Giáo trình Việt Sử toàn thư - Phạm Văn Sơn

pdf 520 trang huongle 2380
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Việt Sử toàn thư - Phạm Văn Sơn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_viet_su_toan_thu_pham_van_son.pdf

Nội dung text: Giáo trình Việt Sử toàn thư - Phạm Văn Sơn

  1. Phạm Văn Sơn Việt Sử Toàn Thư Từ Thượng Cổ Đến Hiện Đại
  2. 2 Việt Sử Toàn Thư Mục Lục Lời giới thiệu Lời tác giả Phần Thứ Nhất Chương 1 - Khái luận về xã hội Việt Nam xưa và nay 1. Địa lý thiên nhiên 2. Người Việt Nam 3. Gốc tích. Chương 2 - Đời sống thượng cổ của dân tộc Việt Nam Chương 3 - Nhà Hồng Bàng (2879 - 258 tr. T. L.) 1. Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng 2. Nước Văn Lang Chương 4 - Nhà Thục (257 - 207 tr. T. L.) Chương 5 - Xã hội Trung Hoa trong thời thượng cổ 1. Xã hội và văn hóa 2. Trật tự xã hội và gia đình 3. Việc quan chế 4. Pháp chế 5. Binh chế 6. Điền chế 7. Học chính 8. Khổng Tử 9. Lão Tử 10. Trang Tử 11. Tuân Huống. Phần Thứ Hai Bắc Thuộc Thời Đại Chương 1 - Nhà Triệu (Bắc thuộc lần thứ I 207-111 tr. T. L.) 1. Chỗ rẽ của lịch sử Âu Lạc 2. Chính trị của Triệu Đà 3. Nam Việt và Tây Hán - - 4. Xã hội Việt Nam dưới thời Triệu Đà 5. Những vua kế nghiệp Triệu Đà 6. Đế quốc Việt Nam xụp đổ 7. Công tội của Thái Phó Lữ Gia (Phê bình của Ngô Thời Sĩ). Chương 2 - Nhà Tây Hán (Bắc thuộc lần II 111 tr. T. L. - 39 T. L.) 1. Đơn vị hành chánh trên đất Giao Chỉ 2. Bộ máy cai trị ở đất Giao Châu. Chương 3 - Nhà Trưng (40 - 43) 1. Phần cờ nương tử 2. Nhà Đông Hán phục thù 3. Tính chất cách mạng của cuộc khởi nghĩa năm Canh Tý. Chương 4 - Bắc thuộc lần III (43 - 544 Đông Hán - Nam Bắc triều) Cuộc cải cách của Mã Viện trên đất Giao Châu Chương 5 - Người Việt Nam học chữ Tàu
  3. 3 Việt Sử Toàn Thư 1. Việc truyền bá Hán học 2. Ảnh hưởng Phật đồ với nền văn học của chúng ta 3. Phật Giáo 4. Một điều sai lầm về Sĩ Nhiếp. Chương 6 - Cuộc cách mạng phản Đế lần thứ hai của dân Giao Chỉ 1. Bà Triệu chống quân Đông Ngô 2. Lâm Ấp quấy phá Giao Châu. Chương 7 - Nhà Tiền Lý (544 - 602) 1. Lý Nam Đế (544 - 548) 2. Hậu Lý Nam Đế (571 - 602). Chương 8 - Bắc thuộc lần IV (603 - 939) 1. Nhà Tùy đánh Lâm Ấp 2. Nhà Đường đối với An Nam 3. Mai Hắc Đế khởi nghĩa (722) 4. Giặc Côn Lôn và Đồ Bà 5. Bố Cái Đại Vương 6. Cuộc xâm lăng Giao Châu của Nam Chiếu 7. Sự thất bại của Nam Chiếu và sự nghiệp của Cao Biền. Chương 9 - Cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam từ họ Khúc đến họ Ngô Trận thủy chiến đầu tiên của Việt Nam. Phần Thứ Ba Việt Nam Trên Đường Độc Lập (939) Chương 1 - Nhà Ngô (939 - 965) Chương 2 - Nhà Đinh (968 - 980) 1. Đinh Tiên Hoàng 2. Đinh Phế Đế. Chương 3 - Nhà Tiền Lê (980 - 1009) 1. Lê Hoàn đánh Tống 2. Việc ngoại giao 3. Việc đánh Chiêm Thành 4. Sự mở mang trong nước 5. Cái án Lê Hoàn và Dương Hậu. Chương 4 - Các vua kế tiếp Lê Đại Hành I. Lê Trung Tông (1005) II. Lê Ngọa Triều (1005 - 1009) 1. Việc ngoại giao với Bắc Triều 2. Sự tàn ác của Ngọa Triều 3. Vụ âm mưu cướp ngôi nhà Tiền Lê. Chương 5 - Nhà Hậu Lý (1010 - 1225) I. Lý Thái Tổ (1010 - 1028) II. Lý Thái Tông (1028 - 1054) 1. Việc chính trị 2. Việc quân sự 3. Dẹp Chiêm Thành. III. Lý Thánh Tông (1054 - 1072)
  4. 4 Việt Sử Toàn Thư 1. Việc mở mang Phật Giáo và Nho Giáo 2. Đánh Chiêm Thành. IV. Lý Nhân Tông (1072 - 1127) 1. Vụ tranh dành quyền vị 2. Việc chính trị 3. Việc đánh Tống 4. Cuộc phục thù của nhà Tống 5. Đánh Chiêm Thành. V. Lý Thần Tông (1128 - 1138) VI. Lý Anh Tông (1138 - 1175) 1. Đỗ Anh Vũ và Tô Hiến Thành 2. Việc ngoại giao. VII. Lý Cao Tông (1176 - 1210) VIII. Lý Huệ Tông (1211 - 1225) IX. Lý Chiêu Hoàng (1225) Chương 6 - Khái niệm về Phật giáo và văn học dưới đời nhà Lý Chương 7 - Nhà Trần (1225 - 1413) Nước Việt Nam dưới đời Trần Sơ I. Trần Thái Tông (1225 - 1258) 1. Tàn sát họ Lý. 2. Việc đảo lộn nhân luân. 3. Việc đánh dẹp trong nước. 4. Những công cuộc cải cách. 5. Việc binh chế và lực lượng quân đội dưới đời Trần - Sơ. 6. Kinh tế và xã hội. 7. Phong tục. 8. Văn hóa. 9. Cuộc chiến tranh tự vệ thứ nhất của Việt Nam. II. Trần Thánh Tông (1258 - 1278) 1. Việc chính trị. 2. Việc ngoại giao với Mông Cổ. III. Trần Nhân Tông (1279 - 1293) A- Mông Cổ gây hấn lần thứ hai 1. Việc ngoại giao tan vỡ. 2 Huyết chiến giữa Việt Nam và Mông Cổ. - Hội Nghị Bình Than (1282). - Hội Nghị Diên Hồng (1284). - Quân Nam rút theo kế hoạch. - Hội nghị quân sự Vạn Kiếp. III Mông Cổ tấn công. - Mặt trận Đông Nam. - Cuộc tổng tấn công của Việt Nam. Việt Nam thu phục Thăng Long. - Trận Tây Kết. - Trận Vạn Kiếp. B- Mông Cổ tấn công lần thứ hai (1287) I Trận Vân Đồn. II Trận Bạch Đằng. III Việc truy kích Thoát Hoan. IV Cuộc giảng hòa. V Chiến pháp của Hưng Đạo Vương. IV. Trần Anh Tông (1293 - 1314) Việc gả Huyền Trân cho Chế Mân V. Trần Minh Tông (1314 - 1329) VI. Trần Hiến Tông (1329 - 1341) Giặc Ngưu Hống và giặc Lào VII. Trần Dụ Tông (1341 - 1369)
  5. 5 Việt Sử Toàn Thư 1. Việc chính trị. 2. Việc giao thiệp với Trung Hoa. 3. Việc giao thiệp với Chiêm Thành. 4. Dụ Dương Nhật Lễ. VIII. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372) Tiểu sử Hồ Quý Ly. IX. Trần Duệ Tông (1372 - 1377) X. Trần Phế Đế (1377 - 1388) 1. Việc giao thiệp với nhà Minh. 2. Chiêm Thành tấn công Thăng Long. 3. Âm mưu trừ Hồ Quý Ly thất bại. XI. Trần Thuận Tông (1388 - 1398) 1. Chế Bồng Nga tử trận. 2. Cuộc cách mạng của Hồ Quý Ly: Cải cách chính trị. Cải cách quân sự. Cải cách kinh tế. Cải cách xã hội. Cải cách văn hóa. 3. Cuộc đảo chính Hồ Quý Ly. Chương 8 - Nhà Hồ (1400 - 1407) I. Hồ Quý Ly (1400) II. Hồ Hán Thương (1400 - 1407) 1. Cuộc giao tranh giữa nhà Hồ và nhà Minh. - Thành Đa Bang thất thủ. - Trận Mộc Phàm Giang. - Trận Hàm Tử Quan. - Nguyên nhân thất bại của Hồ Quý Ly. 2. Hồ Quý Ly có làm mất nước không? Chương 9 - Bắc thuộc lần thứ năm Nhà Hậu Trần (1407 - 413) 1. Chính sách thống trị của nhà Minh. 2. Giản Định Đế khởi nghĩa (1407 - 1409). - - 3. Trần Quý Khoách (1409 - 1413) Chương 10 - Nhà Hậu Lê. Lê Lợi chấm dứt chế độ Minh thuộc (1417 - 1427) 1. Giai đoạn đen tối. 2. Giai đoạn tươi sáng. 3. Cuộc tổng phản công của giặc Minh (Mặt trận miền Bắc). 4. Trận Tuy Động. 5. Việt quân phong tỏa Đông Đô. 6. Trận chi Lăng. 7. Quân Minh xin hòa giải. 8. Việc cầu phong. Nhà Hậu Lê (1428 - 1527) I. Lê Thái Tổ (1428 - 1433) 1. Học chính. 2. Luật pháp. 3. Hành chánh. 4. Cải cách điền địa. 5. Binh chế. 6. Việc giết công thần. II. Lê Thái Tông (1434 - 1442) Cái án Lê Chi Viên (1442) III. Lê Nhân Tông (1443 - 1459) IV. Lê Thánh Tông (1460 - 1497) 1. Việc chính trị. 2. Tổ chức hương thôn. 3. Việc đình. 4. Hành chính. 5. Quan chế. 6. Thuế đinh. 7. Thuế điền thổ. 8. Nông nghiệp. 9. Luật pháp
  6. 6 Việt Sử Toàn Thư bảo vệ nhân quyền. 10. Quyền lợi xã hội. 11. Tổ chức võ bị. 12. Võ công đời Hồng Đức. 13. Văn trị đời Hồng Đức. V. Lê Hiến Tông (1497 - 1504) VI. Lê Túc Tông (1504 1505) VII. Lê Uy Mục (1505 - 1509) VIII. Lê Tương Dực (1510 - 1516) IX. Lê Chiêu Tông X. Lê Cung Hoàng (1516 - 1527) Chương 11 - Nhà Mạc (1527 - 1667) Mạc Đăng Dung (1527 - 1529) 1. Tình trạng Việt Nam đầu thế kỷ XVI. 2. Tiểu sử Mạc Đăng Dung. 3. Vụ Trần Thiêm Bình thứ hai. 4. Một cuộc chiến tranh tâm lý. 5.Vụ án Mạc Đăng Dung. Chương 12 - Loạn phong kiến Việt Nam. Nam Bắc triều (1527 - 1592) 1. Trịnh Kiểm và Nguyễn Kim. 2. Biến cố tại Nam triều. 3. Thất bại của Bắc triều. Chương 13 - Nước Việt Nam từ Bắc vào Nam (1674 - 1775) 1. Họ Trịnh làm chúa miền Bắc. 2. Họ Nguyễn xưng hùng phương Nam. Chương 14 - Trịnh - Nguyễn phân tranh (1627 - 1775) 1. Đại chiến lần thứ nhất (1627). 2. Đại chiến lần thứ hai (1630) 3. Đại chiến lần thứ ba (1635). 4. Đại chiến lần thứ tư (1648). 5. Đại chiến lần thứ năm (1655) 6. Đại chiến lần thứ sáu (1661) 7. Đại chiến lần thứ bảy (1672). Chương 15 - Sự nghiệp hai họ Trịnh - Nguyễn Chương 16 - Những vụ phiến loạn dưới đời chúa Trịnh Chương 17 - Các hoạt động của Nguyễn Chương 18 - Các cuộc chiến tranh cuối cùng của hai họ Trịnh - Nguyễn (1774) Chương 19 - Nhà Tây Sơn (1778 - 1802) 1. Tiểu sử nhà Tây Sơn. 2. Tây Sơn diệt Nguyễn tại Nam Việt. 3. Nguyễn Huệ đuổi quân Xiêm. 4. Nguyễn Huệ đánh Thuận Hóa. 5. Nguyễn Huệ ra Thăng Long. 6. Chim Bằng gẫy cánh. Chương 20 - Một võ công oanh liệt bậc nhất của Việt Nam cuối thế kỷ XVIII 1. Cái chết của Vũ Văn Nhậm. 2. Chiến sự Việt-Thanh. 3. Cuộc giao thiệp giữa Tây Sơn và Thanh đình. 4. Chính trị của vua Quang Trung. 5. Vua Chiêu Thống bị nhục trên đất Tàu. Những cuộc chiến tranh cuối cùng giữa Tây Sơn và Cựu Nguyễn
  7. 7 Việt Sử Toàn Thư 1. Nguyễn Vương quật khởi. 2. Nguyễn Vương tấn công Qui Nhơn lần thứ nhất (1790). 3. Qui Nhơn thất thủ lần thứ hai và ba. 4. Phú Xuân đổi chủ. 5. Nguyễn Vương ra Bắc Hà. Chương 21 - Người Âu Châu sang Việt Nam 1. Việt Nam dưới con mắt người Pháp. 2. Đạo Thiên Chúa. Chương 22 - Nhà Nguyễn (1802 - 1945) I. Gia Long (1802 - 1820) 1. Thế tổ xưng đế hiệu. 2. Bộ máy chính quyền trung ương. 3. Các địa hạt hành chính lớn. 4. Binh chế. 5. Công vụ. 6. Việc học hành và luật pháp. 7. Việc tài chính. 8. Việc ngoại giao với Pháp. 9. Việc ngoại giao với Trung Quốc. - - 10. Giao thiệp với Miên-Lào-Tiêm La. 11. Bàn về loạn phong kiến ở Việt Nam. 12. Vài ý kiến về vua Gia Long. II. Thánh Tổ (1820 - 1840) 1. Hoàn thiên bộ máy chính quyền. 2. Việc học hành thi cử. 3. Sách vở. 4. Những cuộc phiến loạn. 5. Việc ngoại giao với Pháp. 6. Việc Ai Lao và Chân Lạp. 7. Việc cấm đạo. 8. Bàn về Thánh Tổ. III. Hiến Tổ (1841 - 1847) 1. Cá nhân của vua Hiến Tổ. 2. Việc Chân Lạp và Tiêm La. 3. Cuộc đánh phá đầu tiên của Pháp ở Việt Nam. Phần Thứ Tư Việt Nam Mất Độc Lập Về Tay Pháp Chương 1 - Dực Tông (1847 - 1883) 1. Vua Tự Đức và tình thế Việt Nam giữa thế kỷ XIX. 2. Việc ngoại giao và cấm đạo. 3. Việc văn học và binh chế. 4. Những vụ phiến động trong nước. Chương 2 - Người Pháp ra mặt xâm chiếm Việt Nam 1. Nguyên nhân của sự xâm lăng. 2. Đặc phái viên Pháp đến Việt Nam. 3. Việt Nam mất ba tỉnh Đông Nam Kỳ. 4. Phản ứng của triều đình Huế. 5. Phong Trào kháng Pháp ở Nam Kỳ. 6. Người Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. 7. Những nghĩa sĩ miền Nam. Chương 3 - Quân Pháp đánh Bắc Kỳ 1. Nguyên nhân việc người Pháp ra Bắc. 2. Pháp quân đánh Bắc Kỳ lần thứ I. 3. Hòa ước năm Giáp Tuất (1874). 4. Hà thành thất thủ lần thứ hai. 5. Sự phế lập ở Huế. 6. Hòa ước năm Quí Mùi (1883). 7. Hòa ước Thiên Tân lần thứ hai. - - 8. Hòa ước Patenôtre (1884). Chương 4 - Tàn cuộc của phong kiến Việt Nam
  8. 8 Việt Sử Toàn Thư 1. Phong trào Cần Vương cứu quốc. 2. Phong trào Văn Thân kháng Pháp. 3. Vua Thành Thái (1884 - 1907). 4. Vua Duy Tân (1907 - 1916). 5. Cuộc bảo hộ của nước Pháp. Chương V - Những cuộc tranh thủ độc lập của Việt Nam từ 1928 - 1954 1. Xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. 2. Những cuộc tranh đấu của thế hệ trẻ tuổi. 3. Cuộc đảo chánh 9-3-1945. 4. Lá bài Bảo Đại và Hiệp Định Hạ Long. 5. Cuộc chiến tranh Thực - Cộng (1945 - 1954). 6. Thỏa hiệp Genève. 7. Kết Luận Tài liệu tham khảo Ý kiến của văn gia trí thức về Việt Sử Toàn Thư Phụ lục 1: Bảng đối chiếu các triều đại Việt Nam với triều đại Trung Hoa Phụ lục 2: Thế Phả họ Nguyễn Phụ lục 3: Thế Phả họ Trịnh
  9. 9 Việt Sử Toàn Thư Kính dâng hương hồn song thân đã sớm hun đúc cho con một tấm lòng thiết tha với đất nước để viết nên những trang sử oai hùng của dân tộc. Phạm Văn Sơn Lời Giới Thiệu "Chim Việt làm tổ cành nam (Việt điểu sào nam chi)", một câu nói ngắn gọn nhưng hàm chứa một ý nghĩa thật sâu: người Việt Nam không bao giờ quên được cội nguồn của mình! Nhờ tinh thần đó mà trên trường quốc tế, dù phải chịu một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây. Nhưng hiện nay, với chính sách hủy diệt văn hóa truyền thống dân tộc trong nước, và sức lôi cuốn mãnh liệt của nền văn minh vật chất Âu Mỹ ngoài nước, dân tộc chúng ta đang phải đối đầu với một hiểm họa diệt vong mới, có mức độ trầm trọng hơn tất cả các hiểm họa đã gặp phải trong quá khứ. Chỉ có lòng yêu nước nồng nàn, phát xuất từ đáy lòng của mọi người Việt mới giúp chúng ta vượt qua được hiểm họa này. Chỉ có lòng yêu quê hương thiết tha mới là động cơ bắt chúng ta chung góp tâm trí vào việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa cao quý của cha ông để lại. Với mục tiêu duy nhất là nuôi dưỡng lòng yêu nước cần thiết trong lòng mọi người Việt tại Nhật, sinh thành những tâm hồn thiết tha với quê hương, dân tộc, chúng tôi đã mạn phép in lại 600 bộ Việt Sử Toàn Thư này của Sử Gia Phạm Văn Sơn để phân phối trong cộng đồng người Việt tại Nhật. Với công trình khảo cứu sâu rộng của Sử gia yêu nước Phạm Văn Sơn và tính chất khách quan, dân tộc, khoa học, phong phú, giản dị của bộ sách này, chúng tôi mong muốn mỗi gia đình Việt Nam tại Nhật sẽ có ít nhất một bộ, lúc nào cũng có trong nhà, để dễ dàng chỉ dạy con em về lịch sử hào hùng bất khuất của dân tộc Việt. Chúng tôi cũng chân thành cảm tạ Hiệp Hội Liên Đới Người Tỵ Nạn Đông Dương đã yểm trợ toàn thể chi phí để in lại bộ sách này. Hiệp Hội Người Việt Tại Nhật Bản Nhật Bản, 1983 Nam Nghệ Xã
  10. 10 Việt Sử Toàn Thư Cùng Bạn Đọc Thân Mến Từ mười hai năm nay, bước chân vào làng sử học, chúng tôi đã được hân hạnh giới thiệu các bạn văn gia trí thức và học sinh một tổ tác phẩm nhỏ như Việt Nam Tranh Đấu Sử, Việt Nam Hiện Đại Sử Yếu, Vĩ Tuyến 17, Việt Sử Tân Biên quyển I, II, III. Những cuốn sách này được tái bản nhiều lần và trước những sự đóng góp của chúng tôi đối với văn hóa nước nhà, các bạn đọc đã tỏ có nhiều cảm tình và tin cậy, do đó để tạ lòng tri kỷ bốn phương hàng năm chúng tôi tiếp tục gửi đến tay các bạn những tác phẩm về sử học. Gần đây, Việt sử tân biên được các bạn trí thức trong nước và ngoài nước đặc biệt lưu ý và tán thưởng trên các báo Bách Khoa, Thế Giới Tự Do, Tân Dân, Chỉ Đạo, Ngôn Luận, Tự Do, v.v nhưng bộ sử này còn tới 4 cuốn nữa mới hết, tức là phải xuất bản đều đặn luôn bốn năm mới hoàn thành. Trong lúc này, nhiều bạn giáo sư và học sinh thường gửi thư đến chúng tôi yêu cầu nên gấp rút soạn một cuốn Việt sử tân biên thâu hẹp gồm đủ chi tiết từ Thượng cổ thời đại đến hết thời Pháp thuộc để tiện dụng hơn trong các trường học. Theo ý các bạn, Việt Sử Tân Biên gồm 7 cuốn chỉ lợi ích nhiều cho các giáo sư sử địa, các văn gia trí thức cần biên khảo rộng rãi và cho một số sinh viên nặng tình đặc biệt với sử học. Quả vậy, chúng tôi đã đọc khá nhiều sách, chuyện ký để viết một bộ sách có mục đích giúp các bạn kể trên khỏi mất nhiều thời giờ tìm tòi sử liệu và nghĩ ngợi về sự bình giải, mặc dầu công việc của chúng tôi vẫn có thể còn nhiều khuyết điểm. Ngoài ra, từ trên 30 năm nay, tuy trong các thư viện của chúng ta đã có một sách về lịch sử, nhưng các sách này vẫn còn mang nặng ảnh hưởng của tư tưởng thời phong kiến, đế quốc. Nếu cần tiến bộ, tất nhiên ta phải có những cuốn sử mới viết theo quan niệm rộng rãi và tinh thần phóng khoáng của trào lưu dân chủ ngày nay cùng gồm thâu được nhiều điều mới lạ do sự khám phá hay sưu tầm của các học giả cận đại, hiện đại. Hôm nay, Việt Sử Toàn Thư ra mắt các bạn. Chúng tôi hy vọng tác phẩm này sẽ hợp với nhu cầu của tình thế một phần nào, góp được ít nhiều công quả cần thiết cho sự phát triển và xây dựng văn học của nước nhà trong giai đoạn mới của lịch sử. Tuy nhiên do sử học nước nhà chưa hết phôi thai, ấu trĩ, sử liệu lại thất đắc khá nhiều qua các quốc biến, sách này không khỏi có điều lỗi lầm, sơ sót. Trong khi chờ đợi một hoàn thiện, chúng tôi xin sẵn sàng chào đón sự uốn nắn và chỉ bảo của các bạn trí thức gần xa. Sài gòn ngày 14 tháng 3 năm Canh Tý - Phạm Văn Sơn
  11. 11 Việt Sử Toàn Thư Mục Lục Lời giới thiệu Lời tác giả Phần Thứ Nhất Chương 1 - Khái luận về xã hội Việt Nam xưa và nay 1. Địa lý thiên nhiên 2. Người Việt Nam 3. Gốc tích. Chương 2 - Đời sống thượng cổ của dân tộc Việt Nam Chương 3 - Nhà Hồng Bàng (2879 - 258 tr. T. L.) 1. Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng 2. Nước Văn Lang Chương 4 - Nhà Thục (257 - 207 tr. T. L.) Chương 5 - Xã hội Trung Hoa trong thời thượng cổ 1. Xã hội và văn hóa 2. Trật tự xã hội và gia đình 3. Việc quan chế 4. Pháp chế 5. Binh chế 6. Điền chế 7. Học chính 8. Khổng Tử 9. Lão Tử 10. Trang Tử 11. Tuân Huống. Phần Thứ Hai Bắc Thuộc Thời Đại Chương 1 - Nhà Triệu (Bắc thuộc lần thứ I 207-111 tr. T. L.) 1. Chỗ rẽ của lịch sử Âu Lạc 2. Chính trị của Triệu Đà 3. Nam Việt và Tây Hán 4. Xã hội Việt Nam dưới thời Triệu Đà 5. Những vua kế nghiệp Triệu Đà 6. Đế quốc Việt Nam xụp đổ 7. Công tội của Thái Phó Lữ Gia (Phê bình của Ngô Thời Sĩ). Chương 2 - Nhà Tây Hán (Bắc thuộc lần II 111 tr. T. L. - 39 T. L.) 1. Đơn vị hành chánh trên đất Giao Chỉ 2. Bộ máy cai trị ở đất Giao Châu. Chương 3 - Nhà Trưng (40 - 43) 1. Phần cờ nương tử 2. Nhà Đông Hán phục thù 3. Tính chất cách mạng của cuộc khởi nghĩa năm Canh Tý. Chương 4 - Bắc thuộc lần III (43 - 544 Đông Hán - Nam Bắc triều) Cuộc cải cách của Mã Viện trên đất Giao Châu Chương 5 - Người Việt Nam học chữ Tàu 1. Việc truyền bá Hán học 2. Ảnh hưởng Phật đồ với nền văn học của chúng ta 3. Phật Giáo 4. Một điều sai lầm về Sĩ Nhiếp. Chương 6 - Cuộc cách mạng phản Đế lần thứ hai của dân Giao Chỉ 1. Bà Triệu chống quân Đông Ngô 2. Lâm Ấp quấy phá Giao Châu.
  12. 12 Việt Sử Toàn Thư Chương 7 - Nhà Tiền Lý (544 - 602) 1. Lý Nam Đế (544 - 548) 2. Hậu Lý Nam Đế (571 - 602). Chương 8 - Bắc thuộc lần IV (603 - 939) 1. Nhà Tùy đánh Lâm Ấp 2. Nhà Đường đối với An Nam 3. Mai Hắc Đế khởi nghĩa (722) 4. Giặc Côn Lôn và Đồ Bà 5. Bố Cái Đại Vương 6. Cuộc xâm lăng Giao Châu của Nam Chiếu 7. Sự thất bại của Nam Chiếu và sự nghiệp của Cao Biền. Chương 9 - Cuộc tranh đấu của dân tộc Việt Nam từ họ Khúc đến họ Ngô Trận thủy chiến đầu tiên của Việt Nam. Phần Thứ Ba Việt Nam Trên Đường Độc Lập (939) Chương 1 - Nhà Ngô (939 - 965) Chương 2 - Nhà Đinh (968 - 980) 1. Đinh Tiên Hoàng 2. Đinh Phế Đế. Chương 3 - Nhà Tiền Lê (980 - 1009) 1. Lê Hoàn đánh Tống 2. Việc ngoại giao 3. Việc đánh Chiêm Thành 4. Sự mở mang trong nước 5. Cái án Lê Hoàn và Dương Hậu. Chương 4 - Các vua kế tiếp Lê Đại Hành I. Lê Trung Tông (1005) II. Lê Ngọa Triều (1005 - 1009) 1. Việc ngoại giao với Bắc Triều 2. Sự tàn ác của Ngọa Triều 3. Vụ âm mưu cướp ngôi nhà Tiền Lê. Chương 5 - Nhà Hậu Lý (1010 - 1225) I. Lý Thái Tổ (1010 - 1028) II. Lý Thái Tông (1028 - 1054) 1. Việc chính trị 2. Việc quân sự 3. Dẹp Chiêm Thành. III. Lý Thánh Tông (1054 - 1072) 1. Việc mở mang Phật Giáo và Nho Giáo 2. Đánh Chiêm Thành. IV. Lý Nhân Tông (1072 - 1127) 1. Vụ tranh dành quyền vị 2. Việc chính trị 3. Việc đánh Tống 4. Cuộc phục thù của nhà Tống 5. Đánh Chiêm Thành. V. Lý Thần Tông (1128 - 1138) VI. Lý Anh Tông (1138 - 1175) 1. Đỗ Anh Vũ và Tô Hiến Thành 2. Việc ngoại giao. VII. Lý Cao Tông (1176 - 1210)
  13. 13 Việt Sử Toàn Thư VIII. Lý Huệ Tông (1211 - 1225) IX. Lý Chiêu Hoàng (1225) Chương 6 - Khái niệm về Phật giáo và văn học dưới đời nhà Lý Chương 7 - Nhà Trần (1225 - 1413) Nước Việt Nam dưới đời Trần Sơ I Trần Thái Tông (1225 - 1258) I Tàn sát họ Lý. II Việc đảo lộn nhân luân. III Việc đánh dẹp trong nước. IV Những công cuộc cải cách. V Việc binh chế và lực lượng quân đội dưới đời Trần - Sở. IV Kinh tế và xã hội. VII Phong tục. VIII Văn hóa. IX Cuộc chiến tranh tự vệ thứ nhất của Việt Nam. II Trần Thánh Tông (1258 - 1278) I Việc chính trị. II Việc ngoại giao với Mông Cổ. III Trần Nhân Tông (1279 - 1293) A - Mông Cổ gây hấn lần thứ hai I Việc ngoại giao tan vỡ. II Huyết chiến giữa Việt Nam và Mông Cổ. - Hội Nghị Bình Than (1282). - Hội Nghị Diên Hồng (1284). - Quân Nam rút theo kế hoạch. - Hội nghị quân sự Vạn Kiếp. III Mông Cổ tấn công. - Mặt trận Đông Nam. - Cuộc tổng tấn công của Việt Nam. Việt Nam thu phục Thăng Long. - Trận Tây Kết. - Trận Vạn Kiếp. B - Mông Cổ tấn công lần thứ hai (1287) I Trận Vân Đồn. II Trận Bạch Đằng. III Việc truy kích Thoát Hoan. IV Cuộc giảng hòa. V Chiến pháp của Hưng Đạo Vương. IV Trần Anh Tông (1293 - 1314) Việc gả Huyền Trân cho Chế Mân V Trần Minh Tông (1314 - 1329) VI Trần Hiến Tông (1329 - 1341) Giặc Ngưu Hống và giặc Lào VII Trần Dụ Tông (1341 - 1369) I Việc chính trị. II Việc giao thiệp với Trung Hoa. III Việc giao thiệp với Chiêm Thành. IV Dụ Dương Nhật Lễ. VIII Trần Nghệ Tông (1370 - 1372) Tiểu sử Hồ Quý Ly. IX Trần Duệ Tông (1372 - 1377) X Trần Phế Đế (1377 - 1388) I Việc giao thiệp với nhà Minh. II Chiêm Thành tấn công Thăng Long. III Âm mưu trừ Hồ Quý Ly thất bại. XI Trần Thuận Tông (1388 - 1398)
  14. 14 Việt Sử Toàn Thư I Chế Bồng Nga tử trận. II Cuộc cách mạng của Hồ Quý Ly: Cải cách chính trị. Cải cách quân sự. Cải cách kinh tế. Cải cách xã hội. Cải cách văn hóa. III Cuộc đảo chính Hồ Quý Ly. Chương VIII - Nhà Hồ (1400 - 1407) I Hồ Quý Ly (1400) II Hồ Hán Thương (1400 - 1407) I Cuộc giao tranh giữa nhà Hồ và nhà Minh. - Thành Đa Bang thất thủ. - Trận Mộc Phàm Giang. - Trận Hàm Tử Quan. - Nguyên nhân thất bại của Hồ Quý Ly. II Hồ Quý Ly có làm mất nước không? Chương IX - Bắc thuộc lần thứ năm - Nhà Hậu Trần (1407 - 413) I Chính sách thống trị của nhà Minh. II Giản Định Đế khởi nghĩa (1407 - 1409). III Trần Quý Khoách (1409 - 1413) Chương X - Nhà Hậu Lê. Lê Lợi chấm dứt chế độ Minh thuộc (1417 - 1427) I Giai đoạn đen tối. II Giai đoạn tươi sáng. III Cuộc tổng phản công của giặc Minh (Mặt trận miền Bắc). IV Trận Tuy Động. V Việt quân phong tỏa Đông Đô. VI Trận chi Lăng. VII Quân Minh xin hòa giải. VIII Việc cầu phong. Nhà Hậu Lê (1428 - 1527) I Lê Thái Tổ (1428 - 1433) I Học chính. II Luật pháp. III Hành chánh. IV Cải cách điền địa. V Binh chế. VI Việc giết công thần. II Lê Thái Tông (1434 - 1442) Cái án Lệ Chi Viên (1442) III Lê Nhân Tông (1443 - 1459) IV Lê Thánh Tông (1460 - 1497) I Việc chính trị. II Tổ chức hương thôn. III Việc đình. IV Hành chính. V Quan chế. VI Thuế đinh. VII Thuế điền thổ. VIII Nông nghiệp. IX Luật pháp bảo vệ nhân quyền. X Quyền lợi xã hội. XI Tổ chức võ bị. XII Võ công đời Hồng Đức. XIII Văn trị đời Hồng Đức. V Lê Hiến Tông (1497 - 1504) VI Lê Túc Tông (1504 1505)
  15. 15 Việt Sử Toàn Thư VII Lê Uy Mục (1505 - 1509) VIII Lê Tương Dực (1510 - 1516) IX Lê Chiêu Tông X Lê Cung Hoàng (1516 - 1527) Quyển II Chương XI - Nhà Mạc (1527 - 1667) Mạc Đăng Dung (1527 - 1529) I Tình trạng Việt Nam đầu thế kỷ XVI. II Tiểu sử Mạc Đăng Dung. III Vụ Trần Thiêm Bình thứ hai. IV Một cuộc chiến tranh tâm lý. V Vụ án Mạc Đăng Dung. Chương XII - Loạn phong kiến Việt Nam. Nam Bắc triều (1527 - 1592) I Trịnh Kiểm và Nguyễn Kim. II Biến cố tại Nam triều. III Thất bại của Bắc triều. Chương XIII - Nước Việt Nam từ Bắc vào Nam (1674 - 1775) I Họ Trịnh làm chúa miền Bắc. II Họ Nguyễn xưng hùng phương Nam. Chương XIV - Trịnh - Nguyễn phân tranh (1627 - 1775) I Đại chiến lần thứ nhất (1627). II Đại chiến lần thứ hai (1630) III Đại chiến lần thứ ba (1635). IV Đại chiến lần thứ tư (1648). V Đại chiến lần thứ năm (1655) VI Đại chiến lần thứ sáu (1661) VII Đại chiến lần thứ bảy (1672). Chương XV - Sự nghiệp hai họ Trịnh - Nguyễn Chương XVI - Các hoạt động của Trịnh Chương XVII - Các hoạt động của Nguyễn Chương XVIII - Các cuộc chiến tranh cuối cùng của hai họ Trịnh - Nguyễn (1774) Chương XIX - Nhà Tây Sơn (1778 - 1802) I Tiểu sử nhà Tây Sơn. II Tây Sơn diệt Nguyễn tại Nam Việt. III Nguyễn Huệ đuổi quân Xiêm. IV Nguyễn Huệ đánh Thuận Hóa. V Nguyễn Huệ ra Thăng Long. VI Chim Bằng gẫy cánh.
  16. 16 Việt Sử Toàn Thư Chương XX - Một võ công oanh liệt bậc nhất của Việt Nam cuối thế kỷ XVIII I Cái chết của Vũ Văn Nhậm. II Chiến sự Việt - Thanh. III Cuộc giao thiệp giữa Tây Sơn và Thanh đình. IV Chính trị của vua Quang Trung. V Vua Chiêu Thống bị nhục trên đất Tàu. Những cuộc chiến tranh cuối cùng giữa Tây Sơn và Cựu Nguyễn I Nguyễn Vương quật khởi. II Nguyễn Vương tấn công Qui Nhơn lần thứ nhất (1790). III Qui Nhơn thất thủ lần thứ hai và ba. IV Phú Xuân đổi chủ. V Nguyễn Vương ra Bắc Hà. Chương XXI - Người Âu Châu sang Việt Nam I Việt Nam dưới con mắt người Pháp. II Đạo Thiên Chúa. Chương XXII - Nhà Nguyễn (1802 - 1945) I Gia Long (1802 - 1820) I Thế tổ xưng đế hiệu. II Bộ máy chính quyền trung ương. III Các địa hạt hành chính lớn. IV Binh chế. V Công vụ. VI Việc học hành và luật pháp. VII Việc tài chính. VIII Việc ngoại giao với Pháp. IX Việc ngoại giao với Trung Quốc. X Giao thiệp với Miên - Lào - Tiêm La. XI Bàn về loạn phong kiến ở Việt Nam. XII Vài ý kiến về vua Gia Long. II Thánh Tổ (1820 - 1840) I Hoàn thiện bộ máy chính quyền. II Việc học hành thi cử. III Sách vở. IV Những cuộc phiến loạn. V Việc ngoại giao với Pháp. VI Việc Ai Lao và Chân Lạp. VII Việc cấm đạo. VIII Bàn về Thánh Tổ. III Hiến Tổ (1841 - 1847) I Cá nhân của vua Hiến Tổ. II Việc Chân Lạp và Tiêm La. III Cuộc đánh phá đầu tiên của Pháp ở Việt Nam. Phần Thứ Tư Việt Nam Mất Độc Lập Về Tay Pháp Chương I - Dực Tông (1847 - 1883) I Vua Tự Đức và tình thể Việt Nam giữa thế kỷ XIX. II Việc ngoại giao và cấm đạo. III Việc văn học và binh chế. IV Những vụ phiến động trong nước. Chương II - Người Pháp ra mặt xâm chiếm Việt Nam
  17. 17 Việt Sử Toàn Thư I Nguyên nhân của sự xâm lăng. II Đặc phái viên Pháp đến Việt Nam. III Việt Nam mất ba tỉnh Đông Nam Kỳ. IV Phản ứng của triều đình Huế. V Phong Trào kháng Pháp ở Nam Kỳ. VI Người Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. VII Những nghĩa sĩ miền Nam. Chương III - Quân Pháp đánh Bắc Kỳ I Nguyên nhân việc người Pháp ra Bắc. II Pháp quân đánh Bắc Kỳ lần thứ I. III Hòa ước năm Giáp Tuất (1874). IV Hà thành thất thủ lần thứ hai. V Sự phế lập ở Huế. VI Hòa ước năm Quí Mùi (1883). VII Hòa ước Thiên Tân lần thứ hai. VIII Hòa ước Patenôtre (1884). Chương IV - Tàn cuộc của phong kiến Việt Nam I Phong trào Cần Vương cứu quốc. II Phong trào Văn Thân kháng Pháp. III Vua Thành Thái (1884 - 1907). IV Vua Duy Tân (1907 - 1916). V Cuộc bảo hộ của nước Pháp. Chương V - Những cuộc tranh thủ độc lập của Việt Nam từ 1928 - 1954 I Xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. II Những cuộc tranh đấu của thế hệ trẻ tuổi. III Cuộc đảo chánh 9-3-1945. IV Lá bài Bảo Đại và Hiệp Định Hạ Long. V Cuộc chiến tranh Thực - Cộng (1945 - 1954). VI Thỏa hiệp Genève. VII Kết Luận
  18. 18 Việt Sử Toàn Thư Phần 1 - Chương 1 Khái Luận Về Xã Hội Việt Nam Xưa và Nay - Địa lý thiên nhiên Việt Nam - Người Việt Nam - Gốc tích của người Việt Nam 1- Địa Lý Thiên Nhiên Việt Nam Việt Nam ngày nay là một nước trên bán đảo Đông Dương ở vào khoảng giữa Ấn Độ và Trung Hoa thuộc Châu Á hướng về phía Nam. Bắc, Việt Nam giáp Trung Hoa (giáp giới ba tỉnh miền Nam Trung Quốc: Vân Nam, Quảng Đông và Quảng Tây), Tây giáp Ai Lao, Cao Mên, Đông giáp bờ bể Nam Hải. Một đằng khác, ở Đông Nam Châu Á, bán đảo Đông Dương trong đó có Việt Nam nhìn qua quần đảo Phi Luật Tân và duỗi chân về phía Nam như đạp xuống quần đảo Mã Lai mà vị trí cùng mối liên hệ đối với bán đảo Đông Dương có thể ví với Địa Trung Hải ở Âu Châu. Nước Việt Nam giống hình chữ S hẹp ở giữa, rộng hai đầu. Chiều cong vòng theo bờ biển bắt đầu từ vịnh Bắc Việt, lượn vào đến đầu Trung Việt dần dần ưỡn ra, xuống đến Nam Việt thì chiều cong lại dần dần ăn vòng vào theo một đường rất êm dịu. Diện tích rộng chừng 312.000 cây số vuông trong đó: Bắc Việt: 105.000 cây số vuông Trung Việt: 150.000 cây số vuông Nam Việt: 57.000 cây số vuông Bắc Việt chia ra làm ba miền: Thượng du có nhiều rừng núi chạy vòng cánh cung theo hình thể xứ Bắc, như chiếc quạt xòe ra từ nơi giáp miền Thượng Lào chạy sát các vùng biên giới Việt Hoa. Ngọn núi cao nhất là Hoàng Liên Sơn (3.141 thước). Trung du là miền ở giữa trung châu và thượng du, sát các khu rừng núi. Trung châu đáng chú ý vì có nhiều đồng bằng, sẵn ruộng đất để cầy cấy và sông ngòi thuận tiện cho mọi việc giao thông (sông Hồng Hà phát nguyên từ Tây Tạng có nhiều chi nhánh tản mác khắp Trung Châu, sông thường không rộng lắm) - dân cư rất đông đúc, thóc lúa, ngô, khoai có nhiều. Trung Việt là một giải đất hẹp, có giẫy Trường Sơn giống như cái xương sống chạy dọc từ Bắc Việt vào Nam Việt, có thể ví là cái bình phong ngăn cách hai xứ Việt Lào, ở
  19. 19 Việt Sử Toàn Thư đây ruộng đất hiếm hoi, khô khan, vì vị trí sát bể và núi nên sự sinh sống của dân chúng trông vào lâm sản và hải sản hay ngư lợi (nghề đánh cá). Kinh tế nông nghiệp ở đây không được phong phú như ở miền Bắc Việt và Nam Việt có thể coi là hai vựa thóc của Việt Nam. Nam Việt ở vào khúc dưới sông Cửu Long có sông Tiền Giang, Hậu Giang, Vàm Cỏ và Đồng Nai chạy dài trên toàn cõi, lại có nhiều đất ruộng nên rất thịnh đạt về nông nghiệp. Nhân dân ở đây không đông đúc mấy, tương đối với tổng số diện tích đất đai, vừa sống với biển, vừa sống với ruộng vườn nên không chật vật, vất vả như dân Bắc Việt bị nạn nhân mãn từ bao nhiêu đời. (Mật độ dân cư trung bình lên tới 800 người trên một cây số vuông, có chỗ lên tới 2.000 người, điều ít thấy ở một nơi nào trên thế giới ngày nay.) Việt Nam là một xứ thuộc nhiệt đới, nhưng khí hậu có khác nhau từ Nam ra Bắc, thường nóng và ẩm thấp. Bắc Việt giáp giới Trung Quốc là một miền ôn đới, có bốn mùa rõ rệt, mùa xuân đầm ấm, có nhiều ngày lất phất mưa, cũng có khi lạnh. Trong mùa này, cây cỏ mọc mạnh. Mùa hè nóng bức, có khi rất oi ả, khó chịu, nhưng cũng là mùa để thảo mộc sinh sôi nảy nở, thuận tiện cho nông nghiệp. Các bệnh dịch tả nhất là đối với con trẻ hay phát sinh trong vụ hè. Vào khoảng tháng sáu hay tháng bảy, thường có nước lớn do những trận mưa rào như trút nước từ các vùng thượng du về đồng bằng dễ sinh ra nạn nước lụt, xưa kia hay phá vỡ đê điều, gây nên nhiều sự thiệt hại về tài sản và tính mệnh cho dân chúng vùng Trung Châu. Cuộc chống chọi với nước lũ hằng năm đe dọa đê điều, đáng kể là một công cuộc vĩ đại của dân tộc Việt Nam trải qua bao nhiêu thế kỷ trong khi khoa học chưa được áp dụng. Đây là một cuộc chiến đấu giữa Người và Thiên Nhiên, có lẽ đã hun đúc cho dân tộc chúng ta cái đức tính kiên nhẫn và một tinh thần chiến đấu đáng kể. Trái lại vì lụt mà ruộng đất thêm mầu mỡ, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long. Mùa thu có những ngày nắng dịu nhưng về những ngày chót, đời sống của cỏ cây bắt đầu ngưng trệ cho đến mùa đông thì rõ rệt là mùa thu, nắng hanh thường hay phát sinh các bệnh lặt vặt và gió bấc lạnh thổi buốt kèm với mưa phùn, lại có những sự thay đổi thời tiết rất đột ngột, đang nóng đổi ngay ra lạnh. Từ cửa Hàn trở vào Nam Việt khí hậu hình như riêng biệt. Ở đây có rõ rệt hai mùa mưa, nắng, nhất là ở Nam Việt, nghĩa là có 6 tháng nắng. Trong một ngày có nhiều trận mưa rào đổ xuống trong chốc lát rồi trời lại nắng ráo như thường. Buổi tối thường có gió mát. Ở địa phương này vấn đề thực phẩm, khí hậu và nông nghiệp chịu ảnh hưởng của biển rất nhiều. Sống trên đất Việt Nam, ngoài dân tộc Việt Nam còn có nhiều giống khác nữa tại các vùng sơn cước mà người Việt ngày nay gọi là các đồng bào Thượng, vì trải qua bao nhiêu thế hệ đã cùng sinh sống với nhau tuy không trực tiếp nhiều, nhưng đã cùng chung lưng đấu cật những biến cố lớn lao của lịch sử và không hề có sự mâu thuẫn gì về quyền lợi tinh thần hay vật chất. Ở miền thượng du Bắc Việt có dân Thái, Thổ, Mường, Mán, Mèo, Nùng, Yao, Lô Lô Ở các miền rừng núi Trung Việt có giống Mọi và Chàm. Ở Nam Việt trong các vùng sơn lâm cũng có dân Mọi, Chàm, các thành thị có Chà Và, Hoa Kiều, cùng người Thổ
  20. 20 Việt Sử Toàn Thư nguồn gốc Cao Mên, lâu đời sinh sống ở đây vui vẻ êm ấm như người Việt và không bị một đố kỵ nào hết. Nhân dân Việt Nam ở Bắc Việt có vào khoảng 9 triệu người, Trung Việt có độ 6 triệu, Nam Việt có chừng 5 triệu, đó là con số ước lượng 30 năm về trước. Giờ đây có thể con số đó đã vượt quá rồi. Còn dân miền núi cũng tới trên dưới một triệu. 2- Người Việt Nam Người Việt Nam thuộc giống da vàng. Kẻ làm nghề lao động dầm mưa dãi nắng da ngăm ngăm đen. Người làm các nghề nhàn nhã ít ra ngoài trời thì da trắng mầu ngà. Về chiều cao, người Việt Nam phần nhiều tầm thước (không cao không thấp), nhỏ hơn người Tầu chút ít mặt phần nhiều xương xương, trán cao rộng, mắt đen và hơi xếch về phía bên, gò má cao, mũi hơi tẹt, môi hơi dầy, răng to thường khểnh, râu thưa, tóc đen và nhiều, cắt ngắn. Dáng đi lanh lẹ, vẻ mặt lanh lợi, thân hình mảnh dẻ nhưng cứng cát và vững chắc. Y phục của người đàn ông Việt Nam thường dài, rộng trong áo hẹp. Người lao động vận quần áo ngắn, ở nơi tỉnh thành dùng mầu trắng, chốn thôn quê dùng mầu nâu hoặc đen, đi ra ngoài thăm bè bạn, dự lễ nghi thường mặc thêm chiếc áo thâm dài quá gối. Ở chốn thôn quê thì thêm chiếc khăn đen hay quấn ngang đầu làm cho vẻ mặt thêm phần nghiêm trang. Ngày nay, ở các thành thị, những người tân tiến như các công chức, trí thức, sinh viên là những phần tử có tiếp xúc với văn hóa Tây phương thường vận Âu phục do lẽ thuận tiện và mỹ thuật. Phụ nữ Việt Nam ở các đô thị Bắc Việt và Trung Việt thường mặc quần trắng hay đen, nhưng áo dài thì thay đổi nhiều mầu, chít khăn đen, cuộn tròn ngang đầu. Ở thôn quê thì mặc váy, có yếm che ngực, lại cũng có nhiều người mặc quần như đàn bà thành thị. Ở Nam Việt, đàn bà ưa mặc quần đen, áo ngắn và búi tóc. Người đàn bà Việt Nam có nhiều đức tốt hơn là thói xấu. Phần lớn từ thành thị đến thôn quê, người đàn bà lo buôn bán, cầy cấy, biết tần tảo, chịu thương khó và rất hy sinh cho chồng con. Sự kiện tốt đẹp nầy là do ảnh hưởng của giáo lý Khổng Mạnh đã đi sâu vào đời sống tinh thần của dân tộc chúng ta từ ngót hai ngàn năm nay. Gần một thế kỷ trở về đây, Việt Nam lại xúc tiếp với Tây phương, phụ nữ Việt Nam hấp thụ văn hóa Âu Mỹ đã tỏ ra có nhiều khả năng trên trường học vấn và đã có những sự tranh đấu về quyền lợi gia đình, xã hội với nam giới. Bàn về các điều tốt xấu trong con người Việt Nam, ta thấy đồng bào ta thông minh, nhớ dai, có óc nghệ thuật, khéo tay chân, giàu trực giác hơn là luận lý, ưa điều đạo đức, ham chuộng văn chương. (Có người nói người Việt ta thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thiết tưởng không đúng, chẳng qua chúng ta trong mười thế kỷ mất độc lập, chịu ảnh hưởng văn hóa nô dịch nên không được hướng dẫn phải đường, phải lối mà thôi, chớ không phải là ta không biết trọng thực học). Chúng ta lại còn đức tính lễ phép và biết ơn, chuộng hòa bình và giàu óc hy sinh. Người lao động rất cần cù và nhẫn nại, có sức chịu đựng những việc nặng nhọc rất bền bỉ, nhất là các đồng bào miền Bắc.
  21. 21 Việt Sử Toàn Thư Người đi lính ra trận rất trọng kỷ luật và can đảm. Nói đến người lính đây tức là lớp nông dân của chúng ta trong vai trò tranh đấu cho Tự do và Độc lập của xứ sở từ bốn ngàn năm lập quốc đến giờ rất đáng phục. Tinh thần dân tộc được như vậy là nhờ ở hoàn cảnh kinh tế, địa lý, văn hóa và chính trị cấu tạo nên bởi: 1) Bắc giáp Trung Quốc, Nam giáp Chiêm Thành là hai gọng kìm ghê gớm, luôn luôn xiết chặt vào dân tộc chúng ta. 2) Rừng núi Bắc Việt hoang vu và nhiều thú dữ. 3) Đồng bằng Bắc Việt hay bị lụt lội và hạn hán. 4) Miền duyên hải Trung Việt hay nổi giông tố. 5) Vì hai vụ gió mùa đổi thay luân chuyển, khí hậu thường hay khô ráo và ẩm thấp. Đó là những yếu tố đã hun đúc cho chúng ta nhiều năng lực tranh đấu, sức chịu đựng với thiên nhiên và các cường bang ngoại địch. Chúng ta cũng có nhiều tính xấu như các dân tộc khác: Người dân trung lưu và hạ lưu hay nông nổi, háo danh, thích phô trương, mê cờ bạc, tin ma quỷ, sùng việc cúng bái, không nhiệt tín tôn giáo nào cả, ham kiện cáo, tinh vặt và quỷ quyệt. Tiếng nói của người Việt có thể cho là đồng nhất, mặc dầu có sự phân biệt Trung- Nam-Bắc, giọng nói hơi nặng nhẹ ở một vài nơi, nhưng người Việt đi đến đâu cũng hiểu nhau. Tính tình, phong tục, tôn giáo cũng không có gì khác biệt lắm từ Nam ra Bắc. Xã hội Việt Nam gồm 4 giai cấp: Sĩ, Nông, Công, Thương, cùng sống dưới chế độ phong kiến lâu đời, nhưng không có nhiều chia rẽ quá đáng như ở nhiều dân tộc khác. Tóm lại, Việt Nam, nếu đem so sánh với nhiều dân tộc khác thì rõ rệt có rất nhiều đức tính thuần nhất nhờ đó mà có đủ sức mạnh vật chất, tinh thần để giải quyết nhiều việc khó khăn nội ngoại, qua nhiều thế hệ. Tiếng nói của người Việt có thể cho là đồng nhất vì mặc dầu có sự phân chia Trung- Nam-Bắc, giọng nói có hơi nặng nhẹ ít nhiều, nhưng người Việt đi đến đâu cũng hiểu nhau. Tính tình, phong tục, tôn giáo cũng không có gì khác biệt từ Nam ra Bắc. Đây là sự trình bày đại khái về vị trí, tính tình, phong tục của người Việt Nam. Chúng tôi xin nghiên cứu kỹ lưỡng thành từng vấn đề ở những trang dưới đây tùy theo sự thuận tiện của việc biên khảo. 3- Gốc Tích Của Người Việt Nam Bàn về gốc tích dân tộc Việt Nam, những nhà làm sử của chúng ta và các học giả ngoại quốc thường không đồng ý kiến. Nguyên do dân tộc Việt Nam là một dân tộc rất cố cựu, ra đời trong khi khoa học, nhân chủng học, địa dư học và sử học chưa khai triển. Thêm vào đó, dân tộc Việt Nam từ bốn ngàn năm lập quốc, trải qua bao nhiêu
  22. 22 Việt Sử Toàn Thư cuộc biến chuyển của Lịch sử, sống một cuộc đời bất định từ lưu vực sông Nhị Hà, sông Mã cho tới ngày nay mới ngừng hẳn bên bờ biển Tiêm La. Nhiều nhà khảo cổ Pháp cho rằng người Việt Nam phát tích ở miền núi Tây Tạng cũng như người Thái, qua các triều đại di cư dần xuống Bắc Việt, lần xuống phía Đông Nam và lập ra nước Việt Nam ngày nay. Còn người Thái lần theo sông Cửu Long (Mêkong) tạo ra nước Tiêm La và Mên, Lào. Như vậy dân tộc Việt Nam là một trong nhiều dân tộc đã do các miền Tây Bắc Trung Hoa là nguồn gốc. Đồng thời, một vài dân tộc khác ở các quần đảo Đông Nam di cư lên như dân Mã Lai, dân Phù Nam, Chiêm Thành cũng tập hợp trên bán đảo Đông Dương. Có thuyết cho rằng người Việt thuộc giống Anh-đô-nê-diêng (Indonésien) bị giống A- ri-ăng (Aryens) đánh bạt ra khỏi Ấn Độ phải chạy qua bán đảo Hoa Ấn. Tới đây ta chia ra làm hai ngành, một ở lại bán đảo Hoa Ấn tiêu diệt đám thổ dân ở đây là người Mê- la-nê-diêng (Mélanésien), một thiên xuống Nam Dương quần đảo Ở mạn Bắc, ta hòa giống với người Mông Cổ, chịu ảnh hưởng văn minh Trung Quốc. Ở mạn Nam giống Anh-đô-nê-diêng hợp thành giống Cao Mên và Chiêm Thành, chịu văn hóa Ấn Độ. Ngay ngành ở mạn Bắc cũng chia ra hai chi phái: một sinh tụ ở Trung Châu sông Nhị Hà và các miền duyên hải, nhờ có đất cát phì nhiêu lại chịu nhiều cuộc biến chuyển lịch sử mà xúc tiếp được với văn hóa Trung Quốc nên tiến bộ mau lẹ. Còn chi phái kia lần lên các vùng cao nguyên, sống với rừng núi chịu ảnh hưởng của giống Thái ở lân cận tuy vẫn giữ được nền nếp cũ là các tổ chức và thể chế phong kiến. Các người Mường hiện cư trú tại Hòa Bình và Nghệ An ngày nay là di duệ của chi phái này. Ông Léonard Aurousseau, căn cứ vào sách Tàu, cho rằng người Việt Nam thuộc dòng dõi người nước Việt đời Xuân Thu tức là thuộc quyền Quốc vương Câu Tiễn thời đó (cuối thế kỷ thứ 6 trước Công Lịch), đóng kinh đô ở thành Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang ngày nay. Năm 333 trước Công Lịch), nước Sở đánh bại nước Việt, người Việt chạy lùi thêm xuống miền Nam chia ra làm phái: 1) Đông Âu hay là Việt Đông Hải thuộc miền Ôn Châu (phía Nam tỉnh Chiết Giang). 2) Mân Việt tụ tập tại Phúc Châu tức Phúc Kiến. 3) Nam Việt thuộc Quảng Đông và phía Bắc Quảng Tây. 4) Lạc Việt hay là Tây Âu Lạc ở phía Nam Quảng Tây. Và miền Bắc Việt của chúng ta bây giờ. Chúng ta thuộc thị tộc nào? Tác giả cuốn "Nguồn gốc dân tộc Việt Nam" như chúng tôi xét, cũng không đứng ngoài thuyết này. Giao Chỉ và Việt Thường Theo sự khảo cứu của ông Đào Duy Anh, ở đời thái cổ từ Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương trong lịch sử Trung Hoa, trong khi người Hán tộc đương quanh quẩn ở lưu vực sông Hoàng Hà và sông Vị Thủy thì ở miền Nam trong khoảng lưu vực sông Dương Tử, sông Hán và sông Hoài có những giống người văn hóa khác hẳn với văn hóa người
  23. 23 Việt Sử Toàn Thư phương Bắc. Trong thư tịch của người Trung Hoa, bọn người đó gọi là Man Di sống ở bên các bờ sông, bờ biển, các đầm hồ và trong các rừng hoang. Họ sinh hoạt bằng nghề chài lưới, săn bắn. Họ có tục đặc biệt là xâm mình và cắt tóc ngắn; để giải thích phong tục đó người ta nói rằng người Man Di hằng ngày lặn lội dưới sông, biển thường bị giống Giao Long làm hại nên xâm mình thành hình trạng Giao Long để Giao Long tưởng là vật cùng giống mà không giết hại. Từ đời Nghiêu Thuấn, một dân tộc khai hóa rất sớm là người Giao Chỉ đã giao thiệp với người Hán tộc. Đem đối chiếu những điều trong thư tịch thì Giao Chỉ ở về miền Hồ Nam ngày nay, gần hồ Động Đình và núi Nam Lĩnh. Người Hán tộc gọi nhóm Man Di đó là Giao Chỉ. Ban đầu người Giao Chỉ xâm mình để thành hình trạng Giao Long rồi dần dần chính họ phát sinh mối tin tưởng mình là đồng chủng của giống Giao Long. Quan niệm "Tô Tem" bắt nguồn từ chỗ này. Người Hán thấy họ có hình trạng Giao Long, thờ Giao Long làm tổ nên gọi nơi họ ở là Giao Chỉ tức là miền đất của giống người Giao Long. Một thuyết khác cho rằng người Giao Chỉ có tên này do hai ngón chân cái giao nhau. Theo hai Bác sĩ P. Huard và Bigot trong Bulletin de la Société Médico-chirurgicale de l'Indochine quyển XV, số 5 tháng 5, năm 1937 trang 489-506, dưới tiêu đề: "Les Giao Chỉ " thì việc người Giao Chỉ có hai ngón chân cái giao nhau không đáng coi là một điều đặc biệt, tức là nhiều dân tộc khác ở Á Đông cũng có hình tích này. Bộ Từ Nguyên (quyển Tí, trang 141) chép: Theo nghĩa cũ bảo hai ngón chân cái giao nhau là Giao Chỉ, nhưng xét đời cổ bên Hy Lạp có tiếng đối trụ, lân trụ để gọi loài người trên thế giới (đối trụ là phía Nam phía Bắc đối nhau, lân trụ là phía Đông phía Tây liền nhau). Sở dĩ có tên Giao Chỉ là hợp với nghĩa đối trụ vì dân tộc phương Bắc gọi dân tộc phương Nam đối nhau, không phải thực là chân người giao nhau. (Chữ Giao Chỉ chép ở Sử Tầu trước nhất vào đời Thần Nông). Ngoài nghề đánh cá là nghề căn bản, người Giao Chỉ ở nơi đầm lầy hay đất bồi đã biết trồng trọt và làm ruộng. Trong lúc này, ở khoảng giữa hồ Động Đình và hồ Phiên Dương từ đời Nghiêu Thuấn đã có giống người Tam Miêu biết nghề canh nông rồi; và người Giao Chỉ đã ở trên một phần đất của người tam Miêu. Căn cứ vào nghề đánh cá, nghề nông cùng chế độ vật tổ là đặc tính của xã hội thị tộc, người ta cho rằng người Giao Chỉ bấy giờ ít nhất cũng là ở cuối đời đá cũ và đầu đá mới (đá đẽo với đá mài) tuy chưa tìm được di tích sinh hoạt gì của họ ở dưới đất. Còn về thời Nghiêu Thuấn, những đồ làm ruộng toàn bằng đá cả, xét vào các di vật đào được ở Ngưỡng Thiều tỉnh Hà Nam và ở lưu vực sông Hoàng Hà. Họ làm nhà bằng cây, bằng tre hay nứa, có lẽ như nhà sàn của người thượng du ngày nay, trên các đầm hồ hay khe núi. (Theo thiên Vũ Cống ở miền đất châu Kinh có nhiều tre). Sách xưa chép ở phía Nam đất Giao Chỉ, cuối đời Chu nước Việt Thường đã có phen thông sứ với Chu Thành vương và có cống một con bạch trĩ. Nước Việt Thường xuất hiện có lẽ đã lâu lắm từ đầu đời nhà Chu ở trên địa bàn cũ của nước Tam Miêu (ở giữa hồ Động Đình và hồ Phiên Dương), trung tâm điểm của nước ấy là xứ Việt Chương. Vua
  24. 24 Việt Sử Toàn Thư Sở Hùng Cừ (thế kỷ thứ 9) phong cho con út là Chấp Tỳ ở đây. Nước Việt Thường bắt đầu suy từ khi có Sở thành lập ở miền Hồ Nam, Hồ Bắc sau những cuộc lấn đất về phía Tây (của Việt Thường qua đến đời Hùng Cừ đất Việt Chương ở miền hồ Phiên Dương thời hết). Người Việt Thường cũng sinh hoạt bằng nghề đánh cá như người Giao Chỉ, có lẽ cũng có tục xâm mình nhưng họ thông thạo nghề nông hơn. Theo thiên Vũ Cống thì miền châu Kinh và châu Dương có những sản vật như vàng, bạc, gỗ quý để làm nhà, các thứ trúc để làm nỏ, lông chim, da bò, ngà voi, da tê ngưu, vải gai v v Dân Việt Thường còn biết chế đồ đồng đỏ. Trình độ kỹ thuật đã tới trình độ đá mới. Họ cũng sống theo chế độ thị tộc và cũng có tín ngưỡng "Tô Tem" như người Giao Chỉ. Mối quan hệ giữa người Giao Chỉ và Việt Thường thế nào đến nay vẫn chưa được rõ rệt chỉ biết rằng khi Việt Thường xuất hiện thì tên Giao Chỉ không còn nữa. Và địa bàn ức đoán của Việt Thường choán một phần Đông Nam của Địa bàn ức đoán của người Giao Chỉ. Ngoài ra Việt Thường với Giao Chỉ đều là người Man Di thuộc về Việt tộc là giống người đã sinh tụ ở khắp lưu vực sông Dương Tử, từ miền Vạn Huyện (đời Chu là nước Quí Việt) tỉnh Tứ Xuyên ra tới biển, nghĩa là suốt châu Kinh, châu Dương trong Vũ Cống. Cứ những điều chúng ta biết về đặc tính văn hóa thì Việt tộc vào thời đó có lẽ không thuộc ảnh hưởng chủng tộc Mông Gô Lích một phần nào như người Hán, tuy chưa thể nói thấy tục xâm mình là tục đặc biệt của các dân tộc thuộc giống Anh-đô-nê-diêng ở miền Nam và Tây Nam Á Châu, (từ người Miêu Tử, Lô Lô, Mán, Lái, Lê, Dao, Xa, Đản, Đông cho đến người Dayak ở đảo Bornéo đều là di duệ của người Man Di). Đám người này, theo các nhà nhân chủng học chia ra hai giống Tạng Miến (Tibéto-birman) và Anh- đô nê-diêng. Nhưng họ không khác biệt nhau mấy, ngay cả về đặc tính kỹ thuật. Theo các nhà bác học Leroy, Gourhan về nhân loại học, người Anh-đô-nê-diêng và giống Tạng Miến gần nhau quá, nếu có khác nhau thì sự khác biệt đó cũng hết sức mỏng manh, có lẽ vì sự pha trộn tức là sự lai giống. Hai đám dân tộc này phải chăng đã sống gần gũi nhau nên có sự trạng này hay là đã cùng thoát thai ở một gốc? Và chúng tôi nghĩ rằng cái gốc người ta đề cập đó có lẽ là Việt tộc. Các nhà tiền sử học và ngôn ngữ học phát biểu rằng suốt từ miền A-Xam ở phía Bắc Ấn Độ trải qua Nam Bộ Trung Hoa xuống tới Nam Dương quần đảo có một thứ văn hóa hiện nay còn di tích trong các dân tộc Anh-đô-nê-diêng. Chúng ta có thể ngờ rằng người Việt tộc xưa có lẽ là một nhánh của chủng tộc Anh-đô-nê-diêng. Chủng tộc này trong thời thái cổ đã có mặt hầu khắp miền Đông Nam Á Châu. Bách Việt Căn cứ vào các sử sách của Tàu trong đời nhà Chu, ta thấy Bách Việt có mặt ở lưu vực sông Dương Tử rồi sau này tản mác khắp miền Nam bộ Trung Hoa. Nói là Bách Việt, người ta căn cứ vào thuyết truyền kỳ về Lạc Long Quân kết duyên cùng Bà Âu Cơ sinh ra trăm con trai. Sự thực, về thời thượng cổ giống Bách Việt có nhiều nhóm, nhiều bộ lạc sinh sống rời rạc như các dân tộc thiểu số ngày nay tại miền Thượng du. Đến đời nhà Chu, các bộ lạc này đi dần đến chỗ thống nhất do những biến thiên của Lịch sử,
  25. 25 Việt Sử Toàn Thư các bộ lạc nhỏ dần bị các bộ lạc lớn kiêm tính và họp lại thành năm nhóm lớn sau đây đã đạt đến hình thức quốc gia là: Đông Việt hay Đông Âu, Mân Việt, Nam Việt, Tây Việt hay Tây Âu và Lạc Việt. Sau này ba nhóm trên bị đồng hóa theo Hán tộc, còn lại trên lịch sử đến ngày nay là nhóm Tây Âu và Lạc Việt. Vào thế kỷ thứ 9, một số thị tộc người Việt ở Chiết Giang có lẽ có quan hệ với những phần tử Việt tộc ở Nam bộ Trung Hoa và đối với Lịch sử của chúng ta là người Việt Nam ngày nay nữa. Họ lập thành nước Việt do một nhà quý tộc họ Mị thuộc về thị tộc Mị cùng họ với vua nước Sở. Buổi đầu tiên trên bốn thế kỷ trước đời Câu Tiễn, nước Việt chỉ là một nước phụ dung của nước Ngô, một nước lớn ở lưu vực sông Giang và sông Hoài. Cuối thế kỷ thứ 6 vua nước Ngô là Hạp Lư giận vua nước Việt là Doãn Thường không theo mình đi đánh nước Sở nên đem binh đánh nước Việt, thắng Doãn Thường ở Tuy Lý (phủ Gia Hưng). Doãn Thường chết, con là Câu Tiễn đem quân quyết tử trả thù giết được Hạp Lư. Cháu Hạp Lư là Phù Sai, cũng trả thù cho ông, diệt được nước Việt. Sau này Câu Tiễn nhờ được bề tôi giỏi là Văn Chủng và Phạm Lãi khôi phục được nước Việt, phá được Ngô, xưng bá miền Giang Hoài (năm 402). Ngôi bá chủ này, con cháu Câu Tiễn còn giữ được ba đời nữa, đến đời thứ 4 thì thất bại ở Giang Đông. Bốn mươi tám năm sau đời Câu Tiễn thì nước Việt suy. Bốn mươi sáu năm sau nữa, nước Việt bị Sở thôn tính. Trong lịch sử 600 năm của nước Việt, Câu Tiễn đã là người anh hùng làm nước Việt nhỏ bé bán khai ở miền Giang Nam nổi lên thành một nước mạnh tung hoành non một thế kỷ ở một phương, mở rộng cương vực choán một phần lớn tỉnh Chiết Giang về phía Nam, và một phần lớn tỉnh Giang Tây về phía Bắc, tuy miền Giang Tây chỉ là phạm vi thế lực. Trạng thái sinh hoạt vật chất của nước Việt đại khái như sau đây: cũng như người nước Ngô, người Việt vẫn sinh nhai bằng nghề đánh cá là nghề chính. Nông nghiệp của họ chưa phát đạt vì đất xấu, kỹ thuật canh tác còn thô sơ, lại chưa biết dùng cầy bừa và trâu bò. Có lẽ người Việt chỉ trồng được lúa nếp ở trên các khoảng đất cao và ăn trọng yếu là tôm cá, sò hến. Về y phục, người Việt dệt bằng sợi gai hay đay, và biết dệt vải hoa như người Mường, Thổ là một thứ sản phẩm rất được người Hán ham chuộng. Người Việt biết pha đồng và thiếc để làm binh khí. Người ta đào được ở Chiết Giang những đồ đồng như đinh ba chân, đao, thương, dao găm, mũi giáo, chuông nhỏ, chuông lớn, nhất là thứ kiếm đồng hai lưỡi là vật quý báu ở đời Xuân Thu. Họ sinh hoạt dưới nước nhiều hơn là ở trên cạn nên bơi lội rất giỏi, biết làm các thứ thuyền nhỏ là Linh và thứ thuyền nhỏ dài là Đĩnh, thuyền lớn gọi là Tụ lự, thuyền có lầu tức là Lâu thuyền và thứ thuyền có gắn mũi qua tức là Qua thuyền. Ba thứ thuyền sau là thuyền chiến. Các sách chép: người Việt rất sở trường về thủy chiến (Điều này làm ta nhận thấy dân tộc Việt Nam quả có tài chiến đấu đặc biệt về mặt thủy trong các cuộc xung đột với Trung quốc từ 20 thế kỷ nay). Về kiến trúc, hình như họ ở nhà sàn bằng tre và gỗ, tuy họ biết xây mộ và thành bằng đá và gạch. Việt Tuyệt Thư chép: nước Việt có rất nhiều thành và lăng mộ, còn di tích đến đời Hậu Hán.
  26. 26 Việt Sử Toàn Thư Về văn hóa, tinh thần của người Việt chúng ta chưa được nhiều tài liệu để xét đoán, về ngôn ngữ chẳng hạn. Ta chỉ biết rằng tiếng nói của người Việt khác với tiếng nói của người Hán nhiều, thường một tiếng Việt phải phiên âm bằng hai ba tiếng Hán. Về phong tục thì có tục xâm mình, cắt tóc là đặc tục của toàn thể Việt tộc. Họ còn tục khắc cánh tay để ăn thề, khác với tục xâm mình có ý nghĩa "Tô Tem" . Họ thờ quỷ thần, tin điều họa phúc, chuộng phù pháp, thờ người chết rất thành kính. Các nhà quý tộc xây mộ bằng đá và bằng gạch lớn, bỏ đồ binh khí bằng đá, đất hay đồng, vào áo quan để người chết có các thức dùng. Xét các đồ đồng và đồ gốm khai quật được ở Chiết Giang, các nhà khảo cổ buộc các nghệ thuật của các đồ ấy vào một nghệ thuật lớn gọi là nghệ thuật Đông Sơn, có nhiều đặc điểm tương tự với nghệ thuật đời chiến quốc ở miền sông Hoài. Những đặc điểm ấy là hình trôn ốc cập đôi và hình giây bện. Ông Đào Duy Anh cho rằng nghệ thuật ấy chính ở miền Ngô Việt lúc thịnh thời đã có rồi. Sau đó sự xúc tiếp với người Hán ở miền Bắc, nghệ thuật đó có ảnh hưởng đến nghệ thuật Chu Mạt hay Chiến Quốc và do sự di cư của Việt Tộc xuống miền Nam thành nghệ thuật Đông Sơn. Về tính tình, người Hán cho người Man Di (Việt) có tính khinh bạc, hiếu chiến, sắc sảo về việc binh, không sợ chết. Việt Tuyệt Thư viết: Họ ở núi mà đi đường thủy lấy thuyền làm xe, lấy chèo làm ngựa, đến thì như gió thoảng, đi thì khó đuổi theo. Sử ký chép: Vì dễ kiếm ăn, họ không lo xa, dành dụm, bon chen. Tóm lại người Hán có ý ghê sợ tinh thần quật cường của Việt tộc, luôn luôn chống trả kịch liệt các cuộc xâm lăng của họ, ngoài ra người Việt lại thường hoài vọng phát triển về miền Bắc nữa. Đáng chú ý là cái tinh thần bất úy tử của người Việt mà Câu Tiễn trong khi đánh Ngô, đã có dịp phô trương. (Câu Tiễn sai quân đến trước quân Ngô khiêu chiến, la ó om sòm, rồi tự cắt cổ mà chết. Giữa khi quân Ngô ngạc nhiên ngắm cái trò tự sát này, thì quân chủ lực của Việt ập đến). Về chính trị, nước Việt dưới đời Câu Tiễn đã vượt qua chế độ bộ lạc và thành một quốc gia theo chế độ quân chủ phong kiến. Sau khi đánh được Ngô thì Việt vẫn xưng thần với nhà Chu. Sau một trăm năm cường thịnh, nước Việt lại suy vi. Bao nhiêu chế độ kinh tế, chính trị phỏng theo người Hán lại xụp đổ và người Việt lại trở về chế độ bộ lạc, một phần phiêu lưu về miền Lĩnh Nam, một phần bị đồng hóa với người Hán tộc. Các nhóm khác là Đông Việt, Mân Việt và Nam Việt là thế nào, ngoài Ư Việt hay Vu Việt mà di chủng hiện còn lưu trên lịch sử là dân tộc Việt Nam do những quan hệ xa gần? Các nhóm này có từ bao giờ, chưa sử gia nào có thể trả lời một cách thỏa đáng, chỉ biết rằng họ đã có mặt ở các miền Nam bộ Trung Quốc đã lâu đời, trước khi nhà Tần đem quân vượt núi Ngũ Lĩnh xuống chinh phục họ. Bấy giờ họ đã thành các quốc gia tuy tổ chức về mọi phương diện chưa được quy củ lắm. Đây số phận của họ từ triều đại nhà Tần qua triều đại nhà Đông Hán! Năm 218, năm đạo quân Tần gồm những người lưu vong, những rể thừa và lái buôn mở cuộc Nam chinh. Đạo quân thứ năm ngừng lại trên sông Dư Can trong tỉnh Quảng Tây ở phía Nam hồ Phiên Dương phụ trách việc đánh Đông Việt và Mân Việt khi đó còn là những quốc gia mới chớm nở. Hai nhóm này xưa kia thần phục Sở. Sau Trung Quốc rối loạn, họ nhân đó mà giành lấy độc lập.
  27. 27 Việt Sử Toàn Thư Đông Việt bấy giờ đóng ở trung tâm điểm miền Vĩnh Gia, thuộc Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang về phía Nam Tâm Môn Loan. Mân Việt ở trung tâm điểm Mân Huyện, thuộc Phúc Châu trong địa hạt Phúc Kiến ngày nay. Thế quân Tần bấy giờ đang mạnh, việc bình định được Trung Nguyên với cái kết quả rực rỡ huy hoàng của nó khiến hai nhóm Đồng Việt và Mân Việt khiếp sợ, nhờ vậy mà quân Tần thắng nhanh chóng, dễ dàng ngay trong năm đầu. Việc chinh phục xong, Tần hợp hai nước lại làm một, đặt thành quận Mân Trung. Quốc Vương bản xứ hạ xuống làm quân trưởng (tù trưởng) để cai trị dân như cũ. Đến ít năm sau Tần suy biến, Đông Việt và Mân Việt theo chư hầu đánh Tần rồi lại giúp Hán đánh Sở. Hán Cao Đế năm thứ 5 (202) thưởng công cho tù trưởng Mân Việt là Vô Chu bằng tước Mân Việt vương. Đến Huệ Đế năm thứ 3 (192) chi lại đất Mân Trung cũ mà đặt thêm nước Đông Hải và cũng để đền đáp cho tù trưởng Đông Việt là Dao, Hán phong cho tước Đông Hải vương, đóng đô ở miền Vĩnh Gia. Sau này Mân Việt và Đông Việt xung đột với nhau đã là cơ hội rất tốt cho sự kiêm tính của nhà Hán. Buổi đầu hai nước nầy thần phục nhà Hán nhưng vẫn nuôi hoài vọng tiến về phương Bắc nếu có dịp thuận tiện cho nên cả hai đã phụ lực cho Ngô Vương Tỵ và Hoài Nam vương trong việc phản Hán. Nhà Hán e ngại Mân Việt hơn hết. Rồi Hán dụ được Đông Việt giết Tỵ mà quay về với mình. Con Tỵ là Tu Câu xin Mân Việt đánh Đông Việt năm thứ ba đời Vũ Đế (138). Đông Việt thế nguy cầu cứu Hán nhưng khi tướng Hán là Nghiêm Trợ xuất binh thì quân Mân Việt đã rút lui về Nam, vì trong nước có loạn; Nghiêm Trợ đến Đông Âu lấy danh nghĩa cứu nạn đói liền dời một phần đông dân Đông Âu về Giang Hoài có ý rút bớt thực lực của Đông Âu để tránh hậu họa sau nầy. Có lẽ một phần dân Đông Âu đã chống lại chính sách này nên theo vua di chuyển xuống miền Nam gần Tuyên Sơn tỉnh Phúc Kiến. Năm thứ 6 hiệu Kiến Nguyên (135), Mân việt đem quân đánh Nam Việt. Nam Việt cũng cầu cứu nhà Hán Vương Khôi được Hán Đế cử đi đánh Mân Việt cùng Hàn An Quốc một do đường Dự Chương, một do đường Cối Kê, nhưng chưa tới cõi Mân thì Mân Việt vì nội loạn phải xin hàng. Nam Việt Nhóm Nam Việt cũng như Mân Việt và Đông Việt là một trong nhiều nhóm Việt tộc. Nó mang tên Nam Việt có lẽ tự khi nó có mặt ở miền Nam bộ Trung Hoa cùng thời với các nhóm trên đây, rồi sau này dưới đời Tần, Triệu Đà chinh phục được nhóm Nam Việt và Âu Lạc lập thành một đế quốc ở miền Đông Nam Á Châu và tự xưng Đế. Chính đạo quân thứ tư trong năm đạo quân Tần đã ở phía Nam Dự Chương do đường Đại Du (nay là đèo Mai Lĩnh) tiến vào Quảng Đông là lĩnh thổ của nhóm Nam Việt? Có lẽ đạo quân thứ 5 sau khi chiếm được Đông Việt và Mân Việt đã theo đường bể do đèo Yết Dương tấn công vào Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay). Đạo thứ nhất, thứ nhì, thứ ba tiến vào phía Bắc Quảng Tây và Tây Bắc Quảng Đông không gặp sức kháng chiến nào đáng kể. Nhưng ít lâu sau họ bị người Tây Âu chống trả kịch liệt ở miền Quảng Tây, vì vấn đề tiếp tế khó khăn do đường xá xa xôi, vì do khí hậu quá độc nên luôn trong ba năm đoàn quân viễn chinh của nhà Tần bị khốn đốn và hao mòn vô kể. (Xin coi việc kháng
  28. 28 Việt Sử Toàn Thư chiến của Tây Âu ở đoạn dưới đây). Bị ngừng lại, nhà Tần thiết lập bộ máy cai trị ở các nơi đã chiếm được như ở Đông Việt và Mân Việt Quảng Đông và Quảng Tây thành ra ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Năm 214 việc đặt Quận, huyện thành tựu, nhà Tần cử Nhâm Ngao làm Đô Úy quận Nam Hải và Triệu Đà làm Huyện Lệnh Long Xuyên (Huyện thuộc Quận). Đến khi Trung Quốc có loạn, chư hầu nổi lên đánh đổ nhà Tần, nhà Hán ra đời thì Triệu Đà xưng Đế ở Nam Việt, chiếm địa phương này làm của riêng trong một giai đoạn nhưng sau cũng thần phục nhà Hán. Sau này Triệu Đà chết đi, các con cháu kế nghiệp bất tài, nhà Hán liền chiếm hẳn Nam Việt. Âu Lạc bấy giờ nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Nam Việt cũng nhào theo. Rồi Nam Việt cũng bị chia làm quận huyện. Tuy dân Nam Việt không bị cưỡng bức di cư như Đông Việt và Mân Việt để đồng hóa với Hán tộc, nhưng từ đời nhà Tần họ ăn chung ở lộn với mấy vạn quân Nam chinh và một vạn năm ngàn phụ nữ Hán mà Triệu Đà được nhà Tần cấp cho để giữ việc may vá cho quân lính nên ngay từ thời Nam Việt còn thịnh đạt đã có sự pha trộn giữa hai dân tộc Hán Việt Một điều đáng chú ý là sau khi nước Việt bị diệt, nhiều nhóm tàn dân U Việt đã chạy xuống các miền Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến tụ họp với những người đồng tộc là Mân Việt và Đông Âu Đã di cư từ trước. Họ có trình độ văn hóa cao nên khi hợp với các thị tộc chiếm đóng miền Nam trước họ thì họ đem đến đó một hình thức chính trị kinh tế cao hơn. Những nhà quý tộc của họ họp thành những bộ lạc lớn mà tự xưng vương. Ngay từ khi họ còn sinh tụ tại miền Chiết Giang cho tới lúc họ tản mác dần xuống miền Đông Nam Trung Quốc. Để có một nhận định rõ rệt về mối liên hệ giữa người Việt Nam chúng ta ngày nay và các nhóm đồng tộc trên đây, chúng tôi xin trình bầy các đặc tính văn hóa của người Bách Việt sau khi đã nói về U Việt cũng cùng về một vấn đề. Căn cứ vào những tài liệu rải rác ở các cổ sử như Sử ký. Hán Thư và nhất là tác phẩm của Hoài Nam vương Lưu An là người Hán sơ sinh trưởng ở miền tiếp cận của Bách Việt thì biết rằng người Việt xưa kia sống một cách rất đơn giản. Họ không có thành quách, thôn ấp. Họ ở trong các vùng rừng núi, bờ lau, khe suối. Họ rất thạo thủy chiến, rất quen dùng thuyền, ở trên cạn ít mà ở dưới nước nhiều. Họ cắt tóc, xâm mình, đóng khố ngắn để tiện bơi lội, tay áo cộc để tiện chèo thuyền. Ở đảo Hải Nam cũng là nơi thuộc địa bàn của người Bách Việt, theo sách Hán Thư đàn ông cầy ruộng trồng lúa nếp, lúa tẻ, đay và gai. Đàn bà trồng dâu nuôi tầm. Có lẽ ở miền đồng bằng trong lưu vực sông Tây Giang miền Quảng Đông và Quảng Tây người Bách Việt cũng làm ruộng theo kỹ thuật thô sơ như dân Hải Nam vậy. Người Bách Việt đã biết nuôi gia súc như bò, dê, lợn, gà, chó. Họ có các sản vật quý giá như: sừng tê, ngà voi, đồi mồi, trân châu, ngọc đỏ, bạc, đồng, trái cây (quả nhãn, quả vải) vải gai. Hẳn họ cũng biết kỹ thuật đồ đồng như người Ngô Việt nhưng chắc không tinh bằng dân Ngô Việt. Họ ít giao thông bằng đường bộ nên không dùng ngựa. Họ không giỏi thương mại nhưng vì có nhiều sản phẩm nên hay giao dịch với người Trung Quốc tại Quảng Đông, Hợp Phố, Tư Văn và Phiên Ngung một thời đã trở nên nơi đô hội lớn.
  29. 29 Việt Sử Toàn Thư Về kiến trúc họ chưa có gì đáng kể vì chỉ ở nhà sàn, nhà gác bằng tre và gỗ, vì ngay như thành trì để phòng ngừa quân địch họ cũng không có như người nước Việt trong thời cường thịnh. Họ chỉ nhờ thế rừng núi hiểm trở để tự vệ thôi. Về văn hóa tinh thần, họ cũng không khác người nước Việt mấy và người Hán cũng cho họ là khinh bạc và hiếu chiến. Họ vẫn còn sống theo chế độ thị tộc. Có lẽ riêng nhóm Đông Âu và Mân Việt đã tiến bộ hơn và đã tiến qua chế độ gia tộc. Về chính trị có lẽ họ ở giữa chế độ bộ lạc và phong kiến. Lạc Việt và Tây Âu Theo tác giả "Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam" tổ tiên trực tiếp của dân tộc Việt Nam là nhóm Lạc Việt sinh tụ ở miền Trung Châu Bắc Việt và miền Bắc Trung Việt, nhưng nói một cách chuẩn đích rằng nhóm này đến chiếm đóng ở đây từ bao giờ thì chúng ta chưa có câu trả lời dứt khoát, chỉ biết khi Triệu Đà cát cứ ở huyện Long Xuyên thuộc Nam Hải (Quảng Đông) thì người Lạc Việt đã có mặt ở lưu vực sông Nhị Hà rồi. Ở đây họ đã tổ chức thành quốc gia tuy chưa ra khỏi tình trạng bán khai, và ngự trị quốc gia Lạc Việt bấy giờ là họ Hồng Bàng. Căn cứ vào Từ Quảng (do Sử Ký Sách Án Dẫn) người Mân Việt ở Phúc Kiến đều họ Lạc cả khiến ta ngờ rằng người Lạc Việt ở Việt Nam bây giờ với Lạc Việt ở Phúc Kiến có mối liên hệ với nhau. Về Nhân loại học, ông Cl. Madrolle trong bài Le Tonkin ancian B.E.F.E.A. XXXVII đã phát biểu ý kiến này rồi ức đoán ở Phúc Kiến có một nhóm Việt tộc làm nghề chài lưới, hàng hải đã dùng thuyền gỗ hay mảng tre có buồm, hằng năm theo gió mùa, nhân gió bấc phiêu lưu theo dọc miền duyên hải rồi ghé vào miền Trung Châu sông Nhị, sông Mã (Việt Nam). Nhóm này cũng đã có phen vượt biển xuống cả Nam Dương, rồi lại nhân tiết gió nồm quay về căn cứ. Có thể một số đã ở lại Bắc Việt để sinh sống, vì ở đây đất cát có nhiều mầu mỡ, cho tới khi dân Việt tại miền Đông Nam Trung Quốc bị Sở diệt liền kéo cả toàn thể bộ lạc xuống Bắc Việt. Hán Từ Quảng đã căn cứ vào một số người họ Lạc còn sót lại ở đất Phúc Kiến nên nói rằng người Mân Việt họ Lạc. Tại sao có cái tên Lạc Việt? Ông Đào Duy Anh cho rằng nhóm Lạc Việt ấy đã thường tự sánh mình với một giống chim hậu điểu cứ đến mùa gió bấc lạnh lẽo cũng rời bờ biển Giang Nam với họ và tiến xuống miền Nam, đến khi mùa nóng trở về thì chim và người cùng quay lại chốn cũ. Dần dần trong tâm lý của họ phát sinh ra quan niệm tô tem (giống chim Lạc là một giống chim hậu điểu về loại ngỗng trời). Họ nhận giống chim Lạc là vật tổ rồi lấy tên của giống chim này đặt cho thị tộc của mình. Rồi họ mang lông chim Lạc ở đầu và ở mình, lại trang sức thuyền của họ thành hình vật tổ, hoặc đeo khắp nơi trong thuyền những huy hiệu vật tổ cốt để cầu một sự hộ vệ của vật tổ trong khi lăn lóc giữa sóng gió bể khơi. Ngày nay người ta thấy trên mặt trống đồng Ngọc Lư có chạm các hình ảnh này. Các nhà khảo cổ Pháp như Goloubew và Finot cho rằng sự kiện này do ý nghĩa "tô tem". Đây chỉ là một sự ức đoán căn cứ vào các di tích mà các nhà khảo cổ đã tìm thấy.
  30. 30 Việt Sử Toàn Thư Lân cận với nhóm Lạc Việt là nhóm Tây Việt hay Tây Âu ở mé Đông Nam tỉnh Quảng Tây đã nằm trong chương trình chinh phục Bách Việt của nhà Tần, trong khi quân Tần sẻ sông ngòi để chuyển vận binh lương xuống các vùng Quế Lâm, Nam Hải, Tần diệt được Đông Âu và Mân Việt nhưng đã vấp phải sức kháng chiến của nhóm Tây Âu mặc dầu hạ được tù trưởng là Địch Hu Tống. Sau này một mặt quân Tây Âu rút vào rừng sâu, một mặt, cứ đêm lại tiến ra đánh du kích giết được Đồ Thư là quan Úy nhà Tần và làm hao mòn mấy chục vạn quân của Tần nữa. Cứ lời Lưu An, sau sự thất bại đau đớn trên đây quân Tần rút về miền Bắc chiếm đóng ở phía Bắc sông Ly. Ảnh hưởng của Đế quốc Tần bấy giờ mới choán được địa quận Quế Lâm tức Uất Lâm bây giờ và miền Nam Hải (tức là Quảng Đông và Quảng Tây) mà thôi. Ngày nay người ta ngờ rằng người kế tiếp tù trưởng hay thái tử chết ở núi Bạch Lộc là một người con thứ của vua Thục mà sử chép là Thục Phán (An Dương vương) đã có công chống Tần trên đây sau khi nước Thục (ở Tứ Xuyên) bị Tần diệt được (Sử ký chép việc ấy vào năm thứ 5 đời Chu Thành vương tức năm 316); khi dư đảng chạy về phía Nam Lãnh náu mình ở đất Diên Trì là đất của nước Sở cừu địch của Tần mới chiếm được. Rồi Phán cảm thấy đất dung thân chật hẹp nghèo nàn, nên chiếm đất Tây Âu và Lạc Việt, theo lối con đường xe lửa Điền Việt ngày nay, qua Khúc Tịnh, Mộng Tự rồi theo sông Hồng Hà chiếm Lạc Việt hợp Tây Âu và Lạc Việt vào làm một thành ra Âu Lạc sau này, lấy Cổ Loa làm kinh đô, tự xưng hiệu là An Dương vương (Có lẽ muốn nhớ lại tên cố hương là Hoa Dương, tên miền đất Thục ở Tứ Xuyên). Việc Thục Phán vào đất Việt có lẽ xẩy ra trước khi quân Tần đánh Tây Âu. Lúc này Tây Âu đã thuộc về Thục Phán. Đến ngày nay, căn cứ vào thuyết của L. Aurousseau và tài liệu của Đào Duy Anh người ta gần như có thể quyết định rằng người Việt Nam bây giờ tức là người Lạc Việt thuở xưa sinh tụ ở miền Nam bộ Trung Quốc, sau này trôi rạt xuống lưu vực sông Nhị Hà. Các nhà khảo cổ gần đây đào sâu các tầng đất thấy hài cốt người Anh-đô-nê-diêng, Mê-la-nê-diêng ở dưới, còn hài cốt người Lạc Việt hay Giao Chỉ ở trên nên cho rằng người Lạc việt đến lập cơ sở ở Bắc Việt chưa lâu lắm. Lấy gì căn cứ để nói rằng chúng ta là một trong đám Bách Việt và các nhà sử học và cổ học đã dẫn chứng bằng những hình dáng, tính tình, phong tục và các đặc tính văn hóa của người Việt là những tiêu chuẩn vững chắc nhất xưa nay về nhân chủng học, để ấn định nguồn gốc và giòng giống của một dân tộc. Thuyết nói rằng người Việt chúng ta đến miền Trung Châu sông Nhị và sông Mã chưa lâu lắm có thể đúng vì trên khu vực này giống người Anh-đô-nê-diêng đã đến trước chúng ta. Họ do bán đảo Ấn Độ di cư tới và chiếm đóng những miền đồi núi giáp Trung Châu Bắc Việt (Phó Bình Gia và làng Cườm ở Bắc Sơn. Hòa Bình, Chợ Gành) và miền Bắc Trung Việt (Đa Bút ở Thanh Hóa, Cầu Giát ở Nghệ An). Nhà bác học Sylvain Lévy lấy kỹ thuật đồ đá trau tìm thấy ở suốt bán đảo Hoa Ấn mà cho rằng những thứ này đã do người Anh-đô-nê-diêng đưa tới. Nhiều nơi còn có những đống vỏ sò, vỏ điệp được coi là di tích sinh hoạt của người Anh-đô-nê-diêng có lẽ đã sống về nghề chài lưới ở ven sông và bên bờ biển. Người Lạc Việt mà chúng tôi đoán cũng là giống Anh-đô-nê-
  31. 31 Việt Sử Toàn Thư diêng làm nghề chài lưới đã tiếp xúc với người Thổ Trước miền Bắc Việt Nam cùng phương thức sinh hoạt tương tự rồi dần dần đồng hóa họ. Một phần của đám người Thổ Trước vì sự phát triển quá mạnh của người Lạc Việt đã bị dồn lên đồi núi, còn để lại ngày nay những di tích như hài cốt và các đồ dùng trong đời sống hằng ngày của họ, đã do các nhà địa chất học khai quật lên được. Khi còn ở Phúc Kiến, người Lạc Việt đã tiếp xúc với người Hán tộc thuộc giống Mông-gô-lích từ lâu, lại tới khi qua Âu Lạc pha máu với người Anh-đô-nê-diêng là giống chiếm cứ địa bàn ấy từ xưa, cho nên ta có thể nói rằng người Lạc Việt là một giống tạp chủng gồm nhiều yếu tố Anh-đô-nê-diêng và một phần nào yếu tố Mông-gô-lích. Nữ sĩ Colani tìm được trong một cái hầm mộ làng Cườm (Bắc Sơn một cái đầu lâu gồm cả tính chất Anh-đô-nê-diêng và Mông-gô- lích. Có lẽ là đầu của một người Lạc Việt nào lạc lõng vào trong đám Anh-đô-nê-diêng bị dồn lên miền sơn cước. Truy cứu theo đặc tính sinh lý, ở nơi chúng ta, người ta cho rằng có sự pha máu giữa giống Anh-đô-nê-diêng với giống Mông Cổ, nếu xét tầm vóc người Việt Nam cao độ 1 thước 58, chân tay khẳng khiu, cái sọ tròn (chỉ xuất 82,8), môi hơi dầy, miệng hơi vẩu, mặt dẹt và hơi tròn, mắt có mí và hơi xếch, gò má cao, râu thưa và cứng, da ngăm ngăm, ta không thể không nhận đấy là đặc tính sinh lý của người Mông Cổ. Sự pha trộn này đã tạo thành con người Việt Nam có thể coi là một thực tế, nhưng qua các biến chuyển của lịch sử và do ảnh hưởng của thời tiết, thổ ngơi, con người Việt Nam cũng chịu nhiều sự thay đổi và có nhiều sắc thái khác để trở nên riêng biệt Đến Bắc Việt sau khi đã làm chủ nhân sông lưu vực sông Nhị và sông Mã, hẳn người Lạc Việt vẫn tiếp tục nghề chài lưới nhưng có lẽ chỉ một phần nào sống gần biển, ngoài ra dân Lạc Việt đã theo sinh hoạt định cư và lấy nghề nông làm căn bản do đó sách Quảng Châu Ký chép về Giao Chỉ nói: vua là Lạc vương, dân là Lạc dân, ruộng là Lạc điền và Lạc dân đã biết dùng nước thủy triều lên xuống để làm ruộng. Theo sách Hậu Hán Thư khi Lạc Việt đã thuộc về Hán mà dân Lạc Việt ở Cửu Chân vẫn chưa biết cày bừa bằng trâu bò, có lẽ vì sự tiến hóa của dân Lạc Việt mới chỉ phát triển tới lưu vực sông Nhị mà thôi chăng? Ở Trung Châu Bắc Việt người ta tìm thấy lưỡi cầy và lưỡi cuốc bằng đồng. Vì đồ dùng ở lưu vực sông Nhị, sông Đáy, nhất là ở Đông Sơn trên bờ sông Mã, người ta tìm thấy đồ đá, đồ gốm và đồ đồng của người Lạc Việt. Về những đồ đá, các nhà khảo cổ cho là thuộc về thời đại đồ đá mới còn sót lại. Đồ gốm đào được ở Đông Sơn thuộc về hậu kỳ của thời đại đồ đá mới mà hình thức cùng kỹ thuật tương tự với các đồ đào được ở Chiết Giang. Người ta cho rằng kỹ thuật này có lẽ do người Lạc Việt đem đến vì người Anh-đô-nê-diêng chưa tới một trình độ kỹ thuật cao như vậy. Đồ đồng phần nhiều là binh khí, búa, rìu, mũi thương, mũi mác, dao găm, mũi tên, lưỡi qua giống hệt như các thứ tìm được ở miền Giang Hoài và Chiết Giang của người Việt tộc. Song từ khi truyền đến Việt Nam thì kỹ thuật đồ đồng của người Lạc Việt mà xuất xứ là miền Ngô Việt, có lẽ đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của văn hóa Anh-đô-nê-diêng rồi nhờ điều kiện sinh hoạt dễ dàng được phát đạt dần đến một trình độ khá cao. Cái trống đồng Ngọc Lư hiện giữ được ở viện Quốc gia bảo tàng ở Hà Nội đã chứng tỏ lời chúng tôi nói đây. Và chính Mã Viện đã lấy ở đất Lạc Việt một cái trống đồng loại này đem về nước, đúc tượng ngựa đồng. Theo Lâm Ấp Ký dẫn ở Thủy Kinh Chú: người Lạc Việt còn đúc cả thuyền bằng đồng nữa. Xem các đồ đồng tìm được ở Đông Sơn người ta thấy
  32. 32 Việt Sử Toàn Thư hình người có tóc búi sau gáy, có bịt một cái khăn ngang hai mối thắt lại thả dài xuống lưng. Ở mỗi tai có đeo một cái vòng lớn. Hình như lưng có thắt một cái giây, ở sau lưng có một cái tua bỏ thõng xuống. Lại có một hình người khác, tai cũng đeo vòng lớn, nhưng phần thân dưới mang một cái váy như váy Mọi ngày nay. Ở trước váy có thêm miếng lá phủ, tóc thì búi cao lên đỉnh đầu, một nửa kết thành bím bỏ thõng xuống lưng. Búi tóc có bịt một cái khăn. Kiểu tóc và kiểu khăn này giống hệt cách trang sức của người Dayak ngày nay. Hai hình người này cho ta phỏng đoán cách phục sức ngày xưa của người Lạc Việt. Theo lời tâu của Tiết Tôn làm quan ở Giao Châu dưới đời Tam Quốc, người Lạc Việt bấy giờ búi tóc và đi chân không. Người Lạc Việt có tục xâm mình, tin mình là con cháu Giao Long (truyền thuyết con Rồng cháu Tiên) mà họ gọi là Lạc Long Quân. Họ tin tưởng quỷ thần, có tục chôn người chết, bỏ đồ binh khí bằng đá và bằng đồng vào quan tài trước khi hạ xuống đất. Tôn giáo có tính cách nông nghiệp. Mỗi năm về mùa Xuân, họ mở hội cho trai gái tự do vui đùa múa hát có ý nghĩa ghi dấu mùa Xuân và mở mùa Hạ, trai gái dùng trầu cau làm lễ cầu hôn. Trong những hội hè ở các nơi, dân đã có tế lễ rất thành kính. Nhiều miền thượng du ngày nay, dân sơn cước cũng rất ham chuộng và vẫn bảo tồn phong tục này. Về chế độ xã hội khi mới đến, dân Lạc Việt còn theo chế độ thị tộc như người thổ trước Anh-đô-nê-diêng. Sau này nông nghiệp phát đạt, tiến đến chế độ gia tộc phụ hệ, còn ở những miền hẻo lánh, rừng núi chế độ thị tộc vẫn còn tiếp tục. Hậu Hán Thư quyển 116 chép về văn hóa của người Lạc Việt như sau: "Người Giao Chỉ không phân biệt trưởng ấu Không biết lễ giá thú, chỉ theo dâm hiếu mà không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng, nghĩa là không có tổ chức gia tộc theo chế độ phụ hệ, chế độ tôn pháp như Trung Quốc. Trong sớ của tiết Tôn ở đời Tam Quốc (Tam Quốc Chí 9.53) có đoạn nói rằng khi mới thuộc Hán, người Giao Chỉ ở huyện Mê Linh, và Cửu Chân ở huyện Đô Lương, hễ anh chết thì em lấy chị dâu, đó là di tích của chế độ mẫu hệ. Sau này xúc tiếp mỗi ngày một sâu với văn hóa Bắc phương những phong tục dấu vết của thời man mọi này tiêu ma dần cho đến mất hẳn từ thời Tích Quang và Nhâm Diên tức là thời Đông Hán. Trong cuốn Xã Hội Việt Nam ông Lương Đức Thiệp có nêu ra điểm này và trong cuốn Les Grandes époques de l'Indochine, Bulletin de la S.E.M. du Tonkin, Tome XV No. 2 pp. 281-287, ông L. Finot cũng có nói: Dân Văn Lang trước thế kỷ thứ 2 và thứ 3 còn sống ở trong trạng thái gia đình mẫu hệ (matriarcat) và có tục đàn bà góa phải tái giá với anh em chồng (lévirat). Trạng thái này đổi dời lần lần do sự đồng hóa với Tàu để từ gia tộc mẫu hệ biến thành gia tộc phụ quyền. Ông Nguyễn Văn Tố bác bỏ kịch liệt thuyết này cho rằng không có chế độ thị tộc mẫu hệ vì họ Hồng Bàng từ vua Đế Minh đến Lộc Tục (Kinh Dương Vương) đã có việc hôn phối tức là không có việc đàn bà chung chạ với nhiều người đàn ông, các con chỉ biết có mẹ, và cũng không có tục đàn bà góa phải tái giá với anh em chồng. Chúng tôi thiết nghĩ chế độ mẫu hệ có thể xuất hiện với đời thái cổ ở bất cứ nơi nào khi người ta chưa có văn minh, đạo đức. Lời phản đối của ông Nguyễn Văn Tố phải chăng vì lòng tự ái dân tộc chăng?
  33. 33 Việt Sử Toàn Thư Về tổ chức chính trị, các thị tộc Lạc Việt còn là những bộ lạc đặt dưới quyền một tù trưởng và khi thị tộc Lạc Việt đến Bắc Việt khuynh hướng tập trung bắt đầu rồi thành một chế độ phong kiến sơ sài. Tình trạng này khởi từ họ Hồng Bàng nên sử chép bấy giờ có vua là Lạc Vương, dân gọi là Lạc dân, các cấp chỉ huy là Lạc hầu, Lạc tướng, Bố chính chia nhau các thái ấp lớn nhỏ tùy theo địa vị của mỗi đẳng, cấp. Và cũng do việc phân chia đất đai nầy ta nhận thấy đời sống của Lạc Việt khi đó đã là đời sống định cư từ các miền Cao nguyên cho tới các địa phương Trung Châu trên lưu vực sông Nhị Hà và sông Mã. Chế độ phong kiến đó hiện nay còn ở các nơi người Mường trú ngụ cho ta một hình ảnh có thể phù hợp với đời sống cổ xưa của dân ta kể từ họ Hồng Bàng Trong khi xét về nguồn gốc của người Giao Chỉ, Đông Âu, Mân Việt, Tây Âu và Lạc Việt chúng tôi đã trình bày các điểm tương đồng của các thị tộc trên đây với thị tộc Lạc Việt chúng ta, và chúng tôi có cảm tưởng rằng: 1. Người Việt của chúng ta xuất hiện từ đời thượng cổ ở miền Bắc Nam bộ Trung Hoa và dần dần tản mác xuống miền Bắc bán đảo Hoa Ấn. 2. Chủng tộc của chúng ta do các biến thiên của Lịch Sử đã lẫn lộn với người Hán tộc mà yếu tố Mông Gô Lích là một yếu tố quan trọng trong dòng máu của họ. Chúng ta lại hỗn hợp cả với giống Anh-đô-nê-diêng là một giống rải rác ở khắp Đông Nam Á Châu và đã đến bán đảo Hoa Ấn trước chúng ta. 3. Người Lạc Việt chúng ta đã tiên phong phiêu lưu xuống Bắc Việt và miền Bắc Trung Việt trước áp lực của người Hán tộc. Các chủng tộc ở Á Châu phát tích ở miền đại lục thường chỉ tiến về phía Nam theo đường biển gần như một công lệ 4. Người Việt chúng ta là những phần tử dũng cảm nhất có lẽ vì được hưởng nhiều đặc tính quý báu nhờ sự pha máu với nhiều chủng tộc, nên đã đương đầu được với nhiều cuộc xâm lăng của Bắc phương mặc dầu đã phải trải qua nhiều phút thăng trầm bi đát. Và cũng có thể nói rằng những cuộc hưng vong thê thảm này đã hun đúc cho dân tộc chúng ta một tinh thần tranh đấu bền bỉ, để tồn tại đến ngày nay, oanh liệt dưới vòm trời Đông Nam Á.
  34. 34 Việt Sử Toàn Thư Phần 1 - Chương 2 Đời Sống Thượng Cổ Của Dân Tộc Việt Nam Đời sống vật chất của ông cha chúng ta trong thời cổ xưa dĩ nhiên là khó khăn, chật vật hết sức. Sử sách tới nay chưa có sự kê cứu rõ rệt về vấn đề này vì đây là một vấn đề thuộc về thuở tiền sử và khuyết sử. Ta có thể căn cứ vào câu "Ăn lông ở lỗ" để hình dung đại khái đời sống của người thượng cổ khi còn man dã. Dân tộc nào trên thế giới buổi nguyên thủy đều cũng vậy. Họ đã sống như bầy thú, trú ngụ trong các hang hốc. Họ lấy lá che thân, làm lều, túp trên các cành cây. Ăn thì ăn sống, nuốt thì nuốt tươi khi chưa biết dùng lửa. Hằng ngày rủ nhau săn bắn hoặc chài lưới, để tìm ra thực phẩm. Cuộc sống luôn luôn phải di chuyển vì chưa tìm ra được nhiều khả năng kinh tế (khi chưa có nghề giồng cây, giồng lúa, chế tạo các dụng cụ) và chống với Thiên Nhiên tàn bạo. Tâm hồn lúc nào cũng bị hoảng hốt vì mọi vật (động vật hay cả bất động vật) đều có thể là thù nghịch của họ. Họ cảm thấy mình là những sinh vật nhỏ mọn, yếu đuối vật vờ giữa cái vũ trụ mênh mông, bát ngát đầy huyền bí. Dòng thác đổ, cành cây rơi, cơn lốc thổi, tảng đá lăn, cơn sóng gầm, tiếng thú thét, hết thảy đều là những thứ ngày đêm khủng bố, ám ảnh họ. Họ cho đấy là sự hờn giận của các hung thần. Không có ý niệm về các hiện tượng trong trời đất và vạn vật, vả lại không có cách gì đối phó, thảng hoặc có đối phó thì cũng vẫn e sợ nên họ phải tôn thờ mọi vật, bởi trong đầu óc người cổ xưa, mọi vật đều có linh hồn và linh cảm, có thể sinh họa hay tác phúc. Vì vậy tục bái vật và thuyết đa thần đã chi phối họ rất mạnh mẽ. Với thuyết đa thần người ta tin có Thần Sấm Sét (thần thiên lôi), Thần Mưa, Thần Gió, Thần Sông, Thần Đất, Thần Nước, Thần Núi v.v có lẽ bởi các vị thần này có thể có ảnh hưởng đến đời sống của họ. Với tục bái vật, người ta thờ cây đa, cây đề, ông bình vôi, hổ, rắn, cho rằng các thứ đó đều có quan hệ mật thiết đến đời sống của mình, cai quản mình trực tiếp hay gián tiếp. Những phong tục và dị đoan đó đến ngày nay cũng hãy còn lác đác ở các thôn quê Việt Nam, cũng như ở nhiều bộ lạc da đen (châu Phi, châu Mỹ hay châu Á). Thời gian trôi qua, người cổ của chúng ta mỗi ngày một tiến rồi một ngày kia biết lặn lội trong những khoảng ruộng bùn lầy, tưới những giọt mồ hôi xuống đất cứng để sinh sống. Bấy giờ chưa có gia súc, chưa có dụng cụ tinh xảo, họ trần lực lấy sức tay chân tranh đấu với Thiên nhiên. Họ đẽo đá làm thành những lưỡi cuốc nhọn để sới đất khô và đập cho nhỏ chờ lúc nước sông tràn vào ruộng, ruộng sẽ có bùn ngầu cho họ gieo giống. Họ biết tháo nước ra vào để khỏi nạn úng thủy hay thiếu nước. Gần bể về mùa hanh, họ biết dùng mực nước thủy triều lên xuống ở các ngành sông để lấy nước vào ruộng. Nhờ vậy ngay thời bấy giờ tại Trung châu Bắc Việt đẵ có nơi làm ruộng được cả hai mùa. Sau này sum họp với người Tàu họ biết dùng lưỡi cày sắt và trâu bò.
  35. 35 Việt Sử Toàn Thư Vào thời cổ miền Trung châu Bắc Việt đâu có ruộng lớn như ngày nay. Đầm lầy, gò đống còn rải rác khắp nơi vì chưa khai thác, nhiều đồ nông nghiệp còn manh nha. Ngoài bờ biển và các cửa sông lau sậy cùng cây sú mọc đầy, rừng cây um tùm ở các đồi núi. Người cổ ở thưa thớt tại các thung lũng và các miền ruộng hợp thành từng làng, từng xóm. Năm bẩy chục nóc nhà tranh, vách đất quây tụ im lìm sau những lũy tre cao ngất. Ngoài làng là những cánh đồng, không có đồn trại, thành thị, phố phường gì hết. Sông Nhị Hà bấy giờ là mạch máu chính nếu ta ví vùng Trung châu là cái thân. Con sông nầy đã bồi đắp nên mảnh đồng bằng hằng năm, bằng những lớp phù sa trở qua các thác ghềnh từ miền núi Vân Nam đem về nuôi nấng trang điểm đứa con nuông. Sóng bể Đông hãy còn rào rạt ở ngoài đồng bãi thuộc tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An bây giờ. Hai chục thế kỷ qua, chỗ đất liền tiến rộng ra miền nước mặn được hàng trăm cây số mở rộng Trung châu thêm được mấy tỉnh. (Đại để hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn cách đây trên dưới 100 năm còn là vùng biển rồi bỗng hiện lên nhiều làng mạc sầm uất như do một phép lạ). Đây là lời Lưu An về đời Hán đã am hiểu tình trạng dân tộc chúng ta khi nền đô hộ của Bắc phương đã thành hình trên đất Giao chỉ. Ngay thuở đó, về chính trị dân ta đã lập thành nước (do họ Hồng Bàng) theo thể chế phong kiến. Trong mỗi nóc nhà đã có chế độ gia tộc, gia trưởng. Ngoài làng mạc có chế độ tù trưởng, lạc hầu, lạc tướng v.v Sau này nhờ cuộc xúc tiếp với văn hóa Bắc phương, kỹ thuật canh tác được cải thiện, sức người được sức trâu bò hỗ trợ, nông nghiệp trở nên phát đạt. Nhân khẩu bắt đầu tăng gia, trí não mỗi ngày thêm cứng rắn trước Thiên Nhiên và vạn vật, đời sống hoạt động và dồi dào trông thấy. Những ngày mùa đông tháng giá qua, xuân về đầm ấm, cây cỏ xanh tươi lại dưới ánh mặt trời, tinh thần của con người như bị kích thích do cái vui, cái tươi, cái linh động của vạn vật. Người có cảm tưởng trong khoảng thời gian này vị chúa tể thế gian đến với họ, gần gũi để thi ân, thi đức. Họ cũng vui theo cái vui của vạn vật. Họ khởi các công việc đồng áng nhưng ung dung thong thả rồi mở hội hè đình đám để làm vui từ già đến trẻ. Trai gái hợp nhau xúng xính áo quần trên những ngọn đồi rộng hay bên các lũy tre xanh, hoặc giữa nơi đình trung điếm sở, hoặc rún rẩy trên các cây đu, hoặc tung còn, đánh phết, hoặc cất lên nhũng câu hát đúm để ca ngợi cái tuổi trẻ đầy hứa hẹn mơ mộng, hoặc hy vọng những chuyện lứa đôi đằm thắm, hoặc mừng buổi thanh bình, thịnh trị. Đây là những điệu ca, những bài thơ mô tả cái đời sống mộc mạc, thuần phác hoàn toàn có tính cách bình dân giữa những buổi sáng huy hoàng của ngày xuân hay giữa những đêm trăng trong, bên cạnh ngọn cỏ lá cây qua những đôi mắt thắm của các cô thôn nữ luôn luôn mỉm cười để hé hàm răng đen nhức. Rồi sau tiết Xuân có những cuộc vui công cộng, trai gái trưởng thành quen biết nhau, yêu nhau đính ước việc gia thất. Người con trai đem trầu cau đến xin bố mẹ
  36. 36 Việt Sử Toàn Thư người con gái rồi mới được cưới. Đám cưới là một dịp làng xóm, hương thôn vui chơi ăn uống, nhai trầu nói chuyện. Trầu cau là một món cần trong sự xã giao vậy. Về trầu cau có một chuyện cổ tích rất là cảm động lâm ly: Vào thời thượng cổ hai anh em nhà họ Cao thương yêu một người con gái; Người anh lấy được cô gái đó khiến người em đau đớn tuyệt vọng bỏ ra đi. Rồi người anh đi tìm em, vợ đi tìm chồng, rút cục ba người vì thương nhau trong cái nghĩa anh em chồng vợ quá thiết tha mà chết cả. kẻ hóa ra hòn đá vôi, kẻ hóa ra cây cau, kẻ thành cây trầu quấn quít lấy nhau. Người ta đem nhai quả cau và lá trầu cùng vôi (của hòn đá) thì thấy thành một chất đỏ tươi, vị đậm đà, phải chăng là cả mối tình thương yêu chân thật, nồng thắm? Trai gái lấy nhau, bè bạn kết giao đều lấy miếng trầu gây tình thân mật, thật là có ý nghĩa vô cùng. Về việc hôn nhân của người Việt chúng ta xưa kia thì lập gia đình chẳng phải là để cùng mưu cuộc sống mà thôi. Hôn nhân còn có ý nghĩa vì người chết hay người sẽ chết nữa. Lấy nhau, người Việt có lẽ nghĩ trước hết đến vấn đề sinh con đẻ cái để có người lo việc khói hương cho tổ tiên và cả cho mình sau này nữa. Không người kế tự, đó là một sự đau đớn, nhục nhã hết sức cho người Việt, và đấy cũng là môt căn nguyên của chủ nghĩa đa thê ngoài ảnh hưởng của chế độ phong kiến. Người Việt tin rằng người chết nhưng linh hồn còn phảng phất ở chốn nhân gian do sự luyến tiếc con cháu, thì con cháu lo việc thờ cúng để tỏ lòng thương nhớ và cung kính người quá cố. Một lẽ nữa là sự mong mỏi người chết phù hộ cho kẻ sống, mối tin tưởng ở hầu khắp các tầng lớp dân tộc chúng ta từ xưa đến nay. Người chết, vào thời thượng cổ, xác còn phải quàn ở trong nhà. Người nhà đục gỗ làm áo quan, hàng ngày dâng cơm nước thờ phụng như khi còn sống (phong tục này các đồng bào thiểu số nhất là dân Mường, Thổ vẫn còn giữ đến bây giờ). Lúc đem chôn cũng phải chôn theo đồ ăn, thức đựng cho linh hồn khỏi phải thiếu thốn (tục đốt vàng mã đã do quan niệm này, bây giờ gần mất hẳn). Trước khi Khổng Giáo tràn qua và có ảnh hưởng nhiều vào văn hóa của chúng ta, chúng ta còn tập tục này nữa: nếu trong một nhà người anh chết đi thì người em út phải lấy chị dâu để cáng đáng mọi việc thay anh và trông nom các cháu. Các nhà chép sử cho rằng tục này phát sinh vì lý do kinh tế, tức là không muốn người đàn bà trẻ tái giá đem của cải và con cái của bên chồng đi. Phong tục này còn đến cuối đời Hán vẫn còn và có lẽ đã bị bãi bỏ trong thời Nhậm Diên, Sĩ Nhiếp và Tích Quang là những người có nhiệm vụ du nhập văn hóa Trung Quốc vào đất này và thủ tiêu những tập tục của dân bản thổ. Buổi nguyên thủy người Việt sống theo chế độ bộ lạc tức là sống trong tình trạng dã man. Đời sống lại không có phong tục và đạo đức như trên đây đã nói rõ, và sự xúc tiếp giữa các bộ lạc đã xây dựng trên sức mạnh tàn bạo. Các bộ lạc yếu phải tòng phục các bộ lạc mạnh, do đó chế độ phong kiến ra đời cho tới sau này họ Hồng Bàng, một bộ lạc mạnh nhất xuất đầu lộ diện ngự trị tất cả các bộ lạc khác (xin coi dưới đây cội rễ của họ Hồng Bàng). Về y phục, người thượng cổ khi chưa biết dệt vải, may áo đã sống trần truồng, rét mướt thì lấy lá hay vỏ cây che thân. Sau này có nghề dệt mới biết đóng khố, quấn
  37. 37 Việt Sử Toàn Thư khăn, mặc quần áo. Người bình dân khi xưa lúc ở nhà chỉ đóng cái khố và mặc cái áo ngắn. Đàn bà mặc thêm cái váy. Có lẽ từ giai đoạn người Việt biết đóng khố, biết làm nhà cửa, biết dùng đồ kim khí là khi đã có tiếp xúc với các dị tộc, nhất là người Hán văn minh hơn họ. Tuy vậy y phục của họ rất là đơn giản do xứ ta thuộc vùng nhiệt đới, nóng nhiều rét ít. Ngày nay người ta tìm thấy trên mặt các trống đồng, các tảng đá hình người ở trên, đóng khố, đầu đội mũ bằng lông chim. Có thể đây là những di tích về hình ảnh người Việt Nam cổ. Còn khi người Trung Hoa sang chinh phục chúng ta, bấy giờ sự ăn vận mới bắt đầu tề chỉnh và đồng thời nông nghiệp của ta trở nên thịnh đạt. Ta biết búi tóc hay quấn khăn, mặc áo khép về tay phải hay mở ở giữa. Y phục của người Mường, Thổ ngày nay có lẽ là y phục của ông cha chúng ta thuở xưa. Phần đông hạng bình dân cắt tóc ngắn để tiện làm lụng, chỉ có đàn bà và các nhà quý phái mới để tóc dài cũng do ý muốn làm dáng và để phân biệt giai cấp. Họ bện tóc quấn quanh đầu hay búi thành một búi tóc to ở sau gáy, ngoài bịt một chiếc khăn màu nhỏ để giữ cho chặt. Họ không biết đi giày, guốc. Giày, nón là sau khi có người Tàu đem sang, ta mới có. Tính thích trang điểm, họ đeo đầy cổ và chân tay những vòng bằng đồng, xương hổ phách hay đồi mồi. Đối với khách lạ, dân Việt rất tử tế ân cần. Họ ưa mời ăn uống, coi khách như người trong nhà. Lệ tiếp khách bao giờ cũng có cơi trầu, chén nước, đôi bên vừa nói chuyện vừa ăn trầu. Cũng vì tính hay ăn trầu nên họ có tục nhuộm răng. Điều này có lợi là răng được bền chặt thêm và nếu giữ gìn răng cứ đen nhánh mãi. Bàn về phong tục của dân ta, chúng tôi phải nghĩ tới bài khảo luận về văn hóa Đông Dương (Les civilisations de l'Indochine) của ông G. Coedès. Nhà khảo cổ này đã nhận thấy ở dân tộc chúng ta không phải chỉ có những phong tục thuần túy "Trung Quốc" mà từ vua chúa đến dân thứ của ta hầu hết đều theo cả; ở nơi chúng ta còn có những phong tục trong gia đình, ngoài làng mạc như những việc thờ thần ở đình, miếu khác hẳn Trung Quốc. Những phong tục này có trước khi người Tàu qua đây, và tồn tại đến ngày nay mặc dầu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc trên mảnh đất này khá mạnh. Ông Coedes ngờ rằng trước khi văn học Trung Quốc du nhập vào đây (đầu thế kỷ thứ hai trước Thiên Chúa) người Việt Nam chúng ta đã chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Nam Á (Austro Asiatique) nên mới có những phong tục riêng biệt này. (Đáng chú ý có nhiều phong tục của Tàu trên đất Việt mà chính người Tàu cận lai không còn giữ nữa). Nhận xét này được nhiều học giả hiện đại cho là đúng vì văn hóa Ấn Độ đã đặt dấu vết và ảnh hưởng ở miền Nam Á (nói chung) và miền Nam Đông Dương (nói riêng) trước khi người Trung Quốc có mặt ở Bắc Việt ít nhất trên một thế kỷ, tức là vào khoảng thế kỷ thứ nhất theo Thiên chúa kỷ nguyên. Ngoài ra người Giao Chỉ đến Bắc Việt lại không phải là những người đầu tiên. Ông cha chúng ta đi dần xuống đây xua đuổi người thổ trước là giống Anh-đô-nê-giêng, hợp chủng với những phần tử còn lại nên đã có những phong tục khác Tàu đến nay đã thành những đặc điểm của chúng ta. Tóm lại, có thể rằng chúng ta đã có thâu nhập một mớ phong tục thuộc văn hóa Nam Á nữa. Rồi văn hóa Trung Quốc hợp với một phần văn hóa Nam Á đã tạo nên nhiều cá tính quốc gia của người Việt Nam chúng ta ngày nay.
  38. 38 Việt Sử Toàn Thư Phần 1 - Chương 3 Nhà Hồng Bàng (2879-258 trước tây lịch) - Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng - Nước Văn Lang của chúng ta. 1- Truyền Thuyết Về Nhà Hồng Bàng: Các nhà chép sử gọi dòng họ đầu tiên ngự trị giống Lạc Việt là Hồng Bàng thị. Trong Lịch Sử Xã Hội Việt Nam truy cứu ở Từ Nguyên Hoàng Thúc Trâm giải thích ba chữ Hồng Bàng thị như sau: 1) Hồng Bàng là thứ tên chim nước to hơn con nhạn cánh đen, bụng trắng, mầu tro, tính mạnh dạn. thính giác lanh lẹ. 2) Hồng theo ý nghĩa thông dụng là lớn. Tỉ dụ hồng thủy (nước lớn). 3) Chim "Hồng" nói trong sách cổ thường chỉ về con "Hồng hộc" tức là con ngỗng trời. Nếu đi với "Hoang" thì hồng hoang nghĩa là thái cổ. Bàng cũng theo Từ Nguyên tức là đầy, lớn, bác tạp không thuần túy. Thị theo Thuyết Văn là gò, núi như Hoàng Đế ban đầu ở đất Hữu Hùng nên gọi là Hữu Hùng thị sau đến đời Hiên Viên chi ngưu gọi là Hiên Viên thị. Như vậy chữ "thị" chỉ do chỗ đất mà được gọi tên là "thị". Không có nghĩa là họ mà là bộ tộc hay "thị tộc" theo danh từ xã hội học ngày nay. Như vậy Hồng Bàng chỉ là một thị tộc do Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân lãnh đạo. Theo lời tục truyền thì vua Đế Minh cháu thứ ba đời vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến miền núi Ngũ Lĩnh thuộc núi Hồ Nam gặp một nàng tiên, lấy nhau rồi sinh ra Kinh Dương Vương đặt làm vua phương Nam. Sau nầy Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra một bọc có trăm trứng nở ra 100 con trai, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống bể Nam Hải, vì mẹ là giống Tiên và cha là giống Rồng do đó có giống Bách Việt rải rác khắp niền nam Trung Quốc (nước của Kinh Dương Vương lấy quốc hiệu là Xích Quỷ gồm tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây bây giờ). Người Việt ngày nay tự cho mình là con
  39. 39 Việt Sử Toàn Thư Tiên cháu Rồng là do sự tích này. (Cũng như người Nhật tự xưng mình là con cháu của Thái Dương thần (Amatérasu), người Tàu cho mình là con cháu Hoàng Đế, người Đức dưới chế độ Quốc Xã vừa qua tự cho mình là một giống người thượng đẳng sinh ra để thống trị các dân tộc khác (theo thuyết Mein Kampt của Hitler đảng trưởng Quốc Xã). Các nhà làm sử sách vì lòng ái quốc, trọng nòi giống mà tô điểm cho dân tộc của mình những điều tốt đẹp hoặc có ý muốn làm phấn khởi tinh thần dân tộc. Lạc Long Quân phong cho con cả làm vua nước Văn Lang (quốc hiệu đầu tiên của nước ta) xưng là Lạc Vương. Họ Hồng Bàng kể từ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời Lạc Vương là những triều đại trước hết. Những triều đại nầy theo ý chúng tôi và cũng dựa vào thuyết của Léonard Aurous seau, đã ra đời vào cuối đời Xuân Thu (6 thế kỷ trước công lịch) bởi nếu cho rằng họ Hồng Bàng xuất hiện từ năm Nhâm Tuất (2897) đến năm Quý Mão (258 trước Công Lịch) vừa đúng 2621 năm, thì mỗi triều vua trung bình 150 năm sau, chúng tôi e rằng có sự sai lầm quá lớn. Bàn về danh hiệu của Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ta không thể quên chữ Kinh và Dương là đất Dương, hai châu thuộc địa bàn của giống Giao Chỉ chúng ta. Với chữ Lạc Long Quân cũng vậy. Danh hiệu này chỉ có nghĩa là vua của giống Lạc Long cũng như Kinh Dương Vương là vua miền Châu Kinh, châu Dương, Vân Nam Vương, Hán Đế v.v nó nhắc tên đất đai hay chủng tộc của các vua chúa, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ tức là nàng con gái đất Âu. Chữ Âu lại gặp trong chữ Âu Giang tên một con sông nước Việt (Chiết Giang) ngày nay vẫn còn tên ấy. Nó nhắc chữ Âu Lạc, Âu Việt, Đông Âu, Tây Âu Như trên đã nói, vào thế kỷ thứ 9 một số thị tộc Việt lập ra nước Việt do một nhà quý tộc họ Mị cùng họ với vua nước Sở, do đó ta thấy các vua Sở lấy chữ Hùng làm hiệu thì 18 ông vua nhà Hồng Bàng cũng làm theo các vua nước Sở, tỷ dụ: 1. Hùng Dịch (1122-1078 tr T.C) 2. Hùng Nghệ (1078 tr T.C) 3. Hùng Đán (1052 tr T.C) 4. Hùng Thắng (1001 tr T.C) 5. Hùng Dương (946 tr T.C) 6. Hùng Cừ (887 tr T.C) 7. Hùng Chấp (877 tr T.C) 8. Hùng Duyên (876 tr T.C) 9. Hùng Dõng (847-837 tr T.C) Và 18 ông vua của nhà Hồng Bàng lấy hiệu như sau: 1. Kinh Dương Vương (Lục Dục Vương).
  40. 40 Việt Sử Toàn Thư 2. Lạc Long Quân (Hùng Hiền Vương). 3. Hùng Lân (Hùng Quốc Vương). 4. Hùng Việt Vương 5. Hùng Hi Vương 6. Hùng Huy Vương 7. Hùng Chiêu Vương 8. Hùng Vị Vương 9. Hùng Định Vương 10. Hùng Uy Vương 11. Hùng Trịnh Vương 12. Hùng Vũ Vương 13. Hùng Việt Vương 14. Hùng Anh Vương 15. Hùng Triều Vương 16. Hùng Tạo Vương 17. Hùng Nghị Vương 18. Hùng Duệ Vương1 Còn nói theo cha một nửa xuống biển, một nửa theo mẹ lên núi, tức là một phần qui tụ ở miền sơn cước, một phần ở rải rác vùng đồng bằng là ra tới bể là lưu vực sông Dương Tử với miền núi ở giẫy Nam Lĩnh. Dân tiến xuống bể được nhiều điều kiện thuận tiện nên tiến bộ nhiều vì vậy đã sống vào trạng thái phụ hệ, còn đám người lên non chậm việc khai hóa nên còn ở vào chế độ mẫu hệ. Đó là các dân dã man tỉnh Quí Châu, Vân Nam (ở Quí Châu có dân Miêu Tử. Ở Vân Nam có dân Sâm Ly hay Xa Lý đến đời Nguyên mới bị chinh phục. Họ tương truyền đời Chu Thành vương có sai xứ triều cống khi về được Chu Công Đán làm xe Chỉ Nam tiễn chân, cho nên họ có tên là Xạ Lý. Cũng có Bộ lạc tên là Lão Qua, xưng là Việt Thường dưới đời Chu, bộ lạc nầy bị nhà Minh chinh phục. Tài liệu nầy ở cuốn Les babrbares du Yun nan trong B.E.F.E.O. tome 8 1908). Nhưng một điều quan hệ khác cần phải xét lại là Việt tộc hay họ Hồng Bàng có phải con cháu Thần Nông không và Thần Nông là người Hán tộc hay Việt tộc. Chúng tôi không đồng ý với các sử liệu Tàu cho rằng Hồng Bàng là con cháu Thần Nông, điều mà nhiều người Việt chúng ta tin có thật vì quên rằng đấy chỉ là một truyền thuyết. 1 Có nơi chép Hùng Vương 18 là Hùng Tuấn Vương hiện nay còn ở làng Cổ Tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (Bắc phần).
  41. 41 Việt Sử Toàn Thư Thần Nông đây thực ra chỉ có nghĩa là vị thần dạy nghề nông, ông tổ nghề Nông. Có lẽ người ta đã lầm Thần Nông của ta với Thần Nông thị là dòng họ làm vua giống Hán sau Phục Hi thị (4480-4350 tr C.L.) Ta nhận thấy rằng truyền thuyết trên đây dù sao cũng có phần nào sự thật. Ngày nay căn cứ vào các tài liệu của các nhà khảo cổ và sử học, ta có thể giải thích như sau để hiểu rõ tình trạng dân tộc ta dưới thời Thái cổ rõ rệt hơn: Vào thế kỷ 30 trước C.L. dân Hán tộc sống dọc sông Hoàng Hà. Tại Lưu vực sông Dương tử thì có dân bản thổ: bên bờ sông phía Bắc có dân Miêu và Man, bên bờ phía Nam vùng Động Đình và Phiên Dương có dân Việt chúng ta ở rải rác đến núi Ngũ Lĩnh, các dân ở đây có trình độ xã hội canh nông. Một nhà quí tộc dạy dân nghề khai khẩn ruộng đất, sau dân nhớ ơn thờ người ấy làm Thần Nông, Miêu, Man tuy không cùng chung chủng tộc nhưng cùng ở dưới quyền một nhà quí tộc thuộc dòng dõi Thần Nông. Người cháu ba đời của Thần Nông đi tuần thú về phương Nam đến Ngũ Lĩnh gặp một nàng con gái đẹp như tiên, ăn ở cùng nhau xin được một đứa con trai đặt tên là Lộc Tục. Sau vua phong cho con trưởng làm vua dân Miêu và Man ở phía Bắc sông Dương Tử và cho Lộc Tục làm vua dân Việt ở phương Nam, nghĩa là đất Kinh và Dương lấy quốc hiệu là Xích Quỉ vào khoảng thế kỷ thứ XXIX trước C.L. Bấy giờ là thời đại phong kiến. Xích Quỉ chia ra ba nước (theo Vũ Cống trong Kinh Thư). Trong ba nước ấy, vùng Động Đình là một, vua Kinh Dương Vương lấy con gái vua kế vùng Động Đình là Long Nữ được một con trai tên là Sùng Lãm nối ngôi vua, xưng là Lạc Long Quân. Vua Lạc Long cưới con gái vua một nước láng giềng đất Âu, nàng Âu Cơ đến đây ta gặp một thời kỳ khuyết sử. Sau nầy Hán tộc tràn xuống phía Nam qua nước Sở thì nước Xích Quỉ có 100 nhà quí tộc đều xưng là dòng dõi của vua Lạc Long và Âu Cơ. (Ở đây ta có thể loại bỏ việc Âu Cơ đẻ ra trăm con do một bọc nở ra 100 trứng là hiện tượng không từng thấy trong y học). Có lẽ trong dịp áp lực của Bắc phương, có người mưu trí trong các nhà quí tộc đó đã nêu lên thuyết một trăm thị tộc cùng máu mủ, một cha mẹ phải đoàn kết để tự vệ, như vậy chắc trước kia họ thường xung đột với nhau. Vào thế kỷ thứ 24 trước C.L trong ba nước kể trên có nước Việt thường kinh đô đóng ở phía Nam hồ Phiên Dương trở nên cường thịnh làm bá chủ vùng Phiên Dương và Động Đình. Năm 1352 trước C.L. có sai sứ sang cống vua Đế Nghiêu một con rùa lớn và năm 1109 tr. C.L. có cống cho vua Thành Vương nhà Chu. Trước thế kỷ XII tr. C.L., trong các quí tộc có người tên là Hùng Dịch chinh phục được dân Miêu, Man miền sông Hán chảy vào sông Dương Tử, tổ chức thành một quốc gia, Tàu gọi là Kinh Man, đóng đô ở Đan Dương gần thành Nghi Xương (Itchang) ngày nay. Đến đời vua Hùng Cừ đem binh đánh lấy nước Đông và Dương Việt (nghĩa là người Việt đất Dương Tử. Việt Chương trước kia là Việt Thường, luôn dịp nước Ngạc ở vào khoảng thành Vũ Xương (Ou T chang) thuộc tỉnh Hồ Bắc cũng bị kiêm tính nốt.
  42. 42 Việt Sử Toàn Thư Rồi Hùng Cừ cho con trưởng là Khang ở đất Cú Đản, con thứ hai là Hồng ở đất Ngạc, con thứ ba là Chấp Tỳ làm vua Việt Chương đó là nguyên nhân của chữ Hùng Vương trong truyền thuyết của ta. Dân Việt quen sống với cảnh thái bình, bỏ lâu chinh chiến, không chống nổi quân Kinh Man nên phải thua. Vì dân số đông, nên dân Việt, một phần phải tiến lên núi Nam Lĩnh và đa số đã tiến xuống Nam Hải rồi lại gặp nhau ở đất Quảng Đông và Quảng Tây sau gọi là Bách Việt vậy. Từ vua Chấp Tỳ trở về sau lịch sử Việt Thường ra sau? Có lẽ có lúc thịnh, vào năm 581 trước C.L., con cháu Chấp Tỳ có người làm vua Việt Thường xưng là Hùng Vương thứ nhất. Người Việt bấy giờ ở theo dọc bờ Nam Hải và Nam ngạn sông Dương Tử cho đến hồ Động Đình, họ đều có xâm mình nên người Tàu gọi là Văn Lang. Bấy giờ nước Sở trước kia ở Kinh Man trở nên cường thịnh và thạo văn hóa Hán Tộc bành trướng về phương nam trở nên nguy hiểm cho nước Việt thường. Thế rồi một ông vua họ Hùng bèn thiên đô qua đất Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang đặt quốc hiệu là U Việt. Đến đời vua Hùng Vương thứ VI mà người Tàu gọi là Câu Tiễn (496 tr. C.L.) Việt chiếm được Ngô trở thành cường quốc, làm bá chủ một khoảng đất phía Bắc tiến đến gần tỉnh Sơn Đông phía Tây gồm Việt Thường phía Nam giáp Hồ Tôn. Câu Tiễn mất, đế quốc chia cho con cháu. Một người con Câu Tiễn được làm vua đất Lạc Việt ở tận phía Nam giáp Hồ Tôn xưng Hùng Vương thứ VII hoặc vì có lẽ là con trưởng, hoặc vì có ý dòm ngó các nước Việt ở phía Bắc nên xưng như vậy để tỏ ý là chúa tể chính thức của dân Văn Lang. Đến đời vua Hùng Vương thứ XVIII, phía Bắc Lạc Việt có nước Âu Việt. Vua nước nầy là Thục An Dương Vương cướp được Lạc Việt nhập hai nước làm một gọi là Âu Lạc. Vì hai dân đều thuộc thị tộc Việt, ngôn ngữ cũng giống nhau nên con gái Hùng Vương thứ 18 gọi là Mị Nương, con gái An Dương Vương tên là Mị Châu đều có chữ Mị cả. Ấy là bằng chứng dân Âu Lạc tuy là hai nước mà vẫn là người Văn Lang, tức người Việt. 2- Nước Văn Lang Bờ cõi của nước Văn Lang theo sử cũ gồm có 15 bộ: 1. Văn Lang: (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên). 2. Châu Viên: (Sơn Tây vùng núi Ba Vì). 3. Phước Lộc: (Miền đồng bằng). 4. Tân Hưng: (Hưng Hóa Tuyên Quang). 5. Vũ Định: (Thái Nguyên và một phần đất của Hoa Nam). 6. Vũ Ninh: (Bắc Ninh). 7. Lục Hải: (Lạng Sơn và một phần Quảng Tây). 8. Ninh Hải: (Quảng Yên và một phần Quảng Đông).
  43. 43 Việt Sử Toàn Thư 9. Dương Tuyền: (Hải Dương). 10. Giao Chỉ: (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình). 11. Cửu Chân: (Thanh Hóa). 12. Hoài Nam: (Nghệ An Hà Tĩnh). 13. Cửu Đức: (Lưu vực sông Đà, sông Mã). 14. Việt Thường: (Quảng Bình, Quảng Trị) không phải là vị trí nguyên thủy. 15. Bình Văn: (?). Xét địa thế 15 bộ trên đây, ta thấy dưới đời những ông vua cuối cùng Hồng Bàng (thời Chu Mạt) vị trí địa dư của nước Văn Lang đã lùi xuống Bắc Việt, và phía Nam của Văn Lang gồm hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay. Còn cương vực của nước Văn Lang phía Bắc giáp hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam), phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), Phía Đông giáp Nam Hải, là cương vực cổ xưa của toàn thể gia đình Bách Việt hay là của nước Xích Quỉ, mà chúng ta chỉ là một chi phái. trong đoạn bàn về Bách Việt chúng tôi đã có dịp nói vào những thời khởi thủy dân Giao Chỉ sinh tụ ở Nam bộ Trung Quốc tại lưu vực sông Dương Tử, rồi tổ tiên chúng ta di cư dần xuống lưu vực sông Nhị và sông Mã. Tới nơi cuối nầy, địa bàn của chúng ta quả gồm có đúng 15 bộ đã kể trên. Sở dĩ có sự sai lầm mà ta thấy trong một vài cuốn sử chữ nho về vấn đề cương giới sau nầy của nước Văn Lang là vì chữ Văn Lang (trong cái tên Văn Lang) với chữ Dạ (trong cái tên Dạ Lang) hơi giống nhau. Dạ Lang đầu đời Hán là một nước Miêu Tử (Mèo) ở phía Nam Trung Quốc. Đây không phải là điều ức đoán bởi sách chép nhầm thật. Quyển Thông Điển (Quyển 181 25b) chép: Phong Châu là nước Văn Lang đời xưa (Cỗ nầy viết chữ lãng "lương" bên chữ nguyệt và cho rằng có sông Văn Lang). Nguyên Hòa Quân Huyện Chí (Quyển 38 tờ 9b) nói quả quyết rằng Phong Châu là đất của Dạ Lang đời xưa. Thực thế, trong địa phận huyện Tân Xương bấy giờ có khe nước Dạ Lang và đây là địa bàn của nước Miêu Tử. Nước nầy ăn qua một phần Quảng Tây và Quý châu, phía tây giáp La La (Lô Lô) gọi là Điền ở phía Tây Vân Nam, phía Đông Hồ Vân Nam thuộc Quận Kiện Ví, khi lệ thuộc về Hán từ năm III trước T.C. Sau quận ấy chia làm hai, phía Bắc là Kiện Ví phía Nam là Thương Ngô. Cuối đời Tiền Hán, quận Kiện Ví giáp phía Bắc và phía Tây sông Dương Tử. Còn quận thương Ngô giáp phía Bắc quận Kiện Ví và phía Tây quận Tân Ninh là nước Điền ngày xưa ở phía Đông Bắc Thương Ngô giáp quận Ngũ lãng, ở đấy có Hồ Động Đình. Tóm lại vì Dạ Lang và Văn Lang đã lấn nhau, tất nhiên người ta phải lầm bờ cõi Dạ Lang là của Văn Lang. Về vấn đề nầy, Ô. Lê Chí Thiệp phát biểu một ý kiến khác. Theo ông, trong thư tịch cũ của Trung Quốc không thấy nói tới tên Văn Lang, đến đời Thái Bình ngự lãm nhà Đường mới nói. Văn Lang để gọi chung người Kinh Man (dân Sở) ở dọc sông Dương Tử, người Việt ở Chiết Giang và người Lạc Việt là những người có vẽ mình, sau nầy sống ở Lưu Vực sông Dương Tử trôi dạt dân xuống tới bờ biển Nam Hải, bởi vậy các cổ sử mới
  44. 44 Việt Sử Toàn Thư ghi bờ cõi Văn Lang: Bắc giáp Hồ Động Đình, Đông giáp Nam Hải, Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành) v.v Tên Văn Lang nầy được đặt ra do một quan niệm chủng tộc để phân biệt với giống dân không vẽ mình chớ không phải là dân một nước Vậy nên kết luận rằng cương vực cũ của chúng ta khi còn là Giao Chỉ gồm hồ Động Đình, biển Nam Hải, Tứ Xuyên và Hồ Tôn. Sau nầy dân ta di cư xuống Bắc Việt thì nước ta chỉ gồm 15 bộ kể ở trên, hoàn toàn trên đất Bắc Việt và vào tới Nghệ An. Đây là vị trí địa dư cuối cùng của ta sau cuộc Nam chinh của nhà Tần và khi đế quốc Nam Việt của Triệu Đà thành lập. Ngoài ra ta còn thấy sử chép nước Văn Lang có 15 bộ. Trong đó có bộ Văn Lang, Giao Chỉ, Việt Thường là thế nào? phải chăng nhớ nguồn gốc của mình ngày xưa kia ở miền Hoa Nam, nên dân gian giữ các tên đó để đặt quốc hiệu hay đặt tên cho các bộ ? Giai cấp phong kiến thời thượng cổ của chúng ta như thế nào ? Theo Maspéro trong cuốn Royaume de Văn Lang BEEO trang 9, mỗi Lạc Tướng coi vài làng xóm, thuộc quyền Lạc Hầu là chủ những đất đai rộng bằng một tỉnh hay vài huyện ngày nay. Cũng có khi một vị Lạc Hầu đem chia bớt gia tài cho các con cháu và phong chúng làm Lạc Tướng. Công việc của các Lạc Hầu Lạc Tướng cai trị nhân dân. Khi họ nhàn rỗi thường họp nhau săn bắn. Tính họ hoạt động và hiếu chiến nên hay xung đột với các dân láng giềng. Ra trận họ mặc bộ áo giáp dầy dệt bằng lông chim hay bện bằng cỏ cây để tránh dấu tên hay mũi giáo; áo giáp có hai mảnh che đằng trước và đằng sau, từ ngang lưng thõng đến bắp chân. Mình mặc áo ngắn chẽn để hở cổ và hai cánh tay trạm hình sặc sỡ. Họ mang lá mộc (có chỗ gọi là lá chắn) hình vuông đan bằng tre trên mặt có kẻ hoa và vẽ mặt người. Đầu họ cũng đội một thứ mũ cũng bằng lông chim thực dài kết cái hình dữ dội. Họ đeo cung lớn, mang giáo dài và dao nhọn, luôn luôn bắn, phóng và đâm. Mũi tên có tẩm thuốc độc chạm vào da thịt dù chỉ sướt qua loa. thuốc cũng ngấm vào và phải chết. (Theo Parmentier: trong cuốn Lestambors de bronze). Dân lo việc giồng lúa cho họ ăn, làm nhà cho họ ở, cắt người phục dịch cho họ mà không được đòi công sá. Xét ra như vậy dân chỉ là một thứ tài sản của họ mà thôi. Ngày nay các dân tộc thiểu số dưới chế độ quan Lang ở miền Bắc Việt có thể nói là hình ảnh hoàn toàn của chế độ Lạc Hầu, Lạc Tướng thuở xưa. Các vị Lạc Hầu, Lạc Tướng tuy giữ quyền tự trị ở khu vực của mình nhưng cũng phải theo về một vị tù trưởng giàu mạnh ở phía Tây Bắc Trung châu sát với Trung du gồm địa phận tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên, Sơn Tây ngày nay. Đây là một miền có nhiều thung lũng phì nhiêu, đồi đất tốt, dân đông đảo phát đạt hơn cả. Kinh đô của Lạc Vương đóng ở Phong Châu (vào địa hạt huyện Bạch Hạc tỉnh Vĩnh Yên bây giờ). Họ nhà vua gọi Hồng Bàng. Lạc Vương đặt quan chế như sau: tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, các quan nhỏ gọi là Bồ chính. Con vua gọi là quan Lang. Con gái gọi là Mị Nương. Các Lạc Hầu được đặt trên các Lạc Tướng và có thôn, ấp lớn hơn. Hết thảy từ vua đến chúa đến các Lạc Hầu, Lạc Tướng điều có quyền thế tập.