Giáo trình Xây dựng hệ thuật ngữ thông tin thư viện, góp phần hoàn thiện ngôn ngữ khoa học Tiếng Việt

pdf 11 trang huongle 2860
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Xây dựng hệ thuật ngữ thông tin thư viện, góp phần hoàn thiện ngôn ngữ khoa học Tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_xay_dung_he_thuat_ngu_thong_tin_thu_vien_gop_phan.pdf

Nội dung text: Giáo trình Xây dựng hệ thuật ngữ thông tin thư viện, góp phần hoàn thiện ngôn ngữ khoa học Tiếng Việt

  1. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 PGS. TS VƯƠNG TOÀN XÂY Viện Thông tin Khoa học Xã hội DỰNG HỆ 1. Mở đầu Sự xuất hiện các công cụ điện tử THUẬT trong xã hội thông tin đã dẫn đến những thay đổi rất cơ bản trong thư viên, lĩnh NGỮ vực có bề dày lịch sử nhưng vốn chỉ hoạt động nặng theo truyền thống. Và từ mấy thập niên trở lại đây, nó đã kéo THÔNG theo những thay đổi trong cơ cấu tổ chức và nội dung đào tạo của ngành TIN học này. Các kỹ thuật mới cho phép xác THƯ định các nguồn tài nguyên thông tin tiềm năng, trong đó nhiều quá trình mới VIỆN, xuất hiện cho phép tìm kiếm các nguồn tin điện tử nói chung và các nguồn tin GÓP trên mạng nói riêng, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lưu trữ và tìm kiếm thông tin, và đã mở ra những triển vọng PHẦN chưa từng thấy cho hoạt động thông tin HOÀN - thư viện. Hiện nay, mạng tài liệu tra cứu trực tuyến xuất hiện với một khối lượng THIỆN lớn: từ điển nói chung và từ điển chuyên ngành bằng nhiều thứ tiếng, NGÔN giáo trình đi kèm các tài liệu phân tích các dữ liệu khoa học và các tài liệu đa NGỮ dạng tập hợp “những vấn đề được quan tâm nhiều nhất”. Bạn đọc không nhất KHOA thiết cứ phải bước chân đến thư viện như trước. HỌC Trong bài “Nguồn tin và các địa chỉ về khoa học xã hội trên Internet: TIẾNG hướng dẫn người sử dụng”1. CRAIG VIỆT 1 Các khoa học xã hội trên thế giới (Chu Tiến Ánh - Vương Toàn dich). H., Nxb ĐHQG Hà Nội, 2007, tr. 443- 456. 2
  2. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 McKIE nhận xét rằng từ nhiều năm trở thống nhất cho nội dung thuật ngữ bằng lại đây, chúng ta đã chứng kiến nhiều tiếng Việt. thay đổi lớn trong cách tiến hành các Chẳng vậy mà cách đây chưa công trình nghiên cứu, đến mức mà lâu, “Việt Nam ta có thư viện số hay “nền kinh tế dựa trên thông tin” phát chưa” đã trở thành chủ đề được bàn triển hơn cả nền kinh tế công nghiệp đã luận khá hứng thú trong nhóm có nhiều thành công trước đó. Việc thuvientre@googlegroups.com, sau khi phát triển rộng rãi các công cụ nghiên tờ Tia sáng cho công bố bài Cấp thiết cứu điện tử, đặc biệt là World Wide xây dựng thư viện số của Đào Tiến Web (web) đã tạo ra một số thay đổi Khoa sau: ( 1. Thay đổi trong cách phổ biến, 488), theo đó “có một nhu cầu hết sức lưu trữ, tìm kiếm, trích thông tin thiết thân đối với các nhà khoa học đó và trong những bài học rút ra từ là cần sớm có một Thư viện số (Digital những thông tin này. Library) cho cộng đồng khoa học nước 2. Thay đổi trong bản chất thông nhà”, mà không giải thích cách tác giả tin liên quan đến khoa học xã hiểu thế nào là thư viện số . Do vậy, Lê hội (các thể loại mới, cách sử Thùy Dương cho rằng cuộc tranh luận dụng mới) và khả năng tiếp cận nên quay trở lại vấn đề căn bản nhất, đó với các thông tin này dễ dàng là khái niệm Digital Library mà chúng hơn nhiều. ta vẫn dịch là Thư viện số, trong khi library không phải lúc nào cũng là thư 3. Thay đổi trong cách cung cấp viện (hiểu theo nghĩa thư viện là nơi các dữ liệu của các cơ quan chức chúng ta đang làm việc), do vậy mà trách cho nhà nghiên cứu theo anh, digital library cũng có những 4. Thay đổi trong cách kiểm soát cách hiểu khác nhau. Đúng là cho đến thông tin của các nhà chức nay, ngành thông tin - thư viện chúng ta trách vẫn chưa có một cuốn từ điển thuật ngữ mà bảng từ xuất phát bằng tiếng Việt, 5. Thay đổi trong cách trao đổi xác định rõ từng khái niệm được sử giao tiếp giữa các thành viên dụng - chứ không phải chỉ là sao phỏng trong một nhóm nghiên cứu. bằng cách “tạm” dịch từ môt thứ tiếng Dù quan niệm và thực tiễn có thể nước ngoài nào đó, mà ngược lai, còn khác nhau về nhận thức và cách chúng cần được đối chiếu với các ngoại làm, nhưng đâu đâu ta cũng thấy nói ngữ phổ biến trên thế giới - để đi tới đến kết hợp thư viện truyền thống với một cách hiểu thống nhất trong ngành, thư viện hiện đại, và ứng dụng công trước cuộc hội nhập để phát triển. nghệ thông tin vào hiện đại hoá thư Do vậy, xây dựng hệ thuật ngữ viện cho ngôn ngữ khoa học của ngành Các nhà chuyên môn nay thường thông tin - thư viện là một trong những nói đến tin học hoá thư viện, đến xây việc cần được quan tâm, và trong bài dựng thư viện số, thư viện điện tử, địa này, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến chỉ điện tử, báo/tạp chí điện tử, nhưng những khía cạnh ngôn ngữ học của các thuật ngữ được dùng dường như chỉ công việc này. là sao phỏng từ nước ngoài (thường là tiếng Anh). Còn thiếu những định nghĩa 3
  3. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 2. Ngôn ngữ khoa học Tính chất khoa học của thuật và việc xây dựng hệ thuật ngữ được thể hiện ở tính chính xác, tính ngữ thông tin – thư viện hệ thống và tính quốc tế của nó. Ngôn ngữ khoa học được phân Tính chính xác của thuật ngữ biệt với ngôn ngữ chung rõ nhất ở vốn được thể hiện ở cả mặt ngữ nghĩa và từ vựng, đó là hệ thuật ngữ khoa học, hình thức. Do nó biểu thị đúng cái khái và ở phong cách ngôn ngữ được sử niệm (đúng hoặc sai) mà chúng gọi tên dụng trong lập luận khoa học. Bất cứ nên khi nghe, hoặc đọc thuật ngữ đó, ta ngành khoa học nào cũng cần phải có chỉ hiểu và chỉ có khái niệm khoa học một tập hợp từ ngữ được xác định một (đúng hay sai) ứng với nó mà thôi. Tính cách nghiêm ngặt, dùng để biểu thị các chính xác về ngữ nghĩa loại trừ hiện sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc tượng đồng nghĩa, song tính một nghĩa điểm, trong ngành đó. Lớp từ vựng bao của thuật ngữ cần được hiểu là trong gồm những đơn vị như vậy được gọi là một ngành khoa học, mỗi thuật ngữ chỉ hệ thuật ngữ của mỗi ngành khoa học. nên có một nghĩa (biểu thị một sự vật và một khái niệm). Về hình thức, tính Các nhà ngôn ngữ học xác định chính xác thể hiện ở chỗ: các hình vị thuật ngữ là ''những từ chuyên môn có hợp thành thuật ngữ phải phù hợp tối đa nghĩa đặc biệt; những từ cố gắng chỉ có với khái niệm được biểu thị, không có một nghĩa với tính cách biểu hiện chính những vị trí dư thừa dể gây lầm lẫn dù xác các khái niệm và tên gọi các sự vật sự hiện diện của hình vị này khiến cho '' (A. Reformstskij). Thuật ngữ khác từ thuật ngữ có vẻ như phù hợp với các thông thường ở chỗ nó ''có ý nghĩa biến quy luật chung trong cấu tạo ngôn ngữ vật trùng hoàn toàn với sự vật, hiện hơn: các hình vị được biến đổi, phát tượng có thực trong thực tế đối tượng triển phù hợp với sự phát triển của các của ngành kỹ thuật và ngành khoa học khái niệm khoa học, kiểu cấu tạo thuật tương ứng''. và có ý nghĩa biểu niệm là'' ngữ phải phù hợp với '' tính trí tuệ '' của khái niệm về các sự vật hiện tượng này các thuật ngữ. Do chính xác về mặt đúng như chúng tồn tại trong tư duy'' hình thức nên ta thấy thuật ngữ thường (Đỗ Hữu Châu). Một thuật ngữ là do chặt chẽ và ngắn gọn. Về mặt lý thuyết tính hệ thống của bản thân đối tượng và thì thuật ngữ tối ưu là thuật ngữ chỉ khái niệm như ''một cái nhãn dán vào biểu thị một khái niệm để thực hiện cái đối tượng này (cùng với khái niệm về nguyên tắc ''mỗi khái niệm có một chúng) tạo nên chính nội dung của nó. thuật ngữ và mỗi thuật ngữ chỉ có một Tính hệ thống về mặt ngữ nghĩa của khái niệm ''. thuật ngữ là do tính hệ thống của bản thân đối tượng và khái niệm trong Song do quy luật tiết kiệm của ngành khoa học và kỹ thuật đó quyết ngôn ngữ, số lượng tên gọi ít hơn số định2. lượng sự vật được gọi tên nên có những thuật ngữ biểu thị các sự vật, hiện tượng, đối tượng khác nhau (về bản chất hoặc mức độ rộng/hẹp) thuộc các ngành khoa học khác nhau. Ví dụ ngôn 2 Xem: Vương Toàn.- Ngôn ngữ ngữ tự nhiên và ngôn ngữ tìm tin, ngôn khoa học và ngôn ngữ trong thông tin ngữ lập trình, lưu thông hàng hoá và KHXH. Tc. Thông tin KHXH, 1987. s.1, tr. lưu thông tài liệu, hồn ma và phiếu ma, 91-97. tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên 4
  4. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 thông tin, lớp một, hai, ba và tư liệu mình. Chúng tôi đã có dịp3 bàn đến các cấp một, hai, ba, dạng tóm tắt văn bản, với nội dung có Xét ở bình diện phong cách học phần khác biệt – nên không hẳn đã có thì về nguyên tắc, mọi từ ngữ khoa học sự tương ứng về thụât ngữ giữa các đều mang màu sắc phong cách khoa ngôn ngữ. Chẳng hạn, tiếng Việt có: học song, trong thực tế, không phải mọi tóm tắt, giới thiệu sách, điểm sách, lược thuật ngữ đều có màu sắc khoa học như thuật, bình thuật, (tạp chí Thông tin nhau. Màu sắc này được thể hiện rõ khoa học xã hội luôn có mục Giới thiệu ràng ở các thuật ngữ có phạm vi hẹp, ở sách nhập về Thư viện ) ; tiếng Pháp đây là riêng trong khoa thông tin - thư có résumé, lecture (de livre); compte- viện như: dịch vụ (cung cấp thông tin), rendu (tạp chí Bulletin de la Société de phân cấp theo cấu trúc và phân cấp la Linguistique de Paris ra mỗi năm 2 theo ký hiệu, v.v Người ngoài chuyên số thì số thứ 2 luôn dảnh điểm lại các ngành có thể hiểu không hoàn toàn công trình ngôn ngữ học trên thế giới chính xác các khái niệm như: thư viện mà Toà soạn tiếp cận được), annotation ảo, kiểm soát thư tịch, phân tích chủ đề, (trong các bulletin signalétique), ; khổ mẫu chuẩn, trường đảo, v.v , tiếng Anh có: summary, abstract, book nhất là khi chúng được sử dụng phổ review, (tạp chí Vietnam Social biến ở dạng tắt, như: ISBD, ISBN, Science luôn có mục Book review); ISDS, ISSN, Vì đây là những thuật tiếng Nga có referat (Viện Thông tin ngữ biểu thị các khái niệm khoa học KHXH Nga có bộ referativnyi jurnal) được xác định nên không thể sử dụng thường được dịch sang tiếng Việt là chúng tuỳ tiện, mà phải có sự cân nhắc, lược thuật, obzor thường dịch là tổng chọn thuật ngữ một cách thích hợp. thuật hoặc tổng quan Đôi khi, sự phân biệt cũng chỉ Người làm công tác khoa học mang tính tương đối, ví như cách phân không được phép lầm lẫn thuật ngữ với loại thành thư viện chuyên (đa) ngành / từ thông thường đồng âm. Trong văn thư viên công cộng (mà theo chúng tôi, bản khoa học, sự lầm lẫn chỉ xảy ra khi nên gọi là thư viện đại chúng) vì chẳng không nắm chắc khái niệm nên không lẽ thư viên chuyên ngành thì không còn phân biệt từ thông thường với thuật ngữ là thư viện công cộng (Cf. Public có màu sắc phong cách khoa học không library / Specialized and multi-sectoral thực rõ ràng. Đối với những thuật ngữ libraries), dù xưa kia thư viện luôn có phạm vi sử dụng được mở rộng, do được coi như là các thiết chế công cộng ngành khoa học đó trực tiếp gắn với thì nay có thể được “tư nhân hóa”, hoặc sinh hoạt hằng ngày của mọi thành viên được phép lấy các dịch vụ mà họ cung trong xã hội thì màu sắc khoa học của cấp làm một trong những nguồn thu chúng có phần mờ đi, nên khi dùng nhập. Do vây, ta càng thấy rất cần phải chúng trong văn bản khoa học càng có những định nghĩa tiếng Việt để xác phải thận trọng vì sự lầm lẫn tai hại rất định cho rõ khái niệm. Đôi khi ngay trong cùng một 3 Vương Toàn.- Thử đề xuất quy trình tự ngành khoa học, ở các nước khác nhau, động tóm tắt văn bản khoa học. các trường phái, thậm chí các tác giả "Bản tin Thư viện - Công nghệ khác nhau sử dụng những hệ thuật ngữ thông tin". Trường ĐH Khoa học riêng để thể hiện rõ hơn quan điểm của Tư nhiên TP Hồ Chí Minh, 3/2007, tr. 14-17. 5
  5. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 dễ xảy ra do không hiểu chính xác khái tin (nghe hoặc đọc) hiểu sai hoặc lẫn niệm mà chúng biểu thị, nhất là ở lộn từ khái niệm này sang khái niệm trường hợp thuật ngữ có diện mạo ngữ khác. Sự phù hợp giữa hình thức thuật âm không xa lạ với diện mạo ngữ âm từ ngữ và nội dung khái niệm là điều tất Việt thông thường (Ví dụ: mở trong kho yếu cần thiết trong lập luận khoa học mở, thư viện mở, khác trong kinh tế nhưng chớ nên hiểu điều này một cách mở, đại học mở, máy móc, xem nó như một chân lý Ai cũng hiểu không phải thư tuyệt đối, bởi vì cần phải thừa nhận viện hiện đại chỉ cần có máy tính nối rằng có một số trường hợp, hình thức mạng, một vài CSDL được gọi là tích ký hiệu ngôn ngữ không hoàn toàn phù hợp nhưng mới chỉ gồm những dữ liệu hợp với nội dung khái niệm đúng như được tích (từ nhiều nguồn) mà chưa chân lý khách quan tuyệt đối. hợp (vì chẳng hạn như các biểu ghi cho Lại có trường hợp, lúc đầu có sự những tài liệu giống nhau, được tích phù hợp, nhưng về sau, do con người vào những đợt khác nhau, vẫn nằm ở hiểu biết thêm, nội dung khái niệm những vị trí khác nhau). Bên cạnh đó là được thay đổi song hình thức ký hiệu một số CSDL được xây dựng bằng cách ngôn ngữ thì vẫn thế. Và cũng không rút trích những tài liệu về một chủ đề phải không có trường hợp mặt chủ quan nào đó, từ (những) CSDL có sẵn, rồi bổ của con người không thật phù hợp với sung thêm và cập nhật tư liệu Và dù mặt khách quan nội dung ý nghĩa của đã được nghiệm thu cẩn thận, song có thuật ngữ vì ''trong ký hiệu ngôn ngữ có lẽ do cảm thấy loại CSDL như vậy mặt quy ước của xã hội, quy ước giữa không đáp ứng được cho các nhà người này với người khác” (Lưu Văn nghiên cứu bao nhiêu, hoặc còn lúng Lăng ). túng về về khâu “phí dịch vụ hợp lý”, Thuật ngữ phải chứa đựng nội nên CSDL làm ra vẫn tạm để dung thuần lí trí, không xen yếu tố chủ đấy, không được cập nhật thường quan, cảm tính, do vậy nó tuyệt nhiên xuyên nên không khỏi lạc hậu theo thời không mang sắc thái biểu cảm, là cái gian. biểu thị sự đánh giá chủ quan. Cần hết sức tránh sử dụng tuỳ Khoa thông tin – thư viện cũng tiện thuật ngữ trong lập luận khoa học, gặp những vấn đề này, bởi vì nó có thể tiến tới chuẩn hoá và thống nhất thuật sử dụng các từ hàng ngày rồi gán cho ngữ khoa học trên mọi mặt (ngay cả chúng các nghĩa hàm chỉ và các định cách phiên âm, chuyển tự) là rất cần nghĩa chuyên ngành, những nghĩa này thiết. Tình trạng còn những khác biệt đôi khi lại khác nhau giữa các ngành hiện nay (thậm chí thiếu nhất quán ở học. Đó là chưa kể do khoa học phát ngay một tác giả) không phải không triển, ngôn ngữ được dùng để truyền gây trở ngại cho việc hiểu thuật ngữ đạt thông tin chuyên ngành cũng luôn một cách chính xác. được bổ sung và có khi thay đổi. Nhìn chung, tính chính xác đòi Tuy phải đối mặt với các vấn đề hỏi thuật ngữ phải thể hiện đúng nhất tài chính và phải lựa chọn tài liệu bổ nội dung khoa học một cách rõ ràng. sung nhưng các thư viện truyền thống Trong hoạt động thông tin - thư viện, vẫn tiếp tục giữ vai trò là nguồn cung việc sử dụng thuật ngữ một cách chính cấp thông tin rất phong phú cho nghiên xác tuyệt đối sẽ không làm người nhận cứu. Có điều là tài nguyên thông tin cần 6
  6. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 bổ sung không còn chỉ là ấn phẩm trên là một việc làm hoàn toàn có ý thức: giấy như trước. Không gian sử dụng để trong khi bảo đảm tính chính xác của công bố nay đã thay đổi. Tác phẩm xuất các hình vị hợp thành, kiểu cấu tạo bản cá nhân trên mạng cũng dần dần thuật ngữ phải phù hợp với vị trí, quan được thừa nhận; danh mục điện tử có hệ các khái niệm mà chúng biểu thị vai trò như phiếu đục lỗ trước đây. Vì trong tương quan với các khái niệm thế, thư viện có thể không có tài liệu khác. Ví dụ, trong công tác phân loại nguồn (không phải lưu trữ). Cơ sở dữ có: ấn định chỉ số phân loại, chọn số liệu thường xuyên được lưu trong thư phân loại, thiết lập số phân loại, môn viện dưới dạng tập hợp đĩa CD-ROM loại, được xem là một trong những nguồn tài Ngôn ngữ học chỉ ra các dấu liệu điện tử. Với các cách bảo quản hiệu đặc thù sau đây của hệ thuật ngữ hiện đại, ngân hàng dữ liệu chia sẻ các khoa học xã hội: 1) hiện tượng đồng tập hợp dữ liệu có thể cho phép người nghĩa, hiện tượng đồng âm, hiện tượng đọc truy cập thẳng đến ấn bản điện tử. đa nghĩa của các thuật ngữ; 2) có những Mỗi ngành khoa học cho ta hiểu yếu tố đánh giá trong chữ nghĩa và cấu biết bản chất các sự vật hiện tượng vốn trúc hình thức của các thuật ngữ; 3) có tồn tại trong thực tế khách quan dưới khá nhiều thuật ngữ tưởng chừng có dạng những hệ thống có quan hệ chịu căn cứ. những tác động có quy luật nhất định. Trong khoa học, dù là trình bày Do vậy trong ngôn ngữ nào cũng vậy, luận điểm của bản thân hay phản ánh việc xây dựng thuật ngữ khoa học đều quan điểm của người khác, trước hết cố gắng muốn phản ánh tính hệ thống phải xác định cho tốt thuật ngữ định sử về ngữ nghĩa giữa chúng, vì đó là (hoặc dụng. Nếu thấy cần thiết, tác giả hoặc phản ánh) tính hệ thống của sự vật, hiện dịch giả cần chỉ rõ ý nghĩa của từng tượng, đối tượng của khoa học. Do đó, thuật ngữ cần sử dụng và trong trường người ta nói đến các hệ thuật ngữ. hợp có thể, cũng chỉ ra tương ứng giữa Khi nói đến tính hệ thống của chúng với các thuật ngữ đã dùng (ở các thuật ngữ, ta buộc phải lưu ý đến sự tác giả khác hay trong nguyên ngữ) tương ứng giữa những hệ thống khái thuận tiện cho việc tra cứu khi cần. niệm khác nhau, dùng những hệ thống Cũng chính do sự phát triển nên ký hiệu, thuật ngữ khác nhau. Sự tồn tại cho đến nay, tên gọi của ngành thư viện của những hệ thuật ngữ cho từng ngành học (tiếng Pháp: bibliothéconomie; khoa học, cho từng dòng nghiên cứu và tiếng Anh: library science) cần được bổ cho từng tác giả là một hiện tượng sung nhưng nay vẫn còn chưa thống khách quan. Phần nào nó đảm bảo cho nhất là khoa học thông tin - thư viện văn bản khoa học thêm chính xác. Đặc hay theo thứ tự ngược lại4, hoặc là biệt là hệ thuật ngữ cũng thể hiện cách Thông tin - thư viện học, tức là khoa nhìn độc đáo của ngành học, của dòng suy nghĩ riêng biệt. Khi xây dựng hay chuyển dịch 4 Một trong những cuốn sách mới xuất bản một văn bản khoa học từ ngôn ngữ này gần đây có tựa đề : Tra cứu thông sang ngôn ngữ khác cần triệt để khai tin trong hoạt động thư viện thông thác tính hệ thống về ngữ nghĩa của tin / Trần Thị Bích Hằng, Cao kiểu tạo từ. Do vây, cách tạo thuật ngữ Minh Kiểm: H., ĐHVH, 2004, 312tr. 7
  7. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 học thư viện và thông tin, tương ứng Tâm lý học và Tạp chí KHXH Việt với library and information science Nam. Tên Phòng Thông tin – Thư viện trong tiếng Anh và science de la được dùng ở Viện NC Châu Phi và bibliothèque et de l’information trong Trung Đông là một trong những đơn vị tiếng Pháp. Tuy có quan hệ mật thiết mới được thành lập gần đây. Cf. Phòng với nhau, thông tin học được hiểu là Thông tin – Thư viện (Viện Hải dương khoa học về thông tin (và thư viện), có học, Nha Trang) khi được phân biệt với tin học, tương Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ là ứng với informatics, thuộc lý thuyết về Agence intergouvernementale de la thông tin, phục vụ thuần tuý cho công Francophonie, nay là Organisation nghệ thông tin, intergouvernementale de la Tương tự như vậy, tuy nay giới Francophonie (OIF) có Centre chuyên môn có thể khai thác từ Mạng international francophone de Thông tin - Thư viện Việt Nam, nhưng Documentation et d'information (Cifdi), tên các cơ quan hay bộ phận trước đây Bộ Ngoại giao Pháp có Centres de quen gọi là thư viện thì nay, do được Ressources et Documents, ở Nga có hiện đại hoá và nhất là đã vượt xa Otdelenije Bibliotekovedeniia có tên khuôn khổ hoạt động của một thư viện tiếng Anh là Library Science truyền thống, người ta ghép nó với tư Department (thuộc International liệu và/hoặc thông tin như : Trung tâm Informatization`Academy) Thông tin, Tư liệu Khoa học Công nghệ Thư viện đại học cũng không Quốc gia, về sau vắn tắt hơn thành tránh khỏi ảnh hưởng này : nơi vẫn giữ Trung tâm Thông tin Khoa học và tên Thư viện (Đại học Khoa học Tự Công nghệ Quốc gia (trong đó có Thư nhiên TP Hồ Chí Minh), nơi đổi thành viện Khoa học Kỹ thuật trước đây) Trung tâm Thông tin -Thư viện (Đại Thậm chí chỉ gọi là Trung tâm thông tin học Quốc gia Hà Nội, Đại học KHXH như: Trung tâm Thông tin Thanh niên & NV, Đại học QG TP HCM) ; hai chữ Việt Nam. Lại có trường hợp tuy gọi là Thư viện được hiểu có trong Trung tâm Viện Thông tin nhưng trong đó có thư Thông tin - Học liệu = Learning and viện, mà không phải nhà nghiên cứu Information Resource Centers (Đà nào cũng biết, chẳng hạn, trong Viện Nẵng) mà trước đây đây gọi là Trung Thông tin KHXH có Thư viện KHXH. tâm Thông tin - Tư liệu, có tên tiếng Không hẳn do công việc khác Pháp là Cenre de l’Information et de la nhau về cơ bản, ở Viện KHXH Việt Documentation. Có nơi còn gọi hẳn Nam (theo Danh bạ điện thoại. Hà Nội, thành Trung tâm Học liệu = Learning 4-2006), tên Phòng Thư viện được Resource Center (ĐH Thái Nguyên, dùng ở phần lớn các Viện NC chuyên Cần Thơ) ngành/vùng, mà Trưởng phòng là người Các cơ sở đào tạo cũng « trăm quản lý. Riêng ở Viện Kinh tế Việt hoa đua nở » khi tìm một tên gọi chính Nam, người quản lý Phòng Thư viện thức thích hợp: nơi thì gọi là Khoa Thư được gọi là Giám đốc. Tên Phòng Tư viện – Thông tin, nơi đặt theo thứ tự liệu - Thư viện được dùng ở Viện Văn ngược lại: Khoa Thư viện, Trường Cao học và Viện Khảo cổ học là những đơn đẳng Văn hóa (TP HCM). Khoa Thư vị có truyền thống hơn nửa thế kỷ. Tên viện Thông tin Trường Cao đẳng Sư Phòng Thông tin – Tư liệu - Thư viện phạm, nay là Đại học Sài Gòn (TP được dùng ở Viện Xã hội học, Viện 8
  8. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 HCM). Khoa Thư viện -Thông tin học, Việc ngày càng nhiều yếu tố ở các Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, quốc tế trong thành phần của các ngôn Đại học KHXH & NV, Đại học QG TP ngữ tạo điều kiện thuận lợi cho công HCM Trong khi đó, ta gặp Library việc truyền bá, phổ biến và trao đổi and Information Science College (ở thông tin khoa học trên quy mô toàn thế Mỹ, Thuỵ Điển, ), Division of giới. Information Services (ở Griffith Để có tính quốc tế, đơn vị từ University, Australia), École de vựng được dùng làm thuật ngữ phải bibliothéconomie et des sciences de mang hai trong bốn yếu tố trong đây. l’information ((EBSI) :trong Université de Montréal, Canada), École de 1. Giống nhau về ý nghĩa, bibliothécomie et de sciences de 2. Giống nhau về âm hưởng, l'information en Europe, École de bibliothéconomie, archivistique et 3. Giống nhau về chữ viết, documentation à l’Institut Supérieur de 4. Giống nhau về cấu trúc, Documentation (Université de Tunis), Chẳng hạn, cũng do yêu cầu Trong lập luận khoa học cũng chính xác, một số thuật ngữ thông tin – như truyền đạt thông tin khoa học cần thư viện mang hình thức từ vay mượn, thấy hết sự phức tạp và rắc rối có thể ngoại lai như catalô (<= catalogue ; cf : xảy ra nếu không xác định rõ hệ thuật mục lục), phích (<= fiche; cf : phiếu), ngữ sẽ sử dụng trong văn bản khoa học. mơ nu (<= menu; cf : thực đơn),vi rút Với những trường hợp còn nhiều ý kiến (virus), v.v chưa phân thắng bại, để làm rõ cách Với quan niện rằng khoa học là nhìn của mình. người ta còn dẫn cả tài sản chung của loài người chứ không thuật ngữ tương đương trong tiếng phải của bất cứ dân tộc nào hay của nước ngoài hay trong nguyên bản để những đấng cao siêu nào thì quốc tế người đọc tiện tham khảo. hóa thuật ngữ khoa học là một xu Bên cạnh vốn từ sẵn có trong hướng tiến bộ cần được khích lệ thích mỗi ngôn ngữ (cho thấy sự giàu đẹp đáng. Đồng thời cũng là sai lầm nếu ai độc đáo của nó), các ngôn ngữ đều sử đó chạy theo ''mốt'' này mà loại trừ tính dụng hình thức vay mượn (điều này độc đáo của ngôn ngữ dân tộc cũng càng có xu hướng phát triển trong lĩnh được thể hiện ở các thuật ngữ. Do vậy vực thuật ngữ) vẫn đảm bảo tính chính khi xây dựng hệ thống thuật ngữ cho xác, cũng lại đảm bảo tính hệ thống của một ngành khoa học, bên cạnh các tiêu thuật ngữ. Điều đáng lưu ý trong nhiều chuẩn; chính xác, hệ thống và quốc tế, trường hợp thuật ngữ vay mượn có người ta còn luôn nhấn mạnh phải lưu ý chiều hướng thắng thế các thuật ngữ đã đến tính dân tộc và tính đại chúng. Bởi tồn tại. Đó là xu hướng quốc tế hoá vì dù thuộc lĩnh vực chuyên ngành thuật ngữ khoa học trong tiến trình tiếp khoa học nào đi nữa thì thuật ngữ cũng xúc, xâm nhập, làm giàu lẫn nhau giữa vẫn là một bộ phận không thể tách khỏi các ngôn ngữ về mặt từ vựng là quá ngôn ngữ toàn dân (ở đây là tiếng Việt). trình hình thành vốn từ vựng chung có Người làm công tác khoa học lại tính quốc tế cho tất cả các ngôn ngữ, không thể để một phút nào quên mất phản ánh xu hướng xích gần nhau giữa bản sắc tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. các nền văn hoá và ngôn ngữ trong Chú trọng đến tính dân tộc khi tạo lập những điều kiện hội nhập quốc tế. 9
  9. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 hệ thuật ngữ phải được hiểu là một dàng thì lại vi phạm tính chính xác, nhiệm vụ không thể thiếu được trong việc đề cao tính quốc tế có khi phương công cuộc bảo vệ trong sáng của tiếng hại đến tính dân tộc. Việc quy chuẩn từ Việt), chống lại hiện tượng không lành ngữ khoa học cần phải có thời gian chứ mạnh, đó là lạm dụng xu hướng quốc tế không thể vội vàng hấp tấp vì những hoá từ ngữ khoa học, nguỵ trang cho tệ ''sáng kiến'' đưa ra phải được thử thách sính dùng tiếng nước ngoài. Và tai hại trong đời sống ngôn ngữ chấp nhận. hơn thế là cách đọc và viết lai căng, Ngành thông tin – thư viện cần cách dùng sai thuật ngữ vay mượn từ tham khảo hệ thuật ngữ được sử dụng ở nước ngoài trong lập luận, thuyết trình Liên đoàn Tư liệu Quốc tế (FID = hay thông tin khoa học. Đề cao tính dân Fédération internationale de tộc là cùng là để nhằm phát triển ngôn documentation) và tổ chức quốc tế (mà ngữ khoa học dân tộc. Chuyển dịch tên gọi trong các ngôn ngữ khác nhau thuật ngữ khoa học nước ngoài sao cho cũng thu hút được sự quan tâm của để nó có điều kiện thuận lợi trở thành chúng ta), đó là IFLA, xuất phát từ tên một bộ phận hợp thành ngôn ngữ dân đầy đủ bằng tiếng Anh là: International tộc là một yêu cầu cần được tính đến Federation of Library Associations and khi xây dựng hệ thuật ngữ cho từng Institutions, tiếng Đức là ngành khoa học. Internationaler Verband der Khi tạo lập một thuật ngữ, bibliothekarischen Vereine und người ta còn nhấn mạnh đến các tiêu Institutionen, tiếng Nga : chuẩn ngắn gọn và dễ dùng. Lẽ đương Mezhdunarodnaja Federatsija nhiên là nếu về mặt hình thức, thuật Bibliotechnykh Assotsiatsij i ngữ khoa học ngắn gọn thì thật phù Uchrezhdenij, tiếng Pháp : Fédération hợp với quy luật tiết kiệm trong ngôn Internationale des Associations de ngữ. Song văn bản khoa học cũng Bibliothécaires et des Bibliothèques, không thể chấp nhận một thuật ngữ do tiếng Tây Ban Nha : Federacin ngắn gọn mà dẫn tới thiếu chính xác. International de Asociationes de Đành rằng ngắn gọn thì dễ dùng đối với Bibliotecarios y Bibliotecas được quảng đại quần chúng, bởi vì ai cũng dich là Liên hiệp hội Thư viện Quốc tế, biết rằng khác với biệt ngữ là từ ngữ có người dịch là Hiệp hội Thư viện Thế đặc biệt dùng cho nhóm người, thuật giới. ngữ vẫn là bộ phận của ngôn ngữ toàn Tuy nhiên cần lưu ý rằng ngày dân. Khi khoa học có điều kiện đi sâu nay, quan niệm về chuẩn ngôn ngữ vào đời sống số lớn thành viên trong không còn cứng nhắc như trước. Nói về cộng đồng ngôn ngữ thì thuật ngữ khoa tính biến động của chuẩn ngôn ngữ, học phải dễ dùng (dễ nói, dễ viết, dễ Claude Hagège viết: "Tất cả các ngôn hiểu, dễ nhớ) đối với quảng đại quần ngữ trên thế giới, kể cả những ngôn chúng là điều thực sự cần phải tính đến. ngữ mà bạn thấy ở trạng thái văn hoc Hướng tới chuẩn hoá thuật ngữ nhất, cho ra đời những kiệt tác văn khoa học và chính tả là công việc phải chương thì trên mình chúng lúc nào triển khai thường xuyên. Các nhà khoa cũng mang đầy những "lỗi". Lỗi hôm học còn chưa thống nhất trong những trường hợp phải giải quyết thoả đáng mâu thuẫn giữa các tiêu chuẩn tạo lập thuật ngữ khi muốn ngắn gọn, dễ 10
  10. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 qua trở thành chuẩn hôm nay. Lỗi hôm miền Bắc khi đó khởi thảo, được Viện nay sẽ là chuẩn ngày mai"5. Ngôn ngữ học giúp đỡ biên soạn và chỉnh lý (Nhà xuất bản Khoa học xã hội,1972, 394 tr.). « Từ điển bao gồm 3. Thay cho kết luận các thuật ngữ của thư viện học, thư mục học và một số thuật ngữ của các ngành Sự phát triển nhanh mạnh các liên quan như xuất bản, in, phát hành, ngành khoa học đã tạo ra nhiều ngôn thông tin khoa học, v. v thường gặp ngữ riêng biệt: người ta nói đến ngôn trong công tác thư viện, thư mục ». ngữ toán học, ngôn ngữ y học , ngôn Phần chính là bảng đối chiếu Nga - ngữ thông tin bên cạnh ngôn ngữ nói, Việt. Sau đó là các bảng tra Anh - Việt ngôn ngữ viết. Các''ngôn ngữ'' này và Pháp - Việt (đối chiếu qua tiếng được hiểu là cùng tồn tại trong một Nga). Cuối cùng là bảng tra đối chiếu ngôn ngữ cụ thể, ở ta là tiếng Việt. ngược Việt – Nga, Anh, Pháp. Thống nhất hệ thuật ngữ của từng ngành khoa học cũng là một yêu cầu Rồi cho đến những năm 90 thì bức bách đối với việc hướng tới chuẩn công việc nghiên cứu xuống dần, để lại hoá ngôn ngữ toàn dân. Tình trạng sử khoảng trống Thuật ngữ học. Tuy vậy, dụng thuật ngữ tuỳ tiện, thiếu tính hệ cũng nhằm đáp ứng nhu cầu của thực thống, thiếu thống nhất khi có thể thống tiễn, công việc biên soạn và biên dịch nhất, chắc chắn phương hại đến tính các tập thuật ngữ chuyên ngành lại chính xác của văn bản khoa học. Xây không hề dừng. Thay cho việc có chỉ dựng từ điển giải thích thuật ngữ khoa đạo khoa học và hướng dẫn tập trung học tiếng Việt cho ngành thông tin - thư tại một nơi như giai đoạn trước, những viện được đặt ra nhằm đáp ứng một năm gần đây, ta thấy các nhà chuyên trong những nhu cầu của thực tiễn đời môn thường tập hợp nhau lại, cùng biên sông ngôn ngữ. soạn để cho ra các tập thuật ngữ, thống nhất cách giải thích và/hoặc đối chiếu Xây dựng và chuẩn hoá thuật phục vụ cho chính ngành mình. ngữ khoa học được chú ý ở nước ta từ những năm 60 của thế kỷ trước, cùng Nhận thấy hoạt động nghiên cứu với sự ra đời của Tổ thuật ngữ ở Uỷ ban lý luận và thực tiễn thư viện học, tư liệu Khoa học Nhà nước, mà sau này được và thông tin học ở trên thế giới cũng chia thành Tổ Thuật ngữ và Từ điển như ở nước ta đã không ngừng phát Khoa học thuộc Viện Khoa học Xã hội triển mà kết quả là một số thuật ngữ Việt Nam. Đến 1968, Tổ này nhập với mới đã xuất hiện và bước đầu được Tổ Ngôn ngữ, hợp thành Viện Ngôn chuẩn hoá, được sự hỗ trợ của Ngân ngữ học. Mảng nghiên cứu này đã rộ hàng dữ liệu Cộng đồng các nước có sử lên – và trong giai đoạn này, cuốn Từ dụng tiếng Pháp (BIEF), một cuốn Từ điển thuật ngữ thư viện học Nga – Anh điển tư liệu và thư viện học Pháp-Việt –Pháp - Việt, là công trình tập thể của đã được Trung tâm Thông tin Tư liệu những người làm công tác thư viện ở Khoa học và Công nghệ Quốc gia chủ trì biên soạn và xuất bản năm 1997 (141 tr.). « Từ điển này bao gồm các 5 Le plurilinguisme, éthique de l'avenir". thuật ngữ được chọn lọc từ các lĩnh vực Assises de l'enseignment du thư viện, thông tin kjhoa học và một số français et en français. AUF, 1998, ngành liên quan như tin học, lưu trữ, tr. 58. xuất bản, phát hành và ấn loát » và 11
  11. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 8/2007 cũng « thu thập một số cụm từ tuy cập nhật và thông báo cho đồng nghiệp không phải là thuật ngữ nhưng thường trong nước. gặp trong báo chí và tài liệu nghiệp Công nghệ thông tin phát triển vụ », cho phép tra tìm cách chuyển các cũng đã tạo điều kiện cho hệ thuật ngữ thuật ngữ tiếng Pháp (như disque tiếng Việt trong lĩnh vực thông tin - thư souple và disquette, rayonnage en viện không ngừng giàu lên, đáp ứng métal và rayonnage métallique đều là yêu cầu về ngôn ngữ trong thời kỳ đổi những mục từ riêng) sang tiếng Việt mới. Cập nhật những tri thức mới của (lần lượt chỉ là đĩa mềm, giá kệ kim ngành thông tin - thư viện thông qua loại), không có phần tra ngược lại. việc hệ thống hoá và xác định nghĩa của Như thế, cả hai cuốn trên đều các thuật ngữ khoa học hiện đang được mới chỉ đối chiếu các thuật ngữ tương sử dụng trong lĩnh vực này vừa có giá ứng. Cho đến nay, chưa hề có một trị khoa học, vừa mang tính thời sự rất cuốn từ điển thuật ngữ giải thích nào rõ rệt. Đó là chưa kể lĩnh vực này còn cho ngành thông tin - thư viện được liên quan mật thiết đến nhiều lĩnh vực biên soạn với bảng từ xuất phát là tiếng hoạt động xã hội và các ngành khoa học Việt. Tuy nhiên, phải kể một đóng góp khác. rất đáng trân trọng : đó là thông qua Trong tình hình ấy, việc tổ chức hoạt động của Hội Hỗ trợ Thư viện và biên soạn và xuất bản một công trình từ Giáo dục Việt Nam (LEAF-VN), một điển thuật ngữ giải thích và/hoặc đối số cán bộ thư viện người Việt Nam nay chiếu với các ngôn ngữ phổ biến trên định cư ở nước ngoài (Mỹ và Canađa) thế giới, với bảng từ xuất phát là tiếng đã biên dịch và xuất bản trong khuôn Việt, hẳn là cấp thiết, để đi tới thống khổ bảo trợ của Hiệp hội thư viện Mỹ nhất cách hiểu và cách dùng thuật ngữ cuốn Từ điển giải nghĩa thư viện học và trong ngành thông tin - thư viện, góp tin học Anh-Việt: Glossary of Library phần hoàn thiện ngôn ngữ khoa học and Inforamtion Science (Người dịch: tiếng Việt. Phạm Thị Lệ Hương, Lâm Vĩnh Thế, Nguyễn Thị Nga.- In lần thứ nhất. Arizona: Nxb Galen Press, Ltd. 1996. Hà Nội, Tháng 7 - 2007 279 tr.) Và sau đó, các dịch giả tiếp tục ___ The Story of Innovation - Where does a wise man hide a leaf? - In the forest. - But what does he do if there is no forest? - “He grows a forest to hide it in”. G. K. CHESTERTON 12