Giáo trình Xây dựng đảng

doc 184 trang huongle 1850
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Xây dựng đảng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docgiao_trinh_xay_dung_dang.doc

Nội dung text: Giáo trình Xây dựng đảng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HUẾ TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA HOÀNG NGỌC VĨNH GIÁO TRÌNH XÂY DỰNG ĐẢNG TÀI LIỆU GIẢNG DẠY LƯU HÀNH NỘI BỘ Chịu trách nhiệm xuất bản: PGS.TS VÕ DUY DẦN Biên tập nội dung: TS NGUYỄN TIẾN DŨNG Biên tập mỹ thuật: HÙNG PHONG Biên tập kỹ thuật: HÙNG PHONG Trình bày bìa: THU HƯƠNG HUẾ - 2003 1
  2. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 2 Bài 1: ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐẶC ĐIỂM NGHIÊN CỨU CỦA BỘ MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG 3 BÀI 2: HỌC THUYẾT MÁC-LÊNIN 8 VỀ CHÍNH ĐẢNG CÁCH MẠNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN 8 BÀI 3: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN 21 BÀI 4: NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ CỦA ĐẢNG 31 BÀI 5: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG 42 BÀI 6: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG 53 BÀI 7: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI 65 BÀI 8: XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT VỮNG CHẮC TRONG ĐẢNG 79 BÀI 9: XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN 85 BÀI 10: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 98 BÀI 11: ĐỔI MỚI CÔNG TÁC QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG, TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN 106 BÀI 12: CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG 118 BÀI 13: CÔNG TÁC LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG. 130 BÀI 14: CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG 139 BÀI 15: PHONG CÁCH LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO 151 BÀI 16: NỘI DUNG, THỦ TỤC KIỂM TRA VÀ THI HÀNH KỶ LUẬT ĐẢNG CƠ SỞ 163 BÀI 17: NỘI DUNG VÀ THỦ TỤC KẾT NẠP, QUẢN LÝ, THUYÊN CHUYỂN ĐẢNG VIÊN. 174 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 184 LỜI NÓI ĐẦU Chúng tôi biên soạn cuốn “Giáo trình Xây dựng Đảng” nhằm đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu của sinh viên Trung tâm Đào tạo Từ xa và sinh viên Đại học Huế về môn học “Xây dựng Đảng”. Nội dung cuốn sách được hoàn thành dựa trên cơ sở biên tập và bổ sung nội dung hai cuốn sách: “Xây dựng Đảng” - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Hà Nội - 1995 và “Xây dựng Đảng” - Giáo trình Trung học Chính trị - Tài liệu lưu hành nội bộ - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - 1997. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song không thể tránh khỏi những sai sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp, đọc giả xa gần để cuốn sách ngày càng hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn! Huế, tháng 5 năm 2003 Th.s Hoàng Ngọc Vĩnh 2
  3. Bài 1: ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐẶC ĐIỂM NGHIÊN CỨU CỦA BỘ MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG I. Đối tượng nghiên cứu của bộ môn xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng là một môn khoa học xã hội, là bộ phận không thể tách rời của học thuyết Mác-Lênin về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Khoa học xây dựng Đảng ra đời và phát triển trên cơ sở lý luận Mác-Lênin, trên cơ sở tổng kết thực tiễn xây dựng Đảng của các Đảng Cộng sản và Công nhân. Xây dựng Đảng là khoa học về những quy luật về sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; về những quy luật xây dựng nội bộ Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nói cách khác, khoa học xây dựng Đảng nghiên cứu những quy luật và cơ chế xây dựng và hoạt động của Đảng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh về phẩm chất, năng lực, trí tuệ và năng lực lãnh đạo, làm tròn vai trò đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, lãnh đạo xã hội phát triển toàn diện. Trong điều kiện có chính quyền, xây dựng Đảng là khoa học về những nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị, về những nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế, xã hôi, tư tưởng, văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Trong nội bộ Đảng thì đó là những nguyên lý về tư tưởng và tổ chức, những nguyên tắc, tiêu chuẩn sinh hoạt và những cơ chế để thực hiện những nguyên tắc, tiêu chuẩn đó. Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận của khoa học xây dựng Đảng. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng, về xây dựng Đảng chiếm một vị trí quan trọng trong các tác phẩm của Mác, Ăngghen và Lênin. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ, Đảng cách mạng của giai cấp công nhân phải được xây dựng trên cơ sở khoa học nghiêm túc, tức được xây dựng và hoạt động theo những quy luật khách quan. Những nguyên lý tư tưởng và tổ chức, những nguyên tắc lãnh đạo và các tiêu chuẩn sinh hoạt của Đảng đều mang tính khách quan. Tất cả đều bắt nguồn từ những đòi hỏi của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, của những nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng và trong từng thời kỳ cách mạng. Lênin đã phân tích một cách toàn diện những nguyên lý tư tưởng và tổ chức của một Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Lênin là người đầu tiên chỉ rõ sự cần thiết phải thành lập chính Đảng kiểu mới ở nước Nga. Với thiên tài đặc biệt, Lênin đã nhìn thấy sức mạnh của một tổ chức Đảng đối với quá trình cách mạng. Người nêu ra luận điểm nổi tiếng: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và 3
  4. chúng tôi sẽ đảo ngược cả nước Nga lên” 1. Chính Lênin đã đề ra lý luận về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân chống lại các lý luận phản động, xét lại, cơ hội chủ nghĩa về xây dựng Đảng. Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, lợi dụng những khuyết điểm và sai lầm trong cải tổ, cải cách ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động khác luôn tập trung mũi nhọn tấn công vào vai trò lãnh đạo của các Đảng cầm quyền. Đặc biệt là các chiêu bài “dân chủ”, “đa nguyên” chúng đã lật đổ được chính quyền cách mạng, thủ tiêu được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự thất bại của các Đảng cầm quyền ở Liên Xô và Đông Âu không phải là do chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và học thuyết về Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng đã lỗi thời, mà là do sai lầm trong nhận thức của các Đảng đó khi vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và có cả sự phản bội lại chủ nghĩa Mác-Lênin. Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trên 70 năm qua. Sự kiên định vững vàng của Đảng ta là điều kiện quyết định nhất cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Thực tiễn và lý luận xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 73 năm qua rất phong phú. Đi dôi với việc nghiên cứu những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng Đảng, Đảng ta coi trọng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và thực tiễn xây dựng Đảng đã được tổng kết trong các văn kiện của Đảng. II. Đặc điểm nghiên cứu và vị trí của bộ môn xây dựng Đảng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng sự lãnh đạo của Đảng tiên phong là nhân tố đầu tiên quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo toàn diện đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đối với mọi tổ chức trong hệ thống chính trị. Lãnh đạo vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Vì vậy việc trang bị cho cán bộ lãnh đạo những tri thức về Đảng, những kiến thức và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng và về xây dựng Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo chính trị của Đảng. Khoa học xây dựng Đảng có quan hệ hữu cơ với chủ nghĩa duy vật biện chứng, với kinh tế chính trị học, với khoa học Lịch sử Đảng, với Chủ nghĩa xã hội khoa học và với lịch sử phong trào công nhân và cộng sản quốc tế. 1 V.I Lênin toàn tập - tập 6 - Nxb Tiến bộ Matxcova 1975 - trang 162. 4
  5. “Điều cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì vận dụng sáng tạo chủ nghiã Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình”2 Tư tưởng chỉ đạo trong các văn kiện của các Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam từ lần thứ VI đến XIX là phải nâng cao tính cách mạng và khoa học trong công tác xây dựng Đảng, phải coi trọng việc nghiên cứu, tổng kết lý luận về đảng cầm quyền. Việc nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng đòi hỏi phải gắn chặt lý luận với thực tiễn. Đó là thực tiễn cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc và thực tiễn xây dựng Đảng ta, đặc biệt là trong qua trình đổi mới từ sau Đại hội VII. Đó còn là những kinh nghiệm (cả thành công và thất bại) về cải tổ, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa. Trong tình hình quốc tế hiện nay, khi chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, khi các thế lực thù địch đang tìm mọi thủ đoạn tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng ta, hòng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” thì việc nghiên cứu môn xây dựng Đảng càng cần được coi trọng, càng có ý nghĩa to lớn cả về lý luận, cả về thực tiễn đối với mọi cán bộ, đảng viên. Mục tiêu của bộ môn xây dựng Đảng là nhằm nâng cao chất lượng công tác cho cán bộ lãnh đạo chính trị, giúp cho cán bộ, đảng viên có khả năng nhận thức và giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề trước mắt, cũng như những vấn đề cơ bản đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng và việc xây dựng nội bộ Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Môn xây dựng Đảng còn giúp cho cán bộ, đảng viên của Đảng quán triệt và vận dụng những nguyên tắc, phương pháp lãnh đạo của Đảng và những tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền. III. Phương pháp nghiên cứu của bộ môn xây dựng Đảng. Phép biện chứng duy vật là phương pháp cơ bản của khoa học xây dựng Đảng. Vận dụng trung thành và khoa học phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu khoa học xây dựng Đảng, nó cho phép: a. Trong nghiên cứu sâu sắc khoa học xây dựng Đảng, không rơi vào chủ quan duy ý chí, không rơi vào chủ nghĩa giáo điều, công thức, rập khuôn, máy móc và không rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm trong công tác Đảng. b. Có quan điểm lịch sử cụ thể đối với mọi quá trình và mọi hiện tượng, phân tích những quá trình, hiện tượng đó trong sự biến đổi và phát triển. 2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, nhà xuất bản Sự Thật , Hà Nội, 1991, tr 53. 5
  6. c. Nhận thức được những quy luật lịch sử về sự ra đời và phát triển của Đảng Cộng sản và vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng lên trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. d. Xác định được đúng đắn vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng với tư cách là đội tiên phong chính trị lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và đối với sự phát triển của toàn xã hội. e. Xác định được mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các tổ chức trong cơ cấu xây dựng Đảng, hình thức và phương pháp xây dựng Đảng tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể, những nhiệm vụ của Đảng và những kinh nghiệm của Đảng đã tích lũy được. f. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng lên trên tất cả mọi mặt, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và sự không ngừng hoàn thiện những hình thức của tổ chức Đảng cũng như những phương pháp lãnh đạo sinh động của Đảng đối với xã hội. g. Kết hợp đúng đắn tính cách mạng và tính khoa học của những nguyên tắc của Đảng đối với xã hội, của những nguyên tắc và tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng. h. Xác định đúng được ý nghĩa của thành phần xã hội xuất thân và của hệ tư tưởng đối với bản chất giai cấp công nhân của Đảng, mối quan hệ của hai yếu tố đó trong công tác xây dựng nội bộ Đảng. i. Phép biện chứng mac-xít cho phép xem xét hoạt động của Đảng như một quá trình không ngừng phát triển cùng với quá trình phát triển của đời sống xã hội - một quá trình không ngừng phát triển mâu thuẫn, không ngừng đổi mới những hình thức hợp lý với nội dung. Cùng với sự phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa, bản thân Đảng - người lãnh đạo toàn xã hội - cũng phát triển trưởng thành, nội dung lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng ngày càng phong phú. Đồng thời, cơ cấu, hình thức và những phương pháp công tác của Đảng cũng ngày càng được hoàn thiện. Nội dung, cơ cấu, cơ chế, hình thức xây dựng nội bộ Đảng cũng không ngừng phát triển. j. Ngoài phương pháp cơ bản chung trên đây, thực tiễn xây dựng Đảng đòi hỏi sử dụng một phương pháp khác gắn liền lý luận với thực tiễn xây dựng Đảng. Đó là phương pháp tổng kết điển hình tiên tiến. Các Đảng Cộng sản chân chính đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng của tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, đều dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin để lãnh đạo toàn xã hội, đều phải dựa trên những nguyên tắc và tiêu chuẩn Lêninnít về sinh hoạt Đảng để xây dựng nội bộ Đảng. Nhưng mỗi Đảng ra đời 6
  7. và hoạt động trong những điều kiện chính trị, lịch sử, kinh tế, xã hội, khác nhau, có những nhiệm vụ lịch sử khác nhau và có những đặc điểm riêng về nội bộ Đảng. Thực tiễn đó đòi hỏi tính sáng tạo cao trong việc vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng, cũng như những kinh nghiệm về xây dựng Đảng của các Đảng khác, cả kinh nghiệm thành công và kinh nghiệm không thành công. Đảng ta lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước mà nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, lại bị chiến tranh tàn phá lâu dài, nên việc sáng tạo được mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi một quá trình tìm tòi, thử nghiệm công phu. Tình hình đó đòi hỏi phải đặc biệt coi trọng việc tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, coi trọng những sáng kiến từ cơ sở, coi trọng việc tổng kết những điển hình tiên tiến để bổ sung và phát triển lý luận về xây dựng Đảng. Đảng Cộng sản chân chính là Đảng có lời nói đi đôi với việc làm, là Đảng nhạy cảm với cái mới, giải quyết được kịp thời và đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Do đó, tổng kết điển hình tiên tiến là một phương pháp quan trọng để xây dựng Đảng, gắn lý luận với thực tiễn, khẳng định cái đúng, phê phán cái sai, góp phần sáng tạo lý luận, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. 7
  8. PHẦN 1 MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG BÀI 2: HỌC THUYẾT MÁC-LÊNIN VỀ CHÍNH ĐẢNG CÁCH MẠNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN Học thuyết Mác-Lênin về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân là một bộ phận cấu thành của chủ nghĩa xã hội khoa học - khoa học về cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, về cách mạng vô sản, về những quy luật chính trị-xã hội của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Học thuyết đó chỉ ra những quy luật về sự ra đời của Đảng, những nguyên tắc về xây dựng tư tưởng, tổ chức và hoạt động lãnh đạo chính trị của Đảng nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết gắn liền với tên tuổi của Mác, Ăngghen, Lênin và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Quá trình đó gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể của cuộc đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. I. MÁC VÀ ĂNGGHEN BÀN VỀ CHÍNH ĐẢNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN 1. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản với tư cách là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân. a) Giai cấp, đấu tranh giai cấp, chính Đảng và cách mạng xã hội. Xã hội loài người từ sau chế độ xã hội cộng sản nguyên thủy tới nay là xã hội có giai cấp. Các giai cấp có lợi ích khác nhau, do đó có mâu thuẫn về lợi ích. Đó là nguồn gốc cơ bản dẫn đến mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp thoạt đầu là đấu tranh về quyền lợi kinh tế. Cuộc đấu tranh đó phát triển đến một trình độ nhất định thì chuyển hóa thành cuộc đấu tranh chính trị. Đấu tranh chính trị là cuộc đấu tranh biểu hiện tập trung nhất, bao quát nhất và mạnh mẽ nhất của đấu tranh giai cấp. Đó là cuộc đấu tranh dành quyền lực chính trị về tay một giai cấp. Cuộc đấu tranh này phát triển đến gioai đoạn cao thì cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra. Cách mạng xã hội là đỉnh cao của cuộc đấu tranh chính trị mang mục đích giành quyền lực về tay giai cấp mình. Cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến một trình độ nào đó thì chính Đảng ra đời. 8
  9. Chính Đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là sản phẩm tự nhiên của cuộc đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất mọi hoạt động của giai cấp, nhằm hướng các nổ lực chung vào mục tiêu chống lại giai cấp đối lập cùng với nhà nước thống trị của giai cấp đó. Cuộc đấu tranh của các chính Đảng là sự biểu hiện hoàn chỉnh nhất, đầy đủ nhất và rõ rệt nhất của cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp. Đảng là một tổ chức chính trị, là sản phẩm lịch sử tự nhiên của cuộc đấu tranh chính trị của một giai cấp, và chủ yếu, trước hết nó đại biểu cho quyền lợi của giai cấp đó. Bất kỳ một chính Đảng của một giai cấp nào cũng ra đời theo quy luật đó. Không có Đảng siêu giai cấp. Đảng bao giờ cũng mang tính chất của một giai cấp. Chính Đảng của giai cấp công nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp cần có lực lượng lãnh đạo giai cấp thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Mục tiêu đấu tranh của Đảng Cộng sản không có gì khác là giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi ách áp bức bóc lột, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, đưa dân tộc đến chế độ tự do ấm no và hạnh phúc nhất - xã hội cộng sản chủ nghĩa - mà giai đoạn đầu của nó là xã hội xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nhiều học giả tư sản và bọn cơ hội xét lại hiện đại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang ra sức phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Họ bắt đầu từ sự phủ nhận vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và những thành quả cách mạng của nó. Hậu quả của sự sụp đổ ở Liên Xô và một số nước Đông Âu mà Đảng Cộng sản đã giành được chính quyền trước đây không phải vì bản thân chủ nghĩa xã hội khoa học mà vì các Đảng Cộng sản ở các nước ấy phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, mà chủ yếu ở sự nhận thức và vận dụng nó một cách xơ cứng giáo điều; càng không phải ở chỗ giai cấp công nhân đã mất vai trò lịch sử thế giới của mình. Vai trò đó được quyết định trước hết và chủ yếu bởi vai trò của nó trong nền sản xuất xã hội và điều kiện lịch sử quy định một cách khách quan. Giai cấp công nhân đã và vẫn là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, song chúng ta cũng cần có một nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện đại. Đó là giai cấp công nhân có khoa học, kỹ thuật, có trí tuệ, được tri thức hóa. Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Phong trào công nhân các nước đều phải một thời kỳ đấu tranh tự phát. Phong trào tự phát đó không vượt quá giới hạn cao nhất của nó là chủ nghĩa công đoàn. Cho 9
  10. tới nay, công đoàn ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu vẫn chỉ là những tổ chức nghề nghiệp của giai cấp công nhân được tổ chức ra nhằm bênh vực quyền lợi của giai cấp mình về mặt kinh tế trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản. Theo Lênin, cuộc đấu tranh của các công đoàn ở các nước tư bản chủ nghĩa là chỉ nhằm thay đổi một hình thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột khác. Chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác và Ăngghen sáng lập và được Lênin làm phong phú cả về lý luận và thực tiễn. Chủ nghĩa xã hội khoa học khi chưa kết hợp với phong trào công nhân, thì về mặt tổ chức, sự phát triển cao nhất của nó cũng chỉ dẫn đến một sự ra đời của các hội truyền bá chủ nghĩa Mác. Về mặt lịch sử , nó ra đời sau phong trào công nhân, nhưng giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân lại có chung nguồn gốc, đó là những quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do quan hệ kinh tế này, nảy sinh cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân và từ đó phong trào công nhân ra đời. Mác và Ăngghen đã nghiên cứu những quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa mà phát hiện ra sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân và từ đó xây dựng nên lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân lại sinh ra từ hai tiền đề khác nhau. Chủ nghĩa xã hội khoa học, một mặt là sản phẩm của việc nghiên cứu những quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa; mặt khác nó còn là kết quả khách quan, tất yếu của quá trình phát triển của những tư tưởng tiến bộ do loài người đã tạo ra từ đầu thế kỷ XIX: Triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán Anh và Pháp. Phong trào công nhân ra đời từ tiền đề trực tiếp của cuộc đấu tranh hàng ngày của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản. Chỉ từ khi chủ nghĩa xã hội khhoa học xâm nhập và soi sáng vào phong trào công nhân, giai cấp công nhân mới thấy rõ bản chất bóc lột của nhà tư bản, thấy rõ sứ mệnh vẻ vang của mình. Và chỉ từ khi đó, giai cấp công nhân mới ý thức được rằng, nó cần phải tự tổ chức ra chính Đảng độc lập của mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp đi đến thắng lợi hoàn toàn. Từ khi có chủ nghĩa xã hội khoa học soi sáng, có chính Đảng cách mạng lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển thành giai cấp tự giác, đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức và bóc lột, mới từ giai cấp tự mình trở thành giai cấp vì mình như Ăngghen đã nói. Kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng Lao Động Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”3. 3 Hồ Chí Minh , Về xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1981, Trang 126. 10
  11. Quá trình kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân là một quá trình đấu tranh cách mạng, gay go, quyết liệt chống các trào lưu tư tưởng tư sản, cơ hội, vô chính phủ. Việc kết hợp đó phải được thể hiện một cách khoa học thì Đảng mới ra đời được. Có thể nói, chính Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân ngay từ khi ra đời đã mang bản chất cách mạng và khoa học. Những bản chất này được củng cố và phát triển đồng thời với quá trình xây dựng Đảng, cũng tức là quá trình tiếp tục thực hiện sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân để Đảng ngày càng phát triển, vững mạnh. 2. Những tư tưởng cơ bản của Mác và Ăngghen về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Mác và Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên những tư tưởng cơ bản về chính Đảng Cộng sản. Những tư tưởng đó bắt nguồn từ luận điểm khoa học về vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, sáng tạo ra xã hội mới không còn người bóc lột người: xã hội cộng sản, mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng đó còn được rút ra từ sự phân tích một cách biện chứng những điều kiện lịch sử cụ thể của quá trình phát triển của xã hội loài người nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. Mác và Ăngghen thảo ra “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và sáng lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới mang tên “Đồng minh những người cộng sản”. Hai ông cũng tổ chức và lãnh đạo Quốc tế I, quốc tế đầu tiên của giai cấp công nhân. Sau khi Mác mất, Ăngghen đã tiếp tục sự nghiệp của Mác sáng lập và lãnh đạo Quốc tế II. Hai ông đã chỉ rõ rằng, giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiên tiến nhất trong xã hội. Nhưng giai cấp công nhân chỉ có thể thực nhiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi nó tự tổ chức ra được chính Đảng độc lập của nó. Ăngghen viết: “Để cho giai cấp công nhân có đủ sức mạnh và có thể chiến thắng trong giờ phút quyết định thì điều cần thiết là Mác và tôi đã bảo vệ quan điểm này từ 1847: Phải tổ chức được một Đảng riêng biệt, tách khỏi tất cả các Đảng khác và đối lập với các Đảng đó, nhận thức rõ mình là Đảng của giai cấp”4. Khi chứng minh tính tất yếu của việc cần phải thành lập chính Đảng của giai cấp công nhân, Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: đó là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách mạng xã hội thu được thắng lợi và thực hiện được mục đích cuối cùng của nó là tiêu diệt giai cấp. 4 Các Mác - Ăngghen, toàn tập, tập 4, nhà xuất bản Chính trị, Matxcova 1978, trang 35 (Tiếng Nga). 11
  12. II. LÊNIN KẾ THỪA NHỮNG DI SẢN CỦA MÁC VÀ ĂNGGHEN SÁNG TẠO HỌC THUYẾT VỀ CHÍNH ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là thời kỳ đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của phong trào công nhân quốc tế. Lúc này chủ nghĩa tư bản đã bước vào giai đoạn cao - giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp tư sản đã trở thành lực lượng phản động, cản trở sự phát triển của xã hội. Tính phản động của nó đã bao trùm lên nhiều lĩnh vực của xã hội tư bản. Dựa vào những kết luận trong Bộ Tư Bản của Mác, Lênin đã phân tích một cách sâu sắc chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới và chỉ ra rằng, chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng xã hội chủ nghĩa, rằng trên thực tế đã có những điều kiện khách quan để lật đổ chế độ tư bản. Đồng thời trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân cũng đã lớn mạnh không ngừng về số lượng và chất lượng, về chính trị và tổ chức, ý thức giác ngộ được nâng cao. Những cuộc đấu tranh mạnh mẽ ở nhiều nước châu Âu đã chứng minh rằng, giai cấp công nhân hoàn toàn có khả năng đoàn kết xung quanh mình những người bị áp bức và bóc lột để lật đổ chế độ tư bản và xây dựng xã hội mới. Cách mạng vô sản đã trở thành một vấn đề thực tiễn trước mắt. Lênin đưa ra khẩu hiệu như một lời hiệu triệu: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Những điều kiện lịch sử mới đòi hỏi giai cấp công nhân phải có đường lối chiến lược, sách lược mới; đòi hỏi Đảng của nó phải là một đội tiên phong chính trị có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh mới. Trong khi đó, các lãnh tụ của Quốc tế II đã xét lại chủ nghĩa Mác, biến các Đảng Dân chủ Xã hội thành các Đảng cải lương, thực hiện một chính sách đầu hàng giai cấp tư sản. Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng đối với quan điểm cơ hội, xét lại của họ và phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác và Ăngghen về xây dựng Đảng, xây dựng nên học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Dựa trên những quan điểm của Lênin, Đảng Bônsêvich Nga đã ra đời năm 1903, và năm 1919 Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản - được thành lập theo sáng kiến của Lênin. Quốc tế III đã đóng một vai trò to lớn đối với sự ra đời của hàng loạt các Đảng Cộng sản trên thế giới. Dưới đây là hệ thống những nguyên tắc cơ bản của Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Hệ thống những nguyên tắc cơ bản ấy có thể khái quát thành 8 điểm sau: 1. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. 12
  13. Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận khoa học về cuộc cách mạng của giai cấp công nhân nhằm tự giải phóng mình, là kết quả của sự phát triển một cách khoa học những tư tưởng tiên tiến của xã hội loài người, thể hiện đúng đắn lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, đã chỉ ra cho giai cấp công nhân thấy rõ những phương hướng chính trị của tất cả các mặt hoạt động cần thiết trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Lênin đã chứng minh rằng, không có lý luận cách mạng sẽ không có phong trào cách mạng, và khi lý luận cách mạng đã thâm nhập vào quần chúng nhân dân thì nó sẽ trở thành sức mạnh vật chất to lớn. Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở khoa học của công tác xây dựng Đảng, là ngọn cờ đoàn kết những người cộng sản và là cơ sở để vạch ra cương lĩnh hành động, chiến lược và sách lược của cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo có ý nghĩa phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” 5. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam viết: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, Đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân”6. Đó là nguồn gốc của những thắng lợi của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, Đảng cũng nhận thấy còn lạc hậu về lý luận, thể hiện trên cả hai mặt nhận thức và vận dụng các quy luật của chủ nghĩa xã hội như giáo điều, duy ý chí, giản đơn, nóng vội. Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình và nhấn mạnh rằng, đổi mới tư duy là yêu cầu bức thiết của cuộc sống. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã chỉ ra rằng, cần phải “tổ chức tốt công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, nâng cao trình độ và năng lực vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, góp phần xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng, lý giải những vấn đề mới mà cuộc sống đặt ra. Đổi mới căn bản công tác giáo dục chính trị, lý luận”7. 5 Hồ Chí Minh , Tuyển tập, Tập 1, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1980, Trang 176 - 177. 6 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Sự THật, Hà Nội, 1991, trang 4. 7 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1991, Trang 95. 13
  14. 2. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Đảng là một bộ phận của giai cấp công nhân, nhưng phải phân biệt Đảng với toàn bộ giai cấp. Theo Lênin, Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có giác ngộ nhất của giai cấp công nhân, Đảng là người đưa yếu tố tự giác nhất vào phong trào công nhân, là người định hướng chính trị và là người giáo dục, động viên, tổ chức cho quần chúng hành động cách mạng. Lênin chỉ ra rằng: “Không được lẫn lộn Đảng, tức là đội tiên phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp”8 Vai trò tiên phong của Đảng được thể hiện trước hết trên lĩnh vực lý luận. Lênin đã chỉ rõ: “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sỹ tiền phong”9. Đòi hỏi đầu tiên về tư cách người Đảng viên phải là giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có trình độ nhất định về chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững được đường lối chính sách của Đảng. Theo Lênin: “trong điều kiện có chính quyền, Đảng phải là trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”10. Vai trò tiên phong của Đảng còn được thể hiện về mặt tổ chức và sự hoạt động gương mẫu của người Đảng viên trong thực tiễn. Đảng phải được tổ chức chăt chẽ để bảo đảm là một đội ngũ thống nhất ý chí và hành động, có kỷ luật nghiêm minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”11. Đảng là của giai cấp, nhưng không phải là toàn bộ giai cấp. Không được lẫn lộn giữa Đảng và giai cấp. Đảng chỉ thu hút vào đội ngũ của mình những người giác ngộ nhất, có ý thức tổ chức và kỷ luật cao nhất trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động. 3. Khi có chính quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ thống đó. Đảng là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, do đó, trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa chỉ có Đảng mới đủ phẩm chất chính trị và năng lực xứng đáng là người lãnh đạo. Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác giáo dục Đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ 8 V.I. Lêni n, Toàn tập, Tập 8, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Matxcova, 1979, Trang 289. 9 Sdd, tập 6, 1978,32. 10 Sđ, tập 34, 1976, trang 122 11 Hồ Chí Minh, Tuyển tập, Tập 1, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1980, Trang 445. 14
  15. chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản” 12. Lênin nhấn mạnh, về nguyên tắc, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa. Trở thành Đảng cầm quyền, Đảng có quyền lãnh đạo, định hướng sự phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là sai lầm về nguyên tắc, là thủ tiêu sức mạnh của Nhà nước và của cả hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội, là mở đường cho những phần tử phản động trở lại con đường tư bản chủ nghĩa. Hiện nay, chủ nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại đang ra sức thổi phồng cái gọi là “đa nguyên”, “đa Đảng”, lợi dụng “con đường dân chủ” nhằm tiếm đoạt quyền lãnh đạo của các Đảng Cộng sản. Những sự kiện ở Đông Âu và Liên Xô trong thời gian qua đã chứng minh điều đó. Đảng lãnh đạo về chính trị trên mọi mặt hoạt động của Nhà nước và các tổ chức quần chúng bằng đường lối và các chính sách của Đảng. Thông qua các tổ chức Đảng cùng với đội ngũ cán bộ, Đảng viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước và trong các tổ chức quần chúng, mà mọi định hướng chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng được cụ thể hóa thành những chính sách, những quy định pháp lý. Đảng ý thức rõ rằng, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn gắn liền với việc phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò của các tổ chức quần chúng. Đảng phê phán thói chuyên quyền, độc đoán, bao biện, làm thay công việc của Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị xã hội. Đồng thời, Đảng cũng lên án sự buông lỏng, xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng. 4. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đảng là một liên minh tự nguyện của những người cùng chung lý tưởng và lợi ích cơ bản của những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thực hiện dân chủ là nhằm phát huy cao nhất trí tuệ và mọi khả năng sáng tạo của những chiến sỹ tiên phong trong Đảng. Đó là điều kiện cơ bản đảm bảo cho Đảng có trí tuệ cao nhất để làm tròn được vai trò người lãnh đạo toàn xã hội. Đảng còn là một tổ chức chiến đấu. Dân chủ trong Đảng phải có sự chỉ đạo của tập trung để đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng. 12 V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 33, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Matxcova, 1976, Trang 33. 15
  16. Tập trung là quyền lực của tập thể giao cho những người lãnh đạo để thực hiện ý chí của đa số. Tập trung dân chủ hoàn toàn đối lập với chuyên quyền độc đoán, vô chính phủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng được thực hiện, vận dụng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của cuộc đấu tranh giai cấp, với điều kiện hoạt động và vị trí của Đảng trong đời sống xã hội. Thiếu sự chỉ đạo tập trung, dân chủ có thể trở thành vô chính phủ. Coi nhẹ dân chủ là phá hoại tính tập thể lãnh đạo và sẽ dẫn đến tình trạng tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán. Buông lỏng tập trung sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, phá hoại sự thống nhất và làm giảm sức chiến đấu của Đảng. Trong điều kiện Đảng nắm chính quyền, nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng phải được thực hiện trong bộ máy Nhà nước nhằm bảo đảm xây dựng được một cơ chế quản lý tập trung và phân cấp hợp lý giữa trung ương và địa phương, cấp trên và cấp dưới; bảo đảm xây dựng được chế độ trách nhiệm của mỗi cấp, mỗi tổ chức và mỗi cá nhân, giữ vững được nguyên tắc tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công trách nhiệm cá nhân phụ trách rõ ràng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo trong xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng. Những nội dung cơ bản của nguyên tắc này được phản ánh sâu sắc trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyên tắc tập trung dân chủ kết hợp hữu cơ giữa tập trung và dân chủ; tập trung phải trên cơ sở dân chủ và dân chủ phải dưới sự chỉ đạo của tập trung. Đảng ta kiên quyết phản đối việc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ. Sự phủ nhận đó không tránh khỏi tạo nên sự lỏng lẻo về kỷ luật, rạn nứt về tổ chức trong Đảng. Đảng coi tập trung dân chủ “là nguyên tắc tổ chức cơ bản, phân biệt chính Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng cách mạng chân chính, với các Đảng khác. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản chất”13. Kinh nghiệm lịch sử phong trào công nhân trên thế giới trước đây, ở Liên Xô và Đông Âu vừa qua đều cho thấy những kẻ phản bội Đảng đều phá Đảng bắt đầu từ việc tìm mọi cách phủ nhận nguyên tắc này. 5. Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Đoàn kết thống nhất là quy luật trưởng thành của Đảng. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cấp vô sản, từ sự kết cấu chặt chẽ của Đảng. Đảng chỉ thu nhận vào đội ngũ của mình những đại biểu ưu tú của giai cấp vô 13 Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1991, Trang 130. 16
  17. sản tự nguyện xin gia nhập Đảng. Đó là những người có cùng lý tưởng, mục đích và lợi ích. Trong nhiều tác phẩm của mình, Lênin đã lý giải một cách toàn diện, sâu sắc tính tất yếu và tầm quan trọng đặc biệt của sự thống nhất trong đội ngũ Đảng. Theo Lênin, muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, Đảng “phải có một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối”14. Đồng thời Người chỉ rõ, đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch và vô tận của Đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp. Người coi mục tiêu của công tác xây dựng và củng cố Đảng là nhằm xây dựng và củng cố sự thống nhất đội ngũ Đảng. Trong điều kiện có chính quyền, Lênin đặc biệt quan tâm đến sự thống nhất của Đảng. Thực tế ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã chứng tỏ sự thống nhất đội ngũ Đảng là nguồn gốc của mọi thắng lợi, là nhân tố để đoàn kết toàn dân, quyết định sự vững mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền tảng chính trị, xã hội của nó. Lênin còn chỉ rõ, khi đã có chính quyền, nếu để xảy ra chia rẽ thì không chỉ là nguy hiểm mà còn là cực kỳ nguy hiểm nếu Đảng đó lại nắm chính quyền ở một nước mà giai cấp công nhân chiếm một tỷ lệ nhỏ bé trong dân cư15. Để đảm bảo sự thống nhất trong Đảng luôn luôn được củng cố và phát triển, Đảng cần phải thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình. Lênin chỉ ra rằng: “Thái độ của một chính Đảng trước những sai lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xem xét Đảng ấy có nghiêm túc không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ của mình đối với giai cấp mình và đối với quần chúng lao động không. Công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đã đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa sai lầm ấy, đó là dấu hiệu chứng tỏ một Đảng nghiêm túc, đó là Đảng làm tròn những nghĩa vụ của mình, đó là giáo dục và huấn luyện giai cấp, rồi đến quần chúng”16. Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nâng cao trí tuệ, phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn trong Đảng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải có tính Đảng, tính nguyên tắc cao, phải đảm bảo tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, nâng cao được mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và quần chúng. Tự phê bình và phê bình là một nội dung thường xuyên của sinh hoạt Đảng. 14 V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 36, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Matxcova, 1978, Trang 245. 15 Xem sách đã dẫn, Tập 42, Trang 336. 16 V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 41, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Matxcova, 1978, Trang 51. 17
  18. Đảng ta đã trải qua nhiều thời kỳ đấu tranh cách mạng và trong bất kỳ một thời kỳ nào, Đảng cũng luôn luôn coi trọng xây dựng khối đoàn kết thống nhất của Đảng. Hồ Chí Minh dạy: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”17. Đảng ta rất coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và thường xuyên, nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình. Trong điều kiện có chính quyền, Đảng đặc biệt chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất và coi đó là cơ sở để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng trong điều kiện mới. Đảng kiên quyết ngăn chặn và phê phán nghiêm khắc những hiện tượng như: đàn áp, trù dập người phê bình, chủ nghĩa thành tích, che dấu khuyết điểm, coi tự phê bình và phê bình là dịp để đả kích lẫn nhau, đi đến chia rẽ, bè phái trong Đảng. 6. Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng là một tổ chức tự nguyện, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng quần chúng khỏi ách áp bức bóc lột. Quần chúng cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong cuộc đấu tranh ấy. Nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng không trở thành hiện thực. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ và vô cùng khó khăn. Sự nghiệp đó chỉ có thể thành công nếu Đảng tổ chức và phát huy được tính sáng tạo, cách mạng của quần chúng. Lênin chỉ ra rằng, những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại dương nhân dân mênh mông và chỉ riêng với bàn tay những người cộng sản thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tính sáng tạo linh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ bản của xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống. Tính chất máy móc, hành chính và quan liêu không dung hợp được với tinh thần của chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân. Khi Đảng Bônsevich Nga đã có chính quyền, Lênin thường nhấn mạnh rằng, sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với quần chúng, từ sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng đối với Đảng. Thiếu điều kiện đó không những không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mà còn có thể dẫn đến mất chính quyền. Kinh nghiệm ở một số nước Đông Âu và Liên Xô vừa qua đã chứng minh luận điểm đó. 17 Hồ Chí Minh, Về xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1981, Trang 183. 18
  19. Khi đã có chính quyền, Đảng có nhiều điều kiện mới, công cụ mới rất thuận lợi cho việc tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng; đồng thời trong Đảng cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh làm cho một bộ phận cán bộ, Đảng viên thiếu rèn luyện có thể rơi vào tình trạng thoái hóa, biến chất, xa rời quần chúng. Lênin coi đó là một trong những nguy cơ mà Đảng cầm quyền cần chú ý đề phòng, khắc phục. Từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đã khẳng định: “Trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, Đảng đặc biệt coi trọng đổi mới công tác quần chúng của Đảng theo quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân, làm suy yếu sức mạnh của Đảng, của cách mạng sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đát nước”18. 7. Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng, phải thường xuyên đưa những người không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp. Đảng chỉ có thể làm tròn vai trò ấy nếu trong Đảng chỉ bao gồm những chiến sỹ tiên phong. Tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng là biện pháp quan trọng để cải thiện thành phần, chất lượng của Đảng là điều kiện vô cùng trọng yếu để nâng cao uy tín và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Ở mỗi thời kỳ của cách mạng, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đều không tránh khỏi có một số người không còn giữ được vai trò tiên phong. Có người do trình độ nhận thức, năng lực hoạt động thực tiễn, có người do không kiên định về chính trị, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, thoái hóa, biến chất trở thành những kẻ quan liêu, tham nhũng, ức hiếp quần chúng Đặc biệt là trong điều kiện Đảng có chính quyền không tránh khỏi có những phần tử cơ hội tìm mọi cách luồn lọt chui vào Đảng với mưu đồ đặc quyền, đặc lợi, phá hoại sự thống nhất đội ngũ Đảng, làm niềm tin của quần chúng đối với Đảng bị giảm sút. Từ thực tiễn của Đảng Cộng sản (B) Nga sau những năm có chính quyền, trước khi qua đời, Lênin đã nhấn mạnh rằng: “Phải đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những Đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa, không trung thực, nhu nhược ”19. Để đội ngũ của Đảng luôn luôn trong sạch, chỉ bao gồm những chiến sỹ tiên phong được quần chúng tin yêu thì Đảng phải thường xuyên đưa những người không 18 Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng, nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1991, Trang 20. 19 V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 44, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Matxova, 1978, Trang 154. 19
  20. đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đó là một biện pháp đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã ý thức rõ điều đó nên từ ngày thành lập đến nay, nhất là từ khi có chính quyền, Đảng đã thực hiện nhiều hình thức khác nhau nhằm chỉnh đốn đội ngũ Đảng. Tình hình một số Đảng ở Liên Xô và Đông Âu vừa qua cho phép chúng ta có thể rút ra kết luận rằng: Khi đội ngũ của Đảng có nhiều Đảng viên không còn giữ được vai trò tiên phong và có nhiều phần tử cơ hội thì khi gặp những biến cố của lịch sử, Đảng khó có thể giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình. Chất lượng chứ không phải số lượng đội ngũ Đảng viên là yếu tố cơ bản quyết định sức mạnh của Đảng. 8. Tính quốc tế của Đảng. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng cộng sản. Bản chất đó bắt nguồn từ vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Tính chất quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ Đảng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên lý của học thuyết Mác-Lênin về Đảng, ở đường lối chiến lược, sách lược đối nội và đối ngoại của Đảng, ở chỗ Đảng luôn luôn quan tâm giáo dục đội ngũ Đảng viên và nhân dân lao động chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Đảng kiên quyết chống mọi khuynh hướng vô vanh nước lớn hoặc chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. III. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA HỌC THUYẾT MÁC-LÊNIN VỀ CHÍNH ĐẢNG CÁCH MẠNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN Học thuyết Mác-Lênin về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân, cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác-Lênin với thuộc tính cách mạng và khoa học của nó đòi hỏi các chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của dân tộc, giai cấp, thực tiễn chính trị và xã hội của đất nước mình mà vận dụng sáng tạo. Kinh nghiệm của lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chứng minh rằng, học thuyết Mác-Lênin về Đảng cộng sản đến nay vẫn có giá trị to lớn. Kinh nghiệm ở một số nước Đông Âu và Liên Xô vừa qua cũng đã chứng minh quan điểm đúng đắn của Đảng ta rằng: mọi thành công hay thất bại của cách mạng vô sản đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng; bất cứ nơi nào và lúc nào, Đảng nào vận dụng một cách giáo điều, xơ cứng, duy ý chí, vi phạm nguyên tắc về Đảng của giai cấp công nhân thì nhất định trước sau Đảng đó sẽ phạm sai lầm, đội ngũ Đảng chia rẽ, mất uy tín trước quần chúng, có thể đưa cách mạng đến thất bại nặng nề. 20
  21. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã trải qua nhiều thử thách, trở thành một Đảng Mác-Lênin kiên cường, trưởng thành về chính trị, vững vàng trước những biến cố vô cùng khó khăn của lịch sử ở trong nước và trên thế giới. Đó là thành công của học thuyết Mác-Lênin về Đảng được vận dụng sáng tạo và việc xây dựng một chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân trong một nước có nền kinh tế chậm phát triển, vốn là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Hiện nay, trên thế giới, bọn cơ hội, xét lại và giai cấp tư sản đang tìm mọi cách xuyên tạc nhằm phủ nhận giá trị của học thuyết Mác-Lênin về Đảng, thì việc nghiên cứu thực chất các nguyên lý của học thuyết Mác-Lênin càng có ý nghĩa to lớn, giúp chúng ta những cơ sở lý luận để quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong cách mạng, người lãnh đạo chính trị duy nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. BÀI 3: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN. Khái niệm Đảng cầm quyền chỉ rõ đặc điểm vị trí vai trò của Đảng Cộng Sản trong giai đoạn cách mạng mà mà giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, thiết lập hệ thống chính trị mới và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam, do điều kiện lịch sử cụ thể, giai cấp công nhân đã giành được chính quyền từ tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền từ đó, nhưng đến năm 1954 Đảng mới lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Lý luận về Đảng cầm quyền là vấn đề còn mới và khó, mặc dù chủ nghĩa xã hội ra đời đã trên bảy mươi năm. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và ở Liên Xô đã chứng minh rất rõ lý luận và thực tiễn của Đảng cầm quyền, đặt ra hàng loạt vấn đề mới cần nghiên cứu và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Trong những vấn đề đó, trước hết cần làm rõ đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng của Đảng. I. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN Đảng cộng sản cầm quyền có nhiều đặc điểm chi phối mọi hoạt động lãnh đạo và sinh hoạt nội bộ Đảng. Trong đó có 3 đặc điểm đáng lưu ý sau đây: Một là, nhiệm vụ chính trị của Đảng đã thay đổi căn bản. Từ chưa có chính quyền đến có chính quyền là một bước ngoặt căn bản của cách mạng, là một bước phát triển mới về chất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trước kia, nhiệm vụ là lật đổ chế độ cũ, bây gờ là xây dựng xã hội mới bao hàm cả nhiệm vụ bảo vệ những thành quả cách mạng đã đạt được. Theo cách nói 21
  22. của Lênin: Khi đã có chính quyền thì chủ nghĩa xã hội từ lĩnh vực lý luận chuyển sang lĩnh vực thực tiễn; nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm, toàn bộ đặc điểm của tình thế hiện thời, tất cả sự khó khăn là ở chỗ phải hiểu rõ những đặc điểm của bước từ nhiệm vụ chủ yếu là thuyết phục nhân dân và dùng lực lượng quân sự trấn áp bọn bóc lột sang nhiệm vụ chủ yếu là quản lý. Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng chịu trách nhiệm trước lịch sử về vận mệnh phát triển của dân tộc, về sự phát triển toàn diện của xã hội, về sự phồn vinh của đất nước, về tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Nếu trước đây, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta là nhiệm vụ quân sự thì hiện nay là xây dựng, phát triển kinh tế. Tổ chức quản lý là một khoa học và là một nghệ thuật. Giai cấp tư sản phải trải qua mấy trăm năm mới đạt được trình độ quản lý hiện nay. Lênin đã chỉ rõ rằng: “Sự xuất hiện của một giai cấp mới trên vũ đài lịch sử với tư cách là người lãnh tụ và là người lãnh đạo xã hội, không bao giờ diễn ra mà không có một thời kì “tròng trành” hết sức dữ dội, một thời kỳ chấn động, đấu tranh và bão táp, đó là một mặt; mặt klhác, không bao giờ diễn ra mà không có một thời kỳ mò mẫm, thí nghiệm, do dự, ngã nghiêng trong việc lựa chọn những phương pháp mới đáp ứng đúng với tình thế khách quan mới”20 Sự nghiệp xây dựng một xã hội mới - xã hội chủ nghĩa - trên lý luận cũng như trong thực tiễn rõ ràng là khó khăn, gian khổ. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam diễn ra ở một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề, lại đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên lại càng khó khăn, phức tạp. Hai là, có nhà nước xã hội chủ nghĩa Dành được chính quyền là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chủ yếu mới rất sắc bén, thông qua nó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do bản chất của nó là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong hệ thống chính trị của xã hội chủ nghĩa, nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai trò cực kì quan trọng. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện tập trung của nhà nước, được thực hiện chủ yếu thông qua nhà nước. Nhà nước cũng là tổ chức thể hiện tập trung nhất quyền lực của nhân dân, là tổ chức sắc bén thể hiện và thực hiện ý chí và lợi ích của nhân dân, thực hiện quyền lực của nhân dân, nhân danh nhân dân để quản lý xã hội. Có chính quyền rồi, trừ những vấn đề thuần tuý về nội bộ, về tất cả đường lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng đều phải được thể chế hoá thành chủ trương, 20 Sđđ, t.36 tr.235 22
  23. chính sách và pháp luật của nhà nước. Uy tín và quyền lãnh đạo của Đảng trước hết được thực hiện thông qua hoạt động của nhà nước. Nhà nước mạnh, hoạt động có hiệu lực là điều kiện đầu tiên để Đảng thực hiện vai trò của mình đối với xã hội. Sức mạnh của Đảng cầm quyền không chỉ là sức mạnh của bản thân mình mà phải là sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, trong đó nòng cốt là nhà nước do Đảng lãnh đạo. Mọi ý nghĩ và việc làm đem đối lập vai trò lãnh đạo của Đảng với phát huy vai trò, hiệu lực của nhà nước đều sai lầm và có hại. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng phải gắn liền với việc phát huy vai trò, hiệu lực của nhà nước. Coi nhẹ, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là sai lầm về nguyên tắc. Đảng bao biện công việc của nhà nước làm suy yếu vai trò của nhà nước và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Cả hai khuynh hướng đó đều nguy hại đến vận mệnh của chủ nghĩa xã hội. Có chính quyền là thuận lợi cơ bản, nhưng mặt khác khi có chính quyền thì trong Đảng và trong bộ máy nhà nước cũng dễ nảy sinh những tiêu cực mới. Có chính quyền thì cán bộ, đảng viên được bố trí vào các cương vị, chức vụ trong bộ máy nhà nước. Đó là việc làm cần thiết để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhưng khi có chức, có quyền thì một bộ phận cán bộ, đảng viên dễ lợi dụng và lạm dụng chức quyền để làm điều sai trái: quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, hách dịch, tham nhũng, hối lộ, thoái hóa, biến chất, ức hiếp nhân dân, vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ của nhân dân, làm cho nhân dân oán ghét, uy tín của Đảng bị giảm sút. Hiện tượng này không gắn với bản chất của Đảng, của nhà nước, nhưng nếu không có biện pháp ngăn chặn, nếu kỉ luật của Đảng, pháp luật của nhà nước thiếu nghiêm minh, không kịp thời khắc phục thì sẽ gây ra hậu quả khó lường. Xuất phát từ đặc điểm trên, qua thực trạng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng ta, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) đã chỉ rõ một trong bốn thử thách, nguy cơ mà Đảng ta cần khắc phục trong quá trình đổi mới và chỉnh đốn Đảng là bệnh tham nhũng. Ba là, phương pháp lãnh đạo của Đảng thay đổi. Có chính quyền, nhiệm vụ trung tâm của Đảng là lãnh đạo công cuộc xây dựng, trước hết trên lĩnh vực kinh tế. Có chính quyền rồi, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục nhưng bằng những hình thức, phương pháp và biện pháp khác. Lênin đã chỉ ra rằng: “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết những nhiệm vụ thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua”. 23
  24. Khi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn được đặt ra, Lênin đã cảnh cáo những người cộng sản rằng: ai muốn dùng phương pháp cũ trong cuộc đấu tranh giành chính quyền để giải quyết những nhiệm vụ tổ chức thì người đó sẽ phá sản hoàn toàn với tính cách là nhà chính trị, là người xã hội chủ nghĩa. Có chính quyền, giai cấp công nhân phải biết loại trừ khỏi “cẩm nang” của mình những phương pháp, hình thức không còn phù hợp. Có phương pháp, hình thức trước đây là phù hợp, nhưng nay phải loại bỏ. Có phương pháp, hình thức trước đây có tính chất phổ biến đến nay không còn phổ biến nữa như phương pháp tuyên truyền vận động cá biệt từng người, từng nhà, nay vẫn cần nhưng phải sử dụng rộng rãi hệ thông thông tin đại chúng; sử dụng cả hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội để tuyên truyền, giáo dục, vận động, tổ chức quần chúng hành động cách mạng có hiệu quả trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trước hết là lĩnh vực kinh tế. Đồng thời, nhiệm vụ xây dựng đòi hỏi phải sáng tạo nhiều phương pháp, hình thức mới ngày càng phong phú. Đó là những phương pháp, hình thức kết hợp giáo dục chính trị, tư tưởng với kích thích lợi ích vật chất, kết hợp hài hòa với lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội; kết hợp giáo dục với hành chính và cưỡng bức; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác kinh tế. Đảng cầm quyền cần đặc biệt chú trọng đến phương pháp lãnh đạo thông qua nhà nước, phát huy vai trò, hiệu lực của nhà nước trong việc thể chế hóa đường lối chính sách của đảng bằng các hình thức, biện pháp quản lý của nhà nước. II.VỊ TRÍ, VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CẦM QUYỀN Trong lịch sử, giai cấp cầm quyền cũng tổ chức ra hệ thống chính trị để thông qua đó thực hiện mục tiêu chính trị của giai cấp mình. Hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội là hệ thống công cụ mới do giai cấp công nhân cầm quyền - thông qua đội tiên phong chính trị là Đảng Cộng Sản - để thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với toàn xã hội. Sự ra đời của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trước hết là của nhà nước, không hề làm giảm vị trí của Đảng Cộng Sản - đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân - đồng thời là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội. Vị trí của Đảng Cộng sản không phải là do ý muốn chủ quan, do sự áp đặt của những người cộng sản mà do đòi hỏi khách quan của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, giai cấp trung tâm của thời đại. Thực tế, cải tổ, cải cách, đổi mới có ở nhiều nước trên thế giới đã xuất hiện khuynh hướng cho rằng, cứ để quá trình phát triển lịch sử tự nhiên quyết định số phận của nhân loại đi lên chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản, không cần có Đảng Cộng sản lãnh đạo cũng đi lên chủ nghĩa xã hội được. Rõ ràng là khuynh hướng này 24
  25. đã quay lưng lại với lịch sử. Khi mỗi chính đảng ra đời thì nó đều là lãnh tụ của một giai cấp nhất định. Trong thời đại ngày nay, tương ứng với các hệ tư tưởng có các chính đảng cơ bản, chính đảng của giai cấp công nhân và chính đảng của giai cấp tư sản. Hai chính đảng đối kháng về hệ tư tưởng này đều là lãnh tụ chính trị của giai cấp mình. Chỉ khác là đảng của giai cấp công nhân thực hiện mục tiêu chính trị của nền chuyên chính vô sản (tồn tại dưới nhiều hình thức), đảng của giai cấp tư sản nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của nền chuyên chính tư sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa, do bản chất giai cấp của nó, tất yếu phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội là đòi hỏi của sự nghiệp sáng tạo xã hội mới, của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên phạm vị toàn cầu. Nhưng khi nhấn mạnh vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần chú ý rằng, đây là vị trí của đội tiên phong chính trị chứ không phải là của một tổ chức quyền lực đứng trên mọi tổ chức của xã hội. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vị trí này càng đặc biệt quan trọng, vì khi đã có chính quyền thì Đảng vừa là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân đồng thời đã trở thành người lãnh đạo toàn xã hội, nghĩa là không chỉ đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Đó là sự thay đổi cơ bản về vị trí của Đảng Cộng sản. Thay đổi đó chỉ rõ trách nhiệm của Đảng không hề giảm đi, mà trái lại càng tăng lên và nặng nề hơn nhiều. Đảng không chỉ chịu trách nhiệm trước giai cấp mà còn chịu trách nhiệm hoàn toàn trước vận mệnh phát triển của dân tộc. Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam từ trước đến nay và từ nay về sau là một tất yếu lịch sử. Đảng ta là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đã thể hiện cả tính tất yếu kinh tế, cả tính tất yếu chính trị ngay từ khi ra đời. Nhìn chung, trong hơn sáu mươi năm qua, cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng về cơ bản phản ánh được ý chí, nguyện vọng và những lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, đã không ngừng đưa cách mạng Việt Nam đi lên theo phương hướng gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đó của cách mạng Việt Nam đã gắn bó Đảng ta với nhân dân bằng cả chiều dài và chiều sâu lịch sử, không có lực lượng chính trị nào thay thế được. Nhân dân ta tự giác thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng ta rõ ràng không phải là do áp đặt, mà xét đến cùng là do tính tất yếu khách quan của cách mạng nước ta. 25
  26. Khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề quy luật, là vấn đề có tính nguyên tắc. Qua thực tiễn của cải tổ, cải cách, đổi mới, bài học kinh nghiệm quan trọng đầu tiên Đảng ta rút ra được là bài học về vai trò lãnh đạo của Đảng. Mọi loại kẻ thù chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội trên thế giới và trong nước đều lợi dụng những sai lầm trong cải tổ, cải cách, đổi mới của một số Đảng Cộng sản để tập trung mũi nhọn đả kích, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Ở một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây, Đảng Cộng sản, trước hết là những người lãnh đạo dao động, hữu khuynh, xét lại đi đến phạm sai lầm về quan điểm, về chủ trương trên vấn đề cải tổ, nên đã làm cho vai trò lãnh đạo của đảng bị suy yếu, khủng hoảng về kinh tế, xã hội, chính trị nghiêm trọng, Đảng đã mất vai trò lãnh đạo, mất chính quyền, mất chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học lớn đòi hỏi các Đảng Cộng sản cầm quyền phải suy ngẫm sâu sắc. Trong lịch sử, đa nguyên chính trị chỉ là hình thức còn thực chất là nhất nguyên chính trị. Do đó, không phải là có đa nguyên chính trị mới có dân chủ. Ở miền Nam nước ta, thời kỳ Mỹ-Ngụy, tồn tại hàng chục đảng phái phe nhóm chính trị đối lập. Song đó cũng chính là thời kỳ diễn ra sự độc đoán, chuyên quyền, đàn áp đẫm máu lớn nhất đối với nhân dân miền Nam nước ta. Một đảng lãnh đạo phải đề phòng, khắc phục độc đoán, chuyên quyền. Nhưng không phải một đảng lãnh đạo thì tất yếu là mất dân chủ. Chỉ cần đảng có nhận thức đúng về dân chủ xã hội chủ nghĩa, về thực chất của đổi mới hệ thống chính trị là xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phân rõ được đúng chức năng giữa đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là giữa Đảng với nhà nước, có cơ chế và phương thức hoạt động khoa học thì vẫn thực hiện được dân chủ với nhân dân lao động. Chính vì thế mà văn kiện Đại hội lần thứ VII đòi hỏi Đảng ta phải tự đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, nhưng nguyên tắc chỉ đạo đầu tiên là phải giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. III. CHỨC NĂNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CẦM QUYỀN Khi chưa có chính quyền cũng như khi đã trở thành Đảng cầm quyền, Đảng vẫn là đội tiên phong chính trị của giai cấp chủ nghĩa. Nhưng khi đã có chính quyền thì có hai đặc điểm lớn tác động sâu sắc đến sự lãnh đạo của Đảng cũng như việc xây dựng nội bộ Đảng: Một là, có hệ thống chính trị mới - trước hết là nhà nước. Hai là, nhiệm vụ chính trị của Đảng có thay đổi căn bản, Đảng lãnh đạo xã hội toàn diện nhưng nhiệm vụ trung tâm là xây dựng, phát triển kinh tế. Những đặc điểm hoạt động mới và nhiệm vụ chính trị mới đòi hỏi Đảng phải đổi mới nội dung và phương thức 26
  27. lãnh đạo của Đảng. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng không phải là để hạ thấp, xóa bỏ vai trò lãnh đạo, mà chính là để nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vấn đề làm rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và mối quan hệ giữa Đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết với nhà nước là vấn đề then chốt trong đổi mới hệ thống chính trị. Sai lầm phổ biến hàng mấy thập kỷ nay ở các nước xã hội chủ nghĩa là Đảng đã bao biện, làm thay nhà nước, Đảng quyết định tất cả, vi phạm nghiêm trọng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ở nhiều nước, Đảng biến thành tổ chức quyền lực tập trung quan liêu bao trùm toàn bộ đời sống xã hội. Khi tiến hành cải tổ, cải cách chính trị lại nảy sinh những sai lầm mới, hạ thấp, buông lỏng chức năng lãnh đạo chính trị của Đảng, hạ Đảng xuống vị trí thứ hai, muốn có nhiều đảng phái, nhiều trung tâm lãnh đạo để dân chủ hơn Những quan điểm sai lầm đó đã đem lại nhiều hậu quả vô cùng tai hại cho chủ nghĩa xã hội. Đảng không phải là tổ chức quyền lực nhà nước, nhưng Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị bảo đảm thực hiện quyền lợi của nhân dân với những chức năng khác nhau. Hơn nữa, Đảng là người lãnh đạo chính trị của hệ thống đó. Biến Đảng thành quyền lực nhà nước, làm thay nhà nước là sai lầm. Nhưng để sửa chữa sai lầm đó mà phủ nhận quyền lực chính trị của Đảng với tư cách là người lãnh đạo chính trị của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị thì càng phạm sai lầm nghiêm trọng hơn. Sự lãnh đạo của Đảng tác động trực tiếp đến toàn bộ hệ thống để bảo đảm giữ vững quyền lực chính trị của nhân dân thì phải có những điều kiện xác định sau: Trước hết, đó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội khoa học và xây dựng được một nhà nước xã hội chủ nghĩa trong sạch, có năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng pháp luật. Đảng không phải là tổ chức quyền lực như nhà nước, nhưng một vấn đề thuộc về nguyên tắc là Đảng không chia sẻ quyền lãnh đạo chính trị cho ai cả. Vấn đề đặt ra là Đảng không tự biến mình thành cơ quan quyền lực, nhưng Đảng phải đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo để trong tình huống nào Đảng cũng giữ được quyền lãnh đạo chính trị thực hiện chức năng lãnh đạo chính trị để giữ vững quyền lực chính trị trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo bằng đề ra cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chính sách lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những quan điểm, những nguyên tắc, những tư tưởng chỉ đạo để nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị vận dụng sáng tạo phù hợp với chức năng của từng tổ chức. Trong điều kiện có chính quyền thì 27
  28. đó là các quan điểm chính trị trong kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại v.v. nhằm giữ vững độc lập, tự do, đem lại ấm no, hạnh phúc, dân chủ và công bằng xã hội cho nhân dân. Đảng không quyết định những vấn đề thuộc về chức năng của nhà nước và các tổ chức khác. Đảng tôn trọng tính độc lập của các tổ chức đó. Cái mới, cái khó trong sự lãnh đạo chính trị của Đảng cầm quyền là làm sao cho dân thực sự làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thực sự trở thành chủ thể trực tiếp tham gia quản lý xã hội, chứ không phaỉ là người thụ động phục tùng. Dân mà không được làm chủ thì đời sống vật chất, tinh thần trong xã hội đều khó khăn, khó thoát khỏi khủng hoảng. Xã hội thiếu sự dân chủ và công bằng thì dân khó chấp nhận sự lãnh đạo của đảng. Đảng giải quyết cái mới, cái khó của chủ nghĩa xã hội trước hết bằng cương lĩnh, chiến lược, đường lối và các chính sách lớn và những phương hướng, chủ trương công tác quan trọng ở địa phương, cơ sở. Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đảng không can thiệp vào công việc tổ chức của các thành viên trong hệ thống chính trị. Nhưng Đảng đề ra các quan điểm, các nguyên tắc, tư tưởng, chỉ đạo về xây dựng và hoạt động tổ chức của nhà nước cũng như của toàn bộ hệ thống chính trị. Trong Đảng ta, việc nhận thức về sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực tổ chức còn đơn giản. Đảng chưa tập trung đầu tư đúng mức trí tuệ vào lĩnh vực này. Đó là nguyên nhân đầu tiên gây ra tình trạng bảo thủ, trì trệ kéo dài về tổ chức, kể cả từ sau Đại hội VI. Để có thể biến các văn kiện của Đại hộ VII thành hiện thực, Đảng ta, trước hết là cấp chiến lược, phải đặc biệt coi trọng tăng cường sự lãnh đạo đối với lĩnh vực tổ chức. Đảng thực hiện sự kiểm tra đối với nhà nước và cả hệ thống chính trị. Đảng kiểm tra việc quán triệt và thực hiện các quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo của Đảng thông qua các tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước và các tổ chức khác của hệ thống chính trị. Đồng thời, Đảng cũng thực hiện sự kiểm tra thông qua ý kiến của nhân dân. Chính qua kiểm tra mà Đảng sơ kết, tổng kết để không ngừng bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng còn là người tổ chức phối hợp sự kiểm tra của Đảng, của nhà nước và của nhân dân nhằm thực hiện tốt những mục tiêu chung trong từng thời kỳ cách mạng. Đảng đề ra các quan điểm toàn diện về công tác cán bộ: đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ. Đồng thời, Đảng quyết định các chính sách lớn về cán bộ. Đảng chỉ trực tiếp quyết định những vấn đề về cán bộ, đối với các cơ quan của Đảng. Còn đối với các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác thì Đảng chỉ giới thiệu đảng 28
  29. viên, cán bộ ngoài Đảng có đủ tiêu chuẩn để các tổ chức đó lựa chọn, quyết định. Đảng tôn trọng cơ chế bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ của nhà nước cũng như của các tổ chức khác, không gò ép, áp đặt. Với tư cách là đội tiền phong chính trị, phương thức lãnh đạo của Đảng là bằng thuyết phục, bằng công tác tư tưởng, công tác tổ chức, bằng vai trò gương mẫu của đảng viên và tổ chức đảng (như đảng đoàn, ban cán sự, tổ chức cơ sở đảng), bằng phát huy vai trò làm chủ của quần chúng. Đảng không bao biện làm thay, lạm quyền nhưng Đảng không buông lỏng sự lãnh đạo của mình. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật. Mọi đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức khác đều phải làm tròn nhiệm vụ được giao, thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, tuân thủ pháp luật. Mặt khác, phải làm tròn vai trò lãnh đạo của người cộng sản. Đảng đòi hỏi đảng viên không chỉ làm tốt nghĩa vụ người công dân, mà còn phải làm tròn trách nhiệm của người lãnh đạo. Để làm tròn trách nhiệm nặng nề trước dân tộc trong giai đoạn mới, Đảng ta đặc biệt coi trọng việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh đạo, bảo đảm cho Đảng luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng. Đảng tự đổi mới, tự chỉnh đốn một cách toàn diện về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo chính trị của Đảng lên một bước phát triển mới. Trí tuệ của Đảng - trí tuệ của đội tiên phong chính trị - đòi hỏi Đảng ta trước hết phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phát triển công tác lý luận của Đảng bằng cách tổng kết thực tiễn, tổng kết những cái mới đang hàng ngày, hàng giờ nảy sinh trong đời sống đất nước và thế giới. Hiện nay là thời kỳ mà đời sống đất nước cũng như đời sống thế giới đang chuyển biến nhanh chóng, do đó Đảng cần đầu tư trí tuệ tổng kết thực tiễn để có thể đưa ra những dự báo, những giải đáp lý luận đúng đắn, kịp thời. Đảng phải làm giàu trí tuệ của mình bằng những hiểu biết về đất nước, về con người Việt Nam, tiếp thu được những tinh hoa của dân tộc và những thành quả trí tuệ của cả loài người. trên cơ sở đó, Đảng mới có thể bổ sung, phát triển và hoàn thành đường lối. Những nhiệm vụ mới đòi hỏi Đảng ta phải chấn chỉnh tổ chức của Đảng phải vững mạnh từ trung ương đến cơ sở, từ cơ quan lãnh đạo đến các ban chuyên môn. Các cấp ủy Đảng phải thật sự có đủ trí tuệ và năng lực lãnh đạo phù hợp với yêu cầu của từng cấp. Phát huy tốt dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo đảm thông tin thường xuyên cho 29
  30. Đảng viên để Đảng viên có điều kiện phát biểu hết ý kiến trong quá trình chuẩn bị các nghị quyết, Đảng viên được quyền bảo lưu ý kiến, nhưng khi đã có nghị quyết thì phải thi hành nghiêm túc, không được tuyên truyền và hành động theo quan điểm riêng. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, đi đôi với giáo dục, Đảng cần coi trọng việc cơ chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ và kiểm tra chặt chẽ để buộc mọi tổ chức Đảng và mọi Đảng viên đều phải thực hiện. “Kinh nghiệm lịch sử cho thấy hễ xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng sẽ trở thành một thứ câu lạc bộ, mở đường cho chủ nghĩa cơ hộ, bè phái, vô chính phủ đủ loại; cuối cùng đưa đến chỗ tan rã Đảng về mặt tổ chức, cũng tức là thủ tiêu bản thân Đảng”21. Mọi Đảng viên dù ở cương vị công tác nào cũng phải là người công dân kiểu mẫu, phải bằng lao động sáng tạo của mình để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, gương mẫu trong chấp hành luật pháp và về lối sống có đạo đức. Nâng cao chất lượng Đảng viên, làm trong sạch đội ngũ Đảng viên là yêu cầu cấp bách để nâng cao sức chiến đấu của Đảng và nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Cán bộ và công tác cán bộ phải được đổi mới một cách toàn diện từ quan điểm, chính sách, phương pháp và tổ chức, vừa nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới trong những năm tới, đồng thời chuẩn bị những thế hệ cán bộ cho tương lai phát triển của đất nước. Chính sách, cơ chế phải được đổi mới mạnh mẽ, thích hợp để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. BÀI 4: NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ CỦA ĐẢNG I. TẬP TRUNG DÂN CHỦ LÀ NGUYÊN TẮC CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng, tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Đó cũng là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ đạo mọi hoạt động tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng. Nó đảm bảo cho sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh vô địch của một Đảng cách mạng. Đây là nguyên tắc phân biệt chính Đảng của giai cấp công nhân, Đảng cách mạng chân chính với các Đảng phái khác. Đây cũng là điểm mà mọi thế lực chống đối thường công kích nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. 1. Tập trung dân chủ là tất yếu khách quan trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. 21 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.130-131 30
  31. Chế độ tập trung dân chủ dựa trên cơ sở đòi hỏi khách quan của phong trào vô sản. Chính vì địa vị của mình trong nền sản xuất xã hội, gắn liền với đại sản xuất cơ khí nên giai cấp công nhân hướng tới sự tổ chức và tập trung thành hàng ngũ của mình. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, giai cấp vô sản phải đương đầu với một kẻ thù giai cấp có tổ chức, có bộ máy Nhà nước hùng hậu, đó là giai cấp tư sản. Muốn chiến thắng nó giai cấp vô sản phải đoàn kết thống nhất lại. Ngoài ra trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột và qua kinh nghiệm của mình, giai cấp công nhân tin tưởng chắc chắn rằng, lực lượng của mình sẽ lớn mạnh cùng với việc nâng cao trình độ tổ chức và hướng toàn thể nhân dân lao động vào mục đích là đấu tranh để giải phóng khỏi ách bóc lột tư bản. Từ những điều kiện đó, tất yếu dẫn đến việc thành lập một Đảng chiến đấu của giai cấp vô sản. Xét về bản chất, giai cấp công nhân có tính dân chủ sâu sắc, quan hệ giai cấp của họ là quan hệ bình đẳng. Sau khi chiến thắng tư bản, giai cấp công nhân tạo điều kiện cho toàn thể nhân dân lao động có thể phát huy tính tích cực chủ động và tham gia rộng rãi vào hoạt động xã hội. Đảng macxit-lêninnit do giai cấp công nhân thành lập từ trong đội ngũ của mình, lãnh đạo cuộc đấu tranh đó, Đảng hoàn toàn phù hợp với giai cấp công nhân về những đặc điểm và phẩm chất cơ bản. Đảng là lãnh tụ của giai cấp và là bộ phận tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chính bản chất và những nhiệm vụ lịch sử của Đảng đòi hoi phải xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ. Tư tưởng về xây dựng một Đảng vô sản trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ đã được Mác và Ăngghen, những người sáng tạo ra chủ nghĩa cộng sản khoa học, đưa vào “Điều lệ Hội liên hiệp công nhân quốc tế”. Điều lệ cũng xác định cả cơ cấu tổ chức của Liên đoàn. Cơ cấu đó thấm nhuần tinh thần tập trung dân chủ. Nhiều chi bộ cơ sở hợp thành một công xã gồm từ 3 đến 20 thành viên. Đó là cơ sở của Đảng, là trung tâm và hạt nhân của công tác chính trị của Đảng trong quần chúng lao động. Nhiều công xã hợp thành một quận, đứng đầu là quận ủy của Đảng. Cơ quan cao nhất của Liên đoàn là Đại hội hàng năm và giữa hai kỳ Đại hội là Ban Chấp hành Trung ương. Liên đoàn được xây dựng trên cơ sở dân chủ triệt để, mọi Đảng viên đều bình đẳng, các cơ quan lãnh đạo của Đảng được bầu ra có thể bị thay thế và bãi miễn; Đảng viên được tự do thảo luận những vấn đề về sinh hoạt Đảng; tranh luận trong khuôn khổ tính Đảng v.v Cơ cấu của Liên đoàn thật sự dân chủ, Các ban chấp hành được bầu ra và có thể bị thay thế bất kỳ lúc nào. Do đó ngăn chặn được mọi âm mưu 31
  32. và thủ đoạn chiếm độc quyền trong Liên đoàn. Mác và Ăngghen nhấn mạnh: dân chủ phải thống nhất với tập trung, với kỷ luật chặt chẽ, bộ phận phải phục tùng toàn thể, thiểu số phải phục tùng đa số. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, Mác và Ăngghen đã nêu gương đấu tranh có nguyên tắc để củng cố sự thống nhất vể tư tưởng và tổ chức của các tổ chức vô sản, kiên quyết đấu tranh chống bọn cơ hội, xét lại, chống lại tất cả những kẻ nào không tôn trọng và không chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng. Chẳng hạn, hai ông đã vạch trần những quan điểm chống chủ nghĩa xã hội của bọn Bacunin và những bọn cơ hội khác thâm nhập vào Quốc tế I. Bọn này đã không tôn trọng kỷ luật và tính tập trung mà còn mưu toan xây dựng không phải là một Đảng vô sản mà là một tổ chức bí mật, hẹp hòi của những người đầy âm mưu. Theo yêu cầu của Mác, Hội nghị Luân Đôn của Quốc tế I đã giáng một đòn chí mạng vào Bacunin và đồng bọn, khai trừ bọn chúng ra khỏi đội ngũ Hội Liên hiệp công nhân quốc tế. Sau khi Mác và Ăngghen qua đời, những tư tưởng và truyền thống về tổ chức cũng như quan điểm chính trị của các ông đã bị các lãnh tụ của Quốc tế II xuyên tạc, phản bội. Họ đã lái các Đảng Xã hội Dân chủ thích nghi với hoạt động nghị trường thuần túy, đã xóa bỏ tinh thần cách mạng và biến các Đảng đó thành Đảng cải lương. Trong điều kiện lịch sử mới, khi cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vụ trực tiếp, kế tục sự nghiệp của Mác và Ăngghen, Lênin đã xây dựng, luận chứng và áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tất yếu trong xây dựng và hoạt động của Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Ở nước Nga, ngay từ khi Đảng vô sản được thành lập, bọn Mensêvich và những kẻ cơ hội đã đấu tranh gay gắt chống lại chế độ tập trung dân chủ. Vào những năm 1903 - 1904, thời kỳ diễn ra Đại hội II của Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Nga và sau đó, Đảng macxit lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, khi đứng trước những thử thách to lớn, phải đấu tranh chống bọn cơ hội trên những vấn đề về nguyên tắc tổ chức Đảng. Những người cơ hội như Máctốp, Acxenrốt đã coi thường và hạ thấp ý nghĩa vấn đề tổ chức của Đảng, vấn đề tập trung thống nhất của phong trào công nhân. Họ chủ trương, Đảng viên của Đảng không cần tham gia sinh hoạt trong một tổ chức Đảng, không cần chấp hành nghị quyết và phục tùng kỷ luật của Đảng, Đảng không cần thành tổ chức rõ rệt. Lênin đã kiên quyết vạch trần những sai lầm của phái Mactốp và đã đánh bại chủ nghĩa cơ hội trên vấn đề tổ chức của Đảng. Người cho rằng, đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo toàn xã hội không chỉ bằng cương lĩnh, bằng tư tưởng, đường lối, mà còn bằng tổ chức. Tổ chức Đảng có được xây dựng và củng cố vững mạnh thì mới bảo đảm cho cương lĩnh, đường lối của Đảng được thực hiện. 32
  33. Nói cách khác, sức mạnh về chính trị, tư tưởng của Đảng được thực hiện bằng tổ chức và thông qua tổ chức. Lênin nhiều lần nhấn mạnh: “Sức mạnh của giai cấp công nhân là ở tổ chức. Không tổ chức quần chúng thì giai cấp vô sản không là cái gì hết. Được tổ chức, giai cấp vô sản sẽ là tất cả”22. Bài báo “Tổ chức lại Đảng” của Lênin, là cơ sở của Nghị quyết “Tổ chức lại Đảng” được thông qua ở Hội nghị Tammacpho của các Đảng viên Bônsêvích, họp vào năm 1905. Trong nghị quyết đó, nguyên tắc tập trung dân chủ được thừa nhận hoàn toàn. Như vậy, thuật ngữ “tập trung dân chủ” được nêu lên đầu tiên, với tính cách là nguyên tắc chính thức hợp pháp, biểu hiện bằng nghị quyết Đảng của những người Bônsêvích. Sau đó, nguyên tắc tập trung dân chủ được ghi trong Điều lệ và được thông qua tại Đại hội IV của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga (1906). Tư tưởng trên đây của Lênin, đặt nền móng cho việc xây dựng Đảng ở Nga, sau đó đã được các Đảng trong Quốc tế Cộng sản thừa nhận. Điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản là các Đảng phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, vận dụng sáng tạo học thuyết xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam để giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng Đảng. Người đã quán triệt đầy đủ nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ và chỉ rõ rằng, Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, do đó tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Dưới sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, toàn Đảng ta là một khối thống nhất về ý chí và hành động, có sự nhất trí cao về đường lối chính trị, bảo đảm thống nhất tư tưởng và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Người chỉ rõ: trong lãnh đạo, các cấp bộ Đảng, phải thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, “mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ và tập thể. Khi đã quyết định rồi thì phân công công tác phải rạch ròi, giao cho một hoặc mấy đồng chí làm đến nơi đến chốn”23. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, dân chủ phải đi đôi với tập trung, “phải kiên quyết thực hành kỷ luật, tức là cá nhân phải tuyệt đối phục tùng tổ chức, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”24. Người căn dặn Đảng ta phải chống lại mọi biểu hiện tập trung quan liêu, độc đoán, dân chủ hình thức, đồng thời cũng phải chống lại mọi biểu hiện 22 V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 14, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Matxcova, 1980, Trang 163. 23 Hồ Chí Minh, Về xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1981, Trang 123. 24 Hồ Chí Minh, Về xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1981, Trang 39. 33
  34. phân tán, cục bộ, hẹp hòi, bè phái, tự do vô kỷ luật. Hồ Chí Minh không chỉ nói về tập trung dân chủ mà chính Người luôn luôn gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tập trung dân chủ, từ bài học gần đây của các Đảng anh em và qua hoạt động thực tiễn, Đảng ta đã chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là: 1) Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng đều do bầu cử lập ra. 2) Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. 3) Ban chấp hành Đảng bộ các cấp báo cao và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước Ban chấp hành Đảng bộ cấp trên và dưới, định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức Đảng trực thuộc, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình. 4) Nghị quyết của Đảng phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội Đại biểu Toàn quốc, Hội nghị Đại biểu Toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. 5) Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải được biểu quyết với sự tán thành của trên một nửa số thành viên trong cơ quan đó. Trước khi biểu quyết, các Đảng viên được phát biểu hết ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội Đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó, nếu thấy thực tiễn chứng minh là đúng thì tiếp thu. Tổ chức Đảng không được phân biệt đối xử với Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số. 6) Tổ chức Đảng cấp dưới được quyền quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”25 (Chương II, Điều 9). Như vậy, một mặt, tập trung dân chủ có nghĩa là tất cả các cơ quan Đảng đều phải do bầu cử mà ra và hoạt động theo nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách, thực hiện chế độ báo cáo định kỳ thông báo tình hình của mình đến các tổ chức Đảng trực thuộc, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị 25 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, Trang 15 - 17. 34
  35. quyết của Đảng. Mặt khác tập trung dân chủ có nghĩa là kỷ luật nghiêm ngặt và thống nhất đối với toàn thể Đảng viên, là phục tùng ý chí và nghị quyết của đa số, là các cơ quan cấp dưới có nghĩa vụ phải chấp hành quyết định của các cơ quan có thẩm quyền cấp trên. Điều đó sẽ bảo đảm cho công tác và sự lãnh đạo của Đảng được tập trung, đoàn kết, tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng. Những nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trên là dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua kinh nghiệm của các Đảng anh em và qua hoạt động thực tiễn của Đảng. Thế nhưng vừa qua, ở một số nước, cũng như ở nước ta vẫn còn có người muốn đặt lại vấn đề nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng với ý đồ đi tới xóa bỏ nó. Những đòi hỏi xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ của họ thường vin vào những sai lầm quan liêu, độc đoán, mất dân chủ của một số người lãnh đạo ở một số nước, lợi dụng sự tan vỡ của một số Đảng Cộng sản. Họ không thấy nguyên nhân của tình trạng đó chính là do đã hiểu sai và thực hiện sai nguyên tắc tập trung dân chủ của lý luận xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. 2. Tính thống nhất của tập trung dân chủ. Tập trung dân chủ thể hiện sự thống nhất của hai mặt tập trung và dân chủ. Sự thống nhất đó không phải là ngẫu nhiên, mà nó được quy định bởi những nhân tố khách quan của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và bởi việc Đảng Cộng sản phải lãnh đạo cuộc đấu tranh đó đến thắng lợi cuối cùng. Tập trung có nghĩa là Đảng Cộng sản phải có một Cương lĩnh cách mạng chung, trong đó nêu lên mục tiêu của cách mạng và được toàn thể Đảng viên quán triệt và thực hiện; có nghĩa là trong Đảng phải có một Điều lệ thống nhất thể hiện những tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng mà tất cả tổ chức Đảng và toàn thể Đảng viên phải tuân theo. Tập trung còn thể hiện ở việc lãnh đạo các tổ chức Đảng, các công tác của Đảng do một trung tâm thực hiện là Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Các nghị quyết của Đại hội và Ban Chấp hành Trung ương Đảng với tính cách là biểu hiện ý chí của toàn Đảng, bắt buộc các tổ chức và toàn thể Đảng viên phải thi hành. Tập trung đòi hỏi một kỷ luật thống nhất, tinh thần tuân thủ những tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng, ý thức phục tùng nghị quyết của Đảng. Do đó tập trung trong Đảng, không những là uy quyền của tư tưởng, mà còn là uy quyền của quyền lực, do các cơ quan Đảng và những người lãnh đạo các cơ quan đó thể hiện. Đó là việc thừa nhận sức mạnh về sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Tập trung là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại, hoạt động và phát triển của Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản tồn tại sẽ không có ý nghĩa, nếu không có dân chủ trong Đảng. Đây là một tổ chức chính trị tự nguyên, độc lập. Sức mạnh của Đảng là do tính tự giác của toàn thể Đảng viên. Chỉ khi nào Đảng viên tự giác thảo luận và giải quyết tất 35
  36. cả mọi vấn đề, kể cả việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng, thì tính tích cực của Đảng viên mới được nâng cao. Có thực hiện dân chủ trong Đảng mới có điều kiện rèn luyện, giáo dục Đảng viên, mới phát huy tốt nhất nghị lực của họ vào việc đề ra và thực hiện đường lối chính sách, nghị quyết của Đảng. Lênin đã xác định bản chất của dân chủ trong nội bộ Đảng là: Tất cả mọi công việc của Đảng đều được toàn thể các Đảng viên hoàn toàn bình quyền và không có ngoại lệ nào, tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu; đồng thời tất cả những người có trách nhiệm trong Đảng, tất cả các ban lãnh đạo của Đảng, tất cả các cơ quan của Đảng đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn. Như vậy, dân chủ trong Đảng thực chất là quyền làm chủ của toàn thể Đảng viên, là sự tham gia tích cực của toàn thể Đảng viên vào việc quản lý công việc của Đảng một cách trực tiếp hay thông qua những đại biểu của họ vào việc vạch đường lối, chính sách, vào việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Nhưng chỉ trong điều kiện có tính tổ chức cao, tính kỷ luật chặt chẽ, thừa nhận sự lãnh đạo thống nhất thì đảng viên mới có thể thực hiện được nghĩa vụ và quyền hạn của mình. Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hòa giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung, cũng như tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Lênin đã nhấn mạnh sự thống nhất giữa tập trung và dân chủ trong hoạt động của Đảng; đồng thời cũng kiên quyết chống lại bọn xét lại đem đối lập hai khái niệm đó với nhau. Người viết: Trên báo chí của chúng tôi, chúng tôi luôn luôn bảo vệ dân chủ trong nội bộ Đảng. Nhưng chúng tôi không bao giờ phản đối chế độ tập trung của Đảng. Chúng tôi chủ trương chế độ tập trung dân chủ. Do đó, đối với một Đảng mac-xit-lêninnit, trừ những hoàn cảnh riêng biệt của các giai đoạn cách mạng, dân chủ và tập trung phải được coi trọng như nhau, tuyệt đối hóa một mặt nào đó có thể dẫn đến những sai lầm nguy hiểm có hại cho sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng. Suốt trong thời gian dài ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa kể cả Việt Nam, nguyên tắc tập trung dân chủ được hiểu và thực hiện có phần thiên lệch về tập trung quan liêu, thống nhất cứng nhắc, dẫn đến vi phạm dân chủ trong Đảng, xuất hiện hàng loạt những sai lầm: gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân, lãnh tụ là thống soái, cá nhân trùm lên tập thể. Trong kinh tế thì nhấn mạnh một chiều tập trung thống nhất, coi nhẹ dân chủ: nhấn mạnh một chiều tính kế hoạch, coi nhẹ cơ chế thị trường; nhấn mạnh một chiều quan hệ dọc, coi nhẹ quan hệ ngang, do đó không phát huy được tính đa dạng, tính phong phú, tính sáng tạo của các thành phần kinh tế, các cơ sở kinh tế. 36
  37. Phát hiện ra những sai lầm “ấu trĩ tả khuynh” và kiên quyết khắc phục những sai lầm đó là rất cần thiết và đúng đắn. Công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa được đặt ra chính cũng là nhằm sửa chữa những sai lầm đó. Nhưng từ chỗ chống tập trung quan liêu, độc đoán, ở nhiều nước lại rơi vào thái cực phủ nhận hoặc hạ thấp tính tập trung thống nhất, đề cao một chiều tự do dân chủ, dẫn đến sự hỗn loạn, vô chính phủ không kiểm soát được mà nhiều người cứ ngộ nhận cho đó là “đổi mới”. Như vậy là họ không hiểu đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, từ sai lầm tả khuynh chuyển sang sai lầm hữu khuynh tệ hại. Chúng ta không thể đồng tình và chấp nhận quan điểm sai lầm nói trên. II. TẬP TRUNG DÂN CHỦ Ở CÁC GIAI ĐOẠN HOẠT ĐỘNG KHÁC NHAU CỦA ĐẢNG Nguyên tắc tập trung dân chủ đã được quán triệt đầy đủ và thể hiện trong mọi hoạt động và tiến trình lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, nội dung, hình thức và phạm vi áp dụng của nó không phải là cố định, không giống nhau ở mọi giai đoạn. Tùy theo nhiệm vụ và hoàn cảnh cụ thể, mà nội dung, hình thức, phạm vi áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ có sự thay đổi. Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, cũng như nguyên tắc tập trung dân chủ nói riêng phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện lịch sử của Việt Nam. 1. Khi chưa giành được chính quyền. Trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, Đảng ta phải nhấn mạnh tính tập trung và giữ gìn bí mật nghiêm ngặt. Trong những điều kiện hoạt động bí mật thường bị truy lùng, trong sinh hoạt, nội bộ Đảng không thể thực hiện tất cả mọi quy tắc dân chủ đặt ra. Tuy nhiên, ngay cả trong những thời kỳ khó khăn đó, Đảng ta luôn luôn coi trọng vấn đề dân chủ như nguyên tắc lãnh đạo tập thể tự phê bình và phê bình, thực hiện chế độ bầu cử đối với các cơ quan Trung ương Đảng, toàn thể Đảng viên phải tham gia sinh hoạt Đảng. Trong sinh hoạt luôn luôn phát huy dân chủ trong thảo luận, bàn bạc, ra quyết định trong hoạt động thực tiễn. Điều kiện hoạt động bí mật, điều kiện chiến tranh đòi hỏi các cán bộ, Đảng viên trên mỗi đơn vị công tác, trong từng nhiệm vụ cụ thể của mình phải rất chủ động, sáng tạo, linh hoạt chứ không thể chỉ thụ động ngồi chờ lệnh cấp trên. Thực tế cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của Đảng ta, nhân dân ta, cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh của Việt Nam đã có biết bao thí dụ cụ thể sinh động về sự sáng tạo, tinh thần chủ động linh hoạt, khôn khéo của cán bộ, Đảng viên và nhân dân ta. 37
  38. Chính nhờ thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ mà Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt cả quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng có được sức mạnh đoàn kết thống nhất. Và chính nhờ đoàn kết thống nhất, mà với số lượng không đông, có lúc chỉ mấy nghìn Đảng viên, Đảng ta vẫn có sức sống mãnh liệt, kẻ thù không thể tiêu diệt nổi. Đảng ta vẫn có sức mạnh và khả năng tổ chức, dẫn dắt nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, đấu tranh anh dũng kiên cường, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trong sự nghiệp cách mạng lâu dài, gian khổ của nhân dân ta. 2. Khi Đảng lãnh đạo chính quyền. Những hạn chế khách quan trong sinh hoạt nội bộ Đảng trước đó đã được khắc phục, nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện trong tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng, chế độ bầu cử, báo cáo, thảo luận, biểu quyết. Tính tập thể trong lãnh đạo, tự phê bình và phê bình đã trở thành nền nếp trong sinh hoạt của Đảng. Đó là phương tiện quan trọng nhất để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và động viên tính tích cực của Đảng viên. Đảng ta không đối lập dân chủ với tập trung, mà phát triển dân chủ nội bộ làm cho nó trở thành phương tiện để củng cố kỷ luật tự giác của cán bộ, Đảng viên và nâng cao sự lãnh đạo tập trung của Đảng. Sau khi giành được chính quyền, lúc này việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng gắn liền với thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bộ máy Nhà nước. Nhiều mối quan hệ phức tạp giữa tổ chức với tổ chức, giữa cá nhân và tổ chức được đặt ra, đòi hỏi Đảng phải vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ một cách đúng đắn. Nhất là trong việc vạch ra đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, các quy tắc sinh hoạt, kế hoạch Nhà nước phải được xây dựng sát đúng và được triệt để chấp hành; xác định vị trí của mỗi cấp, phân cấp quản lý một cách đúng đắn, nhất là về mặt kinh tế; xây dựng và kiện toàn các bộ máy trong hệ thống chính trị làm cho nó hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp, bảo đảm được sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng. Mặt khác mở rộng dân chủ, phát huy cao độ tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, đặc biệt là bộ máy Nhà nước. Trong điều kiện hòa bình, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn tồn tại những yếu tố tự phát, những khuynh hướng tự do vô chính phủ, những âm mưu và thủ đoạn chia rẽ, phá hoại cả trong nước và từ nước ngoài, có bao nhiêu yếu tố phức tạp khiến chúng ta không thể buông lơi kỷ luật, kỷ cương. Thực tế ở nước ta và nhiều nước trong thời gian gần đây đã cho thấy rõ điều đó. Chúng ta chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với sự đa dạng hóa về sở hữu, chuyển sang cơ chế thị trường, sử dụng các thành phần kinh tế 38
  39. cá thể và kinh tế tư bản tư nhân, cần phải làm tốt công tác quản lý vĩ mô, vừa sử dụng vừa cải tạo, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Rõ ràng, trong điều kiện Đảng nắm chính quyền, chúng ta chẳng những phải phát huy mạnh mẽ dân chủ , mở rộng dân chủ, mà còn đồng thời phải kết hợp chặt chẽ hai măt tập trung và dân chủ, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ. 2. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong giai đoạn hiện nay. Ngày nay, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó có việc chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Điều đó đòi hỏi Đảng phải đi tiên phong trong công cuộc đổi mới và bản thân Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức thích ứng với nền kinh tế và cơ chế đó. Việc thực hiên nguyên tắc tập trung dân chủ hiện nay trong sinh hoạt của các cấp ủy và các tổ chức Đảng đã có không khí thảo luận cởi mở, thẳng thắn hơn, khai thác và tập hợp trí tuệ của đông đảo cán bộ, Đảng viên trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Các cấp ủy Đảng thực hiện đúng chế độ hàng năm kiểm điểm công tác, tự phê bình và phê bình. Ban Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm việc chấp hành nghị quyết Đại hội vào giữa nhiệm kỳ. Các ủy viên Bộ Chính trị tự phê bình và phê bình trước Ban Chấp hành Trung ương; đã xử lý một số đồng chí vi phạm kỷ luật của Đảng. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đã có sự chuyển biến rõ rệt trong đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế; đã ra nhiều chủ trương, chính sách về đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng; bước đầu hình thành một hệ thống các quan điểm về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự chuyển hướng này có ý nghĩa hết sức quan trọng để Đảng ta giữ vững tập trung và mở rộng dân chủ. Song, bên cạnh đó vẫn bộc lộ những mặt tiêu cực. Báo cáo về xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã chỉ rõ: “Dân chủ trong hàng ngũ Đảng còn hạn chế, kỷ luật không nghiêm, một số nơi mất đoàn kết nghiêm trọng”26. Không ít cấp ủy và tổ chức Đảng thiếu tôn trọng và phát huy quyền của Đảng viên, ít lắng nghe ý kiến của cấp dưới. Không ít cán bộ lãnh đạo chưa quen với những thông tin ngược chiều, không thích nghe những ý kiến khác với ý kiến của mình. Trong sinh hoạt Đảng còn thiếu những cơ chế cụ thể có hiệu lực đảm bảo phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Có những quy định trong Điều lệ Đảng, trong các quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy 26 Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội VII, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1991, Trang 11. 39
  40. Đảng không được chấp hành nghiêm túc. Hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra ở một số nơi, có khi rất trắng trợn. Trong khi tình trạng mất dân chủ, hoặc dân chủ hình thức còn nặng thì những biểu hiện dân chủ cực đoan hoặc dân chủ hình thức, tự do vô kỷ luật cũng không ít. Tệ bè cánh, mất đoàn kết ở một số cấp ủy Đảng và cơ quan lãnh đạo rất nghiêm trọng. Không những vậy, công tác tư tưởng, lý luận, công tác kiểm tra chưa thường xuyên và chặt chẽ, nhiều lúc thiếu sắc bén, thiếu kịp thời, còn hữu khuynh trong đấu tranh chống tiêu cực và các quan điểm sai trái, lệch lạc. Vẫn còn tình trạng “ô dù”, bao che lẫn nhau làm cho việc xử lý cán bộ, Đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước không nghiêm, còn “nhẹ trên, nặng dưới”, để cho hiện tượng tiêu cực phát triển, gây thắc mắc, bất bình trong Đảng và trong nhân dân. Hiện nay, để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ một cách đúng đắn cần phải: “Có nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời có cơ chế bảo đảm việc thực hiện những nội dung đó”27. Như vậy, ngoài việc phải có nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, điều quyết định, cái bảo đảm thực hiện trong thực tế là phải có cơ chế đúng, có những quy định cụ thể và phải có tinh thần đấu tranh kiên quyết để thực hiện các quy chế, quy định đó. Nói phải có cơ chế, có quy định cụ thể tức là nguyên tắc tập trung dân chủ phải được “thể chế hóa”, “pháp luật hóa” thành những điều lệ, quy chế thực hiện. Trước hết, phải bảo đảm thực hiện các quyền của Đảng viên, nhất là quyền được thảo luận một cách thẳng thắn các vấn đề về đường lối, chính sách của Đảng, quyền được phê bình, chất vấn trong phạm vi tổ chức, về hoạt động của tổ chức Đảng và Đảng viên ở mọi cấp. Đảng viên có quyền được thông tin, quyền được bảo lưu ý kiến của mình. Những quy định trên tạo điều kiện khắc phục tình trạng cấp ủy vi phạm quyền của Đảng viên, còn Đảng viên thì thụ động, tiêu cực. Trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải chấp hành nghiêm túc các quy định về chế độ báo cáo, chế độ tự phê bình và phê bình. Các cơ quan được bầu phải chịu sự giám sát của tổ chức và Đảng viên, phải báo cáo hoạt động trước cơ quan đã bầu ra mình, thường xuyên thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức Đảng cấp dưới và Đảng viên. Quy định thời gian tiến hành tự phê bình và phê bình, tổ chức để quần chúng phê bình và bỏ phiếu tín nhiệm cán bộ, đảng viên từ cơ quan cao nhất đến cơ sở. Xử lý nghiêm khắc những người có thái độ trấn áp, trù dập người phê bình hoặc lợi dụng phê bình để trù dập 27 Sđd, trang 21. 40