Giáo trình Xã hội hóa giáo dục và y tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Nguyễn Ngọc Hà

pdf 7 trang huongle 2540
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Xã hội hóa giáo dục và y tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Nguyễn Ngọc Hà", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_xa_hoi_hoa_giao_duc_va_y_te_trong_nen_kinh_te_thi.pdf

Nội dung text: Giáo trình Xã hội hóa giáo dục và y tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Nguyễn Ngọc Hà

  1. Tạp chí Khoa học xã hộiTRIẾT Việt Nam, - LUẬT số 11( 9-6 TÂM) - 2015 LÝ - XÃ HỘI HỌC Xã hội hóa giáo dục và y tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Nguyễn Ngọc Hà * Chu Thị Thanh Vui Tóm tắt: Xã hội hóa giáo dục và y tế ở Việt Nam trong thời gian qua đã đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế thị trường; thu hút được nguồn lực nhàn rỗi to lớn để phát triển xã hội; góp phần giảm chi phí từ ngân sách; đáp ứng được nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng của nhân dân. Cùng với xã hội hóa giáo dục và y tế, thị trường giáo dục và y tế cũng được hình thành. Xã hội hóa giáo dục và y tế mang lại nhiều lợi ích nên cần được đẩy mạnh hơn nữa. Để đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và y tế cần thực hiện nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật hiện hành; hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục và y tế; tinh gọn bộ máy quản lý của nhà nước về giáo dục và y tế; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục và y tế; mở rộng hơn nữa cửa cho đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và y tế; chống chủ nghĩa bằng cấp trong giáo dục. Từ khóa: Giáo dục; y tế; xã hội hóa; thị trường; dịch vụ. 1. Mở đầu dung của đổi mới giáo dục và y tế đã được Giáo dục và y tế là lĩnh vực quan trọng thừa nhận là xã hội hóa giáo dục và y tế. của xã hội, liên quan đến quyền lợi và nhu Nhưng thực chất của xã hội hóa giáo dục và cầu sống cơ bản của con người. Xã hội có y tế là gì? Lợi ích và tính tất yếu của xã hội tiến bộ, có phát triển bền vững hay không; hóa giáo dục như thế nào? Đây là những điều đó phụ thuộc nhiều vào sự tiến bộ câu hỏi vẫn còn có ý kiến khác nhau. Bài trong giáo dục và y tế. Do tầm quan trọng viết này đề cập đến các vấn đề đó.(*) của giáo dục và y tế cho nên các nhà nước 2. Thực chất của xã hội hóa giáo dục hiện đại đều chú trọng phát triển lĩnh vực và y tế này. Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục và y tế Xã hội hóa giáo dục và y tế ở Việt Nam đã và đang được Nhà nước đặc biệt quan đồng hành với quá trình đổi mới từ cơ chế tâm. Cùng với sự nghiệp đổi mới về kinh tế, kinh tế tập trung sang cơ chế kinh tế thị lĩnh vực giáo dục và y tế cũng đã được đổi trường; đó là sự chia sẻ trách nhiệm cung mới rất căn bản. Tuy nhiên lĩnh vực này cần được đổi mới hơn nữa. Một chiến lược đổi (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Tạp chí Khoa học xã hội Việt mới dài hạn cho giáo dục và y tế vẫn chưa Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. được hình thành rõ ràng và chưa được sự ĐT: 0912179286. Email: nguyenngocha08@gmail.com. ( ) Thạc sĩ, Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định. đồng thuận của xã hội. Một trong những nội ĐT: 0982626810. Email: thanhvuidd@gmail.com. 28
  2. Xã hội hóa giáo dục và y tế cấp các dịch vụ công về giáo dục và y tế từ cung không đáp ứng được nhu cầu lớn của nhà nước sang khu vực ngoài nhà nước. Xã nhân dân về giáo dục và y tế. Nhận thấy hội hóa giáo dục và y tế cũng gắn liền với nhu cầu giáo dục và y tế của người dân tăng việc xác định chức năng của nhà nước là cao trong khi Nhà nước không đủ kinh phí quản lý bằng chính sách và kiểm tra thay đầu tư cho giáo dục và y tế, Nhà nước dần cho trực tiếp vận hành các thể chế giáo dục dần cho phép tư nhân tham gia hoạt động và y tế. Đó là quan niệm được nhiều tác giả cung cấp dịch vụ giáo dục và y tế (phải theo thừa nhận. chương trình do Nhà nước quản lý). Tư Trong thời kỳ bao cấp, Nhà nước bao nhân được tham gia cung cấp dịch vụ giáo cấp về giáo dục và y tế. Sự bao cấp đó lớn dục và y tế, tức là được kinh doanh trong đến mức Nhà nước là thành phần duy nhất lĩnh vực giáo dục và y tế. Đó là sự chuyển trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục và y tế đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế cho nhân dân. Giống như trong lĩnh vực sản thị trường trong giáo dục và y tế. Một trong xuất vật chất chỉ có kinh tế quốc doanh và những mục đích kinh doanh (không phải tập thể, trong lĩnh vực giáo dục và y tế hầu mục đích duy nhất) của người kinh doanh như cũng chỉ có giáo dục và y tế thuộc sở (doanh nhân) nói chung và người kinh hữu của Nhà nước. Nói cách khác, Nhà doanh trong giáo dục và y tế là lợi nhuận. nước độc quyền trong lĩnh vực giáo dục và Điều đó cũng có nghĩa rằng, giáo dục và y y tế, không cho phép tư nhân được tham gia tế cũng là thị trường để kinh doanh. Ai có kinh doanh để thu lợi nhuận trong lĩnh vực vốn và đáp ứng yêu cầu của luật pháp đều này. Nhà nước bao cấp giáo dục và y tế, được mở trường học và bệnh viện. Không thậm chí dành một khoản ngân sách lớn cho chỉ người Việt Nam mà cả người nước giáo dục và y tế. Điều đó có mặt tích cực ngoài cũng được phép bỏ vốn để kinh nhưng cũng có mặt tiêu cực ở chỗ, người doanh giáo dục và y tế tại Việt Nam. Nói dân ỷ lại vào Nhà nước và không muốn bỏ cách khác, bên cạnh trường công và bệnh vốn đầu tư cho giáo dục và y tế. Nhà nước viện công còn có cả trường tư và bệnh viện không cho phép kinh tế tư bản tư nhân tồn tư. Vốn của các trường tư và bệnh viện tư tại, tức là không cho phép tư nhân thuê lao có thể là sở hữu hoàn toàn của người Việt động để kinh doanh thu lợi nhuận (vì quan Nam hoặc là sở hữu chung (cùng góp vốn) niệm rằng đó là sự bóc lột người lao động). của người Việt Nam và người nước ngoài. Từ quan niệm đó, nhà nước đương nhiên Người Việt Nam không chỉ được phép bỏ cũng không cho phép tư nhân đầu tư kinh tiền ra để mua dịch vụ giáo dục và y tế của doanh trong lĩnh vực giáo dục và y tế để thu tư nhân tại Việt Nam (cụ thể học tại các lợi nhuận. Mặc dù nhiều người có thể huy trường tư và chữa bệnh tại bệnh viện tư ở động vốn để đầu tư trong giáo dục và y tế Việt Nam), mà còn được phép mua dịch vụ nhưng luật pháp không cho phép họ làm giáo dục và y tế của các trường tư và bệnh điều đó. Do nguồn cung từ Nhà nước có viện tư ở nước ngoài. Được phép kinh hạn, mà tư nhân lại không được tham gia doanh trong giáo dục và y tế, đó là nội dung cùng với Nhà nước để cung cấp dịch vụ cơ bản của xã hội hóa giáo dục và y tế. Xã giáo dục và y tế cho nhân dân nên nguồn hội hóa giáo dục và y tế là việc làm bình 29
  3. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 thường ở các nước có nền kinh tế thị trường người bệnh trả cho họ. Thầy thuốc có thể phát triển. Nhưng ở Việt Nam thì đó là điều trở nên giàu nếu có trình độ nghề nghiệp mới mẻ do trong thời gian dài Nhà nước giỏi. Như vậy, xét thực chất thì xã hội hóa xóa bỏ xã hội hóa giáo dục và y tế, tức là giáo dục và y tế là việc làm bình thường không cho phép tư nhân tham gia cung cấp trong nền kinh tế thị trường. dịch vụ giáo dục và y tế cho nhân dân để 3. Xã hội hóa giáo dục và y tế với sự thu lợi nhuận. hình thành thị trường giáo dục và y tế Trong xã hội phong kiến Việt Nam hàng Khi thực hiện xã hội hóa giáo dục và y ngàn năm, nhà nước phong kiến không bao tế thì dịch vụ giáo dục và y tế được thừa cấp giáo dục và y tế; người dân tự lo việc nhận là một hàng hóa. Trong nền kinh tế học và chữa bệnh; nhà nước không cấm tư thị trường thì giáo dục và y tế cũng là một nhân làm nghề dạy học và chữa bệnh. Như thị trường. Thị trường giáo dục và y tế có vậy, xã hội hóa giáo dục và y tế là việc làm thể lành mạnh hoặc không lành mạnh tùy bình thường trong xã hội phong kiến Việt theo người mua và bán. Ở các nước có nền Nam. Nói cách khác, Việt Nam từ cách đây kinh tế thị trường phát triển, hệ thống pháp hàng ngàn năm đã có xã hội hóa giáo dục luật thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường và y tế rồi. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã hoàn thiện thì thị trường giáo dục và y không đảm nhiệm việc giáo dục mà chỉ tế khá lành mạnh. Người ta đua nhau chọn người tài để sử dụng hoặc tổ chức thi quảng cáo để thu hút người học và người tuyển để chọn người tài. Tuy Nhà nước có bệnh. Nhiều trường và bệnh viện có lúc cũng mở trường đào tạo, nhưng số thương hiệu có thể thu hút khách hàng lượng rất hạn chế. Đó là việc mở Trường (người học và người bệnh) từ khắp thế Quốc Tử Giám, ở đó học sinh chủ yếu là giới. Mặc dù vậy ở các nước phát triển con của vua và quan, họ được Nhà nước cũng có nhiều tiêu cực trong hoạt động cấp lương để học, không phải đóng học phí. giáo dục và y tế. Nhiều người lừa đảo Còn lại, nhìn chung nhà nước không trực khách hàng, không cung cấp cho khách tiếp đảm nhiệm việc giáo dục, không chi hàng dịch vụ như quảng cáo, họ “treo đầu tiền cho người học, thậm chí không quyết dê bán thịt chó”, gây thiệt hại cho khách định nội dung học tập; việc học là việc của hàng là người học và bệnh nhân. người dân. Người học tự chọn thầy để học. Ở nước ta, thị trường giáo dục và y tế Nội dung học do họ quyết định. Dạy học trở tuy mới phát triển nhưng cũng rất sôi động. thành nghề để sống. Người có nhu cầu học Không chỉ các trường tư và bệnh viện tư thì trả tiền cho thầy dạy. Các thầy giáo thì tham gia cung cấp dịch vụ giáo dục và y tế cạnh tranh để thu hút học sinh. Họ đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nhiều để đáp ứng nhu cầu của người học. Nhìn trường công và bệnh viện công cũng tham chung chỉ những người giàu có mới có tiền gia hoạt động cung cấp dịch vụ này để đáp để đi học. Đối với y tế cũng vậy. Nhà nước ứng nhu cầu đa dạng của người học và phong kiến không mở bệnh viện công, người bệnh (học thêm và chữa bệnh theo không trả lương cho thầy thuốc. Thầy thuốc nhu cầu là một hình thức cung cấp dịch vụ là một nghề, họ sống được là do thù lao mà giáo dục và y tế). Hệ thống trường học và 30
  4. Xã hội hóa giáo dục và y tế bệnh viện nhờ đó ngày càng phát triển, giáo dục ở nước ta hiện nay không phải là khang trang, hiện đại. hiếm. Nhưng điều đó không phải là bản Trong giáo dục, nhiều trường công ra chất của xã hội hóa giáo dục. Không phải sức quảng cáo để thu hút người học. xã hội hóa giáo dục tất yếu gây nên những Trường công có ưu thế vì được Nhà nước hiện tượng tiêu cực như vậy. đầu tư. Một phần học phí của người học chi Trong y tế, xã hội hóa đã đem lại nhiều trả được chia cho người dạy. Trường nào thành tựu. Nhờ nguồn lực thu hút từ người dạy tốt thì thu hút nhiều người học, giáo dân nên hệ thống y tế đã phát triển nhanh viên và người quản lý sẽ có thu nhập cao. chóng. Không chỉ các bệnh viện tư mà ngay Ngược lại, trường nào dạy kém thì thu hút cả bệnh viện công cũng được đầu tư khang được ít người học, giáo viên và người quản trang và hiện đại hơn nhờ nguồn lực từ lý sẽ không có thu nhập cao. Hiện nay, nhu người dân. Người dân có nhiều cơ hội lựa cầu học tập của người dân là rất lớn. Người chọn để chữa bệnh theo nhu cầu. Nhưng Việt Nam rất hiếu học, sẵn sàng chi khoản bên cạnh đó hiện tượng tiêu cực trong quan tiền lớn cho học tập. Thị trường giáo dục hệ mua bán giữa người cần dịch vụ y tế và đầy tiềm năng, nhất là khi Nhà nước có ưu người cung cấp dịch vụ y tế cũng còn đãi trong lĩnh vực giáo dục. Xã hội hóa giáo nhiều. Trong quan hệ này phần thiệt thường dục đã mang đến cho giáo dục nhiều thành thuộc về người mua. Dịch vụ chữa bệnh mà tựu. Nhưng tiêu cực trong xã hội hóa giáo người bệnh được hưởng không tương xứng dục cũng không ít, thậm chí đang là hiện với số tiền mà họ đã chi trả. Nhưng cũng tượng báo động. Để thu lợi nhuận, nhiều như trong giáo dục, điều đó không phải là trường công đã lách luật, lợi dụng khe hở bản chất của xã hội hóa y tế. Không phải xã của luật hoặc vi phạm luật. Bằng nghệ thuật hội hóa y tế là nguyên nhân gây nên những quảng cáo, họ thu hút được người học khá hiện tượng tiêu cực như vậy. đông. Họ thu nhiều tiền của người học 4. Các biện pháp để đẩy mạnh xã hội nhưng trả cho người học một mớ kiến thức hóa giáo dục và y tế vô bổ. Người học sau khi mua được một Xã hội hóa giáo dục và y tế là xu thế tất mớ kiến thức vô bổ ấy đã không biết để làm yếu của nền kinh tế thị trường. Khi kinh tế gì, sử dụng như thế nào. Họ học để muốn thị trường càng phát triển thì xu hướng xã có việc làm. Nhưng kiến thức thu được ấy hội hóa giáo dục và y tế càng mạnh mẽ. Xã không thể giúp họ làm được gì. Họ phải đào hội hóa giáo dục và y tế rất có lợi cho xã tạo lại hoặc đi làm nghề khác. Đó là sự lãng hội. Cái lợi của xã hội hóa giáo dục và y tế phí của xã hội. Thị trường giáo dục càng trở là: thu hút nguồn lực nhàn rỗi để phát triển nên sôi động khi Nhà nước có những quy giáo dục và y tế; giảm biên chế khu vực định về tuyển dụng và bổ nhiệm người lao công; giảm chi phí từ ngân sách và do đó động theo bằng cấp. Với quy định như vậy giảm gánh nặng thuế cho người dân; góp thì nhiều người đi học để có bằng chứ phần làm trong sạch bộ máy; bớt đi cơ hội không cần có kiến thức. Họ thuê học (một xuất hiện tiêu cực trong các cơ quan nhà hiện tượng có lẽ chỉ có ở Việt Nam). Những nước về giáo dục và y tế; và còn nhiều cái hiện tượng tiêu cực như thế trong thị trường lợi khác. Xã hội hóa giáo dục và y tế đúng 31
  5. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 đắn sẽ lành mạnh vì đó là sự mua bán mọt Thứ ba, tinh gọn bộ máy quản lý của nhà loại dịch vụ hàng hóa. Khi nhà nước không nước về giáo dục và y tế. Bộ máy quản lý đáp ứng được nhu cầu đa dạng về giáo dục giáo dục và y tế (nhất là giáo dục) của Nhà và y tế của người dân thì người dân tự cung nước hiện vẫn quá cồng kềnh. So với thời cấp cho nhau. Vấn đề là sự mua bán phải kỳ bao cấp giáo dục và y tế tràn lan thì hiện theo nguyên tắc thị trường, phải lành mạnh. nay, bộ máy quản lý giáo dục của Nhà nước Để đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và y tế tuy giảm bớt nhưng vẫn còn cồng kềnh, cần có nhiều biện pháp trong đó cần chú ý lãng phí. Với sự tăng cường xã hội hóa giáo các biện pháp sau: dục, bộ máy quản lý giáo dục và y tế của Thứ nhất, thực hiện nghiêm chỉnh chính Nhà nước càng phải tinh gọn hơn giống như sách và pháp luật hiện hành. Trong quá bộ máy quản lý giáo dục và y tế của các trình xã hội hóa giáo dục và y tế, Nhà nước nước có nền kinh tế thị trường phát triển. ta đã hình thành hệ thống chính sách và Thứ tư, tạo môi trường cạnh tranh lành pháp luật giáo dục và y tế ngày càng hoàn mạnh trong việc cung cấp dịch vụ về giáo thiện theo cơ chế thị trường. Mọi người, dục và y tế. Trong nền kinh tế thị trường trước hết là những người tham gia cung lành mạnh thì cạnh tranh phải lành mạnh. cấp dịch vụ giáo dục và y tế phải tuân thủ Kinh doanh trong giáo dục và y tế cũng phải nghiêm túc chính sách và pháp luật về giáo giống như trong các lĩnh vực khác. Các cở dục và y tế. Những hiện tượng tiêu cực sở kinh doanh (trường học, bệnh viện) phải trong lĩnh vực giáo dục và y tế không phải tuân thủ nghiêm túc “luật chơi” của nền kinh do xã hội hóa giáo dục và y tế, mà là do vi tế thị trường (quy định trong kinh doanh). phạm các chính sách và pháp luật về giáo Các trường tư, bệnh viện tư cần được Nhà dục và y tế. Chẳng hạn, quy định về tiêu nước đối xử công bằng như các trường công, chuẩn để được công nhận học hàm, học vị bệnh viện công. Nhà nước có thể bao cấp không phải ai cũng thực hiện đúng. Việc cho giáo dục và y tế với mức như thời kỳ thực hiện quy định đó có nhiều tiêu cực. Sự kinh tế tập trung bao cấp hoặc với mức tiêu cực nhiều đến mức nó được coi như là nhiều hơn nữa. Đối với những người nghèo chuyện bình thường hàng ngày. Chống các việc bao cấp của Nhà nước là cần thiết và hiện tượng tiêu cực đó không có nghĩa là được xã hội đồng tình. Tuy nhiên, bao cấp chống xã hội hóa giáo dục và y tế. không để dẫn đến bất công. Nếu Nhà nước Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật đối xử không công bằng giữa trường công, về giáo dục và y tế. Nhà nước cần tạo môi bệnh viện công với trường tư, bệnh viện tư trường pháp luật lành mạnh, công bằng cho bằng cách trợ giá cho trường công, bệnh mọi người tham gia kinh doanh giáo dục và viện công thì các trường tư, bệnh viện tư sẽ y tế. Pháp luật cần đồng bộ, cụ thể, rõ ràng, khó tồn tại, bởi vì với hàng hóa và dịch vụ ổn định. Mọi người tham gia kinh doanh có chất lượng như nhau thì khách hàng sẽ giáo dục và y tế đều hiểu rõ mình không lựa chọn hàng hóa và dịch vụ rẻ hơn để mua. được làm cái gì, nếu làm thì bị trừng phạt Hơn nữa, sự bao cấp không công bằng sẽ như thế nào. Ở nước ta một hệ thống pháp nuôi dưỡng sự ỷ lại của trường công, bệnh luật như vậy còn thiếu. viện công vào ngân sách nhà nước. 32
  6. Xã hội hóa giáo dục và y tế Thứ năm, mở rộng hơn nữa cửa cho đầu y tế cũng là một thị trường. Ở đó có quan tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục và y hệ giữa người mua và người bán. Nhiều tế. Hàng vạn người Việt Nam bỏ nhiều tiền người cho rằng, đối với giáo dục và y tế thì để đi học và chữa bệnh ở nước ngoài, không thể mua và bán. Quan niệm này nghĩa là để mua dịch vụ giáo dục và y tế từ không đúng vì mua và bán không phải là nhà đầu tư nước ngoài tại nước ngoài. Nếu không có tình nghĩa. Mua bán nói chung và mở rộng cho người nước ngoài đầu tư giáo mua bán dịch vụ giáo dục và y tế nói riêng dục và y tế theo tiêu chuẩn của họ tại Việt nếu lành mạnh thì có lợi cho cả người mua Nam thì sẽ có nhiều người Việt Nam và người bán. Người mua và người bán đều không phải bỏ số tiền lớn để ra nước ngoài có được thứ mình cần. Đối với những người học và chữa bệnh vì họ có thể mua được có nhu cầu học tập và chữa bệnh nhưng dịch vụ tương đương tại Việt Nam với số không có tiền thì Nhà nước cần hỗ trợ. Nhà tiền chi phí ít hơn. nước nào ít nhiều cũng thực hiện điều đó Thứ sáu, chống chủ nghĩa bằng cấp thông qua hệ thống phúc lợi xã hội và an trong giáo dục. Chủ nghĩa bằng cấp là sự sinh xã hội. Xã hội hóa giáo dục và y tế ở tuyệt đối hóa bằng cấp trong việc đánh giá nước ta trong thời gian qua đã từng bước con người. Hiện nay, lĩnh vực giáo dục ở phát triển theo sự phát triển của nền kinh tế nước ta đang được dư luận xã hội quan tâm thị trường. Xã hội hóa giáo dục và y tế trên vì có nhiều hiện tượng tiêu cực. Chúng ta thực tế tuy còn nhiều hạn chế cần khắc dễ dàng biết về các hiện tượng tiêu cực ấy. phục nhưng về cơ bản đã đáp ứng được nhu Những người làm công tác giáo dục (nhà cầu đa dạng và ngày càng tăng của nhân giáo và nhà quản lý giáo dục) càng biết rõ. dân về giáo dục và y tế, do đó cần được đẩy Thực chất của những hiện tượng tiêu cực ấy mạnh hơn nữa. là sự mua bán không công bằng giữa người mua và người bán (giữa người cung cấp Tài liệu tham khảo dịch vụ và người cần dịch vụ giáo dục). Họ 1. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (1993), Một số có thể thuận mua vừa bán nhưng đó là mua vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện nay, bằng chứ không phải mua kiến thức. Như Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. vậy, người mua là một nhân tố góp phần 2. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1997), Xã làm nên tiêu cực trong giáo dục. Nhưng vì hội hoá công tác giáo dục, Nxb Giáo dục, sao người học lại bỏ tiền ra để mua bằng Hà Nội. mà không mua kiến thức? Vì họ cần bằng 3. (2005),“Xã hội hóa công tác y tế: những vấn để được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm các đề đặt ra”, Tạp chí Công tác Khoa giáo, số 10. chức vụ nào đó. Nếu không có chủ nghĩa 4. Cao Thu Hằng (Chủ nhiệm) (2014), bằng cấp thì không ai dại dột đi mua cái mà Chính sách xã hội hóa giáo dục và y tế ở Việt họ không cần. Nam hiện nay, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề 5. Kết luận tài khoa học do Viện Triết học chủ trì, Hà Nội. Giáo dục và y tế là lĩnh vực quan trọng 5. Nguyễn Hữu Khiển (2014), “Xã hội hóa và nhạy cảm của xã hội. Tuy nhiên, trong giáo dục: Những lợi ích và rào cản”, Tạp chí nền kinh tế thị trường, dịch vụ giáo dục và Khoa học xã hội Việt Nam, số 2. 33
  7. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 34