc, (gồm sự hoạt động có mục đích, hay bản C.Mác cũng chỉ ra rằng, sự phát triển của thân sự lao động, đối tượng lao động và tư máy móc không phải do tự máy móc quyết liệu lao động [1, 1993, t.23, tr.267]), C.Mác định, mà do con người hoạt động trong đã chỉ ra rằng, nếu đứng về mặt kết quả của những quan hệ xã hội nhất định quyết quá trình sản xuất mà xem xét toàn bộ quá định; chẳng hạn do nhu cầu trao đổi, do thị trình đó thì “cả tư liệu lao động và đối trường mở rộng, do cạnh tranh để tìm lợi tượng lao động đều biểu hiện ra là tư liệu nhuận siêu ngạch, v.v Trong tập 1 bộ Tư sản xuất, còn bản thân lao động biểu hiện ra bản, C.Mác chỉ ra rằng, sự ra đời của là lao động sản xuất” [1, 1993, t.23, tr.271]. phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa Tư liệu sản xuất thực chất là biểu hiện của phải có các điều kiện cơ bản là sự tích lũy lao động quá khứ. Quá trình lao động để tạo một lượng tiền đủ lớn trong tay nhà tư bản ra sản phẩm mới chính là sự kết hợp giữa và sự ra đời một loại hàng hóa đặc biệt trên lao động sản xuất (lao động sống) với lao thị trường, đó là hàng hóa sức lao động. Ở động quá khứ. Lao động quá khứ, trong đó phần thứ năm của chương XIV (Giá trị có công cụ sản xuất, nếu không được lao thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư động sống của con người vận dụng thì tương đối), để nhấn mạnh đến vai trò của không có tác dụng gì đối với xã hội, và còn con người, C.Mác còn viết: “Phương thức không thể được bảo tồn trong sản phẩm mới sản xuất này” (tức phương thức sản xuất tư được. Về điểm này C.Mác viết: “Một cái bản chủ nghĩa) “giả định phải có sự thống máy không dùng vào quá trình lao động là trị của con người đối với tự nhiên” [1, một cái máy vô ích. Ngoài ra, nó còn bị hư 1993, t.23, tr.725]. Sau này V.I.Lênin cũng hỏng đi do sức mạnh hủy hoại của sự trao khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu đổi chất của tự nhiên. Sắt thì han rỉ, gỗ thì của toàn thể nhân loại là công nhân, là bị mục. Sợi không dùng để dệt hoặc đan thì người lao động” [6, t.38, tr.430]. chỉ là một số bông bị hư hỏng. Lao động Khi viết rằng “Những thời đại kinh tế sống phải nắm lấy những vật đó, cải tử khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất 41
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(102) - 2016 ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng sản xuất và dẫn đến biến đổi phương thức cách nào, với những tư liệu lao động nào”, sản xuất. Muốn tạo nên sự biến đổi phương C.Mác không nhằm khẳng định rằng công thức sản xuất, thì tư liệu sản xuất phải kết cụ sản xuất có vai trò quyết định đối với hợp với lao động sống của con người. Cho phương thức sản xuất và từ đó quyết định nên C.Mác nói tư liệu sản xuất “là thước đo sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội sự phát triển sức lao động của con người”, trong lịch sử. Để làm sáng tỏ nhận định “là chỉ tiêu (tiêu chí) của những quan hệ xã này, chúng ta cần xem C.Mác đã nêu ra hội”, là điều kiện, phương tiện để con người luận điểm trên ở đâu và trong văn cảnh nào. thay đổi quan hệ sản xuất. C.Mác không nói Trong tập 1 bộ Tư bản, ở phần thứ ba của tư liệu sản xuất hay công cụ lao động là cái chương V, mục I (Quá trình lao động), sau làm cho quan hệ sản xuất thay đổi. Như vậy khi phân tích sự thay đổi tư liệu lao động C.Mác không cho rằng tư liệu sản xuất, hay trong lịch sử do sự “chế biến” của con “chất của công cụ sản xuất là cái quan trọng người, C.Mác đã viết: “Việc sử dụng và nhất quy định chất của quan hệ sản xuất”. sáng tạo ra những tư liệu lao động, tuy đã 3. Những hạn chế trong học thuyết có mầm mống ở một vài loài động vật nào C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là gì? đó, nhưng vẫn là một nét đặc trưng riêng Trong bài báo, tác giả Nguyễn Chí Dũng của quá trình lao động của con người, và vì đưa ra nhận định rằng: “Trước hết nói về thế cho nên Phranclin đã định nghĩa con chủ nghĩa tư bản (CNTB). Trong toàn bộ người là: , một động vật chế tạo dụng cụ. các tác phẩm đồ sộ của mình, bao giờ Đối với việc đánh giá những hình thái kinh C.Mác cũng gắn sự nảy sinh, phát triển và tế - xã hội đã biến mất, những di vật của diệt vong của chế độ xã hội này với sự ra những tư liệu lao động cũng có một tầm đời, phát triển tiến bộ của nền công nghiệp, quan trọng giống như là sự cấu tạo của nhất là đại công nghiệp cơ khí, mà mở đầu những xương hóa thạch đối với việc tìm là sự xuất hiện của máy hơi nước và sau đó hiểu tổ chức của các loài động vật đã tiêu là hệ thống máy công tác Như vậy là, vong. Những thời đại kinh tế khác nhau công cụ sản xuất đặc trưng của xã hội tư không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, bản không gì khác hơn là nền đại công mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, nghiệp cơ khí, sản xuất bằng máy móc có với những tư liệu lao động nào. Các tư liệu năng suất cao. Nhưng đến khi luận chứng lao động không những là cái thước đo sự cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa phát triển sức lao động của con người, mà cộng sản, một hình thái kinh tế - xã hội cao còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hơn chủ nghĩa tư bản, thì C.Mác cũng hội trong đó lao động được tiến hành” [1, không đi xa hơn bao nhiêu so với thời đại 1993, t.23, tr.269]. C.Mác đã coi tư liệu sản của ông trong việc phân tích, luận chứng xuất, trong đó công cụ sản xuất là bộ phận cái chất mà lực lượng sản xuất mới phải có. cơ bản, ở vị trí rất quan trọng, là cái dấu Nếu như về mặt quan hệ sản xuất, ông cho hiệu đặc trưng cho một thời đại kinh tế xác rằng xã hội mới dựa trên chế độ sở hữu định trong lịch sử. Nhưng theo C.Mác thì công cộng về tư liệu sản xuất, mọi người riêng bản thân tư liệu sản xuất hay công cụ đều bình đẳng trong lao động và trong sản xuất không thể làm biến đổi quan hệ hưởng thụ, thì về mặt lực lượng sản xuất, 42
- Dương Văn Thịnh đặc biệt là công cụ sản xuất, ông chưa bao ứng với phương thức sản xuất ấy” [1, 1993, giờ chỉ rõ ở trình độ phát triển nào, với loại t.23, tr.19] và “mục đích cuối cùng của tác máy móc nào hoặc công cụ lao động hiện phẩm này là tìm ra quy luật vận động kinh đại nào trong chế độ xã hội cộng sản chủ tế của xã hội hiện đại”. Với việc xác định nghĩa sẽ được xây dựng. Hầu như tiêu chí đối tượng và mục đích nghiên cứu của tác cơ bản mà ông xác định vẫn chỉ là: Nền đại phẩm như vậy, C.Mác nói đến máy móc và công nghiệp cơ khí ở trình độ phát triển đại công nghiệp như một trong những yếu cao, sản phẩm làm ra dồi dào để xã hội có tố quan trọng cấu thành trình độ phát triển thể ghi lên lá cờ của mình khẩu hiệu: “làm của lực lượng sản xuất tổng thể của xã hội theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” Từ tư bản thôi. Điểm cốt lõi của tác phẩm Tư đây, nếu chúng ta trở ngược lại với lý luận bản là nghiên cứu các quá trình kinh tế diễn về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác sẽ ra trong hiện thực, phân tích các quá trình thấy xuất hiện mâu thuẫn: trên cùng một đó để vạch rõ mối quan hệ giữa con người trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, với con người trong nền sản xuất tư bản chủ xã hội loài người đã làm xuất hiện hai hình nghĩa, vạch rõ cái mâu thuẫn giữa một bên thái kinh tế - xã hội khác biệt: tư bản chủ là những con người sở hữu khối tư liệu sản nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Điều gì xảy ra xuất với một bên là những con người mất ở đây? Nếu cả hai hình thái kinh tế - xã hội hết quyền sở hữu đối với những tư liệu sản này đều ra đời như một tất yếu, song song xuất. C.Mác không nghiên cứu sự phát triển tồn tại, thì lý luận mác - xít về hình thái của máy móc đại công nghiệp, để chứng kinh tế - xã hội không đúng. Còn nếu lý minh rằng máy móc, đại công nghiệp cơ khí luận của C.Mác là đúng, thì một trong hai là nhân tố quyết định nhất quyết định sự ra hình thái đã được xây dựng, sẽ không có cơ đời phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sở tồn tại. Phải chăng đây chính là yếu tố và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ then chốt, cơ bản, quyết định tính khoa học nghĩa, mà nghiên cứu việc sử dụng máy và một số hạn chế có tính thời đại trong học móc đại công nghiệp theo kiểu tư bản chủ thuyết C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội” nghĩa; hơn nữa ông không chỉ mô tả việc sử [2, tr.35 - 36]. Lập luận này của tác giả mới dụng máy móc đại công nghiệp theo kiểu tư xem thì thật là lôgic, chặt chẽ, nhưng ta hãy bản chủ nghĩa, mà điều quan trọng là vạch xem thực chất nó có như vậy không. ra nguồn gốc và hậu quả xã hội của việc sử Trong bộ Tư bản, C.Mác nói đến sự ra dụng máy móc đại công nghiệp theo kiểu tư đời của máy móc và đại công nghiệp (ở bản chủ nghĩa. Trong tác phẩm đó, C.Mác chương XIII của tập 1 bộ Tư bản) và coi đó phê phán những nhà kinh tế học phủ nhận là một trong những đặc trưng của chủ nghĩa mâu thuẫn của việc sử dụng máy móc theo tư bản. Nhưng đó không phải là điểm trọng kiểu tư bản chủ nghĩa, coi mâu thuẫn của tâm của toàn bộ tác phẩm này của C.Mác. việc sử dụng máy móc theo kiểu tư bản chủ Chính C.Mác nói trong lời tựa cho lần xuất nghĩa “chỉ là cái bóng dáng bề ngoài của bản thứ nhất tập 1, bộ Tư bản rằng: “Trong một hiện thực tầm thường” [1, 1993, t.23, tác phẩm này, đối tượng nghiên cứu của tôi tr.631] đồng thời phê phán cả những nhà là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa kinh tế học cho rằng “không thể có cách sử và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích dụng máy móc nào khác ngoài cách sử 43
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(102) - 2016 dụng theo kiểu tư bản chủ nghĩa” [1, 1993, thường phát triển không đồng đều giữa các t.23, tr.631]. Với việc nghiên cứu toàn diện ngành trong một nước và giữa các nước các yếu tố cấu thành nên lực lượng sản xuất trên thế giới. C.Mác lấy nước Anh (là nước của xã hội tư bản (con người, máy móc, đại tư bản điển hình nhất đến thế kỷ XIX) để công nghiệp cơ khí, các tư liệu sản xuất nghiên cứu và ông đã nhận thấy việc sử khác ), sự vận động của chúng trong mối dụng máy móc nói riêng, sự phát triển lực quan hệ biện chứng với quan hệ sản xuất tư lượng sản xuất nói chung phát triển sớm bản chủ nghĩa trong lịch sử (hình thức sở nhất trong ngành dệt, tiếp theo đó là ngành hữu, phân phối, trao đổi ), C.Mác đã chỉ ra kéo sợi, sau đó lan sang các ngành chế tạo các quy luật kinh tế (quy luật giá trị thặng máy, ngành khai khoáng Phương thức sản dư, cạnh tranh, độc quyền, tích lũy tư bản, xuất tư bản chủ nghĩa lớn mạnh lên dần từ bần cùng hóa giai cấp vô sản ). Các quy ngành này sang ngành khác, từ khu vực luật đó chi phối sự vận động, phát triển của này sang khu vực khác, không phải đồng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, loạt cùng một lúc. Đến một lúc nào đó nó đồng thời chi phối sự ra đời phát triển và sự mới thực sự chiếm ưu thế so với phương tự phủ định mình của hình thái kinh tế - xã thức sản xuất cũ trong toàn bộ nền sản xuất hội tư bản chủ nghĩa. của một quốc gia. Vậy, nói rằng mỗi trình Tác giả Nguyễn Chí Dũng cho rằng: độ phát triển nhất định của lực lượng sản “Trên cùng một trình độ phát triển của lực xuất có những quan hệ sản xuất tương ứng lượng sản xuất, xã hội loài người đã làm là nói đến quy luật chung của sự vận động xuất hiện hai hình thái kinh tế - xã hội khác của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biệt: tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ trong các ngành của nền sản xuất. C.Mác nghĩa. Điều gì xảy ra ở đây? Nếu cả hai hình đã trừu tượng đi sự khác biệt về trình độ thái kinh tế - xã hội này đều ra đời như một phát triển của lực lượng sản xuất giữa các tất yếu, song song tồn tại, thì lý luận mác - ngành sản xuất để nói lên cái quy luật xít về hình thái kinh tế - xã hội không đúng. chung đó thôi. Còn khi xem xét một cách Còn nếu lý luận của C.Mác là đúng, thì một toàn diện và cụ thể sự vận động của một xã trong hai hình thái đã được xây dựng, sẽ hội nhất định nào đó, thì quy luật chung đó không có cơ sở tồn tại. Phải chăng đây chính thể hiện dưới hình thức đặc thù, điều đó là yếu tố then chốt, cơ bản, quyết định tính đòi hỏi phải xem xét một cách lịch sử cụ khoa học và một số hạn chế có tính thời đại thể. Lấy cái hình thức chung đó như một trong học thuyết C.Mác về hình thái kinh tế - công thức cứng nhắc để áp dụng cho cái xã hội”. Về nhận định trên của tác giả có đặc thù rất đa dạng mà không xem xét một mấy vấn đề cần bàn thảo sau. cách cụ thể là không đúng. Một là, học thuyết C.Mác về hình thái Hai là, sự ra đời, phát triển của các hình kinh tế - xã hội có cho rằng trình độ phát thái kinh tế - xã hội trong lịch sử diễn ra triển của lực lượng sản xuất phải đồng loạt như thế nào? Học thuyết của C.Mác về hình như nhau trên toàn thế giới không? Trong thái kinh tế - xã hội có đưa ra một công Tư bản, khi nghiên cứu sự phát triển lực thức chung để bắt lịch sử loài người phải lượng sản xuất, C.Mác luôn bám sát thực tế tuân theo không? Hoàn toàn không. Trong lịch sử và nhận thấy lực lượng sản xuất các tác phẩm của mình, C.Mác và 44
- Dương Văn Thịnh Ph.Ăngghen khẳng định rằng, bằng các sự không phải là những chi tiết cụ thể nào đó kiện lịch sử, các ông chỉ chứng minh xu bắt buộc xã hội tương lai phải tuân theo. hướng chung của sự vận động của các hình Đòi hỏi phải vạch rõ những chi tiết của xã thái kinh tế - xã hội, còn con đường cụ thể hội tương lai như “một công thức nấu của lịch sử thì tùy thuộc vào nhiều điều nướng” là không đúng với tư tưởng của kiện. Học thuyết của các ông không bắt lịch C.Mác. Ông không làm cái việc đó, vì ông sử xã hội phải theo một con đường duy hiểu xã hội là một cơ thể sống rất phức tạp. nhất. Với bộ Tư bản, C.Mác chỉ nghiên cứu Sự vận động của nó không thể theo một sự ra đời phát triển phương thức sản xuất tư công thức đơn giản. Nó phụ thuộc vào rất bản chủ nghĩa làm cơ sở cho sự ra đời phát nhiều điều kiện khác nhau, những điều kiện triển của xã hội hiện đại, của hình thái kinh đó không giống nhau ở khắp mọi nơi và tế - xã hội tư bản chủ nghĩa ở một nước không nhất thành bất biến. Ông luôn coi điển hình là nước Anh. Đó là sự vận dụng trọng việc nghiên cứu một cách cụ thể học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và cũng những điều kiện cụ thể. Khi nghiên cứu một là sự chứng minh bằng lịch sử thực tế cho xã hội cụ thể và tìm ra quy luật hình thành, học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của phát triển của xã hội cụ thể đó thì chỉ có thể mình. Điều đó không buộc mọi nước khác dự báo một cách đại thể xu hướng phát triển phải đi như nước Anh. Về điểm này có thể của nó trong tương lai. Sự chuyển hóa của dẫn ra một ý kiến khác của C.Mác. Trong xã hội hiện tại sang cái xã hội tương lai như “Lời bài viết cho lần xuất bản thứ hai” của thế nào và cái xã hội tương lai có đặc điểm quyển I bộ Tư bản, C.Mác đã chế giễu một gì? Chúng ta chỉ có thể vạch ra trước một số nhà nghiên cứu Phương Tây (do họ số nét cơ bản của xã hội tương lai mà thôi. không hiểu phương pháp nghiên cứu được C.Mác và Ph.Ăngghen đã ý thức rõ điều đó C.Mác sử dụng trong bộ Tư bản) rằng: nên ở nhiều chỗ các ông đã giải thích rằng, “Một mặt họ trách tôi là đã đề cập khoa nhiệm vụ của các ông không phải là nặn từ kinh tế chính trị một cách siêu hình, nhưng trong đầu ra những công thức để xây dựng mặt khác lại trách rằng - bạn thử đoán xem một xã hội tương lai, không cố công tìm ra là cái gì? - tôi chỉ biết có phê phán mổ xẻ những nét đặc thù của xã hội tương lai từ cái hiện có, chứ không nêu ra được công trong đầu óc của mình, mà chỉ nghiên cứu thức nấu nướng nào (theo kiểu của Công tơ cái xã hội hiện tại, tìm ra quy luật vận động ư?) cho hiệu ăn của tương lai cả” [1,1993, của cái xã hội hiện tại (xã hội tư bản chủ t.23, tr.32]. Điều đó chứng tỏ rằng, C.Mác nghĩa) và từ đó chứng minh rằng xã hội chỉ căn cứ vào hiện thực để tìm ra quy luật hiện tại nhất định phải bị thay thế bằng một thực tế của lịch sử, chứ không tưởng tượng xã hội khác do những điều kiện mà nó tạo ra những sự kiện của tương lai hay nặn từ ra, và do những quy luật hoạt động trong trong đầu mình ra những mô hình tương lai những điều kiện đó. của xã hội. Trên cơ sở tìm ra quy luật của Trên thực tế, khi nghiên cứu sự ra đời và các sự kiện thực tế, C.Mác đưa ra những dự phát triển quan hệ sản xuất tư bản chủ đoán khoa học cho tương lai. Đây chỉ là nghĩa, C.Mác cũng chỉ ra quan hệ sản xuất những dự đoán về xu hướng phát triển tiếp tư bản chủ nghĩa ra đời từ trong lòng xã hội theo tất yếu của cái xã hội hiện tại, mà phong kiến, khi trình độ lực lượng sản xuất 45
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(102) - 2016 còn là trình độ thủ công. Không phải chỉ Trước hết hãy đọc kỹ tác phẩm của C.Mác, khi máy móc xuất hiện thì quan hệ sản xuất hiểu cho đúng tư tưởng của ông đã rồi mới tư bản chủ nghĩa mới xuất hiện. Rõ ràng khi nói đến chuyện phê phán và bổ sung một đó cùng một trình độ phát triển của lực cái gì đó. Tôi đọc chưa được nhiều, kiến lượng sản xuất có thể có các quan hệ sản thức còn nông cạn, mạo muội trao đổi đôi xuất khác nhau tồn tại. Tức là cùng một điều như vậy, chắc còn nhiều sai sót, mong trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có sao nhận được sự góp ý của bạn đọc để những bộ phận, những yếu tố của các hình chỉnh sửa cho đúng đắn hơn. thái kinh tế - xã hội khác nhau tồn tại. Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa không Tài liệu tham khảo phải ra đời là hoàn thiện ngay trên tất cả các [1] C.Mác và Ph.Ăngghen (1993, 1995), Toàn bộ phận của nó, mà nó phải hoàn thiện dần. tập, t.3, 4, 13, 20, 23, 24, 25, 26, 27, Nxb Ban đầu khi mới ra đời, xét một cách cụ Chính trị quốc gia, Hà Nội. thể, nó không thể nào loại trừ ngay cái hình [2] Nguyễn Chí Dũng (2015), “Học thuyết thái kinh tế - xã hội phong kiến mà nó vừa C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội dưới thoát thai ra từ đó. Vậy, có thể cho rằng, ánh sáng thời đại ngày nay”; Tạp chí Khoa cùng một trình độ phát triển của lực lượng học xã hội Việt Nam, số 2 (87). sản xuất vẫn có hai hình thái kinh tế - xã [3] Nguyễn Hùng Hậu (2014), “Bản chất khoa hội khác nhau được không? Nếu được thì học của chủ nghĩa Mác - Lênin”, Tạp chí điều đó có mâu thuẫn với học thuyết C.Mác Lý luận chính trị, số 11. về hình thái kinh tế - xã hội không? Theo [4] Vũ Văn Hiền (2015), “Chủ nghĩa Mác và quan điểm của C.Mác, có thể được với thế giới đương đại”, Phê phán các quan nghĩa đó là sự thể hiện của xu hướng chung điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng trong điều kiện lịch sử cụ thể; đó là quá cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản trình phát triển lịch sử tự nhiên của các hình Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. thái kinh tế - xã hội trong lịch sử. Điều đó [5] Nguyễn Minh Hoàn (2015), “Chủ nghĩa không có gì mâu thuẫn với thực chất học Mác và triết học Mác qua sự đánh giá của thuyết C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội các học giả Phương Tây”, Tạp chí Lý luận cả, mà chỉ mâu thuẫn với cách hiểu không chính trị, số 10. đúng về học thuyết C.Mác mà thôi. [6] V.I.Lênin (2005), Toàn tập, t.1, 20, 33, 36, 4. Kết luận 37, 39, 41, 43, 44, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. Tuy rằng học thuyết C.Mác về hình thái [7] Lê Hữu Nghĩa (2015), “Về một số quan kinh tế - xã hội không phải là “chân lý tuyệt điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - đối”, không phải tuyệt đối đúng trong mọi Lênin hiện nay”, Phê phán các quan điểm thời đại, mà cần phải được bổ sung và phát sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng cương triển, nhưng việc chỉ ra những hạn chế và lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt phát triển học thuyết của C.Mác về hình Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. thái kinh tế - xã hội là điều không đơn giản. [8] Nguyễn Quốc Phẩm (2015), “Thực chất của Để bổ sung và phát triển học thuyết đó luận điệu “Chủ nghĩa Mác - Lênin đối lập chúng ta phải nghiên cứu rất cẩn trọng, với nội dung đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí nghiêm túc như tinh thần mà C.Mác đã làm. Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10. 46
- Dương Văn Thịnh 47