Giáo trình Xã hội học về truyền thông đại chúng

pdf 42 trang huongle 9380
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Xã hội học về truyền thông đại chúng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_xa_hoi_hoc_ve_truyen_thong_dai_chung.pdf

Nội dung text: Giáo trình Xã hội học về truyền thông đại chúng

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG TS TRẦN HỮU QUANG Biên soạn 1
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Mơn học: XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG TS. Trần Hữu Quang biên soạn THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2
  3. BÀI GIỚI THIỆU Chào mừng các bạn đến với chương trình đào tạo từ xa của Đại học Mở Bán Cơng Tp.HCM Đây là mơn học nghiên cứu về hoạt động truyền thơng đại chúng dưới quan điểm xã hội học. Nhiều trường phái cũng như nhiều luận điểm lý thuyết khác nhau, nhiều lúc đối lập nhau, cũng như nhiều kết quả điều tra thực nghiệm sẽ được trình bày và lược thuật một cách cơ đọng nhằm giúp sinh viên cĩ được những kiến thức tổng quan về tình hình nghiên cứu xã hội học về truyền thơng đại chúng trên thế giới. Nhưng ngồi phần kiến thức, điều cịn quan trọng hơn nữa đối với sinh viên trong mơn học này, đĩ là: thơng qua việc tìm hiểu những lối đặt vấn đề và những lối phân tích khác nhau và đa dạng của các nhà nghiên cứu, sinh viên làm sao rèn luyện được khả năng tư duy và biện luận của mình, làm quen được với phương pháp tư duy xã hội học. Và điều trọng yếu nhất là cuối cùng làm sao sinh viên xác lập được khả năng suy nghĩ độc lập và nuơi dưỡng được ĩc phê phán khoa học khi thử bắt tay vào việc khảo sát, phân tích và giải thích những vấn đề nào đĩ liên quan tới lĩnh vực truyền thơng đại chúng ở Việt Nam. Tập sách này bao gồm những nội dung chính như sau: - Tìm hiểu các khái niệm “truyền thơng” và “truyền thơng đại chúng” (bài 1). - Lịch sử ra đời của các phương tiện truyền thơng đại chúng và 3
  4. của định chế truyền thơng đại chúng (bài 2). - Các lý thuyết chính về truyền thơng đại chúng (bài 3). - Nghiên cứu về cơng chúng (bài 4). - Nghiên cứu về các nhà truyền thơng và tổ chức truyền thơng (bài 5). - Nghiên cứu nội dung truyền thơng (bài 6). - Những tác động xã hội của truyền thơng đại chúng (bài 7). Về thời gian học tập: đây là tập giáo trình dành cho chương trình cử nhân, tương đương với 30 tiết học trên lớp. Tuy nhiên, ngồi thời gian đọc giáo trình, sinh viên cịn phải dành ra một thời lượng tương đương với khoảng 30- 45 tiết để đọc thêm tài liệu sách báo và tạp chí cĩ liên quan tới nội dung mơn học. Đĩ là chưa tính thời gian dành để trả lời các câu hỏi ơn tập (nên tập trả lời bằng cách viết ra trên giấy mà khơng xem lại giáo trình [vì đáp án loại câu hỏi này đều nằm trong giáo trình], mỗi câu chừng nửa trang hoặc tối đa là một trang) và những câu hỏi gợi ý để thảo luận (những câu hỏi này đều nằm ở cuối mỗi chương). Đối với những câu hỏi thảo luận (đây thường là những câu mở rộng để vận dụng suy nghĩ cá nhân vào những vấn đề của truyền thơng đại chúng trong bối cảnh xã hội Việt Nam), sinh viên cĩ thể đưa ra để thảo luận nhĩm. Nếu học mơn này theo nhĩm là hay nhất; cịn nếu khơng, sinh viên nên tìm những người mà mình cĩ thể trao đổi để bàn luận về những vấn đề nêu ra. Nên tranh cãi một cách thoải mái trên tinh thần tự do tư tưởng – vì cĩ cọ xát và tranh luận thì mới cĩ điều kiện để vượt qua được những định kiến chủ quan của từng cá nhân, và đồng thời mới cĩ nhiều cơ may tìm ra được những ý tưởng mới. 4
  5. Ở cuối tập sách này, chúng tơi cũng cĩ nêu ra một số đề tài gợi ý để sinh viên cĩ thể chọn để làm một bài tiểu luận kết thúc mơn học (giới hạn chừng 5-10 trang). Đây là dịp để sinh viên cĩ cơ hội vận dụng những vốn liếng kiến thức đã tiếp thu qua tập giáo trình vào những suy nghĩ và phân tích của chính mình về một vấn đề thực tiễn nào đĩ trong lĩnh vực truyền thơng đại chúng. Bài tiểu luận cuối mơn học khơng phải là chuyện bắt buộc, nhưng chúng tơi khuyến khích sinh viên nên chọn bắt tay vào làm một đề tài, vì điều này sẽ rất cĩ lợi cho việc rèn luyện khả năng viết lách, khả năng tư duy, và khả năng độc lập suy nghĩ. Về phương pháp học tập, sinh viên nên đọc kỹ từng chương (đọc kỹ để nắm được nội dung, chứ hồn tồn khơng phải để “học thuộc lịng”!). Nhưng ngồi tập giáo trình này, sinh viên nhất thiết phải cố gắng đọc thêm sách báo cĩ liên quan tới mơn học này (ngồi những cuốn sách và bài tạp chí mà chúng tơi đã nêu trong phần tài liệu tham khảo). Đọc càng nhiều càng tốt. Kể từ khi bắt đầu học mơn này, hàng ngày sinh viên nên tập đọc báo hoặc coi ti-vi với một cặp mắt mới, khơng phải như một độc giả hay một khán giả bình thường, mà là đọc với cặp mắt của một người phân tích và cĩ ĩc phê phán. Vì đối tượng của mơn học này chính là sinh hoạt báo chí, phát thanh và truyền hình mà hầu như ai cũng theo dõi hàng ngày, nên đây cũng là một điều hết sức thuận lợi cho sinh viên cĩ ngay nhiều cơ hội để quan sát và hỏi han những người xung quanh để tìm hiểu tập quán và nhu cầu của các loại độc giả và khán giả khác nhau, xem xét coi họ phản ứng thế nào đối với trang mục này hay chương trình nọ, và thử 5
  6. tìm xem vai trị và ý nghĩa của các phương tiện truyền thơng trong đời sống xã hội của họ Nội dung tập giáo trình này nêu ra khá nhiều lý thuyết khác nhau về truyền thơng đại chúng. Thoạt nhìn thì cĩ thể cĩ cảm giác hơi khơ khan, nặng nề, nhưng nếu đọc kỹ và suy nghĩ kỹ thì sẽ thấy đấy khơng phải là những “lý thuyết suơng”, mà phần lớn chúng đều cĩ liên quan ít nhiều mật thiết tới những khía cạnh khác nhau trong đời sống truyền thơng diễn ra hàng ngày xung quanh chúng ta. Mong rằng mơn học này sẽ giúp sinh viên hiểu sâu hơn về thế giới truyền thơng, và nhất là cĩ được những cái nhìn mới mang tính chất phân tích và sáng tạo. 6
  7. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huỳnh Văn Tịng, Lịch sử báo chí Việt Nam, TPHCM, Khoa báo chí Đại học Mở-bán cơng TPHCM, 1994. 2. Ngơ Hà, “Lược sử báo chí thành phố (1865-1945)”, trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Cơng Bình (chủ biên), Địa chí văn hĩa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II, Nxb TPHCM, 1988, tr. 319- 385. 3. Tầm Nguyên, “Báo chí Sài Gịn trong 30 năm kháng chiến (1944-1975)”, trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Cơng Bình (chủ biên), Địa chí văn hĩa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II, Nxb TPHCM, 1988, tr. 387-410. 4. Hồng Chương, Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Hà Nội, Nxb Sách giáo khoa Mác Lê-Nin, 1987. 5. Lê Minh Quốc, Hỏi đáp báo chí Việt Nam, TPHCM, Nxb Trẻ, 2001. 6. Đỗ Quang Hưng, “Buổi đầu tiên của báo chí Việt Nam”, tạp chí Xưa và Nay, số 64B, 6-1999, tr. 5. 7. Nguyễn Hữu Viêm, “Hồng Tích Chu, người đầu tiên cách tân báo chí Việt Nam”, tạp chí Xưa và Nay, số 61, 3-1999. 8. Văn Giá, “Nhà báo-nhà văn, viết văn-viết báo”, tạp chí Nghề báo, số 14, 6-2003, tr. 16. 9. Daniel Hémery, “Sài Gịn thập niên 30 : 'La Lutte' (1933- 1937) tờ báo chiến đấu” (Nguyễn Ngọc Giao dịch), trong Cao Huy Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính (chủ biên), Từ Đơng sang Tây, Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng, 2005, tr. 86-113. 10. Loic Hervouet, Viết cho độc giả (Lê Hồng Quang dịch), Hà Nội, Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản, 1999. 7
  8. 11. Hữu Thọ, Nghĩ về nghề báo, Hà Nội, Nxb Giáo dục, 1997. 12. Hội Ngơn ngữ học TPHCM, Viện Ngơn ngữ học Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, Tiếng Việt trên các phương tiện truyền thơng đại chúng, TPHCM, 1999. 13. Trung tâm Ngơn ngữ học (Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ), Quảng cáo và ngơn ngữ quảng cáo, TPHCM, 2004. 14. Trần Hữu Quang, Chân dung cơng chúng truyền thơng (qua khảo sát xã hội học tại TPHCM), TPHCM, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thời báo Kinh tế Sài Gịn, Trung tâm Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, 2001. 15. Trần Hữu Quang, “Những chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Sài Gịn thời Pháp thuộc”, tạp chí Xã hội học, số 3&4, 1999, tr. 32-38. 16. Trần Hữu Quang, Xã hội học nhập mơn (giáo trình), Đại học Tổng hợp TPHCM, 1993. 17. Trần Hữu Quang, Xã hội học báo chí (sắp xuất bản). 18. Philippe Breton, Serge Proulx, Bùng nổ truyền thơng (Vũ Đình Phịng dịch), Hà Nội, Nxb Văn hĩa-thơng tin, 1996. 19. Michael Schudson, Sức mạnh của tin tức truyền thơng (bản dịch cuốn The Power of News, Harvard, Harvard University Press, 1995, người dịch: Thế Hùng, Trà My), Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, 2003. 20. Pierre Albert, Lịch sử báo chí (Dương Linh dịch), Hà Nội, Nxb Thế giới, 2003. 21. Nghề báo, tạp chí của Hội Nhà báo TPHCM. 22. Người làm báo, tạp chí của Hội Nhà báo Việt Nam. 23. Nhà báo và Cơng luận, tạp chí của Hội Nhà báo Việt Nam. 8
  9. Bài 1 TÌM HIỂU KHÁI NIỆM TRUYỀN THƠNG Giới thiệu khái quát: Nội dung chương 1 trình bày những khái niệm căn bản cần nắm rõ như “truyền thơng”, “truyền thơng đại chúng”, “các phương tiện truyền thơng đại chúng”, những đặc điểm của quá trình truyền thơng, và mối quan hệ giữa truyền thơng đại chúng với truyền thơng liên cá nhân. Mục tiêu của chương này: Phân biệt được những khái niệm then chốt nêu trên, và hiểu được những đặc trưng của một quá trình truyền thơng. 9
  10. TRUYỀN THƠNG Truyền thơng là gì? Cĩ thể nĩi một cách ngắn gọn rằng truyền thơng là một quá trình truyền đạt thơng tin. Truyền thơng (communication) là một dạng hoạt động căn bản của bất cứ một tổ chức nào mang tính chất xã hội. Ngay trong một bầy ong hay một bầy kiến cũng cĩ truyền thơng: đám ong thợ thường truyền đạt cho nhau những thơng tin về loại hoa mà chúng tìm được cũng như về khoảng cách và phương hướng mà chúng phải rủ nhau bay tới để hút nhụy và đưa mật hoa về tổ. Trong xã hội lồi người, truyền thơng lại càng là một điều kiện tiên quyết để cĩ thể hình thành nên một “xã hội” hoặc “cộng đồng”. Sở dĩ người ta cĩ thể sống được với nhau, giao tiếp và tương tác được với nhau trước hết là nhờ vào hành vi truyền thơng. Người ta gọi đây là truyền thơng liên cá nhân (interpersonal communication), nghĩa là truyền đạt thơng tin giữa người này với người khác. Sự truyền thơng này trước hết được thể hiện thơng qua lời nĩi hoặc chữ viết, tức là thơng qua ngơn ngữ, nhưng cũng cĩ thể thơng qua cử chỉ, điệu bộ, hay hành vi để biểu tỏ thái độ hoặc cảm xúc. Vì thế, cĩ thể cĩ hai cách thức truyền thơng : truyền thơng bằng lời nĩi (verbal), và truyền thơng khơng bằng lời nĩi (non-verbal). Người ta thường phân biệt ba loại truyền thơng như sau : - Truyền thơng liên cá nhân (giữa người này với người khác), - Truyền thơng tập thể (tức là truyền thơng trong nội bộ một cơ quan, một cơng ty, một tổ chức đồn thể, hay một nhĩm xã hội nào đĩ). - Và truyền thơng đại chúng. 10
  11. TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG Vậy thế nào là truyền thơng đại chúng? Truyền thơng đại chúng (mass communication) là quá trình truyền đạt thơng tin một cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thơng qua các phương tiện truyền thơng đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình. (Trong định nghĩa này, cần chú ý đến cái vế thứ hai: một quá trình truyền thơng chỉ được gọi là quá trình truyền thơng đại chúng nếu nĩ được phát ra “thơng qua các phương tiện truyền thơng đại chúng”). Các phương tiện truyền thơng đại chúng (hay cũng cịn gọi là “các phương tiện thơng tin đại chúng”) (mass media) là những cơng cụ kỹ thuật hay những kênh mà phải nhờ vào đĩ người ta mới cĩ thể thực hiện quá trình truyền thơng đại chúng, nghĩa là tiến hành việc phổ biến, loan truyền thơng tin ra mọi người dân trong xã hội. Ở đây, chúng ta cần phân biệt rõ ràng giữa hai thuật ngữ “truyền thơng đại chúng” và “phương tiện truyền thơng đại chúng” mà người ta thường sử dụng lẫn lộn một cách khơng chính xác. Nĩi tới các “phương tiện truyền thơng đại chúng” (mass media) như báo chí, phát thanh, truyền hình là nĩi tới những cơng cụ kỹ thuật (hay những cái kênh) để nhờ đĩ người ta cĩ thể thực hiện quá trình truyền thơng đại chúng. Cịn khi nĩi tới “truyền thơng đại chúng” (mass communication) là chúng ta muốn nĩi tới một quá trình xã hội: quá trình truyền tải thơng tin ra cơng chúng thơng qua các phương tiện ấy. Chúng ta mở ti-vi xem cơ phát thanh viên đọc một bản tin hoặc coi một trận đá banh: đĩ là một hành vi được gọi là nằm trong quá trình truyền thơng đại chúng. Thế nhưng nếu chúng ta cũng mở màn hình ti-vi, nhưng lại để coi một cuốn băng viđêơ quay cảnh đám cưới của cơ em gái trong gia đình, thì hành động này lại khơng thể được coi 11
  12. là nằm trong quá trình truyền thơng đại chúng, bởi một lẽ đơn giản là cuốn băng này chỉ được quay và phát trong khuơn khổ sinh hoạt gia đình mà thơi. Nhưng nếu chúng ta xem một cuốn băng viđêơ đám cưới của gia đình một diễn viên điện ảnh chẳng hạn được phát trên truyền hình, thì đấy lại là một hành vi nằm trong quá trình truyền thơng đại chúng. Nĩi cách khác, điều mấu chốt trong việc xác định xem một hành vi cĩ nằm trong quá trình truyền thơng đại chúng hay khơng khơng phải là cái màn hình ti-vi hay cái đầu máy viđêơ, mà là cần xem xét coi hành vi ấy cĩ nằm trong quá trình truyền tải thơng tin ra rộng rãi cơng chúng thơng qua các phương tiện truyền thơng đại chúng hay khơng. Người ta thường liệt kê các hoạt động sau đây nằm trong lĩnh vực truyền thơng đại chúng: báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, xuất bản, sản xuất băng đĩa (âm nhạc chẳng hạn) Gần đây, chúng ta cĩ thể kể thêm cả Internet. [Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phương tiện Internet cĩ đặc điểm là cĩ thể được sử dụng cho cả ba loại truyền thơng: truyền thơng liên cá nhân (chẳng hạn gởi thư điện tử hay e- mail); truyền thơng tập thể (chẳng hạn những trang website mà chỉ cĩ những người trong nội bộ một cơ quan hay một cơng ty mới cĩ thể truy cập được); và truyền thơng đại chúng (chẳng hạn những trang website của tờ Tuổi trẻ hay tờ Sài Gịn Giải phĩng)]. Truyền thơng đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm ba thành tố sau đây: - Hoạt động truyền thơng (chẳng hạn như đi săn tin, quay phim, chụp hình rồi viết bài, biên tập, cuối cùng là xuất bản, hoặc phát sĩng), - Các nhà truyền thơng (bao gồm các tổ chức truyền thơng như 12
  13. báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình và những người làm cơng tác truyền thơng như nhà báo, phĩng viên, biên tập viên, phát thanh viên ), - Và đại chúng (các tầng lớp cơng chúng rộng rãi). ĐẠI CHÚNG Chữ “đại chúng” trong thuật ngữ “truyền thơng đại chúng” được dùng để chỉ đối tượng cơng chúng độc giả hay khán thính giả của các phương tiện truyền thơng đại chúng. Thực ra, “đại chúng” (mass) là một khái niệm khá mơ hồ và khĩ mà cĩ một định nghĩa thật chính xác. Kể cả về mặt số lượng lẫn về mặt tính chất. Chẳng hạn, người ta khơng thể xác định được là phải đơng đến số lượng bao nhiêu thì mới gọi là đại chúng. Một tờ báo chuyên ngành khoa học chẳng hạn cĩ thể chỉ cĩ vài trăm độc giả, nhưng đây vẫn là một “phương tiện truyền thơng đại chúng” vì nĩ được bán cơng khai ra cơng chúng. Cịn tờ nội san của một đại cơng ty chẳng hạn cĩ thể cĩ số ấn bản lên tới vài chục ngàn tờ, nhưng nĩ vẫn khơng phải là một “phương tiện truyền thơng đại chúng” vì nĩ chỉ lưu hành trong nội bộ cơng ty và khơng được bán rộng rãi ra thị trường. Herbert Blumer đã phân biệt bốn đặc điểm sau đây để nhận dạng khái niệm đại chúng: - Đại chúng bao gồm những người thuộc mọi thành phần xã hội, bất kể nghề nghiệp, trình độ học vấn hay tầng lớp xã hội nào (nghĩa là cĩ những đặc trưng rất dị biệt nhau). - Nĩi đến đại chúng là nĩi đến những cá nhân nặc danh, nghĩa là: vì nhắm đến một cơng chúng đơng đảo, nên nhà truyền thơng khơng thể biết ai là ai, và khi truyền thơng thì họ cũng ý thức rằng thơng tin của họ cĩ thể đến với bất cứ ai, chứ khơng chỉ riêng một ai hay một nhĩm người nào mà thơi. 13
  14. - Các thành viên của đại chúng thường là độc lập nhau, khơng ai biết ai, khơng cĩ những sự tương tác hay những mối quan hệ gì gắn bĩ với nhau (khác với những khái niệm như “cộng đồng” hay “hiệp hội” chẳng hạn). - Đặc điểm thứ tư của đại chúng là hầu như khơng cĩ hình thức tổ chức gì, hoặc nếu cĩ thì cũng rất lỏng lẻo. [Dẫn lại theo Alphons Silbermann, Communication de masse, Paris, Nxb Hachette, 1981, tr. 15] QUÁ TRÌNH TRUYỀN THƠNG Mỗi khi đề cập tới truyền thơng, người ta thường nhắc tới cơng thức “5W” nổi tiếng của Harold Lasswell: “Ai nĩi cái gì, bằng kênh nào, nĩi cho ai, và cĩ hiệu quả gì?” (“Who says what in which channel to whom with what effect?”) [Harold Lasswell, “The structure and function of communication in society”, trong Lyman Bryson (Ed.), The Communication of Ideas, New York, 1948, tr. 37]. Đây là một cơng thức rút gọn gợi ý giúp chúng ta liệt kê ra những yếu tố chính phải cĩ trong nội dung một bản tin. Tuy nhiên, giới hạn của cơng thức này là chỉ hình dung quá trình truyền thơng như một đường thẳng (tuyến tính) giữa một đầu là người phát tin (transmitter), và đầu kia là người nhận tin (receiver). Do đĩ, với cơng thức này, người ta dễ rơi vào khuynh hướng chỉ quan niệm về người nhận tin như một người nhận tin một cách thụ động (xem sơ đồ 1). Người phát tin Người nhận tin Kênh truyền tin Sơ đồ 1. Mơ hình truyền thơng tuyến tính 14
  15. Về sau, các nhà nghiên cứu thường khơng cịn quan niệm quá trình truyền thơng một cách tuyến tính như trên nữa, mà quan niệm quá trình truyền thơng như một chu kỳ, với dạng đường vịng khép kín, trong đĩ bao gồm bốn giai đoạn chính như sau: phát tin, truyền tin, nhận tin, và phản hồi. Đây là quan niệm đã được nhà ngơn ngữ học Roman Jakobson phác thảo một cách khá hồn chỉnh (xem sơ đồ 2). Sơ đồ 2. Mơ hình truyền thơng chu kỳ theo Jakobson Người phát tin Người Phản hồi phát tin Người nhận tin Giải thích Phác thảo PHÁT TIN NHẬN TIN thông điệp thông điệp trong đầu TRUYỀN TIN Bộ lọc Giải mã Bộ lọc Tiếng động Bộ lọc Kênh Mã hóa Thu nhận tin truyền tin Bộ lọc Nguồn: Michel de Coster, Introduction à la sociologie, 3è édition, Bruxelles, Nxb De Boeck, 1992, trang 98. Xuất phát từ ý tưởng của ngành điều khiển học, mơ hình truyền thơng theo chu kỳ này quan niệm rằng: một thơng điệp, sau khi được phát ra, luơn luơn gây ra một phản ứng nào đĩ về phía người nhận tin, 15
  16. và do đĩ, người nhận tin sẽ cĩ một thơng điệp phản hồi (feedback) gởi về lại cho người phát tin ban đầu. Lúc này, người nhận tin cũng trở thành một người phát tin. Như vậy, quá trình truyền thơng thực chất phải được hiểu như là một quá trình trao đổi thơng tin giữa người này với người khác trong cuộc sống xã hội. Chúng ta hãy khảo sát kỹ hơn từng giai đoạn trong mơ hình này của Jakobson. Giai đoạn phát tin (emission) Truyền thơng là bộc lộ một ý tưởng của mình bằng một hệ thống tín hiệu (signs), dưới dạng ngơn ngữ hoặc cử chỉ, nghĩa là bằng một thứ mã (code) mà người phát tin cĩ thể hiểu được – thao tác này gọi là mã hĩa (coding). Cĩ thể nĩi mỗi ngơn ngữ là một hệ thống mã: tiếng nĩi khơng là gì khác hơn là một chuỗi những âm thanh, cịn chữ viết là một chuỗi những ký tự, và những âm thanh hay ký tự này được sắp xếp và phối hợp với nhau theo một số qui tắc ngữ pháp nhất định để cĩ thể mang những ý nghĩa nào đĩ. Giữa giai đoạn “phác thảo thơng điệp trong đầu” và giai đoạn “mã hĩa”, thường xảy ra một thứ hiện tượng giống như “bị nhiễu”: nội dung một thơng điệp (message) sau khi được mã hĩa (nghĩa là sau khi được nĩi ra thành lời, hay được viết ra trên giấy) đơi khi khơng hồn tồn phản ánh chính xác ý tưởng định nĩi trong đầu. Hiện tượng này được Jakobson gọi là “filtering”, chúng tơi tạm dịch là hiện tượng thơng qua “bộ lọc” (cĩ thể hình dung tương tự như việc lọc cà-phê qua cái phin). Sở dĩ cĩ hiện tượng này, một mặt cĩ thể do người phát tin chưa làm chủ được ngơn ngữ mà mình sử dụng, nhưng cũng cĩ thể do ngay bản thân ngơn ngữ thường khơng cho phép diễn đạt được hết những ý tứ hoặc những sắc thái tế nhị hoặc phức tạp mà người phát tin muốn bày tỏ. 16
  17. Giai đoạn truyền tin (transmission) Giai đoạn truyền đạt thơng tin cĩ thể diễn ra bằng hình thức tiếp xúc trực tiếp (đối diện) giữa người phát và người nhận tin, nhưng cũng cĩ thể thơng qua một phương tiện kỹ thuật trung gian hay một kênh truyền thơng nào đĩ (medium) như điện thoại, máy fax, telex, máy nhắn tin, thư từ (viết trên giấy), thư điện tử (e-mail) Cũng cĩ khi “kênh truyền thơng” ở đây lại là một người thứ ba, đĩng vai trị trung gian, mà người phát tin nhờ nhắn lại cho người nhận tin. Khi thơng điệp được chuyển qua một kênh trung gian nào đĩ thì rất cĩ khả năng là sẽ bị nhiễu bởi những loại tiếng ồn (noise) khác nhau (máy bị rè, tiếng động ồn ào xung quanh ), và do đĩ nội dung thơng điệp cĩ thể bị sai lạc hoặc bị mất đi một phần nào đĩ. Cịn trong trường hợp truyền tin thơng qua một người thứ ba (nhờ nhắn lại), thì rất cĩ thể “bộ lọc” chủ quan của người này cũng làm biến dạng đi ít nhiều nội dung của thơng điệp. Giai đoạn nhận tin (reception) Chúng ta cần phân biệt mấy thao tác khác nhau để cĩ thể hiểu được đặc trưng của giai đoạn này (mặc dù thực ra những thao tác này trong thực tế xảy ra gần như cùng một lúc). Trước hết là thao tác “thu nhận tin” (tức là ghi lại thơng điệp - “message recording"). Ở đây, việc ghi nhận tin cĩ thể khơng được đầy đủ, một phần do tác động của các loại “tiếng ồn”, nhưng cũng cĩ thể một phần do người nhận tin khơng nắm bắt được trọn vẹn thơng điệp. Người nghe thường khơng nghe được đầy đủ trọn vẹn thơng điệp được phát ra: anh ta nghe khơng rõ hoặc nghe khơng kịp, nhất là khi mà thơng điệp được phát ra quá dài dịng. Lúc đĩ, người nhận tin chỉ ghi nhớ được một phần của thơng điệp mà thơi: vì khơng thể ghi nhớ tồn văn nội dung thơng điệp giống như một cái máy ghi âm, nên anh ta buộc phải chọn lọc một số thơng tin mà anh ta cĩ thể nhớ được, một 17
  18. cách cĩ ý thức hay khơng cĩ ý thức. Người nghe thường “chọn lọc” theo những tiêu chuẩn như: những vấn đề mà anh ta đang quan tâm, những nội dung phù hợp với suy nghĩ của anh ta, những điều mà anh ta cho là quan trọng, hoặc hấp dẫn, v.v (Cĩ thể tham khảo một thí dụ: trong trị chơi kể một câu chuyện cho một dãy thành viên, trong đĩ người đứng trước kể lại câu chuyện cho người đứng sau, nhưng chỉ nĩi nhỏ vào tai mà thơi, người ta thường thấy kết quả đến người cuối cùng là câu chuyện thường đã khơng cịn như nguyên bản kể cho người đầu tiên. Cĩ thể coi đây là một thí dụ sinh động minh chứng cho hiện tượng tri giác cĩ chọn lọc của con người chúng ta [selective perception].) Thao tác giải mã (decoding) : chúng ta biết là mỗi ngơn ngữ bao gồm những từ, những thuật ngữ hoặc thành ngữ mang những biểu tượng đặc thù. Vì thế, nếu người nhận tin khơng nắm được đầy đủ chìa khĩa của “hệ thống mã” này (nghĩa là khơng hiểu hết ý nghĩa của các từ ngữ được sử dụng trong thơng điệp) thì rất cĩ thể sẽ tiếp thu khơng đúng, “giải mã” khơng đúng nội dung thơng điệp. Sau khi giải mã thơng điệp, người nhận tin cịn phải giải thích nội dung thơng điệp để hiểu được ý nghĩa của nĩ. Việc giải thích này được tiến hành phụ thuộc vào cái khung qui chiếu (frame of reference) của người nhận tin. Cái khung này chủ yếu được qui định bởi nguồn gốc xã hội, tuổi tác, quá trình giáo dục và trình độ học thức của người nhận tin; nĩi cách khác, cĩ thể gọi đây là hành trang văn hĩa của người nhận tin. Cái khung này cĩ hai trục: trục nhận thức (cognitive dimension), và trục cảm xúc (affective dimension). Vốn kiến thức cũng như vốn sống sẽ cung cấp những yếu tố cần thiết để giải thích thơng điệp: đây chính là trục nhận thức. Mặt khác, hành trang tâm lý (vốn cũng là hệ quả của mơi trường xã hội và của quá trình giáo dục) cũng như tâm trạng hay tính khí lúc nhận thơng điệp cũng đều là 18
  19. những yếu tố cĩ thể ảnh hưởng tới cách giải thích nội dung thơng điệp: đây là trục cảm xúc. Tĩm lại, việc tiếp nhận các thơng điệp thường mang tính chất cục bộ (nghĩa là khơng ghi nhận đầy đủ trọn vẹn thơng điệp), chọn lọc (người nhận tin thường chọn lọc để tiếp nhận một số thơng tin), và lý giải (tức là thơng điệp luơn luơn được người nhận tin giải thích theo cái khung qui chiếu của mình, hiểu nĩ theo vốn liếng văn hĩa riêng). Cuối cùng, thơng điệp do người phát tin chuyển đi thường gây ra một kết quả là làm cho người nhận tin cĩ một phản ứng nào đĩ trở lại cho người phát tin. Như vậy, lúc này, người nhận tin cũng trở thành một người phát tin, một nguồn thơng tin. Phản hồi (feedback) Chính là bắt nguồn từ ngành điều khiển học (cybernetics) mà ngành khoa học nghiên cứu về truyền thơng đã nhấn mạnh tới khái niệm “phản hồi” và tới những tác động của nĩ trong đời sống xã hội. Ngành điều khiển học cho rằng bất cứ một tổ chức hay một cơ thể nào đều chỉ cĩ thể tồn tại được với hai điều kiện: đối với bên ngồi, bằng cách tự điều chỉnh theo những biến thái của mơi trường; và ở bên trong, bằng cách tự mình thích ứng nhằm đáp ứng được với những biến thái sâu xa hơn sẽ diễn ra ở mơi trường bên ngồi. Ý tưởng về sự phản hồi trong ngành điều khiển học trên đây được đưa vào lĩnh vực truyền thơng để thấy rằng khơng thể giải thích quá trình truyền thơng theo mơ hình truyền thống của Lasswell, mà cần phải hiểu rằng quá trình truyền thơng là một quá trình trao đổi thơng tin giữa hai nguồn thơng tin. Truyền thơng khơng thể được quan niệm như một quá trình tuyến tính, một chiều, xảy ra một lần là xong (giữa người phát tin và người nhận tin), mà phải được xem xét như một chu kỳ (cycle) trong đĩ cĩ nhiều thơng điệp được trao đổi qua lại 19
  20. với nhau giữa các nguồn thơng tin. Hay nĩi cách khác, chúng ta cần hình dung quá trình truyền thơng luơn luơn diễn ra trong bối cảnh của các mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân. Mơ hình truyền thơng theo chu kỳ mà Jakobson phác thảo tuy chỉ đi sâu phân tích một chu kỳ truyền thơng, nhưng nĩ đã nêu lên được những tính chất cơ bản của bất cứ qui trình truyền thơng nào, dù đĩ là truyền thơng liên cá nhân, tập thể hay đại chúng. Cĩ hiểu được các giai đoạn trong mơ hình truyền thơng này, chúng ta mới cĩ thể hình dung được một cách sâu xa tại sao phản xạ của người làm báo là luơn luơn tự đặt mình vào vị trí người đọc (luơn luơn phải trả lời câu hỏi “viết cho ai?"), và mới thấy hết được ý nghĩa biện chứng của mối quan hệ giữa người làm báo và đối tượng cơng chúng của mình. TRUYỀN THƠNG LIÊN CÁ NHÂN VÀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG Mỗi người chúng ta luơn luơn sống trong mơi trường cĩ nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau (với gia đình, với bạn bè, với đồng nghiệp ). Hành vi tiếp nhận truyền thơng đại chúng chỉ là một trong những hành vi diễn ra trong mơi trường xã hội ấy. Vì thế, thơng thường nội dung của các phương tiện thơng tin đại chúng tác động đến chúng ta thơng qua cái màng lưới quan hệ xã hội vốn cĩ đĩ. Đây là một khám phá xuất phát từ một cơng trình điều tra nổi tiếng của Lazarsfeld, Berelson và Gaudet tiến hành vào năm 1940 ở bang Ohio (Mỹ) [People's Choice, dẫn lại theo Judith Lazar, Sociologie de la communication de masse, Paris, Armand Colin, 1991, tr. 90-95]. Đây là cơng trình nghiên cứu về mức độ ảnh hưởng của những chiến dịch vận động tranh cử tổng thống đối với dân chúng Mỹ, 20
  21. để tìm hiểu coi người dân quyết định thế nào khi đi bầu, và tại sao họ lại quyết định bầu cho một ứng cử viên nào đĩ. Điều bất ngờ mà cuộc điều tra này đã khám phá ra, đĩ là : trái ngược với điều mà người ta vẫn lầm tưởng, chiến dịch vận động tranh cử (chủ yếu thơng qua các phương tiện truyền thơng đại chúng) hầu như khơng hề làm thay đổi ý định bầu cử vốn cĩ của cử tri. Nĩi như vậy khơng cĩ nghĩa là cuộc vận động khơng cĩ tác động nào hết. Thực ra, tác động của chiến dịch vận động chỉ là : củng cố cho ý định bầu cử đã cĩ từ trước của cử tri, hoặc là chỉ làm xuất hiện những ý định vốn đã tiềm tàng trong đầu của cử tri. Các tác giả trên lý giải như sau : người ta luơn luơn cĩ tri giác mang tính “chọn lọc", và khi tiếp nhận các thơng điệp từ truyền thơng đại chúng, người ta thường cĩ xu hướng dễ tiếp nhận những nội dung gì phù hợp với quan niệm của mình, và gạt bỏ ra ngồi tai những gì trái với hoặc xa lạ với suy nghĩ của mình. Vì thế, những ai vốn đã ủng hộ Đảng Dân chủ chẳng hạn thì thường chọn nghe những thơng điệp của đảng này, hơn là đi nghe những diễn văn của Đảng Cộng hịa. Nhìn chung, số người thay đổi ý định bầu cử chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Nĩi cách khác, các chiến dịch vận động tranh cử thực ra chỉ đem lại một hiệu quả rất yếu ớt trong việc thuyết phục người dân thay đổi ý định bầu cử của mình. Cuộc điều tra trên đây cũng khẳng định rằng quyết định chọn lựa của người dân phụ thuộc vào việc họ là thành viên của những nhĩm xã hội nào (tơn giáo, gia đình, câu lạc bộ ). Những người sống trong cùng những hồn cảnh kinh tế và văn hĩa-xã hội tương tự nhau, thì thường cĩ cùng những suy nghĩ và chọn lựa giống nhau. Qua điều tra, người ta mới khám phá ra rằng chính những buổi trao đổi, trị chuyện, tranh luận với những người xung quanh trong những nhĩm xã hội ấy đã tác động lên suy nghĩ của người dân nhiều hơn so với những thơng điệp được phát ra từ các phương tiện truyền thơng đại chúng. Các tác 21
  22. giả nghiên cứu đã nhận diện ra vai trị quan trọng của những người “hướng dẫn dư luận” (opinion leaders) trong các nhĩm xã hội, và từ đĩ phác họa ra giả thuyết về mơ hình truyền thơng hai giai đoạn (two- step flow of communication), trong đĩ những người “hướng dẫn dư luận” là những người đĩng vai trị trung gian trong quá trình truyền thơng này. Sơ đồ 3. Giả thuyết về quá trình truyền thơng qua hai giai đoạn TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG ý tưởng ý tưởng Người hướng dẫn dư luận ý tưởng ý tưởng ý tưởng Người dân Nguồn: Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 95. Những người mà các nhà nghiên cứu gọi là “hướng dẫn dư luận” ở đây thực ra chỉ là những người là cĩ uy tín trong các nhĩm xã hội (nhĩm gia đình, nhĩm bạn bè, nhĩm đồng nghiệp ), cĩ nhiều kiến thức và hiểu biết do thường xuyên đọc báo hay nghe rađiơ, và thường được những người khác trong nhĩm hỏi han ý kiến. Bản thân họ, chưa chắc họ đã ý thức mình là người “hướng dẫn dư luận”. Trong một 22
  23. nhĩm, cĩ khi người này là người “hướng dẫn dư luận” trong lĩnh vực văn hĩa, người khác thì trong lĩnh vực mua sắm, và một người khác nữa trong lĩnh vực chính trị, v.v Trong quá trình điều tra, xác định được một người là người “hướng dẫn dư luận” khơng phải là chuyện dễ dàng, nhất là khi chúng ta tiến hành điều tra nơi một số lượng dân cư đơng đảo. Người ta thường đặt ra hai loại câu hỏi sau để tìm kiếm nhân vật này: (1) Trong thời gian gần đây, ơng/bà cĩ bao giờ tìm cách thuyết phục người khác về một chuyện gì đĩ hay khơng? (2) Trong thời gian gần đây, cĩ ai đến hỏi ý kiến ơng/bà về một chuyện gì đĩ hay khơng ? Cơng trình nghiên cứu trên đây đã mở đầu cho nhiều cuộc điều tra về sau nghiên cứu về vai trị của truyền thơng liên cá nhân đối với truyền thơng đại chúng. Qua đĩ, người ta nhấn mạnh rằng quá trình truyền thơng khơng phải lúc nào cũng đi theo con đường “từ trên xuống dưới", mà thơng thường là đi theo qui luật “ngang hàng”: người dân thường trị chuyện, tranh luận, hay tìm hiểu về một chuyện gì đĩ với những người thuộc cùng giới, cùng tầng lớp, cùng mơi trường xã hội, chứ ít khi hỏi han hoặc trị chuyện với những người cĩ vị thế xã hội xã hội cao hơn. (Một thí dụ rất dễ thấy: một bà nội trợ hiếm cĩ khi nào đi mua sắm ngay lập tức một mĩn đồ ngay sau lúc xem quảng cáo trên báo chí hay trên ti-vi, nhất là nếu đây là một mĩn tương đối đắt tiền; bà ta thường đi hỏi thêm ý kiến một vài người bạn ở cùng xĩm hoặc làm cùng cơ quan trước khi đi đến quyết định cuối cùng.) Các cuộc điều tra đã chứng minh rằng người dân thường khơng chịu ảnh hưởng từ truyền thơng đại chúng một cách trực tiếp, như một “mũi kim chích", mà thường là gián tiếp thơng qua việc trao đổi, hỏi han với những người cĩ uy tín trong các nhĩm xã hội của họ, và lối suy nghĩ cũng như chính kiến của họ thường được xác lập thơng qua những cuộc trị chuyện, giao tiếp mang tính chất liên cá nhân đĩ. Nĩi 23
  24. cách khác, hiệu quả tác động của truyền thơng đại chúng thường chỉ diễn ra một cách trọn vẹn khi được tiếp nối bởi các quá trình truyền thơng liên cá nhân, nghĩa là thơng qua các mối quan hệ trong các nhĩm xã hội và trong từng mơi trường xã hội cụ thể. Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 1: - “Truyền thơng” là một dạng hoạt động căn bản của bất cứ tổ chức xã hội nào. - Cần phân biệt ba loại hình truyền thơng liên cá nhân, truyền thơng tập thể, và truyền thơng đại chúng. Nhận thức rõ sự khác biệt giữa “truyền thơng đại chúng” (với tư cách là một quá trình xã hội) và “các phương tiện truyền thơng đại chúng” (vốn là những kênh hay những cơng cụ kỹ thuật được dùng để thực hiện quá trình truyền thơng đại chúng). - Tìm hiểu kỹ lưỡng sơ đồ truyền thơng theo chu kỳ (của Jakobson), và những đặc điểm của từng giai đoạn trong chu kỳ truyền thơng này. - Mối quan hệ giữa truyền thơng đại chúng và truyền thơng liên cá nhân trong xã hội. Câu hỏi ơn tập: 1. Hãy định nghĩa thế nào là “truyền thơng liên cá nhân", thế nào là “truyền thơng tập thể", và thế nào là “truyền thơng đại chúng". 2. Liệt kê các loại phương tiện truyền thơng đại chúng. 3. Hãy cho biết những đặc điểm chính của cơng chúng của các phương tiện truyền thơng đại chúng. 24
  25. 4. So sánh hai mơ hình truyền thơng theo Lasswell và theo Jakobson. Hãy trình bày đặc điểm của từng giai đoạn trong mơ hình truyền thơng của Jakobson. 5. Thế nào là mơ hình truyền thơng tuyến tính, và mơ hình truyền thơng hai giai đoạn (two-step flow of communication)? Câu hỏi thảo luận nhĩm: (hoặc tự mình trả lời bằng suy nghĩ cá nhân) 1. Thử diễn giải ý nghĩa của mơ hình truyền thơng của Jakobson đối với những người làm cơng tác truyền thơng. Cho một vài thí dụ cụ thể. 2. Trong thực tế xã hội, truyền thơng đại chúng cĩ liên quan thế nào với truyền thơng liên cá nhân ? Hãy tìm thí dụ và giải thích mối quan hệ giữa hai quá trình truyền thơng này. 25
  26. Bài 2 LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG. MỘT ĐỊNH CHẾ XÃ HỘI MỚI Giới thiệu khái quát: Chương này giới thiệu lịch sử ra đời của các phương tiện truyền thơng đại chúng trên thế giới, từ báo chí cho tới phát thanh và truyền hình, cũng như đặc điểm của quá trình hình thành định chế truyền thơng đại chúng. Phần cuối chương này nĩi về những đối tượng nghiên cứu của bộ mơn xã hội học về truyền thơng đại chúng. Mục tiêu của chương này: Hình dung một cách khái quát lịch sử hình thành các phương tiện truyền thơng đại chúng trên thế giới. Hiểu rõ các khái niệm “định chế xã hội”, và “định chế truyền thơng đại chúng” – xét với tư cách là một định chế xã hội. Vị trí của định chế truyền thơng đại chúng trong xã hội hiện đại. Nắm được những lĩnh vực nghiên cứu của bộ mơn xã hội học truyền thơng đại chúng. Các phương tiện truyền thơng đại chúng theo nghĩa mà chúng ta hiểu ngày nay, trong đĩ trước tiên là báo chí, chỉ thực sự bắt đầu xuất hiện tại châu Âu từ thế kỷ XIX cho đến nay. Cĩ thể nĩi các phương tiện truyền thơng đại chúng chỉ ra đời cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. 26
  27. NHỮNG PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THƠNG CỔ TRUYỀN Trong lịch sử thế giới, trước khi cĩ các phương tiện truyền thơng đại chúng, mỗi dân tộc đều đã sáng tạo ra những phương tiện truyền thơng riêng của mình để đáp ứng nhu cầu thơng tin trong sinh hoạt xã hội. Trong xã hội Việt Nam thời xa xưa, cũng đã từng cĩ loại phương tiện thơng tin bằng sự truyền khẩu, và phương tiện thơng tin bằng chữ viết. Các phương tiện truyền thơng bằng truyền khẩu bao gồm: - Những câu ca dao và những bài hát hoặc bài thơ dân gian, - Nhân vật “thằng mõ” trong làng xã thời xưa, - Và các thể loại ca kịch cổ truyền. Và bên cạnh đĩ là các phương tiện thơng tin bằng chữ viết như: các sớ tấu mà hệ thống quan lại ở các địa phương phải gởi về triều đình; và các biên niên sử [Xem Huỳnh Văn Tịng, Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến năm 1930, Sài Gịn, Nxb Trí Đăng, 1973, tr. 21-27]. Thế nhưng, tất cả các phương thức truyền thơng xa xưa đĩ đều chưa phải là những “phương tiện truyền thơng đại chúng” đúng nghĩa mà chúng ta hiểu bây giờ. KỸ THUẬT ẤN LỐT Tìm hiểu về lịch sử của truyền thơng đại chúng, chúng ta khơng thể khơng chú ý tới các bước phát triển của các kỹ thuật truyền thơng, xét với tư cách là những cơng cụ chứa đựng và truyền tải thơng tin. Bởi một lẽ đơn giản là chỉ với một trình độ phát triển kỹ thuật cơng 27
  28. nghiệp thì các phương tiện truyền thơng mới cĩ thể trở thành những phương tiện truyền thơng mang tính chất đại chúng. Trước kia, khi chưa nghĩ ra các kỹ thuật in ấn, người ta chỉ cĩ thể nhân bản các cuốn sách bằng cách chép tay. Trên các sách báo ở phương Tây, người ta thường nhắc tới Johannes Gutenberg (người Đức) như là người đầu tiên phát minh ra kỹ thuật ấn lốt vào năm 1440. Nhưng thực ra, kỹ thuật này đã bắt đầu xuất hiện ở Trung Hoa từ thế kỷ thứ X. Vào thế kỷ thứ III trước Cơng nguyên, vua Tần Thủy Hồng đã từng cho khắc trên những tấm vỏ tre những tác phẩm thời cổ xưa; phương pháp khắc trên gỗ này sau đĩ được dần dần phổ biến dưới thời nhà Đường, nhà Tần Nhưng kỹ thuật ấn lốt chỉ thực sự được khám phá vào triều nhà Tống ở thế kỷ thứ X, khi người ta áp dụng kỹ thuật khắc các nét chữ lên trên một phiến gỗ, sau đĩ mặt gỗ được trét một thứ bột nhão để in lên giấy. Phương pháp này được hồn thiện khi Pi Ching lần đầu tiên chế tạo ra kỹ thuật đúc chữ rời bằng thạch cao vào khoảng năm 1041-1048. Người ta xếp những chữ rời này lên trên một tấm kim loại, rồi sau đĩ trét bột nhão (làm bằng thân cây nghiền nát) để in lên giấy. Mặt khác, chính Trung Hoa cũng là cái nơi sáng chế ra cách làm giấy rất sớm, từ năm 105 sau Cơng nguyên, sau đĩ người Ả Rập mới học lại kỹ thuật này vào thế kỷ thứ VIII rồi truyền dần lại cho các nước châu Âu từ thế kỷ thứ X trở đi. Ở Việt Nam, nghề in xuất hiện vào thế kỷ XV, do cơng lao của tiến sĩ Lương Như Hộc (1420-1501) vốn học được kỹ thuật in sách sau hai lần đi sứ ở Trung Hoa và về truyền dạy lại cho người dân ở làng Liễu Tràng, huyện Gia Lộc (Hải Hưng). Kỹ thuật in thời đĩ là khắc chữ lên trên một tấm gỗ, sau đĩ quét mực để in lên giấy. Liễu Tràng về sau trở thành nơi cĩ những thợ in rất khéo tay và gần như là 28
  29. nơi duy nhất in sách vở trong nước [xem Huỳnh Văn Tịng, sách đã dẫn, tr. 27-29]. Cho đến nay, Lương Như Hộc vẫn thường được coi là ơng tổ của nghề in ở Việt Nam, mặc dù cũng cĩ tài liệu cho rằng nước ta đã biết làm giấy và biết nghề in bằng bản khắc gỗ, kể cả kỹ thuật in bằng chữ rời khắc gỗ, từ thời nhà Lý và nhà Trần, tức khoảng thế kỷ XII-XIII [xem Trần Đức Cường, “Sự cần thiết viết lịch sử báo chí Việt Nam”, Người làm báo, 8-1997, tr. 30] Ở châu Âu, mặc dù kỹ thuật ấn lốt ra đời sau Trung Hoa, nhưng những cải tiến tiếp sau phát minh đầu tiên của Gutenberg đã khiến cho ngành này phát triển và cơng suất in nhanh chĩng gia tăng, từ chỗ sử dụng gỗ chuyển sang việc sử dụng sắt và đồng, rồi từ chỗ in bằng máy thủ cơng chuyển sang in bằng máy sử dụng động lực máy hơi nước vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Chúng ta cĩ thể điểm lại một số sáng chế quan trọng trong ngành in trên thế giới như sau: - Thế kỷ X: kỹ thuật in bằng cách khắc các nét chữ lên trên phiến gỗ ở Trung Hoa. - 1041-1048: Pi Ching (Trung Hoa) lần đầu tiên chế tạo ra kỹ thuật chế tạo chữ rời bằng thạch cao. - 1440: Johannes Gutenberg (Đức) phát minh ra kỹ thuật in ty-pơ với chiếc máy ép bằng vít, chế tạo ra chữ rời, lúc đầu bằng gỗ, về sau bằng kim loại. - 1780: Francois Didot (Pháp) phát minh ra kỹ thuật in bằng chữ sắt (bằng cách sắp chữ đúc rời), nhờ đĩ cơng suất in tăng gấp đơi. - 1803: chiếc máy in cơ khí đầu tiên của Friedrich Koenig (Đức), năm 1811 in được 300 tờ (một mặt) một giờ. - 1814: Friedrich Koenig hồn chỉnh chiếc máy in đầu tiên chạy hồn tồn bằng động lực máy hơi nước cho tờ báo Times ở Luân Đơn, 29
  30. in được 1.100 tờ (một mặt) một giờ. Năm 1818, Koenig và Bauer làm ra chiếc máy in được hai mặt. - 1876: Charles Gillot (Pháp) phát minh ra kỹ thuật làm cliché (bản kẽm), nhờ đĩ người ta bắt đầu cĩ thể đưa hình ảnh lên mặt báo. - 1884: Mergenthaler (Mỹ) sáng chế kỹ thuật linotype (sắp chữ bằng máy, thay vì sắp từng chữ rời bằng tay, và đổ chữ chì đúc liền từng dịng). Sáng chế này là một bước ngoặt căn bản trong quá trình cơ khí hĩa ngành ấn lốt. - 1904: bắt đầu cĩ kỹ thuật in ốp-xét (offset). [cĩ thể xem thêm Pierre Albert, Lịch sử báo chí (Dương Linh dịch), Hà Nội, Nxb Thế giới, 2003, tr. 38-39] Nhờ các tiến bộ kỹ thuật mà cơng suất in khơng ngừng tăng lên, và điều này ngay từ đầu đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện của báo chí. Một cái máy cổ xưa lúc ban đầu chỉ in được vài trăm tờ giấy mỗi ngày, rồi dần dà lên tới khoảng 3.000 tờ một ngày vào đầu thế kỷ XIX, và đạt mức 50.000 tờ giấy báo (khổ A1) trong một giờ vào cuối thế kỷ XX. Ngồi ra, lẽ tất nhiên, sở dĩ báo chí phát triển được là cịn nhờ vào các tiến bộ kỹ thuật khác nữa trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX như sản xuất giấy và mực in, giao thơng vận tải (nhất là khi ra đời xe lửa), bưu điện, điện tín (hay cịn gọi là điện báo, telegraph) (1837), telex (1930) NHỮNG TỜ BÁO ĐẦU TIÊN Trong lịch sử, đơi khi người ta nhắc tới những tờ “báo” cổ nhất (ở dạng sơ khai) như tờ Acta diurna (cĩ nghĩa là “sự kiện hàng ngày”) xuất hiện tại La Mã từ năm 59 trước Cơng nguyên dưới thời hồng đế Julius Caesar. Đây là một dạng tờ báo viết tay lên trên các phiến gỗ, 30
  31. hàng ngày được trưng nơi cơng cộng để dân chúng biết các quyết định quan trọng của nghị viện, biết lịch tranh tài ở đấu trường, ngày xét xử các vụ án, đám cưới, đám ma Hay tờ Kinh báo (Tching Pao, cĩ nghĩa là “tờ báo của kinh đơ”), tờ báo của triều đình Bắc Kinh (Trung Hoa), xuất hiện khoảng năm 400 sau Cơng nguyên và tồn tại suốt cho đến đầu thế kỷ XX, chuyên thơng tin về các biến cố lớn và các quyết định của triều đình [xem Pierre Albert, sách đã dẫn, tr. 6-14]. Tuy nhiên, nếu hiểu theo đúng nghĩa của một “tờ báo”, những tờ báo sau đây thường được coi là xuất hiện sớm nhất trong lịch sử báo chí thế giới: - Đức 1605: tờ Relation, tờ báo đầu tiên ra đời tại Strasbourg (nay thuộc nước Pháp, nhưng hồi ấy cịn thuộc nước Đức). - Bỉ 1605: tờ báo định kỳ Die Niewe Tidjingler (Tin tức Anvers), nửa tháng ra một số. - Đức 1609: tờ báo định kỳ Relation aller fuernemmen in Gedenk wuedigen Historien. 1660: tờ nhật báo đầu tiên Leipziger Zeitung (Nhật báo Leipzig). - Thụy Sĩ 1610: Ordinari Wochenzeitung. - Anh 1621: tuần báo Weekly News. 1702: tờ nhật báo đầu tiên của Anh là tờ Daily Courant. 1785: nhật báo Daily Universal Register, đến năm 1788 đổi tên thành nhật báo Times, vẫn cịn tồn tại cho đến ngày nay, là một trong những tờ báo sống lâu nhất thế giới. - Thụy Điển 1624: Hermes Gothicus. - Pháp 1631: La Gazette, tờ báo định kỳ đầu tiên do Renaudot sáng lập (ra hàng tuần, số ấn bản trung bình là 1.200 ở thế kỷ XVII, và lên tới 12.000 trong thế kỷ XVIII). 1777: tờ nhật báo đầu tiên của Pháp là tờ Le Journal de Paris (Nhật báo Paris). - Ý 1640: Gazzetta Pubblica. 31
  32. - Tây Ban Nha 1641: Gaceta Semanal. Ở Việt Nam, tờ báo in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định báo, ra số một vào ngày 15-4-1865. Tờ Gia Định báo được phát hành vào ngày 15 mỗi tháng, cĩ bốn trang, khổ 32x25cm. Lúc đầu, nhà cầm quyền Pháp giao cho Ernest Potteaux quản lý, đến năm 1869 giao cho Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của. Nội dung tờ báo chủ yếu đăng cơng văn, chỉ thị của nhà cầm quyền, nhưng cũng thêm cĩ một phần đăng tin tức trong nước [theo Huỳnh Văn Tịng, sách đã dẫn, tr. 52] CÁC KỸ THUẬT TRUYỀN THƠNG VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG Sau báo chí, lần lượt ra đời điện ảnh, đài phát thanh và đài truyền hình trong nửa đầu thế kỷ XX, dựa trên nhiều phát minh kỹ thuật khác nhau. Nhà xã hội học truyền thơng Francis Balle nhận định rằng, trong lịch sử các phương tiện truyền thơng đại chúng, nĩi chung tốc độ ứng dụng diễn ra ngày càng nhanh kể từ khi phát minh ra một kỹ thuật cho tới khi một phương tiện truyền thơng mới ra đời và được thương mại hĩa, tức là được đưa ra thị trường một cách rộng rãi (xem bảng 1). Nếu máy in được Gutenberg sáng chế vào năm 1440, thì phải đợi đến năm 1863, tức bốn thế kỷ sau, báo chí mới thực sự trở thành một phương tiện phổ biến trong xã hội. (Francis Balle coi năm 1863, năm ra đời tờ nhật báo Le Petit Journal ở Pháp, cĩ số ấn bản lên tới 400.000 tờ/ngày và bán với giá rất rẻ, mới là cái mốc thực sự của báo chí với tư cách là một phương tiện truyền thơng đại chúng.) Cịn kỹ thuật điện ảnh chỉ cần khoảng 70 năm, kể từ khi Joseph Plateau (người Bỉ) khám phá ra ảo giác về cử động vào năm 1829 (nếu 32
  33. chúng ta xem 10 bức ảnh trở lên liên tiếp trong một giây, thì con mắt của chúng ta cĩ ảo giác là đang nhìn thấy sự cử động), và nhờ đĩ người ta sáng chế ra những chiếc máy quay ảnh thơ sơ đầu tiên vào khoảng năm 1830, cho tới khi anh em Lumière (người Pháp) chế tạo ra được chiếc máy quay phim đầu tiên năm 1895 ở Paris, và bắt đầu được thương mại hĩa kể từ khoảng năm 1900. Nhưng kỹ thuật truyền sĩng phát thanh thì cịn nhanh hơn, từ lần thử nghiệm đầu tiên truyền sĩng rađiơ phát qua biển Manche từ Pháp sang Anh vào năm 1899 cho tới khi bắt đầu được thương mại hĩa kể từ năm 1921 ở Pháp, chỉ cịn mất hơn 20 năm. Cịn kỹ thuật truyền hình thì chỉ mất hơn 10 năm, từ những lần phát sĩng truyền hình thử nghiệm đầu tiên ở Anh, Mỹ và Đức vào khoảng năm 1928-1929 cho tới lúc bắt đầu được thương mại hĩa và được phát sĩng đều đặn từ năm 1936 ở Anh và năm 1941 ở Mỹ. Bảng 1. Các phương tiện truyền thơng đại chúng : từ khi phát minh ra kỹ thuật cho tới khi bắt đầu được thương mại hĩa Phát minh Thương mại Khoảng cách kỹ thuật hĩa thời gian Báo chí 1440 1863 hơn 4 thế kỷ Điện ảnh 1830 1900 70 năm Phát thanh 1899 1921 hơn 20 năm Truyền hình 1929 1941 hơn 10 năm Nguồn: Francis Balle, Institution et public des moyens d'information, Paris, 1973, tr. 76. Ngày nay, báo chí, phát thanh và truyền hình đã trở thành một phần sinh hoạt thơng dụng trong đời sống hàng ngày của phần đơng 33
  34. dân chúng trên khắp hành tinh. Bảng 2 cho thấy tình hình tổng quan về tình hình trang bị ba phương tiện truyền thơng đại chúng chính ở một số nước châu Á và phương Tây. Bảng 2. Số rađiơ, ti-vi, và số ấn bản nhật báo tính bình quân trên 1.000 dân tại một số quốc gia, năm 1996-1997 Số máy rađiơ/ Số máy ti-vi/ Số ấn bản nhật 1.000 dân 1.000 dân báo/ 1.000 dân Đơng Nam Á: Brunei 302 250 69 Indonesia 155 68 23 Kampuchia 128 9 2 Lào 145 10 4 Malaysia 434 172 158 Myanmar 96 6 9 Philippines 161 52 82 Singapore 744 388 298 Thái Lan 234 254 64 Việt Nam 107 47 4 Một số nước ở châu Á và châu Úc : Nhật 956 686 578 Hàn Quốc 1.039 348 393 Trung Quốc 335 321 42 Ấn Độ 120 65 48 Úc 1.391 554 293 Một số nước cơng nghiệp ở Bắc Mỹ và châu Âu : Mỹ 2.116 806 212 34
  35. Canada 1.067 710 159 Anh 1.443 521 329 Pháp 946 595 201 Đức 948 567 305 Hà Lan 980 519 306 Ý 880 528 104 Liên bang Nga 417 410 105 Nguồn: United Nations, 2001 Statistical Yearbook, 45th issue, New York; và số liệu về ấn bản nhật báo: World Bank, 2002 World Development Indicators, New York. Ghi chú: - Rađiơ và ti-vi: số liệu năm 1997. - Ấn bản nhật báo: số liệu năm 1996; riêng Trung Quốc là số liệu năm 1990. ĐỊNH CHẾ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu xem thế nào là “định chế xã hội”. Định chế xã hội (hay cũng cịn gọi là “thiết chế xã hội” [social institution]), hiểu theo nghĩa xã hội học, khơng phải là một nhĩm người cụ thể, cũng khơng phải là một tổ chức hay một hiệp hội, mà là một thành tố (hay một tiểu hệ thống) của hệ thống xã hội. Mỗi định chế bao gồm những vai trị, những giá trị và chuẩn mực mà mọi thành viên đều thừa nhận. Nhà trường, chẳng hạn, là một định chế xã hội, trong đĩ cĩ vai trị nhà giáo, vai trị học sinh, vai trị hiệu trưởng và mỗi vai trị đều cĩ một khuơn mẫu ứng xử nhất định. Khi nĩi tới một trường trung học X nào đĩ, chúng ta coi “nhà trường” đĩ như một tổ 35
  36. chức xã hội cụ thể ; nhưng khi nĩi tới “định chế nhà trường”, thì chúng ta đề cập tới một tổng thể mẫu hình nhà trường (xét một cách trừu tượng) trong một xã hội nhất định nào đĩ. Định chế là một sản phẩm của đời sống xã hội. Mỗi định chế đáp ứng những nhu cầu nhất định của xã hội. Nĩ được định hình theo thời gian, khi mà một số ứng xử nào đĩ của con người được lập đi lập lại, rồi dần dần biến thành nề nếp, tập quán, và cuối cùng trở thành những chuẩn mực mà mọi người đều thừa nhận và tuân thủ. Như vậy, định chế xã hội là một hệ thống các quan hệ xã hội đã được xác lập ổn định trong đời sống xã hội. Người ta thường phân biệt mấy loại định chế xã hội chính như sau: các định chế kinh tế (liên quan tới các quá trình sản xuất và phân phối các của cải và dịch vụ), các định chế chính trị (liên quan tới việc phân bố và sử dụng quyền lực trong xã hội), các định chế thân tộc (như hơn nhân, gia đình), và các định chế văn hĩa (như giáo dục, tơn giáo, phong tục, văn chương, nghệ thuật ). Với sự ra đời và phát triển của báo chí, phát thanh và truyền hình kể từ một hai thế kỷ trở lại đây, người ta thấy xuất hiện một định chế xã hội mới, chưa hề cĩ trong các xã hội cổ truyền, đĩ là định chế truyền thơng đại chúng. Xét về tính chất, định chế này nằm trong hệ thống các định chế văn hĩa. Judith Lazar liệt kê ra một số đặc trưng tổng quát của định chế truyền thơng đại chúng như sau [xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 45] Các phương tiện truyền thơng đại chúng, xét về bản chất, chỉ hoạt động trong lĩnh vực cơng cộng: xét về nguyên tắc, đây là định chế mở rộng cửa cho tất cả mọi người, và nĩ chỉ quan tâm đề cập tới những vấn đề hoặc những sự kiện cĩ liên quan ít nhiều tới mọi thành viên 36
  37. trong xã hội. Hiểu theo nghĩa này, một tờ báo khoa học chuyên sâu về vật lý chẳng hạn cĩ thể chỉ cĩ tổng cộng chừng vài trăm độc giả trên tồn thế giới, nhưng nĩ vẫn được coi là một tổ chức nằm trong định chế truyền thơng đại chúng, vì bất cứ ai cũng cĩ thể đăng ký mua nĩ được. Cịn tờ nội san của một cơng ty đa quốc gia chẳng hạn cĩ thể cĩ số lượng ấn bản lên tới vài chục ngàn, nhưng vì nĩ khơng được phát hành ra cơng chúng một cách rộng rãi nên khơng thể coi nĩ như một tổ chức nằm trong định chế truyền thơng đại chúng, mà chỉ là một phương tiện mang tính chất truyền thơng tập thể. Định chế truyền thơng đại chúng hồn tồn khơng mang tính chất cưỡng bách đối với cá nhân, cá nhân cĩ quyền tham gia hay khơng tham gia vào đây. Người dân cĩ quyền mua hay khơng mua một tờ báo, xem hay khơng xem một bài báo hay một chương trình truyền hình. Đồng thời, một đặc điểm nữa của truyền thơng đại chúng mà người ta cĩ thể nĩi tới ở đây, đĩ là nĩ thường gắn liền với thời gian rảnh rỗi và nhu cầu giải trí của người dân. Truyền thơng đại chúng là một ngành cơng nghiệp thực sự trong xã hội: nĩ đã trở thành một nghề sử dụng nhiều lao động chuyên nghiệp cĩ những trình độ chuyên mơn nhất định, cĩ bộ máy tổ chức chặt chẽ và hoạt động theo hướng chuyên mơn hĩa, cần nhiều vốn liếng đầu tư về tiền của cũng như về kỹ thuật, và sản xuất ra cho xã hội nhiều loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau. Cuối cùng, vì đã được định chế hĩa về mặt xã hội, nên hoạt động của các phương tiện truyền thơng đại chúng luơn luơn chịu sự chi phối và ràng buộc bởi một số chuẩn mực và qui tắc nhất định ít nhiều chặt chẽ hay lỏng lẻo tùy theo từng quốc gia, bao gồm những qui tắc thuộc về hệ thống pháp luật nhà nước lẫn những qui tắc thuộc về nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp. Những đặc trưng tổng quát nĩi trên của truyền thơng đại chúng tất 37
  38. nhiên sẽ cĩ những điểm dị biệt tùy theo từng quốc gia, phụ thuộc vào những mơi trường kinh tế, chính trị, văn hĩa và xã hội ở từng nước. Nếu trong các xã hội cổ truyền, các định chế như gia đình hay nhà trường là những định chế cĩ chức năng xã hội hĩa (nghĩa là giúp cho các cá nhân hội nhập được vào xã hội) trong một giai đoạn nhất định trong cuộc đời của mỗi cá nhân, thì trong xã hội hiện đại, định chế truyền thơng đại chúng làm chức năng xã hội hĩa trong suốt cả cuộc đời của các cá nhân. Thơng thường, người ta coi định chế truyền thơng đại chúng cĩ chức năng đáp ứng hai nhu cầu chính của người dân là nhu cầu thơng tin và nhu cầu giải trí. Nhưng xét về mặt xã hội học, điều cịn cĩ ý nghĩa sâu xa và quan trọng hơn là định chế này tạo ra một khơng gian cơng cộng trong xã hội dân sự, trong đĩ mỗi cơng dân, về nguyên tắc, được xác lập quyền thơng tin và quyền được thơng tin về bất cứ chuyện gì xảy ra trong xã hội cĩ liên quan đến quyền lợi và vận mệnh của mình. Như vậy, theo ý nghĩa này, định chế truyền thơng đại chúng là một định chế độc đáo của một xã hội dân chủ đặt cơ sở trên một nhà nước pháp quyền, vốn là những đặc trưng chỉ cĩ trong các xã hội hiện đại. Chúng ta khơng thể hình dung ra được một chế độ dân chủ nếu thiếu các phương tiện truyền thơng đại chúng. Nĩi cách khác, cĩ thể xem đây là một định chế tuy tự bản thân nĩ chỉ mang tính chất truyền thơng và văn hĩa, nhưng lại cĩ những hệ lụy và những mối quan hệ tương tác hết sức quan trọng đối với các định chế chính trị lẫn các định chế kinh tế và xã hội khác. XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG Cho đến nay, đã cĩ rất nhiều cơng trình nghiên cứu phong phú về 38
  39. truyền thơng đại chúng, từ những cơng trình nghiên cứu về báo chí từ gĩc độ sử học, những cơng trình điều tra nghiên cứu về các giới cơng chúng độc giả và khán thính giả dưới gĩc độ tâm lý học xã hội, cho tới những cơng trình phân tích nội dung về các thơng điệp của truyền thơng đại chúng theo cách tiếp cận của ngơn ngữ học, của ngơn ngữ học xã hội Sơ đồ 4. Những lĩnh vực nghiên cứu của bộ mơn xã hội học truyền thơng đại chúng Nghiên cứu xã hội học về truyền thơng đại chúng Cơng Các nhà Nội dung Ảnh hưởng chúng truyền thơng truyền thơng xã hội Nghiên cứu Nghiên cứu về Phân tích nội Nghiên cứu về cơng đặc điểm và dung truyền về ảnh chúng của hoạt động của thơng (thực hưởng xã hội các phương các nhà truyền nghiệm, và tín của truyền tiện truyền thơng hiệu học) thơng đại thơng đại chúng chúng Nguồn: Chúng tơi lấy lại sơ đồ của Judith Lazar (Sociologie de la communication de masse, Paris, Armand Colin, 1991, tr. 76), nhưng cĩ bổ sung thêm phần nghiên cứu về “các nhà truyền thơng”. Riêng trong lĩnh vực xã hội học, truyền thơng đại chúng được nghiên cứu như một quá trình xã hội, và các phương tiện truyền thơng đại chúng được khảo sát và phân tích dưới gĩc độ định chế xã hội. 39
  40. Hay nĩi ngắn gọn như Alphons Silbermann, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành xã hội học trong lĩnh vực này là tìm cách làm sáng tỏ mối liên hệ giữa truyền thơng đại chúng và xã hội. Silbermann cho rằng xã hội học về truyền thơng đại chúng là bộ mơn chuyên phân tích về hiện tượng truyền thơng đại chúng và ý nghĩa của truyền thơng đại chúng đối với cuộc sống của xã hội [Alphons Silbermann, sách đã dẫn, tr. 9]. Trong bộ mơn xã hội học về truyền thơng đại chúng, người ta thường phân biệt mấy lĩnh vực nghiên cứu chính như sau: nghiên cứu về cơng chúng của các phương tiện truyền thơng đại chúng (khảo sát về các đặc điểm và ứng xử của các giới độc giả và khán thính giả của báo chí, phát thanh, truyền hình); nghiên cứu về các tổ chức truyền thơng và hoạt động của các nhà truyền thơng; phân tích nội dung các thơng điệp truyền thơng (bao gồm hai phương pháp chính là phương pháp phân tích thực nghiệm, và phương pháp phân tích tín hiệu học); nghiên cứu về ảnh hưởng hay tác động xã hội của các phương tiện truyền thơng đại chúng (xem sơ đồ 4). Trong số các lĩnh vực nghiên cứu đĩ, thì những cơng trình nghiên cứu về ảnh hưởng xã hội của truyền thơng đại chúng thường được chú ý và gây ra nhiều tranh luận hơn hết. Trong lĩnh vực này, người ta thường đặt những câu hỏi như: các phương tiện truyền thơng ảnh hưởng thế nào đối với hành vi và ứng xử của các thành viên xã hội ? Vai trị của các phương tiện truyền thơng đại chúng trong việc rèn luyện và giáo dục các lứa tuổi thanh thiếu niên; quan hệ giữa truyền thơng đại chúng và quá trình xã hội hĩa, vai trị của truyền thơng đại chúng trong quá trình hình thành ý thức xã hội ? Các phương tiện truyền thơng đại chúng cĩ phải là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng trong xã hội hay khơng? 40
  41. Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 2: - Lịch sử ra đời các phát minh kỹ thuật và quá trình hình thành các phương tiện truyền thơng đại chúng. - Các khái niệm “định chế xã hội”, và “định chế truyền thơng đại chúng”. - Những đặc trưng của định chế truyền thơng đại chúng. - Đối tượng của bộ mơn xã hội học về truyền thơng đại chúng. Câu hỏi ơn tập: 1. Hãy cho biết một cách khái quát lịch sử ra đời của báo in trên thế giới. 2. Những phát minh kỹ thuật cĩ ảnh hưởng thế nào đối với sự hình thành của các phương tiện truyền thơng đại chúng? 3. Thế nào là “định chế truyền thơng đại chúng”? 4. Hãy trình bày vắn tắt những đặc trưng tổng quát của định chế truyền thơng đại chúng trong xã hội hiện đại. 5. Đâu là những lĩnh vực nghiên cứu chính của bộ mơn xã hội học về truyền thơng đại chúng? Câu hỏi thảo luận nhĩm: (hoặc tự mình trả lời bằng cách tìm đọc thêm tài liệu) 1. Các phương tiện truyền thơng đại chúng đĩng vai trị thế nào đối với một quốc gia đang phát triển? 2. Hãy thử nêu một số chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Việt Nam (tham khảo thêm bài của Trần Hữu Quang, “Những chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử Sài Gịn thời Pháp thuộc”, tạp 41
  42. chí Xã hội học, số 3&4, 1999, tr. 32-38.) 42