Giáo trình Xã hội học giáo dục
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Xã hội học giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_xa_hoi_hoc_giao_duc.pdf
Nội dung text: Giáo trình Xã hội học giáo dục
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 000 GIÁO SƯ - TIẾN SỸ KHOA HỌC NGUYÊN VĂN HỘ XÃ HỘI HỌC GIÁO DỤC HÀ GIANG, NGÀY 27/6/2004
- Phần I NHŨNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI HỌC I. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của xã hội học 1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học Đối tượng nghiên cứu của xã hội học (XHH) là xã hội loài người, trong đó quan hệ xã hội (tương quan xã hội) được xuất phát từ con người xã hội (XH) và được biểu hiện thông qua các sinh hoạt XH, lao động và hành vi XH giữa người với người. - Tìm hiểu tính quy luật trong quan hệ giữa người với người (trong gia đình, bạn bè, cộng đồng). Tính quy luật ấy còn được gọi là hình thái biểu hiện XH do con người XH và vì con người XH. Trong cùng một tình huống, tuỳ thuộc vào vị thế XH mà có cách ứng xử khác nhau. - Tìm hiểu hệ thống XH, cơ cấu XH (mối quan hệ giữa cá nhân trong tương quan XH với nhóm, với cộng đồng diễn ra như thế nào). + Tìm hiểu nhóm cộng đồng (giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi, trình độ văn hoá ). Các chuẩn mực, giá trị, thiết chế XH, bản sắc văn và những khuôn mẫu, chuẩn mực hành động xã hội của mỗi nhóm người). 2. Quan hệ giữa XHH với các khoa học khác: là một khoa học thuộc hệ thống khoa học xã hội, XHH liên quan mật thiết đến nhiều khoa học trong hệ thống khoa học XH như Triết học, Tâm lý học, Nhân chủng học - Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở chung của XHH - là phương pháp luận cơ bản khi xem xét, đánh giá các hiện tượng xã hội. (Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về XH và phát triển XH; vận dụng các phạm trù, khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét, phân tích, rút ra các kết luận về các vấn đề tương quan trong XHH). - Các hệ thống khác nhau của những quan hệ XH và các lĩnh vực, các mặt khác nhau của đời sống XH cũng trở thành đối tượng của các chuyên ngành XHH khác nhau: XHH nông thông, XHH đô thị, XHH giới, XHH giáo dục, XHH tội phạm v.v - XHH nghiên cứu cụ thể những hình thức quan hệ XH như lối sống, đời sống cá nhân, cơ cấu XH, những lĩnh vực của đời sống XH như sinh hoạt văn hoá, gia đình, giáo dục, dân số, dân cư v.v - Các khoa học khác có liên quan đến XHH như: + Khoa học chính trị (nghiên cứu về quyền lực, quản lý XH) + Kinh tế học (nghiên cứu về sản xuất, phân phối, tiêu dùng, hàng hoá và dịch vụ) 2
- + Nhân chủng học bao gồm khảo cổ học (nghiên cứu những gì còn lại của nền văn minh đã mất). + Ngôn ngữ học (nghiên cứu về tiếng nói và chữ viết) + Nhân chủng học tự nhiên (nghiên cứu về quá trình tiến hoá của nhân loại về mặt vật chất). + Nhân chủng học XH và văn hoá (nghiên cứu về văn hoá học và nghiên cứu các phương thức sống của các cộng đồng trên thế giới). Trong quá trình nghiên cứu XHH có 3 yếu tố thường gây khó khăn đó là: + Tính chất phức tạp về nội dung XH với ý nghĩa là đối tượng nghiên cứu XHH. + Tính chất đa dạng, phức hợp trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội. + Tính chất vận động và phát triển (tính chất động) của các phương pháp, giải pháp đối với các vấn đề XH (khác với khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật). 3. Cơ cấu XHH: Tất cả các khoa học nghiên cứu về XH (đều lấy XH làm đối tượng nghiên cứu) đều là những khoa học XH, trong đó có XHH. Song, không phải mọi khoa học xã hội đều là XHH. Các khoa học về XH như Triết học, Lịch sử học, Địa lý nhân văn, Văn hóa học, Kinh tế chính trị học, Đạo đức học, Mỹ học, Lý luận về nhà nước và pháp quyền. . . là các ngành học trong hệ thống KHXH, nhưng chúng là những KH độc lập, có đối tượng, phương pháp nghiên cứu riêng, độc lập với XHH. - Trong nghiên cứu XHH, có thể có ba mức độ (phạm vi) nghiên cứu: + Nghiên cứu cơ cấu tổng thể XH (chẳng hạn từ tính chất, đặc điểm của hình thái kinh tế xã hội mà chia thành XH nô lệ, phong kiến, tư bản (nghiên cứu ở cấp độ này là nghiệm vụ của XHH vĩ mô). + Nghiên cứu sự vận hành của cơ chế XH, các tập hợp XH (nhóm, cộng đồng ) trong quá trình quản lý XH. + Nghiên cứu cá nhân với tư cách cách là con người XH trong các mối tương quan XH, đó là XHH vi mô. * Các cấp độ nghiên cứu của XHH: - XHH đại chúng: là cấp độ cơ bản của lý thuyết XHH, của KH về các quy luật hoạt động và phát triển XH, về mối liên hệ vốn có giữa các yếu tố hợp thành hệ thống XH. - XHH chuyên ngành: là một bộ phận của XHH, trong đó áp dụng lý luận XHH vào nghiên cứu các mặt khác nhau, sự vận động và phát triển của XH trong một giới hạn xác định (nông thôn, đô thị, nông nghiệp, giới ) + XHH chuyên ngành là cấp độ KH nghiên cứu các mối quan hệ XH có tính chất 3
- bộ phận phản ánh mối liên hệ khách quan giữa các mặt khác nhau của đời sống XH. + Lý luận XHH chuyên ngành là khâu trung gian gắn lý luận XHH đại cương với NC các hiện tượng của đời sống XH ở các mặt khác nhau. + XHH chuyên ngành có 4 nhóm: Yếu tố XHH: văn hoá, cấu trúc XH, XH hoá, tương tác XH, sự lệch chuẩn, sự kiểm soát XH, các cộng đồng dân cư. Bất bình đẳng XH: sự phân tầng của các giai cấp, bất bình đẳng dân tộc và chủng tộc, vai trò của giới và bình đẳng theo giới, bất bình đẳng theo lứa tuổi. Thiết chế XH: gia đình, tôn giáo, giáo dục, chính trị, kinh tế XH biến cách: tính năng động XH, hành vi tập thể, các phong trào XH, chuẩn mực XH, các biến đổi XH. - XHH thực nghiệm (XHH cụ thể): là một bộ phận nghiên cứu XHH, trong đó các kết luận XHH về XH được rút ra từ trực tiếp quan sát, trắc nghiệm, thực nghiệm, kiểm chứng thực tế đối với các đối tượng XH. 4. Chức năng của XHH : - Nhận thức - Thực tiễn 5. Tư tưởng Nhiệm vụ của XHH - Nghiên cứu các hình thức biểu hiện và cơ chế hoạt động của các quy luật hoạt động của xã hội, của phát triển xã hội nói chung. - Phục vụ cho công tác tổ chức, quản lý XH trực tiếp và gián tiếp. II. Các hình thức biểu hiện cơ bản của cấu trúc XH: 1. Cấu trúc XH - GC: Là kết cấu và mối liên hệ XH giữa các giai cấp và phân chia GC dựa trên các yếu tố cơ bản như: quan hệ sở hữu về TLSX; vị trí XH của con người trong hệ thống sản xuất và tổ chức lao động XH; phân phối lợi ích XH; nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người trong đời sống XH. (Có thể xem cấu trúc này là hạt nhân của cấu trúc XH, bởi nó quy định bản chất và tính chất của các mối quan hệ và cấu trúc xã hội khác). 2. Cấu trúc XH - lao động (nghề nghiệp): Là kết cấu và mối liên hệ giữa các lực lượng lao động, các ngành nghề lao động khác nhau trong xã hội, trên cơ sở của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động XH. 4
- (Là biểu hiện cụ thể của quá trình phá triển kinh tế của XH. Nó quan tâm đặc biệt tới mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa các tập hợp lao động nghề nghiệp - lao động chân tay, lao động trí óc, lao động quản lý; giữa lao động thủ công và lao đông kỹ thuật; lao động thực hành và lao động lý thuyết; lao động công nghiệp - lao động nông nghiệp - lao động dịch vụ) . 3. Cấu trúc xã hội - dân số: Là kết cấu và mối liên hệ XH trong thực tại của tái sản xuất nhân khẩu (mức sinh, mức tử) của tỷ lệ các mức tuổi, của chỉ số giới tính, của mật độ dân số, của biến động dân cư - di dân, của quy mô gia đình và quan hệ thế hệ (họ tộc). (Nó bị chi phối bởi bản chất, quy luật và thực trạng của tự nhiên, đồng thời nó bị chi phối và quy định bởi con người và xã hội). III. Đặc điểm của cấu trúc XH: Cấu trúc xã hội có những đặc điểm cơ bản sau: 1. Nó là một tập hợp các yếu tố tạo thành xã hội như (các nhóm xã hội, các tầng lớp XH, các giai cấp, các dân tộc, các cộng đồng XH, v.v ) được liên kết với nhau tổ chức một cách thống nhất. Sự liên kết này có tính bền vững tương đối phản ánh một kiểu loại XH xác định. Nhiệm vụ của XHH khi nghiên cứu cấu trúc xã hội là phải tìm ra các yếu tố cấu thành xã hội. Các quy luật chi phối mối quan hệ giữa chúng và trật tự sắp xếp chúng theo thứ bậc)theo đặc thù riêng của kết cấu - tổ chức xã hội. 2. Cấu trúc xã hội tồn tại trong sự vận động, thống nhất biện chứng của hai thành phần chủ yếu tạo nên hệ thống XH, đó là các thành phần, tập hợp xã hội và các mối liên hệ tồn tại giữa các thành phần, tập hợp xã hội đó. Các thành phần, tập hợp XH có tính độc lập tương đối nhưng chỉ tồn tại nhờ các mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng và ngược lại, những mối liên hệ XH chỉ tồn tại nhờ sự có mặt của các thành phần và tập hợp XH. 3. Cấu trúc xã hội với sự vận động biện chứng của hai thành tố nêu trên tạo nên cơ sở cho sự hiện diện của một xã hội tương ứng bao gồm trong nó những con người xã hội, vị thế và vai trò cua nó trong xã hội, những nhóm XH và địa vị của mỗi giai cấp, các hành động và tương tác xã hội, các thiết chế XH, chuẩn mực XH, tổ chức XH, biến đổi và phát triển XH, và ngay cả những lĩnh vực cụ thể của XH như kinh tế, văn hoá, giáo dục, đạo đức, tôn giáo v.v Tất cả những yếu tố xã hội tồn tại trong một cấu trúc XH cụ thể luôn vận động trong sự thống nhất và đôi khi có sự xung đột, tạo nên quá trình phát triển của mỗi hình thái cấu trúc xã hội xác định. - Cấu trúc xã hội là một tổng thể các yếu tố, các thành phần của hệ thống XH nhờ sự liên kết có tính thống nhất bền vững tương đối, ổn định tạm thời. Các yếu tố, các thành phần, tạo nên mặt nội dung của cấu trúc luôn biến đổi, còn các mối liên hệ giữa chúng - cấu trúc XH có khuynh hướng chủ đạo là ổn định và bền vững tương đối. Tuy nhiên, trong những chừng mực nhất định, khi nội dung xã hội biến đổi, đến một mức 5
- độ nào đó, sẽ kéo theo sự biến đổi tương ứng của cấu trúc xã hội. IV. Các hình thức biểu hiện cơ bản của cấu trúc xã hội: 1. Tập hợp xã hội: Là một hình thức quan hệ XH giữa những con người XH theo nhu cầu, lợi ích và mục đích XH nhất định. Nó được thể hiện dưới các dạng: - Nhóm XH: là một tập hợp XH, trong đó các cá nhân XH liên hệ với nhau theo những tính chất XH nhất định + Huyết thống, dòng họ: nhóm gia đình, nhóm họ tộc + Lứa tuổi hay giới tính: thanh niên, phụ nữ + Lao động nghề nghiệp: nông dân, kinh doanh + Chính trị hay tổ chức chính trị: giai cấp, chính trị + Văn hoá: NCKH, nghệ thuật + Chức năng XH: giáo dục, quản lý nhà nước + Vùng lãnh thổ: đô thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi . Về mặt lượng: nhóm có thể rất rộng; có thể rất hẹp; về thời gian, tồn tại trong thời gian dài: tạm thời . Về chất: có nhóm phức tạp (dân tộc, quốc gia); có nhóm đơn giản: gia đình . Khi nhu cầu, lợi ích của các thành viên trong nhóm không còn thống nhất, đã biến đổi, lúc đố cấu trúc XH trở nên lỏng lẻo, biến đổi và tự giải thể → biến dạng và biến mất của nhóm. . Về hình thức: nhóm nhỏ (nhóm hẹp): là một tập hợp XH gồm ít người, trong đó các thành viên quan hệ trực tiếp, ổn định tương đối với nhau trên cơ sở những chuẩn mực, giá trị có tính sâu sắc, bền vững về tình cảm, về nhận thức, ý thức, hành động, hành vi. Nhóm lớn (nhóm rộng): là một tập hợp nhiều thành viên quan hệ gián tiếp với nhau trên cơ sở những chuẩn mực phát triển giá trị XH chung có tính phổ quát về đời sống vật chất và đời sống văn hoá (quốc gia, dân tộc, vùng dân cư) . (Theo các tiêu chí nhất định, còn có thể phân thành các loại nhóm: cặp nhóm: nhóm mẹ - nhóm con; nhóm chính - nhóm phụ; nhóm ổn định - nhóm biến động; nhóm tích cực - nhóm tiêu cực; nhóm truyền thống - nhóm hiện đại) . . . - Cộng đồng XH: là một tập hợp XH, trong đó các cá nhân XH liên hệ với nhau theo những cơ sở, điều kiện tồn tại hoạt động nhất định, theo những quan niệm thống nhất về văn hoá, giá trị XH. (Trình độ lao động sản xuất, mức sống vật chất, tinh thần, dân trí, giáo dục, 6
- truyền thống lịch sử, lối sống; phong tục tập quán, tín ,ngưỡng, quan niệm chính trị đạo đức, pháp quyền, thẩm mĩ, tôn giáo, văn hóa, giáo dục v v. ) . Về lượng: có thể rất rộng (khu vực châu lục); hẹp (làng xã, bộ tộc) Có cộng đồng được thành lập do nhiều cơ sở, điều kiện xã hội (cộng đồng quốc gia, vùng lãnh thổ). Có cộng đồng thành lập do một số cơ sở, điều kiện thống nhất (kinh tế, ngôn ngữ) . Có cộng đồng được xác lập từ truyền thống lịch sử (dân tộc - sắc tộc) Có cộng đồng được xác lập theo nhu cầu lợi ích mới nảy sinh trong thực tại XH (cộng đồng chính trị, hội nhập- giao lưu văn hoá). . Phân loại: về phạm vi quy mô (lớn, nhỏ) - Tính chất hoạt động (kinh tế, văn hoá, chính trị, tôn giáo) - Cơ sở điều kiện cấu thành cộng đồng có cộng đồng tự nhiên - XH (dân tộc, quốc gia, khu vực), cộng đồng văn hoá ý thức (văn hoá, ngôn ngữ). - Tổ chức xã hội: là một tập hợp xã hội, trong đó các cá nhân XH liên hệ với nhau theo một mục tiêu chung, một hệ thống thứ bậc các thành viên và các cáp độ quản lý. . Đặc trưng cơ bản nhất của tổ chức XH là mục tiêu XH (kinh tế, chính trị, văn hoá, đạo đức, khoa học, nghệ thuật). * Liên hệ XH: là một yếu tố cơ bản của cấu trúc XH, trong đó các cá nhân tác động lẫn nhau một cách chủ động, có ý thức. Liên hệ XH được biểu hiện dưới những dạng cụ thể sau: * Các địa vị (vị thế xã hội): địa vị theo cách hiểu thông thường đó là sự xác định thứ bậc của một cá nhân trong cộng đồng dựa trên một số cơ sở tiền đề, chẳng hạn như: cái có được về vật chất (tiền của), về ảnh hưởng và uy tín của họ với các cá nhân khác. Địa vị không chỉ tồn tại trong nhóm hoặc trong một XH nói chung mà nó còn được tồn tại trong những cấu trúc xã hội khác nhau, chẳng hạn như một cá nhân có thể có địa vị của một người mẹ, một người bạn, một giáo sư, một khách hàng v.v tuỳ theo mối quan hệ của họ trong quá trình hoạt động. Điều đó có nghĩa là một địa vị không phải là một chiếm hữu cá nhân nhưng là một quan hệ với những người khác. Một số địa vị được quy định bởi nhóm xã hội (lứa tuổi, giới tính tôn giáo, chủng tộc, dòng dõi xuất thân v.v ) khiến cho cá nhân có các địa vị đương nhiên được xã hội thừa nhận: tuổi kết hôn; con trai, con gái; đệ tử, co chiến, cha cố; người da mầu; tiểu nhân, quân tử v.v Đây được coi là địa vị gán cho (các mối quan hệ XH gửi gắm cho mỗi cá nhân). Một số địa vị mà cá nhân đạt được nhờ sự nỗ lực của chính bản thân họ, đó chính là những địa vị đạt được (các chức vụ trong hệ thống quản lý; các chức danh trên con đường học vấn v.v ). Như vậy, mỗi cá nhân có thể chiếm giữ nhiều địa vị khác nhau vì mối địa vị có một sự phù hợp với những mối quan hệ xã hội mà cá nhân 7
- đó tham gia. Tuy nhiên, một khi cá nhân chiếm giữ một tập hợp địa vị, thì địa vị nào có tác dụng quan trọng hơn cả, có khả năng làm lu mờ những địa vị khác của cá nhân, khi đó, địa vị quan trọng này được coi là địa vị chủ chốt. 2. Vai trò XH: Trên mỗi địa vị xác định, con người được xã hội trao cho các quyền, các nghĩa vụ và mong đợi ở họ thể hiện đúng địa vị mà họ có được. Tập hợp các mong đợi, các quyền, và những nghĩa vụ được gắn cho một địa vị cụ thể nhằm xác định hành vi của mỗi cá nhân được gọi là vai trò. Những hoạt động thực tiễn của mỗi người nhằm khẳng định địa vị của mình trong các mối quan hệ XH được coi là quá trình thực hiện vai trò. Trong quá trình thực hiện này, cá nhân có thể đạt tới sự phù hợp giữa địa vị và vai tròm, xong cũng có thể xảy ra trường hợp ngược lại (xuất hiện khoảng cách giữa sự mong đợi của XH và kết quả mà cá nhân đạt tới). Đây là điều thường thấy khi con người thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi mà XH mong đợi ở họ. Một địa vị có thể bao gồm nhiều vai trò, tạo nên một tập hợp vai trò (địa vị của một đứa con trong gia đình trong quan hệ với cha mẹ, là người anh, người chị trong quan hệ với các em, là người chú, người bác trong quan hệ với họ tộc v.v ). Sự tồn tại vai trò của cá nhân luôn luôn gắn bó và được quy định bởi hành động của người khác (không có nhân viên thì không có vai trò thủ trưởng, không có vợ thì không có vai trò của người chồng, không có người mua thì không có vai trò của người bán v.v ). Sự tồn tại của vai trò còn liên quan tới những chuẩn mực xã hội, đó là những nghĩa vụ (là những hoạt động của cá nhân mà người khác có quyền đòi hỏi), đó là những quyền lợi (là những hoạt động mà cá nhân đòi hỏi người khác phải thực hiện). Như vậy, mỗi vai trò đều tồn tại trong nó một vai trò của người đáp ứng (nghĩa vụ đối với người khác) và tiếp nhận (quyền lợi mà người khác phải đáp ứng). Trong thực tế, cá nhân ít khi chỉ đóng một vai trò duy nhất mà thường tham gia thực hiện một số vai trò nào đó. Khi thực hiện những vai trò này có thể xuất hiện những xung đột giữa việc tiếp nhận trong vai trò của quan hệ này với nghĩa vụ trong vai trò của một quan hệ khác (sự mong đợi tình cảm của người vợ trong mối quan hệ vợ chồng, với nghĩa vụ của người lính trong quan hệ của mình với đất nước), hoặc đôi khi vì thực hiện những vai trò được nhiều người mong đợi và bị đòi hỏi quá nhiều, cá nhân sẽ luôn ở trong trạng thái căng thẳng, đòi hỏi có sự nỗ lực vượt bậc mới có thể đảm bảo được vai trò mà mình đang đóng. 3. Các nhóm XH: Khi các cá nhân liên kết với nhau (ít nhất từ hai người trở lên) trên cơ sở của những tình cảm, những suy nghĩ tương đối thống nhất, có những hoạt động tương tác xã hội tương đồng nhằm đạt tới cùng một mục tiêu nào đó, khi đó sợi dây liên kết giữa cá nhân tạo nên một nhóm xã hội. Những nhóm XH này có các thuộc tính sau: + Các quan hệ giữa các vai trò được diễn ra trong những quy chuẩn phản ánh 8
- quyền lợi và nghĩa vị chung nhất của mọi thành viên thuộc nhóm (nhóm gồm những sinh viên có quyền lợi học tập nghề nghiệp, có nghĩa vụ thực hiện những quy định của nhà nước về đào tạo). + Mỗi nhóm có những giá trị và các chuẩn mực riêng về văn hoá mà mỗi cá nhân thuộc nhóm có trách nhiệm gìn giữ, hoàn thiện và phát triển. Căn cứ vào các thuộc tính trên, các nhóm XH không phải là tập hợp tạm thời của một số cá nhân (cho dù tập hợp đó có cùng mục đích - chẳng hạn như xếp hàng mua xé xem phim; rủ nhau đi lễ hội ), nhóm XH cùng không phải là một loại (bao gồm tuổi, giới tính, chủng tộc, nghề nghiệp, học vấn). Những thành viê thuộc nhóm có thể khác nhau về loại như tuổi tác, giới tính, chủng tộc v.v nhưng giữa họ vẫn tạo thành một liên kết nhờ ở họ có những thuộc tính chung như đã biết. Mỗi cá nhân có thể thuộc về nhiều nhóm và ở trong mỗi nhóm, họ có những vai trò khác nhau. Tập hợp những người thực hiện những vai trò giống nhau ở nhiều nhóm tạo nên mạng lưới xã hội. Các mạng lưới XH bao gồm các vai trò trong gia đình, trong quan hệ bè bạn và láng giềng v.v Nói cách khác, mạng lưới XH thu nạp những cá nhân có cùng chức năng, rất có lợi cho mỗi cá nhân và XH, bởi thông qua mạng lưới XH này, nguồn lực XH, kinh nghiệm XH, tri thức, thông tin được lan toả mỗi cá nhân này, từ nhóm này đến cá nhân và nhóm XH khác. 4. Các thiết chế xã hội: Thiết chế XH là các hình mẫu tương đối bền vững của tập hợp các vai trò, các nhóm và những hoạt động xã hội đáp ứng những nhu cầu cơ bản của xã hội, ứng với 5 nhu cầu cơ bản của XH: nòi giống, sinh tồn, tâm linh, quyền lực, phát triển sẽ là 5 thiết chế XH: gia đình; kinh tế; tôn giáo, chính trị; giáo dục. Một thiết chế có thể thực hiện nhiều chức năng và một chức nài thể do nhiều thiết chế cùng thực hiện. Chẳng hạn chức năng phát triển con người có thể được thực hiện bởi thiết chế gia đình và thiết chế giáo dục, hoặc chỉ riêng thiết chế chính trị đã chi phối cả chức năng kinh tế và giáo dục _ Mỗi thiết chế đều chứa đựng trong nó một tập hợp các chuẩn mực, các giá trị và các biểu tượng (còn được gọi là các mẫu hình văn hoá) quy định các hành vi của mỗi cá nhân trong các mối quan hệ với những cá nhân cụ thể khác). 5. Giá trị xã hội: Giá trị XH là một hình thức liên hệ XH, trong đó cá nhân, tập hợp XH, được cả động đồng XH xem xét, định giá, xác định tác dụng của đối tượng - khách thể tồn tại trong XH đối với con người. (Các giá trị XH là các đặc điểm, tính chất, các yếu tố cấu thành và biểu hiện của bản thân hiện tượng XH (đối tượng - khách thể XH). Đối với chủ thể XH, các giá trị là những cái mang tính định giá, tính hiệu quả, tác dụng nhất định. (Bản thân đối tượng chưa phải là giá trị, song nó tiềm ẩn một nội dung định giá ngoài ý thức của chủ thể. Khi nào có sự gắn kết giữa ý thức của chủ thể với 9
- nội dung tiềm ẩn này của đối tượng, giá trị mới xuất hiện). Về cơ cấu giá trị XH thường có hai thành tố chủ yếu: "Đối tượng giá trị" là các hiện tượng XH, bao gồm các hoạt động XH của cá nhân, nhóm XH, giai cấp, cộng đồng XH trong thực tại XH. Các hoạt động trên được thể hiện dưới các dạng vật thể và tinh thần. Các dạng trên chỉ trở thành đối tượng giá trị khi chúng được thu hút vào quỹ đạo quan hệ XH, vào sự xem xét, định giá, xác định tác dụng XH của chính con người và XH. Chủ thể giá trị: là con người và XH nhận thức hiện tượng XH, định giá, nêu rõ tác dụng tích cực hay tiêu cực về mặt XH của hiện tượng đó theo những chuẩn mực, khuôn mẫu, quan niệm về nhu cầu, lợi ích, mục tiêu XH của mình . Về phân loại giá trị XH, người ta thường dựa vào tác dụng đối với từng lĩnh vực riêng biệt của đời sống XH để chia ra các giá trị XH khác nhau: giá trị kinh tế; giá trị chính trị; giá trị giáo dục; giá trị văn hoá; giá trị khoa học; giá trị pháp luật; giá trị tôn giáo. Dựa vào hiệu quả của giá trị vì phương diện lợi ích có thể chia bằng hai loại giá trị: giá trị vật chất; giá trị tinh thần. Căn cứ vào sự phân chia các loại giá trị và căn cứ vào những tiêu chí về chức năng; về mức độ phổ biến hoặc về mức độ tác dụng, ý nghĩa XH, người ta có thể xác định chúng bằng những "Hệ thống giá trữ, hay "thang giá trị " . Hệ thống giá trị là một hình thức của hệ thống XH (nói chung) của cấu trúc XH (nói riêng), trong đó thể hiện các cấp độ và mối liên hệ giữa các cấp độ đó của giá trị XH. (Trong XH truyền thống Việt Nam: hệ thống giá trị: nhân - nghĩa - lễ - trí - tín). Việc xác định thang giá trị XH không chỉ phụ thuộc vào "đối tượng giá trị" mà còn chịu sự quy định của quan niệm, ý thức XH của cá nhân, của nhóm XH, của giai cấp của cộng đồng XH (cái chung của dân tộc) (PK: nhất sĩ - nhì nông; Người lao động: nhất nông - nhì sĩ) * Giá trị XH có những đặc điểm sau: Cơ sở của mọi giá trị XH là cơ sở kinh tế - xã hôi, là "tất yếu kinh tế". Mọi giá trị Xh chỉ là phản ánh điều kiện kinh tế, quan hệ sản xuất, tức là quan hệ XH vật chất cơ bản (nếu xem giá trị XH là biểu hiện quan hệ XH, thì nó không thể nằm ngoài sự quy định của quan hệ sản xuất với tình cảnh là "quan hệ cơ bản đầu tiên và quyết định tất cả mọi quan hệ khác”) Giá trị XH gắn liền với nhu cầu XH, lơi ích XH và mục đích XH. (Một hiện tượng, quá trình, hoạt động XH chỉ được xem là "có giá trị”, khi nó 10
- được ra đời và đáp ứng làm thoả mãn những nhu cầu, lợi ích và mục đích của con người và XH). Tính nhiều vẻ, nhiều chiều, nhiều nội dung của nhu cầu, lợi ích và mục đích XH đã làm cho các giá trị trở nên phong phú, đa dạng, nhiều cấp độ, nhiều tính chất khác nhau, đồng thời sự có mặt của các giá trị còn phụ thuộc trực tiếp vào sự khác biệt của các chủ thể giá trị như cá nhân, nhóm, giai cấp, cộng đồng XH. Thông qua nhu cầu, lợi ích và mục đích của mình, các chủ thể giá trị, định giá, xác định tác dụng XH của đối tượng không hoàn toàn đồng nhất, thậm chí đối lập, mâu thuẫn với nhau. Một giá trị tích cực là giá trị cá nhân hài hoà với giá trị XH. Giá trị đích thực là giá trị biểu hiện sự phát triển xã hội, phù hợp, đáp ứng được tiến bộ XH và mang tính nhân văn (với cách hiểu như vậy, giá trị XH có tính cách như là văn hoá). Nói tới giá trị XH là nói tới mối quan hệ giữa giá trị XH - truyền thống và giá trị XH - tương lai. Mọi giá trị hiện hành đều hàm chứa dưới hình thức này hay hình thức khác “giá trị đã có" thông qua sự "lọc bỏ" cũng như tiềm ẩn trong nó "giá trị sẽ có" với tính cách là “mầm mống”, “dự báo", “mong đợi". 6. Biến đổi XH: là một yếu tố cơ bản của cấu trúc XH, trong đó diễn ra quá trình thay đổi, chuyển hoá các chuẩn mực XH, khuôn mẫu XH, giá trị XH, liên hệ XH, hoạt động XH v.v của các tập hợp XH và của cả một cộng đồng XH rộng lớn. + Bất cứ XH nào, cấu trúc XH nào đều luôn luôn ở trạng thái biến đổi + Biến đối cấu trúc XH thường được thể hiện trong các thay đổi, chuyển hoá về liên hệ XH, trong mọi lĩnh vực của đời sống XH. Chủ thể (và cũng là sán phẩm) của biến đổi XH, của biến đổi cấu trúc XH là con người XH, là các nhóm XH, các giai cấp XH, cộng đồng XH (quốc gia, khu vực, cộng đồng thế giới). Biến đổi cấu trúc XH có những loại sau: + Biến đổi tập hợp: là biến đổi XH được diễn ra trong các tập hợp XH nhất định. Đó là những thay đổi chỉ diễn ra trong phạm vi một nhóm XH nào đó; một cộng đồng, một tổ chức XH nào đó (khoán 10- nông dân; miễn đóng học phí SV sư phạm; giữ gìn bản sắc dân tộc trong hội nhập - cộng đồng các nước châu á; xoá đói giám nghèo - hội nông dân Việt Nam ). + Biến đổi - liên hệ XH: là biến đổi được diễn ra trong các mối liên hệ XH nhất định (khách hàng là thượng đế); thầy và trò trong giáo dục v.v + Dựa vào sự tương ứng giữa các biến đổi XH đối với nhau, có thể nêu ra các "cặp biến đổi XH " như: biến đổi lớn - biến đổi nhỏ; biến đổi lâu dài- biến đổi tạm 11
- thời; biến đổi chi phối- biến đổi phụ thuộc; biến đổi tích cực- biến đổi tiêu cực. + Những biến đổi diễn ra trong các hình thức biểu hiện của cấu trúc XH (loại hình cơ cấu - phân hệ cơ cấu XH) thường được nhắc đến là: biến đổi cơ cấu giai cấp; biến đổi cơ cấu lao động; biến đổi cơ cấu dân số; biến đổi cộng đồng lãnh thổ. + Đặc điểm của biến đổi XH: Các biến đổi của cấu trúc XH đều bị chi phối bởi tính chất, trình độ và cơ cấu của nền kinh tế. Các biến đổi XH được diễn ra trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố khách quan (điều kiện vật chất kinh tế, yếu tố văn hoá truyền thống, những tác động nhiều mặt từ các XH bên ngoài, thực trạng môi trường sinh thái) và những nhân tố chủ quan (ý thức XH, tư tưởng- hệ tư tưởng; vốn văn hoá và trình độ dân trí, trình độ khoa học- kỹ thuật; năng lực hoạt động thực tiễn, tính năng động và tiềm năng sáng tạo v.v ). (Quá trình biến đổi XH là quá trình chủ thể XH - con người bằng nhân tố chủ quan của mình tác động vào nhân tố khách quan của XH trong sự quy định của những quan hệ kinh tế vật chất. Sự biến đổi của cấu trúc XH nói riêng, của XH nói chung đều do con người; mọi biến đổi và phát triển XH đều được thực hiện bởi con người, nhân tố khách quan của XH tác động thông qua hoạt động con người. Ngày nay, do sự phát triển của chính bản thân con người, cùng với sự sáng tạo của nó trước hiện thực, vai trò của nhân tố chủ quan trong sự phát triển XH ngày càng tăng). Các biến đổi XH diễn ra rất đa dạng, phức tạp. Tính đa dạng biểu hiện ở chỗ nó diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, theo các cách khác nhau và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống XH. Các biến đổi XH diễn ra trong những điều kiện hoàn cảnh, thời gian cụ thể, khác biệt, tuỳ thuộc vào tính riêng biệt của chủ thể XH nhất định. Tính phức tạp của biến đổi XH xuất phát từ chính quy luật phổ biến của tồn tại XH: đấu tranh XH là quy luật phổ biến trong mọi cộng đồng XH, là biểu hiện mâu thuẫn biện chứng của tồn tại XH. Sự phân tích các yếu tố cấu thành cấu trúc XH giúp chúng ta đi tới những đặc trưng sau của cấu trúc XH. Các yếu tố tạo thành chíu trúc XH luôn phụ thuộc vào nhau. Sự biến đổi của một yếu tố này dẫn tới sự thay đổi tương ứng của một yếu tố khác. Chẳng hạn tổ chức Đảng cộng sản là một nhóm XH mang tính quyết định tới vận mệnh chính trị của một số nước. Sự tan vỡ của nhóm XH này đã kéo theo sự sụp đổ của địa vị, của vai trò cá nhân, của các thiết chế XH, hay nói cách khác, nó kéo theo sự biến dạng của toàn XH. - Các yếu tố thuộc cấu trúc XH liên kết với nhau tạo nên thế ổn định, cân bằng động cho hệ thống. Một khi có sự xáo trộn trong hệ thống, các yếu tố sẽ "biến đổi theo 12
- xu hướng" lập lại một trạng thái ổn định khác. Cũng với ví dụ trên, sự xáo trộn của hệ thống chính trị xã hội XHCN đã kéo theo nó một sự biến đổi tương ứng đối với tất cả các yếu tố tạo thành hệ thống XHCN và chúng liên kết với nhau theo một trật tự mới, tạo cho XH có sự ổn định trở lại. V. Con người xã hội 1. Quan niệm XHH về “con người XH" . * Một số quan niệm về “con người XH" - Các nhà XHH "duy tự nhiên" quan niệm rằng, sự phát triển của con người chịu sự quy định, quyết định của những yếu tố bản năng sinh học - tự nhiên vốn có ở con người (là những yếu tố thuộc cá thể động vật: cấu tạo cơ thể, gien di truyền, tính sinh hoá, tính dục và các điều kiện môi trường tự nhiên). → Tuyệt đối hoá cái sinh vật với cái XH trong con người → Chỉ thừa nhận cái sinh vật mới là "cái có thật" ở con → Cái sinh vật tạo ra, chi phối “cái XH” của con người - Các nhà XHH "duy XH” lại cho rằng sự phát triển của con người chịu sự quy của các yếu tố XH (mối quan hệ giữa con người với con người; giữa nhân cách với môi trường XH). + Đó là những yếu tố: thực trạng XH; cơ cấu XH; chuẩn mức; thiết chế; giá trị XH và quá trình nhân cách được xã hội hoá. → Tuyệt đối hoá cái XH trong con người → Chỉ thừa nhận vai trò xã hội hoá con người - con người như là sản phẩm thuần tuý của XH. - Các nhà triết học XH, tư tưởng văn hoá cổ điển phương đông quan niệm con người là hạt nhân của XH, quan hệ hoà hợp với thần linh, trời, đất; xem con người là vốn có phẩm chất XH (phẩm chất linh hồn, chính trị và đạo đức XH). XH theo luồng tư tưởng này là cái quy định nhân cách con người (nhân cách được tạo bởi thần linh, đạo lý và sự giáo huấn XH). Quan niệm này đề cao vai trò tư tưởng chính trị, đạo đức, lý tưởng (luân lý), thiết chế thống trị hoặc đức tin tôn giáo được áp đặt toàn XH → con người là con người của xã tắc: làng xóm, tộc họ (có nghĩa là sản phẩm cá thể của một tập hợp người cố kết khá chặt chẽ với nhau). * Khái niệm “con người xã hội" theo quan điểm Mác-xít - "Con người xã hội" là chủ thể của XH, đồng thời là sản phẩm của XH, sản phẩm của tự nhiên. + Tính chủ thể XH của con người là tính chủ thể của các mối quan hệ XH với những hoạt động XH, tương tác XH trong điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội, 13
- cấu trúc XH nhất định. . Con người với tư cách là chủ thể XH đã tạo ra đời sống XH (kinh tế, chính trị , đạo đức . . . ) . Con người với tư cách là chủ thể XH là điểm xuất phát, đầu mối, nội dung, động lực và mục đích của XH. . Con người với tư cách là chủ thể XH đã xây dựng nên những tổ chức XH, thiết chế XH, chuẩn mực XH, kiểu loại - hình thái XH với những tầng lớp (nhóm, cộng đồng giai cấp trong XH). . Con người với tư cách là chủ thể XH đã tạo ra mọi biến đổi XH (Nói con người là chủ thể XH tức là xem con người từ những quan hệ XH và bằng những hoạt động thực tiễn tạo nên XH, qua đó con người trở thành con người XH). - Con người XH là sản phẩm XH: + "Tính sản phẩm XH” của con người là tính sản phẩm của những quan hệ XH do chính con người tạo nên với những hoạt động XH, tương tác XH trong điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội, cấu trúc XH nhất định. + Tính chủ thể XH và tính sản phẩm của con người XH có mối quan hệ biện chứng. (Con người tạo ra XH bằng hoạt động XH, tương tác XH, tổ chức XH, thiết chế XH vừa chịu sự quy định, chi phối của chính những cái do mình tạo nên). + Đối với XHH, con người XH là "tế bào” hạt nhân - trung tâm của toàn bộ XH nói riêng. + Con người XH là đơn vị nhỏ nhất trong quan hệ XH, hệ thống XH và cấu trúc XH. Đó chính là mỗi cá nhân - nhân cách mang tính XH nhất định. + Cá nhân là một con người XH riêng biệt tồn tại trong XH. Mỗi cá nhân là một chỉnh thể người đơn nhất bao gồm cả một hệ thống những yếu tố, đặc điểm cụ thể, riêng biệt khác biệt với những cá nhân khác về cơ thể sinh vật, tâm lý, tư tướng, văn hoá, hoàn cảnh sống. Mỗi cá nhân tự xác định bản thân trong quan hệ với những cá nhân khác, với XH nói chung nhờ những yếu tố, đặc điểm riêng của mình. + Nhân cách là thế giới bên trong, chiều sâu bản chất của cá nhân với toàn bộ hoạt động sống của nó. . Nhân cách là cốt lõi, hạt nhân, là đặc điểm về chất của con người XH, của cá nhân. . Nhân cách là cá nhân đã có sự phát triển ở mức độ nhất định về mặt XH, là kết quả của quá trình XH hoá cá nhân và cá nhân mang tính "con người XH " . 14
- . Nhân cách là một cá nhân có năng lực tự ý thức, có đặc điểm sinh lý, tâm lý, có phẩm chất XH (với nội dung, tính chất, trạng thái, biểu hiện và xu hướng thuộc bên trong con người mang tính riêng biệt nhất định của cá nhân; như vậy, ngoài yếu tố cơ sở sinh lý, thể chất cơ thể, nhân cách chính là chủ thể của các mối quan hệ XH và cũng chính là sản phẩm của xã hội hóa cá nhân). . Nhân cách mang "cái chung của con người XH", đại diện cho những quan hệ XH, thông qua liên hệ nhóm, tầng, giai cấp, cộng đồng, hệ thống XH, cơ cấu XH, thực tại XH nói chung. Cái chung này của nhân cách thuộc cá nhân, trở thành "nhân cách XH" vì thế cá nhân xã hội và cá nhân nhân cách là một thể thống nhất. Sự thống nhất biện chứng này đã tạo cho con người XH trở thành "cá nhân - nhân cách" tồn tại trong thực tại XH nhất định. + Nói tới cá nhân - nhân cách tức cũng là nói tới cái "tôi". XHH xem cái tôi là nhân tố cốt lõi, trung tâm tinh thần của nhân cách - cá nhân, là cái đã được cá nhân hoá, cá tính hoá nằm ở bên trong nhân cách - cá nhân. + Cái tôi là yếu tố bản chất, hạt nhân có tính quy định đối với nhân cách, thuộc thế giới bên trong của nhân cách. + Cái tôi quy định tính chất và mức độ của nhân cách - cá nhân; xác định mục đích XH, hoạt động XH, xu hướng và nội dung, phương hướng tự ý thức của nhân cách - cá nhân; xây dựng định hướng giá trị xã hội, chuẩn mực XH của nhân cách - cá nhân trong quan hệ với XH. + Cái tôi là cơ sở của sự tự định giá bên trong của sự xác định tính riêng biệt của nhân cách - cá nhân. + Về mặt khách quan, cái tôi được tạo nên do những tác động tổng hợp của các nhân tố sinh học - cơ thể và điều kiện xã hội. Quan hệ XH hết sức riêng biệt đối với cá nhân. + Về mặt chủ quan, sự hình thành cái tôi liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh sống, hoạt động sống và vốn văn hoá, tri thức của cá nhân. (Cái Tôi chính là biểu hiện đậm nét nhất cái XH được chuyển thành cái riêng, cái cá nhân, cái đơn nhất. Cái Tôi nằm trong mối liên hệ giữa xã hội hóa cá nhân và cá nhân hoá XH. Thông qua hoạt động thực tiễn XH, con người xác định được cá nhân - nhân cách - cái tôi). - XH bao giờ cũng là một tập hợp những cá thể người, một tổng thể, hệ thống và cấu trúc gồm những con người cụ thể riêng biệt với tư cách là những cá nhân - nhân cách nhất định. (Từ nhân cách của mình, mỗi cá nhân có năng lực tự ý thức, tự định hướng mục tiêu nhất định. Cũng chính từ nhân cách, những nhu cầu, lợi ích và mục đích của XH mới tìm thấy chỗ đứng trong nhu cầu, lợi ích và mục đích của cá nhân. Sự thống nhất, 15
- hài hoà giữa cái XH và cái cá nhân sẽ tạo ra động lực nội tâm và mục tiêu tư tưởng để cá nhân vươn tới thực hiện những cái cần có cho cả cá nhân cũng như cho cả XH. Chính cá nhân - nhân cách có khả năng lựa chọn, điều chỉnh, chủ động tích cực và tự chịu trách nhiệm trước những hành động, tương tác XH của mình khi thực thi những nhu cầu, lợi ích và mục đích nói trên. Như thế, để có được một XH tiến bộ, phát triển, con người cần phải xây dựng những nhân cách, những cá nhân phát triển thế giới bên trong với tình cảm, tư tưởng, trí tuệ sâu sắc, sáng tạo). - Việc xem xét "con người XH" gắn liền với việc xem xét "cá nhân - nhân cách". Nếu "con người xã hội” là cái chung và cá nhân - nhân cách là cái riêng thì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. XH tồn tại ở những cá nhân, đồng thời cá nhân tồn tại trong mối liên hệ XH. 2. Các yếu tố cơ bản của "con người xã hội.". . Ý thức XH: + Ý thức XH là một thuộc tính, một đặc điểm của con người XH (mọi quan hệ XH, hành động XH, tương tác, giao tiếp XH đều chịu sự điều khiển, định hướng trực tiếp của ý thức XH). + Ý thức XH là nội dung của tự ý thức. + Sự tồn tại của ý thức XH gắn liền với hoạt động thực tiễn lịch sử, chịu sự chi phối của điều kiện, quy luật sinh học và đặc biệt là các điều kiện, quy luật XH, do nhu cầu, lợi ích XH và hoàn cảnh, sinh hoạt thực tại của con người quy định. Có thể nói: ý thức của con người luôn luôn mang bản chất XH, tính chất XH. Con người XH là con người có ý thức XH. + Ý thức XH là một thuộc tính của con người XH, bao gồm thế giới quan, quan niệm, hệ tư tương, tri thức, ý chí, tình cảm tương ứng với một thực tại XH nhất định. + Thế giới quan, quan niệm, hệ tư tưởng là cơ sở hạt nhân của ý thức XH, đóng vai trò quyết định và chi phối các thành phần khác. + Tri thức vừa là nội dung cơ bản, vừa là thước đo trình độ, mức độ của ý thức XH. + Ý chí thể hiện xu hướng, mong muốn tự giác nhằm thực hiện một hoạt động nhất định trong XH và nó được coi như động lực bên trong của ý thức . + Tình cảm giúp con người có được những cảm xúc khi tìm tòi tri thức. Mỗi thành phần khác nhau của ý thức XH chỉ trở thành thành phần của ý thức hoạt động khi chúng được chuyển vào tình cảm. - Về cấp độ và kiểu dạng của ý thức XH có thể phân chia thành 3 dạng: + Dạng chung: chủ thể mang ý thức XH là mọi con người XH, tồn tại và phát triển thông qua ý thức XH của các cá nhân, các nhóm, các tập đoàn, các tầng lớp, các 16
- giai cấp trong XH. + Dạng riêng: là ý thức XH của cá nhân, trong đó nó vừa mang những nội dung nhất định của ý thức XH chung, vừa chứa đựng những yếu tố riêng lẻ vốn chỉ thuộc về ý thức của cá nhân không được lặp lại ở bất cứ cá nhân nào khác. (Như thế, không thể đồng nhất ý thức XH chung và ý thức XH riêng; không thể xem ý thức của cá nhân là một bộ phận của ý thức chung XH). + Dạng trung gian: là ý thức XH của nhóm XH, của giai cấp, của mỗi thành phần XH trong hệ thống XH nhất định, trong đó ý thức XH của nhóm, giai cáp v.v vừa mang ý thức chung của XH, vừa mang ý thức XH của riêng nhóm, giai cấp. Ý thức XH chung chỉ tồn tại và thông qua ý thức XH cá nhân, nhóm, giai cấp Ý thức nhóm, giai cấp là sự nhất trí, là tinh hoa của ý thức các thành viên trong nhóm, giai cấp. Năng lực lao đông khả năng hoạt đông thực tiễn được xem là đặc trưng cơ bản. quyết định của con người XH + Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất, cảm tính có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. + Hoạt động thực tiễn là dạng hoạt động cơ bản của XH, của loài người. + Hoạt động thực tiễn là nhân tố xác định có tính chất quyết định đối với phẩm chất XH, địa vị XH, vai trò XH và giá trị XH của cá nhân. + Hoạt động thực tiễn là hoạt động sáng tạo của con người, vì thế nó phụ thuộc vào năng lực tham gia lao động XH và hiệu quả của nó đối với sự phát triển XH. + Bản thân hoạt động thực tiễn mang tính XH, vì thế sự tham gia hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân trở thành cơ sở, thước đo tính chất Xh trong nhân cách của họ. + Từ hoạt động thực tiễn, con người sáng tạo bản thân mình, sáng tạo XH, tạo lập giá trị cho mình và cho XH. (Các quan hệ XH, cấu trúc XH, hệ thống XH cũng được xem xét, định giá trên cơ sở của thực tiễn) + Thực tiễn là một hệ thống phức tạp, hoàn chỉnh, bao gồm trong nó các yếu tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích, hành vi, phương thức, hình thức hoạt động sáng tạo, do đó, hoạt động thực tiền của cá nhân liên quan chặt chẽ đến tính chất, mức độ phát triển của cá nhân - nhân cách. Quan hệ XH của con người XH là yếu tố cơ sở quy định XH và nội dung con người XH. (K.Marx viết: “XH không phải là những cá thể người, mà là biểu hiện của tổng số những lối liên hệ và quan hệ của chúng, trong đó những cá thể đó tồn tại với nhau”; 17
- "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ XH"). + Chính quan hệ XH của toàn Xh và quan hệ của mỗi cá nhân tạo ra đặc trưng của XH và xác định đặc điểm của mỗi cá nhân. + Mỗi cá nhân - nhân cách - cái tôi cũng chỉ thông qua quan hệ XH mới tiếp nhận "xã hội hoá" và tác động trở lại XH bằng "cá nhân hoá". + Một XH tiến bộ, phát triển là XH mà trong đó các quan hệ Xh được hình thành một cách hợp lý, hài hoà và nhân văn trong mọi lĩnh vực. Vì thế chất lượng các quan hệ XH cần được đặt ra trong sự phát triển chung của mọi chế độ XH. 3 . Con người và xã hội * Con người và quan hệ XH: - Bản chất XH của con người, trước hết được thể hiện trong mối quan hệ hữu cơ với đồng loại - cộng đồng. Đó là: môi trường sống- xã hội, những giá trị XH về sinh hoạt, lối sống, lập trường công dân, thế giới quan, tri thức khoa học đều là những điều kiện khách quan, tất yếu tạo nên con người - nhân cách. Hoạt động thực tiễn của cá nhân trong XH là điều kiện cơ bản nhất để ,cá nhân hoá", "tôi hoá" cá thể người để trở thành một con người cụ thể trong mối quan hệ với đồng loại. - Quan hệ XH trong cộng đồng người mà trong đó cá nhân tồn tại gồm: cộng đồng giai cấp, cộng đồng dân tộc, cộng đồng quốc gia, cộng đồng nhân loại. Chính quan hệ giữa các cộng đồng đã ra đời và tồn tại cùng với quá trình sản sinh và tái sản xuất những con người. (Con người vừa là một thành viên, vừa là chủ thể của một cộng đồng giai cấp, của một cộng đồng dân tộc, của một cộng đồng quốc gia, của một cộng đồng nhân loại). + Bản chất hiện thực của một con người là dung hoà những quan hệ XH: cái XH được hoá thân thành "cái cá nhân"; các quan hệ XH, các giá trị XH được chuyển thành nhân cách, thành cái tôi bằng hoạt động thực tiễn và các quan hệ khác với XH của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân mang một nhân cách riêng, có khả năng tự ý thức, có mục đích nhất định, có năng lực và trách nhiệm hoạt động XH. Cá nhân khẳng định mình là khẳng định trong quan hệ XH, trong sự tác động chủ động, tích cực vào XH. (Mục đích XH chỉ có thể thực hiện được với sự nỗ lực của mỗi cá nhân, của mỗi con người XH. Sự phát triển XH, tiến bộ XH bắt nguồn từ sự phát triển, tiến bộ của từng cá nhân trong những quan hệ xã hội của nó). , “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" (K.Marx, F.Engels) 18
- + Tồn tại người là tồn tại vừa mang tính lịch sử, vừa mang tính thời đại, vì vậy con người cũng mang tính lịch sử, tính thời đại. - Cấu trúcXH và con người cụ thể Con người trong một cấu trúc XH nhất định là một tế bào, một mắt xích trong hệ thống XH, trong cấu trúc và quan hệ XH. Con người giữ vị trí, vai trò quyết định trong cấu trúc XH, đồng thời cấu trúc XH được biểu hiện như một tổng hoà các quan hệ XH và tác động tích cực đến con người, đến cá nhân - nhân cách cụ thể. Con người là chủ thể của bất cứ hệ thống, cấu trúc XH nào. Con người, cá nhân cụ thể tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ với hệ thống XH, cơ cấu XH. Nó vừa là hạt nhân, nhân tố trung tâm, tế bào của hệ thống- cơ cấu XH, lại vừa là sản phẩm, nhân vật bị phụ thuộc vào chính cái hệ thống - cơ cấu XH đó. Cá nhân là một thực thể XH, vì vậy, bất cứ một sự biểu hiện nào của đời sống anh ta cũng là sự biểu hiện và khẳng định đời sống XH) ngay dù cho nó không xuất hiện dưới hình thức trực tiếp của cái tập thể được thực hiện cùng với các cá nhân khác" (K.Marx) Tính giai cấp trong con người cụ thể - Trong XH có giai cấp, con người tồn tại trong quan hệ giai cấp, trong mối quan hệ chỉnh thể giữa tính giai cấp và nhân cách - cái "tôi" của con người cụ thể, nhất định. - Điều cơ bản, chủ yếu của mối quan hệ giữa giai cấp và con người cụ thể là lợi ích. - Nếu không có con người trừu tượng, không có nhân cách - cá nhân, ở bên ngoài XH, thì tính giai cấp trong từng con người cụ thể cũng không phải là tính trừu tượng. Tính giai cấp là cái đã trở thành nhân tố, cái thể hiện nội tại của con người - nhân cách, nó không bị gán ép từ bên ngoài mà tồn tại trong mỗi con người cụ thể. 4. Xã hội hoá * Một số quan niệm XHH về "xã hôi hoá". - Một số nhà XHH hiện đại dựa vào vai trò, tác động, quy định của XH đối với con người, đã xem XHH như là một quá trình XH "áp đặt" cho các cá nhân những khuôn mẫu chuẩn mực, giá trị đã được XH xây dựng, thừa nhận. (Cá nhân chỉ có thể chấp nhận chứ không được lựa chọn, nhờ đó mà họ thích nghi, tồn tại được trong XH). - Một số nhà XHH khác dựa trên vai trò của cá nhân trong quan hệ XH, đã xem quá trình XHH như là sự phát huy tính tích cực của cá nhân trong tương tác giữa các cá nhân để dẫn đến chuẩn mực, khuôn mẫu, hành động mà con người cần phải chấp 19
- thuận. - Các nhà triết học phương đông cổ đại thường xem con người là do “thiên mệnh" và con người phải tuân theo "thiên mệnh" đó bằng cách chấp thuận vô điều kiện những chuẩn mực, trật tự, khuôn mẫu được ấn định sẵn cho mọi người, cho từng loại người trong XH. * Dựa vào các quan niệm nêu trên, chắt lọc lấy những tinh hoa ở đó, chúng ta có thể coi XHH là quá trình hai mặt: một mặt cá nhân chấp nhận kinh nghiệm XH bằng cách thâm nhập vào môi trường XH, vào hệ thống các quan hệ XH. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ thống các mối quan hệ XH thông qua chính việc nó tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ XH. (Như vậy, có thể xem XHH là một quá trình kép và cả chủ thể - xã hội, cả chủ thể - cá nhân tác động lẫn nhau để XHH con người). - XHH là một quá trình xã hội, trong đó XH và cá nhân tác động lẫn nhau để con người có tính XH thông qua việc xây dựng và chấp nhận, thực thi những chuẩn mực XH, khuôn mẫu và giá trị XH trong quan hệ XH, hệ thống XH. - XHH bao gồm hai mặt của một quá trình thống nhất: + XH, quan hệ giữa các chủ thể XH đã tác động đến cá nhân hiện thực để nó trở thành con người XH. + Cá nhân hiện thực tham gia vào quá trình XH để học cách sống và chủ động tích cực tác động vào qua trình xây dựng, phát triển quan hệ XH, hệ thống - cơ cấu XH. Đó là một quá trình liên hệ biện chứng giữa cá nhân trong xã hội trên cơ sở của mục tiêu: con người trở thành con người XH. Đó chính là quá trình XHH cá nhân và quá trình cá nhân hoá XH. Xã hội hoá cá nhân - XHH cá nhân là một quá trình XH, trong đó các chủ thể XH thông qua các QHXH, HTXH, cơ cấu XH làm cho cá nhân thừa nhận, tiếp nhận, thực thi các kinh nghiệm XH, giá trị XH, khuôn mẫu XH. - Chủ thể của XHH cá nhân là chủ thể của các tập hợp XH (nhóm XH, gia đình, nhà trường, giai cấp, cộng đồng dân tộc, quốc gia và cộng đồng một loại). Đối tượng của XHH cá nhân là con người cụ thể, cá nhân - nhân cách và cả cái tôi. - Nội dung chủ yếu, cơ bản của XHH cá nhân là làm cho cá nhân mang tính XH, xác định được những quan hệ XH theo các chuẩn mực, khuôn mẫu XH, giá trị XH, kinh nghiệm XH đã được các tập hợp XH thừa nhận, nhờ đó cá nhân mới có thể tiếp nhận, thực thi theo đúng chuẩn XH. (Con người cụ thể chỉ có thể xác lập được địa vị, vai trò XH, chức năng XH, 20
- cuộc sống cá nhân trong XH của mình khi chấp nhận sự tác động XHH của XH). - XHH cá nhân là một quá trình phức tạp, nhiều vẻ, lâu dài. Chất lượng và hiệu quả của quá trình này không chỉ phụ thuộc vào thời gian, hoàn cảnh, điều kiện XH nói chung mà còn chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động XHH của các chủ thể XH cũng như năng lực tiếp nhận của đối tượng - con người cụ thể. - Phương thức, hình thức XHH cá nhân là đa dạng: XHH thông qua hoạt động kinh tế, chính trị, giáo dục, giao tiếp, lao động; Hình thức XHH có thể là được tổ chức, ý thức, nhưng cũng có thể không có tổ chức, ngẫu nhiên, hoặc giả là áp chế, trừng phạt, ngăn ngừa. - XHH cá nhân làm cho người phát triển không phải chỉ theo xu hướng tích cực mà đôi khi cả những phương hướng tiêu cực. Điều này phụ thuộc vào tính chất, trình độ của các chủ thể XHH cũng như nội dung tính chất, định hướng, phương thức giáo dục nhất định. - Quá trình và nội dung XHH liên quan chặt chẽ đến tính chất, trình độ của XH, của các giai cấp XH của thời đại, củảtruyền thống văn hoá dân tộc v .v Cá nhân hoá XH Cá nhân hoá XH là một quá trình XH trong đó cá nhân XH thông qua các quan hệ XH, hệ thống XH, cải cách XH và hoạt động cụ thể của chính cá nhân đó làm cho XH thừa nhận, chấp nhận, tiếp nhận cá nhân đó với tính cách là một chủ thể XH tham gia tái sản xuất, các quan hệ XH, hệ thống XH, cải cách XH thông qua các hoạt động XH mang tính chủ động, tích cực, sáng tạo của chính cá nhân đó. - Chủ thể của cá nhân hoá XH là chủ thể - cá nhân, thành viên của các quan hệ XH, tập hợp XH, hệ thống - cơ cấu XH, cộng đồng XH. - Đối tượng của cá nhân hoá XH là con người XH trong các quan hệ XH, hệ thống - cải cách XH thông qua việc con người cụ thể chủ thể CNHXH tác động vào XH, tham gia tái sản xuất XH bằng hoạt động thực tiễn và các hình thức hoạt động khác của chính cá nhân chủ thể đó. , - Nội dung chủ yếu, cơ bản của cá nhân hoá là làm cho XH thừa nhận cá nhân tham gia vào quá trình XH, quan hệ XH, hệ thống cải cách XH; đồng thời cũng làm cho cá nhân thâm nhập vào XH để tái sản xuất XH. - Nhờ cá nhân hoá XH, XH với tính cách là tổng hoà những quan hệ giữa con người với con người, mới tồn tại và phát triển, tiến bộ. (Nếu XH là tổng số của các con người quan hệ với nhau, thì sự tham gia, thâm nhập vào quan hệ đó của từng cá nhân hiện thực là điều kiện để hình thành phát triển những khuôn mẫu, giá trị XH, những cấu trúc và HTXH - Có thể nói, con người là chủ thể XH, vừa là sản phẩm XH. Đó là một quá trình thống nhất biện chứng. "Bản thân XH sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra XH như thế" (K.Marx). 21
- Phần II: Xã hội học giáo dục I. Quan niệm của xã hội học về giáo dục - Giáo dục (GD) là một hiện tượng XH, trong đó một tập hợp XH (nhóm) đã tích luỹ được một vốn kình nghiệm XH nhất định truyền đạt lại cho một nhóm XH khác nhằm giúp họ tham gia vào đời sống XH, giúp họ hiểu biết các chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị XH để trở thành những nhân cách phù hợp với sự đòi hỏi của lợi ích XH. Đây chính chính là nét đặc trưng cơ bản của GD với tư cách là một hiện tượng XH. Kinh nghiệm XH được hiểu là những tri thức về các quy luật vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy, những kỹ năng, kỹ xảo hoạt động thực tiễn, các chuẩn mực về đạo đức, lối sống, văn hoá, truyền thống v. v Trên cơ sở của sự lĩnh hội kinh nghiệm xã hội, mỗi cá nhân sẽ nhào nặn lại theo cách riêng của mình để trở thành một nhân cách, tương ứng với những đòi hỏi của cộng đồng XH của mỗi hình thái phát triển kinh tế - XH nhất định - Trong hệ thống XH, GD là một trong năm thiết chế đáp ứng nhu cầu cơ bản của XH về mặt phát triển. Thế hệ trẻ mới sinh ra, một mặt kế thừa những đặc điểm sinh học của loài (di truyền) vốn đã tồn tại ngay trong quá trình hình thành và phát triển bào thai, mặt khác, và mặt này, chỉ khi đứa trẻ ra đời nó mới được tạo lập, đó là sự thế thừa các di sản XH mà thế hệ trước để lại. Con người về bản chất khác với thế giới loại vật chính là ở đặc trưng kế thừa XH. Quá trình kế thừa XH được thực hiện trong hoạt động GD (tự phát hoặc tự giác), nhờ đó mà mỗi cá nhân có thể tiếp thu những kinh nghiệm sống nhằm thích ứng với sự biến đổi của môi trường xung quanh, đặc biệt là môi trường XH. Những mối quan hệ giữa con người với con người nảy sinh trong hoạt động sống của mỗi cá nhân đặt trước họ phải có khả năng nhận biết, nắm vững, cải biến những quan hệ có tính quy luật này để bản thân có thể tồn tại và phát triển. Hướng dẫn thế hệ trẻ có được khả năng hội nhập một cách chủ động với những quy luật xã hội được thực hiện trong quá trình GD, và chính những sản phẩm do GD tạo nên (những nhân cách sống) lại đến lượt mình phục vụ cho sự tồn vong và phát triển. Jacques Delors (l996) đã viết "ý kiến ngày càng phổ biến cho rằng sự đóng góp của GD cho XH loài người là thiết yếu và CD cũng là một trong những công cụ mạnh nhất mà ó trong tay để nhào nặn nên tương lai" (Giáo dục cho ngày mai- tài liệu tổng kết nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập UNESKO- người đưa tin UNESKO, Tháng 4/1996). - Theo quan niệm của XHH, XHH giáo dục là một chuyên ngành trong XHH, có mục đích tìm hiểu ảnh hưởng và những mối quan hệ qua lại mang tính quy luật giữa hoạt động GD với những lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống XH như chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học v.v Tuy nhiên với đặc thù riêng của mình, XHH GD đãi nhiệm vụ trọng tâm vào việc nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa con người với con người trong phạm vi hoạt động GD, theo nghĩa là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh 22
- nghiệm XH lịch sử đã được tích tụ trong tiến trình lịch sử chứa đựng trong các lĩnh vực của đời sống XH thể hiện trong các giá trị văn hoá của loài người, với các dạng thức hình loại và bộ phận khác nhau của nền văn hoá đó. Giáo dục với tư cách là một hiện tượng XH đặc thù với ba chức năng thống nhất: chức năng lý luận, chức năng xây dựng - cải tạo, chức năng dự báo, trong đó, chức năng xây dựng - cải tạo được thể hiện như một chức năng chính yếu của hoạt động GD, còn các chức năng khác là những chức năng kèm theo và là sự chuyển hoá từ hoạt động thực tiễn của GD sang hoạt động tư duy lý luận. Hoạt động GD thực hiện chức năng xây dựng và cải tạo thông qua cơ chế XH đặc biệt, đó là quá trình XH hình thành và phát triển cá nhân con người (thường được coi như là quá trình xã hội hoá cá nhân). Quá trình này diễn ra trong tất cả các lĩnh vực của đời sống XH như cơ sở vật chất - kỹ thuật - công nghệ, các mối quan hệ XH, sự tác động của hoàn cảnh môi trường tự nhiên. Để "tái sản xuất" những phẩm chất và năng lực của con người nhằm tạo nên các nguồn lực đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của tiến bộ XH, không một giai đoạn nào của sự phát triển lịch sử XH lại không dựa vào GD, không thực hiện chức năng xây dựng- cải tạo của mình nhờ hoạt động GD. Trong XH hiện đại, những vấn đề trọng yếu mà GD phải tham gia giải quyết, theo UNESSKO đó là: - Phải thực hiện ba chức năng then chốt phù hợp với đặc thù của hoạt động GD: chức năng kinh tế- sản xuất; chức năng chính trị- XH; chức năng tư tưởng và văn hoá. Những chức năng này, ngay từ những năm giữa thế kỷ XX, trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 3 năm 1960 đã ghi rõ: "GD là công cụ của chuyên chính vô sản là một bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng và văn hoá, nhà trường là pháo đài của CNXH " - GD phải ngày càng có khả năng thích ứng với những chiều hướng mới của sự phát triển XH ; - GD phải được phát triển cân đối và đa dạng; - GD phải truyền bá các giá trị tạo nên sự hội nhập, sự chung sống, sự hiểu biết lẫn nhau giữa con người và con người. Hoạt động GD chỉ là một bộ phận hợp thành của quá trình XH, song nó được coi là bộ phận quan trọng nhất, hiệu quả nhất trong việc tạo nên con người XH, bởi đặc trưng tự giác có tổ chức, kế hoạch và mục đích trong quá trình vận động của hoạt động GD. - Hệ thống GD là một chỉnh thể thống nhất của những tiểu hệ thống bao gồm từ giáo dục mầm non; GD phổ thông; GD chuyên nghiệp- đại học; GD chính quy, GD tại chức; GD bán công và dân lập; GD sau đại học; GD từ xa; GD nhà trường và XH v.v 23
- Cơ cấu của hệ thống GD trong sự tồn tại của mình là sự liên kết hữu cơ, có hệ thống và đồng bộ các cấp học, bậc học, từ thấp đến cao để hình thành những nhân cách ở các cấp độ. Quá trình đào tạo lại bao gồm nhiều giai đoạn có mục tiêu và kế hoạch cụ thể ứng với một trình độ nhất định về kiến thức khoa học, kỹ năng thực hành, những phẩm chất và hiểu biết nghề nghiệp. Mỗi giai đoạn đào tạo, giáo dục vừa chuẩn bị cho các cá nhân có đủ điều kiện thâm nhập vào các mối quan hệ XH, vừa giúp họ bằng sự chủ động sáng tạo của chính họ có thể cải biến thực tại phát triển hơn những. gì mà thế hệ trước đã truyền đạt lại cho họ. Để làm được điều đó, bản thân hoạt động giáo dục không thể thoát ly khỏi những tiền đề của mục tiêu phát triển kinh tế - XH, những khả năng cụ thể của đất nước, những quan điểm và mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế - văn hoá XH và những đòi hỏi được thường xuyên nâng cao dân trí của toàn dân. Chỉ dựa trên những cơ sở phát' triển của các thiết chế khác nhau trong cấu trúc XH, GD mới xác định được cho mình phương thức thực hiện các quy luật khách quan tồn tại trong bản thân hoạt động giáo dục giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, quản lý giáo dục v.v II. Đối tượng nghiên cứu của XHHGD. Đối tượng nghiên cứu của XHHGD là quá trình hình thành và phát triển của con người dưới tác động của giáo dục với tư cách là một trong những thiết chế XH cơ bản nhất trong những điều kiện phát triển của lịch sử XH cụ thể. Như vậy, đối tượng của XHHGD chính là mối quan hệ mang tính quy luật giữa quá trình hình thành nhân cách cá nhân với các yếu tố vốn có của sự phát triển. Hiện tượng GD xuất hiện cùng với sự xuất hiện xã hội loài người và cũng từ đó, GD chịu sự quy định của các lĩnh vực khác trong đời sống XH, như kinh tế, chính trị, văn hoá v.v Mỗi sự thay đổi về quan hệ sản xuất của lực lượng sản xuất, của chế độ chính trị, của hệ tư tưởng, của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, văn hoá đều kéo theo nó sự biến đổi của mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động GD. Mối quan hệ gắn bó và phụ thuộc này giữa GD và những quá trình Xã khác biểu hiện như một quy luật về sự phù hợp tất yếu của GD tương ứng với sự biến đổi của lịch sử XH, mà trước hết là sự biến đổi của phương thức sản xuất, của chính trị và văn hoá. Mặt khác, với tư cách là một trong những thiết chế cơ bản của XH, GD thực hiện những chức năng GD của mình trong việc "tái sản xuất" những con người tham gia vào hoạt động XH, trở thành chủ thể của những thiết chế XH khác. Gơ không chỉ phụ thuộc một chiều vào Xh, mà trong khi thực hiện những chức năng cụ thể (kinh tế - sản xuất; chính trị- xã hội, tư tưởng- văn hoá) nó luôn luôn có sự đóng góp của mình vào sự phát triển XH. Nói cách khác, cùng với quá trình tái sản xuất sức lao động XH, cải biến cấu trúc XH, xây dựng hệ tư tưởng và nền văn hoá của xã hội, giáo dục đã đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển XH. Có thể nói rằng, chính những mối quan hệ phụ thuộc, chi phối lẫn nhau giữa hoạt động GD và những quá trình XH khác là đối tượng nghiên cứu của XHGD. 24
- GD là một hiện tượng XH đặc thù, song mối quan hệ qua lại của nó với những hiện tượng khác nhau của Xh không thuần nhất mà ở những chuẩn mức khác biệt cả về đối tượng tương tác đến mục đích, nội dung, phương pháp và hệ thống tổ chức khi thực hiện những quan hệ Xh này. Vì thế XHHGD cần xem xét GD ở các cấp độ khác nhau: cấp độ đại trà (phổ biến) nghiên cứu giáo dục như là một hiện tượng ngẫu nhiên, có mặt ở mọi nơi, mọi lúc và trên mọi đối tượng (miễn là có sự truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm XH); cấp độ có định hướng khu biệt, khi hoạt động giáo dục được diễn ra nhằm thực hiện những chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị XH, nhờ các hoạt động như tín ngưỡng, lễ hội, truyền thống v.v cấp độ chuẩn mực XHHGD nghiên cứu hệ thống GD trong tính chỉnh thể của nó với sự có mặt của một hoạt động GD có mục đích, có kế hoạch, có các phương thức hoạt động phù hợp với những đối tượng cụ thể, đó là hệ thống giáo dục quốc dân, là GD của nhà trường ứng với mỗi thời đại, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mà thể chế chính trị xác định. Nhờ cách tiếp cận này trong khi nghiên cứu XHHGD, chúng ta có thể phát hiện những quy luật, phát triển, thích ứng của các dạng, các kiểu GD trong các giai đoạn phát triển của lịch sử - xã hội. Tuy nhiên, với sự biến động không ngừng của thực tại XH và trong bản thân hoạt động GD, chúng ta chỉ có thể nhìn thấy tính quy luật trong một tập hợp phổ biến nhất, còn trong đời sống XH, sẽ xuất hiện không ít những trường hợp ngoại lệ, cá biệt đòi hỏi chúng ta phải có sự quan tâm, xem xét cặn kẽ. III. Nhiệm vụ nghiên cứu của XHHGD. - Là một bộ phận đặc thù của XHH, XHHGD có nhiệm vụ nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa con người với con người trong quá trình phát triển và tiến bộ XH, bao gồm những tác động GD ngẫu nhiên của cộng đồng XH đối với mỗi cá nhân; những tác động có định hướng của các nhóm và tổ chức XH; những tác động mang tính chuẩn mực trong các thể chế GD (hệ thống GD quốc dân và những thành phần thuộc cấu trúc của hệ thống - XHHGD có nhiệm vụ nghiên cứu mối quan hệ gắn bó giữa hoạt động GD với tư cách là một thiết chế XH, với những thiết chế cơ bản khác nhau của hệ thống XH. Điều đó cũng có nghĩa là XHHGD cần làm sáng tỏ các tính quy luật quan trọng của GD như: tính quy luật về sự phù hợp tất yếu của GD với trình độ phát triển sức sản xuất XH và với tính chất của quan hệ sản xuất XH; tính đồng bộ, liên tục về không gian và thời gian của những tác động GD do những tổ chức, các nhóm XH khác ngoài nhà trường mang lại (XHHGD). - XHHGD có nhiệm vụ nghiên cứu vai trò của hoạt động GD với tư cách là một lĩnh vực XH đảm bảo việc kế thừa, duy trì và phát triển nền văn hoá XH một cách liên tục, thúc đẩy sự phát triển của XH. Mặc dù chịu ảnh hưởng của các thiết chế Xh khác, song giáo dục luôn tồn tại một cách khách quan, vừa vận động theo quy luật của XH, vừa vận động theo quy luật của bản thân hoạt động HD, vừa phát triển song song với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, vừa là động lực và điều kiện duy trì sự tồn tại và 25
- phát triển Xh. Sản phẩm của GD đóng góp cho XH những con người XH, những nhân cách sống. Sản phẩm này có mặt trong các quá trình xã hội khác nhau tạo nên sự phân hoá, di động, biến chuyển XH một cách năng động, tích cực và sáng tạo. Mỗi cá nhân tồn tại trong các mối quan hệ XH có được vị thế, vai trò, tác dụng của mình chính là nhờ quá trình GD đào luyện và thiết lập nên. - XHHGD nghiên cứu những vấn đề sinh tồn của hoạt động giáo dục (mục đích, nội dung, phương pháp, HTTC, hệ thống quản lý GD, cơ sở tài chính, vật chất v.v ) có ảnh hưởng tới chiến lược nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài của đất nước. Những vấn đề chính yếu này của hoạt động HD, một khi được chế định hoá bởi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ trở thành những yêu cầu, những nhân tố cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. - XHHGD nghiên cứu hiện 0tượng GD, các kiểu GD trong XH làm cơ sở cho công tác dự báo về các yêu cầu GD phát triển con người theo khuôn mẫu mà XH mong đợi . Dự báo phát triển kinh tế - xã hội tổng thể có cơ sờ từ những dự báo thành phần, trong đó có vai trò của dự báo phát triển GD. Một dự báo về văn hoá, về chính trị, về kinh tế v.v không thể thiếu những yếu tố về chủ thể và đối tượng phục vụ trong lĩnh vực đó- con người. Với chức năng đào tạo, giáo dục để hình thành cá nhân - nhân cách hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống XH, đóng vai trò như là động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển XH, kết quả dự báo của GD sẽ góp phần đáng kể vào dự báo quy hoạch phát triển tổng thể và quy hoạch phát triển cho từng bộ phận của hệ thống XH. IV. Nội dung nghiên cứu cơ bản của XHH giáo dục Xã hội học giáo dục nghiên cứu các vấn đề GD trên bình diện tổng thể của các mối quan hệ XH, ở cấp độ toàn xã hội, có liên quan tới các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Còn việc nghiên cứu sự vận động bên trong của bản thân hoạt động GD là phán việc riêng của giáo dục học. * Yếu tố tự phát và tự giác trong hoạt động giáo dục. Hoạt động GD tồn tại trong mọi giai đoạn phát triển của lịch sử XH, song hoạt động giáo dục tổn tại theo hai cơ chế, đó là cơ chế tự phát và cơ chế tự giác. Hoạt động truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm là một trong những mối quan hệ tương tác giữa con người với con người tồn tại rất đa dạng, phong phú. Nếu dựa trên phương thức truyền đây và lĩnh hội, chúng ta có thể phân thành hai dạng ứng với hai cơ chế hoạt đông giáo dục. Dạng thứ nhất, kinh nghiệm được truyền đạt và lĩnh hội một cách ngẫu nhiên (người cần truyền đạt và người cần lĩnh hội). Hoạt động GD theo dạng này thường xuất hiện một cách tự nhiên mà không tuân thủ theo một dự kiến đã được hoạch định. Nó giải quyết những nhu cầu trước mắt của mỗi cá nhân và có thể cho cả cộng đồng (người cổ xưa đi săn thú kèm theo những đưa trẻ nhỏ - con trai, việc truyền thụ kinh nghiệm của người lớn cho trẻ nhỏ với mục đích là giúp trẻ có được các 26
- tri thức và những kỹ năng, thao tác cần thiết để săn bắt được con thú và tránh được những nguy hiểm . Những đứa trẻ tiếp thu những kinh nghiệm săn bắt do người lớn dạy bảo để tồn tại, góp phần làm phong phú thêm của cải cho cộng đồng, và quá đó mà tích cóp dần hình thành những kinh nghiệm sống cho bản thân). Hoạt động GD theo cơ chế tự phát có một số đặc trưng cơ bản là: - Mục đích hoạt động mang tính thực dụng, hướng tới một kết quả cụ thể cho một công việc, một cá nhân hoặc một nhóm nhỏ. - Cách thức hoạt động chủ yếu thông qua việc truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm trực tiếp, đơn lẻ, thiếu tính kế hoạch và hệ thống. - Kết quả do hoạt động giáo dục theo cơ chế tự phát mang lại là rất hạn chế cả về số lượng và chất lượng và để đạt được kết quả đó, con người phải tiêu tốn một lượng thời gian khá lớn. - Đối tượng giáo dục khi lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo chủ yếu đi theo con đường bắt chước, học thuộc, điều đó tạo ra những con người thụ động, bảo thủ, kém tính sáng tạo. Hoạt động giáo dục thực hiện theo con đường tự phát bắt nguồn từ phương thức sản xuất lạc hậu của những xã hội trước đây (XH cộng sản nguyên thuỷ, XH chiếm hữu nô lệ, XH phong kiến). Một nền sản xuất chủ yếu dựa trên sức lực của cơ bắp, lực lượng sản xuất giản đơn, sản phẩm tạo ra theo con đường đơn chiếc, khối lượng tri lức khoa học của nhân loại gia tăng thêm và chưa nhiều, hàm lượng trí tuệ chứa đựng trong mỗi sản phẩm là không đáng kể v.v Mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng tồn tại thông qua lao động bằng con đường trực tiếp thâm nhập vào đi tượng, dưới sự chỉ dẫn của thế hệ đi trước và những cá nhân khác có kinh nghiệm hơn. Có thể nói hoạt động giáo dục được sản sinh từ những điều kiện sản xuất XH, có sự phù hợp ở mức độ đòi hỏi của XH đó. Ngày nay, với sự hiện diện của nền kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức, khoa học, công nghệ đã tạo ra hệ thống sản xuất xã hội có kỹ thuật và kỹ năng rất phức tạp, đa dạng đã làm nảy sinh nhu cầu chuẩn bị cho toàn bộ thế hệ trẻ khả năng tham gia vào sự phát triển đó của sản xuất cũng như giúp họ thích úng nhanh chóng với sự biến đổi không ngừng, mau lẹ của đời sống xã hội. Để làm được việc này, hoạt động GD chỉ có thể đi theo con đường tự giác, thông qua việc thiết lập một hệ thống giáo dục, đa cấp, đa ngành với những mục đích, nội dung, phương pháp và hệ thống tổ chức đào tạo thích hợp với từng loại do dói tượng, từng khối lượng thời gian. Giáo dục thực thi chức năng này trong xã hội hiện đại được thừa nhận là tổ chức chủ yếu của quá trình xã hội hoá cá nhân. Giáo dục không chỉ cung cấp cho thế hệ trẻ hệ thống tri thức, kỹ năng cần thiết của các loại hình hoạt động hiện có trong Xã với tư cách là bộ máy trọng yếu nhất trong tạo nguồn nhân lực, giáo dục còn giúp cho thế hệ trẻ có được một nhân cách hoàn chỉnh về tình cảm, đạo đức về sự hiểu biết các chuẩn mực, giá trị xã 27
- hội để họ có thể sống hoà nhập với cộng đồng. Nôi dung cơ bản của XHH báo dục 1. Nghiên cứu hệ thống GD với tư cách là một thiết chế XH thực hiện chức năng xã hội hoá cá nhân. * Tính tất yếu và vai trò của GD đối với quá trình XHH (xã hội hoá) cá nhân. (Như đã phân tích- cho dù đó là quá trình GD tự phát hay tự giác) * Khả năng đáp ứng của GD đối với XH: + Tuyển chọn, phân loại và tiếp nhận trẻ em vào các loại hình đào tạo và cùng với nó là xác định mục đích, nội dung, phương pháp và quá trình XHH tương ứng. Chuyển giao nguồn lực cho XH (phân luồng HS từ phổ thông và đào tạo nghề ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề). Đáp ứng hai đòi hỏi trên của XH, GD đã thực hiện chức năng công khai của XHH (bao hàm trong nó các vấn đề như: ai được đi học? học cái gì? học như thế nào? sự phù hợp giữa giáo dục của nhà trường với nhu cầu của XH, v.v ) + Còn chức năng tiềm ẩn của XHH, GD thực thi quyền lực của các tầng lớp thống trị Xh thông qua các chức năng công khai (bao hàm trong nó các vấn đề như: GD phục vụ quyền lợi của ai? GD góp phần thúc đẩy sự phát triển của XH như thế nào?). Quá trình tìm kiếm các câu trả lời trên đã sản sinh ra các lý thuyết khác nhau (lý thuyết chức năng và lý thuyết xung đột XH trong GD). * Nghiên cứu GD và sự phát triển con người XH + ở cấp độ tổng quát, XHH GD hướng vào việc nghiên cứu, phát hiện các yêu cầu GD bồi dưỡng, nhằm hình thành bộ mặt văn hoá- đạo đức của con người, chuẩn bị cho con người đủ kiến thức - thái độ - kỹ năng để hội nhập nền văn hoá của nước mình và hoà nhập với đời sống cộng đồng, đời sống quốc tế. + XHHGD đặc biệt quan tâm đến các vấn đề như: GD và sự hình thành vị thế XH của con người trong XH GD và sự di chuyển, di động trong đời sống XH; vai trò, tác dụng của GD trong việc phân tầng, phân lớp XH; vai trò của trí thức - một tầng lớp XH đặc biệt. GD với vai trò hình thành và phát triển nhân cách XH: bao gồm trong đó những phẩm chất như trình độ văn hoá- đạo đức, kỹ thuật, khả năng thích ứng và hoà nhập Ngoài ra, XHHGD còn nghiên cứu mối quan hệ giữa GD với các định chế XH; những cơ hội phổ cập GD và sự hội nhập giữa các nền văn hoá - sự' thích nghi văn hoá qua đào tạo, giáo dục. * Nghiên cứu các bất bình đẳng trong GD: 28
- Bất bình đẳng GD được thể hiện trong bất bình đẳng giai cấp; đẳng cấp kinh tế và XH; thành thị và nông thôn; dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, giới tính; nghề nghiệp và đãi ngộ; truyền thống văn hoá gia đình và cộng đồng; (Trong các bất bình đẳng nêu trên, bất bình đẳng giai cấp là cất lõi chi phối các bất bình đẳng khác nhau). Khi nghiên cứu bất bình đẳng GD, XHH không chỉ nêu ra các hiện tượng XH này, tác động của GD trong việc lưu truyền và củng cố chúng mà cần thiết phải đề xuất được các giải pháp hạn chế và khắc phục chúng, góp phần vào việc hoạch định các chính sách XH về GD cho nhà nước, chính phủ. * Nghiên cứu các chính sách xã hội về GD và tác động của các chính sách đó trong thực tiễn. Về bản chất, chính sách GD thuộc phạm trù chính sách XH. Trong quản lý XH, không thể không quán triệt các tư tưởng chiến lược về GD trong đường lối chung, làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội, trong đó có GD. Trong XHH GD cần có các vấn đề so sánh, lựa chọn các chính sách GD ở các nước thuộc hệ thống XH khác nhau. (Nhìn chung, các nước phát triển đều xem việc đầu tư cho GD là đầu tư cơ bản và lâu dài (có tính chiến lược) để tạo nên sức bật cho sự phát triển của XH (tạo nguồn lực khoa học, kỹ thuật). Ở các nước này, GD đều được xếp ở hàng quốc sách, đầu tư cho GD là đầu tư cho sự phát triển tạo ra tiền đề và động lực của mọi sự phát triển - kinh tế, chính trị, văn hoá và tiến bộ XH. Đầu tư cho GD vừa là đầu tư cho phát triển (kinh tế- xã hội) vừa là đầu tư dạng đặc biệt, nhưng về căn bản vẫn là đầu tư để sản xuất mở rộng (cho khoa học, công nghệ, cho chất xám). Trong sự phát triển chung, GD với vai trò đặc biệt của nó luôn phải đi trước một bước, phải đón đầu các kế hoạch phát triển kinh tế - XH nhằm' chuẩn bị sẵn nhân lực - cán bộ KHKT, cán bộ quản lý lao động và người lao động GD trong XH văn minh, phải đào tạo được một đội ngũ trí thức đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng. + Trong xu thế hội nhập của đời sống quốc tế, XHHGD phải tiếp cận với các xu thế, các huynh hướng vĩ mô của thế giới về GD. (Ví dụ trong “chương trình đổi mới GD nhằm mục đích phát triển cho châu Á - Thái Bình dương" theo APEID đã chỉ ra rằng GD phải: GD cho tất cả mọi người; chương trình GD phải thích hợp với cá nhân và XH; phát triển những giá trị và những thái độ thích đáng; phát triển các kỹ năng có tính phương pháp; quan tâm đến các nhu cầu toàn diện của cá nhân; nối đa hoá tiềm năng của từng trẻ em bất kể tình trạng kinh tế - XH như thế nào; các phương pháp dạy học phải đặt trọng tâm ở người học; tinh thông kiến thức và thực hành; định giá sự thực hiện có tính toàn năng (đồng bộ);GD 29
- phải sẵn sàng thích ứng kịp thời với sự biến đổi). + Khi hoạch định chính sách GD, cần có sự tiên lượng những thay đổi của yêu cầu XH và KT - nghề nghiệp đối với GD, phải tính đến những tiềm năng hiện có của GD để thoả mãn những nhu cầu đó. (Mạng lưới hiện tại và khả năng tương lai; số giáo viên, ngân sách, thiết bị . . . ) + Tìm hiểu sự biến đổi tích cực và tiêu cực trong quá trình thực thi trong thực tiễn chính sách giấc dục để từ đó có sự điều chỉnh và thay đổi chính sách. V. Một số quan điểm về mối quan hệ giữa GD với XH và công bằng XH. 1. Thuyết chức năng Quan điểm của các nhà XHH chức năng coi sự bất bình đẳng và phân tầng XH như là đặc trưng tất yếu của XH loài người, nhờ đó XH bảo đảm những địa vị quan trọng nhất phải do những người có tài năng nhất đảm nhận một cách có ý thức. Theo họ, hệ thống GD đóng vai trò chủ yếu với ba chức năng sau: . Là môi trường, phương tiện chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực trong một quốc gia công nghiệp. . Phân hoá nghề nghiệp (Trong sản xuất công nghiệp, có sự phân hoá cao các lĩnh vực nghề nghiệp nên có những yêu cầu kỹ thuật, kỹ năng và trách nhiệm khác nhau. Từ đó xuất hiện cơ chế lựa chọn cá nhân theo tài năng của họ và đào tạo cho công việc mà họ sẽ đảm nhận. Như vậy, GD có thêm chức năng định vị cho con người chuẩn bị tham gia vào sản xuất XH). Qua các kỳ thi, điểm số, bồi dưỡng tài năng v.v GD quyết định (qua chức năng chọn lọc) sự phân công lao động vào các lĩnh vực nghề nghiệp - sự bất bình đẳng này không phải là do chính hệ thống GD gây ra, mà là kết quả của sự phân chia về kỹ năng trong XH và sự cần thiết của việc đãi ngộ khác nhau ứng với mỗi nghề nghiệp. . Cố kết XH: GD trường học bằng cách lựa chọn nội dung giảng dạy với các giá trị trung tâm hay cốt lõi của XH đó để thực hiện chức năng cố kết XH. (Đây là một chương trình tiêu chuẩn hoá mà tất cả học sinh phải học, qua đó đưa các em vào "di sản văn hoá chung” bất kể nguồn gốc). Hiệu quả của việc làm này là để tăng cường sự đồng cảm về những giá trị cơ bản của XH và để đảm bảo sự tán thành ở mức cơ bản văn hoá chung đó, bất chấp sự đa dạng về văn hoá truyền thống của học sinh và kinh nghiệm văn hoá của các em. Khiếm khuyết của thuyết chức năng trong GD là ở chỗ: - Thiếu triệt để và mang tính áp đặt: sự không phù hợp giữa kiến thức tiếp thu 30
- trong nhà trường với, yêu cầu của thực tế sản xuất (bằng cấp chỉ cần thiết cho cá nhân với tư cách cần cho một nghề nào đó, còn thành thạo trong nghề thì chưa giải quyết được). Việc chọn lọc, đánh giá, giới thiệu các học sinh thành đạt vào các lĩnh vực nghề nghiệp là việc làm hệ trọng, liên quan tới công bằng XH. (Nhiều quan sát XHH cho thấy, trường học là nơi khẳng định thân phận mà học sinh được hưởng từ gia đình, bố mẹ hơn là tác nhân chọn lọc, không tính đến lịch sử xuất thân của các em). Việc xác định nền văn hoá cốt lõi cần theo những chuẩn mực nào, đây là vấn đề cực kì phức tạp, tế nhị trong mỗi quốc gia. 2. Thuyết xung đột giai cấp: Xung đột giai cấp trong GD đều bắt nguồn từ học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của C.Mác và V.I.Lê nin. - Các nhà XHH theo thuyết chức năng có tham vọng giải thích quan hệ giữa GD với XH công nghiệp nói chung đã gửi liền chức năng của GD với sản xuất công nghiệp (một thứ sản xuất đã bị trừu tượng ra khỏi quan hệ sản xuất tư bản). Theo họ, GD trực tiếp đối mặt và chịu sự chi phối của kỹ thuật và kỹ năng lao động không liên quan đến quan hệ tư bản của sản xuất đó. Các Mác và Lênin giải thích sự xung đột giai cấp trong GD không nhằm vào xung đột giai cấp nói chung mà nhằm vào nhà trường tư bản, sự xung đột giữa giai cấp tư sản và giai cấp CN trong GD. Theo các ông, sự bất bình đẳng và phân công lao động kỹ thuật không phải do sản xuất CN, kỹ thuật tạo ra mà là do quan hệ tư bản của nền sản xuất đó (như vậy, GD không chỉ liên hệ với kinh tế mà còn gắn liền với quan hệ sản xuất). (Hệ thống GD phản ánh tổ chức sản xuất trong XH tư bản, phản ánh những đòi hỏi riêng của chủ nghĩa tư bản, lợi nhuận hơn là nhu cầu sản xuất Công nghiệp, nhu cầu lao động kỹ thuật, kỹ năng. Xuất phát từ lợi nhuận, để kiểm soát CN được chặt chẽ, nhà tư bản phân chia quy trình lao động kỹ thuật thành những bộ phận nhỏ, manh mún. Sự phân chia này được chuyển vào lĩnh vực GD - ĐT, như vậy nhà tư bản đã góp phần vào phân chia kiến thức KH-KT (vốn nó là một hệ thống kiến thức hoàn chỉnh). Ờ đây, sự phân hoá trong kiến thức đào tạo của nhà trường phản ánh mục đích tổ chức lao động trong XHTB chứ không phải do bản thân KHKT quy định. (Điều này phản ánh rất rõ trong nội dung, tính chất và tổ chức trường học dành cho con em các giai cấp khác nhau trong XHTB). Các công trình nghiên cứu XHH trong lĩnh vực GD ở các nước TB phát triển đã cho ta thấy bất bình đẳng GD xuất hiện trong phạm vi rộng lớn và bao hàm các khía cạnh sau: + Cơ hội về GD cho trẻ em của các giai cấp khác nhau là khác nhau. Các trẻ em giai cấp CN ít có cơ may vào các trường có chất lượng cao, so với con em giai cấp 31
- trung lưu và lớp trên. + Cơ hội về GD cho trẻ em nam cao hơn trẻ em nữ. + Có sự khác nhau về cơ hội GD cho trẻ em các dân tộc khác nhau. Con em dân tộc ít người có cơ hội ít hơn. + Sự phân phối về địa vị, nghề nghiệp và tiền thương của người lao động không được quy định bởi kết quả GD. Cùng một thành quả GD như nhau danh độ, bằng cấp) thì những người đàn ông có địa vị gia đình cao, có thu nhập cao hơn người ở gia đình địa vị thấp) con trai thu nhập cao hơn con gái. Có thể nói, những bất bình đẳng trong GD TBCN là hiện tượng XH phổ biến và việc khắc phục nó không thể theo hướng như các nhà XHH chức năng đề xuất. VI. Một số vấn đề XH về GD ở nước ta hiện nay 1. Những thành tựu cơ bản GD của Việt Nam. - Hệ thống GD quốc dân hoàn chỉnh, thống nhất - Quy mô GD tăng nhanh : từ 1995-2000 (mẫu giáo tăng 1,2 lần; THCS tăng 1,6 lần; THPT tăng 2,3 lần; DN tăng 1,8 lần; ĐH tăng 3 lần). - Công tác XHH GD đã đem lại kết quả bước đầu - Chất lượng GD có chuyển biến - Trình độ hiểu biết, khả năng tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được tăng lên. HDI năm 1990: 0,456 xếp thứ 121/174 năm 2000: 0,682 xếp thứ 101/174 2. Những yếu kém: - Chất lượng GD còn thấp - Hiệu quả GD chưa cao - Cơ cấu đào tạo nhân lực về ngành nghề, về trình độ, về dùng miền chưa hợp lý. - Đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng và thấp về chất lượng - Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn - Chương trình, giáo trình, phương pháp GD chậm đổi mới, chậm hiện đại hoá. - Công tác quản lý GD kém hiệu quả Nguyên nhân của yếu kèm là: về chủ quan: năng lực quản lý GD-ĐT còn hạn chế; về khách quan: trình độ phát triển KH-KT còn thấp; nền KT thị trường chưa hoàn thiện; cải cách hành chính nhà nước chậm trễ. 3. Một số vấn đề XH trong GD và hướng giải quyết: 32
- - Nhận thức XH về GD được đổi mới, đúng đắn hơn về vị trí của giáo dục. - Sự nghiệp GD đang đứng trước những mâu thuẫn cơ bản là: + Mâu thuẫn giữa chính sách đầu tu còn hạn hẹp cho GD với nhu cầu phát triển GD, giữa khả năng khách quan của nền kinh tế rất hạn chế và mong muốn chủ quan về tốc độ nhanh trong phát triển + Mâu thuẫn giữa số lượng người đi học và khả năng nâng cao chất lượng GD; Giữa cơ sở vật chất nhà trường với mục đích phát triển toàn diện (trên thực tế, HS phải hàng chịu một quan niệm về học vấn phổ thông phiến diện, mang nặng tính khoa cử, chạy theo bằng cấp, tạo nên sự mất cân đối trong nhân cách học sinh: mất cân đối giữa kiến thức và kỹ năng lao động, giữa hiểu biết và thực hành, truyền thống tôn sư trọng đạo bị xói mòn). + Mẫu thuận giữa cơ cấu kinh tế, lao động với cơ cấu GD (tốt nghiệp đại học, cao đẳng ra không có việc làm, nông thôn thiếu lao động; nhiều lĩnh vực sản xuất mới ra đời, đòi hỏi những người lao động có trình độ cập nhật, vì thế, số lao động đã được đào tạo trước đây khó có thể thích ứng - lực lượng lao động KT ở nước ta vừa thừa lại vừa thiếu). Để giải quyết những mâu thuẫn trên, giáo dục cần được đổi mới theo những tư tưởng chỉ đạo sau: + Phải xem giáo dục là quốc sách hàng đầu, kế hoạch phát triển GD phải gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - XH của từng địa phương và cả nước. (Chiến lược phát triển GD là một bộ phận thiết yếu trong chiến lược con người, là trung tâm của chiến lược KT-XH. Cần khắc phục tình trạng coi GD chỉ là một thứ phúc lợi, xếp GD ra ngoại vi sản xuất. Cần đầu tư thích đáng cho GD, vì nó là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển). + Kế hoạch GD phát triển theo từng vùng, đại trà, mũi nhọn nên toàn bộ hệ thống GD vận động theo hướng phân hoá ngày càng rõ rệt, do đó phải xác định rõ mục tiêu, kế hoạch phát triển chương trình, sách giáo khoa theo từng vùng, phân luồng hợp lý để hạn chế tốt số học sinh tốt nghiệp từng cấp học có thể đi vào sản xuất hay tiếp tục học lên. Kết hợp phổ cập GD (xây dựng mặt bằng dân trí) với chính sách đào tạo và sử dụng nhân tài, tạo ra mũi nhọn cho sự nghiệp phát triển giáo dục. + Chất lượng và hiệu quả đào tạo của GD là tạo rạ chất lượng mới, cấu tạo mới trong cấu trúc nhân cách (điều chỉnh, bổ sung), mở rộng kiến thức nâng cao phẩm chất của mỗi cá nhân, mỗi thế hệ. Chất lượng GD được đánh giá bằng hiệu quả bên trong (số học sinh lên lớp, tết nghiệp) và hiệu quả bên ngoài (tác dụng của GD đối với kinh tế- xã hội). Hiệu quả GD 33
- nói lên chất lượng của GD. Chỉ có một nền GD có hiệu quả và chất lượng mới nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. + Mở rộng việc đa dạng hoá các loại hình đào tạo thông qua việc kết hợp giáo dục chính quy, GD không chính quy, GD nhà trường và GD gia đình, GD thường xuyên; GD suốt đời; áp dụng nhiều hình thức trường lớp: quốc lập, bán công, dân lập, trên cơ sở một luật GD và những quy định chung của nhà nước trong đào tạo. + XHH, dân chủ hoá GD và thực hiện công bằng XH trong GD: . Tạo ra nhận thức đúng trong XH về vị trí, vai trò của GD đối với việc phát triển lực lượng lao động, phát triển KT-XH. . Kết hợp sức mạnh của nàn nước và sự đóng góp của toàn dân trong tất cả các lĩnh vực của hoạt động GD. . Đem GD đến với người dân lao động, tạo mọi điều kiện để mọi người được học hành, phát triển sâu rộng các tổ chức quần chúng tham gia vào việc quản lý GD. VII. Xã hội hoá giáo dục XHH là quá trình mà qua đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hoá của Xh như một khuôn mẫu XH. Quá trình mà nhờ nó, cá nhân đạt được những đặc trưng XH của bản thân, học hỏi được cách sống (suy nghĩ, ứng xử trong cộng đồng, trong đời sống XH và phát triển được khả năng đảm nhiệm các vai trò XH với tư cách vừa là cá thể vừa là một thành viên của XH 1. Nội dung của XHHGD Quá trình XHH cá nhân và nhóm XH có ba nội dung cơ bản sau đây: - Sự học tập (học và tập) của cá nhân về cách thức và quy định để tham gia một nhóm XH; để được nhóm đó chấp nhận như một thành viên thuộc nhóm. (Khi mới sinh ra, đứa trẻ chưa có khả năng tự hội nhập với XH. Để có được nó phải có quá trình tiếp nhận (học) những tri thức, kỹ năng, thao tác cần thiết mà XH đòi hỏi (hoạt động XH, các quan hệ và liên hệ giữa các thành viên trong XH hay còn gọi là các chuẩn mực văn hoá của XH). - Cá nhân học hỏi không phải để làm biến mất bản thân mình trong XH mà là để phát triển các năng lực của chính mình, ý thức của mình như là một thực thể XH độc lập, tách riêng ra khỏi các cá nhân khác nhau và tham gia vào các hoạt động của nhóm như một chủ thể, một yếu tố nhóm. (XHH là quá trình phát triển "cái tôi" của mỗi cá nhân trong XH). XH không chỉ tồn tại với tư cách là tổ hợp các cá nhân mà còn là tổ hợp các nhóm XH. Vì vậy quá trình XHH còn bao hàm nội dung làm cho các nhóm XH thích nghi lẫn nhau theo chuẩn mực chung của văn hoá XH (quá trình XHH nhóm). Cần lưu ý rằng các nội dung này 34
- được thay đổi theo sự thay đổi của XH. (Trong XH cũ, XHH là đúc theo khuôn mẫu; trong XH hiện đại, XHH mang ý nghĩa như là quá trình giúp đỡ, khiến cho cá nhân phát huy được cái năng lực hoạt động và sáng tạo của mình). 2. Các nhân tố tác động đến quá trình XHHGD Xét trên bình diện tổng quát, toàn bộ đời sống XH là những tác nhân XHH. Tuy nhiên, trong số các tác nhan đó, có các nhân tố chính thức và không chính thức. - Nhân tố chính thức là các tổ chức, các thiết chế XH có chức năng XHH, được cấu trúc chặt chẽ, được quy định trách nhiệm truyền đạt các mô thức hành vi và ý thức đã được XH chấp nhận tới cá nhân (nhân tố chính thức điển hình là GD, tôn giáo, pháp luật v.v ). - Nhân tố không chính thức bao gồm các tác động qua lại của cá nhân đã được XHH trong các nhóm, các cộng đồng, tác động của các phương tiện thông tin đại chúng mà kết quả là vừa đạt được hiệu quả đối với XH, vừa làm biến đổi cá nhân. - Các nhân tố chủ yếu: ảnh hướng chủ yếu tới quá trình XHH cá nhân bao gồm cá nhân tố chính thức và không chính thức + Gia đình: . Đứa trẻ ra đời phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình để được tồn tại (về vật chất, tinh thần, tình cảm), sự phụ thuộc này tạo nên sự kết dính mạnh mẽ giữa trẻ và những người chăm sóc. Sự cảm nhận thế giới, về Xh và chính bản thân của trẻ được quyết định bởi thái độ, hành vi và niềm tin của gia đình (thông qua các thông tin có lời và không có lời, chủ đích và không chủ đích, người lớn truyền đạt cho trẻ những giá trị, niềm tin, thái độ và tri thức sống, hoạt động). Nội dung và phương pháp XHH của cá nhân tuỳ thuộc vào nguồn gốc giai cấp XH, truyền thống văn hoá của gia đình. Trong phạm vi bao quát, XHH gia đình phụ thuộc và được thay đổi tuỳ theo sự biến đổi của XH và sự thay đổi của nó, cả về chức năng, nội dung, phương pháp và mức độ ảnh hưởng. + Trường học: Trong XH truyền thống, nông nghiệp, XHH gia đình có vai trò chủ yếu. Ngày nay, vai trò đó được chuyển dần sang các tổ chức, các thiết chế XH khác nhau, trong đó nhà trường giữ vị trí then chốt. Trường học là cơ quan chủ yếu chịu trách nhiệm hình thành cho trẻ hệ thống tri thức khoa học, kỹ thuật các giá trị chuẩn mực văn hoá mà XH mong đợi. Cũng như gia đình, thiết chế giáo dục cũng mang tính giai cấp, đẳng cấp và tính XH sâu sắc, được thể hiện trong mục đích, nội dung và phương pháp tổ chức giáo dục. (Với tầm quan trọng đặc biệt này, GD trở thành quốc sách, được ưu tiên về ngân 35
- sách và các ưu đãi XH khác. Đồng thời thiết chế GD được tổ chức sao cho phản ánh được các quy luật đang vận động trong XH hiện tại, nhà trường gắn với cuộc sống), được thiết kế sao cho các kiến thức được truyền đạt qua các thế hệ (khoá học) mang tính kế thừa và phát triển. - Nhóm XH : + Nhóm XH mà đứa trẻ đang sống (đặc biệt là nhóm bạn bè) có chức năng cơ bản là thoả mãn nhu cầu giao tiếp, nhu cầu giải trí giữa các cá nhân. + Quan hệ trong nhóm là quan hệ bình đẳng, cùng vị thế XH nên các cá nhân thường chia xẻ thái độ, tâm tư, cảm xúc với nhau. Vì thế, tác động của nhóm mạnh mẽ tới mức có thể lấn át cả ảnh hưởng của gia đình và nhà trường. - Thông tin đại chúng: Trong XH nông nghiệp, mọi thông tin tới trẻ đều phần lớn thông qua gia đình, bạn bè (qua hình thức tiếp xúc cá nhân). Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, cho phép trẻ thu nhận thông tin nhiều, đa dạng. Do đó, nhân tố thông tin không phải là một nhân tố chính thức nhưng ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong quá trình XHH trẻ. Cần đặc biệt lưu ý tới tính hai mặt của thông tin (mặt tích cực thể hiện ở chỗ nó tăng cường ý nghĩa của các giá trị, các chuẩn mực văn hoá cũng như các tri thức khoa học đa dạng và bổ ích; mặt tiêu cực thể hiện ở chỗ nó làm méo mó, lệch lạc việc tiếp nhận các giá trị thông tin qua các chương trình không lành mạnh do tính thương mại hoá và thiếu thận trọng, dẫn đến sự lầm tưởng của trẻ em cho rằng những gì được in ấn, truyền tải qua thông tin đại chúng đều là những thứ được XH thừa nhận. Trong nhiều trường hợp, các giá trị thông tin không phù hợp với giá trị chuẩn mực văn hoá chung và đài ngược trực tiếp với những cái được dạy dỗ trong nhà trường và gia đình, nó cản trở việc XHH tích cực đối với trẻ). Xã hôi hoá giáo dục XHH GD là huy động lực lượng của toàn XH cùng tham gia vào GD, tạo điều kiện để mọi người dân được thụ hưởng các thành qua do GD đem lại; huy động sự đóng góp của người dân. Đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình trường lớp, phát triển hệ thống trường lớp ngoài công lập, tổ chức tốt việc phối hợp giữa nhà trường gia đình và XH. Nhà nước giữ vai trò định hướng, tạo cơ chế, chính sách cho sự phối hợp đồng bộ giữa các lực lượng GD. - XHHGD là một tư tưởng chiến lược về GD, chỉ đạo quá trình xây dụng và phát triển GD nhằm tạo ra chuyển biến sâu sắc, có tính "cách mạng” trong hoạt động thực tiễn GD, biến hoạt động GD vốn mang tính chuyên biệt trong một lĩnh vực, một thiết chế XH (ngành GD) trở thành một hoạt động XH rộng lớn, sâu sắc đi vào tất cả các lĩnh vực của đời sống vật chất, tinh thần của toàn XH. 36
- Xây dựng và phát triển GD theo hướng XHH sẽ huy động được mọi tiềm năng của XH ở những mức độ khác nhau, tạo cơ sở mở rộng quy mô, đẩy nhanh tốc độ, tăng cường chất lượng GD đáp ứng nhu cầu phát triển và tiến bộ XH. Nghiên cứu XHHGD là nghiên cứu một trong những vấn đề cơ bản nhất của GD, giúp cho GD phát huy mọi tiềm năng của chính mình, dựa vào sức mạnh của XH để phát triển bền vững. XHHGD mang tính phổ quát đối với sự nghiệp GD chung, có tính toàn cầu. 3. Các yêu cầu đối với XHHGD Phải có biện pháp nâng cao hiểu biết của toàn XH về vai trò, tác dụng của GD làm chuyển biến thái độ của cộng đồng của XH đối với GD. Tạo cho quần chúng biến thái độ bằng hành vi cụ thể tham gia hoạt động GD dưới nhiều hình thức tương ứng với thế mạnh của chính họ. Tổ chức được các phong trào hỗ trợ giáo dục để góp phần giải quyết những khó khăn về vật chất, quản lý GD. XHHGD phải đặt dưới sự kiểm soát của Đảng và chính quyền các cấp để trên cơ sở đó mà tổ chức phối hợp các hoạt động, xây dựng môi trường GD thích hợp với hoàn cảnh của mỗi địa phương. Giữ vững vai trò tham mưu của trường học nhằm hướng mọi hoạt động vào việc thực hiện tốt mục tiêu GD. Nhà trường phải trở thành nòng cốt của mọi phong trào, mọi cuộc vận động thực hiện XHHGD. 4. Cơ chế tổ chức thực hiện Kết hợp giữa việc huy động các đoàn thể XH tham gia hỗ trợ hoạt động GD với việc tổ chức mọi lực lượng XH cấp cơ sở tham gia giáo dục. GD với chiến lược phát triển toàn diện con người trong thời kỳ CNH-HĐH I. Một số khái niệm: 1- Phát triển con người .(Human Development) bao gồm rất nhiều hiện tượng gần nhau như: con người (Human beings); cá thể (individual); cá nhân (person); nhân cách (personality); nhân lực (human resources). + Phát triển con người là lĩnh vực của sự phát triển nói chung, nó còn là tiên chỉ, mục tiêu cao cả của phát triển. (phát triển XH là phát triển cấp 2, phát triển kinh tế là phát triển cấp 1 , phát triển con người là phát triển cấp + Phát triển con người là sự phát triển loài người, cá thể người, cá nhân, nhân cách, nhân lực, do đó nhiều hình thái, nhiều giá trị và nhiều chức năng. + Bản chất của sự phát triển con người là làm gia tăng giá trị của con người trên các mặt tinh thần, thể chất, đạo đức, kinh tế, kỹ thuật, nghệ thuật, trí tuệ, tình cảm, XH, 37
- pháp lý v.v (Với ý nghĩa đó, phát triển con người được xem là nguyên tắc hạt nhân của sự phát triển bền vững xét trên bình diện toàn XH). + Về mặt triết học, phát triển con người được xét đều trên ba lĩnh vực cơ bản: . Phát triển thể chất hoặc thể xác (thể lực, thể hình, thể năng) . Phát triển tâm trí (lý trí và trí tuệ, các chức năng nhận thức và lôgíc- trí dũng). . Phát triển tâm hồn, tình cảm (đánh giá, biểu thị thái độ, thể hiện nhu cầu tâm năng. 2 - Phát triển nguồn nhân lực + Về mặt giá trị (phát triển con người là gia tăng giá trị nói chung của con người) phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị sử dụng của con người. + Về mặt lôgíc (phát triển con người là gia tăng giá trị của con người như là giá trị cứu cánh - mục đích của phát triển và như là giá trị phương tiện) còn phát triển nguồn nhân lực chủ yếu là phát triển mặt công cụ ở con người, như một nguồn tài nguyên, một nguồn vốn và một nguồn động lực trong quá trình phát triển. + Trình độ phát triển của con người thể hiện tập trung ở các chỉ số phát triển con người (HDI) và chất lượng cuộc sống. Nó quyết định chất lượng của nguồn nhân lực và những tiền đề quan trọng nhất để phát triển nguồn nhân lực. Vì thế, trong nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực luôn đặt ra ra mục tiêu phát triển con người: có con người phát triển đầy đủ giá trị thì mới có nhân lực chất lương cao. (Tuy nhiên, không thể đồng nhất phát triển nguồn nhân lực với phát triển con người, vì con người không chỉ có giá trị sử dụng và chức năng công cụ mà còn giữ vai trò, chức năng nhân bản). + Có thể nói: phát triển con người là phạm trù tâm lý - giáo dục và HH; phát triển nguồn nhân lực là phạm trù kinh tế - chính trị - xã hội. Hai phạm trù này thống nhất với nhau trên cơ sở phạm trù nhân cách, hoạt động và giá trị. II- Mô hình con người với tư cách là đơn vi của nguồn nhân lực trong xã hội CNH-HĐH 1- Theo kinh nghiệm của các nước đã và đang CNH-HĐH, con người cần có những thuộc tính cơ bản sau: + Năng lực trí tuệ và kỹ thuật hoạt động chắc chắn, chính xác + Trình độ nghiệp vụ, chuyên môn hoá + Khả năng hợp tác và cạnh tranh 38
- + Khả năng di truyền nghề nghiệp và việc làm + Khả năng hoạch định, đánh giá và tự đánh giá + Sức chịu đựng sự căng thẳng (stres) do nhịp độ sống và môi trường công nghiệp, lối sống hiện đại gây ra. + Học vấn chung về quản lý, công nghệ, kinh tế, hành chính, luật, chính sách, thị trường, + Nhu cầu, sở thích tinh thần của cá nhân tương đối rõ ràng, đặc biệt trong sinh hoạt văn hoá, thể thao, giải trí + Tính kỷ luật và tính tổ chức + Tính độc lập của lý trí và tình cảm trong công việc, cuộc sống gia đình, quan hệ XH, học tập + Năng động và hiệu quả trong công việc + Lòng trung thực thẳng thắn + Kỹ năng sống thường nhật, tỉnh táo, ít viển vông + Ý chí và tính mạo hiểm trong hành động + Thiện chí với lao động chân tay, tập luyện và vận động thể chất + Tính độc lập với gia đình và dòng họ + Ý thức quan tâm tới đại cục + Nhu cầu thành đạt, học tập, giao tiếp và phát triển bản thân + Giàu trải nghiệm, biết học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm + Ứng xử đa phương tiện và đa chiều + Hướng vào tương lai + Thừa nhận giá trị của sự thay đổi + Chấp nhận sự khác biệt với mình + Khả năng xử lý thông tin, tính toán, cân nhắc, giải quyết vấn đề + Tính tạo nhã, lịch thiệp (nghi thức văn hoá) trong công việc và quan hệ + Tính hiệu lực, hiệu quả trong công việc và đời sống + Tính quy đồng dân tộc ở phương diện văn hoá + Tính lạc quan, chịu đựng thất bại và nắm bắt vận hội mới + Quý trọng và sử dụng thời gian nghiêm túc + Gắn bó với công việc (trách nhiệm và tính mục đích) và coi trọng nhân cách nghề nghiệp 39
- + Phong cách thị dân + Quang giao và khoan dung + Xu hướng cá nhân CN và tính riêng biệt trong đời sống sinh hoạt + Yêu thích nghệ thuật và du lịch + Đa dạng trong phương thức hành vi 2- Ở Việt Nam, những nét đặc trưng của con người Việt Nam đã được chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương II (khoá VIII) và trong Luật Giáo dục bao gồm: + Sức khoẻ, thể hình tốt, ý chí bền bỉ + Bản sắc dân tộc trong đời sống và đạo đức, văn hoá, nghệ thuật, giao tiếp của cá nhân, của gia đình, của cộng đồng. + Hệ tư tưởng Mác-lênin và Hồ Chí Minh + Lý tưởng và niềm tin XHCN + Lý tưởng độc lập dân tộc và ý chí bảo vệ, xây dựng tổ quốc III. Giáo dục và sự phát triển con người 1- Quan hệ giữa GD và phát triển con người là mối quan hệ giữa đầu tư và lợi ích, giữa vốn liếng và hiệu quả. + Cơ cấu chung nhất của quá trình phát triển con người bao gồm hai thành phần: Một là đầu tq vào con người Hai là động cơ hoá hay huy động những tiềm năng và sức mạnh trong đời sung và công việc, phát huy tính tích cực cá nhân của con người bằng những ảnh hưởng và tác động khác nhau. + Các giải pháp phát triển con người cho dù ở khâu đầu tư hay động cơ hoá đều có thể sắp xếp vào 4 loại cơ bản: . Các giải pháp XH / con người . Các giải pháp thông tin / ra quyết định . Các giải pháp cơ cấu / hành chính . Các giải pháp công nghệ / kinh tế + Loại giải pháp XH / con người có vai trò bao trùm, gắn với giáo dục, đào tạo, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và phúc lợi XH, những giá trị của đời sống gia đình, sinh hoạt, văn hoá, giải trí, thể thao, quan hệ XH (giao lưu), các bổn phận công dân, truyền thống và TLXH trong đó GD- ĐT có vai trò chủ đạo bởi vì thực chất những giải pháp này chính là các quá trình XHH hoá cá nhân. + Loại giải pháp thông tin / ra quyết định chủ yếu dựa vào những nghiên cứu, 40
- điều tra, tìm hiểu hiện trạng, chính sách và những khuyến nghị về con người, những chủ trương quản lý vĩ mô và vi mô, những ảnh hưởng của truyền thống quảng bá, giao dịch, tiếp xúc đối với con người. + Những giải pháp về cơ cấu / hành chính có liên quan tới tổ chức, quản lý, điều hành (luật) phân bố, kiểm soát, điều chỉnh những ảnh hưởng của môi trường đến con người và những ảnh hưởng do con người tác động lẫn nhau cũng như tác động lên môi trường. + Loại giải pháp công nghệ / kinh tế gắn với tài chính, cải thiện công nghệ, điều kiện, công cụ, nội dung lao động, mức tiêu dùng, chuẩn vật chất của đời sống, môi trường sinh thái của con người. + Hai thành phần trong cơ cấu phát triển con người đều là đầu tư, chúng chỉ khác nhau ở chỗ đầu tư trực tiếp hay gián tiếp. Giáo dục - đào tạo tham gia vào cả hai thành phán và luôn giữ vai trò chủ đạo, do đó, giáo dục - đào tạo được xem là lĩnh vực đầu tư phát triển, nó chi phối hiệu quả của tất cả những loại đầu tư khác nhau. 2. Quan hệ giữa giáo dục và phát triển người là Quan hệ giữa phương tiện và mực đích giữa công cụ và thành tựu - Đảng CSVN khẳng định: GD là quốc sách hàng đầu; quan điểm này được biểu hiện: + Ưu tiên cho giáo dục (tài chính, tinh thần, tính pháp chế của hệ thống giáo dục ) + GD là công cụ mạnh mẽ của quốc gia, một phương sách quan trọng bậc nhất để phát triển đất nước: GD là công cụ cơ bản để phát triển con người (con người là yếu tố quyết định đến mọi thành tựu phát triển kinh tế - xã hội khác nhau). - Phát triển con người là công việc lâu dài “trồng người" có "lợi ích trăm năm". - Trong chiến lược phát triển con người, GD phải được đặt ở vị trí chủ đạo và nòng cốt. (Nếu cơ cấu chiến lược phát triển con người bao gồm: tư tưởng, đường lối; các mục tiêu; các nhiệm vụ; các giai pháp; các điều kiện thi GD là một thành tố xuyên suốt cả 5 khâu). - Tính chất của giáo dục: Luật GD quy định tính chất của nền GD Việt Nam là: nền GD XHCN; tính nhân dân; tính dân tộc; tính khoa học; tính hiện đại. Những tính chất này bao trùm toàn bộ hệ thống giáo dục. Mối quan hệ dân trí, nhân lực, nhân tài + Dân trí là một nền tảng để có được và phát triển được nhân lực và nhân tài (GD-ĐT phải xây dụng được nền tảng dân trí này. Nhân lực và nhân tài chỉ là một bộ phận của dân trí; nhân tài chỉ là bộ phận ưu tú nhất trong nhân lực). 41
- + Mô hình nâng cao dân trí; nhân tài trong cuối thế kỷ XX ở nước ta là giáo dục cho mọi người. Từ năm 2001, sẽ là mô hình: phổ cập THCS; giáo dục thường xuyên; phổ cập trung học; phổ cập nghề trong đội ngũ nhưng người lao động. + Dân trí, nhân lực và nhân tài chỉ là những thứ công cụ đơn thuần nếu thiếu đi cơ sở giá trị của chúng là con người và nhân cách con người. - Nội dung giáo dục: Vấn đề nội dung GD được xét trên 3 mặt: + Về mặt tổ chức: Nội dung được cơ cấu thành các lĩnh vực học tập và rèn luyện, được phản ánh trong hệ thống các hoạt động trong môn học và ngoài môn học. Phân hoá trong GD nhờ chia ban, phân luồng đào tạo, phân chia lĩnh vực đào tạo (bắt buộc và tự chọn) dựa trên năng lực, sở trường và cơ sở GD, nhu cầu thị trường lao động và xu thế phân công lao động, phát triển ngành nghề. Sử dụng phương thức tích hợp nội dung như lồng ghép môn học, tích hợp xuyên môn (môn học tích hợp), tích hợp liên môn (các chủ đề tích hợp) nhằm phát huy tốt nhất hiệu quả sử dụng chương trình và học liệu, của phương tiện và chi phối thời gian học tập. + Về thành phần của nội dung GD: Cần nghiêng về tri thức ứng dụng, các kỹ năng hành dụng và các kỹ năng hiểu biết XH (luật pháp, văn hoá), kinh tế, chính trị, lịch sử, học vấn công nghệ và kinh tế; học vấn về bản thân con người và đời sống con người, học vấn về tài nguyên và môi trường; kỹ năng độc lập học tập; kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, xử lý tình huống; thái độ nhân văn đối với công việc, con người và thiên nhiên, kỹ năng chung sống và sống khoan dung; thái độ trách nhiệm đối với XH và bản thân; thái độ sáng tạo trong hoạt động và quan hệ. + Về mặt giá trị : Nội dung GD cần phản ánh được các xu thế chính của sự chuyển đổi giá trị vài ba chục năm gần đây: pháp chế và nền hành chính hợp lý hoá; hợp tác và cạnh tranh; đô thị hoá và siêu đô thị hoá; chủ động, năng động trong sự phụ thuộc lẫn nhau chặt chẽ; thế tục hoá (đời thường hoá); liên kết và tích hợp các tổ chức, các nguồn nhân lực, các năng lực; phân hoá và chuyên môn hoá các kỹ năng, sức mạnh và quyền lực của tri thức khoa học - kỹ thuật; nhịp độ hoạt động cao; vai trò quyết định của nhân tố con người, đặc biệt trong quản lý; định hướng nhân văn và phát triển bền lững; năng lực thích ứng cao của XH trước những thay đổi của tự nhiên và lịch sử; chất lượng cuộc sống tương xứng với mức độ tăng trưởng kinh tế, các xu thế toàn cầu hoá trong các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, khoa học - công nghệ; truyền thông; dịch vụ giải trí, du lịch, thể thao v.v - Phương Pháp giáo dục: 42
- (Nếu nội dung GD chứa đựng những giá trị tiềm tàng, sẽ xuất hiện trong sản phẩm GD thì phương pháp GD sẽ quyết định giá trị thật sự của sản phẩm GD. Các Mác đã chỉ rõ: "Thước đo trình độ của một nền văn minh không phải ở chỗ nó sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ nó sản xuất ra cái đó bằng cách nào”). + Phương pháp GD hiện nay chỉ có thể là phương pháp dựa vào hoạt động của người học và các quan hệ và môi trường học tập cởi mở, dân chủ, nhân văn, vào các phương thức giao tiếp tích cực như hợp tác, tham gia vào các học liệu, công cụ, KT đa phương tiện được hiện đại hoá. + Phương pháp GD phải được xây dựng trên cơ sở giải quyết có hiệu quả vấn đề tích cực hoá, cá thể hoá. + Phương pháp GD muốn có hiệu quả phải dựa vào tiềm năng trít hực, kỹ năng, tay nghề của người dạy, người học, chế độ đánh giá GGD và sử dụng con người sau đào tạo. (Vì thế, những tiền đề này cần được XD đồng bộ và được đổi mới trước khi giải quyết nhiệm vụ đổi mới phương pháp). IV. Mô hình nhân cách con người Việt Nam trong chiến lược phát triển toàn diện con người 1. Khái niệm: - Nhân cách con người: Trong Tâm lý học (TLH) có hai cách hiểu về nhân cách con người: + Là cá nhân với tư cách là chủ thể của các quan hệ XH và của hoạt động có ý thức . + Là một hệ thống các phẩm chất của cá nhân được quy định bởi sự gia nhập vào các quan hệ XH, được hình thành trong hoạt động cùng nhau và trong giao tiếp (A.V.Petrovsky và Yaroshevsky, chủ biên, Từ điển TLH, tiếng Nga, Matskva, 1990). Có thể nói: nhân cách là bộ mặt TL, đạo đức của mỗi người - đó là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất TL quy định giá trị XH và hành vi XH của người đó. Nhân cách được phân tích trên ba bình diện khác nhau và được đánh giá ở ba mức độ khác nhau: Thứ nhất, nhân cách của con người được thể hiện trước tiên ở dạng cá tính (nhân cách bộc lộ trong tính cá biệt, không đồng nhất với mọi người, với cái chung, vì vậy giá trị của nhân cách là ở tính tích cực của nó trong việc khắc phục những hạn chế của hoàn cảnh và sự hạn chế tự nhiên nhất của mình). Thứ hai, nhân cách được thể hiện trong mối quan hệ và liên hệ mà nó tham gia trong quá trình hoạt động cộng đồng. Giá trị nhân cách ở mức độ này (mức độ giữa các cá nhân). 43