Giáo trình Xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Diệp Minh Giang

pdf 213 trang huongle 3430
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Diệp Minh Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_xay_dung_dao_duc_cua_thanh_nien_viet_nam_trong_ne.pdf

Nội dung text: Giáo trình Xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Diệp Minh Giang

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN DIỆP MINH GIANG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH – 2011
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN DIỆP MINH GIANG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Chuyên ngành: CNDVBC và CNDVLS Mã số: 62.22.80.05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1.TS. PHẠM NGỌC MINH 2.PGS.TS NGUYỄN THANH Phản biện: 1. PGS.TS Đặng Hữu Tồn 2. PGS.TS Lương Minh Cừ 3. PGS.TS Trương Văn Chung Phản biện độc lập: 1. PGS.TS Đặng Hữu Tồn 2. PGS.TS Trần Nguyên Việt TP. HỒ CHÍ MINH – 2011
  3. LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của tơi. Kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa từng được cơng bố. Các số liệu, tài liệu, trích dẫn trong luận án chính xác, cĩ nguồn gốc rõ ràng. Tp.Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2011 Tác giả DIỆP MINH GIANG
  4. MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 01 PHẦN NỘI DUNG 14 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 14 1.1. Khái niệm đạo đức và cấu trúc của đạo đức 14 1.1.1. Khái niệm đạo đức 14 1.1.2. Cấu trúc của đạo đức và quan hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc của đạo đức 24 1.2. Quan hệ giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đạo đức 39 1.2.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tác động của nĩ đối với đạo đức 39 1.2.2. Tác động của đạo đức đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 64 Kết luận chương 1 73 Chương 2: THANH NIÊN VÀ THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 76 2.1. Khái niệm thanh niên và những đặc điểm đạo đức của thanh niên 76 2.1.1. Khái niệm thanh niên 76 2.1.2. Những đặc điểm đạo đức của thanh niên 80 2.2. Thực trạng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 87
  5. 2.2.1. Về ý thức đạo đức 87 2.2.2. Về hành vi đạo đức 97 2.2.3. Về quan hệ đạo đức 106 2.3. Nguyên nhân hạn chế về đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 110 2.3.1. Tác động của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các thể chế cĩ liên quan chưa hồn thiện 110 2.3.2. Tác động tiêu cực từ gia đình, nhà trường và xã hội 115 2.3.3. Việc xây dựng đạo đức của thanh niên cịn nhiều bất cập 118 2.3.4. Một bộ phận thanh niên thiếu ý thức rèn luyện đạo đức 129 Kết luận chương 2 132 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 134 3.1. Phương hướng xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 134 3.1.1. Phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội 134 3.1.2. Phù hợp đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và đặc điểm đạo đức của thanh niên 138 3.1.3. Huy động sức mạnh của tồn xã hội 140 3.1.4. Kế thừa tinh hoa đạo đức của dân tộc và nhân loại 142 3.2. Những giải pháp xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 144 3.2.1. Xây dựng và hồn thiện cơ sở kinh tế và điều kiện vật chất cho sự phát triển đạo đức của thanh niên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 144
  6. 3.2.2. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, hạn chế tham nhũng, tiêu cực xã hội 155 3.2.3. Nâng cao vai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng đạo đức của thanh niên 158 3.2.4. Đổi mới giáo dục đạo đức trong nhà trường theo hướng thiết thực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu nền kinh tế 163 3.2.5. Phát huy vai trị của gia đình và xã hội trong việc giáo dục đạo đức của thanh niên 169 3.2.6. Phát huy vai trị tự giáo dục và rèn luyện đạo đức của thanh niên 175 Kết luận chương 3 181 PHẦN KẾT LUẬN CHUNG 183 TÀI LIỆU THAM KHẢO 186 PHỤ LỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CƠNG BỐ
  7. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, của ý thức xã hội, một mặt bị quy định bởi cở sở hạ tầng, tồn tại xã hội; mặt khác nĩ cũng cĩ tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi, nền tảng kinh tế thay đổi, đạo đức xã hội cũng phải thay đổi theo cho phù hợp và tác động tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế. Kinh tế thị trường với những đặc trưng riêng của nĩ đã tác động mạnh mẽ đến đạo đức xã hội và ngược lại, để phát triển nền kinh tế thị trường rất cần xây dựng củng cố, phát triển những chuẩn mực đạo đức truyền thống trên cơ sở mới và bổ sung những chuẩn mực đạo đức phù hợp. Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hĩa tập trung sang nền kinh tế hàng hĩa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, cĩ sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cùng với những nỗ lực đầu tư huy động vốn, tri thức, một yếu tố khơng kém phần quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển là vấn đề đạo đức. Đặc biệt là vấn đề xây dựng đạo đức của thanh niên, bởi vì, thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội, là người chủ của đất nước quyết định sự thành bại của cơng cuộc phát triển kinh tế đất nước hiện tại và tương lai. Nghị quyết 25-NQ/TW, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khĩa X), về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa” đã khẳng định: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, là chủ nhân của đất nước, tương lai của dân tộc, lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã
  8. 2 hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực đảm bảo cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước” [27,41]. Với tầm quan trọng đĩ, thanh niên cần được quan tâm chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thành lớp người “vừa hồng, vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Hơn nữa, so với thế hệ trung niên và thiếu niên nhi đồng, thanh niên Việt Nam hiện nay là lớp người chịu tác động mạnh mẽ nhất từ điều kiện kinh tế thị trường. Bởi vì, họ là những người sinh ra và lớn lên trong thời kỳ ở Việt Nam bắt đầu xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, hoạt động học tập, làm việc, sinh hoạt của thanh niên tiếp xúc trực tiếp với điều kiện kinh tế thị trường hơn thiếu niên nhi đồng. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và những biểu hiện cĩ tính chất đặc thù trong đạo đức của thanh niên cũng làm cho việc hình thành đạo đức của họ chịu sự tác động của kinh tế thị trường nhiều hơn so với các thế hệ khác. Thực tế ở Việt Nam hiện nay, tình trạng suy thối đạo đức diễn ra ngày càng gây gắt hơn, nhất là đối với thanh niên. Nghị quyết 25-NQ/TW, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khĩa X) đã đánh giá: “một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hĩa của dân tộc tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh niên đang gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp.” [27,21]. Các hành vi lệch chuẩn, đặc biệt là những hành vi vi phạm pháp luật của thanh niên cĩ xu hướng ngày càng gia tăng. Một số hành vi vi phạm pháp luật của thanh niên được đề cập tới như: vi phạm luật giao thơng, đua xe trái phép, bạo lực trong nhà trường, thiếu tơn sư trọng đạo, cùng với một số hành vi lệch chuẩn về đạo đức khác là: sống hưởng thụ, coi nặng giá trị vật chất, đồng tiền, trụy lạc sa
  9. 3 đọa, nghiện ngập, xa hoa, lãng phí, lười lao động, thờ ơ vơ cảm, vị kỷ . Với vai trị đặc biệt quan trọng của thanh niên, nếu để tình trạng suy thối đạo đức của thanh niên kéo dài và trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội sẽ dẫn đến hậu quả khơn lường. Trong thời gian qua, nhiều hội thảo, cơng trình khoa học bàn đến vấn đề này, gĩp phần khá tích cực vào việc xây dựng đạo đức của thanh niên trong điều kiện mới. Tuy nhiên, đạo đức của thanh niên vẫn cịn những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Vì vậy, xây dựng đạo đức của thanh niên là vấn đề đặt ra cho cơng tác nghiên cứu lý luận và cơng tác giáo dục đạo đức hiện nay. Đĩ là lý do tơi chọn “Xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, đạo đức và đạo đức của thanh niên trong nền kinh tế thị trường là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lý luận thể hiện trong nhiều cơng trình trong và ngồi nước. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã bàn về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường khá sớm, các quan điểm này được tập hợp trong cuốn sách "Những vấn đề đạo đức trong điều kiện nền kinh tế thị trường - Từ gĩc nhìn của các nhà khoa học Trung Quốc" do Viện Thơng tin khoa học xã hội thuộc Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia dịch thuật (Thơng tin khoa học xã hội - chuyên đề, 1996). Cĩ nhiều ý kiến khác nhau về quan hệ giữa đạo đức và kinh tế thị trường nĩi chung và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc nĩi riêng. Một số tác giả cho rằng, đạo đức và kinh tế thị trường độc lập nhau, khơng thể cĩ đạo đức trong kinh tế thị trường. Số khác quan niệm kinh tế thị trường cĩ tác dụng tích cực đối với đạo đức,
  10. 4 nâng cao trình độ đạo đức của xã hội, nguyên nhân của sự suy thối đạo đức hiện nay là do kết quả chế độ xã hội, truyền thống văn hĩa Trung Quốc chưa thích hợp với sự phát triển kinh tế thị trường. Số cịn lại cho rằng tác động của kinh tế thị trường đối với luân lý, đạo đức xã hội cĩ tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Ngồi ra, họ cịn bàn về vấn đề tái lập luân lý của kinh tế thị trường là từ bên trong hay từ bên ngồi và vấn đề trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường cĩ diễn ra sự tái lập luân lý và đạo đức xã hội hay khơng. Nhìn chung các quan điểm trình bày, phân tích sâu sắc và tranh luận, phản biện trên tinh thần khoa học đã làm rõ những khía cạnh khác nhau của đạo đức trong nền kinh tế thị trường và nêu những phương hướng cho việc xây dựng đạo đức trong điều kiện mới. Riêng đối với cơng tác giáo dục đạo đức của thanh niên rất được quan tâm, thể hiện trong giáo trình dùng cho thanh niên sinh viên trong các trường đại học Trung Quốc:“Tu dưỡng đạo đức tư tưởng” của La Quốc Kiệt (do Vụ Cơng tác chính trị - Bộ Giáo dục và Đào tạo kết hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia dịch và xuất bản năm 2003). Giáo trình này nêu khá đầy đủ các nội dung cần thiết để giáo dục đạo đức cho thanh niên như: sứ mệnh lịch sử của thanh niên, mục tiêu lý tưởng vì sự nghiệp hiện đại hĩa xã hội; định hướng cho thanh niên giải quyết đúng đắn quan hệ tình bạn, tình yêu; phân tích những phẩm chất mà sinh viên cần rèn luyện như: hiếu kính cha mẹ, cần lao tiết kiệm, đồn kết hịa mục, lập chí cần cù học tập, khiêm tốn, kỷ luật với mình, khoan dung với người, giữ chữ tín, cơng bằng vơ tư. Giáo trình cũng nêu sự phát triển của trình độ đạo đức tư tưởng của cá thể là sự thống nhất tri, hành, ý hành, tức là tri thức tình cảm, ý chí hành động. Đây là một tài liệu hay trong việc nghiên cứu về đạo đức và viết giáo trình cho thanh niên Việt Nam nĩi chung và sinh viên nĩi riêng. Ở Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoạch hĩa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự biến đổi
  11. 5 các giá trị, sự suy thối đạo đức, nhất là đạo đức của thanh niên ngày càng nghiêm trọng, nhiều cơng trình khoa học đã nghiên cứu giải quyết vấn đề này. Trong đĩ, đề tài nghiên cứu KHXH_04.03: "Xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn mực giá trị xã hội mới trong điều kiện cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" do Huỳnh Khái Vinh làm chủ nhiệm (thuộc chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước KHXH_04, Hà Nội, 2000) là đề tài nghiên cứu khá tồn diện cĩ tính hệ thống những vấn đề lý luận về lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội, phân tích sự tác động của các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội; từ đĩ nêu phương hướng, quan điểm chỉ đạo và giải pháp xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn mực giá trị xã hội mới trong điều kiện cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường của các nhà lý luận Việt Nam được trình bày trong quyển sách "Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay" do Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên) (Nxb. Chính trị quốc gia, 2003). Các tác giả đã phân tích những vấn đề xung quanh một số vấn đề lý luận, thực trạng và những phương hướng, giải pháp để xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay khá sâu sắc nhưng chưa hệ thống vì đây là tập hợp những bài viết riêng lẻ của nhiều tác giả với những quan niệm khác nhau. Quyển sách “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp” do Nguyễn Duy Quý chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, 2006) tìm hiểu vấn đề đạo đức xã hội dưới tác động, ảnh hưởng của kinh tế, chính trị của nước ta hiện nay và phân tích đạo đức của từng nhĩm đối tượng, hồn cảnh cụ thể đạo đức của cán bộ, đảng viên và cơng chức, đạo đức của thanh niên, đạo đức trong lao động, giao tiếp, đạo đức trong gia đình. Vấn đề đạo đức của
  12. 6 thanh niên được đề cập trong bài viết “Đạo đức của thanh niên” của Đặng Cảnh Khanh. Tác giả phân tích thực trạng đạo đức của thanh niên thơng qua phân tích số liệu khảo sát năm 2001 của Ủy ban quốc gia về tình hình tư tưởng thanh niên Việt Nam và nêu khái quát nguyên nhân thực trạng đĩ, bao gồm nguyên nhân do tâm lý, lứa tuổi, do gia đình, do ảnh hưởng của sách báo, phim ảnh kích dâm, bạo lực, do nhận thức pháp luật cịn yếu, do mơi trường xã hội, do điều kiện kinh tế. Quyển sách “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Trịnh Duy Huy (Nxb.Chính trị quốc gia, 2009), cĩ nội dung khá đầy đủ và hệ thống về lý luận, về thực trạng và một số phương hướng, giải pháp để xây dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Tác giả cho rằng xây dựng và phát triển đạo đức mới phải dựa trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và chỉ ra những chuẩn mực cơ bản của đạo đức mới đang được xây dựng ở nước ta bao gồm: chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế trong sáng; tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng; tinh thần lao động tự giác, sáng tạo; tinh thần nhân đạo và một số giá trị khác như: bình đẳng, cơng lý, nhân quyền, yêu thiên nhiên, sự lương thiện, thận trọng, tự giác, tự trọng. Quyển sách “Ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Lê Thị Tuyết Ba (Nxb. Khoa học xã hội, 2010), đã đi sâu phân tích về yếu tố ý thức đạo đức, tuy nhiên cơng trình này chưa làm rõ mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành ý thức đạo đức và các yếu tố trong cấu trúc của đạo đức. Những cơng trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến vấn đề đạo đức của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường cĩ thể kể đến một số quyển sách, đề tài, hội thảo sau: Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt “Đạo đức sinh viên trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam –
  13. 7 Thực trạng, vấn đề và giải pháp”, mã số:QG.01.08 do Trương Văn Phước làm chủ nhiệm đề tài, cơ quan chủ trì Đại học Quốc gia Hà Nội, nghiệm thu năm 2003. Đề tài phân tích sự chuyển đổi thang giá trị đạo đức trong kinh tế thị trường và tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức của sinh viên trong giai đoạn từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường đến năm 2003, cho thấy tình hình đạo đức của sinh viên trong điều kiện đĩ là khá phức tạp, bên cạnh những sinh viên biết kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống trong điều kiện đổi mới đất nước, biết tiếp nhận những giá trị đạo đức mới để khẳng định nhân cách thì cịn một bộ phận sinh viên sống thiếu lành mạnh, khơng chịu rèn luyện tu dưỡng. Từ đĩ, đề tài nêu một số vấn đề đặt ra để xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên như: Đảm bảo sự phát triển đồng bộ giữa kinh tế thị trường và đạo đức sinh viên; vấn đề truyền thống và hiện đại trong xây dựng đạo đức sinh viên; vấn đề dân tộc và quốc tế trong xây dựng đạo đức cho sinh viên. Đồng thời, đề tài nêu một số giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường trong quá trình xây dựng đạo đức mới cho sinh viên như: tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh viên; đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy các bộ mơn khoa học Mác – Lênin nĩi chung và đạo đức học nới riêng theo phương pháp dạy học tích cực; nâng cao chất lượng văn hĩa và chuyên mơn; gắn giáo dục nhà trường với giáo dục xã hội trong cơng tác giáo dục đạo đức cho sinh viên; phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, tự giáo dục, tự rèn luyện của sinh viên; nâng cao vai trị của tổ chức Đồn thanh niên, Hội sinh viên trong việc xây dựng đạo đức cho sinh viên. Đề tài “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” của Lê Thị Hồi Thanh (Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003). Đề tài phân tích quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo
  14. 8 giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên. Trên cơ sở dục đạo đức, thực trạng việc kết hợp lý luận và thực trạng đĩ, đề tài nêu một số giải pháp cụ thể: Kết hợp giáo dục truyền thống và hiện đại trong gia đình, nhà trường và xã hội, tạo mơi trường giáo dục lành mạnh và thống nhất; kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục pháp luật, tạo mơi trường pháp lý cho việc kết hợp truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức; kết hợp các phương pháp giáo dục truyền thống với các phương pháp giáo dục hiện đai, đổi mới hình thức và phương pháp giáo dục. Đề tài“Đạo đức của sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp” của Vũ Thanh Hương (Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004). Qua khảo sát một số trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội, đề tài phân tích thực trạng đạo đức sinh viên trong điều kiện hiện nay và nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay như: Tạo lập mơi trường kinh tế - xã hội lành mạnh, nâng cao ý thức tự giáo dục đạo đức của sinh viên, đổi mới nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên. Quyển sách “Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay” do tập thể thường trực Trung ương Hội sinh viên Việt Nam biên soạn, (Nxb.Thanh niên, 2007). Quyển sách bàn về cơ sở lý luận về giá trị và định hướng giá trị, phân tích thực trạng tình hình thanh niên và giáo dục định hướng giá trị cho thanh niên sinh viên của Đồn thanh niên, Hội sinh viên và đề xuất một số giải pháp phát huy vai trị của Đồn thanh niên, Hội sinh viên trong việc giáo dục định hướng giá trị cho thanh niên sinh viên. Hội thảo tồn quốc “Giáo dục đạo đức học sinh, sinh viên ở nước ta: thực trạng và giải pháp” do Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam tổ chức tại Biên Hịa - Đồng Nai, ngày 18, 19/7/2008. Hội thảo thu hút sự tham
  15. 9 gia của các chuyên gia, các nhà khoa học tâm lý, giáo dục. Các chuyên gia, nhà khoa học tâm lý, giáo dục, cùng nhau phân tích, đánh giá hiện trạng đạo đức thanh niên và nguyên nhân của thực trạng trên. Theo ý kiến đa số, nguyên nhân chủ yếu của những biểu hiện suy thối đạo đức của thanh niên là: sự buơng lỏng trong việc quản lý giáo dục con cái của gia đình; việc giáo dục đạo đức trong nhà trường từ bậc phổ thơng đến đại học cịn nhiều bất ổn và tác động của nền kinh tế thị trường, sự hội nhập các nền văn hĩa và sự hấp dẫn của đời sống đơ thị đã làm cho các giá trị đạo đức truyền thống bị xâm hại và mai một dần. Đề tài “Sự lựa chọn các giá trị đạo đức và nhân văn trong định hướng lối sống của sinh viên của Huỳnh Văn Sơn (Đề tài cấp Bộ, nghiệm thu năm 2009). Đề tài khảo sát 874 sinh viên từ các trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ số liệu khảo sát, đề tài đánh giá sự lựa chon các giá trị đạo đức nhân văn của sinh viên chưa rõ ràng, cịn dao động, tồn tại nhiều thái độ tiêu cực ở một bộ phận khơng nhỏ sinh viên và cịn chưa thống nhất giữa nhận thức với thái độ, hành vi. Đề tài cũng nêu một số kiến nghị như: cần xây dựng mơ hình nhân cách chuẩn mực, một thang giá trị rõ ràng để định hướng cho sinh viên; chú trọng giáo dục những giá trị đạo đức nhân văn, thực hiện cơng tác giáo dục bằng nhiều hình thức đa dạng, Cuộc Điều tra quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ 2 (SAVY 2) vừa được Tổng cục Dân số - Kế hoạch hĩa Gia đình thực hiện với hơn 10.000 mẫu khảo sát ở 63 tỉnh thành, tiến hành từ năm 2008, và cơng bố vào tháng 6/2010, đã cung cấp những số liệu về gia đình, điều kiện sống, giáo dục, việc làm, sức khỏe, giải trí, thĩi quen, hành vi, hồi bão của vị thành niên và thanh niên Việt Nam ngày nay. Theo đĩ, vị thành niên và thanh niên Việt Nam hiện nay cĩ mối gắn kết chặt chẽ với gia đình, sống trong gia đình cĩ mức sống cao hơn; gắn kết với nhà trường tốt hơn, đề cao việc học
  16. 10 tập; quan niệm cởi mở hơn về quan hệ tình dục trước hơn nhân; lạc quan về cuộc sống trong tương lai Quyển sách “Những giá trị sống cho tuổi trẻ” của Diane Tillman (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2009) là quyển sách hay gồm các bài giảng về đạo đức cho tuổi trẻ với nội dung sâu sắc về các giá trị: hịa bình, tơn trọng, yêu thương, khoan dung, trung thực, khiêm tốn, hợp tác, hạnh phúc, trách nhiệm, giản dị, tự do, đồn kết. Các bài học này mang tính hướng dẫn hơn là răn dạy, giảng viên đĩng vai trị hỗ trợ, hướng dẫn học viên tự khám phá các giá trị này và vận dụng chúng vào thực tiễn. Nội dung và phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của người học được giới thiệu trong quyển sách này rất phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đây là tài liệu tham khảo tốt cho việc đổi mới giáo dục đạo đức ở Việt Nam hiện nay. Một số sách và đề tài khảo sát thực tế tình hình sinh viên và thanh niên như quyển sách “Tổng quan tình hình sinh viên và cơng tác hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VII (2003- 2008)” của Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam (Nxb Thanh niên, 2008) và đề tài nghiên cứu cấp bộ “Tổng quan tình hình thanh niên, cơng tác Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và phong trào thanh niên nhiệm kỳ 2005 -2010” do Nguyễn Phước Lộc làm chủ nhiệm đề tài (Bộ Khoa học và cơng nghệ, mã số: KTN 2009-01). Những tài liệu này đã cung cấp những số liệu sát thực phản ánh thực trạng đạo đức của thanh niên qua kết quả điều tra Tổng quan tình hình thanh niên, cơng tác Đồn và phong trào thanh thiếu nhi và qua các hoạt động của Đồn thanh niên và Hội sinh viên Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt nam, trên cơ sở đĩ đề xuất một số kiến nghị với Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành nhằm đẩy mạnh cơng tác Hội sinh viên Việt Nam và Hội Liên Hiệp Thanh niên Việt Nam và phong trào thanh niên.
  17. 11 Các đề tài trên chủ yếu xem xét đạo đức nĩi chung chưa đi sâu phân tích các yếu tố tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức và hành vi đạo đức trong cấu trúc đạo đức và tác động của kinh tế thị trường đối với từng yếu tố đĩ. Nội dung các đề tài quan tâm đến tình hình đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện nay nhưng chỉ đi sâu vào những vấn đề như định hướng giá trị, quan niệm sống của thanh niên, cơng tác giáo dục đạo đức của thanh niên hoặc chỉ đề cập đến đạo đức của sinh viên, học sinh chưa cĩ đề tài nào nghiên cứu vấn đề đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án - Mục đích của luận án là gĩp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đạo đức, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự tác động qua lại giữa hai lĩnh vực này, chỉ ra và luận giải thực trạng đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện nay để trên cơ sở đĩ đề xuất phương hướng và những giải pháp cho việc xây dựng đạo đức của họ trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Nhiệm vụ của luận án: + Hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về đạo đức, đạo đức của thanh niên và quan hệ biện chứng giữa kinh tế thị trường và đạo đức. + Phân tích thực trạng đạo đức của thanh niên dưới tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay theo hướng tiếp cận cấu trúc của đạo đức. + Đề xuất phương hướng và những giải pháp để xây dựng đạo đức cho thanh niên đáp ứng yêu cầu quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Phạm vi nghiên cứu của luận án: Phạm vi nghiên cứu của luận án là sự tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức của thanh niên Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
  18. 12 trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (từ Đại hội VI - 1986), đặc biệt là giai đoạn từ Đại hội IX - giai đoạn được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nước ta đẩy mạnh cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa, phát triển nền kinh tế tri thức. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận án được nghiên cứu dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đạo đức, về phát triển nền kinh tế thị trường, về thanh niên và giáo dục đạo đức của thanh niên. - Phương pháp nghiên cứu: Luận án kết hợp và vận dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp logic và lịch sử; phương pháp thống kê, so sánh để thực hiện đề tài. 5. Cái mới của luận án Luận án cĩ những đĩng gĩp mới về khoa học sau đây: Thứ nhất, bổ sung, phát triển lý luận về cấu trúc của đạo đức. Thứ hai, bổ sung, phát triển lý luận về quan hệ giữa kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đạo đức. Thứ ba, phân tích, làm rõ đặc điểm đạo đức của thanh niên. Thứ tư, phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với cách tiếp cận dựa vào cấu trúc của đạo đức: ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức, qua đĩ, xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án gĩp phần nâng cao nhận thức về những biểu hiện đặc thù trong đạo đức của thanh niên, thực trạng đạo đức của thanh niên Việt Nam
  19. 13 trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay và cách thức để xây dựng đạo đức mới cho thanh niên trong điều kiện đĩ. - Luận án cĩ thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ, các tổ chức làm cơng tác Đồn, cơng tác giáo dục đạo đức và hoạch định chính sách phát triển thanh niên, cho những ai quan tâm đến các vấn đề về đạo đức của thanh niên trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm cĩ 3 chương, 7 tiết.
  20. 14 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1.1. KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC VÀ CẤU TRÚC CỦA ĐẠO ĐỨC 1.1.1. Khái niệm đạo đức Trong các học thuyết triết học từ thời cổ đại đến nay, vấn đề đạo đức luơn được đề cập đến, đặc biệt, đối với một số học thuyết, đạo đức là vấn đề trung tâm. Ở phương Đơng, trong các học thuyết của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và đề xuất các quy tắc, các chuẩn mực, những ràng buộc trong các hoạt động sống của con người. Tư tưởng đạo đức Nho giáo chủ yếu thể hiện trong quan điểm về “tu thân” và những nguyên tắc đạo đức cơ bản như: “tam cương” “ngũ thường”, “tam tịng”, “tứ đức”. Đĩ là những quy tắc ứng xử với nhau trong quan hệ xã hội giữa vua - tơi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè. Cụ thể là mỗi người phải tùy theo danh phận của mình phải thực hiện những chuẩn mực “trung, hiếu, nghĩa”, “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”, “Tại gia tịng phụ, xuất giá tịng phu, phu tử tịng tử” và “cơng, dung, ngơn, hạnh”. Tư tưởng đạo đức của Đạo giáo nêu những chuẩn mực đạo đức của cá nhân như “vơ kỷ”, “vơ cơng”, “vơ danh”, “bất tranh”, “dĩ đức báo ốn”. Những chuẩn mực này địi hỏi con người gạt bỏ dục vọng của bản thân mình, khơng cậy cơng, kể cơng, khơng ham danh vọng, ứng xử uyển chuyển, lấy nhu thắng cương, dùng nhược để thắng cường trong đối nhân xử thế, lấy lịng nhân đức để đối xử với người đã gây ra ốn thù với mình. Trong đạo đức Phật giáo, nội dung cơ bản là những yêu cầu đạo đức đối với hai loại người là người đời và Phật tử. Đối với người đời, những yêu
  21. 15 cầu đạo đức rất chi tiết trong bảy mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa con cái đối với cha mẹ, quan hệ thầy - trị, vợ - chồng, bạn bè, quan hệ với bề trên, quan hệ với bề dưới, quan hệ nơ bộc với chủ. Những chuẩn mực được nêu rất cụ thể nhưng nhìn chung khuyên con người trong bất cứ mối quan hệ nào cũng phải thể hiện tình yêu thương, kính trọng nhau, chăm sĩc giúp đỡ nhau, làm trịn bổn phận của mình. Đối với Phật tử, ngồi việc thực hiện những đức hạnh của người đời, họ cịn phải thực hiện Ngũ giới; Thập thiện nghiệp, Bát chính đạo, tu phẩm hạnh Balamật. Đĩ là những chuẩn mực đạo đức cá nhân từ những chuẩn mực cơ bản như khơng sát sinh, khơng ăn trộm, khơng tà dâm, khơng nĩi sai sự thật, khơng uống rượu đến những phẩm hạnh mang tính hồn thiện siêu việt như Bố thí Balamật, Trì giới Balamật, Tinh tiến Balamật, Nhẫn nhục Balamật, Trí huệ Balamật để đạt được trạng thái siêu thốt giải thốt cho mình và mọi người khỏi nỗi khổ do dục vọng của con người gây ra. Những chuẩn mực này thể hiện lịng từ bi hỷ xả, thương xĩt đồng loại và cả chúng sinh. Những trường phái tư tưởng đạo đức này cĩ những hạn chế nhất định như khơng thể lý giải được nguồn gốc, bản chất, những quy luật hình thành, phát sinh, phát triển của đạo đức và mang tính thốt tục, xa rời hiện thực; nhưng nhìn chung, đĩ là những tư tưởng cĩ giá trị lịch sử to lớn, cĩ ảnh hưởng tích cực giúp con người xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Tư tưởng đạo đức phương Tây thể hiện trong tư tưởng của các nhà triết học, đạo đức học từ thời cổ đại đến hiện đại với nhiều quan điểm khác nhau mang hơi thở cuộc sống giúp con người ngày càng hiểu rõ hơn nguồn gốc, bản chất và những yêu cầu của đạo đức. Trong thời kỳ cổ đại, tư tưởng đạo đức nổi bật nhất là quan điểm của Socrate và Aristote. Theo Socrate, cái thiện phổ biến (cái chung) là cơ sở của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức hạnh. Muốn tuân theo cái thiện phổ biến thì
  22. 16 phải nắm bắt được nĩ, hiểu nĩ. Ơng cho rằng đạo đức và tri thức của con người thống nhất là một. Ơng tuyệt đối hĩa vai trị tri thức đối với đạo đức khi khẳng định: mọi hành vi vơ đạo đức đều là kết quả của sự dốt nát, kém hiểu biết, con người biết thế nào là tốt thì anh ta khơng bao giờ làm điều xấu. Aristote là người đầu tiên tiếp cận tới bản chất của đạo đức. Ơng quan niệm đức tính của con người là hoạt động thực tiễn cĩ ích cho xã hội của chính bản thân con người do rèn luyện mà cĩ chứ khơng phải là bẩm sinh. Ơng cũng đề cập đến vấn đề động cơ của hành động đạo đức, hành động đạo đức phải là hành động tự nguyện và được lựa chọn một cách tự do. Tư tưởng Tây Âu trung cổ chủ yếu là đạo đức Cơ Đốc giáo và Thiên Chúa giáo. Tư tưởng này tuyên bố rằng mọi người đều bình đẳng và bác ái là nguyên tắc chủ yếu của đạo đức. Tuy nhiên, sự bình đẳng đĩ chỉ là sự bình đẳng trước Chúa khơng phải là trong hiện thực; bác ái là lịng yêu thương tất cả mọi người khơng phân biệt kẻ bĩc lột và người bị bĩc lột, kẻ thù và bạn; lịng yêu thương mang trong nĩ sự nhịn nhục, khuất phục. Để chống đạo đức khổ hạnh của Thiên Chúa giáo Tây Âu trung cổ, khơi phục và phát triển những tư tưởng đạo đức nhân đạo và tiến bộ trong thời cổ đại, tư tưởng đạo đức học Tây Âu thời kỳ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII với những nhà tư tưởng như Rabelais, Spinoza, Helvétius, Hegel, Feuerbach, đã bàn về đạo đức trần thế chống lại đạo đức thần học; bàn về mối quan hệ tự do và tất yếu, tự do và hạnh phúc; hạnh phúc của mỗi cá nhân chỉ cĩ thể đạt được bằng con đường kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, Họ cho rằng con người khơng phải sinh ra là đã cĩ đạo đức mà đạo đức nảy sinh từ tác động của mơi trường xã hội, trước hết là chính trị và pháp luật. Tuy nhiên, những tư tưởng này vẫn chứa đựng những sai lầm, mâu thuẫn do quan điểm duy tâm về xã hội của các nhà tư tưởng thời kỳ này. Khắc phục những sai lầm và mâu thuẫn đĩ C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã nghiên cứu vấn đề nguốn gốc, bản chất, vai trị của đạo đức
  23. 17 trong đời sống xã hội, vạch ra mối quan hệ giữa đạo đức và cơ sở kinh tế của nĩ, phân tích những quan hệ đạo đức trong xã hội tư bản chủ nghĩa, sự tha hĩa con người trong xã hội đĩ và chủ trương xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa làm nền tảng hình thành và phát triển đạo đức cao đẹp - đạo đức cộng sản. V.I.Lênin đã nêu giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nĩ phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người.: "Đạo đức giúp cho xã hội lồi người tiến lên trình độ cao hơn, thốt khỏi ách bĩc lột lao động" [63, 356] và chỉ ra đạo đức cộng sản là "những gì gĩp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bĩc lột và gĩp phần đồn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vơ sản đang sáng tạo ra xã hội mới, cộng sản chủ nghĩa"[63, 354]. Nĩi đến tư tưởng đạo đức của nhân loại khơng thể khơng nhắc đến tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và những tinh hoa văn hĩa, đạo đức của nhân loại, trên cơ sở truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam. Đĩ là là một hệ thống các quan điểm về vai trị của đạo đức; những phẩm chất đạo đức cơ bản, đạo đức cách mạng và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới. Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là nguồn nuơi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sơng suối. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu thương con người, sống cĩ nghĩa, cĩ tình. Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức, bĩc lột. Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm. Yêu thương
  24. 18 con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phĩng con người. Những phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Cần, kiệm, liêm, chính cĩ quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí cơng vơ tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư. Ngược lại, đã chí cơng vơ tư, một lịng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng những phẩm chất khác như trung với nước, hiếu với dân, tinh thần quốc tế trong sáng, đồn kết với nhân dân lao động, với những người vơ sản thế giới vì mục tiêu chung là đấu tranh giải phĩng con người khỏi ách áp bức, bĩc lột. Ngồi ra, Hồ Chí Minh cịn nêu những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới như: nĩi đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức, xây đi đơi với chống, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nĩ do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh hết sức cụ thể, gần gũi với mỗi người qua những lời dặn dị về những chuẩn mực đạo đức cụ thể cho từng đối tượng, từ cán bộ, đảng viên, nơng dân, trí thức, cơng an, bộ đội, cho đến văn nghệ sĩ, nhà báo, thanh niên, thiếu niên. Hơn nữa, khơng chỉ nêu những yêu cầu về đạo đức mà bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức, suốt đời khơng mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Những tư tưởng đạo đức cơ bản trong lịch sử tư tưởng của nhân loại cho thấy học thuyết đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin là hồn tồn đúng đắn khi gắn quan hệ đạo đức với đời sống hiện thực của con người, với các
  25. 19 phương thức sản xuất. Đạo đức cĩ tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau, nhưng xã hội vẫn giữ lại những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng chung. Tính kế thừa của đạo đức phản ánh những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kỳ cộng đồng người nào. Đĩ là những yêu cầu đạo đức liên quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với người. Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội và biểu dương cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn Nhưng những quan niệm về điều thiện, điều ác khơng phải nhất thành bất biến mà thay đổi trong tiến trình phát triển của xã hội lồi người. Về cơ bản, tương ứng với mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một hình thái đạo đức nhất định. Về khái niệm đạo đức, ở phương Đơng, theo các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại, đạo cĩ nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã hội. Đức dùng để nĩi đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Theo đĩ, đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo. Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris, nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức cịn cĩ gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos, cũng cĩ nghĩa là thĩi quen, tập quán. Như vậy, theo phần gốc của khái niệm khi nĩi đến đạo đức là nĩi đến những thĩi quen, tập quán hoạt động và ứng xử của con người trong cộng đồng, trong xã hội. Nhà nghiên cứu đạo đức học nổi tiếng người Nga là G.Bandzeladze, trên lập trường duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu quan niệm: "Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện, tự giác của con người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nĩi chung" [6,104].
  26. 20 Theo từ điển Triết học, “Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Trong đạo đức, sự cần thiết xã hội, những nhu cầu lợi ích của xã hội, hoặc của các giai cấp biểu hiện dưới những hình thức, những quy định và những sự đánh giá đã được mọi người thừa nhận và đã thành hình một các tự phát, được củng cố bằng sức mạnh của tấm gương của quần chúng, của thĩi quen, phong tục, dư luận xã hội ” [123, 156-157] Như vậy, theo quan điểm Mácxít, đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội, nĩ phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống. Đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. Trước C.Mác và Ph.Ăngghen, các nhà triết học nhìn chung đều chưa đưa ra được những quan niệm hồn tồn đúng đắn và khoa học về vấn đề xã hội và đạo đức của con người. Họ đi tìm nguồn gốc của đạo đức ngay chính bản tính của con người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngồi con người, bên ngồi xã hội. Khác với các quan niệm đĩ, C.Mác và Ph.Ăngghen quan niệm đạo đức nảy sinh từ nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Sự hình thành, phát triển, hồn thiện bản chất xã hội của đạo đức được quy định bởi trình độ phát triển và hồn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con người. Những nguyên tắc, những chuẩn mực đạo đức chỉ phù hợp với từng giai đoạn phát triển xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Chẳng hạn, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, hoạt động thực tiễn xã hội hết sức thấp kém, trong tình trạng lạc hậu về kinh tế, bộ lạc khơng thể nào nuơi sống những thành viên mất khả năng lao động và mất khả năng chiến đấu - những người già và người ốm. Trong trường hợp đĩ, những người con tự tay mình kết liễu đời sống của những người bố, mẹ mất khả năng lao động được coi là hồn tồn chính đáng và hợp đạo đức. Nhưng trong các hình thái kinh tế - xã hội sau này, khi kinh tế phát triển thì hành
  27. 21 động trên là một hành động vơ đạo đức, là bất hiếu. Như vậy, đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan, là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Cùng với sự phát triển điều kiện kinh tế xã hội, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức sẽ ngày càng hồn thiện thích ứng với sự tiến bộ của xã hội lồi người. Đạo đức được thể hiện bởi các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức. Các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức này phản ánh yêu cầu của xã hội. Các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức được xác định dựa trên một hệ thống các giá trị được xã hội thừa nhận. Nĩ là cơ sở để con người điều chỉnh hành vi và đánh giá con người. Nĩ khơng nhất thành, bất biến mà nĩ ra đời, tồn tại và biến đổi theo nhu cầu xã hội. Đặc trưng quan trọng của đạo đức là năng lực ý thức và hành động tự nguyện, tự giác của con người vì cái thiện, vì lợi ích và hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội. Theo G.Bandzeladze: “Đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và xã hội Nơi nào khơng cĩ hoạt động tự nguyện, tự giác của con người thì nơi ấy khơng thể cĩ nhân phẩm, khơng thể thực sự cĩ đời sống xã hội. Đặc trưng của đời sống con người và của bản thân tính người hoặc nhân phẩm là ở đạo đức và nội dung của đạo đức chính là năng lực phục vụ một cách tự giác lợi ích của người khác và của tồn xã hội.” [7, 48-49]. Tính tự giác của đạo đức thể hiện ở sự quan tâm của con người đến người khác, đến xã hội. Tất nhiên sự quan tâm một cách tự giác đĩ vẫn chứa đựng sự quan tâm đến bản thân mình, bởi vì, người nào đem lại hạnh phúc cho người khác nhất thì đĩ là người hạnh phúc nhất, người ấy khơng đánh mất cái "tơi" của mình mà tìm thấy bản thân mình trong quan hệ với người khác. Sự tự giác, tự nguyện là một trong những cơ sở của tự do. Ph.Ăngghen khẳng định: “Người ta khơng thể bàn về đạo đức và pháp quyền mà lại khơng nĩi đến vấn đề gọi là tự do ý chí, lương tri của con người, quan hệ giữa tất yếu và tự do” [71, 162]. Tính tự do của đạo đức
  28. 22 thể hiện ở sự tự do lựa chọn hành vi đạo đức, sự chủ động quyết định hành vi đạo đức. Sự tự do lựa chọn hành vi đạo đức khơng phải là tự do lựa chọn một cách tùy tiện mà là năng lực phân biệt và lựa chọn hành vi đạo đức đạt được trên cơ sở nhận thức tính tất yếu khách quan trong lĩnh vực đạo đức. Người ta chỉ cĩ thể đạt được sự tự do của đạo đức khi cĩ nhận thức sâu sắc nội dung, ý nghĩa của những yêu cầu, quy phạm đạo đức xã hội, biến nĩ thành nhu cầu đạo đức nội tại, thành chuẩn mực hành vi mà cá nhân tự giác, tự nguyện tuân thủ. Đạo đức cĩ các chức năng: chức năng nhận thức, chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục. Chức năng nhận thức của đạo đức bao gồm nhận thức và tự nhận thức, bởi vì nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng nội vừa hướng ngoại. Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống đạo đức xã hội làm đối tượng, là quá trình cá nhân đánh giá, tiếp thu hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội. Tự nhận thức là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi đạo đức của mình với chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Bằng hai quá trình nhận thức ấy con người đi đến sự nhận biết, phân biệt những giá trị: đúng sai, tốt xấu, thiện ác, hướng tới giá trị bao quát đĩ là cái chân, thiện, mỹ. Từ nhận thức này mà chủ thể hình thành và phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống của mình. Lồi người cĩ nhiều phương thức để điều chỉnh hành vi như: đạo đức, chính trị, pháp luật, Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia bằng các biện pháp như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực Pháp quyền điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng bằng biện pháp đặc trưng là ngăn cấm, cưỡng bức bằng pháp luật. Đạo đức điều chỉnh hành vi của con người bằng lương tâm và dư luận xã hội. Đối tượng điều chỉnh của đạo đức là hành vi cá nhân qua đĩ điều chỉnh quan hệ cá
  29. 23 nhân với cộng đồng. Mục đích điều chỉnh hành vi của đạo đức nhằm đảm bảo hài hịa quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân. Cách thức điều chỉnh của đạo đức được biểu hiện qua sự lựa chọn giá trị đạo đức; xác định phương án cho hành vi bởi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm đạo đức, kiểm sốt, uốn nắn hành vi bởi lương tâm và dư luận xã hội. Hành vi đạo đức của con người cĩ tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội rất rõ rệt. Những hành vi vi phạm đạo đức của mỗi cơng dân trong xã hội đều gây một tác hại nhất định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những hành vi lừa đảo, chụp giật hoặc kinh doanh theo kiểu "ăn xổi ở thì", làm mất chữừ tín; những hành vi trộm cắp, tham ơ, tham nhũng.v.v gây tác hại trực tiếp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Và ngược lại những hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức như những hành vi trung thực, cần cù, chăm chỉ, những việc làm từ thiện vì lợi ích của tập thể, của cộng đồng sẽ tạo ra những giá trị kinh tế - xã hội to lớn thúc đẩy xã hội phát triển. Chức năng giáo dục của đạo đức bao hàm cả giáo dục và tự giáo dục. Chức năng giáo dục của đạo đức là để hình thành những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho con người; nĩ cịn giúp cho con người cĩ khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã hội; từ đĩ con người tự điều chỉnh hành vi của mình để khơng ngừng hồn thiện. Chức năng giáo dục đĩng vai trị rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Đạo đức khơng chỉ đĩng vai trị điều chỉnh ý thức và hành vi của con người mà cịn cĩ tác dụng cảm hĩa con người, giúp con người nhận thức và hoạt động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Các chức năng của đạo đức qui định vai trị to lớn của đạo đức trong việc duy trì trật tự, bình ổn và phát triển xã hội. Xã hội càng phát triển, càng văn minh thì đạo đức càng đĩng vai trị quan trọng; thậm chí nĩ cĩ thể nắm vai trị điều khiển xã hội, thay thế chức năng quản lý của con người bằng pháp luật khi xã hội đạt đến trình độ văn minh cao.
  30. 24 Từ phân tích trên, cĩ thể diễn đạt khái niệm đạo đức như sau: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm một hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đĩ con người tự giác đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình trong các quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ xã hội. 1.1.2. Cấu trúc của đạo đức và quan hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc của đạo đức Để hiểu rõ về một đối tượng nào đĩ, bên cạnh việc tìm hiểu đặc trưng cơ bản, chúng ta phải chỉ ra cấu trúc và quan hệ giữa các yếu tố cấu thành đối tượng đĩ, từ đĩ rút ra quy luật hình thành, tồn tại và phát triển của nĩ. Để hiểu một cách sâu sắc về đạo đức, cùng với việc tìm hiểu đặc trưng cơ bản của nĩ, ta phải phân tích cấu trúc của đạo đức, quan hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc của đạo đức, từ đĩ cĩ cơ sở khoa học để xem xét đời sống đạo đức xã hội một cách tồn diện. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu cấu trúc đạo đức chủ yếu nêu các yếu tố cấu thành đạo đức mà chưa đi sâu phân tích quan hệ giữa các yếu tố này. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần phân tích sâu sắc hơn quan hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc của đạo đức, từ đĩ rút ra ý nghĩa phương pháp luận định hướng cho cơng tác giáo dục đạo đức. Khi bàn về cấu trúc của đạo đức cĩ nhiều quan điểm khác nhau. Theo G.Banzelladze, đạo đức cĩ những yếu tố như hành vi đạo đức, ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức, lý tưởng đạo đức, ý chí, nghị lực. Trong giáo trình đạo đức học của Khoa Triết học - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì phân tích cấu trúc của đạo đức theo nhiều cách tiếp cận khác nhau, mỗi cách tiếp cận cho phép chúng ta nhìn ra lớp cấu trúc xác định: “nếu xét đạo đức theo mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động, hệ thống đạo đức hợp thành từ hai yếu tố là ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nếu xét trong mối quan hệ giữa người và người sẽ thấy quan hệ đạo đức. Nếu xét theo quan điểm về mối quan
  31. 25 hệ giữa cái chung và cái riêng thì đạo đức được tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân” [49,11]. Trong giáo trình đạo đức học của Trần Hậu Kiêm nêu: “Đối tượng nghiên cứu của đạo đức học là tồn bộ nền đạo đức xã hội, trong đĩ tập trung ở ba vấn đề lớn sau đây: quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức, hành vi đạo đức” [59, 59]. Trong cuốn Đạo đức học - Những nội dung cơ bản của Nguyễn Văn Đại nêu rõ: “nếu xét đời sống đạo đức với tính cách là một hệ thống, thể hiện qua ba phương diện: ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức” [20, 21]. Tìm hiểu các yếu tố cấu thành đạo đức và quan hệ giữa các yếu tố của đạo đức trong đời sống đạo đức xã hội; trên cơ sở đĩ vạch ra ý nghĩa phương pháp luận quay trở lại gĩp phần định hướng phát triển đời sống đạo đức, vì vậy, đề tài phân tích cấu trúc của đạo đức với tính cách là một hệ thống bao gồm các yếu tố cơ bản là ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức. Về ý thức đạo đức: “Ý thức đạo đức là ý thức về hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại, Mặt khác, nĩ cịn bao hàm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người ”[49, 11]. Ý thức đạo đức trước hết là một hình thái ý thức xã hội giống với những hình thái ý thức xã hội khác, đều phản ánh tồn tại xã hội, được hình thành trong thực tiễn lao động xã hội. Ý thức đạo đức khác với các hình thái ý thức xã hội khác là các chuẩn mực của ý thức đạo đức hình thành và tác động trực tiếp trong thực tiễn do hành vi và đến hành vi của những con người bình thường, những tập đồn người to lớn trong xã hội chứ khơng phải do một nhĩm người quy định, soạn thảo. Do đặc tính hình thành mang tính tự phát và qua thời gian dài trong những điều kiện lịch sử nhất định, chúng cĩ khả năng được chấp nhận một cách tự nguyện cao. Ý thức đạo đức là chức năng của tư duy, nhờ năng lực này con người biết hành vi nào là tốt, đáng
  32. 26 khen ngợi, hành vi nào là xấu, đáng xấu hổ, là năng lực phân biệt cái tốt, cái xấu, điều thiện, điều ác, biết mình phải làm gì, đồng thời dự đốn kết quả cĩ thể đạt được của hành vi cĩ phù hợp với nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khơng. Cần phân biệt ý thức đạo đức với việc thuộc lịng một cách hình thức những chuẩn mực đạo đức. Ý thức đạo đức thể hiện nhận thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những nguyên tắc đạo đức xã hội đặt ra; nĩ giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hồn thành tự giác, tự nguyện những nghĩa vụ đạo đức. Về cấu trúc của ý thức đạo đức cĩ nhiều quan điểm khác nhau. Cĩ quan điểm cho rằng "ý thức đạo đức gồm hệ thống tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức, tình cảm và lý tưởng đạo đức" [11, 445], quan điểm khác lại cho rằng "ý thức đạo đức (về cấu trúc) gồm tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức và ý chí đạo đức" [49, 12]. Một số quan điểm gần đây khẳng định rằng ý thức đạo đức phản ánh tồn tại xã hội ở hai cấp độ: cấp độ cảm tính và cấp độ lý tính. Ở cấp độ cảm tính, ý thức đạo đức bao gồm nhu cầu đạo đức, tình cảm đạo đức, ý chí đạo đức. Ở cấp độ lý tính, ý thức đạo đức bao gồm tri thức đạo đức, và lý tưởng đạo đức. Tuy nhiên, sự phân chia cấp độ như vậy chỉ cĩ tính tương đối vì xét riêng tri thức đạo đức cũng tồn tại ở hai cấp độ tri thức cảm tính và tri thức lý tính, bởi vì tri thức là sự hiểu biết của con người, sự hiểu biết, sự nhận thức của con người về đối tượng cĩ thể ở trình độ cảm tính hoặc lý tính, trình độ thơng thường hay lý luận. Khi nêu cấu trúc đạo đức, đề tài khơng phân chia những yếu tố cấu thành theo cấp độ. Đề tài phân tích cấu trúc của ý thức đạo đức như một chỉnh thể gồm nhiều yếu tố, trong đĩ cĩ những yếu tố sau: tình cảm đạo đức, tri thức đạo đức, lý tưởng đạo đức, ý chí đạo đức. “Tình cảm đạo đức là xu hướng vươn đến cái thiện” [6, 189], là thái độ của con người về hệ thống yêu cầu đạo đức, là cảm xúc của cá nhân đối với
  33. 27 hành vi của người khác, và với hành vi của mình trong quá trình quan hệ giữa cá nhân với người khác và với xã hội. Tình cảm đạo đức được biểu hiện bằng nhiều trạng thái tình cảm như như cắn rứt, xấu hổ, hối hận, yêu thương, cảm động, thơng cảm, sung sướng, đau khổ, tơn kính, hãnh diện khi đánh giá về mặt đạo đức và khi thực hiện hay khơng thực hiện hành vi đạo đức nào đĩ. Theo Vladimir Solovier - nhà triết học Nga, danh nhân văn hĩa - đã nêu trong quyển “Triết học đạo đức” thì “những tình cảm cơ bản xấu hổ, thương mến và tơn kính bao quát tồn bộ lĩnh vực những quan hệ đạo đức cĩ thể cĩ của con người với cái thấp hơn nĩ, cái ngang bằng nĩ và cái cao hơn nĩ.” [101, 73]. Theo đĩ, cảm giác xấu hổ, hổ thẹn trước những dục vọng thấp hèn của bản thân khơng chỉ là dấu hiệu phân biệt, tách rời con người khỏi thế giới động vật mà cịn nâng con người khỏi sự thấp hèn, vươn tới cái cao cả. Tình thương hay lịng trắc ẩn là sự cảm giác được nỗi đau hay nhu cầu của người khác. Nếu con người khơng biết xấu hổ, khơng cĩ tình thương thì sẽ rơi xuống trình độ thấp hơn thú vật. Tình cảm tơn kính là sự ngưỡng mộ cái cao hơn để con người vươn tới cái tốt đẹp hơn. Nếu khơng cịn những tình cảm này con người khơng thể cĩ đạo đức, hay nĩi khác hơn con người khơng cịn là con người đúng nghĩa của nĩ. Khi xem xét một cách cụ thể tình cảm đạo đức với tính cách là những tình cảm làm động cơ cho hành vi đạo đức cĩ thể nhận thấy những loại tình cảm đạo đức như tình cảm nghĩa vụ, tình cảm trách nhiệm, tình cảm lương tâm Tình cảm nghĩa vụ, tình cảm trách nhiệm là cảm xúc nảy sinh trong quá trình con người thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với người khác, bạn bè, đồng chí, gia đình, tập thể, xã hội. Nĩ biểu hiện thành các trạng thái tâm lý như vui mừng, lo âu khi nhận và thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm cá nhân; buồn bã, thất vọng khi khơng hồn thành nhiệm vụ; hay sung sướng, khoan khối, tự hào khi hồn thành trách nhiệm. Chính tình cảm đạo đức này
  34. 28 sẽ thơi thúc con người hồn thành nghĩa vụ, trách nhiệm của mình tốt nhất. Tình cảm lương tâm là cảm xúc nảy sinh khi chủ thể tự đánh giá về suy nghĩ và hành vi của mình. Nĩ thường trực trong quá trình con người suy nghĩ trước khi hành động, trong khi hành động và sau khi hành động. Theo Banzelladze, “đặc trưng của tình cảm lương tâm là sự tự đánh giá hành vi của mình” [7, 6]. Nhưng theo A.F.Shishkin, “Con người cảm thấy sự cắn rứt của lương tâm khơng những với những hành động khơng phù hợp với đạo đức mà cả với những dụng ý khơng tốt, chúng thường khơng biến thành hành động vì lương tâm ngăn cản” [7, 7]. Điều đĩ cĩ nghĩa là, tình cảm lương tâm khơng chỉ thể hiện khi đánh giá hành vi như quan điểm của G.Banzelladze mà nĩ cịn thể hiện khi đánh giá dụng ý, suy nghĩ trước khi thực hiện hành vi, nhờ sự đánh giá này mà sự cắn rứt của lương tâm giúp ngăn chặn hành vi sai trái. Tình cảm lương tâm được biểu hiện bằng nhiều trạng thái như cắn rứt, xấu hổ hay hãnh diện, buồn phiền hay thanh thản về mặt tinh thần. Nhà đạo đức học Banzelladze đã nhận xét: “Con người là sinh thể biết xúc động và khoa học dù phát triển đến đâu đi nữa, con người vẫn khơng bị tư tưởng “lạnh lùng”, và kỹ thuật “vơ hồn” cầm tù. Tư tưởng và cảm xúc chân lý và cái đẹp mãi mãi sẽ đi với nhau, tay trong tay soi đường và mở lối cho cái thiện như là giá trị cao nhất” [6, 197]. Quan điểm trên cho thấy, tình cảm đạo đức hình thành rất sớm và tồn tại cùng với sự tồn tại của lồi người, nĩ là nhu cầu về tình cảm vốn cĩ của con người trong quá trình tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Tình cảm đạo đức giúp con người đánh giá các hiện tượng đạo đức và là động lực thực hiện hành vi đạo đức phù hợp trong từng mối quan hệ xã hội nhất định. Tình cảm đạo đức là một yếu tố căn bản, quan trọng của ý thức đạo đức, nếu khơng cĩ tình cảm đạo đức con người sẽ khơng biết đánh giá các hiện tượng đạo đức và khơng cĩ nhu cầu thực hiện hành vi đạo đức và do vậy họ thờ ơ trước cái thiện, vơ cảm trước cái ác, thành những kẻ bất lương, vơ đạo đức.
  35. 29 Tri thức đạo đức là hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức và sự hiểu biết của con người về hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức đĩ; nĩ xác định rành mạch những giới hạn cho hành vi của con người, xác định giá trị đạo đức của hành vi. Hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức là sự địi hỏi của xã hội đối với hành vi của con người, sự địi hỏi này cĩ thể ở dạng ngăn cấm, hoặc ở dạng khuyến khích (hay ràng buộc). Chuẩn mực khuyến khích (chuẩn mực ràng buộc) là những chuẩn mực khuyên con người hãy làm những việc tốt như lịch sự trong giao tiếp, giúp đỡ người khác khi gặp hoạn nạn, khĩ khăn, hi sinh quên mình vì lợi ích của tập thể, của dân tộc. Chuẩn mực ngăn cấm là những chuẩn mực khuyên người ta khơng được làm những điều xấu xa, độc ác, phi nhân, bất nghĩa, trái với luân thường, đạo lý. Trong hai dạng này, chuẩn mực khuyến khích thể hiện sự địi hỏi cao, cịn chuẩn mực ngăn cấm là sự địi hỏi thấp, hay cụ thể là “làm hành động tốt với giá trị tích cực của nĩ cao hơn là khước từ khơng làm hành động xấu” [6, 94]. Tri thức đạo đức phản ánh tồn tại xã hội ở những trình độ khác nhau. Ở trình độ nhận thức thơng thường, tri thức đạo đức mang tính kinh nghiệm, là những tri thức về thiện, ác được rút ra trong quá trình giao tiếp, quan hệ xã hội, kinh nghiệm sống để xử sự và đánh giá hành vi. Ở trình độ nhận thức lý luận, tri thức đạo đức được khái quát hĩa, trừu tượng hĩa hình thành hệ thống phạm trù, khái niệm và chuẩn mực đánh giá. Tri thức đạo đức ở trình độ lý luận phản ánh đời sống đạo đức một cách tồn diện, sâu sắc hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển và hồn thiện đạo đức trên phạm vi tồn xã hội, thậm chí đối với nhiều dân tộc trong một giai đoạn lâu dài. Chẳng hạn, khi trả lời câu hỏi “thiện” là gì? Ở trình độ tri thức đạo đức thơng thường, người ta cho rằng thiện thể hiện ở hành vi giúp đỡ người khác, yêu thương người khác mà khơng đưa ra được khái niệm và các tính chất, tiêu chuẩn đánh giá, phân biệt thiện - ác một cách tồn diện. Ở trình độ lý luận, các học thuyết đưa ra khái
  36. 30 niệm, nêu rõ tính chất và tiêu chuẩn phân biệt thiện - ác. Đạo đức học Mác - Lênin khẳng định, thiện là “Lợi ích của con người phù hợp với tiến bộ xã hội. Thiện cũng là những hoạt động phấn đấu hy sinh vì con người, làm cho con người ngày càng sung sướng hơn, tự do hơn.” [49, 141], và nêu tính chất lịch sử, tính chất giai cấp, tính chất dân tộc của phạm trù thiện. Thiện cũng khơng đơn thuần chỉ đánh giá qua hành vi như quan điểm thơng thường mà nĩ là sự thống nhất của động cơ, phương tiện và kết quả của hành động. Vậy, tri thức đạo đức ở trình độ lý luận giúp con người nhận thức bản chất của hành vi đạo đức và cĩ căn cứ khoa học để đánh giá đúng đắn hơn về hành vi cũng như về con người. Tuy nhiên, tri thức đạo đức ở trình độ thơng thường cĩ vai trị khơng kém phần quan trọng so với tri thức đạo đức ở trình độ lý luận vì nĩ là cơ sở của tri thức đạo đức ở trình độ lý luận. Đồng thời, nĩ cĩ vai trị hết sức to lớn trong đời sống xã hội bởi vì nĩ cĩ sức lan tỏa rộng và chi phối hành vi của con người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ nhận thức khác nhau. Từ đĩ, chúng ta phân biệt tri thức đạo đức học với tri thức đạo đức. Tri thức đạo đức học chỉ là một bộ phận của tri thức đạo đức, cụ thể hơn, nĩ là một thành tố của tri thức đạo đức ở trình độ lý luận, là hệ thống những khái niệm, phạm trù, chuẩn mực, quy tắc. Socrate, người đặt nền mĩng cho đạo đức học, là người đầu tiên chú ý đến vấn đề này. Socrate khẳng định rằng tri thức và sự "hiền minh" là cơ sở của điều thiện và đức hạnh. Khác với việc thuộc lịng một cách hình thức các chuẩn mực đạo đức, sự "hiền minh", tri thức đạo đức bao hàm cả sự trải nghiệm của con người, sự hiểu biết ý nghĩa của các chuẩn mực này. Tri thức càng phong phú, càng sâu sắc thì năng lực phân biệt thiện ác, đúng sai càng cao, sự lựa chọn hành vi càng cĩ tính nhân văn hơn. Lý tưởng đạo đức là yếu tố cấu thành cĩ tính chất đặc biệt của ý thức đạo đức bởi vì trong yếu tố này cĩ cả tình cảm đạo đức, nhận thức về chuẩn mực đạo đức, niềm tin đạo đức khi lựa chọn những chuẩn mực nhất định để
  37. 31 xây dựng cho mình lý tưởng đạo đức riêng. Trong đĩ, yếu tố tình cảm đạo đức và tri thức đạo đức là điều kiện cần, cịn niềm tin đạo đức là điều kiện đủ để hình thành lý tưởng đạo đức. Niềm tin đạo đức là sự tin tưởng một cách sâu sắc và vững chắc của con người vào tính chính nghĩa và tính chân lý của các chuẩn mực đạo đức và sự thừa nhận tính tất yếu phải tơn trọng chuẩn mực ấy. Lý tưởng là sự phản ánh hiện thực, khái quát từ hiện thực nhưng cao hơn hiện thực, là sự thăng hoa của hiện thực. Lý tưởng vừa cĩ tính lãng mạn vừa cĩ tính hiện thực. Lãng mạn bởi nĩ là mục tiêu cao nhất, đẹp nhất, mà con người ước mơ, phấn đấu vươn tới, đĩ là hình ảnh tương lai trong cuộc sống hơm nay. Hiện thực bởi con người đi tới mục tiêu cao cả của mình phải từ những bước đi cụ thể ban đầu. Lý tưởng phải được biểu hiện bằng những nội dung cụ thể, qua cái cụ thể đĩ mà con người đi tới mục tiêu cao cả của mình. Khơng hiểu rõ bản chất của lý tưởng con người dễ rơi vào hai khuynh hướng sai lầm: hoặc chỉ thấy lý tưởng suơng, xa vời, thốt ly hiện thực cuộc sống hoặc chỉ thấy cái trước mắt, lợi ích trước mắt mà khơng thấy cái lâu dài, lợi ích lâu dài từ đĩ sa vào mục đích sống tầm thường. Từ đĩ cĩ thể khái quát, lý tưởng đạo đức là niềm tin, là quan niệm của con người về sự hồn thiện đạo đức, thường biểu hiện dưới dạng hệ chuẩn mực đạo đức của xã hội, của dân tộc, của giai cấp, của cá nhân hay dưới dạng hình tượng một mẫu người cĩ những phẩm chất đạo đức hồn thiện nhất cho con người noi theo, hay nĩi cách khác là nhân cách lý tưởng, là khuơn mẫu, tiêu chuẩn làm người mà người ta kỳ vọng đạt tới. Lý tưởng đạo đức khơng phải là nhân cách trừu tượng tuỳ ý nghĩ ra mà nĩ liên hệ mật thiết với điều kiện lịch sử, xã hội nhất định, là sự thể hiện tinh thần thời đại và ý chí của một giai cấp nhất định. Lý tưởng đạo đức định hướng, điều chỉnh những nhu cầu khác nhau của mỗi con người và quyết định phương hướng, mục đích hoạt động của con người. Để thực hiện được hành vi đạo đức, theo đuổi lý tưởng đạo đức khơng chỉ cần tình cảm đạo đức, tri thức đạo đức mà cịn cần phải cĩ ý chí đạo đức.
  38. 32 Theo Hegel đạo đức gồm 3 yếu tố: tri thức, ý chí, sức mạnh của ý chí - nghị lực. Điều đĩ cho thấy ơng rất chú trọng yếu tố ý chí trong cấu trúc của đạo đức, đạo đức khơng đơn thuần chỉ cĩ yếu tố trí tuệ, tình cảm mà cần cả sức mạnh của ý chí để thúc đẩy con người hành động. Ý chí là "chí hướng tự giác của con người nhằm thực hiện những hành vi nào đĩ" [123, 709]. Ý chí thể hiện ở tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đốn, tính kiên trì, tính tự chủ để khắc phục những trở ngại bên trong hay bên ngồi để đạt tới mục đích. Ý chí là điều kiện thúc đẩy con người hành động để đạt mục đích nhưng nĩ chưa xác định tính chất của hành động này. Ý chí cĩ tính chất tích cực, định hướng, thúc đẩy con người hành động theo tình cảm đạo đức, những chuẩn mực đạo đức xã hội là ý chí đạo đức. Từ đĩ cĩ thể hiểu, ý chí đạo đức là năng lực xác định mục đích hướng thiện cao cả cho hành động và hướng hành động của mình khắc phục những khĩ khăn nhằm đạt được mục đích đĩ. Nĩ thể hiện niềm tin và sự quyết tâm giúp con người vượt qua giới hạn động vật, bản năng sinh lý tầm thường của bản thân mình, vượt qua mọi thử thách của hồn cảnh để giữ gìn nhân phẩm và danh dự. Nghị lực chính là sức mạnh của ý chí, là năng lực phục tùng ý thức đạo đức của con người. Theo A.F.Shiskin trong nguyên lý đạo đức mácxit thì nghị lực thường bộc lộ trong sự khắc phục những khĩ khăn và trở ngại trên con đường đi tới mục đích đã được đặt ra. Khơng cĩ nghị lực con người khơng thể nào vượt lên trên con vật và những hành động của nĩ bao giờ cũng bị quy định bởi những nhu cầu và dục vọng bản thân. Một người nhu nhược khơng thể là một người cao thượng và cĩ đạo đức. Nghị lực giúp con người bắt những nhu cầu, ham mê và tình cảm của mình phục tùng tình cảm nghĩa vụ và tri thức đạo đức để thực hiện hành vi đạo đức. Như vậy, ý thức đạo đức, về mặt cấu trúc, gồm tình cảm đạo đức, tri thức đạo đức, lý tưởng đạo đức, ý chí đạo đức. Trong đĩ, tình cảm thể hiện
  39. 33 cảm xúc của con người trước hiện tượng đạo đức, tri thức đạo đức giúp con người lựa chọn cái gì nên làm và cái gì khơng nên làm; lý tưởng đạo đức quyết định phương hướng, mục đích hoạt động của con người và ý chí đạo đức là sức mạnh tinh thần giúp con người vượt qua khĩ khăn, trở ngại để thực hiện hành vi đạo đức. Về hành vi đạo đức: Hành vi đạo đức là “một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ cĩ ý nghĩa về mặt đạo đức” [50, 157], là ý thức được vật chất hĩa, là sự phục tùng tự nguyện ý thức đạo đức [6, 48]. Cụ thể hơn, hành vi đạo đức là những cử chỉ, những việc làm của con người trong các mối quan hệ xã hội phù hợp với ý thức đạo đức, với các chuẩn mực và các giá trị đạo đức. Để phân biệt một hành vi nào đĩ cĩ phải là hành vi đạo đức hay khơng, khơng chỉ căn cứ vào kết quả của hành vi mà cịn phải căn cứ vào động cơ của hành vi. Kết quả của hành vi là yếu tố khách quan, cĩ nội dung thực tại, cụ thể, ngược lại, động cơ của hành vi là yếu tố chủ quan, thường khơng thể hiện ra một cách thực tại và trực quan. Theo G.Banzelladze, hành vi đạo đức phải xuất phát từ động cơ vơ tư khơng vị kỷ, bởi sự đồng cảm, thơng cảm và lịng nhân đạo. Động cơ phục tùng dư luận xã hội cũng khơng phải là động cơ đạo đức, động cơ duy nhất của việc thiện chỉ cĩ thể là lịng thơng cảm, đồng cảm, quan tâm đến người khác, khơng vụ lợi chứ khơng phải ở ý muốn được phần thưởng tinh thần hoặc vật chất. Do đĩ, khi con người “bất đắc dĩ” làm việc thiện, hoặc tự kiềm chế khơng làm việc ác thì hành vi của họ khơng phải là hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức phải cĩ nguyên nhân vì lợi ích của người khác, của xã hội và mục đích cũng là mang lại lợi ích cho người khác, cho xã hội. Tuy nhiên, hành vi đạo đức vì lợi ích của người khác, của xã hội khơng cĩ nghĩa là khơng bao hàm lợi ích cá nhân, bởi vì, “đối với người cĩ đạo đức, lợi ích xã hội là những lợi ích chủ đạo của nĩ.”, “Bản chất xã hội của đạo đức - xu hướng vươn tới sự hài hịa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội” [7, 57].
  40. 34 Trên cơ sở đĩ PGS. TS Nguyễn Văn Phúc phân tích: “Lợi ích cá nhân, khi phù hợp với lợi ích xã hội, trở thành một bộ phận của lợi ích xã hội; và trong trường hợp đĩ hành vi thực hiện lợi ích cá nhân là chính đáng về mặt đạo đức” [95, 12]. Như vậy, hành vi đạo đức là những hành vi xuất phát từ động cơ đạo đức dựa trên sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Ngược lại, hành vi vơ đạo đức là hành vi thực hiện chỉ nhằm phục vụ lợi ích bản thân mà xâm hại lợi ích người khác, lợi ích xã hội. Hành vi đạo đức được lặp đi, lặp lại nhiều lần, ổn định trở thành thĩi quen đạo đức, nếu khơng thực hiện hành vi đạo đức này thì con người cảm thấy khĩ chịu. Hành vi đạo đức của con người, khi đã trở thành thĩi quen đạo đức, dường như trở thành hành vi vơ thức. Hình thành thĩi quen đạo đức chính là mục tiêu của giáo dục đạo đức, là giai đoạn cuối trong quá trình chuyển hố từ đạo đức xã hội thành đạo đức cá nhân. Về quan hệ đạo đức: Quan hệ đạo đức là một kiểu quan hệ xã hội, một bộ phận của quan hệ xã hội, là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người và con người, giữa cá nhân và xã hội về lợi ích và nghĩa vụ đối với nhau. Quan hệ đạo đức là quan hệ tinh thần, nĩ phản ánh và bị quy định bởi quan hệ vật chất, quan hệ kinh tế của xã hội. Mỗi khi quan hệ kinh tế thay đổi thì các quan hệ đạo đức cũng cĩ những thay đổi nhất định. Tuy nhiên, quan hệ đạo đức khơng trực tiếp phản ánh quan hệ kinh tế mà phản ánh gián tiếp thơng qua sự điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng nĩi rằng lợi ích được hiểu một cách đúng đắn là tồn bộ cơ sở của đạo đức. Quan hệ đạo đức thực chất là quan hệ về lợi ích giữa con người và con người, giữa cá nhân và xã hội, bởi vì, khơng cĩ hành vi nào của con người hồn tồn thốt khỏi sự thúc đẩy của lợi ích. Như vậy, quan hệ đạo đức vừa chứa đựng nhận thức và thái độ chủ quan của mỗi người vừa
  41. 35 mang tính vừa mang tính khách quan do phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, vào hồn cảnh sống của mỗi người . Trong hiện thực, đạo đức khơng biểu hiện ra như những quan hệ thuần tuý, mà chứa đựng, “tiềm ẩn” trong các quan hệ xã hội khác như: quan hệ kinh tế, chính trị và những quan hệ trong những cộng đồng người khác nhau: dân tộc, tập thể, gia đình, Quan hệ đạo đức được phản ánh trong các phạm trù bổn phận, lương tâm nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể, cộng đồng và tồn xã hội. Quan hệ đạo đức cĩ các đặc tính là tính tự giác và tính tự nguyện. Tính tự giác của quan hệ đạo đức thể hiện ở sự nhận thức trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân mỗi người trong những tình huống cụ thể khi tham gia vào quan hệ đạo đức. Đồng thời, họ cũng nhận thức được cách ứng xử phù hợp với các chuẩn mực, các nguyên tắc đạo đức xã hội và dự tính được hậu quả của những ứng xử đạo đức của mình. Tính tự nguyện của quan hệ đạo đức thể hiện ở nhu cầu và ham muốn của bản thân mỗi người quan tâm, tương trợ, giúp đỡ người khác, khẳng định cái thiện chống lại cái ác. Quan hệ đạo đức hình thành giữa các cá nhân với nhau đã được đề cập rất sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại, như quan điểm của Khổng Tử về quan hệ đạo đức trong các mối quan hệ giữa vua - tơi, cha - con, vợ - chồng, anh - em, bạn - bè. Xã hội càng phát triển thì các quan hệ đạo đức giữa các cá nhân với nhau càng phong phú hơn, như: quan hệ đạo đức giữa cán bộ và dân, chủ và thợ, giữa các đối tác kinh doanh, giữa đồng nghiệp, đồng chí với nhau, Quan hệ đạo đức giữa cá nhân và xã hội như giữa cơng dân và nhà nước, giữa cá nhân và tập thể, giữa cơng chức và cơ quan, đơn vị, Quan hệ đạo đức giữa cá nhân với những mặt riêng biệt của đời sống xã hội như giữa con người với tự nhiên, giữa cá nhân với chính trị, với kinh tế, với văn hĩa, với khoa học, Quan hệ đạo đức giữa cá nhân với những mặt riêng biệt của
  42. 36 đời sống xã hội thực chất là sự điều chỉnh lợi ích của con người một cách gián tiếp. Chẳng hạn, những yêu cầu đạo đức của con người đối với tự nhiên thực ra chỉ là biểu hiện đặc thù của quan hệ đạo đức giữa con người với con người trong việc khai thác tự nhiên phục vụ lợi ích của con người. Vì vậy, mặc dù cĩ sự thể hiện đa dạng, quan hệ đạo đức thực chất vẫn là quan hệ của con người, quan hệ xã hội, biểu hiện sự phát triển về mặt xã hội của con người. Những yếu tố cấu thành đạo đức trên khơng tồn tại độc lập mà liên hệ tác động lẫn nhau tạo nên sự vận động, phát triển và chuyển hĩa bên trong của hệ thống đạo đức. Chính vì vậy, đạo đức học khơng thể dừng lại ở việc phân tích những yếu tố tạo thành đạo đức mà phải đi sâu phân tích quan hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc đạo đức, rút ra ý nghĩa phương pháp luận định hướng cho con người trong quá trình tác động vào đời sống đạo đức xã hội. Quan hệ biện chứng giữa các yếu tố cấu thành đạo đức thể hiện cụ thể như sau: Thứ nhất, tác động biện chứng giữa quan hệ đạo đức và ý thức đạo đức Quan hệ giữa ý thức đạo đức và quan hệ đạo đức là quan hệ biện chứng, cụ thể là ý thức đạo đức khơng thể hình thành ngồi quan hệ đạo đức và ngược lại, quan hệ đạo đức khơng thể khơng được định hướng, điều chỉnh bởi ý thức đạo đức. Trong quá trình phát triển của lịch sử, ý thức đạo đức hình thành trên cơ sở phản ánh các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, giữa cá nhân với xã hội. Ý thức đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội mà trước hết là nhu cầu phối hợp hoạt động trong lao động sản xuất vật chất. Sự phát triển của sản xuất dẫn đến sự phát triển của các quan hệ xã hội và điều đĩ luơn kéo theo sự phát triển của các quan hệ đạo đức, làm cho chúng ngày càng đa dạng, phức tạp hơn. Ý thức đạo đức phản ánh tồn tại xã hội thơng qua quan hệ giữa các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, cá nhân với các lĩnh vực của đời sống. Các chuẩn mực của đạo đức được hình thành trong quá trình con người
  43. 37 giao tiếp với nhau, chúng được củng cố do sự cơng nhận giá trị theo quan điểm lợi ích phổ biến đối với một tập thể, một tập đồn xã hội nhất định. Hơn nữa, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong tính hiện thực của nĩ, bản chất con người là tổng hịa các quan hệ xã hội. Chính vì vậy, cá nhân khơng thể cĩ ý thức đạo đức nếu nĩ tách rời đời sống xã hội, tách rời quan hệ xã hội, quan hệ đạo đức. Quan hệ đạo đức càng đa dạng, phức tạp càng là mơi trường tốt cho con người hình thành ý thức đạo đức sâu sắc và tồn diện. Ngược lại, quan hệ đạo đức hạn chế thì ý thức đạo đức cũng mắc phải những khiếm khuyết nhất định và vì vậy con người khơng thể phát triển tồn diện nhân cách của mình. Ý thức đạo đức hình thành, phát triển, hồn thiện thơng qua việc phản ánh quan hệ đạo đức và khi đã hình thành, ý thức đạo đức quay trở lại chi phối, điều chỉnh quan hệ đạo đức. Quan hệ đạo đức cĩ bền vững hay khơng tùy thuộc trình độ của ý thức đạo đức, vào sự lựa chọn lời nĩi, cử chỉ, hành vi trong mối quan hệ ở từng hồn cảnh nhất định cĩ phù hợp hay khơng. Ý thức đạo đức càng cao thì quan hệ đạo đức càng được củng cố và bền chặt hơn và ngược lại. Thứ hai, tác động biện chứng giữa ý thức đạo đức và hành vi đạo đức Ý thức đạo đức là điều kiện để thực hiện hành vi đạo đức, cịn hành vi đạo đức là việc thể hiện ý thức đạo đức qua hoạt động của con người, là quá trình hiện thực hĩa ý thức đạo đức trong cuộc sống. Ý thức đạo đức là điều kiện để thực hiện hành vi đạo đức vì khơng cĩ ý thức đạo đức thì khơng thể cĩ hành vi đạo đức. Trong đĩ, tri thức đạo đức xác định giới hạn cho hành vi đạo đức, tình cảm đạo đức là động cơ chủ yếu của hành vi, lý tưởng đạo đức định hướng cho hành vi, ý chí đạo đức là sức mạnh bên trong thúc đẩy con người thực hiện hành vi đạo đức. Thiếu một trong những thành tố của ý thức đạo đức con người khơng thể thực hiện hành vi đạo đức. Ngược lại, ý thức đạo đức phải được thể hiện bằng hành động mới đem lại lợi ích xã hội và ngăn ngừa cái ác. Khơng phải cĩ ý thức đạo đức là trở thành con người cĩ đạo đức mà ý thức đạo đức đĩ phải thể hiện qua hành vi: “Nội
  44. 38 dung đạo đức khơng đơn thuần chỉ cĩ yếu tố trí tuệ, con người cĩ thể “thuộc làu” những chuẩn mực đạo đức nhưng đồng thời vẫn vơ đạo đức” [4,77]. Con người cĩ đạo đức hay khơng phải căn cứ vào những hành vi cụ thể. Hệ thống các hành vi đạo đức của con người được nảy sinh trên cơ sở của ý thức đạo đức được gọi là thực tiễn đạo đức. Đánh giá hành vi dựa trên hai mặt cơ bản là động cơ của hành vi và kết quả của hành vi. Trong đĩ động cơ của hành vi được xem là tiêu chuẩn hàng đầu. Hơn nữa, hành vi đạo đức gĩp phần hình thành, phát triển và hồn thiện ý thức đạo đức. Thơng qua quá trình thực hiện những hành vi đạo đức thường xuyên, liên tục, ý thức đạo đức của mỗi người ngày càng được bồi dưỡng, củng cố trở nên hồn thiện hơn, sâu sắc hơn. Qua đĩ, chúng ta nhận thấy một cách rõ ràng tầm quan trọng của hành vi đạo đức, hành vi đạo đức khơng chỉ hiện thực hố ý thức đạo đức trong cuộc sống mà nĩ cịn gĩp phần xây dựng ý thức đạo đức. Hành vi đạo đức khơng kém phần quan trọng so với ý thức đạo đức, thậm chí nĩ cĩ vai trị quan trọng hơn so với ý thức đạo đức bởi vì khơng cĩ hành vi đạo đức thì ý thức đạo đức cũng vơ nghĩa, khơng cĩ giá trị và khơng cĩ hành vi đạo đức, ý thức đạo đức khơng thể hồn thiện và sâu sắc. Thứ ba, tác động biện chứng giữa hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức Hành vi đạo đức thể hiện thơng qua quan hệ đạo đức, bởi vì hành vi đạo đức là những cử chỉ, những việc làm của con người trong các quan hệ phù hợp với ý thức đạo đức, với các chuẩn mực và các giá trị của đạo đức. Giá trị xã hội là giá trị căn bản của con người, là cơ sở của giá trị bản thân, cĩ sự thống nhất biện chứng giữa hai loại giá trị. Con người hiện thực khơng thể cơ lập với xã hội, con người cĩ giá trị tất phải thể hiện trong xã hội. Hành vi đạo đức khơng thể tách rời các quan hệ xã hội, quan hệ đạo đức. Hành vi đạo đức thể hiện thơng qua những quan hệ giữa người và người trong xã hội, quan hệ giữa con người với những sự kiện của đời sống xã hội và quan hệ của con
  45. 39 người với chính bản thân mình với tư cách là một thành viên của một đơn vị xã hội nhất định. Ngược lại, quan hệ đạo đức là cơ sở cho hành vi đạo đức, tùy từng mối quan hệ con người xác định và thực hiện những hành vi phù hợp. Khi thực hiện hành vi ứng xử, chủ thể đạo đức dựa vào các chuẩn mực được hình thành trong bản thân họ qua tiếp thu chuẩn mực đạo đức xã hội và do điều kiện sinh sống và các quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân chủ thể tạo thành. Nếu như vì thiếu nhiệt tình, chưa cố gắng hết sức mình, nên khơng thực hiện được một quan hệ đạo đức nào đĩ đúng như chuẩn mực của bản thân, thì lương tâm họ bị cắn rứt, họ cảm thấy ân hận, xấu hổ về hành vi của mình. Và mỗi khi họ thực hiện được những quan hệ đạo đức đúng như chuẩn mực đã hình thành ở họ, thì lương tâm họ cảm thấy thanh thản, họ tự hào về hành vi của mình. Chính vì vậy, xác lập quan hệ đạo đức càng phong phú thì càng tạo cơ sở vững chắc cho hành vi đạo đức. Qua phân tích các yếu tố trong cấu trúc đạo đức và quan hệ biện chứng giữa chúng cho thấy một hành vi đạo đức cụ thể là do một nhân cách trọn vẹn thực hiện hành vi đĩ, bao gồm cả tình cảm đạo đức, tri thức đạo đức, niềm tin, lý tưởng đạo đức, nghị lực, ý chí đạo đức được hình thành trong quan hệ đạo đức và các quan hệ xã hội khác, và ngược lại, việc thực hiện hành vi đạo đức lại củng cố cho ý thức đạo đức và quan hệ đạo đức vững chắc, sâu sắc hơn. 1.2. QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ ĐẠO ĐỨC 1.2.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tác động của nĩ đối với đạo đức Lịch sử phát triển xã hội lồi người cho đến nay cĩ ít nhất hai hình thức kinh tế chung, phản ánh trạng thái tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mỗi hình thức kinh tế chung cĩ thể tồn tại trong nhiều
  46. 40 phương thức sản xuất khác nhau. Hình thức kinh tế thứ nhất là kinh tế tự nhiên và hình thức thứ hai là kinh tế hàng hĩa. Kinh tế tự nhiên là hình thức kinh tế trong đĩ, sản phẩm được sản xuất khơng phải để trao đổi trên thị trường mà để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng nội bộ, chủ yếu là nhu cầu cá nhân của người sản xuất. Giữa người sản xuất và người tiêu dùng gần như khơng cĩ nấc thang trung gian nào. Dần dần về sau kinh tế tự cấp tự túc cũng cĩ trao đổi, song trong phạm vi rất hạn chế. Trong kinh tế tự nhiên, tính xã hội của sản xuất rất thấp, sự phân cơng lao động cịn thấp kém, quy mơ sản xuất nhỏ bé, khép kín. Kinh tế hàng hĩa là cách tổ chức kinh tế xã hội trong đĩ quan hệ kinh tế giữa người với con người biểu hiện qua trao đổi, mua bán hàng hĩa trên thị trường. Sản xuất và tiêu dùng được tách biệt với nhau xa hơn, người này sản xuất người kia tiêu dùng, người này phải phụ thuộc vào người kia và cả xã hội phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi quy trình sản xuất hàng hĩa, hay mỗi hàng hĩa do lao động sản xuất ra, là một bộ phận khơng tách rời của các quan hệ xã hội và của thế giới hàng hĩa. Sự phân cơng lao động xã hội ngày càng sâu rộng, chi tiết và sự hợp tác trong lao động sản xuất cũng ngày càng chặt chẽ hơn. Kinh tế thị trường ra đời từ khoảng thế kỷ XV ở các nước Tây Âu. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hố. Để hiểu rõ về kinh tế thị trường chúng ta đặt nĩ trong sự so sánh với kinh tế chỉ huy hay kinh tế kế hoạch hĩa tập trung. Các nhà kinh tế học hiện đại phân biệt kinh tế thị trường và kinh tế chỉ huy, hai kiểu tổ chức kinh tế dựa trên cơ chế vận hành của chúng. Kinh tế chỉ huy là nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hĩa tập trung. Ở đĩ việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai đều theo chỉ tiêu kế hoạch phát ra từ một trung tâm và mang tính pháp lệnh. Ngược lại, kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế này sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất
  47. 41 cho ai do thị trường quyết định. Cơ chế thị trường là một cơ chế mà trong đĩ tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của quy luật thị trường, trong mơi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hĩa dựa trên sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất. Kinh tế thị trường cĩ một số đặc điểm mang tính phổ biến như sau: Thứ nhất, quan hệ giữa các chủ thể kinh tế mang hình thức tiền tệ. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế tự nhiên thường được biểu hiện dưới hình thức quan hệ giữa vật và vật; trong nền kinh tế tập trung bao cấp là kế hoạch nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ được sử dụng một cách phổ biến và phản ánh các quan hệ trong nền kinh tế. Tiền tệ là hiện thân của giá trị, của cải, khi được sử dụng phổ biến, tiền tệ sẽ trở thành mục tiêu của các hoạt động kinh tế. Tiền tệ cịn cĩ chức năng phương tiện cất trữ của cải. Trong nền kinh tế thị trường, của cải thường được cất trữ dưới hình thái tiền tệ. Đặc trưng này của kinh tế thị trường là nhân tố thúc đẩy phân cơng lao động xã hội phát triển, năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế ngày càng cao, đồng thời, tạo động lực tiết kiệm tiêu dùng, tăng đầu tư. Điều đĩ sẽ tác động tích cực đến sự phát triển của sản xuất, cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống của dân cư. Thứ hai, kinh tế thị trường vận động dưới sự tác động của các quy luật thị trường, mà trước tiên là quy luật giá trị, quy luật giá trị gia tăng, quy luật cung cầu, quy luật lưu thơng tiền tệ, quy luật cạnh tranh. Sự vận động của các quy luật này chi phối hoạt động của những thành viên tham gia thị trường, tạo cơ chế phân bổ các nguồn lực hiệu quả hơn trong nền kinh tế tự nhiên và kinh tế kế hoạch hĩa tập trung. Thứ ba, lợi nhuận vừa là động lực vừa là mục tiêu của kinh tế thị trường. Trong kinh tế thị trường, sản xuất cái gì, sản xuất bằng cách nào, sản
  48. 42 xuất cho ai đều do lợi nhuận qui định. Điều đĩ cĩ nghĩa là trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nhà kinh doanh sẽ làm bất cứ điều gì mang lại cho họ nhiều lợi nhuận. Đây là động lực chính thúc đẩy các chủ thể hoạt động một cách tích cực nhất, động lực này khơng gì cĩ thể thay thế được. Thứ tư, kinh tế thị trường vận động trong mơi trường cạnh tranh. Trong kinh tế thị trường cĩ sự tự do lựa chọn các loại hàng hĩa, tự do lựa chọn mối quan hệ bạn hàng giữa các chủ kinh tế. Đĩ cũng là tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hĩa trên thị trường. Cạnh tranh trên thị trường là một thực tế khách quan mà bất kỳ ai tham gia thị trường đều phải thừa nhận. Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các thành viên tham gia kinh tế thị trường nhằm tối đa hố lợi nhuận. Sự ganh đua này diễn ra thường xuyên, liên tục, khơng cĩ điểm dừng. Trong cuộc ganh đua này, ai dừng lại sẽ bị thất bại. Đồng thời, nĩ cĩ tính chất quyết liệt, sống cịn, khơng thể cĩ cạnh tranh hịa bình, êm ả, người thất bại trong cạnh tranh là bị loại khỏi thị trường, rơi vào tình trạng lỗ vốn, phá sản. Cạnh tranh trên thị trường buộc các nhà sản xuất phải đổi mới cơng nghệ, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi phương thức phục vụ. Vì vậy, cĩ thể nĩi đây cũng là một động lực phát triển của kinh tế thị trường. Dĩ nhiên cạnh tranh khơng tránh khỏi gây ra những tổn thất cục bộ, nhất thời cho nền kinh tế, nhất là sự cạnh tranh khơng lành mạnh; nhưng tác dụng tích cực của cạnh tranh là chủ yếu và lâu dài. Thứ năm, quá trình phát triển kinh tế thị trường gắn liền với đa dạng hĩa các hình thức sở hữu. Sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường dựa trên tính chất tư nhân của sản xuất, tức là dựa trên sự đa dạng hĩa các chủ thể kinh tế. Đặc trưng này cho phép khai thác những tiềm năng đa dạng của nền kinh tế, tạo quan hệ cạnh tranh, thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tính năng động, sáng tạo, linh hoạt của các chủ thể kinh tế làm cho nền kinh tế phát triển năng động hơn, hiệu quả hơn.
  49. 43 Kinh tế thị trường thực chất là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội để phát triển kinh tế cĩ hiệu quả nhất trong thời đại ngày nay. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hĩa dựa trên sự phát triển cao của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, các quá trình kinh tế, quan hệ kinh tế được thực hiện thơng qua thị trường, vận động theo các quy luật của thị trường, trong đĩ quy luật giá trị giữ vai trị chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung - cầu trên thị trường. Các hoạt động sản xuất, dịch vụ, trao đổi được quyết định từ thị trường giá cả, số lượng và chất lượng hàng hĩa, với động cơ thúc đẩy và mong muốn đạt được lợi nhuận tối đa. Kinh tế thị trường khơng đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Ngày nay khơng cĩ một nước nào khơng áp dụng kinh tế thị trường như là một cơng nghệ để phát triển nền kinh tế của nước mình. Các chủ thể theo những chế độ khác nhau sử dụng cơng nghệ này theo những định hướng chính trị khác nhau. Kinh tế thị trường cĩ thể được phân chia theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau: cĩ kiểu kinh tế thị trường phát triển tuần tự từ cổ điển đến hiện đại như thị trường nước Anh; kiểu "kinh tế thị trường rút ngắn" như một số nước Đơng Á. Nếu phân chia theo chế độ xã hội thì cĩ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bàn về sự tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức, cĩ nhiều quan điểm khác nhau. Nhiều quan điểm cho rằng kinh tế thị trường tác động tích cực đối với đạo đức, đồng thời, cĩ nhiều quan điểm ngược lại cho rằng kinh tế thị trường tác động tiêu cực đối với đạo đức, cũng cĩ quan điểm cho rằng kinh tế thị trường vừa cĩ tác động tiêu cực vừa cĩ tác động tích cực đến đạo đức xã hội. Những người theo “thuyết leo dốc” cho rằng xét về tổng thể việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường cĩ xu hướng nâng cao trình độ đạo đức của xã hội. Điều đĩ biểu hiện ở chỗ, con người tham gia thị trường về nhân
  50. 44 cách được tự do, cĩ quyền bình đẳng trong cạnh tranh, giữ chữ tín với đối tác và khách hàng. Những hiện tượng tiêu cực chỉ tồn tại trong buổi ban đầu khi nền kinh tế thị trường chưa ổn định sẽ mất dần theo sự hồn thiện kinh tế thị trường. Vì vậy, họ chủ trương điều chỉnh hệ thống kết cấu xã hội cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường và vứt bỏ mọi yếu tố khơng phù hợp trong văn hĩa truyền thống để thúc đẩy cho kinh tế phát triển và luân lý cũng nhờ đĩ mà cĩ điều kiện “leo dốc”. Họ cũng khẳng định quá trình leo dốc là quá trình lâu dài và gian khổ, diễn ra chậm chạp và khơng cĩ bước tiến nhảy vọt. Cụ thể như Triệu Tu Nghĩa, khoa triết học, Đại học sư phạm Đơng Hoa Trung Quốc, cho rằng, kinh tế thị trường nâng cao luân lý về tự do cá nhân, quyền lợi và bình đẳng cá nhân, cơng bằng. Cịn theo Lý Hy Thu luân lý của kinh tế thị trường cĩ nội dung sau: tơn trọng và bảo vệ quyền tài sản, theo đuổi hiệu quả, kinh tế tự do, bình đẳng, quan niệm khế ước, cùng cĩ lợi, chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa cá nhân, tín nhiệm và chữ tín. Cũng theo xu hướng trên, Peter J.Hill (bút danh của giáo sư kinh tế George F.Bennett của đại học Wheaton, bang Illinois, chuyên viên cao cấp của trung tâm nghiên cứu kinh tế chính trị (PERC) ở Bozeman, bang Montana) với bài viết “thị trường và đạo đức” đã được in trong loạt bài quan điểm của PERC về kinh tế thì kinh tế thị trường cĩ những ưu điểm sau: quyền tự do chọn lựa, khuyến khích sự hợp tác, đề cao tính trách nhiệm, nâng cao mức sống cho tồn xã hội và kiểm sốt, hạn chế việc lạm dụng quyền lực. Một xã hội cĩ nền kinh tế tập trung khơng cĩ quyền tự do tham gia các giao dịch mua bán trên thị trường. Nĩ hạn chế các giao dịch mang tính tự nguyện để nhắm vào các mục tiêu mà nĩ cho là cần thiết. Nĩ ràng buộc và giới hạn hoạt động của cá nhân và cộng đồng. Một trong những ưu điểm lớn của hệ thống kinh tế thị trường là khuyến khích sự hợp tác hơn là chỉ cĩ cạnh tranh. Bởi vì trên thương trường, những kẻ cạnh tranh thành cơng phải hợp tác hay
  51. 45 làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng của họ. Trong hệ thống đảm bảo quyền tư hữu, các cá nhân phải đưa ra các đề nghị, thỏa thuận làm ăn hấp dẫn hơn các đối thủ thì mới thành cơng. Họ khơng thể bắt ép mọi người mua sản phẩm của họ hay dịch vụ của họ. Họ tập trung kích thích tính sáng tạo và cơng sức để tìm cách thỏa mãn yêu cầu của khách hàng. Và ai là người làm tốt nhất sẽ là người thành cơng. Kinh tế thị trường đảm bảo quyền tư hữu bắt buộc mọi người phải cĩ trách nhiệm với việc mình làm, một người gây hại tới một người khác thì phải chịu trách nhiệm với những việc mình làm trước tịa án. Họ phải trả giá cho việc họ gây ra. Điều này cĩ tác dụng răn đe mọi người, làm cho họ thấy rằng phải sống cẩn thận và cĩ trách nhiệm hơn. Khi mỗi người cĩ ý thức trách nhiệm với hành động của họ, tự do cá nhân của họ được cơng nhận và đảm bảo. Cở sở lý luận để khẳng định ảnh hưởng tích cực của kinh tế thị trường đối với đạo đức của những người theo thuyết này là quan điểm về mối quan hệ khơng tách rời giữa lợi ích và đạo đức. Lợi ích và đạo đức khơng tách rời nhau, khơng cĩ những động cơ của hành vi đạo đức hồn tồn thốt khỏi sự thúc đẩy của lợi ích. Ngay cả những hành vi thiện khơng tính tốn đến vinh nhục, được mất, những hành vi cao thượng hồn tồn xuất phát từ lương tri, xuất phát từ sự tự nguyện cũng khơng phải hồn tồn khơng vì lợi ích. Đạo đức bản thân nĩ là nhu cầu tinh thần của con người, bản thân những hành vi làm việc thiện vì việc thiện, tự giác thực hiện nghĩa vụ đạo đức sẽ đáp ứng nhu cầu tinh thần của chủ thể đạo đức. Hơn nữa, nguồn gốc của bản chất xã hội của đạo đức ẩn chứa trong đời sống xã hội, một hình thái ý thức xã hội đặc thù được quyết định bởi lợi ích được các quan hệ kinh tế xã hội biểu hiện ra. Do đĩ, về bản chất đạo đức khơng thể vượt lên trên mọi lợi ích cá nhân. Hành vi đạo đức cao thượng là hành vi tiết chế hoặc hi sinh một hay vài lợi ích cá nhân nào đĩ khi cĩ xung đột lợi ích giữa cá nhân và người khác, hoặc
  52. 46 tập thể. Nhưng điều đĩ khơng cĩ nghĩa là đạo đức hồn tồn gạt bỏ lợi ích cá nhân. Trong phạm vi hợp lý và chính đáng, về mặt đạo đức vẫn cĩ thể cho phép đạt lợi ích cá nhân. Vậy, “lợi” hợp lý chính là “nghĩa”. Do đĩ, những hành vi kinh tế thị trường, tìm kiếm lợi ích cá nhân trong khuơn khổ pháp luật, khơng làm tổn hại đến người khác, tập thể và xã hội tuy cĩ thể khơng phải đạo đức cao thượng nhưng nĩ khơng phải là khơng cĩ đạo đức, cũng khơng phải là phi đạo đức. Ngược lại với xu hướng trên, “Thuyết trả giá” quan niệm rằng cái “thiện” của kinh tế thị trường được trả giá bằng cái “ác” của sự suy đồi đạo đức của xã hội. Cùng với quan điểm này những người theo “thuyết trượt dốc” cho rằng kinh tế thị trường ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức bởi vì sự quan tâm đến lợi ích riêng tới mức cực đoan sẽ khơng thể ngăn được “cơn hồng thủy” của “chủ nghĩa lợi kỷ”. Biểu hiện của nĩ là sự sinh sơi nảy nở những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như việc làm hàng giả, lừa đảo, mại dâm, tham nhũng, lối sống vơ trách nhiệm với gia đình, cộng đồng, nguy cơ tan vỡ gia đình. Chẳng hạn, quan niệm của Hà Trung Hoa trong bài viết “Thử bàn về vấn đề quan hệ kinh tế thị trường và đạo đức” cho rằng kinh tế thị trường và đạo đức tách rời nhau, phủ định mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và hành vi đạo đức, bởi vì, đặc trưng bản chất của đạo đức là tính tự luật và siêu cơng lợi cịn đặc điểm quan trọng của kinh tế thị trường là tính tha luật và tính cơng lợi, bởi vậy, hành vi kinh tế thị trường là hành vi phi đạo đức, khơng thể đánh giá về mặt đạo đức. Quan điểm này cho rằng kinh tế thị trường và đạo đức tách rời nhau phủ định mối liên hệ giữa hành vi kinh tế thị trường và hành vi đạo đức, bởi vì đặc trưng bản chất của đạo đức là tính tự giác và khơng màng đến lợi ích cá nhân bởi vậy hành vi kinh tế thị trường là hành vi phi đạo đức, khơng thể đánh giá về mặt đạo đức, khơng cần điều tiết đạo đức. Chẳng hạn, Hà Trung
  53. 47 Hoa cho rằng: Chỉ cĩ thứ hành vi khơng kể vinh nhục, khơng tính được mất, chỉ làm việc thế mới là hành vi đạo đức. Vì vậy, những phẩm chất như yêu nghề, giữ chữ tín, cùng cĩ lợi, kinh doanh văn minh, phục vụ nhiệt tình, cạnh tranh bình đẳng khơng phải là phạm trù đạo đức. Đối với kinh tế thị trường, đạo đức luơn biểu hiện thành một lực lượng ràng buộc bên ngồi chứ khơng phải là một yêu cầu bên trong bắt nguồn từ bản thân kinh tế thị trường, khơng phải do tính tất yếu của kinh tế thị trường quyết định. Loại ý kiến thứ ba cho rằng ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối với đạo đức xã hội cĩ tính hai mặt, vừa tích cực vừa tiêu cực. Trong sự vận hành của kinh tế thị trường, nĩ dẫn dắt nhân cách và tinh thần của con người ở hai mức độ khác nhau, theo hai xu hướng khác nhau. Về mặt tích cực, kinh tế thị trường cĩ khuynh hướng khẳng định nhân cách độc lập của con người, khẳng định tinh thần tự lập, tự cường của con người. Về mặt tiêu cực, kinh tế thị trường thơng qua tuyệt đối hĩa nhu cầu, lợi ích, thỏa mãn nhu cầu, lợi ích đẩy con người tới sự phụ thuộc vào thị trường. Khi phụ thuộc thị trường, những người đĩ khơng thể thể hiện cá tính của mình, thậm chí anh ta khơng thể cĩ cá tính của mình, bởi vì những hàng hĩa và quảng cáo mỗi ngày một mới chi phối nhu cầu của họ; thị trường tạo thành một mạng lưới khổng lồ bao vây họ từ mọi mặt, làm cho họ khơng thể thốt ra được. Nếu chỉ thừa nhận tác động tích cực hay tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với đạo đức là phiến diện khơng thấu đáo vấn đề. Tuy nhiên nếu theo ý kiến thứ ba rằng kinh tế thị trường tác động đến đạo đức theo hai xu hướng vừa tích cực vừa tiêu cực một cách chung chung thì rất dễ mang tính chất chiết trung. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, vì vậy, nĩ chịu sự quy định của tồn tại xã hội, trong đĩ phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất tác động đến ý thức xã hội. Đạo đức khơng phải do ý muốn chủ quan của con người
  54. 48 quy định mà nĩ là sản phẩm của các quan hệ kinh tế, nảy sinh từ nhu cầu đời sống xã hội. Mặc dù đạo đức cĩ quy luật vận động nội tại, cĩ sự kế thừa, cĩ sự lệch pha nào đĩ đối với cơ sở sản sinh ra nĩ nhưng về cơ bản, tương ứng với mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một hình thái đạo đức nhất định. Quy luật chung của sự phát triển xã hội là quá trình khơng ngừng giải phĩng con người cả về lĩnh vực vật chất lẫn tinh thần. Xã hội càng phát triển, kinh tế càng phát triển, con người càng cĩ điều kiện để hồn thiện mình, hồn thiện đời sống của mình. Sự giải phĩng con người về mặt kinh tế là cơ sở để giải phĩng con người trong đời sống tinh thần trong đĩ cĩ đạo đức. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định sự phát triển khơng phải là con đường thẳng tắp mà là con đường xoắn ốc thể hiện tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động. Xu hướng chung của sự vận động là phát triển đi lên nhưng khơng phải khơng chứa đựng sự thụt lùi tạm thời, sự suy thối ở của một số mặt nhất định của nĩ. Trong sự phát triển của xã hội, khơng phải kinh tế phát triển thì tất cả các yếu tố đạo đức đều phát triển đi lên mà nhất định sẽ cĩ những bước thụt lùi nhất định. Vì vậy, khi phân tích tác động của kinh tế đối với đạo đức chúng ta khơng thể xem xét một chiều mà sự tác động này hết sức phức tạp, đan xen vào nhau. Tác động của kinh tế đối với đạo đức cĩ thể thúc đẩy mặt này, kìm hãm mặt khác của sự phát triển đạo đức nhưng xu hướng chung của sự vận động là phát triển đi lên, xu hướng thúc đẩy vẫn là xu hướng chủ đạo. Vì vậy, kinh tế thị trường tác động đối với đạo đức vừa cĩ tính tích cực vừa cĩ tính tiêu cực, trong đĩ tác động tích cực là chủ đạo. Tác động tích cực của kinh tế thị trường đối với đạo đức biểu hiện cụ thể như sau: Thứ nhất, nhìn chung, kinh tế thị trường tạo ra một bước tiến bộ về đạo đức trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội. Cùng với sự phát triển ngày càng tiến bộ của các phương thức sản xuất qua các hình thái kinh tế - xã hội, đạo đức xã hội cũng được bổ sung, phát
  55. 49 triển, ngày càng hồn thiện. Khi kinh tế hàng hĩa phát triển ở trình độ cao - kinh tế thị trường - hình thành và phát triển, quan hệ hàng hĩa - tiền tệ thâm nhập vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, phá tan sợi dây đạo đức phong kiến trĩi buộc con người, ở mức độ nhất định con người được giải phĩng và phát triển. Kinh tế thị trường dẫn đến biến đổi cả hệ thống đạo đức xã hội, trong đĩ cĩ những biểu hiện tiến bộ như: tự do cá nhân, bình đẳng, bác ái được đề cao, và bổ sung, phát triển đạo đức nhân loại bằng việc mở rộng nội hàm các giá trị, phẩm chất đạo đức, đồng thời xác lập một hệ thống những phẩm chất đạo đức mới nhằm đáp ứng yêu cầu của các hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường ngày càng hồn thiện, yêu cầu về đạo đức càng cao, nên sẽ bổ sung, phát triển hệ thống đạo đức xã hội của nhân loại, đĩ cũng chính là cơ sở vững chắc cho sự phát triển đạo đức lồi người ở giai đoạn cao hơn - đạo đức cộng sản. Kinh tế thị trường dựa trên sản xuất hàng hĩa, quy luật giá trị và quan hệ thị trường đã tạo ra cơ sở kinh tế để phát triển và thúc đẩy nhu cầu tự do, bình đẳng, dân chủ của từng cá nhân và của xã hội. Trong nhiều trường hợp, hành vi đạo đức biểu hiện trong xã hội phong kiến được biểu hiện dưới hình thức thương hại của người trên đối với kẻ dưới, của kẻ cĩ của với người khơng cĩ của. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hĩa tập trung, cá nhân khơng cĩ địa vị độc lập, tự chủ trong hoạt động kinh tế nên tự do cá nhân bị hạn chế, quan hệ giữa người và người bị quan hệ đặc quyền, đẳng cấp chi phối. Trong kinh tế bao cấp, và cơ chế xin - cho, tình trạng bất bình đẳng, mang tính chất ban ơn của người trên đối với kẻ dưới thể hiện trong việc bổ nhiệm, đề bạt, phê duyệt chi tiêu, việc phân phối nhà cửa và các nhu cầu nhu yếu phẩm Trong cơ chế thị trường, các chủ thể kinh tế thị trường được tạo mơi trường dân chủ, tự do và bình đẳng: quyền tự do của khách hàng trong việc
  56. 50 lựa chọn các hàng hĩa và dịch vụ cạnh tranh; quyền tự do của nhà sản xuất bắt đầu hoặc mở rộng kinh doanh, phân chia rủi ro và lợi nhuận; quyền tự do của người lao động trong việc lựa chọn cơng việc hoặc nghề nghiệp, tham gia vào nghiệp đồn lao động hoặc thay đổi chủ. Sự tự do và bình đẳng trong hoạt động kinh tế là cở sở để phát triển quan niệm về sự bình đẳng giữa người và người và dẫn đến sự tự do, bình đẳng trong quan niệm và quan hệ đạo đức. Cụ thể, khi giúp đỡ người khác do chủ thể hành vi đạo đức ý thức về sự tự do, bình đẳng nên hành vi khơng mang tính chất ban ơn mà nhằm thực hiện nhu cầu của mình; đối với người được giúp đỡ, ý thức về sự bình đẳng tạo cho họ tâm thế thoải mái, thanh thản, khơng cĩ những mặc cảm về ơn huệ theo kiểu trước đây. Đời sống đạo đức xã hội và quan hệ đạo đức giữa con người với con người cĩ tính chất dân chủ và bình đẳng hơn, khắc phục được nhược điểm của quan liêu, bao cấp, gia trưởng. Tự do, cơng bằng, dân chủ vừa là mơi trường, vừa là điều kiện để hồn thiện nhân cách; nhân cách thật sự của cá nhân phân biệt với những cá nhân khác, khơng phải “vay mượn”, che lấp như trước đây. Cạnh tranh tự do, cơng bằng trên thương trường thúc đẩy tính trung thực trong kinh doanh, giữ chữ tín, tơn trọng khách hàng, tơn trọng đối tác, tương trợ lẫn nhau. Sức ép cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường mang tính chuyên mơn hĩa ngày càng cao, doanh nghiệp vừa phải luơn quan tâm khách hàng, nắm bắt nhu cầu của khách hàng và thỏa mãn đến mức tối đa nhu cầu, thị hiếu của khách hàng vừa phải đáp ứng yêu cầu của đối tác kinh doanh trong quá trình hợp tác sản xuất, kinh doanh nên tính trung thực trong kinh doanh, tơn trọng đối tác, tơn trọng khách hàng là hết sức cần thiết để đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp. Mọi việc làm gian dối, làm ẩu, lừa lọc khách hàng và đối tác, lối kinh doanh theo kiểu chụp giật, “ăn xổi, ở thì” nhất định sẽ bị khách hàng và đối tác phát hiện, điều đĩ đồng nghĩa với việc doanh