Khóa luận Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhật và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - Đỗ Thị Thanh Hương
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhật và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - Đỗ Thị Thanh Hương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_chinh_sach_phat_trien_doanh_nghiep_vua_va_nho_cua.pdf
Nội dung text: Khóa luận Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của nhật và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - Đỗ Thị Thanh Hương
- Khoá luận tốt nghiệp TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Tên đề tài: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHẬT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM Sinh viên thực hiện : ĐỖ THỊ THANH HƢƠNG Lớp : NHẬT 3 Khoá : K41F - KTNT Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : PGS.TS. VŨ SĨ TUẤN HÀ NỘI, 11/ 2006 Đ ỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp MỤC LỤC Lời nói đầu 1 Chương I 9 Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 9 I. Những vấn đề chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ 9 1. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) 9 2. Phân loại 10 2.1. Tiêu chí phân loại 10 2.2. Các yếu tố tác động đến phân loại 10 2.2.1. Trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng nước 10 2.2.2. Giai đoạn phát triển của nền kinh tế 11 2.2.3. Ngành nghề của các doanh nghiệp 11 2.3. Cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước trên thế giới 12 2.4. Các cách phân loại ở Việt Nam 16 3. Những ưu thế và hạn chế của các SME 18 3.1. Ưu thế của SME 18 3.1.1. SME được tạo lập dễ dàng, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp 18 3.1.2. SME năng động, dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường 18 3.1.3. SME dễ thu hút vốn đầu tư trong dân và tận dụng các nguồn lực địa phương 19 3.2. Hạn chế 19 3.2.1. Khả năng tài chính hạn chế 19 3.2.2. Bất lợi trong mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị và tiếp cận thông tin 19 3.2.3. Hạn chế về trình độ quản lý và tay nghề của người lao động 20 3.2.4. Hạn chế về khả năng cạnh tranh trên thị trường 20 4. Vai trò của SME 21 4.1. Đóng góp không nhỏ vào GDP 21 4.2. Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn 22 4.3. Góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế . 24 4.4. Tạo việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, nâng cao thu nhập người dân, ổn định xã hội 24 4.5. Hỗ trợ doanh nghiệp quy mô lớn, là cơ sở hình thành những doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn trong quá trình phát triển kinh tế thị trường 25 4.6. Đào tạo, phát triển đội ngũ doanh nhân giỏi 26 4.7. Thúc đẩy phát triển công nghệ 26 II. Những vấn đề chung về chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. 27 1. Các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển SME của các nước trên thế giới. . 27 1.1. Tạo khung khổ pháp lý khuyến khích các SME 27 1.2. Các chiến lược phát triển và chính sách hỗ trợ SME 28 1.3. Thành lập các cơ quan chuyên trách về quản lý nhà nước đối với SME . 29 1.4. Khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ và các hiệp hội của các SME 30 Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp 2. Vai trò của các chính sách phát triển SME 32 2.1. Vai trò của chính sách hỗ trợ đối với SME 32 2.2. Vai trò của chính sách hỗ trợ SME đối với Nhà nước và xã hội 32 Chương II 34 Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật 34 I. Trƣớc năm 1954 34 1. Từ năm 1945 trở về trước 34 2. Thời kỳ phục hồi kinh tế (1945 – 1954) 35 2.1. Đặc điểm nền kinh tế. 35 2.2. Các biện pháp hỗ trợ SME 37 2.2.1. Thành lập các tổ chức hỗ trợ và hiệp hội các SME 37 2.2.2. Ban hành Luật chống độc quyền. 38 2.2.3. Hỗ trợ về vốn 39 2.2.4. Hướng dẫn, tư vấn quản lý 41 2.2.5. Hỗ trợ về thuế 42 II.Thời kỳ tăng trƣởng kinh tế (1955-1984) 43 1.Thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao ( 1955-1973) 43 1.1.Đặc điểm nền kinh tế 43 1.2. Các biện pháp hỗ trợ SME 47 1.2.1. Ban hành các luật về tổ chức hiệp hội các SME 47 1.2.2. Hỗ trợ các SME làm thầu phụ 48 1.2.3. Hỗ trợ kinh doanh 49 1.2.4.Hỗ trợ phát triển công nghệ, hiện đại hoá các SME 50 1.2.5. Ban hành Luật cơ bản về SME 51 2.Thời kì tăng trưởng ổn định (1974 -1984) 53 2.1. Đặc điểm nền kinh tế 53 2.2. Các biện pháp hỗ trợ SME 56 2.2.1. Hỗ trợ về khoa học công nghệ, đầu tư phát triển theo chiều sâu 56 2.2.2. Khuyến khích đầu tư ra nước ngoài 57 2.2.3.Phát triển các SME trong lĩnh vực dịch vụ 59 III. Thời kì điều chỉnh cơ cấu kinh tế ( từ năm 1985 đến nay) 60 1. Đặc điểm nền kinh tế 60 2. Các biện pháp hỗ trợ SME 62 2.1. Hỗ trợ SME chuyển đổi ngành kinh doanh 62 2.2. Sửa đổi Luật cơ bản về SME 63 2.3. Hỗ trợ thành lập doanh nghiệp mới, đổi mới kinh doanh và kinh doanh mạo hiểm. 64 2.4. Hỗ trợ SME thích nghi với những biến động của kinh tế, xã hội 68 2.5. Các biện pháp khác 69 IV. Đánh giá 70 1. Ưu điểm 70 2. Nhược điểm 71 Chương III 73 Bài học kinh nghiệm từ chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật đối với Việt Nam 73 Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp I. Những tƣơng đồng và khác biệt giữa Nhật Bản và Việt Nam 73 1.Tương đồng 73 1.1. Về điều kiện tự nhiên, dân số 73 1.1.1 Về điều kiện tự nhiên 73 1.1.2. Về dân số 74 1.2.Về chính trị, văn hoá, xã hội 74 1.2.1.Về văn hóa 74 1.2.2. Về xã hội 75 1.3.Về kinh tế 76 1.3.1. Về khởi điểm xây dựng kinh tế sau chiến tranh 76 1.3.2. Về môi trường phát triển thời kỳ tăng trưởng nhanh 76 1.3.3. Về những động lực phát triển của nền kinh tế 77 2.Khác biệt 78 2.1. Về điều kiện tự nhiên, dân số 78 2.1.1. Về điều kiện tự nhiên 78 2.1.2. Về dân số 79 2.2. Về chính trị, văn hoá, xã hội 79 2.2.1. Về chế độ chính trị 79 2.2.2. Về văn hoá, xã hội 79 2.3.Về kinh tế 79 2.3.1.Về khởi điểm xây dựng kinh tế sau chiến tranh 79 2.3.2. Về môi trường phát triển thời kỳ tăng trưởng nhanh 80 2.3.3. Về những động lực phát triển của nền kinh tế 80 II. Những bài học kinh nghiệm từ chính sách phát triển SME của Nhật đối với Việt Nam 83 1. Nhận thức sâu sắc về vai trò của các SME trong nền kinh tế 83 2. Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của các SME 83 3. Hỗ trợ các SME phát huy nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh 86 3.1. Hệ thống các biện pháp hỗ trợ về vốn phong phú 87 3.2. Hỗ trợ thúc đẩy nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ thông tin 88 3.3. Hỗ trợ đầu tư phát triển nguồn nhân lực 90 3.4. Xây dựng hệ thống tư vấn, đào tạo nâng cao năng lực kinh doanh trong cả nước 91 4. Khuyến khích hình thành các liên kết kinh tế 92 5. Thực hiện có hiệu quả các chính sách đã ban hành 93 III. Một số biện pháp hoàn thiện chính sách phát triển SME ở Việt Nam 94 1. Đổi mới nhận thức, quan điểm và định hướng về SME trong bối cảnh hiện nay 94 2. Tạo môi trường thuận lợi cho SME 95 2.1. Xây dựng môi trường pháp lý đồng bộ 95 2.2. Cải thiện môi trường kinh doanh 96 2.3. Tạo môi trường tâm lý xã hội tích cực 96 3. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các SME trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 97 Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp 3.1. Hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn 97 3.2. Hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp 97 3.3. Hỗ trợ về công nghệ 98 3.4. Hỗ trợ về cung cấp thông tin cho doanh nghiệp 98 3.5. Phát triển thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh đối với các SME 99 4. Khuyến khích hình thành và tăng cường các mối liên kết giữa doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức tư vấn 100 5. Đẩy mạnh công tác theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện 101 Kết luận 102 Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ năm 1986, khi Việt Nam thực hiện đổi mới kinh tế-xã hội, với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sở hữu khác nhau, một thời kỳ mới đã mở ra cho các loại hình doanh nghiệp. Trong đó không thể không kể đến sự phát triển vượt bậc của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Từ đó đến nay, các doanh nghiệp này đã góp phần quan trọng trong việc tạo thêm nhiều việc làm mới, giải quyết những khó khăn về sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong thị trường, đóng góp nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và mặt hàng xuất khẩu thu ngoại tệ. Mới đây, trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng cũng đã nhận định “Nhà nước định hướng, tạo môi trường để các doanh nghiệp phát triển và hoạt động có hiệu quả theo cơ chế thị trường. Hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X). Có thể nói doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt cùng với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng như sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và sự tăng trưởng nhảy vọt trong thương mại quốc tế, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn gặp nhiều khó khăn trở ngại. Đó không chỉ là những khó khăn chủ quan do bản thân của mỗi doanh nghiệp trong quá trình phát triển mà còn có những vấn đề thuộc cơ chế chính sách. Tại Nhật Bản, một quốc gia có điều kiện tự nhiên, chính trị xã hội có nhiều nét tương đồng với Việt Nam, các SME cũng đã giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế Nhật. Kết thúc chiến tranh thế giới thứ II, không những bị bại trận và thiệt hại nặng nề về người và của, Nhật Bản còn phải chi trả những khoản bồi thường chiến tranh khá lớn. Trong hoàn cảnh như thế, một trong những nguyên nhân giúp cho Nhật có thể phục hồi và có những bước phát triển thần kỳ là sự tham gia và phát triển không ngừng của các SME. Sự phát triển của các SME có một phần không nhỏ là nhờ các chính sách hỗ trợ của chính phủ Nhật. Trong mỗi Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp giai đoạn phát triển, chính phủ đã có những chính sách phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế. Vậy Nhật Bản đã có những chính sách hỗ trợ các SME như thế nào để góp phần vào sự phát triển của đất nước? Có lẽ những bài học kinh nghiệm từ việc ban hành đến thực hiện các chính sách phát triển SME của Nhật sẽ trở nên rất hữu ích cho Việt Nam. Do vậy, em đã lựa chọn đề tài “Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”. Hy vọng từ đó sẽ tìm được những bài học từ kinh nghiệm phát triển SME của Nhật để đề xuất ra một số biện pháp nhằm phát triển SME ở Việt Nam. 2. Mục đích nghiên cứu Khoá luận tập trung nghiên cứu, đánh giá các chính sách phát triển SME của chính phủ Nhật trong các giai đoạn phát triển kinh tế sau chiến tranh. Phân tích những điểm giống và khác nhau giữa Việt Nam và Nhật Bản. Trên cơ sở đó, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thiện hơn chính sách phát triển SME tại Việt Nam. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của khoá luận là những quy định liên quan đến chính sách phát triển SME của Nhật trong giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ II. Phạm vi nghiên cứu chính là các chính sách phát triển SME của Nhật trong các giai đoạn phát triển sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay. Tuy nhiên với phương pháp luận nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khoá luận sẽ nghiên cứu ở giới hạn cần thiết những vấn đề, lĩnh vực liên quan khác nhằm làm rõ hơn mục tiêu nghiên cứu chính đặt ra. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên các lý luận và quan điểm theo định hướng phát triển kinh tế, nâng cao hoạt động kinh doanh của các SME của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Khoá luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như thu thập, phân tích, diễn giải, quy nạp, hệ thống hoá, so sánh, đối chiếu 5. Kết cấu của khoá luận Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Ngoài phần Mục lục, Lời nói đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, khoá luận gồm có ba chương: Chương I. Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chương II. Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật. Chương III. Bài học kinh nghiệm từ chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật đối với Việt Nam. Trong thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp, em đã nhận được sự động viên, khích lệ từ nhiều phía. Trước hết, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể các thầy cô giáo Trường Đại học Ngoại thương. Khoá luận không chỉ là nỗ lực của bản thân em mà còn chính là thành quả của cả quá trình học tập, nghiên cứu hơn 4 năm tại trường dưới sự chỉ bảo, dìu dắt và giúp đỡ của các thầy cô. Đặc biệt, em xin dành lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo hướng dẫn- PGS- Tiến sĩ Vũ Sĩ Tuấn. Sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của thầy là động lực vô cùng quan trọng để em hoàn thành khoá luận. Tìm hiểu về chính sách phát triển SME của Nhật trong điều kiện tài liệu và thời gian có hạn, kinh nghiệm và khả năng bản thân còn hạn chế, khoá luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy cô để khóa luận có thể hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp CHƢƠNG I TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng một vai trò hết sức quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào nếu muốn phát triển đều phải đẩy mạnh hoạt động của loại hình doanh nghiệp này. Vậy doanh nghiệp vừa và nhỏ là gì? Loại hình doanh nghiệp này có đặc điểm và vai trò như thế nào? Vì sao cần phải hỗ trợ các doanh nghiệp này? Câu trả lời cho những câu hỏi này sẽ là những nội dung được đề cập đến trong chương I. I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) Trong thời gian gần đây, cụm từ SME đã trở nên phổ biến và quen thuộc. Mặc dù có các cách nói khác nhau ở mỗi nơi, là “doanh nghiệp vừa và nhỏ” hay “doanh nghiệp nhỏ và vừa” thì cũng đều dùng để chỉ một đối tượng doanh nghiệp trong nền kinh tế. Loại hình doanh nghiệp này được xếp loại theo những tiêu chí nhất định thường là dựa vào quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Điểm khác biệt cơ bản trong khái niệm SME giữa các nước chính là việc chọn các tiêu thức đánh giá quy mô doanh nghiệp và lượng hoá các tiêu thức thông qua những tiêu chuẩn cụ thể. Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa các nước về qui định các tiêu thức phân loại SME , song khái niệm chung nhất về SME có nội dung như sau: SME là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có qui mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kì theo qui định của từng quốc gia.[6.8] Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp 2. Phân loại 2.1. Tiêu chí phân loại Qua nghiên cứu tiêu thức phân loại ở các nước có thể nhận thấy một số tiêu thức chung, phổ biến nhất thường được SME sử dụng trên thế giới là: - Số lao động thường xuyên - Vốn sản xuất - Doanh thu - Lợi nhuận - Giá trị gia tăng Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh qui mô sử dụng các yếu tố đầu vào, còn tiêu thức về doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy mô theo kết quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và hạn chế riêng. Như vậy để phân loại SME có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp, hoặc là sự kết hợp của cả hai yếu tố đó. Việc sử dụng các tiêu thức để phân loại SME ở các nước trên thế giới có các đặc điểm chủ yếu sau đây: - Các nước dùng các tiêu thức khác nhau. Trong số đó hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô và vốn lao động. Tiêu thức đầu ra được sử dụng ít hơn. - Số lượng tiêu thức để sử dụng phân loại cũng không giống nhau. Có nước chỉ dùng một tiêu thức nhưng cũng có nước sử dụng đồng thời hai hoặc nhiều tiêu thức để phân loại SME . - Lượng hoá các tiêu thức này thành các tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở các nước khác nhau không giống nhau. Độ lớn các tiêu chuẩn giới hạn phụ thuộc vào trình độ, hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế, định hướng chính sách và khả năng trợ giúp cho các SME có thể rất lớn hoặc vừa và nhỏ tuỳ theo giới hạn độ lớn khối lượng vốn và lao động sử dụng ở mỗi nước. 2.2. Các yếu tố tác động đến phân loại Khái niệm SME mang tính tương đối, nó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định và phụ thuộc vào: 2.2.1. Trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng nước Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Thông thường các nước có trình độ phát triển cao thì giới hạn quy mô chỉ tiêu quy định lớn hơn so với các nước có trình độ phát triển thấp. Chẳng hạn ở Nhật Bản, các doanh nghiệp trong lĩnh vực chế tạo và các lĩnh vực khác số vốn tối đa không quá 300 triệu yên hoặc số lao động tối đa là 300 người. Trong bán buôn, con số này là 100 triệu yên hoặc 100 triệu lao động. Bán lẻ và dịch vụ được tách ra và có những quy định riêng, bán lẻ có số lao động tối đa là 50 người hoặc số vốn tối đa là 50 triệu yên; dịch vụ có số lao động tối đa là 100 người hoặc số vốn tối đa là 50 triệu yên. Ở Đài Loan theo qui định hiện nay trong ngành xây dựng các doanh nghiệp có vốn dưới 1,4 triệu USD, lao động dưới 300 người; trong công nghiệp khai khoáng các doanh nghiệp có vốn dưới 1,4 triệu USD, 500 lao động và trong thương mại, dịch vụ có doanh số dưới 1,4 triệu USD và dưới 50 lao động là những SME. Sự thay đổi qui định này thể hiện khả năng thích ứng nhanh của cơ chế chính sách quản lí của nhà nước đối với khu vực SME dưới tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội và các môi trường bên ngoài. 2.2.2. Giai đoạn phát triển của nền kinh tế Các giới hạn tiêu chuẩn này còn được quy định trong những thời kì cụ thể và có sự thay đổi theo thời gian cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội của từng giai đoạn. Chẳng hạn ở Đài Loan trong 30 năm qua đã có sáu lần thay đổi quy định giới hạn và các tiêu thức phân loại SME( Bảng 1). Ở Nhật Bản, những tiêu thức phân loại được quy định trong Luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 1963 và Luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ sửa đổi năm 1999 cũng đã có nhiều sự thay đổi phù hợp với hoàn cảnh thực tế. 2.2.3. Ngành nghề của các doanh nghiệp Giới hạn chỉ tiêu độ lớn của các SME được quy định khác nhau theo những ngành nghề khác nhau. Đa phần các nước có sự phân biệt quy mô các tiêu thức vốn, lao động sử dụng riêng cho các ngành nghề, lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, thương mại hoặc dịch vụ. Tuy vậy vẫn có một số nước dùng chung một tiêu thức chung cho tất cả các ngành. Trong từng thời kì các tiêu thức và tiêu chuẩn giới hạn lại có sự thay đổi cho phù hợp với đường lối, chính sách, chiến lược và khả năng hỗ trợ của một quốc gia. Những tiêu thức phân loại SME được dùng làm căn cứ thiết lập những chính sách phát triển, hỗ trợ SME của các chính phủ. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Việc xác định các giới hạn tiêu thức này có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là cơ sở xác định các cơ chế quản lý với những chính sách ưu tiên thích hợp và xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý có hiệu quả đối với hệ thống các doanh nghiệp này. 2.3. Cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước trên thế giới Cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mỗi nước đều có những điểm khác nhau. Qua cách phân loại của một số nước cũng có thể thấy rõ điều này. * Đài Loan Khái niệm SME bắt đầu được sử dụng trên vùng lãnh thổ này từ năm 1967. Ngay từ đầu, loại doanh nghiệp này được phân biệt theo hai nhóm ngành: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; thương mại, vận tải, các dịch vụ khác. Từ năm 1977 bổ sung thêm một nhóm ngành nữa là khai khoáng. Tiêu chí phân loại và các trị số của từng tiêu chí qua các thời kỳ có thể thấy qua Bảng 1, trong công nghiệp và khai khoáng dùng tiêu chí vốn góp và lao động; trong thương mại và dịch vụ khác dùng tiêu chí doanh thu và lao động. Bảng 1. Tiêu thức xác định SME ở Đài Loan qua các thời kỳ Tiêu chí Lao động Vốn góp (tổng thường Doanh số Thời kỳ giá trị tài sản) Ngành xuyên ( triệu T$) triệu T$ ( người) 1967- Sản xuất công nghiệp < 5 <100 - 1973 Thương mại, dịch vụ < 50 < 5 Sản xuất công nghiệp < 5(< 20)* < 100 - 1973- Thương mại dịch vụ - (200,300) < 5 1977 < 50 Sản xuất công nghiệp < 20(60)* < 300 - 1977- Khai khoáng < 20 < 500 - 1979 Thương mại, dịch vụ - < 50 < 20 Sản xuất công nghiệp < 20 (60)* < 300 - 1979- Khai khoáng < 40 < 500 - 1982 Thương mại, dịch vụ - < 50 < 50 Sản xuất công nghiệp <40 (120) < 300 - 1982- Khai khoáng < 40 < 500 - 1991 Thương mại, dịch vụ - < 50 < 40 Công nghiệp xây dựng < 40 (120) < 300 - 1991 - Khai khoáng < 40 < 500 - nay Thương mại, dịch vụ - < 50 < 40 Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Nguồn: Kỷ yếu khoa học, Dự án chính sách hỗ trợ phát triển SME ở Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996 Chú thích: * : Số trong ngoặc đơn là tổng giá trị tài sản. : Trong ngành may mặc: số lao động dưới 300 người Trong công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm: dưới 200 người Trong các ngành khác: dưới 100 người. Trong thời gian hơn 30 năm qua, tiêu chí SME ở Đài Loan đã được điều chỉnh 6 lần. Sự thay đổi trong khái niệm SME theo hướng: tăng dần trị số các tiêu chí( trong sản xuất: vốn góp từ 5 triệu lên 40 triệu đôla Đài Loan, tổng giá trị tài sản từ 20 triệu lên 120 triệu đôla Đài Loan, doanh số từ 5 triệu lên 40 triệu), phân ngành hẹp hơn nhưng bao quát nhiều lĩnh vực hơn( từ hai nhóm ngành lên ba nhóm, bao quát rộng hơn: cả công nghiệp và xây dựng). Hiện nay, ở Đài Loan, khái niệm SME như sau: SME là doanh nghiệp: - Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: có vốn góp dưới 40 triệu đôla Đài Loan( khoảng 1,4 triệu USD), số lao động thường xuyên dưới 300 người. - Trong khai khoáng: có vốn góp dưới 40 triệu đôla Đài Loan( khoảng 1,4 triệu USD), lao động thường xuyên dưới 500 người. - Trong thương mại, vận tải và dịch vụ khác: có tổng doanh số hàng năm dưới 40 triệu đôla Đài Loan, lao động dưới 50 người. * Hàn Quốc Theo sắc lệnh cơ bản của Hàn Quốc về SME, việc phân loại quy mô doanh nghiệp được thực hiện theo hai nhóm ngành: - Trong ngành chế tạo, khai thác, xây dựng: doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 600000 USD và số lao động thường xuyên dưới 300 người. Nếu doanh nghiệp có dưới 20 lao động thường xuyên là doanh nghiệp nhỏ. - Trong thương mại: SME là doanh nghiệp có doanh thu một năm dưới 250000 USD. Doanh nghiệp có lao động dưới 5 người được coi là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có từ 6-20 công nhân là doanh nghiệp vừa. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ với số lao động cao hơn hoặc thấp hơn mức nói trên vẫn thuộc loại vừa và nhỏ: - Trong ngành sản xuất linh kiện ô tô, linh kiện điện tử: số công nhân tới 1000 người; - Trong các ngành khai khoáng, may, sản xuất xăm lốp, đúc, sản xuất xe đạp, kính đeo, đồ chơi: tới 700 người; - Ngành đồ hộp, dệt, nhuộm, in, cao su, thuỷ tinh, bóng đèn, phương tiện viễn thông, đồng hồ đeo tay, nhạc cụ, vận tải: tới 500 người; - Trong ngành du lịch, sửa chữa ô tô, xe máy: tới 200 người. Về vốn cũng có một số ngoại lệ: - Khai khoáng: tới 120 triệu won - Ngành chế tạo và khai thác kim loại đen: tới 150 triệu won, - Gỗ, đồ chơi, búp bê: tới 200 triệu won - Thực phẩm, đồ uống, thuốc lá: tới 25 triệu won. - Quần áo may sẵn, dệt, da, hoá chất, xăng dầu, cao su, nhựa: tới 300 triệu won - Giấy, in ấn, lắp ráp máy, sắt thép, cán thép, linh kiện ô tô: tới 600 triệu won *Philippin Trong sản xuất, doanh nghiệp được chia thành 4 loại: Doanh nghiệp cực nhỏ và hộ gia đình: có vốn dưới 1, 5 triệu peso( 72000 USD) Doanh nghiệp nhỏ: có vốn từ 1,5 -15 triệu peso( 72.000-720.000 USD) Doanh nghiệp vừa: có vốn từ 15 triệu – 60 triệu peso( 720.000 -2,9 triệu USD) Doanh nghiệp lớn: có vốn trên 60 triệu peso ( trên 2,9 triệu USD) * Liên minh châu Âu SME là doanh nghiệp có dưới 250 lao động, doanh số không quá 40.000 ECU hoặc tổng số vốn hàng năm không quá 27 triệu ECU, có cổ phần không quá 25% ở một xí nghiệp lớn. Có thể khái quát lại, việc phân chia doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ ở các nước theo ngành nghề và khác nhau trong từng thời kỳ. Các tiêu chí được sử dụng Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp phổ biến ở nhiều nước là số lao động thường xuyên, vốn đầu tư, doanh số, còn trị số các chỉ tiêu thì khác nhau và phụ thuộc trình độ phát triển kinh tế của từng nước. Bảng 2. Tiêu thức xác định SME ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ Tổng số vốn Số lao Nước Loại doanh nghiệp hoặc giá trị tài Doanh số /năm động(người) sản CHLB SME < 500 <100 triệu DM Doanh nghiệp nhỏ < 9 < 1 triệu DM Đức Australia SME < 500 < 20 triệu đôla Canada SME <500 Canada SME trong công <300 <0,6 triệu Hàn Quốc nghiệp < 20 USD SME trong dịch vụ (trừ <0,25 triệu giao thông vận tải) USD Hồng SME trong công < 100 <120 triệu Kông nghiệp < 50 đôla Hồng SME trong dịch vụ Kông SME <300 trong Trong thương công nghiệp mại dịch vụ: < xây dựng 1,4 triệu USD Đài Loan <50 trong thương mại, dịch vụ SME < 100 < 500 triệu Singapore đôla Singapore SME < 200 < 50 triệu Bath Thái Lan Công nghiệp gia đình < 10 < 1 triệu Bath Doanh nghiệp nhỏ 10 - 49 < 10 triệu Bath SME < 200 < 2 tỷ rupia Indonesia Doanh nghiệp cực nhỏ < 2 triệu rupia < 50 triệu rupia Doanh nghiệp nhỏ < 20 < 600 triệu rupia < 1 tỷ rupia SME < 200 < 60 triệu peso Doanh nghiệp cực nhỏ < 9 < 150. 000 Hộ thủ công < 9 150.000-1,5 Philippin triệu peso Doanh nghiệp nhỏ 10-99 1,5 triệu peso- 15 triệu peso Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp SME < 200 < 2,5 triệu đôla Malaysia Malaysia Doanh nghiệp nhỏ < 50 < 0,5 triệu đôla Malaysia Myanmar SME < 100 Nguồn: Kỷ yếu khoa học, Dự án chính sách hỗ trợ phát triển SME ở Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996. 2.4. Các cách phân loại ở Việt Nam Ở Việt Nam, trong suốt một thời gian dài, tiêu chí về doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được quy định trong bất kỳ một văn bản luật hay dưới luật nào. Trong cơ chế bao cấp, các doanh nghiệp Nhà nước được chia thành doanh nghiệp loại 1, doanh nghiệp loại 2, doanh nghiệp loại 3 với tiêu chí phân loại chủ yếu là số lao động trong biên chế và theo phân cấp Trung ương- địa phương. Trong đó, SME gần như tương ứng với doanh nghiệp loại 2 và loại 3. Theo thông tư liên bộ số 21/LĐTT ngày 17/6/1993 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính, các doanh nghiệp ở Việt Nam được phân chia thành 5 hạng: hạng đặc biệt, hạng I, II, III, IV dựa trên độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất, kinh doanh với 8 tiêu chí rất phức tạp như vốn, công nghệ, lao động, lợi nhuận, doanh thu Đối tượng phân loại chủ yếu chỉ giới hạn trong các doanh nghiệp nhà nước với mục đích chủ yếu là để xếp lương cho cán bộ quản lý doanh nghiệp. Trước năm 1998, do yêu cầu của thực tiễn, một số cơ quan và một số nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra một số tiêu chí để xác định SME ở Việt Nam. Các ý kiến đề xuất phần lớn đều kiến nghị lấy hai tiêu chí là vốn và lao động. Cụ thể: - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam quy định một doanh nghiệp với không quá 500 lao động, trị giá tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng năm không quá 20 tỷ đồng là SME. - Bộ Tài chính và Bộ Lao động thương binh xã hội quy định SME là doanh nghiệp có số lao động thường xuyên dưới 100 người, doanh thu hàng năm không quá 10 tỷ đồng và có số vốn pháp định là dưới 1 tỷ đồng. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp - Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tại Việt Nam VIE/US/95/004 được tài trợ bởi UNIDO, đối tác của Bộ Kế hoạch và đầu tư cho rằng một doanh nghiệp có số lao động không quá 30 người và có vốn đăng ký dưới 1 tỷ đồng là doanh nghiệp nhỏ. Doanh nghiệp có số lao động 31 người trở lên và vốn đăng ký dưới 5 tỷ đồng là doanh nghiệp vừa. - Quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ( chương trình do SMEDF – VN- EU ) quy định những doanh nghiệp có từ 10 đến 500 lao động và vốn pháp định từ 50.000 USD đến 300.000 USD được chương trình này hỗ trợ. - Quỹ Phát triển Nông thôn ( Ngân hàng Nhà nước ) cho rằng SME là doanh nghiệp có số lao động không quá 500 người và có số vốn dưới 2 tỷ đồng. Ngày 20/6/1998, Chính phủ đã có công văn 681/CP-KTN về định hướng chiến lược và chính sách phát triển SME trong đó nêu rõ : “ Tạm thời quy định thống nhất tiêu chí xác định SME ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm không quá 20 người”. Công văn cũng chỉ rõ doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 50 người ( đối với các doanh nghiệp công nghiệp ) hoặc 30 người ( đối với các doanh nghiệp thương mại ) và vốn không lớn hơn 1 tỷ đồng, còn “ các doanh nghiệp vừa” sẽ bao gồm doanh nghiệp có số lao động từ 31 đến 200 người và có số vốn từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng. Bảng 3. Phân loại SME ở Việt Nam theo công văn 681/CP-KTN Loại doanh nghiệp Lao động (người) Vốn (VND) Lớn >200 >5 tỷ Vừa 51-199 1-5 tỷ < 50 trong công nghiệp Nhỏ <1 tỷ < 30 trong dịch vụ, thương mại Nguồn: Công văn 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 Gần đây nhất, tại Điều 3 Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển SME, chính phủ đã quy định rõ về SME . Theo đó " Doanh nghiệp vừa và nhỏ là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp lao động trung bình hàng năm không quá 300 người". Việc áp dụng một trong hai tiêu chí hoặc cả hai tiêu chí tuỳ thuộc tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của từng ngành, địa phương. Dựa trên hai tiêu chí này thì phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm hơn 95% trên tổng số doanh nghiệp hiện có. Có thể nói, hoạt động của SME đã trở thành một trong những đặc trưng của hoạt động kinh doanh của Việt Nam. Như vậy, sau một thời gian dài, định nghĩa về SME ở Việt Nam đã được chính thức nêu lên. Điều này thực sự có ý nghĩa, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả việc ban hành và thực hiện các chính sách hỗ trợ SME của cơ quan Nhà nước và các tổ chức trong và ngoài nước. 3. Những ƣu thế và hạn chế của các SME Trong nền kinh tế thị trường, cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, SME cũng có những ưu thế lẫn những hạn chế riêng. 3.1. Ưu thế của SME 3.1.1. SME được tạo lập dễ dàng, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp Để thành lập một doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chỉ cần một số vốn đầu tư ban đầu tương đối ít, mặt bằng sản xuất và quy mô nhà xưởng không lớn. Các doanh nghiệp này rất linh hoạt trong việc học hỏi, phát triển và tránh được những thiệt hại to lớn trong môi trường khách quan tác động lên. Mặt khác, do SME được thành lập mang tính gia đình, bạn bè nên mỗi khi khó khăn, công nhân và chủ doanh nghiệp dễ dàng tự hạ thấp tiền lương, có tinh thần nỗ lực vượt khó. Điều đó khiến SME giảm được chi phí cố định, tận dụng lao động với giá công thấp để thay việc mua sắm thiết bị. 3.1.2. SME năng động, dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, lại thường có mối liên hệ trực tiếp với thị trường và người tiêu thụ nên các SME dễ dàng tìm kiếm và đáp ứng những yêu cầu trong thị trường chuyên môn hoá, đặc biệt có khả năng “len” vào các thị trường “ngách”. Cơ sở vật chất kỹ thuật không lớn cũng giúp SME dễ dàng chuyển đổi sản xuất hay điều chỉnh quy mô của mình mà không gây hậu quả cho xã hội. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp SME có khả năng tạo ra một lượng cung về hàng hoá dịch vụ đủ sức đáp ứng đầy đủ, kịp thời với giá cả hợp lý cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. 3.1.3. SME dễ thu hút vốn đầu tư trong dân và tận dụng các nguồn lực địa phương Các SME thu hút được khá nhiều vốn trong dân do tính chất hiệu quả, quy mô sản xuất của nó đòi hỏi không nhiều, thời gian thu hồi vốn nhanh. Mặt khác, trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp kiểu này có thể dễ dàng huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè. Hơn nữa, khác với các doanh nghiệp lớn gặp khó khăn trong việc sử dụng nguyên liệu sẵn có tại địa phương do trữ lượng hạn chế không đảm bảo cho sản xuất lớn, các SME với lợi thế quy mô nhỏ được phân tán ở hầu hết khắp các địa phương, vùng lãnh thổ nên SME có khả năng tận dụng tiềm năng về lao động, tận dụng tài nguyên và tư liệu sản xuất sẵn có tại địa phương nhưng có trữ lượng hạn chế, không đáp ứng nhu cầu sản xuất quy mô lớn. Do vậy, có thể phát huy triệt để tiềm lực trong nước cho sản xuất, kinh doanh. 3.2. Hạn chế 3.2.1. Khả năng tài chính hạn chế Các SME thường gặp rất nhiều khó khăn về vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất. Tình trạng thiếu vốn của SME có nhiều nguyên nhân. Trong đó, có nhiều doanh nghiệp không có khả năng đáp ứng đòi hỏi của ngân hàng về thủ tục lập dự án, thủ tục thế chấp và điều kiện lãi suất. Đồng thời các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn và ít khả năng huy động vốn trên thị trường. Phần lớn các doanh nghiệp luôn ở tình trạng thiếu vốn. Điều này khiến cho khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp bị giới hạn ngay cả khi có cơ hội kinh doanh và có yêu cầu mở rộng sản xuất, kéo theo sự hạn chế trong khả năng tích luỹ. 3.2.2. Bất lợi trong mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị và tiếp cận thông tin Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các SME thường gặp nhiều bất lợi hơn các doanh nghiệp lớn khi mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị. Bởi lẽ, do quy mô kinh doanh nhỏ, khả năng tài chính hạn hẹp nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ không được hưởng khoản chiết khấu giảm giá theo số lượng. Khi cần nhập khẩu máy móc thiết bị của nước ngoài, doanh nghiệp thường thiếu ngoại tệ nên không mua được trực tiếp mà phải qua khâu trung gian nên giá mua bị đắt. Hơn nữa, SME thường bị thua thiệt so với doanh nghiệp lớn về thông tin. Đó là do phạm vi hoạt động và giao Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp dịch của SME thường hẹp hơn so với doanh nghiệp lớn. SME cũng bị hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn thông tin do thiếu kinh phí, cũng như thiếu thiết bị. 3.2.3. Hạn chế về trình độ quản lý và tay nghề của người lao động Người quản lý của SME thường là người chủ doanh nghiệp. Do phải tự thân lập nghiệp, họ vừa là nhà đầu tư, vừa là chủ, vừa là nhà quản lý, nên đa số họ gặp rất nhiều khó khăn trong nghiệp vụ quản lý doanh nghiệp, quản lý con người, quản lý tài chính Những hạn chế đó cũng tạo nên những bất lợi của các SME so với các doanh nghiệp lớn khi mà các doanh nghiệp lớn luôn có đội ngũ các nhà quản lý dày dạn chuyên môn, có kinh nghiệm nhiều năm ở các vị trí quản lý khác nhau. Với quy mô nhỏ, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, SME khó có thể trả lương cao cho người lao động. Doanh nghiệp cũng khó có khả năng thu hút được những người lao động có trình độ cao trong sản xuất và quản lý, điều hành. Bên cạnh đó, định kiến của người lao động cũng như của những người thân của họ về khu vực này vẫn còn khá lớn. Người lao động ít được đào tạo, đào tạo lại do kinh phí hạn hẹp. Vì vậy trình độ thấp và kỹ năng thấp. Ngoài ra, sự không ổn định khi làm việc cho các SME, cơ hội để phát triển thấp tại các doanh nghiệp này cũng tác động làm cho nhiều lao động có kỹ năng không muốn làm việc cho khu vực này. 3.2.4. Hạn chế về khả năng cạnh tranh trên thị trường Do quy mô nhỏ, các SME thường gặp bất lợi khi cạnh tranh trên thị trường với các doanh nghiệp lớn. Các SME không thể có nhiều vốn và “trường vốn” bằng các doanh nghiệp lớn. SME cũng khó có thể có những chiến dịch quảng cáo và tiếp thị lớn nhằm thu hút người tiêu dùng như các doanh nghiệp lớn. SME thường không có mạng lưới phân phối rộng khắp như các doanh nghiệp lớn. Do đó, trên thị trường các SME thường yếu thế hơn so với những doanh nghiệp lớn. Do gặp nhiều khó khăn như vậy nên khi có biến động lớn trên thị trường, các SME dễ bị phá sản do khả năng tài chính hạn chế. Ngoài những hạn chế nêu trên, còn có thể nảy sinh một số tiêu cực ảnh hưởng không tốt tới đời sống kinh tế - xã hội như hiện tượng làm hàng giả; trốn, lậu thuế; gây ô nhiễm môi trường Vì vậy, quá trình hoạt động của SME rất cần sự hướng dẫn, điều chỉnh, hỗ trợ của Nhà nước. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp 4. Vai trò của SME Quá trình hình thành và phát triển của SME tại nhiều nước trên thế giới đã khiến Chính phủ và các nhà kinh tế các nước nhận thức được đầy đủ vai trò quan trọng của SME trong nền kinh tế. Đó là: 4.1. Đóng góp không nhỏ vào GDP Tại hầu hết các quốc gia với ưu thế vượt trội về số lượng, các SME thường đóng góp khoảng 20-50% thu nhập quốc dân. Năm 1994, SME ở Mỹ tạo ra trên 50% GDP( trên 3000 tỷ USD so với GDP là 6000 tỷ USD). Ở Đức 50%, Indonesia : 38,9%, Philippin : 28%, Malaysia : 50,5% GDP trong công nghiệp [1.32]. Tại Nhật Bản, số liệu của bảng 4 dưới đây cho thấy khu vực SME tạo ra hơn 50% doanh thu của khu vực doanh nghiệp. Bảng 4. Doanh thu của các doanh nghiệp ngành sản xuất ở Nhật Đơn vị : tỷ yên 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 157,139 159,523 164,025 157,940 150,550 153,624 146,818 137,776 SME (51.3%) (51.0%) (50.8%) (51.6%) (51.7%) (51.1%) (51.2%) (51.1%) Doanh 148,890 153,546 159,047 147,929 140,900 146,854 139,849 131,586 nghiệp (48.7%) (49.0%) (49.2%) (48.4%) (48.3%) (48.9%) (48.8%) (48.9%) lớn Tổng 306,030 313,068 323,072 305,869 291,450 300,478 286,667 269,362 Nguồn: Cục Quản lý và Hợp tác, Điều tra về thành lập và Doanh nghiệp Nhật, năm 2001. Bên cạnh đó, các SME ở Nhật cũng tạo ra giá trị gia tăng lớn, chiếm hơn 50%. Con số này thể hiện tầm quan trọng của các SME trong sự đóng góp vào GDP của Nhật. Bảng 5. Giá trị gia tăng do các SME Nhật tạo ra. SME Doanh nghiệp lớn Năm Giá trị (tỷ yên) Tỷ lệ (%) Giá trị ( tỷ yên) Tỷ lệ (%) 1988 129.343 58.9 90.166 41.1 1989 130.986 56.9 99.355 43.1 1990 138.668 56.2 108.34 43.8 1991 152.583 57.5 113.005 42.5 1992 154.570 57.7 113.463 42.3 1993 154.319 57.9 112.286 42.1 Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp 1994 157.222 57.7 115.255 42.3 1995 158.715 57.2 118.558 42.8 1996 147.384 54.6 122.754 44.5 1997 152.384 55.5 122.754 44.5 1998 153.151 56.6 117.262 43.4 1999 148.034 55.3 119.697 44.7 2000 153.404 55.5 123.225 44.5 2001 140.357 54.6 116.534 45.4 2002 138.717 53.8 119.152 46.2 Nguồn: Bộ tài chính Nhật Bản, Báo cáo hàng năm thống kê về các công ty (2003) Ở Việt Nam, nếu tính theo doanh thu của các doanh nghiệp cả nước, tỷ trọng doanh thu của khu vực SME theo quy mô lao động năm 2002-2004 là 81,5%- 86,5%. Điều đó chứng tỏ các SME có đóng góp không nhỏ vào việc gia tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Bảng 6. Tỷ trọng doanh thu SME trong nền kinh tế Nhật Năm Toàn bộ Tỷ trọng doanh Chia ra theo quy mô lao động (%) doanh thu thu SME (%) Dưới 5 Từ 5-200 Từ 200-300 (Tỷ đồng) người 2002 364844 86,5 4,9 74,2 4,4 2003 485104 82,0 4,2 70,6 7,3 2004 640087 81,5 4,4 72,5 4,6 Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2005. Về đóng góp vào GDP : từ chỗ tỷ lệ trong GDP của khu vực SME không đáng kể đầu những năm 1990, đến nay tỉ lệ này khoảng 24-25%. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì đây vẫn là mức thấp. 4.2. Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn Do số lượng các SME lớn nên làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời làm tăng số lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Ngoài ra, các SME có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ, và chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các SME trong nền kinh tế có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn : làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp hóa, cung cấp các đầu vào như nguyên liệu, thâm nhập vào mọi ngõ ngách của thị trường mà các doanh nghiệp lớn không với tới được, thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá và phân công lao động trong sản xuất, làm tăng hiệu quả của chính các SME cũng như các doanh nghiệp lớn. Tại Nhật Bản, số lượng các SME của Nhật tăng nhanh chóng trong các thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế (Đồ thị 1). Mặc dù trong những năm gần đây, tốc độ tăng có giảm đi, song số SME vẫn tăng lên do sự mở rộng các tiêu chí xác định SME theo Luật cơ bản năm 1999. Tính đến năm 2001, Nhật có gần 5 triệu SME chiếm tới 99,7% số doanh nghiệp cả nước (Bảng 7). Số doanh nghiệp này thực hiện kinh doanh ở hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế, tập trung nhiều nhất ở các lĩnh vực bán lẻ, dịch vụ và sản xuất. Chính số lượng đông đảo các SME này đã giúp cho nền kinh tế Nhật ngày càng trở nên năng động, hiệu quả. Đồ thị 1. Số lƣợng các SME ở Nhật qua các giai đoạn Nguồn : Cục Quản lý và Hợp tác, Điều tra về thành lập và Doanh nghiệp Nhật, năm 2001. Bảng 7. Số lƣợng doanh nghiệp Nhật năm 2001 Lĩnh vực SME Doanh nghiệp lớn Tổng số Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Sản xuất và lĩnh 1,498,351 99.8 3,294 0.2 1,501,645 100.0 vực khác Bán buôn 255,587 99.1 2,394 0.9 257,981 100.0 Bán lẻ 1,743,848 99.8 4,000 0.2 1,747,848 100.0 Dịch vụ 1,191,823 99.7 3,742 0.3 1,195,565 100.0 Tổng số 4,689,609 99.7 13,430 0.3 4,703,039 100.0 Nguồn : Cục Quản lý và Hợp tác, Điều tra về thành lập và Doanh nghiệp Nhật, năm 2001. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp 4.3. Góp phần tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nền kinh tế tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp với qui mô khác nhau phụ thuộc vào các đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của từng ngành quy định. Mỗi qui mô với ưu thế của mình lại đảm nhận một nhiệm vụ khác nhau theo sự phân công tự nhiên của nền kinh tế. Sự phát triển mạnh các SME làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế: - Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi: các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp và củng cố lại, kinh doanh có hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. - Cơ cấu ngành: phát triển nhiều ngành, nghề đa dạng, phong phú ( cả ngành nghề hiện đại và truyền thống) theo hướng lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. - Cơ cấu vùng lãnh thổ: Sự phát triển của SME góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối trong phát triển giữa các vùng. Nó giúp cho vùng sâu, vùng xa, các vùng nông thôn có thể khai thác được tiềm năng của vùng, của địa phương để phát triển các ngành sản xuất, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ. Đây cũng là vấn đề có ý nghĩa để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 4.4. Tạo việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, nâng cao thu nhập người dân, ổn định xã hội Sự tồn tại và phát triển của SME là một phương tiện hiệu quả để giải quyết vấn đề thất nghiệp, là nguồn chủ yếu tạo ra việc làm. Lý do đơn giản là SME thường có lượng vốn không lớn và thường xuyên đáp ứng được nhu cầu thay đổi của thị trường. Nhìn chung ở các nước, số lượng doanh nghiệp này thường chiếm 81 – 98% tổng doanh nghiệp trong nền kinh tế, nên theo quy luật số đông, dù lao động làm việc trong từng doanh nghiệp không nhiều nhưng các SME giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động xã hội [1.33]. Tại Nhật Bản, do số lượng hùng hậu và tính đa dạng về lĩnh vực kinh doanh của các SME, chúng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo việc làm, thu hút lao động. Trong những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế Nhật, các doanh nghiệp lớn liên tục sa thải lao động, khu vực SME chính là một nguồn quan trọng thu hút số lao động bị sa thải đó. Hiện Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp nay, khu vực SME tạo việc làm thường xuyên cho gần 30 triệu lao động, chiếm hơn 70% số lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp cả nước. Bảng 8. Số lƣợng lao động trong các doanh nghiệp Lĩnh vực SME Doanh nghiệp lớn Tổng số Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Sản xuất và 13,093,499 65.6 6,858,516 34.4 19,952,015 100.0 lĩnh vực khác Bán buôn 2,467,928 67.8 1,170,471 32.2 3,638,399 100.0 Bán lẻ 7,677,242 74.3 2,658,078 25.7 10,335,320 100.0 Dịch vụ 6,724,696 77.0 2,005,533 23.0 8,730,229 100.0 Tổng số 29,963,365 70.2 12,692,598 29.8 42,655,963 100.0 Nguồn: Cục Quản lý và Hợp tác, Điều tra về thành lập và Doanh nghiệp Nhật năm 2001. Ở Nhật năm 2001, số lượng SME là 4,6 triệu, chiếm 99,7%, giải quyết việc làm cho 19,9 triệu lao động, chiếm 70,2%. Do vậy, khi nền kinh tế suy thoái, các SME luôn đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm, ổn định xã hội do có tính linh hoạt , uyển chuyển, dễ thích ứng với thay đổi của thị trường, trong khi doanh nghiệp lớn thường phải cắt giảm lao động. 4.5. Hỗ trợ doanh nghiệp quy mô lớn, là cơ sở hình thành những doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn trong quá trình phát triển kinh tế thị trường Ở bất kì quốc gia nào, tất cả các nguồn lực kinh tế không thể tập trung vào các doanh nghiệp có quy mô lớn, mà phải có các SME để tập trung vào “ thị trường ngách ” hỗ trợ doanh nghiệp lớn tiếp cận thị trường; đồng thời cung cấp các sản phẩm đầu vào cho doanh nghiệp lớn. Chính nhờ đó mà giữa các loại hình kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ, nâng cao năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Một doanh nghiệp khi mới thành lập không phải lúc nào cũng có nguồn lực tài chính dồi dào để hoạt động với quy mô lớn. Rất nhiều tập đoàn kinh tế đã được thành lập từ những chi nhánh, phân xưởng nhỏ Nhờ tích luỹ vốn, kinh nghiệm mà các doanh nghiệp “ vệ tinh ” có thể trở thành các công ty lớn, các tập đoàn kinh tế. Nói cách khác, SME là khởi nguồn cho sự hình thành và phát triển các loại hình doanh nghiệp lớn trong xã hội. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp 4.6. Đào tạo, phát triển đội ngũ doanh nhân giỏi Cùng với việc phát triển các SME là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các chủ doanh nghiệp. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay, các chủ doanh nghiệp phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, chính môi trường cạnh tranh khốc liệt ấy lại là nơi để các tài năng kinh doanh rèn luyện thử thách. Trải qua mỗi thử thách, các tố chất kinh doanh sẽ càng được bộc lộ, những kinh nghiệm ngày càng được tích luỹ nhiều lên và các chủ doanh nghiệp ngày càng trưởng thành. Đồng thời quá trình này tạo cơ hội để củng cố đội ngũ các chủ doanh nghiệp, với những trọng trách và cam kết đáp ứng các thay đổi của nhu cầu khách hàng ngày càng cao. 4.7. Thúc đẩy phát triển công nghệ Do số lượng các doanh nghiệp rất lớn nên tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp rất gay gắt. Các SME muốn tồn tại phải luôn thay đổi, nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân. Do vậy, nâng cao trình độ công nghệ là một đòi hỏi cấp thiết. Hơn nữa, các doanh nghiệp SME thường phát triển ở các thị trường ngách sẽ phát triển những kỹ thuật công nghệ mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được. Với quy mô vừa và nhỏ, các SME cũng dễ dàng cải tiến công nghệ để phù hợp với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật. Thực tế đã chứng minh, nhiều phát minh mới có ý nghĩa thực tiễn cao lại bắt nguồn từ các SME. Tại Nhật Bản, các SME đóng vai trò hết sức quan trọng. Những số liệu và phân tích mang tính chất so sánh giữa các SME với các doanh nghiệp lớn của Nhật dưới đây sẽ cho thấy tầm quan trọng của khu vực SME trong nền kinh tế. Như vậy, SME có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước, dù là nước có trình độ phát triển cao hay nước đang phát triển. Sự tồn tại và phát triển của các SME là một tất yếu khách quan và cần thiết trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. 1. Các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển SME của các nƣớc trên thế giới. Do vai trò to lớn của các SME nên chính phủ nhiều nước rất quan tâm khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp này. Các hình thức hỗ trợ các SME rất đa dạng, phong phú nhưng phổ biến là các hình thức dưới đây: - Tạo hành lang pháp lý cho các SME - Có chiến lược khuyến khích các SME - Có chính sách ưu đãi ( về thuế, lãi suất ) đối với các doanh nghiệp này - Thành lập các cơ quan chuyên trách hỗ trợ về marketing, công nghệ, thị trường cho các SME - Khuyến khích thành lập các đại diện của các SME - Phát huy vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong việc hỗ trợ các SME 1.1. Tạo khung khổ pháp lý khuyến khích các SME Đây là một trong những vấn đề rất cơ bản, làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện những chính sách, giải pháp hỗ trợ các SME. Do vậy, ở các nước, ngoài cơ sở pháp lý chung cho các doanh nghiệp còn có luật về SME. Dưới đây là một số luật đặc thù cho các SME ở một số nước : - Cộng hoà Liên bang Đức có Luật doanh nghiệp nhỏ (1996) quy định điều kiện được công nhận là doanh nghiệp nhỏ, tiêu thức về đào tạo nghề và điều kiện tay nghề của những người dạy nghề đối với doanh nghiệp nhỏ, kiểm tra tay nghề đối với các đốc công, điều kiện cung cấp tài chính, - Đài Loan có Sắc lệnh của Tổng thống (1991) và Đạo luật về cấp vốn cho việc phát triển các SME( Budgeting for Small and medium Scale Business Development Act). Đạo luật này quy định về phân loại SME, khuyến khích giúp đỡ và hỗ trợ các SME , cung cấp tài chính, khuyến khích mở rộng thị trường, miễn giảm thuế, thành lập uỷ ban hoạch định chính sách - Hàn Quốc có 12 đạo luật về SME: Đạo luật cơ bản về doanh nghiệp nhỏ (1966), Đạo luật về hợp tác giữa các doanh nghiệp nhỏ (1961), Luật phối hợp giữa Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp các thành phần của doanh nghiệp vừa và nhỏ (1961), Luật khuyến khích hệ thống thầu phụ (1975), Luật khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ (1978), Luật về mua sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (1981), Luật về thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới thành lập (1986), Luật hỗ trợ quản lý và đổi mới cơ cấu doanh nghiệp vừa và nhỏ (1962), Luật tài trợ các doanh nghiệp SME sử dụng công nghệ mới (1989) Tóm lại, hệ thống khung khổ các nước được tạo ra nhằm: - Thiết lập khái niệm chung về SME - Khẳng định vai trò của các SME ( được thừa nhận về mặt pháp lý). - Khuyến khích tìm kiếm mọi giải pháp nhằm phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.2. Các chiến lược phát triển và chính sách hỗ trợ SME Chiến lược phát triển các SME chủ yếu theo hướng sau: - Xác định rõ ngành nghề cần hỗ trợ ( nhằm thực hiện các mục tiêu của từng nước : thu nhập, việc làm ), hoạt động cần hỗ trợ (đào tạo, mở rộng quy mô, hiện đại hoá doanh nghiệp, nghiên cứu ứng dụng, công nghệ mới ) - Có các giải pháp định hướng cho từng giai đoạn. Chính sách hỗ trợ SME : chủ yếu tập trung vào chính sách thuế, vốn, đào tạo, công nghệ. Dưới đây là một số chính sách ở các nước, trong đó giảm thuế là giải pháp khá phổ biến. Ở cộng hoà liên bang Đức các doanh nghiệp có lợi nhuận hàng năm dưới 2 triệu DM chỉ phải nộp mức thuế bằng 50% các hãng lớn. Chính phủ Đức tăng tài trợ cho các nghiên cứu khoa học – ứng dụng đổi mới các SME : năm 1988 là 749 triệu MD, năm 1989 là 736 triệu, năm 1990 là 675 triệu. Chính phủ Đức có kế hoạch giúp các SME hoạt động trong diều kiện thị trường chung châu Âu. Chi phí của nhà nước Đức cho các SME năm 1991 là 1,3 triệu DM. Ở Pháp, doanh nghiệp được giảm 75% thuế trong 5 năm đầu sau khi đi vào hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, nhiều nước sử dụng các hình thức khác như trợ cấp xuất khẩu, bảo hiểm, khuyến khích các doanh nghiệp lớn chuyển giao công nghệ, mở rộng hệ Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp thống vệ tinh đến các SME, giúp đỡ đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, tư vấn kỹ thuật – công nghệ, khuyến khích thành lập các hiệp hội của các SME . Nhà nước khuyến khích mở rộng sản xuất : tăng định mức khấu hao miễn phí, không đánh thuế lợi nhuận dùng để trả lãi suất tín dụng. Ở một số nước có các hình thức đáng chú ý như cấp vốn mạo hiểm : thành lập ngân hàng chuyên trách đảm bảo tài chính cho hoạt động nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ mới. Ở Mỹ có 10 ngân hàng như vậy với số vốn là 16 tỉ USD, ở Cộng hoà liên bang Đức có 40 tổ chức tương tự với số vốn 1,6 tỉ DM. Một hình thức hỗ trợ phổ biến và có hiệu quả là hỗ trợ về tín dụng: cấp tín dụng trực tiếp, cho vay lãi suất thấp, bảo lãnh tín dụng. Chẳng hạn ở Anh, trong 5 năm (1982 – 1986), 15 nghìn doanh nghiệp nhỏ nhận các khoản tín dụng trị giá 500 triệu bảng. Các bang ở cộng hoà liên bang Đức đã lập ra các quỹ tín dụng để giúp các SME vay vốn ngân hàng. Liên minh châu Âu (EU) có các biện pháp trợ giúp thất nghiệp, bảo lãnh tín dụng cho các SME, trợ giúp về công nghệ mới thông qua “nhóm lợi ích kinh tế chung”, trợ giúp đào tạo lao động thông qua hệ thống đào tạo ban đầu, cấp vốn mạo hiểm 1.3. Thành lập các cơ quan chuyên trách về quản lý nhà nước đối với SME Hầu hết các nước trên thế giới đều có cơ quan quản lý nhà nước đối với các SME. Dưới đây là các cơ quan ở một số nước trên thế giới, cả những nước phát triển và nước đang phát triển. Mỹ có Tổng cục các vấn đề kinh tế nhỏ được thành lập năm 1953. Pháp có Uỷ ban quốc gia về công nghiệp vừa và nhỏ thành lập từ năm 1961. Inđônêxia có Cục công nghiệp nhỏ thuộc bộ công nghiệp với chức năng thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với SME như : lập kế hoạch và chương trình phát triển, xúc tiến phát triển SME ( kể cả việc thành lập các trung tâm hỗ trợ) Malaixia có Phòng công nghiệp nhỏ thuộc Bộ công nghiệp thương mại thành lập năm 1989 với chức năng lập chương trình phát triển SME, cung cấp tài chính, nối kết các hợp đồng kinh tế giữa các SME, cung cấp cơ sở dữ liệu cho Chính phủ hoạch định chính sách. Ở nước này có tới 13 bộ và 30 cơ quan công cộng tham gia dưới hình thức này hay hình thức khác vào việc phát triển SME. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Philippin có Uỷ ban doanh nghiệp nhỏ và vừa, Phòng phát triển kinh doanh và Phòng công thương là cơ quan cao nhất về phối hợp thực hiện chính sách và kế hoạch phát triển SME . Singapo có Vụ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc Bộ phát triển công nghiệp. Ngoài ra Nhà nước thành lập một mạng lưới gồm các tổ chức chính phủ và phi chính phủ để hỗ trợ các SME như : các trường đại học, cơ quan máy tính quốc gia, cơ quan phát triển thương mại, các tổ chức tài chính, các trung tâm tư vấn Thái Lan có Vụ khuyến khích phát triển công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp với các chức năng chủ yếu là xúc tiến phát triển SME, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, tư vấn cho các doanh nghiệp này. 1.4. Khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ và các hiệp hội của các SME Các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước có thể do Nhà nước trực tiếp thành lập, nhưng trên thực tế phần lớn các tổ chức này do doanh nhân thành lập với sự hỗ trợ của Nhà nước. Do đó các tổ chức này vừa mang tính chất kinh doanh, vừa thực hiện chức năng hỗ trợ trên cơ sở nguồn ngân quỹ được cấp. Các tổ chức này có chức năng chủ yếu như: cung cấp vốn, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiếp thị, đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, tư vấn cho SME. Ở các nước châu Á có nhiều tổ chức hỗ trợ SME . Dưới đây là các tổ chức hỗ trợ SME ở một số nước. Inđônêxia có các tổ chức: - Ngân hàng Inđônêxia : với chức năng chủ yếu là cung cấp vốn cho các SME. - Công ty nghiên cứu và phát triển công nghệ: thành lập năm 1978 với số vốn hoạt động hàng năm là 367.000 USD, chức năng chủ yếu là nghiên cứu và hỗ trợ SME. - Hãng quốc gia và phát triển xuất khẩu đối với SME. - Quỹ phát triển nghề thủ công: thành lập năm 1975 với chức năng chủ yếu là nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. - Viện quản lý, đào tạo và phát triển: thành lập năm 1976 với ngân quỹ hoạt động hàng năm là 150.000 USD, chức năng chính là đào tạo chủ doanh nghiệp. Malaixia có các tổ chức: Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp - Công ty bảo lãnh tín dụng : thành lập năm 1972 với chức năng chính là bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. - Công ty MARA: thành lập năm 1960 với 3000 nhân viên, vốn hoạt động hàng năm 165 USD, chức năng chính là cung cấp vốn tiếp thị, nghiên cứu, đào tạo, tư vấn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Trung tâm phát triển doanh nghiệp : thành lập năm 1975 với chức năng chính là đào tạo , tư vấn cho SME. - Công ty phát triển tài chính : thành lập năm 1960 với 30 nhân viên , vốn hoạt động là 2,5 triệu USD, chức năng là cung cấp vốn và tư vấn cho SME. - Trung tâm chất lượng quốc gia : thành lập năm 1962 với 235 nhân viên , vốn hoạt động là 3,1 triệu USD, có chức năng đào tạo và tư vấn cho SME. - Trung tâm công nghệ Cuala Lămpơ : có chức năng hỗ trợ, cung cấp và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hàn Quốc có các tổ chức: - Quỹ bảo lãnh tín dụng: thành lập năm 1976 với số nhân viên là 1.190 người, chức năng chủ yếu là bảo lãnh cho các SME được vay vốn, chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp này. - Viện phát triển công nghiệp Hàn Quốc: thành lập năm 1970 với 140 nhân viên , chức năng chính là đào tạo , tư vấn cho SME. - Trung tâm năng suất Hàn Quốc: thành lập năm 1957, số vốn hoạt động hàng năm là 3 triệu USD, có chức năng đào tạo , cung cấp và chuyển giao công nghệ, tư vấn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Hội nghiên cứu các doanh nghiệp nhỏ: thành lập năm 1978 với số vốn hoạt động hàng năm là 32.000 USD, chức năng chủ yếu là đào tạo chủ doanh nghiệp , cung cấp và chuyển giao công nghệ. - Ngân hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ: thành lập năm 1961 với 7.305 nhân viên, có chức năng đào tạo và tư vấn cho SME. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp 2. Vai trò của các chính sách phát triển SME Vai trò của các chính sách phát triển SME được thể hiện rõ ràng ở những lợi ích to lớn do việc hỗ trợ đó mang lại, cả cho chính các doanh nghiệp và Nhà nước và toàn xã hội. 2.1. Vai trò của chính sách hỗ trợ đối với SME Nâng cao năng lực của các SME. Các SME thường rất yếu ớt, đặc biệt trong kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt với những hạn chế như : năng lực quản lý yếu, công nghệ lạc hậu, vốn ít Do đó, để nâng cao năng lực và để các SME có thể tự phát huy sức mạnh của mình, cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Trong khi hoạt động, các SME có nhiều vấn đề mà bản thân không thể tự giải quyết được như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường, đào tạo nguồn nhân lực Chỉ khi có sự hỗ trợ của các chính sách của Nhà nước thì những vấn đề này mới được giải quyết một cách dễ dàng. Do vậy, sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ làm giảm bớt những khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đứng vững được trên thị trường và phát triển thuận lợi. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, để các SME đứng vững và vươn lên, Nhà nước cần có những chính sách và giải pháp hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp này. 2.2. Vai trò của chính sách hỗ trợ SME đối với Nhà nước và xã hội Thực tế của nhiều nước cho thấy, sự hỗ trợ không chỉ có lợi đối với các doanh nghiệp mà còn có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó thể hiện trên các mặt: Nuôi dưỡng các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Các SME thường chiếm một tỉ lệ rất lớn trong nền kinh tế của các nước. Do vậy, đóng góp cho ngân sách Nhà nước của các SME không phải là nhỏ. Đặc biệt khi Nhà nước có những chính sách hỗ trợ để các SME phát triển cả về số lượng và quy mô thì lượng tiền mà các SME đóng góp cho ngân sách Nhà nước càng không phải là nhỏ. Tại Việt Nam, mặc dù đóng góp của các SME vào thu ngân sách còn nhỏ nhưng tỷ lệ này đã tăng lên đáng kể và đang có xu hướng tăng nhanh trong mấy năm gần đây, từ 6,4% năm 2001 lên hơn 7,2% năm 2002. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp quốc doanh năm 2002 đạt 103,65% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Quý I/2003, số thu từ SME chiếm 11% tổng số thu[6.18]. Là một cách đầu tư gián tiếp của Nhà nước. Thay vì phải đầu tư trực tiếp để thành lập các doanh nghiệp Nhà nước( như mô hình kinh tế hiện vật trước đây ở Việt Nam) Nhà nước có thể đầu tư gián tiếp thông qua việc hỗ trợ cho các SME với số lượng lớn trong nền kinh tế. Tăng hiệu quả của việc đầu tư sản xuất. Thông qua các chính sách phát triển SME Nhà nước vừa huy động được mọi tiềm năng sáng tạo và tiềm lực trong dân, vừa thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước. Góp phần giải quyết những vấn đề xã hội. Khi các chính sách hỗ trợ SME có hiệu quả thì các vấn đề như thất nghiệp sẽ giảm. Bởi lẽ, khi các SME phát triển sẽ tạo nhiều việc làm. Điều này rất hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của Nhà nước( thay vì thành lập các doanh nghiệp mới Nhà nước, thì với số vốn đó có thể hỗ trợ cho rất nhiều doanh nghiệp đã sẵn có). Định hướng phát triển các SME. Thông qua các chính sách, Nhà nước có thể điều tiết khá dễ dàng sự phát triển của các SME. Đối với những ngành cần phát triển đầu tư, Nhà nước tạo nhiều ưu đãi và thuận lợi cho các SME. Ngược lại, những ngành, vùng cần thu hẹp thì Nhà nước cũng có thể hạn chế sự tham gia của các SME. Như vậy, các chính sách phát triển SME là rất cần thiết. Theo kết quả một cuộc điều tra tại Việt Nam năm 1995, các chuyên gia đánh giá cao vai trò của việc hỗ trợ SME: 100% số người được hỏi ý kiến đều cho rằng cần hỗ trợ SME, trong đó 64,4% ý kiến nói rằng rất cần hỗ trợ doanh nghiệp này[1.71]. Qua chương I, chúng ta có thể thấy rõ các SME đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế Nhật. Ngoài ra, chúng ta cũng thấy chính sách hỗ trợ loại hình doanh nghiệp này là rất cần thiết. Các nước trên thế giới đã có nhiều chính sách khác nhau để hỗ trợ sự phát triển của các SME . Vậy Nhật đã có những chính sách hỗ trợ SME như thế nào để có thể phát huy hiệu quả nhất tiềm năng của các SME? Chương II sẽ cho chúng ta câu trả lời. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp CHƢƠNG II CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHẬT Các SME ở Nhật đã phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Đó là do chính phủ Nhật đã có nhiều chính sách hỗ trợ, phát huy hiệu quả tiềm năng của loại hình doanh nghiệp này. Trong mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế chính phủ Nhật đều đưa ra những chính sách phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế giai đoạn ấy. Đây chính là nội dung được đề cập đến trong chương II. I. TRƢỚC NĂM 1954 1. Từ năm 1945 trở về trƣớc Là một nước bao gồm nhiều đảo nhỏ trong vùng gió mùa châu Á, nơi cây lúa là cây lương thực phổ biến, nền kinh tế Nhật từ lâu dựa vào nông nghiệp và ngư nghiệp. Gắn liền với nó là nền sản xuất gia dụng quy mô nhỏ, ngành lưu thông và nghề trồng lúa dựa vào lao động của các gia đình. Đây chính là cơ sở cho sự ra đời của các SME sau này. Trong thời kỳ đầu để có được một số vốn nhỏ và công nghệ tiên tiến để thực hiện kinh doanh và lập các xưởng thủ công là hết sức khó khăn. Hơn nữa, nhà nước phong kiến Nhật Bản chưa có sự quan tâm đúng mức, cũng như chưa có các chính sách và biện pháp thích đáng cho sự phát triển của các SME. Do vậy, các SME trong giai đoạn này chỉ là những xưởng thủ công nhỏ, những hộ kinh doanh gia đình. Phải đến nửa đầu thời Minh Trị, cùng với nhiều cải cách, chính sách phát triển công nghiệp và ngoại thương, hoạt động của các thương nhân tăng lên mạnh mẽ. Trong thời gian này, nhiều ngân hàng nhỏ ra đời và việc vay mượn trở nên phổ biến. Do vậy, nguồn vốn cung cấp cho các hoạt động sản xuất kinh doanh tăng dần lên. Từ đó các SME mới có được sự hỗ trợ về vốn, bắt đầu hình thành và bước vào hoạt động kinh doanh mạnh mẽ. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Tuy nhiên khi chiến tranh nổ ra năm 1945, chính phủ đã tiến hành tổ chức lại kinh doanh, thanh toán các cơ sở kinh doanh nhỏ để thu hút sức lao động của họ vào ngành sản xuất vũ khí, đạn dược. Như vậy, vào giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh, đa số những cơ sở kinh doanh nhỏ không trực tiếp liên quan đến việc sản xuất vũ khí, đạn dược biến mất. Mặc dù vậy, sau khi Nhật Bản bị thua trận, các loại kinh doanh nhỏ lại nhanh chóng xuất hiện và tăng nhanh về số lượng. Do vậy, chỉ khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các SME mới thực sự được coi là loại hình xí nghiệp có tác dụng và vị trí quan trọng trong nền kinh tế Nhật. 2. Thời kỳ phục hồi kinh tế (1945 – 1954) 2.1. Đặc điểm nền kinh tế. Một là nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn. Tháng 8 năm 1945, khi vừa bại trận, Nhật Bản bị tàn phá nặng nề về mọi mặt. Theo điều tra của cơ quan ổn định kinh tế sau chiến tranh thì tổng thiệt hại về vật chất lên tới 64,3 tỉ yên, bằng 2 lần tổng thu nhập quốc dân năm tài chính 1948-1949. Như vậy là toàn bộ của cải tích luỹ được trong mười năm 1935-1945 đã bị tiêu huỷ hoàn toàn. Những vấn đề kinh tế, xã hội gay cấn nhất lúc này là: thất nghiệp, thiếu nguyên liệu và lương thực, lạm phát. Khoảng 4 triệu người thất nghiệp do ngừng hoạt động sản xuất quân sự, 7,6 triệu binh sĩ giải ngũ, 1,5 triệu người từ các thuộc địa hồi hương, nâng tổng số người không có việc làm lên tới 13,1 triệu. Nguồn năng lượng chính lúc bấy giờ là than và thuỷ điện giảm sút nghiêm trọng.Thêm vào đó, vụ lúa năm 1945 bị thất bát nặng, sản lượng chỉ còn 2/3 so với năm trung bình trước đó. Lạm phát nghiêm trọng bùng nổ từ giữa những năm 1945 kéo dài đến đầu năm 1949. Trong thời gian này, cuộc sống của người dân thành thị nói chung ở trong tình trạng thiếu thốn, phải bán dần tài sản để ăn, nền kinh tế hàng hoá hầu như mất tác dụng, thành thị có nhiều nơi diễn ra cảnh hàng đổi hàng, ở đây lúa gạo và quần áo trở thành đối tượng trao đổi chính. GDP hồi đó khoảng 11 tỷ đô la( năm 1950). Sản xuất công nghiệp nhỏ chỉ bằng 30% giá trị bình quân của năm 1934 – 1936 trước chiến tranh.[9.149] Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Hai là Nhật Bản đã bị các lực lượng đồng minh, thực chất là quân đội Mỹ chiếm đóng. Chính phủ Nhật Bản vẫn được công nhận và tiếp tục cai trị đất nước. Quân đội chiếm đóng tuy chỉ điều khiển guồng máy hoạt động một cách gián tiếp nhưng lại thảo ra những văn kiện và các chính sách cải cách cơ bản ảnh hưởng đến chiều hướng phát triển kinh tế của Nhật Bản. Quân đồng minh chủ yếu là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ( GHQ : Bộ tổng tư lệnh các tư lệnh tối cao Liên hợp quốc = General Head Quarters ) trong thời gian này đã dùng chính sách kìm hãm trình độ phát triển kinh tế của Nhật Bản ở mức trước chiến tranh, tức là thời kì 1935 – 1937. Nhưng năm 1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, chính sách của quân đồng minh buộc phải thay đổi. Bởi vì lúc đó quân đội Mỹ rất cần Nhật Bản làm căn cứ hậu cần, làm nơi an dưỡng của quân đội, nơi sửa chữa và bổ sung vũ khí đạn dược. Các căn cứ quân sự thời chiến tranh như Yokosuka, Kure đã được sử dụng vào mục đích trên. Đồng thời các nhu cầu đặc biệt của quân đồng minh (chủ yếu là quân Mỹ ) cũng đã tạo cơ hội cho Nhật Bản phục hồi kinh tế. Ba là sự độc quyền của các zaibatsu. Đây là một đặc trưng của nền kinh tế Nhật lúc bấy giờ. Zaibatsu là những tập đoàn tư bản lớn thường là của một dòng họ. Những tập đoàn công ty gồm có Mitsui, Mitsubishi, Sumitomo, Yasuda, chi phối công ty chính là một công ty cổ phần mẹ. Ví dụ Tổng công ty Mitsui do dòng họ Mitsui trước đây đã thâu tóm 39 công ty lớn như Mitsuibussan, Toyoreon, Mitsui bank, Mitsui seimei Những zaibatsu này gần như thâu tóm hết toàn bộ nền kinh tế, độc quyền chi phối nền kinh tế Nhật trước chiến tranh. Điều này gây rất nhiều trở ngại cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn đã rất nhỏ bé và gặp nhiều khó khăn. Bốn là vấn đề “giới hạn đồng đôla”. Trong thời gian này, Nhật Bản cần có ngoại tệ, tức là đôla để nhập nguyên liệu như bông, lông cừu, quặng sắt và năng lượng như than đá, dầu mỏ. Nhưng những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có thể thu được ngoại tệ lúc bấy giờ chỉ là hàng tạp hoá bình thường như bóng đèn trang trí, đài bán dẫn, đồ chơi và hàng hoá phục vụ nhu cầu đặc biệt. Trong điều kiện như vậy, nếu sản xuất mở rộng thì đương nhiên là sẽ thiếu đôla. Khi nhập nguyên nhiên liệu bằng đôla nhiều lên, nếu không có xuất khẩu để Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp thu lại khoản đôla tương ứng thì sẽ rơi vào tình trạng thiếu đôla. Khi thiếu đôla thì Ngân hàng Trung ương Nhật Bản thi hành chính sách thắt chặt tiền tệ nâng tỷ lệ lãi suất pháp định. Biện pháp này đã hạn chế được nhu cầu trong nước, việc nhập nguyên nhiên liệu giảm, nhu cầu đôla cần cho việc nhập khẩu cũng ít đi. Vì vậy sẽ giải toả được vấn đề thiếu đôla, nhưng ngược lại nền kinh tế vì thế mà chững lại. Do đó, trong giai đoạn này huy động sức người, sức của để tái thiết và phát triển là nỗ lực phi thường của chính phủ và nhân dân Nhật Bản. Giải pháp hữu hiệu, thực tế để chính phủ Nhật tính đến là nhanh chóng phục hồi các SME. Một mặt, việc khôi phục và phát triển loại hình doanh nghiệp này cho phép giải quyết nhiều nhu cầu cấp thiết đang đặt ra lúc đó, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Trong điều kiện mà những ngành khai thác, chế tạo sau chiến tranh giảm xuống còn 1/10 so với trước chiến tranh thì hàng hoá của các SME sản xuất ra được tiêu thụ rất nhanh. Mặt khác, các SME ra đời cũng giải quyết một lượng lao động lớn đang thất nghiệp vào lúc đó. Trên các báo, người ta đã gọi các SME là “ Những con sư tử ngày”. Tuy nhiên trong bối cảnh đó, các SME này phải đối mặt với nhiều khó khăn như thiếu vốn, nguyên nhiên liệu và sự độc quyền của các zaibatsu. Thêm vào đó, các SME càng khó khăn hơn do trình độ quản lý thấp, thiếu công nghệ và khả năng tài chính. Do vậy, trong thời kỳ này, sự hỗ trợ của Chính phủ cho các SME là rất cần thiết. Các chính sách mà Chính phủ Nhật đưa ra không những nhằm tạo điều kiện thuận lợi các SME tiếp cận với nguồn vốn, nâng cao trình độ quản lý tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các SME mà còn phải đảm bảo sự cạnh tranh công bằng giữa các SME và các doanh nghiệp lớn. 2.2. Các biện pháp hỗ trợ SME 2.2.1. Thành lập các tổ chức hỗ trợ và hiệp hội các SME Trong hoàn cảnh mà các SME phải đối mặt với rất nhiều khó khăn về vốn, nguyên nhiên liệu, công nghệ như vậy, biện pháp đầu tiên mà chính phủ Nhật đã áp dụng là thành lập ngay cơ quan chuyên trách về vấn đề này. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Cục doanh nghiệp vừa và nhỏ ( SMEA) thành lập năm 1948 là một cơ quan thuộc Bộ công thương Nhật (MITI), dưới sự hướng dẫn điều hành của GHQ. Nhiệm vụ chủ yếu của Cục doanh nghiệp vừa và nhỏ là triển khai các công việc hỗ trợ các SME. Cụ thể như: ra các chính sách về SME, hướng dẫn thực hiện, lên kế hoạch về vốn ngân sách hỗ trợ Trên cơ sở đó, các cơ quan hành chính địa phương, các phòng thương mại và công nghiệp địa phương, và các tổ chức khác sẽ triển khai thực hiện. Cục này có các văn phòng tại các vùng, và xuống tận các quận, huyện. Bên cạnh đó, chính phủ cũng khuyến khích thành lập các hiệp hội, các nhóm SME với mục đích là trong các hiệp hội này, các SME sẽ giúp đỡ nhau cùng khắc phục những điểm bất lợi của họ lúc bấy giờ là vốn, công nghệ, nguyên nhiên liệu. Năm 1948, nội các Nhật Bản đã đề ra “ những biện pháp quan trọng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ” mà theo đó, sẽ hình thành một hệ thống tiếp cận giữa các doanh nghiệp và Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì Hiệp hội này rập theo khuôn mẫu của Tổ chức kinh doanh nhỏ của Mỹ nên nó được thành lập như một phần của chính sách “ dân chủ hoá nền kinh tế”, mà trong đó những doanh nghiệp vừa và nhỏ độc lập đóng vai trò xoá bỏ tập trung quyền lực kinh tế và chống lại tình trạng độc quyền. Luật tổ chức hợp tác của các SME đã có hiệu lực vào năm 1949. Tiếp đó, vào năm 1953, với sự ra đời của Luật về Phòng thương mại và công nghiệp, Phòng hỗ trợ SME thuộc Phòng thương mại và công nghiệp Nhật Bản đã trở thành tổ chức có chức năng hỗ trợ các SME một cách hiệu quả. Cơ quan này cung cấp cho các SME các thông tin về cơ hội kinh doanh, bao gồm các thông tin về thương mại quốc tế, đối tác đầu tư Đồng thời tổ chức các hội thảo về đầu tư, xuất bản các bản tin giới thiệu các đối tác liên doanh và cung cấp dịch vụ tư vấn. 2.2.2. Ban hành Luật chống độc quyền. Các SME trong giai đoạn này cũng gặp phải một khó khăn lớn là sự độc quyền của các zaibatsu. Thêm vào đó, một nguyên tắc nữa của nền kinh tế Nhật sau chiến tranh mà quân đồng minh thực hiện lúc bấy giờ là “dân chủ hoá nền kinh tế”. Chính sách đó gồm ba vấn đề chủ yếu là giải thể zaibatsu, cải cách ruộng đất và xây dựng tổ chức công đoàn. Trong đó đáng quan tâm là chính sách giải thể các zaibatsu. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Giải thể zaibatsu là biện pháp giải tán và giành quyền chi phối cổ phần của các zaibatsu. Tháng 4 năm 1947 “Luật chống độc quyền và duy trì thương mại bình đẳng” được ban hành. Tiếp đó, tháng 12 năm 1947, “Luật thủ tiêu sự tập trung quá mức sức mạnh kinh tế” đã được ban hành. Luật này quy định là các công ty hiện đang nắm quyền kiểm soát thị trường bị buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động. Trên cơ sở luật này, Uỷ ban giải quyết vấn đề công ty cổ phần đã nêu tên 325 công ty cần phải được phân chia ra thành những tổ chức nhỏ hơn vào tháng 2 năm 1948. Nhưng do việc xây dựng lại nền kinh tế Nhật đã trở nên cấp thiết, do sự phản đối quá mạnh mẽ đối với luật này cả trong và ngoài nước cùng với sự tiến triển của cuộc chiến tranh lạnh cho nên các nhà cầm quyền quân đội chiếm đóng Nhật Bản đã nới lỏng việc thực hiện Luật thủ tiêu sự tập trung quá mức sức mạnh kinh tế. Chỉ có 18 công ty đã thực sự bị phân chia thành các tổ chức nhỏ hơn. Sự ra đời của hai luật này, không chỉ thể hiện nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế Nhật sau chiến tranh mà còn ngăn chặn các zaibatsu phục hồi, thủ tiêu sự tập trung kinh tế . Chúng đã tạo ra một nền kinh tế đặc trưng bởi sự cạnh tranh mạnh mẽ trong tất cả các ngành công nghiệp. Mặc dù cũng có một vài ngành công nghiệp như ngành sản xuất thép và xe hơi mà ở đó tính chất của ngành đã dẫn đến sự cạnh tranh giữa một số công ty độc quyền và một số ngành khác như dệt, mà ở đó có sự cạnh tranh của khá nhiều công ty, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, xu hướng cơ bản sau chiến tranh vẫn là sự cạnh tranh giữa những SME. Chính điều này đã tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của SME. 2.2.3. Hỗ trợ về vốn Cùng với các biện pháp về hành chính là sự hỗ trợ về tài chính. Trong giai đoạn này, nhiều công ty, ngân hàng đã được thành lập để hỗ trợ vốn cho các SME. Ngân hàng Shoko Chukin (SCB) đã được thành lập từ năm trên cơ sở luật về SCB, với 79,7% vốn là của Chính phủ[31]. Ngân hàng này cho các SME vay dài hạn ( 15 năm với vốn cố định, 10 năm với vốn lưu động). Tính ưu đãi của SCB được thể hiện ở sự khác nhau về điều kiện cho vay giữa ngân hàng tư nhân và SCB. Đối với Ngân hàng tư nhân, điều kiện cho vay rất chặt chẽ, chỉ được dùng đất để thế Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp chấp và được đánh giá bằng 70% giá trị thật của đất, không chấp nhận thế chấp bằng máy. Còn SCB đất được thế chấp bằng 100% giá trị thật của đất và có chấp nhận máy móc. Ngoài ra, SCB cũng thực hiện các chương trình phát triển SME của chính phủ. Bên cạnh đó, Công ty tài chính nhân dân (NLFC) cũng đã được thành lập vào năm 1949. Tổ chức này huy động vốn thông qua kênh tiết kiệm và phát hành trái phiếu có và không có bảo lãnh của chính phủ. Tôn chỉ của NLFC là tài trợ cho các doanh nghiệp mới thành lập, những doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ có tiềm năng rủi ro cao. NLFC cho các doanh nghiệp không có điều kiện vay ngân hàng và các tổ chức tài chính thông thường, vay các khoản vốn nhỏ, ưu đãi( 10 năm đối với vốn cố định, 5 năm đối với vốn lưu động). Tiếp đó, vào năm 1953, Công ty tài chính doanh nghiệp nhỏ Nhật Bản(JFS) đã được thành lập, vốn do Chính phủ cấp. JFS huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu có và không có bảo lãnh của chính phủ. JFS cho vay theo hai loại hình. Một là, cho vay chung. Mục đích của loại này là đáp ứng nhu cầu rộng rãi của các doanh nghiệp để phát triển kinh doanh, cung cấp thiết bị, vốn dài hạn ( từ 5 đến 15 năm tuỳ từng trường hợp) cho các SME có khó khăn vì không vay được của các tổ chức tài chính thông thường. Lãi suất được sử dụng là lãi suất ưu đãi dài hạn( 1,55%). Đây cũng là lãi suất mà các Ngân hàng thương mại dành cho khách hàng tốt nhất[31]. Hai là, cho vay đặc biệt. Đây là công cụ phục vụ các chương trình chính sách của Chính phủ. Lãi suất của các chương trình này cũng rất thấp. JFS cho vay trực tiếp tại các chi nhánh và gián tiếp thông qua các đại lý là chi nhánh các Ngân hàng thương mại tư nhân. Ngoài ra, những tổ chức tài chính đa phương( tổ chức hợp tác xã tài chính mà hội viên gồm các SME, các chủ sở hữu tư nhân và những tổ chức thiếu vốn) như các ngân hàng tài chính đa phương, hội tín dụng và hợp tác xã tín dụng đã được thành lập trong thời gian này. Luật về tổ chức hợp tác của các SME được ban hành năm 1949 được coi như một biện pháp để thành lập những tổ chức trên. Kết quả là các tổ chức hợp tác được lập ra trên những nguyên tắc mới, hiện đại và phát triển Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp khắp nơi, một hệ thống cơ bản gồm những biện pháp sau chiến tranh đối với các SME được đưa ra. Để khắc phục những khó khăn về tài chính cho các SME, chính phủ cũng đã ban hành Luật bảo lãnh tín dụng cho SME vào năm 1953. Tiếp đó một Hội bảo lãnh tín dụng(NACGG) bổ sung do chính quyền trung ương và địa phương đầu tư vốn đã ra đời. Với sự ra đời của hệ thống này, các SME không có đủ tài sản, vật thế chấp để vay tại ngân hàng, vẫn có thể vay được tiền để phát triển kinh doanh nếu có sự bảo lãnh của hệ thống tín dụng của chính phủ. NACGG sẽ bảo hiểm số lượng tiền này bằng cách mua bảo hiểm của kho bạc bảo hiểm tín dụng SME. Công ty bảo hiểm tín dụng doanh nghiệp nhỏ(SBCIC) do chính phủ trung ương thành lập nhằm bảo hiểm cho số tiền mà hội bảo lãnh tín dụng đã bảo lãnh cho các SME. Khi các SME không có khả năng trả nợ, NACGG sẽ đứng ra trả số dư nợ đó với Ngân hàng. Sau đó NACGG sẽ nhận từ SBCIC 70-80% số lượng tiền mà nó phải trả thay SME. Ngoài ra, Chính phủ cũng có nhiều biện pháp khác như: trợ cấp khẩn cấp từ quỹ quốc gia, tăng cho vay vốn, lập ngân hàng phi chính phủ chuyên trách về SME, lập tổ hợp tài chính kinh doanh nhỏ năm 1953, tăng cường mạng lưới cung cấp tín dụng Nhờ đó, hoạt động của các doanh nghiệp này dần dần hồi phục, lấy lại được sinh khí và bắt đầu phát triển. 2.2.4. Hướng dẫn, tư vấn quản lý Các SME nói chung và các SME Nhật nói riêng, thường có nguồn gốc từ các hộ sản xuất nhỏ hay những người mới khởi nghiệp nên họ thường gặp phải một khó khăn là không có kinh nghiệm về quản lý. Do vậy, một hệ thống hỗ trợ, tư vấn cho các SME là rất cần thiết. Đặc biệt là ở Nhật lúc bấy giờ, các SME sau chiến tranh rất cần sự tư vấn, hướng dẫn để hợp lý hóa, hiện đại hóa các phương pháp quản lý cho phù hợp với tình hình mới. Hệ thống tư vấn quản lý và Tư vấn tại bàn cho các SME bắt đầu vào năm 1948. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Do số lượng những nhà tư vấn vào lúc bấy giờ còn hạn chế, không đủ để đáp ứng nhu cầu cần tư vấn của các SME nên vào năm 1952, hệ thống đăng ký tư vấn bắt đầu. Đó là một chương trình mà các nhà tư vấn, có thể là những chuyên gia hoặc những nhà kinh doanh có kinh nghiệm thực tế trong khu vực tư nhân hoặc nhà nước đăng ký tham gia. Chính quyền ở các địa phương đã được hỗ trợ rất nhiều để có thể chuẩn bị cho hệ thống đăng ký này. Ngược lại, sau đó, chính hệ thống những nhà tư vấn được bổ sung này lại giúp đỡ các địa phương trong việc tư vấn một cách có hiệu quả cho các SME. 2.2.5. Hỗ trợ về thuế Sau chiến tranh, do hệ thống cũ được thay thế bởi hệ thống thuế tự tính, các SME gặp phải nhiều khó khăn do ghi chép sổ sách kế toán không đầy đủ và nỗi lo về việc thuế quá cao. Để giải quyết vấn đề này, hệ thống “tờ khai xanh” bắt đầu năm 1949, cho phép các doanh nghiệp hưởng một mức thuế nhất định nếu các khoản thuế trên tờ khai được tính bằng một công thức ghi chép kế toán rõ ràng, nhất định. Hệ thống này không những khuyến khích các SME cải thiện việc ghi chép kế toán mà còn tăng cường sức mạnh tài chính cho các SME. Như vậy, trong giai đoạn tái thiết sau chiến tranh, những biện pháp cơ bản mà chính phủ Nhật đã thực hiện nhằm giúp các SME thoát ra khỏi tình trạng khó khăn là chủ yếu hỗ trợ về vốn, quản lý và đảm bảo sự cạnh tranh công bằng. Mặc dù chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển các SME, tuy nhiên trong giai đoạn này đôi lúc sự phát triển của các SME cũng không hoàn toàn thuận lợi. Lý do của những khó khăn này là tình trạng khan hiếm nguyên liệu. Hơn nữa nếu để số vốn và nguyên liệu ít ỏi nằm rải rác ở các ngành sản xuất riêng lẻ thì sẽ kém hiệu quả nên vào đầu năm 1946 Chính phủ Nhật Bản đã sử dụng phương thức “ sản xuất ưu tiên” làm biện pháp phục hồi kinh tế. Phương thức“ sản xuất ưu tiên” này là một chính sách có mục đích tập trung đầu tư vào ngành năng lượng- tức là ngành công nghiệp than và ngành công nghiệp không thể thiếu của sản xuất công nghiệp – tức là ngành sắt thép. Vì thế ở thời điểm này, các SME lại rơi vào tình trạng đình trệ nghiêm trọng. Tuy vậy, những biện pháp đầu tiên mà chính phủ Nhật đã áp dụng để Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp hỗ trợ các SME trong giai đoạn này đã trở thành cơ sở cho sự phát triển nhanh chóng của các SME sau này. II.THỜI KỲ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ (1955-1984) 1.Thời kỳ tăng trƣởng kinh tế cao ( 1955-1973) 1.1.Đặc điểm nền kinh tế Một là trong giai đoạn này, tốc độ phát triển kinh tế cao nhưng không ổn định. Cho đến đầu năm 1955, Nhật Bản đã hoàn toàn khôi phục kinh tế với hầu hết các chỉ tiêu vượt mức trước chiến tranh. Tiếp đó là thời kỳ được biết đến như là một thời kỳ mà Nhật Bản đã có những biến đổi thần kỳ về kinh tế trong nước cũng như trong quan hệ với nền kinh tế thế giới. Tổng sản phẩm quốc dân, chỉ tiêu tổng quát cho mức hoạt động của nền kinh tế đã tăng mạnh. Từ năm 1955 đến năm 1958, tổng sản phẩm quốc dân đã tăng với tốc độ 6,9% bình quân hàng năm. Năm 1959, khi tốc độ tăng trưởng vượt trên 10%, nền kinh tế Nhật vẫn chưa gây được sự chú ý của thế giới. Nhưng năm sau, khi tốc độ tăng trưởng lại vượt tốc độ của năm trước thì thế giới bắt đầu kinh ngạc và gọi đó là "sự thần kỳ" về kinh tế. Tốc độ cao này được duy trì suốt những năm 1960. Bước sang thập niên 70, tốc độ tăng trưởng hơi giảm đi, còn 7,8%, nhưng vẫn cao hơn tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng này không phải là một sự phát triển nhịp nhàng, không gấp khúc. Năm 1965 là năm được gọi là "cuộc khủng hoảng 65". Đây là cuộc khủng hoảng chính thức lần đầu tiên sau chiến tranh của Nhật Bản dẫn đến tình trạng kinh tế không bình thường như liên tục xảy ra các vụ phá sản nghiêm trọng của các hãng sản xuất thép, đặc biệt như Sanyo, Nihon – là những công ty đăng ký tham gia thị trường giao dịch chứng khoán, rồi công ty Yamaichi gặp bế tắc trong kinh doanh. Trong hoàn cảnh đó, các SME gặp rất nhiều khó khăn, họ không có đủ đơn đặt hàng để tiếp tục duy trì sản xuất. Sự hỗ trợ của chính phủ trong hoàn cảnh này là hết sức cần thiết. Hai là sự xuất hiện của các keiretsu ( liên minh kinh tế) Nguyên nhân là do xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, Nhật Bản thực hiện chính sách tự do hoá thương mại đã hứa với một số quốc gia từ trước. Theo Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp đó, người nước ngoài được tự do thành lập hoặc mua lại các công ty ở Nhật Bản. Lúc bấy giờ do sự chênh lệch về quy mô giữa các công ty nước ngoài (nhất là Mỹ ) và các doanh nghiệp Nhật Bản là rất lớn. Vì lo ngại bị công ty của Mỹ chèn ép, các công ty của Nhật Bản đã tìm cách né tránh thông qua hình thức liên kết các công ty. Những nhóm liên kết trên không chỉ nhằm bảo vệ vốn cho nhau mà còn giúp nhau vay vốn của ngân hàng , hỗ trợ lẫn nhau về nhân sự. Người ta gọi những nhóm ấy là „keiretsu‟ (liên minh) . Trong thời gian này có sáu liên minh lớn đã hình thành. Đó là các liên minh Mitsui, Mitsubishi, Sumitomo, Fuyo, Sanwa, Daiichi Kangin mà trung tâm của các liên minh này là các tài phiệt, các ngân hàng vốn có từ trước chiến tranh. Những liên minh kể trên về cơ bản khác với các tập đoàn zaibatsu trước đây ở chỗ các keiretsu chỉ gắn bó với nhau bằng mối quan hệ lỏng, còn các zaibatsu trước đây do các công ty mẹ có quyền chi phối vốn của các công ty trong tập đoàn quản lý một cách chặt chẽ. Ví dụ liên minh Mitsui không có văn phòng riêng, không có người lãnh đạo mà do giám đốc của 23 công ty chỉ tổ chức gặp mặt vào ngày thứ năm tuần thứ hai hàng tháng ( thường được gọi là „ Nimokukai‟ ) để thông báo cho nhau những thay đổi, về phạm vi công việc trong nội bộ liên minh. Ngoài liên minh tiền tệ còn có các tập đoàn sản xuất chủ yếu là chế tạo như Toyota, Hitachi, Matsushita, tập đoàn kinh doanh như Mitsubishi Shoji, Mitsukoshi, Itoyokado, và tập đoàn đường sắt tư nhân – một tập đoàn độc đáo của Nhật Bản. Tập đoàn đường sắt tư nhân là một tập đoàn gồm các ngành khác nhau. Ví dụ đoạn đường sắt Hankyu bao gồm công ty bách hoá ga trung tâm- bách hoá Hankyu, khách sạn Shinhankyu, siêu thị Hankyu, đoàn ca kịch Takarazula, công ty điện ảnh Toho. Đoạn đường sắt Seibu gồm công ty bách hoá Seibu, Lions Seibu( đội bóng chày chuyên nghiệp ), sở qui hoạch và khách sạn Prince. Khi ngành đường sắt trên thế giới bị sa sút thì ngành đường sắt tư nhân của Nhật Bản lại hoạt động kinh doanh khá sôi nổi là nhờ có sức mạnh tạo ra từ phong trào tập đoàn hoá giữa các ngành nghề khác nhau. Hơn nữa các tập đoàn sản xuất, tập đoàn lưu động, tập đoàn sản xuất tư nhân cũng sắp trở thành liên minh. Theo đà phát triển thành liên minh như trên, thông thường các công ty lớn chiếm tỷ lệ cao trong nền kinh tế quốc dân là chuyện bình thường nhưng ở Nhật Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp Bản có một đặc điểm là nhiều doanh nghiệp mới lần lượt xuất hiện, cơ cấu cạnh tranh của họ phối hợp với nhau rất tốt nên có tác dụng kiềm chế sự độc quyền của các công ty lớn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân mà chính phủ khuyến khích các SME liên kết lại với nhau. Ba là, một đặc điểm nổi bật khác của nền kinh tế Nhật lúc bấy giờ là “cơ cấu hai tầng” của nền kinh tế. Nguyên nhân là bắt đầu từ năm 1955, Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển kinh tế mạnh, dẫn đầu là những tiến bộ về công nghiệp và đầu tư thiết bị máy móc của các doanh nghiệp lớn. Vì vậy, hố sâu ngăn cách giữa các doanh nghiệp lớn và các SME ngày càng lớn. Mặt khác, khi cuộc chiến tranh Triều Tiên nổ ra, các tập đoàn công nghiệp khổng lồ được tổ chức lại và bắt đầu vươn dậy. Tuy nhiên những tập đoàn này vẫn chưa đủ năng lực để sử dụng một số lượng lớn nhân lực. Số lượng người thất nghiệp vẫn cao. Chính do sự dư thừa lao động này, sự chênh lệch tiền lương giữa các công ty lớn và các doanh nghiệp nhỏ đã mở rộng liên tục. Trong các công ty lớn, do đấu tranh của các tổ chức công đoàn, chế độ tiền lương dựa vào tuổi tác, chế độ thuê mướn suốt đời, trả lương theo thâm niên phục vụ công ty xuất hiện nhanh chóng, mức lương của người lao động cũng được đảm bảo. Trong khi đó tại các doanh nghiệp nhỏ, trang bị kỹ thuật lạc hậu năng suất lao động thấp hơn và thang lương dựa vào tuổi tác không được áp dụng triệt để, mức lương của người lao động thấp hơn nhiều so với lương của người lao động trong các công ty lớn. Do vậy, khoảng cách giữa các SME và các doanh nghiệp lớn ngày càng tăng. Điều đó không chỉ thể hiện ở sản lượng, tiền lương mà cả trang bị kỹ thuật và chất lượng sản phẩm. Hiện tượng này được gọi là "cơ cấu hai tầng" của nền kinh tế. Từ sự chênh lệch này đã gây ra những phản ứng dây chuyền. Đó là việc các công ty lớn cho các cơ sở kinh doanh nhỏ làm gia công. Do có sự chênh lệch về tiền lương rất lớn nên các công ty lớn gián tiếp lợi dụng sức lao động rẻ mạt ở các cơ sở kinh doanh nhỏ qua hình thức gia công để sản xuất cho họ những sản phẩm cần thiết. Cách này có lợi hơn là chính họ tự sản xuất lấy. Hơn nữa, khi thuê các công ty nhỏ làm gia công, các công ty lớn cũng tiết kiệm được số tiền vốn bỏ ra và tránh được mọi sự rủi ro trong kinh doanh, nhất là về tiền vốn. Khi tình hình kinh doanh Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp xấu đi, các công ty cho gia công sẽ thu hẹp hoặc cắt nguồn hàng gia công cho các xí nghiệp nhỏ. Các công ty lớn cũng có thể trì hoãn việc thanh toán các khoản tiền nợ và chờ đợi khi tình hình kinh doanh trở lại phát đạt, họ lại tăng cường gia công nhiều hơn. Sau đó, lấy cớ là cần hợp lý hoá giữa những người nhận gia công, họ hạ giá tiền gia công sản phẩm xuống thấp hơn. Do vậy, có thể coi các SME trong giai đoạn này là "cái đệm" rất linh hoạt trong việc điều chỉnh kinh tế có lợi cho các doanh nghiệp lớn. Mỗi biến động kinh tế đều tác động đến các SME đầu tiên. Tuy vậy, các cơ sở nhỏ cũng có một số thuận lợi nhất định khi nhận gia công. Họ được đảm bảo có các đơn đặt hàng, và có rất nhiều trường hợp các cơ sở nhỏ được các công ty lớn giúp đỡ không những về mặt tài chính mà còn cả về mặt hướng dẫn công nghệ sản xuất. Do vậy, lúc bấy giờ hình thức gia công là một hình thức hết sức phổ biến. Nó trở thành một phương thức sản xuất đối với khoảng 70% các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ trong các ngành dệt, điện máy, may mặc. Trong điều kiện đó, việc giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa doanh nghiệp lớn hiện đại và SME được đặt ra hết sức cấp thiết. Bốn là, Nhật Bản đã chủ động tìm kiếm và làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại. Sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Nhật Bản vẫn còn lạc hậu so với các nước tư bản phát triển khác về trình độ khoa học kỹ thuật, nhiều loại hình kỹ thuật đã được ứng dụng rộng rãi ở châu Âu và Mỹ nhưng chưa được sử dụng ở Nhật Bản. Tuy vậy chỉ hơn 20 năm sau chiến tranh, cuộc cách mạng kỹ thuật do Nhật tiến hành đã phát triển nhảy vọt. Đến đầu những năm 70, Nhật Bản đã đạt trình độ cao về tự động hóa, về trình độ sử dụng máy tính điện tử trong một số ngành, đã sản xuất và sử dụng được nhiều loại vật liệu tổng hợp, đã đạt trình độ khá cao về hợp lý hoá sản xuất, áp dụng các phương pháp điện tử học và các phương pháp khác của kỹ thuật học vào sản xuất. Đó là do, trong giai đoạn này, Nhật đã nhập kỹ thuật hiện đại và phương pháp tiên tiến của nước ngoài. Từ năm 1950 đến năm 1974, tổng số vụ nhập kỹ thuật của Nhật Bản lên tới 15289 vụ. Trong đó năm 1950 có 27 vụ và năm 1970 có 1572 vụ, tăng 58 lần và gần 70% từ Mỹ, hơn 10% từ Tây Đức[7.198]. Những hợp đồng nhập kỹ thuật chủ yếu liên quan đến các ngành chế tạo máy, hóa chất, luyện kim Không Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp chỉ là sao chép một cách máy móc các công nghệ nhập khẩu mà Nhật Bản đã hết sức nỗ lực đổi mới, nâng cao, biến chúng thành kỹ thuật riêng, qua đó đóng góp vào tiến bộ khoa học và kỹ thuật. Hơn nữa, Nhật đã tăng cường đầu tư mạnh hơn bao giờ hết cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Chi phí cho nghiên cứu phát triển năm 1955 mới chỉ đạt 40,1 tỉ yên thì đến năm 1970 đã đạt gần 1200 tỉ yên. Điều đáng lưu ý là, trong khi các nước tư bản khác dồn phần lớn chi phí nghiên cứu vào mục tiêu quân sự, chinh phục vũ trụ thì Nhật lại dồn hết chi phí nghiên cứu vào mục tiêu dân dụng. Điều đó được thể hiện bằng chi phí nghiên cứu ở các xí nghiệp tư nhân tăng nhanh hơn và chiếm tỉ trọng cao hơn. Tính chung từ năm 1959 đến 1969, chi tiêu cho nghiên cứu của các xí nghiệp tư nhân chiếm khoảng 3/4 tổng chi phí. Như vậy, sự thành công của nền kinh tế Nhật trong giai đoạn này là sự kết hợp giữa hoàn cảnh quốc tế thuận lợi và những nỗ lực của toàn thể người dân Nhật Bản. Ngoài ra, không thể không kể đến vai trò tổ chức, lập kế hoạch và điều hành của nhà nước. Chính phủ Nhật đã có nhiều chính sách tài chính, tiền tệ, nhập khẩu khoa học công nghệ. Theo đó, các chính sách về SME cũng ra đời. Bên cạnh việc củng cố các biện pháp đã thực hiện trong giai đoạn trước như hỗ trợ về vốn, tư vấn quản lý, các chính sách hỗ trợ SME trong giai đoạn này còn cần phải có những thay đổi để giải quyết khó khăn thực tế của các SME trong giai đoạn này. Do vậy, các chính sách của chính phủ Nhật nhằm vào một số vấn đề chính. Một là đảm bảo hoạt động kinh doanh cho các SME khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Hai là giúp các SME liên kết với nhau để có thể kiềm chế sự độc quyền của các công ty lớn. Ba là giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa các doanh nghiệp lớn hiện đại và các SME trong “cơ cấu hai tầng” của nền kinh tế. 1.2. Các biện pháp hỗ trợ SME 1.2.1. Ban hành các luật về tổ chức hiệp hội các SME Trong thời kỳ này, theo đà phát triển của các liên minh kinh tế, các SME cũng cần liên kết lại với nhau để có thể cạnh tranh một cách bình đẳng và phát triển thuận Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp lợi. Do vậy, Chính phủ đã ban hành nhiều luật nhằm khuyến khích việc thành lập các Hiệp hội của SME. Năm 1957, Luật liên quan đến việc tổ chức các hiệp hội của SME đã được ban hành. Luật này được ban hành để củng cố các hiệp hội của SME đã thành lập. Ngoài ra, Luật cũng hỗ trợ thành lập một tổ chức điều chỉnh các hoạt động của các hiệp hội. Theo luật này, các SME có thể cùng nhau lập hội để giúp nhau góp sức, góp tiền hỗ trợ nhau trong sản xuất. Sau đó, năm 1960 Luật về tổ chức các hiệp hội thương mại và công nghiệp được ban hành. Theo luật này, các tổ chức thương mại và công nghiệp ở các địa phương được hệ thống lại, củng cố nhằm cung cấp một hệ thống tư vấn có hiệu quả hơn rộng khắp trong cả nước. Nhờ đó đã cải thiện được trình độ quản lý của các SME hơn. 1.2.2. Hỗ trợ các SME làm thầu phụ Ban hành Luật khuyến khích các SME làm thầu phụ Trong quá trình đuổi kịp các nền kinh tế tiên tiến phương Tây, Nhật Bản đã đẩy mạnh các ngành công nghiệp trọng yếu do các tập đoàn và các doanh nghiệp lớn chi phối, nhưng đồng thời cũng cố gắng tăng cường mối liên kết ngành bằng cách phát huy sức mạnh của các SME trong việc cung ứng phụ kiện và những nguyên liệu thô nhất định. Ở Nhật Bản, nơi có các ngành công nghiệp nặng và hoá chất bắt đầu phát triển ngay từ những năm 1920, thì các SME đã tham gia vào việc cung cấp phụ kiện từ thời kỳ trước chiến tranh. Điều này cho phép đẩy nhanh quá trình hình thành mối liên kết ngành từ cuối những năm 1950 đến giữa những năm 1960. Nếu như mục tiêu bắt kịp các công ty lớn của nước ngoài là chính thì linh phụ kiện và nguyên liệu thô nhập khẩu hẳn đã có thể đáp ứng nhu cầu thúc đẩy các ngành trọng yếu, và trong một số trường hợp, có thể rẻ hơn. Nhưng rõ ràng Nhật Bản lại lựa chọn mua các yếu tố đầu vào sản xuất từ các SME trong nước. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ chính nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn do tác động của những chính sách của chính phủ. Một trong những số đó là Luật khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa làm thầu phụ đã được ban hành năm 1970. Luật này đã Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp thúc đẩy việc hình thành các liên minh kinh tế, tăng cường sự kết hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp lớn và các SME. Đồ thị 2 Do vậy, ở Nhật Bản không chỉ hình thức liên kết kinh tế theo chiều ngang giữa các doanh nghiệp mà hình thức liên kết theo chiều dọc( liên kết ngành) cũng rất phổ biến. Ban hành Luật thanh toán chi phí thầu phụ Mặc dù, giữa các doanh nghiệp lớn và các SME có mối quan hệ chặt chẽ như vậy nhưng mối quan hệ này lại thường không bình đẳng. Các công ty mẹ tận dụng vị trí thống trị của mình trước các doanh nghiệp nhỏ đã áp dụng nhiều biện pháp không bình đẳng như trì hoãn, giảm các khoản tiền phải trả cho các doanh nghiệp gia công, làm ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của các SME. Để chấm dứt sự không công bằng này và để kiểm soát sức mạnh độc quyền của các doanh nghiệp lớn, Luật ngăn chặn chậm thanh toán chi phí thầu phụ và các chi phí liên quan đã ra đời năm 1956 (còn gọi là Luật thanh toán chi phí thầu phụ). Với sự ra đời của Luật này, hoạt động kinh doanh của các SME cũng được đảm bảo ổn định hơn. 1.2.3. Hỗ trợ kinh doanh Khi suy thoái bắt đầu năm 1964, những lời yêu cầu cần duy trì những đơn đặt hàng của chính phủ và chính quyền địa phương trở nên mạnh mẽ hơn. Trong hoàn cảnh đó, Luật đảm bảo nhận đơn đặt hàng từ chính phủ đã được ban hành năm 1966 Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp để có thể tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh của các SME. Theo Luật này, hàng năm chính phủ phải đảm bảo một lượng đơn đặt hàng cố định cho các SME. Thêm vào đó, Luật siêu thị( sau này trở thành Luật về những cửa hàng bán lẻ cỡ lớn) được ban hành vào năm 1956 nhằm bảo vệ quyền lợi cho người bán lẻ cỡ vừa và nhỏ. 1.2.4.Hỗ trợ phát triển công nghệ, hiện đại hoá các SME Hỗ trợ vốn phát triển công nghệ Cùng với chính sách nhập khẩu kỹ thuật lúc bấy giờ, chính phủ Nhật cũng rất quan tâm đến việc đầu tư phát triển công nghệ ở các SME. Nắm bắt được thực trạng của các SME lúc bấy giờ, chính phủ Nhật đã xác định một vấn đề quan trọng mà các SME cần trợ giúp trong giai đoạn này là hỗ trợ về vốn. Chỉ khi có vốn, các SME mới có khả năng đầu tư về thiết bị công nghệ, nâng cao năng suất, giảm dần khoảng cách với các doanh nghiệp lớn. Do vậy, Luật hỗ trợ tài chính cho việc phát triển các SME được ban hành năm 1956. Mục đích chính của Luật là để hỗ trợ nâng cao năng suất bằng cách áp dụng các thiết bị hiện đại. Nhiều chính quyền địa phương đã bắt đầu cho vay theo Luật này và lập những quỹ cần thiết cho hiện đại hoá các thiết bị. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu của hệ thống hỗ trợ các SME đang phải đối mặt với những khó khăn trong việc vay vốn từ thị trường chứng khoán mở bằng việc cung cấp vốn dài hạn, Luật công ty đầu tư kinh doanh nhỏ được ban hành năm 1963. Cũng trong năm 1963, Công ty tư vấn và đầu tư SME (SBIC) đã được thành lập. Công ty đã thực hiện nhiều kế hoạch và chương trình đầu tư hỗ trợ SME như góp vốn cổ phần, đặc biệt đối với các doanh nghiệp mới thành lập, và đầu tư cho các công ty R&D. Đặc biệt, một chương trình cho vay do Công ty xúc tiến doanh nghiệp nhỏ thành lập năm 1967 đã ra đời với sự đầu tư của chính phủ. Kết hợp phát triển công nghệ và hợp lý hóa, hiện đại hoá sản xuất. Phát triển công nghệ ở các SME, Chính phủ Nhật cũng rất chú ý đến sự hợp lý hoá sản xuất của các SME với cơ cấu sản xuất của nền kinh tế. Chính phủ cũng tiến hành thực hiện mạnh mẽ những biện pháp hợp lý hoá theo từng khu vực, thông qua Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT
- Khoá luận tốt nghiệp việc ban hành Luật về những biện pháp đặc biệt khuyến khích ngành công nghiệp máy móc và Luật về những biện pháp đặc biệt đối với ngành công nghiệp thiết bị dệt( năm 1956) và Luật về những biện pháp đặc biệt khuyến khích ngành công nghiệp điện tử( năm 1957). Theo các bộ luật này, SME có những ưu đãi đặc biệt về thuế. Sau đó, năm 1963, Luật về đẩy mạnh hiện đại hoá SME cũng ra đời. Luật đã đặt nền móng cho một kế hoạch có tính hệ thống và hiệu quả trong việc hợp lý hoá quản lý và cải tiến kỹ thuật cho SME. Kế hoạch đó bao gồm từ việc quy định chế độ cung cấp tiền vốn đến hướng dẫn hoạt động cho các cơ sở kinh doanh nhỏ, xác định các loại nghề, vạch ra những chương trình " hiện đại hoá". Thông qua đó, chính quyền địa phương cũng có thể lập kế hoạch và thực hiện sự hướng dẫn chỉ đạo của chính phủ một cách hiệu quả. Hơn nữa, Luật cũng đã thay đổi cơ cấu công nghiệp bằng cách nâng cao năng suất của các SME trong những ngành công nghiệp có các SME tham gia đông đảo. Đó là những ngành sản xuất các sản phẩm có kỹ thuật cao như ô tô, tivi, đồng hồ điện tử, máy ảnh Những sản phẩm này phần lớn thuộc dạng lắp ráp và gia công, nên các công đoạn gia công đều do các SME đảm nhận. Khi những biện pháp này được thực hiện, năng suất của các SME cũng tăng cao. Kết quả là cơ cấu công nghiệp được thay đổi và nhìn chung đã nâng cao sức cạnh tranh của các SME. 1.2.5. Ban hành Luật cơ bản về SME Trong giai đoạn lúc bấy giờ, các SME không chỉ thu hút lực lượng lao động dư thừa mà giúp nền kinh tế Nhật tích luỹ tư bản cho giai đoạn tăng trưởng thần kỳ, là những “cái đệm” cho các công ty lớn điều chỉnh linh hoạt khi nền kinh tế thay đổi . Chính vì vậy, để hỗ trợ các SME một cách hiệu quả hơn, Luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được ban hành năm 1963. Nhờ đó, các chính sách đối với các SME đã được hệ thống hoá một cách rõ ràng hơn. Luật xác định rõ quy mô của các SME. Theo đó, cơ sở kinh doanh nhỏ là cơ sở có vốn không quá 50 triệu yên hoặc sử dụng không quá 300 người trong lĩnh vực chế tạo, 30 triệu yên hoặc 100 lao động trong lĩnh vực bán buôn, còn trong lĩnh vực bán lẻ và dịch vụ thì không quá 10 triệu yên hoặc không quá 50 người. Đỗ Thị Thanh Hương Lớp: Nhật 3 – K41 - KTNT