Khóa luận Đặc điểm và giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại Định Hóa-Thái Nguyên-Hiện trạng và giải pháp

pdf 70 trang huongle 2670
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Đặc điểm và giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại Định Hóa-Thái Nguyên-Hiện trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_dac_diem_va_gia_tri_van_hoa_cua_dan_toc_tay_tai_di.pdf

Nội dung text: Khóa luận Đặc điểm và giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại Định Hóa-Thái Nguyên-Hiện trạng và giải pháp

  1. MỤC LỤC 1. Lý do chọn đề tài 2 2. Mục đích nghiên cứu 3 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. 4 5. Kết cấu của đề tài 4 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC. 5 1.1 Một số vấn đề lý luận. 5 1.2. Khái quát về huyện Định Hóa 7 Tiểu kết chương 1: 14 CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC TÀY TẠI ĐỊNH HÓA –THÁI NGUYÊN. 15 2.1. Lịch sử hình thành và phân bố của ngƣời Tày tại Định Hóa. 15 2.2. Đặc điểm và giá trị đời sống của ngƣời Tày tại Định Hóa. 15 2.3. Đặc điểm và giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại Định Hóa. 25 2.4. Hiện trạng khai thác các giá trị văn hóa dân tộc Tày Tại Định Hóa. 41 Tiểu kết chương 2: 45 CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC TÀY TẠI HUYỆN ĐỊNH HÓA – THÁI NGUYÊN. 47 3.1. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc ngƣời. 47 3.2. Đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch. 51 3.3. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch. 52 3.4. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền quảng bá phát triển du lịch 54 3.5. Đẩy mạnh phát triển du lịch 55 3.6. Xây dựng các chƣơng trình du lịch văn hóa. 57 3.7. Đề xuất và kiến nghị. 58 Tiểu kết chương 3: 59 KẾT LUẬN 60 TÀI LIỆU THAM KHẢO 62 PHỤ LỤC 63 1
  2. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Du lịch ngày nay đƣợc xem nhƣ là một ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế của đất nƣớc, là ngành “công nghiệp không khói” góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng thời nâng cao thu nhập quốc dân, cải thiện đời sống của ngƣời dân. Việt Nam là một quốc gia có điều kiện địa lý tự nhiên và tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú, hấp dẫn về vẻ đẹp sinh thái tự nhiên, nền văn hoá đa dạng và truyền thống lịch sử lâu đời. Bao gồm các di sản thế giới, danh lam thắng cảnh, những khu di tích lịch sử, những cảnh đẹp thiên nhiên phong phú, những truyền thống văn hóa, các làng nghề, các lễ hội truyền thống và sự đa dạng của các nền văn hoá dân tộc gắn với các nhóm dân tộc của cả nƣớc. Thời gian gần đây Việt Nam đã nổi lên và trở thành một điểm đến hấp dẫn, an toàn cho du khách quốc tế. Hiện nay đang có xu hƣớng phát triển du lịch kết hợp tìm hiểu lịch sử, văn hóa các dân tộc, thu hút sự tham gia của đông đảo học sinh, sinh viên, giáo viên, phụ huynh học sinh, cũng nhƣ du khách nƣớc ngoài đến việt nam. Đây là một trong những điểm mới trong hoạt động du lịch đang đƣợc tích cực đẩy mạnh. Việt Nam có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có những nét đặc trƣng về văn hoá, phong tục tập quán và lối sống riêng. Mỗi dân tộc hầu nhƣ có tiếng nói, chữ viết và bản sắc văn hoá riêng,sức hấp dẫn riêng. Giá trị văn hóa của dân tộc đƣợc tổng hợp từ những giá trị văn hóa của các tộc ngƣời khác nhau. Bản sắc văn hoá của các dân tộc rất đa dạng và phong phú mang những sắc thái riêng biệt. Thái Nguyên là một tỉnh ở Đông Bắc Việt Nam, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Do vị trí địa lý thuận lợi, Thái Nguyên trở thành một trung tâm kinh tế - xã hội của khu vực Đông Bắc hay cả Vùng trung du và miền núi phía Bắc. Làcửa ngõ giao lƣu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng, nên hội tụ các nền văn hoá của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Trên địa bàn tỉnh hiện có 46 dân tộc trên tổng số 54 dân tộc tại Việt Nam sinh sống, trong đó có 8 dân tộc anh em chủ yếu sinh sống đó là: Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, 2
  3. Mông, Sán Chay, Hoa và Dao. Đứng hàng thứ hai trong các dân tộc của tỉnh là dân tộc Tày. Họ có mặt ở tất cả các huyện thị xã, thành phố trong tỉnh, tập trung đông nhất là ở huyện Định Hoá (41,1%). Thái nguyên xác định phát triển du lịch văn hóa là mục tiêu trọng điểm, trong đó đi sâu vào tìm hiểu các giá trị văn hóa của các tộc ngƣời thiểu số nhằm thu hút tối đa nguồn khách du lịch đến với Thái Nguyên. Hiện nay, cùng với xu thế hội nhập và phát triển, thì những luồng văn hóa khác nhau xâm nhập vào đời sống xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, gây ảnh hƣởng, tác động mạnh đến văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số, đáng chú ý là nguy cơ phai mờ, biến dạng bản sắc dân tộc. Do vậy, việc bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa chiến lƣợc cần phải tiếp tục thực hiện thƣờng xuyên và lâu dài. Để làm đƣợc điều đó thì cần có những cơ chế, chính sách và đặc biệt là nên đƣa vào hoạt động du lịch để tuyên truyền, quảng bá nhằm giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số. Trên cơ sở đó,với mục đích bảo tồn và phát huy,nâng cao các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số mà đặc biệt là dân tộc tày để phát triển du lịch. Đƣợc sự giúp đỡ của thầy TS. Lê Thanh Tùng em đã chọn dân tộc Tày ở huyện Định Hóa – Thái nguyên để nghiên cứu ,tìm hiểu từ đó đƣa ra các giải pháp nhằm nâng cao cac giá tri văn hóa dân tộc, phát triển du lịch công đồng tại đây. Với đề tài “Đặc điểm và giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại Định Hóa -Thái Nguyên. Hiện trạng và giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu các đặc điểm, các giá trị về đời sống tinh thần cũng nhƣ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Tày tại Định Hóa, để từ đó đƣa ra những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc riêng của dân tộc đồng thời nhằm phát triển hoạt động du lịch cộng đồng tại Định Hóa, góp phần thúc đẩy cho sự phát triển du lịch của thành phố Thái Nguyên. Thông qua các giải pháp đó nhằm thu hút hơn nữa khách du lịch trong 3
  4. nƣớc và nƣớc ngoài tới du lịch, tìm hiểu văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, đặc biệt là dân tôc Tày với những nét văn hóa truyền thống đặc trƣng nổi bật so với các dân tộc khác. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các đặc điểm về đời sống và văn hóa của dân tộc tày để từ đó đƣa ra các giải pháp góp phần phát triển du lịch của địa phƣơng nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian, địa điểm nghiên cứu : huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên. Về nội dung: các đặc điểm và giá trị văn hóa,đời sống của dân tộc tày. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. - Phƣơng pháp điều tra, trắc nghiệm - Phƣơng pháp so sánh - Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp 5. Kết cấu của đề tài Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của khóa luận tốt nghiệp bao gồm 3 chƣơng: Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về đặc điểm và các giá trị văn hóa dân tộc Chương 2. Đặc điểm và các giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại Định Hóa- Thái Nguyên. Chương 3. Các giải pháp nhằm nâng cao các giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại huyện Định Hóa – Thái Nguyên. 4
  5. CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC. 1.1 Một số vấn đề lý luận. *Khái niệm về dân tộc Dân tộc (hay tộc ngƣời) là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài ngƣời. Trƣớc khi dân tộc xuất hiện, loài ngƣời trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Cho đến nay, khái niệm dân tộc đƣợc hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa đƣợc dùng phổ biến nhất : Một là: dân tộc chỉ một cộng đồng ngƣời có mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, Xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc gia- Quốc gia có nhiều dân tộc. Hai là: dân tộc chỉ cộng đồng ngƣời ổn định hợp thành nhân dân một nƣớc, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong cuộc suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nƣớc và giữ nƣớc. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó- Quốc gia dân tộc. * Văn hóa dân tộc Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng việt, văn hóa đƣợc dung theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa): theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa đông sơn) Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngƣỡng, phong tục, lối sống, lao động. Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con ngƣời, và nhƣ vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội nhƣ ngôn ngữ, tƣ tƣởng, giá trị và các khía cạnh vật chất nhƣ nhà cửa, quần áo, các phƣơng tiện, v.v Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa. 5
  6. Văn hóa tộc ngƣời là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do các cƣ dân tộc ngƣời sáng tạo và tích lũy trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử tự nhiên trong cuộc sống của mỗi dân cƣ, ngay cả trong trƣờng hợp điều kiện sống của mỗi tộc ngƣời đã có sự thay đổi lớn. Nó gồm một hệ thống di tích lịch sử các thắng cảnh, các quần thể kiến trúc làng bản, nhà cửa các đo thị cổ, các sinh hoạt văn hóa, lễ hội thu hút một lƣợng lớn khách du lịch đến tham quan nghiên cứu. Bản sắc văn hóa là cái cốt lõi, đặc trƣng riêng có của của một cộng đồng văn hóa trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa thể hiện trong tất cả các lĩnh vực đời sống ý thức của một cộng đồng, bao gồm: cội nguồn, cách tƣ duy, cách sống, dựng nƣớc, giữ nƣớc, sáng tạo văn hóa , khoa học nghệ thuật Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc trở thành những nét đặc sắc của cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng nƣớc, lòng nhân ái bao dung trong nghĩa tình đạo lý đầu óc thực tế tinh thần cần cù sáng tạo trong lao động tế nhị trong ứng xử giản di trong lối sống. *Sự cần thiết của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát triển, là linh hồn, là sức sống của mỗi quốc gia dân tộc. Trong quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc văn hóa việt nam là một thực thể, đồng thời cũng hun đúc nên tâm hồn khí phách bản lĩnh Việt Nam. Nhờ vậy nền văn hóa giàu bản sắc của nƣớc ta đã không bị mai một đồng hóa. Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có những nét văn hóa đặc sắc riêng tạo nên những bản sắc văn hóa của từng vùng miền. Hiện nay, xu hƣớng hội nhập đã làm cho những bản sắc văn hóa bị lai tạp, mất đi những cái truyền thống vốn có của nó. Vậy nên cần có những chính sách, phƣơng hƣớng nhắm bảo tồn và phát huy các giá trị của văn hóa bằng nhiều hình thức khác nhau. Bản sắc văn hóa các dân tộc cũng đƣợc coi là một tài nguyên du lịch phong phú, hấp dẫn giúp cho ngành du lịch phát triển, đồng thời nhờ có du lịch mà mọi ngƣời hiểu 6
  7. rõ hơn về nguồn gốc, giá trị của văn hóa dân tộc mình, thấy đƣợc những mối đe dọa là mất đi những nét đẹp truyền thống đó, để có ý thức hơn trong việc bảo vệ và giữ gìn. * Du lịch văn hóa dân tộc Luật Du Lịch Việt Nam đƣa ra “ Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa trên bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống” Du lịch văn hóa gắn liền với truyền thống văn hóa dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là đặc điểm rất rõ nét của du lịch văn hóa. Ở quốc gia nào, ở địa phƣơng nào giàu truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng thì ở quốc gia ấy, nơi ấy có tiềm năng to lớn về du lịch văn hóa. Chính vì vậy, hoạt động du lịch văn hóa ở các quốc gia, các vùng miền không giống nhau. Phát triển loại hình du lịch này phải gắn với giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, tiếp thu tinh hoa của văn hóa thế giới, tạo điều kiện để tiếp cận và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào hoạt động du lịch. Phát triển du lịch văn hóa phải gắn với lợi ích của cộng đồng, có sự tham gia của cộng đồng, chính cộng đồng dân cƣ là chủ nhân sáng tạo và gìn giữ những giá trị di sản văn hóa, tạo ra nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú cho du lịch văn hóa. Do vậy, chính cộng đồng dân cƣ và toàn xã hội phải tham gia cùng với các cơ quan quản lý, các tổ chức làm du lịch và du khách để bảo vệ và phát huy những di sản văn hóa truyền thống và tạo ra những giá trị văn hóa moi góp phần không ngừng làm giàu thêm, phong phú thêm nguồn tài nguyên cho du lịch văn hóa . 1.2. Khái quát về huyện Định Hóa 1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên. Định Hoá là huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, nằm trong khoảng toạ độ 105o29” đến 105o43” kinh độ đông, 21o45”đến 22o30” vĩ độ bắc; phía tây - tây bắc giáp tỉnh Tuyên Quang, bắc - đông bắc giáp tỉnh Bắc Cạn, nam - đông 7
  8. nam giáp huyện Đại Từ, Phú Lƣơng; huyện lỵ là thị trấn Chợ Chu, cách thành phố Thái Nguyên 50 km về phía tây bắc. Địa hình huyện Định Hoá khá phức tạp và tƣơng đối hiểm trở, ở dạng núi thấp, đồi cao. Xen giữa các dãy núi đá vôi và đồi, núi đất là những cánh đồng hẹp. Hƣớng địa hình thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, phân làm hai vùng. Vùng núi bao gồm các xã ở phía bắc huyện. Vùng này có các dãy núi cao từ 200 đến 400m so với mặt biển, thuộc phần cuối của dãy núi đá vôi cánh cung Sông Gâm, chạy theo Hƣớng tây bắc - đông nam, từ phía bắc qua trung tâm huyện đến xã Trung Hội, tạo nên bức tƣờng thành ở phía đông thị trấn Chợ Chu và những thung lũng nhỏ hẹp. Nhiều hang động trong các dãy núi đá này có những nhũ đá hình thù kỳ thú, đẹp mắt. Vùng núi thấp bao gồm thị trấn Chợ Chu và các xã ở phía nam. Đây là vùng núi đất, có độ cao từ 50 đến dƣới 200m, độ thoải lớn, có nhiều rừng già và những cánh đồng tƣơng đối rộng, phì nhiêu. Định Hoá có 520.75km2 ha đất tự nhiên, trong đó: 99.29km2đất nông nghiệp, 221.7km2 ha đất lâm nghiệp, 8.46km2 đất chuyên dùng, 7.33km2 đất ở,183.98km2 đất chƣa sử dụng. Thành phần của đất đƣợc chia ra làm 5 loại chính: Đất thuộc loại hình Mác mƣa chua, chủ yếu là Grnid, Đất Zera lid nâu đỏ phát triển trên đá gabvô, Đất dốc tụ và Đất phù sa suối phân bố tập trung hai bên các sông, suối trong huyện, tạo thành những cánh đồng vừa và nhỏ. Định Hoá có khí hậu nhiệt đới, chia làm hai mùa. Mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm. Mùa lạnh từ tháng 11 năm trƣớc đến tháng 3 năm sau. Là huyện có độ ẩm khá cao, trừ tháng 1, các tháng còn lại độ ẩm đều trên 80%. Những tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 3 tháng 4 và tháng 8 - những tháng có mƣa phùn, mƣa ngâu, độ ẩm thƣờng từ 85% trở lên. Trong đó có hai loại gió chính thổi theo mùa: gió mùa đông bắc, thời gian ảnh hƣởng trùng với mùa lạnh. Mỗi khi có những đợt gió mùa đông bắc tràn về nhiệt độ thƣờng hạ xuống đột ngột, làm cho thời tiết rất lạnh, đôi khi xuất hiện sƣơng muối, rất có hại cho sức khoẻ con ngƣời và sự phát triển của cây trồng. Gió mùa đông nam, thời gian ảnh hƣởng trùng với mùa nóng, mang theo hơi nƣớc từ biển Đông vào gây ra mƣa 8
  9. lớn. Lƣợng mƣa trung bình hàng năm (trong 5 năm 1995-1999) của Định Hoá vào khoảng 1.655mm. Về thủy văn, trên đất Định Hoá có 3 hệ thống dòng chảy chính: Sông Chợ Chu, Sông Công (phần trên đất Định Hoá là thƣợng nguồn). Sông Đu (Phần chảy trên địa bàn huyện thuộc thƣợng nguồn). Cung cấp nguồn nƣớc cho toàn huyện, gó Thảm thực vật của Định Hoá rất phong phú, chứa đựng nhiều tiềm năng kinh tế, với các loại lâm sản quý nhƣ gỗ nghiến, lim, lát, sến và các loại tre, nứa, vầu, trám Đặc biệt, vùng đất các xã phía nam có nhiều cây cọ, lá để lợp nhà, cuộng để làm mành, thân làm kèo, xà nhà rất bền. Trƣớc đây, động vật rừng Định Hoá rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, ngày nay rừng đã bị thu hẹp nhanh chóng, nguồn tài nguyên rừng bị kiệt quệ, các loại lâm sản quý còn không đáng kể, các động vật quý hiếm nhƣ: hổ, báo, gấu hầu nhƣ không còn. 1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội Định Hóa là mảnh đất giàu tiềm năng phát triển kinh tế, xã hội và có vị trí chiến lƣợc về quân sự, nơi đây cũng là nơi tụ cƣ của nhiều dân tộc. Cho đến nay, Định Hóa trở thành nơi sinh sống của các dân tộc: Tày, Nùng, Kinh, Dao, Cao Lan - Sán Chí, Hoa, Sán Dìu, Mông, Mƣờng. Các dân tộc này cƣ trú gần gũi với nhau, cùng nhau đoàn kết bảo vệ và xây dựng quê hƣơng Định Hóa. Diện tích đất nông nghiệp của tỉnh là 9.929 ha, đất lâm nghiệp là 22.169 ha, nên xác định một trong những thế mạnh chính của huyện là sản xuất nông - lâm nghiệp, kinh tế đồi rừng, kinh tế trạng trại. Đất đồi rừng tại Định Hoá rất thích hợp với cây Chè đã và đang đƣợc trồng phổ biến tại Định Hoá với năng xuất và sản lƣợng lớn. Nếu nhƣ tìm đƣợc một giống chè phù hợp, có giá trị kinh tế cao thì chắc chắn đây sẽ là một hƣớng đi hiệu quả. Với nguồn nguyên liệu dồi dào cho ngành công nghiệp chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ, bên cạnh nguồn lao động sẵn có của địa phƣơng, Định Hoá là một địa điểm thích hợp để hình thành và phát triển ngành công nghiệp nay. Đơn vị hành chính : Huyện Định Hóa có 24 đơn vị hành chính cấp xã/phƣờng gồm 1 thị trấn và 23 xã gồm: 9
  10. . Thị trấn Chợ Chu . Xã Linh Thông . Xã Bảo Cƣờng . Xã Phú Đình . Xã Bảo Linh . Xã Phú Tiến . Xã Bình Thành . Xã Phúc Chu . Xã Bình Yên . Xã Phƣợng Tiến . Xã Bộc Nhiêu . Xã Quy Kỳ . Xã Điềm Mặc . Xã Sơn Phú . Xã Định Biên . Xã Tân Dƣơng . Xã Đồng Thịnh . Xã Tân Thịnh . Xã Kim Phƣợng . Xã Thanh Định . Xã Kim Sơn . Xã Trung Hội . Xã Lam Vỹ . Xã Trung Lƣơng 1.2.3. Một số điểm du lịch tại định hóa Đến với Định Hóa là đến với vùng đất của lịch sử. Khu di tích lịch sử ATK Định Hóa trong thời kỳ chống Pháp nơi ở và làm việc của chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi ở và làm việc của đồng chí Trƣờng Chinh, nơi thành lập Việt Nam Giải phóng quân, Nhà tù Chợ chu đã đƣợc xếp hạng cấp Quốc gia, đƣợc phục hồi tôn tạo để hàng năm đón tiếp đông đảo du khách hành hƣơng về nguồn cội. Một số điểm du lịch lịch sử trên địa bàn huyện : *Thác khuôn tát Thác Khuôn Tát là một thắng cảnh của tỉnh Thái Nguyên. Thác nằm trên địa phận xóm Tỉn Keo, xã Phú Đình, huyện Định Hóa và cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 70 km. Thác Khuôn Tác thuộc khu vực di tích lịch sử ATK Định Hóa, là trung tâm căn cứ địa Việt Bắc và đại bản doanh lãnh đạo cuộc kháng chiến trƣờng kỳ do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo trong chiến tranh Đông Dƣơng (1946-1954). Thác Khuôn Tát đƣợc xếp hạng danh thắng cấp quốc gia vào năm 2002. Thác Khuôn Tát nằm giữa núi rừng hoang vu và khá yên tĩnh, xung quanh thác có nhiều cây cổ thụ. Thác bao gồm 7 tầng, nƣớc từ trên cao đổ xuống tung bọt trắng xoá, phía dƣới tạo thành dòng suối. Theo truyền thuyết của cƣ dân bản địa, xƣa kia, các loài động vật hoang dã trong vùng 10
  11. thƣờng đến đây uống nƣớc, vào những hôm trời xanh, nƣớc trong, mây trắng vờn trên đỉnh núi có bầy Tiên nữ từ trên trời xuống thác tắm. Từ trên đỉnh Đèo De, có thể nhìn xuống Thác Khuôn Tát với bảy tầng trông giống những bậc thang nhà sàn của cƣ dân miền núi. Độ cao tính từ đỉnh thác xuống chân thác là trên 20 m. Tầng dƣới cùng đẹp nhất và cao khoảng 12m, rộng 15m, các tầng còn lại phía trên cao chênh lệch nhau trên dƣới 2 đến 3m và chiều rộng thu nhỏ dần lên đỉnh thác. Ngƣời ta có thể leo lên các tầng thác, mỗi tầng đều có bóng cây toả mát, phía dƣới từng tầng, nƣớc đổ xuống tạo thành bồn tắm. Thác Khuôn Tát có nguồn nƣớc trong với nhiều tảng đá bằng phẳng. Ở chân thác Khuôn Tát, nƣớc dội xuống thành bồn tắm tự nhiên, chỗ nƣớc sâu nhất chừng 2 đến 3m, nông dần ra phía ngoài tạo thành con suối. Suối Khuôn Tát chảy ngoài thác độ 100m là bãi cát, sỏi nhỏ và đá tự nhiên nằm giữa dòng chảy nhƣ: hình cá voi, hình con rùa, con trâu đầm Hai bên suối là bãi cỏ bằng phẳng xanh tƣơi rất thuận lợi cho việc cắm trại, dựng lều lán nghỉ ngơi, vui chơi cho các đoàn khách du lịch đông ngƣời. * Di tích lịch sử ATK Định Hoá đã đƣợc chọn làm nơi xây dựng an toàn khu (ATK). Là trung tâm lãnh đạo cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lƣợc. Chủ Tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc, các cơ quan của Trung ƣơng Đảng và Chính Phủ đã từng làm việc ở đây từ năm 1947 đến năm 1954. Có thể nói ATK (An toàn khu) là nơi đặt đại bản doanh Thủ Đô của cuộc kháng chiến chống Pháp năm xƣa. Đã có đến gần 100 di tích lịch sử còn nằm khắp núi rừng Định Hoá, đến nay nhiều di tích đã đƣợc nhà nƣớc xếp hạng bảo tồn cấp quốc gia. Một số di tích tiêu biểu: - Nhà trƣng bày Bảo tàng ATK Định Hoá: Nhà trƣng bày Bảo tàng ATK Định Hoá đƣợc xây dựng và khánh thành nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Bác Hồ về ở và làm việc tại ATK- Định Hoá (20/05/1947- 20/05/1997) và đã vinh dự đƣợc thủ tƣớng Võ Văn Kiệt cắt băng khánh thành. Kiến trúc nhà trƣng bày đƣợc phỏng theo kiến trúc nhà sàn của đồng bào Tày- Nùng vùng chiến khu Việt Bắc. 11
  12. - Di tích Khuôn Tát: Bao gồm Lán Khuôn Tát, Hầm Khuôn Tát và những địa điểm gần gũi thân thuộc với Bác Hồ trong những năm 1947-1954: + Lán Khuôn Tát: Nằm trên đồi Khuôn Tát thuộc xóm Khuôn Tát- xã Phú Đình. Là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc trong thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở đây 3 lần. Những ngày ở đây Ngƣời đã viết rất nhiều tài liệu nhằm củng cố chính quyền, củng cố hậu phƣơng, động viên quân và dân ta quyết tâm kháng chiến. Nơi đây Bác Hồ và Quốc Hội đã tổ chức lễ phong quân hàm cấp tƣớng cho 10 cán bộ cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí Võ Nguyên Giáp đƣợc phong quân hàm Đại Tƣớng. + Hầm Khuôn Tát: Cách Lán Khuôn Tát không xa là một căn hầm nhỏ, nhƣng tƣơng đối chắc chắn và thoáng mát, tiện lợi. Là căn hầm Khuôn tát, nơi tránh bom, tránh đạn và máy bay trinh thám của địch. Trên con đƣờng nhỏ vào căn lán Khuôn Tát, du khách đi ngang qua một bãi đất rộng nằm dƣới chân cây đa xum xuê bóng mát. Có tên rất gẫn gũi "Cây đa Khuôn Tát". Hàng ngày Bác vẫn thƣờng ra đây tập thể dục. Dòng suối Khuôn Tát hiền hoà, dịu mát với những bãi đá nhỏ rất đẹp chảy vắt ngang qua con đƣờng vào căn lán của Bác. Chính tại dòng suối này Bác vẫn thƣờng câu cá, cũng nhƣ ngày ngày ra đây tắm giặt Trên mỗi nẻo đƣờng đi Việt Bắc đều vƣơng vấn hình bóng của Bác Hồ. - Di tích Khau Tý: Di tích Khau Tý thuộc xóm Nà Tra, xã Điềm Mạc, huyện Định Hóa Nằm cách trung tâm Thành phố Thái Nguyên khoảng 55km. Đây là địa điểm đầu tiên Bác Hồ đặt chân về mảnh đất ATK Định Hóa, Thái Nguyên vào ngày 20/5/1947 để chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc. Bác Hồ đã ở và làm việc tại đây trong thời gian từ 20/5 đến 10/11/1947. Bác đã chọn địa điểm này vì từ nơi đây có con đƣờng mòn đi Sơn Dƣơng, xuống Đại Từ, lên Chợ Đồn, ra Phú Lƣơng và nhiều đƣờng tắt đi lại kín đáo, thuận tiện. Tại Di tích này có lán ở của Bác, trong thời gian ở đây Bác đã viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" và bài thơ " Cảnh Khuya" dùng làm tài liệu tu dƣỡng tƣ tƣởng, đạo đức và tác phong cho cán bộ đảng viên. Ngày nay Di 12
  13. tích này là điểm tham quan thu hút nhiều du khách hành hƣơng về với cuội nguồn vinh quang của lịch sử . - Di tích Nà Mòn: Từ đầu năm 1947, sau khi rời khỏi thủ đô Hà Nội, hầu hết các cơ quan Trung ƣơng Đảng và Chính phủ đều lần lƣợt chuyển lên ATK Việt Bắc, trong đó có ATK Định Hoá và một số địa phƣơng khác của Thái Nguyên. Cơ quan trung ƣơng Đảng và Tổng bí thƣ Trƣờng Chinh chuyển đến ở và làm việc tại Nà Mòn- xã Phú Đình- huyện Định Hoá(Thái Nguyên). Đồng chí Trƣờng Chinh đã ở và làm việc ở đây trong những năm 1949, 1952-1953. Lán Nà Mòn đƣợc phục hồi tôn tạo trên nền móng cũ. Đó là nhà sàn rộng 4 gian, lợp lá cọ nằm giữa một khu vƣờn râm mát. Qua cổng chúng ta bƣớc vào một vƣờn Mơ xanh lá. Mùa xuân quanh nhà nở đầy hoa Mơ trắng. Phía sau nhà sàn là một đồi cây. Khi đồng chí Trƣờng Chinh ở đây có 1 hào nhỏ đƣợc đào xuyên qua đồi ra con suối ở phía sau. Căn nhà sàn rộng rãi và thoáng mát, gian ngoài cùng là bếp, gian trong cùng là nơi ở và làm việc của Tổng bí thƣ Trƣờng Chinh, ở đây có kê 2 chiếc giƣờng nhỏ hai đầu nhà sàn là 2 cầu thang lên xuống tiện lợi. * Chùa hang Chùa Hang thuộc xóm Đồng Chùa, thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam. Đây là một quần thể gồm: Hang Trên, miếu Mẫu, nhà Tam quan, Hang Dƣới. Trong hang có nhiều nhũ đá với hình dáng đa dạng. Điểm độc đáo của hang là bên trong có nhiều điểm nƣớc chảy lâu ngày tạo nên những "ruộng cô tiên", bàn thờ Phật, một tấm bia cổ thời Nguyễn và một quả chuông cổ. Di tích Chùa Hang còn gắn với sự kiện lịch sử, là nơi Hồ Chí Minh từng ở và làm việc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Hằng năm lễ hội chùa hang đƣợc tổ chức vào ngày 14/15 thàng giêng âm lịch, thu hút khách du lịch đến dâng hƣơng tham quan và vãn cảnh chùa. Lễ hội xuân Chùa Hang - Lễ hội diễn ra vào ngày 14 tháng Giêng tại tại xóm Đồng Chùa, thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Đây là lễ hội xuân độc đáo của đồng bào các dân tộc Định Hoá từng đƣợc tổ chức từ những năm 1950 của thế kỷ trƣớc nhƣng do nhiều lý do khác nhau đã bị gián đoạn, mai một dần. Năm 2012, Lễ hội xuân Chùa Hang - Định Hoá đƣợc khôi 13
  14. phục lại với ý nghĩa tạ ơn trời đất, cầu cho mƣa thuận gió hòa, bản làng ấm no, hạnh phúc, cây cối tốt tƣơi, đâm chồi nẩy lộc Tiểu kết chương 1: Định Hóa là địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc anh em, tạo nên một bức tranh văn hoá độc đáo. Với một bề dày lịch sử, văn hoá, danh thắng và tiềm năng kinh tế, Định Hóa trở thành một vùng đất nhiều tiềm năng cho du lịch văn hoá, du lịch di tích lịch sử, du lịch sinh thái, du lịch lễ hội – tâm linh và du lịch tham quan, nghỉ dƣỡng cuối tuần Những tiềm năng đó đan xen, hoà quyện vào nhau nếu đƣợc khai thác tốt sẽ hình thành những tour, tuyến du lịch hấp dẫn đối với du khách, đem lại một nguồn lợi nhuận không nhỏ cho nền kinh tế địa phƣơng. Chƣơng 1 của khóa luận đã nêu ra đƣợc một số cơ sở lý luận cơ bản và những nét khái quát về huyện Định Hóa. Từ đó, ta có những cơ sở thực tiễn để kết hợp với những đặc điểm và giá trị của văn hóa dân tộc Tày ở chƣơng 2. Để có những giải pháp nhằm nâng các giá trị văn hóa của dân tộc Tày cùng với những giải pháp phát triển du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng. 14
  15. CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN TỘC TÀY TẠI ĐỊNH HÓA –THÁI NGUYÊN. 2.1. Lịch sử hình thành và phân bố của ngƣời Tày tại Định Hóa. Ngƣời Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trƣớc Công nguyên. Là một trong 54 dân tộc Việt Nam, thuộc nhóm địa phƣơng Pa dí, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao, thuộc hệ ngôn ngữ Thái-Kadai sinh sống chủ yếu ở vùng núi thấp phía Bắc Việt Nam. Trong quá trình phát triển của lịch sử, một bộ phận ngƣời Kinh xuôi lên sinh sống lâu đời ở huyện Định Hóa, dần chuyển hóa thành ngƣời Tày. Đồng bào Tày chủ yếu làm ruộng lúa nƣớc, ngoài ra họ còn tiến hành các nghề thủ công khác nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho đời sống hàng ngày của gia đình nhƣ kéo sợi, dệt vải, đan lát, làm mộc, rèn đúc cuốc, dao. Bên cạnh đó họ con chăn nuôi trâu, bò lấy sức kéo, chăn nuôi lợn, gà, vịt, cá tạo ra nguồn thu nhập cho gia đình. Dù là ngƣời Tày bản địa hay ngƣời Tày gốc Kinh đều đã sớm hòa nhập, cấu kết với nhau thành một khối Tày thống nhất cùng nhau xây dựng quê hƣơng và bảo vệ quê hƣơng Định Hóa, bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. Dân tộc Tày là dân cƣ chiếm số đông ở huyện Định Hóa. Hiện nay, ở Định Hóa có 43.367 ngƣời Tày chiếm 49,2% dân số toàn huyện. Có những xã của huyện Định Hóa ngƣời Tày chiếm tới 90% nhƣ: Linh Thông, Bộc Nhiêu, Điềm Mặc, Bình Yên Theo tác giả Đào Duy Anh trong tác phẩm “Đất nƣớc Việt Nam qua các đời” thì ngƣời Tày ở nƣớc ta có nguồn gốc từ ngƣời Lão Man ở Trung Quốc. Tác giả “đoán rằng ngƣời Nùng ở miền Nam Trung Quốc và ngƣời Tày ở Bắc Việt Nam là hậu duệ của họ. Đặc biệt là ngƣời Lão ở Tây Nguyên bấy giờ”. Ngoài nguồn gốc từ phía Nam Trung Quốc, ngƣời Tày ở Định Hóa còn một bộ phận “Tày hóa”. Ngƣời Kinh trong lịch sử đã có quá trình di cƣ lên Định Hóa sinh sống cùng ngƣời Tày và dần dần họ trở thành ngƣời Tày. Một bộ phận ngƣời Tày hiện nay nếu xem xét gia phả thì hoàn toàn là ngƣời Việt. 2.2. Đặc điểm và giá trị đời sống của ngƣời Tày tại Định Hóa. 2.2.1. Nhà ở truyền thống. 15
  16. Hiện nay, ngƣời Tày ở huyện Định Hóa còn tồn tại 2 loại hình nhà ở: Nhà sàn là dạng nhà truyền thống và phổ biến nhất của ngƣời Tày, thuộc kiểu nhà 3 gian 2 chái. Hệ thống cột của nhà thƣờng đƣợc chôn thẳng xuống đất, hay một số nhà dùng đá kê dƣới chân cột nhƣng vẫn có một cột đƣợc chôn xuống đất. Theo quan niệm của đồng bào Tày những cột đó để giúp âm dƣơng hòa hợp khiến ngôi nhà đƣợc vững chắc, các thành viên trong nhà đƣợc mạnh khỏe. Nhà sàn truyền thống của ngƣời Tày ở Định Hóa - Thái Nguyên gồm có bộ phận chính và bộ phận phụ. Bộ phận chính gồm có mái nhà, bộ cột kèo và xuyên, sàn nhà, phên vách. Bộ phận phụ gồm có máng nƣớc rửa chân, cầu thang, cửa ra vào, sàn nƣớc, gác mái và gác bếp, sân phơi. Mái nhà sàn của đồng bào Tày ở Định Hóa đƣợc lợp bằng cỏ gianh, có thể che mƣa che nắng rất tốt lại vừa nhẹ phần mái. Nếu lợp đƣợc dày thì trong nhà rất mát và có thể tồn tại đƣợc 5 - 10 năm. Bộ phận chủ yếu của một ngôi nhà truyền thống là bộ khung, sƣờn quyết định sự vững chãi và tạo nên hình dáng, ảnh hƣởng cơ bản đến tính thẩm mỹ của ngôi nhà. Sinh hoạt trong mỗi ngôi nhà thƣờng tập trung tai sàn nhà. Mặt sàn của ngƣời Tày thƣờng làm cao hơn mặt đất khoảng từ 1,6 m đến 1,8 m. Sàn nhà sàn đƣợc làm từ thân tre bổ nát theo chiều dọc, rạch một đƣờng xẻ phanh cây thành một tấm gép lại với nhau. Ở Định Hóa có nhà khá giả họ làm sàn bằng những tấm ván gỗ. Phên, vách là phần bƣng quanh diện tích sử dụng trong ngôi nhà. Trƣớc đây hầu hết ngôi nhà sàn đƣợc bƣng bằng phên tre, nứa, ngày nay một số gia đình có điều kiện đã bƣng bằng ván gỗ. Trƣớc khi lên nhà của đồng bào ngƣời Tày thì khách phải rửa chân tại máng đựng nƣớc rửa chân để bên trên cầu thang. Cầu thang nhà sàn của ngƣời Tày gồm 7 hoặc 9 thanh gỗ đẽo thành thang dài khoảng 120 - 150 cm, rộng 20 - 25 cm, hai đầu đóng mộng vào hai khung thang vững chắc. Cầu thang đƣợc đặt tại đầu ngoài của sàn nƣớc, nằm trong khoảng trống của một góc lợp mái và chái nhà, chiếm 1/3 chiều dài của sàn nƣớc và hƣớng lên cửa, tức là nằm ngang so với ngôi nhà. Tuy là một trong những bộ phận phụ trong ngôi nhà sàn của ngƣời 16
  17. Tày nhƣng chiếc cầu thang lại rất quan trọng không những trong sinh hoạt hàng ngày mà nó còn mang nhiều yếu tố tâm linh của đồng bào. Cầu thang trƣớc hết là vật dụng phục vụ cuộc sống hàng ngày của con ngƣời. Song nó là vật nối liền đất với sàn nhà, theo quan niệm của đồng bào thì cầu thang là chiếc cầu nối giữa âm với dƣơng. Bậc thang lên xuống bao giờ cũng là số lẻ 7 hay 9 tùy thuộc vào độ cao của mặt sàn. Ngƣời Tày ở Định Hóa chỉ làm bậc cầu thang bởi số 7 hoặc 9 bởi “con số 9 và 7 thể hiện cái vía của cầu thang nhƣ 9 vía, 7 vía của con ngƣời”. Đồng bào kiêng làm cầu thang chẵn bởi số chẵn là biểu hiện của thế giới bên kia.  Sinh hoạt trên nhà sàn Sinh hoạt hàng ngày trên nhà sàn của ngƣời Tày ở Định Hóa, có sự phân chia khu vực dành riêng cho từng đối tƣợng nên mỗi thành viên chỉ sinh hoạt ở đó, trừ khi có việc cần đến nơi khác. Phân chia các khu vực nhƣ sau: gian thứ nhất là nơi sinh hoạt của nam giới và nơi ngủ của khách nam giới. Gian giữa gồm hai phần: phía trên là khu vực của con trai chủ nhà, phía dƣới giáp vách là nơi để chạn bát, ở giữa là bếp sinh hoạt. Gian thứ ba gồm hai phần: phía trƣớc là một buồng nhỏ dành cho con gái, ở giữa là giƣờng của chủ nhà. Chái phía trong, giáp giƣờng ngủ của chủ nhà là bàn thờ tổ tiên. Ngƣời đàn ông, nhất là ngƣời chồng, ngƣời cha còn đang nắm quyền quyết định trong gia đình, khi ở nhà thì mọi thành viên khác đều nhƣờng chỗ ngồi nhƣ cạnh trên của bếp lửa về mùa đông, khu cửa sổ gian chính giữa về mùa hè. Ngƣời phụ nữ, kể cả vợ, mẹ hay con gái hầu nhƣ chỉ ngồi ở cạnh phía dƣới của bếp lửa vào mùa đông, hoặc ngồi ở khu cửa sổ cạnh sàn nƣớc nơi để các dụng cụ chế biến lƣơng thực, để quạt hòm và thông ra sân phơi. Khi ngồi quây quần bên bếp lửa, cả nhà cũng luôn tuân theo sự sắp đặt một cách tự giác, đã trở thành tập quán của mình: ngƣời vợ, ngƣời mẹ ngồi phía dƣới, gần chạn bát, gần đồ bếp núc để nấu cơm, con cái ngồi nô đùa hay đọc sách ở phía trong, ngƣời chồng, ngƣời cha ngồi chờ cơm ở khu trên, tranh thủ sửa sang một vài dụng cụ lao động. Nếu gia đình có khách thì chủ và khách ngồi ăn ở khu tiếp khách và sinh hoạt của đàn ông, còn phụ nữ thì ăn riêng ở dƣới bếp. 17
  18.  Một số kiêng kỵ liên quan đến nhà sàn của người Tày Định Hóa Những vấn đề kiêng kỵ trong cuộc sống nói chung và kiêng kỵ liên quan đến việc làm nhà và sinh hoạt trên nhà sàn của ngƣời Tày khá nặng nề. Trong việc chọn cây làm nhà, ngƣời Tày luôn kiêng sử dụng các loại cây cụt ngọn, cây sâu gốc. Đồng bào cho rằng cây cụt ngọn và cây sâu gốc là loại cây bệnh tật ốm yếu, nếu lấy chúng làm nhà thì con ngƣời sống trong đó sẽ bị ốm theo. Khi dựng nhà, ngƣời ta kiêng quay ngọn cây xuống đất, kiêng hƣớng ngọn cây về phía mặt trời mọc (là hƣớng của phụ nữ). Khi dựng cột nhà hay chôn sàn ngƣời ta kiêng bóng ngƣời nấp nơi đang đặt cột hay đào hố bởi làm nhƣ vậy dễ phạm vào thân thể ngƣời có bóng nấp đó, hơn nữa sẽ ảnh hƣởng đến sức khỏe của ngƣời sống trong ngôi nhà đó. Khi dựng nhà xong, tuyệt đối không đƣợc đào hố trên nền nhà vì sợ phạm vào mạch ngôi nhà có thể gây hƣ hại ảnh hƣởng đến con ngƣời. Nhà đã dựng xong không đƣợc chém vào bất cứ bộ phận nào của ngôi nhà, nhất là các cây cột vì làm nhƣ vậy sẽ làm tổn hại đến phần hồn nhà, nó sẽ trả thù con ngƣời. Trong sinh hoạt hàng ngày, do đã có sự phân chia khu vực sinh hoạt dành riêng cho đối tƣợng nên không ai đƣợc vi phạm các quy định này, nhất là quy định cho ngƣời phụ nữ nhƣ: - Phụ nữ chủ nhà không đƣợc đến khu vực dành cho khách nam giới. - Phụ nữ không đƣợc ngồi cạnh chồng tiếp khách, không đƣợc ngồi cạnh ở trên bếp sinh hoạt vì đây là nơi ngồi của đàn ông. - Phụ nữ không đƣợc trèo lên gác nhà hoặc gác bếp để lấy đồ dùng hay giống cây trồng vì đây là biểu hiện thiếu tôn trọng nam giới, đồng thời thể hiện trong nhà không có đàn ông là điều vô phúc. - Phụ nữ không đƣợc ngồi gần bàn thờ tổ tiên, không đƣợc bầy mâm cúng, không đƣợc quét dọn bàn thờ tổ tiên vì đồng bào quan niệm việc cúng bái là việc của đàn ông, thân thể phụ nữ “không sạch sẽ”. - Buổi tối không ai đƣợc nói to, không đƣợc huýt sáo miệng trong nhà vì huýt sáo trong nhà bổi tối là biểu hiện gọi ma quỷ lạ vào nhà, không đƣợc ăn chúng sẽ quấy rối, gây ốm đau cho ngƣời trong nhà. 18
  19. - Không đƣợc nô đùa với bóng ngƣời khi bóng ngƣời in trên vách nhà vì bóng chứa hồn của ngƣời, nô đùa sẽ làm hồn giật mình hồn sẽ lìa khỏi xác. Nhà sàn của ngƣời Tày mang bản sắc văn hóa tộc ngƣời đậm nét. Là nơi chứa đựng tình cảm, mối quan hệ thƣờng ngày thể hiện một lối tƣ duy logic trong đời sống. Ngôi nhà sàn thể hiện đƣợc những giá trị lâu bền về mặt kỹ thuật và nghệ thuật, cả về giá trị kinh tế lẫn ý nghĩa xã hội. Loại hình nhà ở thứ hai của ngƣời Tày ở Định Hóa là Nhà đất. So với nhà sàn thì nhà đất có quy mô nhỏ và đơn giản hơn. Việc chuẩn bị xây dựng ngôi nhà đất phải cần 2 - 3 năm. Bố cục trong ngôi nhà đất của ngƣời Tày rất đa dạng. Nhà vách đất phên nứa thƣờng là 3 gian 2 chái. Nhà ngăn thành nhiều phòng dành riêng cho nam, nữ. Sàn gác bị thu hẹp lại trở thành gác xép là nơi để thóc lúa, hòm xiểng và những đồ lặt vặt trong gia đình. Bàn thờ đặt đối diện với cửa chính. Nơi tiếp khách thƣờng ở trƣớc bàn thờ, chỗ gần cửa chính. Bếp không còn ở gian nhà chính nữa mà thƣờng để ở gian đằng sau hay gian bên cạnh. Nơi ngủ của các thành viên ở hai gian kề gian để bàn thờ. Nhà đƣợc mở thêm nhiều cửa sổ ra đằng sau, cạnh nhà hay hai bên cửa chính. Các công trình phụ nhƣ chuồng gia súc, gia cầm đƣợc bố trí trên những khu đất xung quanh nhà. Ngày nay, với những gia đình có điều kiện kinh tế khá giả đã bỏ nhà đất thay vào đó là những ngôi nhà xây hiện đại. Tóm lại, nhà ở của ngƣời Tày ở huyện Định Hóa đƣợc làm từ những vật liệu sẵn có từ tự nhiên nhƣ gỗ, mây, lá cọ, tre, vầu, cỏ tranh không chỉ để che mƣa che nắng mà nó còn phù hợp với khung cảnh thiên nhiên, chống chọi sự đe doạ cũng từ thiên nhiên. Còn có thể phòng tránh sự tấn công của thú dữ, làm nơi cất trữ lƣơng thực và đồng thời cũng là một mô hình khép kín với cả bếp bên trong vừa tiện lợi lại vừa ấm cúng. Nhà của ngƣời Tày còn là nơi để tổ chức cƣới xin, ma chay và các lễ nghi truyền thống khác. Ngôi nhà sàn với bếp nấu đặt ở vị trí trung tâm giúp cho mùa đông tránh đƣợc giá lạnh. Vào mùa hè, sự cao ráo của sàn cũng giúp cho không khí đƣợc lƣu thông, thoáng mát, khi mƣa sẽ không ẩm ƣớt và tránh đƣợc nhiều bệnh tật lây lan. Thông qua việc dựng nhà còn phát huy sự đoàn kết, tƣơng trợ lẫn nhau của anh em, hàng xóm láng giềng. 19
  20. Những ngôi nhà sàn giản dị, mộc mạc đã trở thành nét đặc trƣng cho đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng, lƣu giữ trong mình những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, chứa đựng cái hồn dân tộc truyền từ đời này sang đời khác, ngôi nhà sàn gắn bó với bao thế hệ từ lúc đƣợc sinh ra, lớn lên cho đến khi từ biệt cuộc sống để về với tổ tiên. 2.2.2. Tổ chức làng bản. Ngƣời Tày chủ yếu sống trong các bản ven đƣờng, cạnh sông suối hay các thung lũng. Bản là đơn vị cơ bản của họ. Các gia đình trong bản với các thành viên của mình hợp lại thành một cộng đồng dân cƣ có tổ chức nhất định. Các bản của ngƣời Tày ở Định Hóa thƣờng tựa lƣng vào núi rừng, hƣớng xuống thung lũng. Mỗi bản thƣờng có địa vực cƣ trú riêng, bao gồm đất ở, đất canh tác, rừng rú, sông suối, bãi chăn thả gia súc Ranh giới giữa các bản thƣờng đƣợc xác định theo đƣờng phân thủy, eo núi, sông suối hoặc đƣờng sá. Quy mô các bản Tày vừa và nhỏ, mỗi bản thƣờng chỉ có khoảng 30 đến trên dƣới 60 hộ gia đình. Cá biệt mới có những bản có quy mô trên 100 nóc nhà. Trong bản đều có nhiều dòng họ cùng chung sống và quan hệ láng giềng đƣợc coi là quan hệ chủ đạo. Trong mỗi bản Tày thƣờng có một vài dòng họ có số nhân khẩu đông hơn, có vị thế và tiếng nói có trọng lƣợng hơn so với các dòng họ khác. Bản đƣợc bố trí theo lối tập trung hoặc rải rác. Trong mỗi bản thƣờng có nhiều chòm xóm nhỏ, phân bố tƣơng đối biệt lập, nhƣng đều hƣớng ra cánh đồng hoặc con đƣờng cái chạy qua. Các tên gọi của bản thƣờng đƣợc đệm từ: nạ(ruộng), pạc(cửa), loòng(suối), nắm(nƣớc). Bên cạnh đó, cũng có nhiều bản đƣợc đặt theo tên tiếng Việt, do tiếp thu ảnh hƣởng từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong mỗi bản có những họ là gốc Tày cổ, nhƣng cũng có những họ là gốc Kinh bị Tày hóa. Đặc biệt, từ sau những năm 60 của thế kỷ XX, thực hiện chủ trƣơng xây dựng kinh tế mới của Đảng và Nhà nƣớc, đã có sự biến đối trong thành phần dân cƣ của các thôn, bản. Hầu hết các thôn, bản gần trung tâm xã hoặc gần trục giao thông đều có sự xen cƣ giữa ngƣời Tày với ngƣời Kinh, thậm chí, trong cùng một bản có ngƣời Tày, Kinh và Dao cƣ trú. 20
  21. Các mối quan hệ trong bản làng của ngƣời Tày thì quan hệ huyết thống dân tộc là mật thiết nhất. Bên cạnh đó là quan hệ láng giềng đồng tộc hay khác tộc cũng là yếu tố quan trọng để giúp nhau cả về vật chất lẫn tinh thần. Thông qua lao động sản xuất, sinh hoạt văn hóa tinh thần mọi thành viên trong bản dù đồng tộc hay khác tộc đều đoàn kết với nhau. Trong sản xuất, đồng bào nơi đây có tập quán đổi công cho nhau trong những ngày mùa bận rộn. Hay khi một nhà trong bản có lễ cƣới hay tang ma đều nhận đƣợc sự giúp đỡ của mọi ngƣời dân trong bản. Đó thực sự là một nét đẹp trong đời sống tinh thần của đồng bào Tày nơi đây. 2.2.3. Trang phục truyền thống. Trang phục của ngƣời Tày khá phong phú và đa dạng, đƣợc phân biệt theo giới tính, lứa tuổi,địa vị xã hội và theo nhóm địa phƣơng Trang phục truyền thống của ngƣời Tày đƣợc làm bằng vải bông tự dệt và nhuộm chàm. Y phục của nam giới đƣợc cắt may bằng vải chàm và theo một kiểu. Bộ y phục của nam giới Tày gồm có áo cánh 4 thân, áo dài 5 thân, khăn đội đầu và giày vải. Chiếc áo cánh 4 thân mặc hàng ngày đƣợc may theo kiểu xẻ ngực, cổ áo tròn, cao, không có cầu vai, tà áo xẻ cao, có hàng cúc vải (7 cái) ở trƣớc ngực và hai túi nhỏ không nắp ở phía dƣới hai vạt trƣớc. Áo dài mặc trong dịp lễ tết, hội hè, đám cƣới có 5 thân, dài tới đầu gối, cài khuy bằng vải bên nách phải. Quần của nam giới Tày đƣợc may bằng vải sợi bông, màu chàm may kiểu chân què hoặc bổ đũng, dài tới mắt cá chân. Phần cạp may rộng và không có đƣờng luồn dải rút. Khi mặc, vấn mối về phía trƣớc, buộc dây vải bên trong. Khăn đội đầu của nam giới Tày màu chàm đƣợc dệt bằng sợi bông hoặc sợi tơ tằm dài 2 mét, rộng 30 cm, quấn lên đầu theo hình chữ nhân. Mũ của nam giới may bằng vải chàm theo kiểu mũ lƣỡi trai. Nam giới ít đeo đồ trang sức. Có một số ngƣời đeo vòng tay bằng bạc. Đến tuổi trƣởng thành, họ thƣờng bọc răng vàng hoặc bạc (thƣờng là chiếc răng nanh bên trái, hàm trên). Nhìn chung, trang phục nam giới tƣơng đối giản dị về màu sắc, cách tạo hình, kiểu cách và hầu nhƣ không có hoa văn trang trí. 21
  22. Trang phục của nữ giới phong phú và đa dạng hơn nhiều. Y phục của nữ giới gồm áo ngắn 4 thân, áo dài 5 thân, quần, thắt lƣng, khăn đội đầu. Áo ngắn của phụ nữ Tày có 4 thân, cổ tròn, xẻ ngực, cài cúc, có hai túi nhỏ ở hai vạt trƣớc. Áo may hẹp, hơi thắt eo, ống tay áo nhỏ gần nhƣ bó sát với tay. Khi mặc bó khít ngƣời tôn vẻ đẹp của thân thể ngƣời phụ nữ. Áo ngắn thƣờng mặc ở nhà, khi đi làm và dùng để mặc áo lót trong áo dài khi đi chợ hoặc tham dự các lễ hội. Vào những dịp này, phụ nữ Tày thƣờng mặc chiếc áo cánh lót trong bằng vải trắng. Chiếc áo dài của nữ giới cơ bản giống áo dài nam giới, cũng thuộc loại áo 5 thân, có 5 cúc cài bên nách phải, nhƣng cổ tròn, ống tay hẹp, thân hẹp và hơi thắt eo. Quần của nữ giới giống với quần nam giới cũng kiểu lá tọa nhƣng kích thƣớc có phần hẹp hơn. Chiếc thắt lƣng truyền thống của phụ nữ Tày dài khoảng 3m, rộng khoảng 30cm. Thắt lƣng không phải cắt may vì đƣợc dệt trọn khổ bằng sợi bông nhuộm chàm, dùng để thắt ngoài áo dài, vắt mối ra phía sau.Phụ nữ Tày thƣờng đội khăn, đó là loại khăn vuông, sử dụng bằng cách gập đôi theo đƣờng chéo rồi chít lên đầu, thắt mối về phía sau nhƣ khăn mỏ quạ của ngƣời Việt. Trang sức của phụ nữ Tày cũng đơn giản. Xƣa kia chị em thƣờng đeo vòng cổ, vòng tay, vòng chân và mang xà tích bằng bạc, có ngƣời đeo khuyên tai vàng. Nhìn chung, trang phục nữ giới Tày giản dị, hầu nhƣ không có hoa văn trang trí. Trang phục truyền thống tôn vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Tày bằng màu sắc trang nhã, cách tạo hình và cách sử dụng. Trong bộ trang phục truyền thống, phụ nữ Tày nhƣ đƣợc tôn thêm chiều cao, tôn thêm vẻ đẹp đƣờng nét của cơ thể. Y phục thầy cúng gồm có áo, mũ, khăn. Áo thầy Tào gồm có ba thân (một thân sau, hai thân trƣớc), không cài cúc, xung quanh áo có thêu hình tứ linh, bát quái, ngƣời, ngựa, chim, cá. Mũ của thầy Tào đƣợc làm bằng vải, là hai mảnh vải dầy cứng hình vuông áp vào nhau, viền 3 mép lại tạo thành lòng mũ, trên đỉnh mũ cắt hình ba lá đề, mặt trƣớc và sau có trang trí thêu hoa văn các chủ đề nhƣ rồng, hổ phần đuôi có các dải nhiều màu buông xuôi xuống vai khi đội hành lễ. 22
  23. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, trang phục truyền thống của ngƣời Tày ở Định Hóa trƣớc hết là sản phẩm vật chất của lao động, đồng thời nó cũng là sản phẩm văn hóa, là biểu hiện sinh động của kỹ thuật thủ công gắn liền với khả năng thẩm mỹ và nó luôn mang những sắc thái văn hóa độc đáo của các dân tộc. Việc kết hợp các mầu sắc, hoa văn trang trí đa dạng, phong phú và hài hòa với các trang sức cho thấy sức sáng tạo phong phú và đa dạng của nghệ nhân nhiều thế hệ, đó cũng là những dấu ấn của sự phát triển trong trang trí dệt dân gian của ngƣời Tày để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống ngày một đa dạng phong phú, về các mặt văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc. Trang phục là “bộ mặt” dân tộc, để ngƣời ngoài nhận biết đƣợc dễ nhất, nhanh nhất từ cái nhìn đầu tiên là trang phục. Qua trang phục của ngƣời Tày ở đây chúng ta cũng có thể nhận thấy những biểu hiện của nếp sống tộc ngƣời. Có sự phân biệt giới tính, lứa tuổi, địa vị, sự khác nhau trong trang phục sinh hoạt hàng ngày với trang phục trong những ngày lễ tết, hội hè hoặc trong đám cƣới, đám tang Trang phục và những giá trị thẩm mỹ của nó đã góp phần đáng kể làm rạng rỡ thêm sắc thái văn hóa của dân tộc Tày ở đây. 2.2.4. Lao động sản xuất. Dân tộc Tày phần lớn là cƣ dân trồng trọt, nguồn sống chủ yếu dựa vào kết quả của mùa màng. Cùng với nông nghiệp ruộng nƣớc, nƣơng rẫy cũng chiếm vị trí đáng kể. Đồng thời việc làm vƣờn, trồng cây đặc sản, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp đều là những ngành kinh tế phụ bổ trợ cho kinh tế ruộng nƣớc. Ruộng của ngƣời Tày đƣợc khai phá từ đất bằng phẳng ven sông ở các vùng thung lũng có độ màu mỡ cao hoặc khai phá các thửa ruộng rìa đồi rừng. Tên các cánh đồng đó thƣờng đƣợc bắt đầu bằng từ “nà” nhƣ: Nà Chằm, Nà Luông, Nà Phai. Hệ thống thủy lợi tƣơng đối phát triển bao gồm: hệ thống mƣơng, phai đặc biệt ngƣời Tày ở Định Hóa nói riêng và đồng bào Tày nói chung biết sáng tạo ra những chiếc cọn dẫn nƣớc từ khe suối lên ruộng bậc thang, đảm bảo việc tƣới tiêu có hiệu quả. Trong canh tác lúa nƣớc ngƣời Tày biết dùng phân bón, chủ yếu là phân trâu để bón ruộng, phân chuồng hoặc phân xanh để bón cho lúa. Ngày nay, nhờ áp dụng khoa học và cải tiến kỹ thuật nên 23
  24. ngƣời Tày đã sử dụng các loại phân đạm hóa học, thuốc trừ sâu để chăm sóc cho lúa, nhờ vậy nên năng suất cây trồng đƣợc nâng cao. Bên cạnh canh tác lúa nƣớc, đồng bào còn làm nƣơng rẫy, soi bãi và phát triển vƣờn tƣợc theo lối truyền thống. Nƣơng rẫy là một hình thức sản xuất cổ truyền, có nguồn gốc từ lâu đời. Trên nƣơng rẫy đồng bào tiến hành trồng các loại cây ngũ cốc nhƣ: lúa, ngô, khoai, sắn. Sau trồng trọt, chăn nuôi là hoạt động kinh tế quan trọng. Trƣớc đây, ngƣời Tày vẫn chú ý đến việc chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm nhƣ: trâu, bò, lợn, dê, gà, ngan, vịt nhƣng chủ yếu là chăn thả, rất ít khi làm chuồng trại kiên cố. Từ khi có chính sách khuyến nông của Đảng và Nhà nƣớc, đồng bào đã biết áp dụng các phƣơng pháp khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi. Các loại gia súc, gia cầm đã có chuồng, trại ổn định, nuôi các giống vật nuôi cho năng suất cao nhƣ: lợn lai, lợn siêu nạc, gà siêu nạc, Nhờ vậy, chăn nuôi không chỉ nhằm phục vụ nhu cầu của đồng bào mà còn tạo ra sản phẩm để trao đổi hàng hóa, tạo thêm thu nhập cho gia đình. Không chỉ có chăn nuôi và trồng trọt, đồng bào Tày còn tiến hành hái lƣợm và đánh bắt. Sau buổi làm nƣơng, đồng bào tranh thủ hái các loại rau rừng, nấm, măng về làm thức ăn. Đánh bắt cá ở khe suối, sông, hồ tự nhiên cũng là một hoạt động kiếm sống mang tính tự nhiên khá phát triển của đồng bào Tày Định Hóa. Đồng bào sử dụng các loại dụng cụ từ thô sơ nhƣ việc bắt bằng tay đến các loại công cụ cao hơn nhƣ chài lƣới, dùng thuyền, mảng. Hiện nay, ở nông thôn kinh tế hộ gia đình ngày càng phát triển với xu hƣớng là các hộ gia đình hay nhóm hộ nông dân đang sắm thêm các công cụ sản xuất: máy bơm, máy kéo, ô tô vận tải, đồng thời mở thêm các cơ sở sản xuất và kinh doanh. 2.2.5. Phương tiện vận chuyển Trên toàn bộ địa bàn cƣ trú của nhóm dân tộc Tày, Nùng, đến nay đã có nhiều loại đƣờng tùy theo từng địa hình cụ thể, tùy theo từng khu vực. Những làng bản ven quốc lộ thì có đƣờng dải nhựa hoặc đƣờng đá. Nhƣng những đƣờng liên xã, đƣờng hàng huyện thì phần nhiều vẫn là đƣờng đá hay đƣờng đất, xe ô tô có thể đi lại tƣơng đối thuận tiện về mùa khô. Còn ở mùa mƣa vẫn gặp khó 24
  25. khăn do nhiều đoạn bị sụt lở hay nƣớc tràn. Phƣơng tiện đi lại và vận chuyển tại các thôn bản vùng xa thì chủ yếu là đi bộ cùng chiếc đòn gánh và đôi dậu(bồ đan). Còn có thể vận chuyển bằng sức kéo của gia súc nhƣ ngựa hay trâu,bò. Đƣợc sử dụng để chở củi, thóc lúa, ngô khoai, phân bón trong mùa vụ. Từ vài chục năm qua, xuất hiện loại xe trâu, xe bò có bánh hơi hay bánh bàng sắt bọc cao su chạy trên đƣờng đất, đƣờng trải đá, rải nhựa, có sức vận chuyển mang lại hiệu quả hơn hẳn các phƣơng tiện trƣớc đó. Ngày nay,với khoa học kĩ thuật phát triển, có nhiều phƣơng tiện hiện đại nhằm phục vụ việc đi lại, vận chuyển cho ngƣời dân nhƣ: xe đạp, xe gắn máy .phù hợp với hệ thống giao thông cũng nhƣ điều kiện kinh tế xã hội tại đây. 2.3. Đặc điểm và giá trị văn hóa của dân tộc Tày tại Định Hóa. 2.3.1. Phong tục tập quán * Phong tục lễ tết Ngƣời Tày ở Định Hóa cũng tổ chức những ngày lễ tết khác nhau thể hiện những ý nghĩa riêng mang đậm bản sắc dân tộc của ngƣời Tày tại đây. Thƣờng thì có tết Nguyên Dấn, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn đƣợc tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 ( âm lịch), sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trƣng cho đồng bào dân tộc Tày trồng lúa nƣớc. Tết Nguyên đán là mở đầu cho một năm mới và họ bắt đầu ăm tết từ ngày 28 tháng chạp âm lịch. Những ngày này trai gái trong bản lại khẩn trƣơng trang trí lại nhà cửa, quét dọn sạch sẽ và sắp xếp lại đồ đạc trong nhà để cho gian nhà thêm mới mẻ và ấm cúng hơn. Bƣớc sang ngày 29 ngƣời Tày bắt đầu làm thịt lợn và chế biến ra những món ăn nhƣ: giò, chả, thịt luộc, thịt nƣớng và lạp sƣờn Nếu ngày này ai đó có dịp đến với vùng cao sẽ thấy nhà nào cũng treo những dây lạp sƣờn trong bếp trông thật hấp dẫn. Đến ngày 30 tết thì ngƣời Tày cất tất cả những đồ dùng trong nhà nhƣ: Dao, dựa, cày, bừa vào một nơi rồi làm lễ cúng để cho chúng nghi ngơi ăn Tết, vì theo đồng bào nơi đây những vật dụng đó đã gắn bó và theo ngƣời dân suốt một năm lao động vất vả nên chúng cũng phải đƣợc nghỉ ngơi đón tết. Đêm giao thừa là dịp mà các thành viên trong gia 25
  26. đình quây quần bên nhau để trò chuyện, cùng nhau thƣởng thức những món ăn đặc biệt hơn ngày thƣờng và chúc nhau những lời chúc năm mới hạnh phúc, thịnh vƣợng. Chuẩn bị đón tết còn là dịp cho trai, gái trong bản rủ nhau xuống chợ mua sắm cho mình những bộ quần áo mới nhất để đi chơi xuân. Ngày tết cũng là cơ hội để cho cả ngƣời già, trẻ em, thanh niên nam nữ kéo nhau đi xem các lễ hội vui xuân nhƣ: Tung còn, múa xòe và trao cho nhau những điệu hát Sli, hát lƣợn thật hay thật tình tứ. * Phong tục cưới xin Theo phong tục truyền thống, hầu hết ngƣời Tày kết hôn trong cùng dòng họ. Gia đình ngƣời Tày theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ, một vợ một chồng. Thanh niên nam nữ đƣợc tự do tìm hiểu trƣớc khi đi đến hôn nhân. Thế nhƣng, có đi đến hôn nhân hay không lại do hai gia đình quyết định. Hôn lễ truyền thống của ngƣời Tày đƣợc tiến hành qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cƣới, lễ cƣới, lễ đón dâu, đƣa dâu , thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc ngƣời. Chế độ hôn nhân của ngƣời Tày là chế độ hôn nhân một vợ một chồng bền vững. Nhƣng vì nền đạo đức phong kiến trọng nam khinh nữ, đòi hỏi phải có con trai để nối dõi tông đƣờng cho nên những ngƣời không có con con trai thƣờng lấy vợ lẽ. Trong quan hệ hôn nhân, nguyên tắc là những ngƣời cùng họ không đƣợc lấy nhau, trừ những ngƣời họ xa khác chi. Những trƣờng hợp ngƣời cùng họ xa lấy nhau cũng rất hiếm. Ngƣời Tày có tục lấy rể tạm và rể đời. Những trƣờng hợp cƣới rể tạm là gia đình nhà gái neo đơn, thiếu lao động, cha mạ già yếu trong khi có con trai nhƣng còn nhỏ, chƣa lo liệu đƣợc công việc gia đình. Chàng rể thƣờng ở nhà vợ cho đến khi em trai vợ trƣởng thành, có thể sống tự lập đƣợc lúc đó rể có thể đón vợ trở về bên nhà bố mẹ mình. Những gia đình hiếm con hoặc chỉ có con gái thƣờng lấy rể đời. Rể đời là do cha mẹ bên nhà gái chủ động tìm cho con gái mình. 26
  27. Những thủ tục trong lễ cƣới xin của ngƣời Tày ở huyện Định Hóa cũng nhƣ của ngƣời Tày nói chung trải qua bốn bƣớc, đó là: Lễ dạm hỏi (ƣớm hỏi), Lễ ăn hỏi, Lễ cƣới và Lễ lại mặt. - Lễ dạm hỏi: Đôi trai gái khi đã quen biết nhau và thấy ƣng nhau, chàng thanh niên về xin phép bố mẹ tạo điều kiện thực hiện các nghi lễ để tiến tới hôn nhân. Nhà trai nhờ một ngƣời quen biết cả hai gia đình ƣớm hỏi trƣớc, nếu nhà gái không phản đối gì thì họ chọn ngày tốt đến thăm. Buổi dạm hỏi, nhà trai chỉ mang một chai rƣợu và đôi gà đến nhà gái. - Lễ ăn hỏi: Sau lễ dạm một thời gian, gia đình nhà trai nhờ một ngƣời nam giới trong họ có uy tín sang nhà gái bàn việc trăm năm của đôi trẻ. Đồ lễ gồm có một đôi gà sống thiến, hai chai rƣợu ngon, bốn cân gạo nếp. Từ lễ ăn hỏi tới lễ cƣới của ngƣời Tày, thƣờng kéo dài từ 2 đến 3 năm. Trong suốt thời gian đó, vào các dịp lễ tết, nhà trai phải có sêu tết nhà gái -gọi là đi tết (chủ yếu là dịp tháng giêng và tháng bảy) nhƣ Tết Nguyên Đán, đồ lễ trong dịp này thƣờng gồm: 2 con gà thiến, hai bánh chƣng, 2 bánh khảo, 2 gói chè. - Lễ cƣới: Khi nhà trai đã định đƣợc ngày cƣới sẽ nhờ đại diện đến nhà gái cùng bàn bạc về thời gian tổ chức đám cƣới cũng nhƣ lễ vật mà nhà trai sẽ mang đến nhà gái trong lễ cƣới. Sính lễ nhà trai mang đến nhà gái, ngoài hàng tạ thịt lợn, 30 - 40 lít rƣợu, 20 kg gạo nếp để nhà gái làm cỗ mời khách và tiền thách cƣới ra còn phải có 1.000.000đ tiền mặt gói trong giấy đỏ, đặt lên bàn thờ tổ tiên. Trƣớc ngày cƣới một hôm, nhà trai phải nộp đồ sính lễ nhƣ đã thỏa thuận với nhà gái. Ngoài ra, cô dâu và chú rể còn phảm chuẩn bị quà cho gia đình hai bên. Nếu cô dâu có chị chƣa lập gia đình thì chú rể còn phải chuẩn bị một phong bao tiền hoặc một vảnh vải đỏ gọi là vải “quá hồng” với ý là xin phép cho em lập gia thất trƣớc. Đoàn đón dâu gồm chú rể, một phù rể, hai quan làng, hai bà đón dâu cùng hai ngƣời gánh đồ lễ. Đoàn đón dâu của ngƣời Tày ở Định Hóa có điểm khác với ngƣời Tày ở những nơi khác nhƣ: ngƣời Tày ở Chợ Đồn (Bắc Cạn) đoàn đón dâu gồm có: Quan làng cùng chú rể, một phù rể chƣa vợ và hai thiếu nữ mang lễ vật sang nhà gái. Và Lễ trình tổ tiên là một trong những nghi lễ bắt buộc trong đám cƣới của ngƣời Tày ở Định Hóa. 27
  28. - Lễ lại mặt: Cũng nhƣ dân tộc Kinh và dân tộc anh em khác, sau khi cƣới ba ngày thì ngƣời Tày làm lễ lại mặt. Ba ngày sau, đôi vợ chồng trẻ mang lễ vật đến lại mặt nhà gái. Lễ vật mang theo gồm đôi gà, hai lít rƣợu. Tới nhà vợ, chú rể phải tự tay nấu mấy mâm cơm cảm ơn họ hàng nhà gái. Kết thúc buổi lễ lại mặt, quay trở về nhà trai, đôi vợ chồng trẻ mới đƣợc động phòng và bắt đầu cuộc sống lứa đôi. Sau đám cƣới, ngƣời vợ trẻ tự dệt, tự cắt, tự khâu tặng chồng một bộ quần áo chàm để tỏ rõ sự khéo léo, yêu thƣơng chồng. Theo phong tục cổ truyền, ngƣời Tày ở Định Hóa với coi lễ cƣới là một việc lớn của đời ngƣời. Do vậy, lễ cƣới là ngày vui sƣớng, đáng nhớ suốt đời của cô dâu, chú rể và cũng là ngày vui mừng của họ hàng dân bản. Theo tập quán, trong ngày lễ cƣới, ngƣời ta thể hiện sự vui mừng phấn khởi bằng khúc hát quan làng. Khi tiến hành các nghi lễ ngày cƣới bên nhà gái cũng nhƣ bên nhà trai, quan làng đại diện cho 2 họ đều phải thƣa gửi bằng lời ca, tiếng hát. Đối với tân khách, chủ mời khách đáp cũng đều dùng những câu lƣợn Quan làng. Ẩn sâu trong những lời lẽ bình dị, khiêm nhƣờng là những ý tứ sâu xa, sắc xảo, chứa đựng tính giáo dục sâu sắc. Thông qua làn điệu quan làng, thanh niên nam nữ dân tộc này một lần nữa đƣợc thấm sâu vào mình ý thức cộng đồng, hiểu đƣợc trách nhiệm đối với gia đình và khát vọng vƣơn lên, sống tốt hơn, đẹp hơn trong cuộc sống. * Phong tục tang ma Xuất phát từ quan niệm của đồng bào cho rằng linh hồn cha mẹ sau khi chết sang thế giới bên kia vẫn sinh hoạt và có những nhu cầu nhƣ ngƣời sống. Nếu không lo cho cha mẹ đƣợc mồ yên mả đẹp thì hoặc linh hồn ngƣời chết vẫn lẩn quất xung quanh ngƣời sống, quấy rối ngƣời sống, hoặc là linh hồn bị thiếu thốn ở thế giới bên kia, trở lại làm rầy rà con cháu, gây ốm đau chết chóc. Hơn nữa lo ma chay chu đáo cho cha mẹ là một hình thức báo hiếu quan trọng nhất. Do vậy mà đồng bào Tày ở Định Hóa tổ chức đám ma cho cha mẹ hết sức chu đáo và cũng hết sức phức tạp, thể hiện qua một số nghi lễ tang ma sau: - Lễ rửa mặt cho ngƣời chết: Khi gia đình có ngƣời tắt thở, con cháu phải nhịn ăn để tỏ lòng đau đớn, thƣơng tiếc với ngƣời đã khuất. Và đặc biệt, khi 28
  29. chƣa mời đƣợc thầy Tào về làm lễ khâm niệm, nhập quan cho ngƣời chết thì con cháu tuyệt nhiên không đƣợc cất tiếng khóc. Bởi họ cho rằng khi có ngƣời thân vừa mới qua đời, hồn của ngƣời chết vẫn còn lẩn quẩn ở trong nhà, chƣa muốn rời xa con cháu nên nếu con cháu mà cất tiếng khóc sẽ níu giữ hồn ngƣời chết ở lại khiến hồn đó không thể siêu thoát. Ngƣời nhà báo tin cho họ hàng biết đồng thời tắm rửa cho ngƣời chết. Tắm cho ngƣời chết phải là em trai, con trai hoặc cháu trai của ngƣời chết. Đồng bào tắm cho ngƣời mất bằng nƣớc lá thơm (lá bƣởi, hƣơng nhu, lá cối xay, lá tre ) sau đó mặc quần áo mới cho ngƣời chết. Theo tục lệ, nam mặc 7, nữ mặc 9 áo. Sau đó ngƣời ta bỏ vào miệng ngƣời chết 1 hào bạc trắng để linh hồn ngƣời chết khỏi phát ngôn bừa bãi gây tai họa cho con cháu. Sau đó ngƣời nhà để ngƣời chết nằm ở gian thờ trên chiếc chiếu lật mặt trái, đầu kê gối quay về phía bàn thờ, buông màn và đi đón thầy Tào về làm lễ khâm niệm và phát tang. Đồng thời ngƣời nhà phải chuẩn bị nhà táng cho ngƣời chết. - Lễ khâm niệm: Giờ liệm phải tránh trùng với giờ sinh của con cháu trong gia đình vì sợ ngƣời chết sẽ bắt đi theo. Lễ khâm liệm do thầy Tào đảm nhiệm. Khi liệm ngƣời chết đƣợc quấn 1 - 2 tấm vải trắng tự dệt tùy theo điều kiện kinh tế gia đình. Trải ít tro bếp sạch tƣợng trƣng cho vật thiêng bảo vệ thi hài, một ít lúa nếp đốt cháy tƣợng trƣng cho lúa giống chia cho ngƣời chết, đầu kê gối, đặt nằm trên chiếc chiếu đã đƣợc cắt một góc để lên bàn thờ (đến khi làm ma xong mới mang góc chiếu đó đi đốt). Sau khi nhập quan thầy Tào làm phép thu hồn ngƣời chết vào áo quan đồng thời làm phép thu hồn lại cho ngƣời sống. Theo quan niệm của đồng bào, việc thu hồn của ngƣời chết làm đƣợc chu đáo thì hồn ngƣời chết sẽ không luẩn quẩn trong nhà, cuộc sống con cháu mai này mới đƣợc bình yên. Việc thu hồn ngƣời sống bởi đồng bào sợ ngƣời sống vì quá thƣơng tiếc ngƣời chết nên hồn sẽ đi theo ngƣời chết. Sau đó, với bó đuốc sáng lửa, thầy Tào niệm chú, trống chiêng dồn dập, con cháu họ hàng nâng bốn góc chiếu đƣa xác vào quan tài. Sau khi đọc xong tờ phan có ghi rõ họ, tên, ngày sinh, ngày mất của ngƣời chết và căn dặn ngƣời chết không đƣợc trở lại cõi trần với con cháu, tờ phan đó sẽ đƣợc bỏ vào quan tài. 29
  30. - Lễ thụ tang: Sau khi liệm các con đƣợc phép ăn cơm bốc bằng tay với muối để lá chuối và tiến hành phát tang cho con cháu, họ hàng. Con trai mặc áo ngắn, quần lộn trái bằng vải trắng tự dệt, buông gấu, đầu đội khăn vuông trắng, bên trên đội mũ rơm, tay chống gậy, đeo dao nhọn. Con gái, con dâu mặc áo dài trắng, váy trắng hoặc quần trắng khâu lộn trái bằng vải trắng. Con dâu đội mũ bằng vải trắng hình bồ đài, đằng trƣớc che kín mặt, đuôi khăn dài tới gấu áo. Con gái cuốn khăn trắng bên ngoài lọn tóc. Các cháu nội, ngoại mặc áo trắng lộn trái, quấn khăn trắng, các chắt quấn khăn vàng. - Lễ dâng cơm: Tế vào thời gian các bữa ăn hàng ngày. Một mâm cơm gồm có rƣợu, thịt đặt trƣớc linh cữu, chờ con cháu tụ tập đông đủ, thầy Tào nổi nhạc tang cúng mời cơm vong linh. Thầy Tào xúc thịt, cơm tƣợng trƣng mời vong linh rồi đổ vào hai ống nứa để phía dƣới chân linh cữu, hôm đƣa tang sẽ mang đi chôn theo. - Lễ phả ngục : Đồng bào cho rằng linh hồn ngƣời chết thƣờng bị cầm tù dƣới địa ngục. Mục đích của lễ này là nhằm đƣa hồn ngƣời chết thoát khỏi địa ngục của Diêm Vƣơng. Ngƣời ta lấy giấy hay vải thành một quây tròn, giữa để bài vị và một quả trứng sống, 1 ngọn nến đang cháy tƣợng trƣng cho ngục giam. Lễ vật có 1 con lợn nhỏ, gà trống và vịt. Bên cạnh ngục quây, ngƣời ta dựng một lều để kê bàn thờ phụ trên có đặt một bát gạo, một quả trứng vịt sống và một chậu nƣớc lá bƣởi đun sôi để nguội. Thầy Tào đứng trƣớc bàn thờ cầu khấn chiêu gọi các hồn về tập trung tại bát gạo sau đó thầy cầm kiếm, cho gióng trống khua chiêng cùng đồ đệ nhảy múa nhƣ một đạo quân hung hồn vƣợt qua những đoạn đƣờng gian khổ, vƣợt qua bao nhiêu chƣớng ngại vật đi xuống địa ngục để tìm cứu linh hồn ngƣời chết. Sau đó thầy cầm kiếm đâm một nhát vào nhà ngục, tắt nến đèn dầu bên trong, lấy bài vị ra rƣớc về nhà. - Lễ đƣa ma: Trƣớc khi đƣa ngƣời chết đi chôn, thầy Tào phải chọn giờ tốt. Nếu con cháu nào có giờ sinh trùng với giờ sinh của ngƣời chết phải lánh mặt và phải đi bằng cửa phụ, bởi họ sợ ma ngƣời chết sẽ bắt đi theo. Thầy Tào yểm vào nắm gạo rồi vãi qua trên nhà táng có ý báo cho hồn ngƣời chết chuẩn bị xuất hành. Sau đó thầy ra cửa chính để mở cửa ải cho vong cỏ, thầy quay vào tắt đèn 30
  31. trên quan tài và mời vong cỏ đi. Nhà táng đƣợc bỏ ra và mang đi đốt với ý để ngƣời chết có nhà mới ở ngay. Khi ra về họ kiêng không ngoái đầu lại vì sợ ma ngƣời chết sẽ theo về làm hại con cháu và khi về thì con cháu không đƣợc khóc. Thầy cúng ở lại sau cùng để làm các thủ tục cúng yên mộ, không cho vong quay trở về theo con cháu. Sau khi an táng, ngƣời sống coi nhƣ đã làm xong bổn phận của mình đối với ngƣời chết vì đã lo cho ngƣời chết mồ yên mả đẹp. Con cháu phải làm lễ chuộc hồn cho ngƣời chết ba lần, sau 30 ngày, 1 năm và 3 năm. Lễ chuộc hồn cuối cùng cũng là lễ mãn tang.  Một số điều cấm kỵ trong đám tang Trong đám tang của ngƣời Tày ở huyện Định Hóa có một số kiêng kỵ nhƣ: khi gia đình có ngƣời chết, mọi ngƣời trong nhà không đƣợc khóc khi chƣa có thầy Tào đến làm lễ. Chỉ khi thầy Tào đến làm lễ khâm niệm, nhập quan cho ngƣời chết thì con cháu trong gia đình mới đƣợc phép cất tiếng khóc cha (mẹ). Trong khi thi hài còn để trong nhà, gia chủ những ngƣời trong gia đình không đƣợc ăn các thứ sau: Không đƣợc ăn bún vì họ cho rằng ăn bún là ăn tóc của ngƣời chết. Không đƣợc ăn lòng gà, lòng lợn, tim lợn bởi họ cho rằng nhƣ thế là ăn tim, ăn lòng của bố (mẹ) mình. Không đƣợc ăn bầu, ăn bí vì nếu ăn sẽ là ăn óc của cha (mẹ) mình. Sau khi đƣa đám, gia chủ còn phải thực hiện một số điều sau: Nằm đất 40 ngày, không đƣợc cắt tóc, cạo râu khi chƣa qua 40 ngày, không đƣợc sinh hoạt vợ chồng khi chƣa qua 100 ngày, vào nhà ngƣời khác phải bỏ khăn tang ra, không đƣợc đi dự đám cƣới, ăn mừng nhà mới khi chƣa hết tang. Tóm lại, tập tục tang ma của đồng bào Tày ở Định Hóa đã ăn sâu vào đời sống của ngƣời Tày nơi đây trải qua bao thế hệ, thể hiện lòng hiếu thảo muốn báo đáp công ơn sinh thành, dƣỡng dục của ông bà cha mẹ, thể hiện lòng tiếc thƣơng và tình cảm của con cháu đối với ngƣời đã khuất. Tuy nhiên, các nghi lễ diễn ra rất phức tạp, rƣờm rà tốn kém về công sức, thời gian và tiền của của gia chủ. 31
  32. 2.3.2. Tôn giáo, tín ngưỡng dân gian Xã hội ngƣời Tày nói chung và ngƣời Tày Định Hóa nói riêng không có một tôn giáo chính thống nào nhƣng là xã hội ảnh hƣởng đa giáo, trong đó có cả Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo kết hợp với tín ngƣỡng dân gian. Với những quan niệm thần bí trong ý thức của mình, ngƣời Tày đã mƣờng tƣợng ra nhiều thần thánh, ma quỷ có sự chi phối vào cuộc sống con ngƣời. Quan niệm về ma (Phi), ngƣời Tày chia ma thành hai loại : ma lành và ma dữ. - Ma lành gồm: ma tổ tiên, ma bếp, ma thổ công, ma bà mụ là những ma bảo vệ che chở cho con cháu và gia súc, giúp trừ đuổi những ma quỷ đến xâm nhập và làm hại con cháu nhƣng con cháu không đƣợc làm phật ý nếu không sẽ có thể bị trách phạt bởi các linh thần này. - Ma dữ bao gồm: ma sông, ma núi, ma cây to, ma ngƣời chết vì tai nạn, ma gà Ngƣời Tày kiêng sợ nhất là ma gà. Ma gà mà nhập vào ngƣời sống sẽ chuyên đi hại ngƣời. Đồng bào còn lƣu truyền rất nhiều câu chuyện ly kỳ xoay quanh về chuyện ma gà nhƣ : khi trời tối sẽ bay đến các nhà trong làng bản gây ốm đau cho ngƣời, gây hại cho gia súc, gia cầm của ngƣời ta Vì vậy, gia đình nào bị coi là có ma gà thì rất khó lấy vợ, lấy chồng, luôn bị hàng xóm xa lánh. Ngƣời Tày ở huyện Định Hóa thờ tổ tiên và bái vật giáo. Bàn thờ tổ tiên của ngƣời Tày đƣợc đặt chính giữa nhà và làm thành một không gian riêng và đƣợc cung kính hết mực. Khách và phụ nữ trong nhà chửa đẻ không đƣợc phép ngồi hay nằm trên ghế, giƣờng trƣớc bàn thờ. Họ thƣờng dùng bữa sau 2 giờ chiều và 8 giờ tối. Trong tôn giáo của ngƣời Tày, ngày 3/3 âm lịch là ngày tảo mộ, ngày lễ quan trọng nhất của ngƣời tày. - Thờ cúng tổ tiên và các vị thần che chở cho gia đình. Một hình thức thờ cúng quan trọng nhất trong đời sống tâm linh của ngƣời Tày đó là thờ cúng tổ tiên. Vì vậy gia đình nào cũng có một bàn thờ tổ tiên đặt ở gian giữa nhà, đây là nơi tôn nghiêm nhất. Ngƣời Tày thƣờng thắp hƣơng cúng tổ tiên vào ngày mùng 1 và ngày rằm hàng tháng với những đồ lễ đơn giản nhƣ: hoa quả, rƣợu hay nƣớc sạch. Vào những dịp lễ tết nhất là tết nguyên đán và tết rằm tháng bảy, cỗ bàn cúng tổ tiên rất thịnh soạn đủ các loại bánh trái, rƣợu, thịt gà,thịt lợn Khi 32
  33. trong nhà có công to việc lớn nhƣ cƣới xin, vào nhà mới, lễ đầy tháng ngƣời Tày đều cúng báo cáo với tổ tiên. Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, ngƣời Tày ở Định Hóa còn thờ các vị thần che chở bảo vệ cho gia đình, làng bản. Gia đình nào cũng có bàn thờ Bà Mụ - vị thần cai quản và bảo hộ cho trẻ em đặt ngay sát vách ngoài cửa buồng. - Thờ vua bếp: nhà ngƣời Tày nào cũng thờ vua bếp. Ngƣời ta bảo rằng vua bếp là vị thần cai quản theo dõi công việc làm ăn ở trong nhà mình suốt cả năm để đến cuối năm lên tâu trình với Ngọc hoàng. Ngƣời Tày thờ vua bếp ở ngay trong nhà bếp, vào ngày rằm và mồng 1 chỉ thắp hƣơng và khấn vái, đến ngày 23 tháng Chạp mới cần phải có lễ vật. Ngoài ra khi trong nhà có việc vui, việc đột xuất dù lớn hay nhỏ ngƣời ta đều thắp hƣơng cho vua bếp và cầu khấn vua bếp phù hộ, bảo vệ cho mọi sự đƣợc may mắn tốt lành. - Thờ thần tài: đồng bào Tày tin rằng thần tài là ngƣời đem của cải, vàng bạc, gia súc, gia cầm về cho nhà mình và bảo vệ tất cả của cải trong gia đình. Để thờ thần tài ngƣời Tày cắm một lọ hƣơng ở bên cửa ra vào hay ở đầu cầu thang lên sàn nhà. Ngày mồng 1 và ngày rằm họ thắp hƣơng và khấn cầu thần tài phù hộ cho gia đình. - Thờ thổ công: đây là vị thần bảo vệ và che chở cho cà bản làng. Theo quan niệm của đồng bào, vị thần này là ngƣời có thật, có công lao xây dựng bản làng. Khi qua đời họ đƣợc dân bản nhớ ơn, thờ làm thần bản mệnh của cả bản. Nơi thờ thần thổ công thƣờng ở đầu hay cuối làng bản, nơi có gốc cây to, nơi có nhiều ngƣời qua lại. Ngƣời ta làm một cái lều nhỏ với đôi gắp gianh và đặt một ống hƣơng ở trong. Vào dịp tết nguyên đán hay trong lễ cầu mùa, các gia đình mang lễ vật đến miếu thờ để cúng thổ thần. Miếu thờ thổ thần có ở mọi làng bản của ngƣời Tày ở Định Hóa để bảo vệ, che chở cho cả làng nhƣ một yếu tố không thể thiếu đƣợc trong đời sống tâm linh của cộng đồng làng bản ngƣời Tày nơi đây. - Thờ Thành Hoàng: bên cạnh miếu thờ thổ thần, ở Định Hóa còn thấy xuất hiện rải rác những ngôi đình thờ Thành Hoàng. 33
  34. Để cầu mong sự bảo vệ, che chở và phù hộ của ma lành, hàng năm đồng bào Tày ở huyện Định Hóa tổ chức rất nhiều nghi lễ cúng. Và trong các nghi lễ đó vai trò của các thầy cúng rất quan trọng. Thầy cúng đƣợc coi là cầu nối giữa con ngƣời với thế giới của các đấng thần linh ngự trị. Hầu nhƣ bản nào cũng có vài ngƣời làm nghề thầy cúng và thầy cúng rất đƣợc mọi ngƣời kính trọng. Do đó, có một số nghi lễ liên quan đến sản xuất: - Vào dịp đầu xuân, ngƣời Tày ở Định Hóa thƣờng tổ chức lễ hội Lồng Tồng nhằm cầu mong mƣa thuận gió hòa, một năm mùa màng bội thu, gia đình yên ấm, no đủ. Khi cày bừa xong, khi gieo mạ, lúc lúa ra đòng, khi gặt hái đồng bào đều tổ chức một lễ cúng nhỏ thần ruộng và thần lúa. Đặc biệt là lễ cơm mới. Khi lúa bắt đầu chín, gia chủ hái vài bông treo trên bàn thờ tổ tiên, ngụ ý mời tổ tiên về chứng giám. Sau đó, họ thổi cơm từ những lƣợm lúa mới gặt, cúng tổ tiên, thần thánh và mời anh em họ hàng đến ăn mừng. - Đối với một số loại cây trồng, đồng bào cũng áp dụng một số hình thức ma thuật. Muốn cho bầu bí khỏi thui, ngƣời ta treo những bùi nhùi rơm nhỏ lên cây với ngụ ý là mong cho quả khỏi rụng; hay khi trồng khoai sọ, khoai lang đồng bào Tày thƣờng chôn theo một hòn đá có hình tƣơng tự củ khoai để mong cho khoai chắc củ, củ to và không bị hà, thối. Nhƣ vậy, tôn giáo, tín ngƣỡng dân gian của đồng bào Tày ở huyện Định Hóa tuy có những yếu tố mang tính chất dị đoan nhƣng cũng có những yếu tố tích cực. Đồng bào Tày thờ cúng tổ tiên là thể hiện lòng biết ơn đối với những thế hệ đi trƣớc và cũng để cố kết những thành viên có chung một dòng máu. Thờ thần thổ công bảo vệ làng bản tạo ra một sợi dây linh thiêng gắn kết các thành viên trong cộng đồng làng bản. Đó là những yếu tố tạo nên sự cố kết cộng đồng và cũng là nét đặc trƣng trong đời sống tâm linh của ngƣời Tày. 2.3.3. Văn học nghệ thuật Ngƣời Tày đã sinh tụ và quần cƣ ở vùng đất Định Hóa lâu đời, trải qua bao thế hệ họ đã tạo dựng cho mình một nền văn hóa riêng mang đậm bản sắc tộc ngƣời. Trong kho tàng văn hóa dân gian, thì ngƣời Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại thơ, ca, múa nhạc, ca dao, tục ngữ, câu đố hết 34
  35. sức đa dạng phản ánh tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời, con ngƣời với thiên nhiên. Truyện kể còn đƣợc bảo lƣu khá phong phú và đa dạng. Nó đƣợc lƣu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác Nội dung của các câu chuyện kể dân gian của đồng bào Tày ở huyện Định Hóa phản ánh những khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội. Đó là các câu chuyện truyền thuyết giải thích nguồn gốc của vũ trụ, sự ra đời của loài ngƣời, sự tích các loài vật xung quanh, các hiện tƣợng thiên nhiên Những câu chuyện đó nội dung có khác nhau nhƣng đều mang giá trị nhân văn sâu sắc, đều có nội dung giáo dục lối sống, đạo đức, hƣớng con ngƣời tới những điều chân, thiện, mỹ của cuộc sống. Trong các điệu dân ca phổ biến nhất là hát then, hát lƣợn, hát đám cƣới, ru con, phong slƣ, phuối pác, phuối, rọi, vén eng. Đặc biệt, phải kể đến là hát Then, có ý nghĩa rất lớn trong đời sống của ngƣời Tày. Hầu hết trong các lễ cúng của ngƣời Tày đều có hát then, hát then không chỉ đơn thuần là một loại hình âm nhạc hay diễn xƣớng dân gian mà có sự gắn kết chặt chẽ với tín ngƣỡng. Then đƣợc hát trong hầu hết các nghi lễ, lễ hội với nhiều đƣờng then khác nhau tùy thuộc vào mục đích của lễ cúng. Ngoài phần thuộc lễ nghi, diễn xƣớng then còn có phần mang tính chất vui chơi mang đậm yếu tố sân khấu. Ông Then là ngƣời thuộc nhiều đƣờng then và có căn then. Ngƣời làm then phải là ngƣời có mình pang then (vía then) thích hợp cho việc làm thầy cúng, đƣợc cộng đồng tín nhiệm, nể trọng. Cũng giống nhƣ hầu đồng của ngƣời Việt, then của ngƣời Tày mƣợn lời ca, tiếng đàn cùng chùm xóc nhạc dẫn đƣờng đến với các đấng siêu nhiên để thỉnh cầu hay cảm tạ. Trong then có nhiều đƣờng then. Dạng then cũng lắm, trong mỗi dạng lại có nhiều điệu hát khác nhau. Nhạc dùng cho nhạc cụ của then trong các nghi lễ, các khúc then đƣợc tạo nên một cách có hệ thống, bài bản theo trình tự nội dung trình diễn. Không gian biểu diễn hát then thƣờng đƣợc trình diễn chủ yếu trong nhà (trƣớc bàn thờ) tuy nhiên đôi khi cũng đƣợc trình diễn trong một không gian rộng nhƣ ngoài cánh đồng, phổ biến ở lễ hội lồng tồng vào dịp tháng giêng. Khi vui ngƣời ta mời then, khi nhà có chuyện mời then, ngƣời có bệnh mời then, 35
  36. ngƣời hiếm muộn mời then. Then không thể thiếu trong đời sống tinh thần và tâm linh của ngƣời Tày, trở thành một trong số tín ngƣỡng đặc thù của cộng đồng ngƣời Tày. Trong đời sống xã hội ngƣời Tày, then có nhiều giá trị văn hóa: Then phản ánh hiện thực xã hội ở các giai đoạn lịch sử, phản ánh thế giới tâm linh của các giá trị gia đình truyền thống; đồng thời còn phản ánh sự đa dạng của văn hóa Tày hay cũng có thể nói then chính là sự tích hợp những giá trị văn hóa nghệ thuật đặc trƣng của ngƣời Tày, tiêu biểu là nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn cộng với môi trƣờng diễn xƣớng mang đậm màu sắc tâm linh, thông qua các thể loại độc tấu, song tấu, hòa tấu, hỗn tấu cùng cây đàn tính. Lời hát then là sự phản ánh chân thực cuộc sống của ngƣời dân miền núi, mà trƣớc hết là môi trƣờng tự nhiên - xã hội của ngƣời Tày. Then cũng gắn liền và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tín ngƣỡng của ngƣời Tày. Bên cạnh đó, trong then còn có nhiều nội dung phê phán những thói hƣ tật xấu trong xã hội, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con ngƣời. Then là hình thức cơ bản để phản ánh tâm tƣ, nguyện vọng, những mong muốn rất bình dị của ngƣời nông dân: Có thóc gạo, trâu bò, gà vịt đầy nhà. Một loại hình nghệ thuật đặc sắc của riêng ngƣời Tày Định Hóa đó là múa rối Tày Thẩm Rộc: ở thôn Thẩm Rộc, xã Bình Yên, huyện Định Hóa, Thái Nguyên Múa rối cạn là một nét nghệ thuật độc đáo của văn hóa dân tộc Tày nói riêng và cộng đồng văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung. Rối cạn thƣờng đƣợc ngƣời Tày biểu diễn vào dịp đầu năm, trong ngày lễ Lồng tồng (lễ xuống đồng), nhằm mục đích mua vui cho công chúng, cùng với đó là thể hiện ƣớc vọng cầu mong mƣa thuận gió hòa, mùa màng tốt tƣơi ƣớc nguyện về sự đỗ đạt vinh danh bảng vàng của ngƣời dân trong làng. Nghệ thuật rối cạn đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, một món ăn tinh thần quan trọng đối với cộng đồng ngƣời Tày và các dân tộc khác khắp các xã trong huyện Định Hóa. Một buổi biểu diễn rối Tày truyền thống gồm 8 trò (tiêu biểu nhƣ rối mệ, rối táp, rối bồi, rối tắc kè ), kéo dài nửa buổi. Qua những câu chuyện đƣợc lƣu truyền, bên cạnh giá trị nghệ thuật dân gian đặc sắc, rối Tày ở Định Hóa còn mang theo 36
  37. những quan niệm về tâm linh huyền bí. Trƣớc mỗi lần mang rối đi diễn trò, trƣởng phƣờng rối phải làm lễ thắp hƣơng thỉnh ông tổ phƣờng rối, cũng nhƣ “Thần rối”. Bởi ngƣời dân nơi đây quan niệm, con rối nhƣ những vị thần, con ma Cũng vì thế mà ngƣời trong phƣờng rối khi mất đi thƣờng có tục lệ đem trôn theo con rối. Nét độc đáo của rối Tày Thẩm Rộc cũng xuất phát từ cách thức làm ra con rối. Tuy nhiên, nghệ thuật rối cạn đang đứng trƣớc nguy cơ bị thất truyền. Lớp trẻ ngày nay không còn mặn mà lắm với nghệ thuật rối cạn nữa. Chỉ có một ngƣời vẫn đang ngày ngày sáng tạo và để lại cho đời những chú rối, những màn biểu diễn rối cạn đặc sắc. 2.3.4. Lễ hội dân gian * Lễ hội Lồng Tồng Lễ hội Lồng Tồng là ngày hội xuống đồng của ngƣời đồng bào Tày, Nùng, nhƣng từ nhiều năm nay, Lễ hội này trở thành ngày hội lớn của đồng bào các dân tộc vùng cao huyện Định Hóa và của tỉnh. Lễ cầu cho Quốc thái-dân an; mƣa thuận-gió hòa; mùa màng tƣơi tốt; mọi ngƣời dân cùng đƣợc no ấm. Lễ hội nhằm khơi dậy nét truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, nhƣ tinh thần đoàn kết trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, đoàn kết trong xây dựng quê hƣơng, đất nƣớc và hiện nay là phong trào giúp đỡ nhau xóa đói giảm nghèo, xây dựng làng, bản, xóm, phố văn hóa của đồng bào các dân tộc Lễ hội Lồng Tồng đƣợc diễn ra liên tục trong 3 ngày với nhiều hoạt động phong phú, sinh động, mang đậm bản sắc các dân tộc Việt Bắc nhƣ thi cắm trại, thi kéo co, thi giã bánh dày, thi trang phục dân tộc Trong lễ hội Lồng Tồng thì có phần lễ và phần hội: Phần lễ Các Pú mo (thầy cúng) trang phục sặc sỡ dâng 9 mâm lễ với đủ ngũ sắc tƣợng trƣng cho màu của trời, đất, muông thú - thể hiện lòng thành kính, sự biết ơn của đồng bào dân tộc nơi đây đối với các đấng linh thiêng. Trên mâm lễ có gà trống luộc, thịt lợn nạc, trứng gà luộc, các loại bánh đƣợc làm từ lúa, ngô, xôi ngũ sắc (trong đó xôi đỏ tƣợng trƣng cho mặt trời, xôi vàng tƣợng trƣng cho mặt trăng), một chú chim én mang theo biểu tƣợng của mùa xuân đƣợc làm bằng giấy đỏ.Trên nhiều mâm cỗ cúng còn có cả hình ảnh những chú trâu, những bông lúa vàng, đôi cá vàng thể hiện mong ƣớc mùa màng bội thu, mong cuộc 37
  38. sống đƣợc ấm no, tốt lành. Cùng với đó là các loại bánh đƣợc làm từ lúa, ngô nhƣ bánh chè lam, bỏng gạo. Các mâm lễ lần lƣợt đƣợc đƣa ra để bắt đầu cho nghi lễ cầu mùa. Thầy mo thực hiện mọi nghi thức vái lạy trời đất, cảm tạ thần linh, nguyện cầu cho một năm quốc thái dân an, mƣa thuận gió hòa, mùa màng tƣơi tốt. Sau phần lễ là nghi thức “xuống đồng” (còn gọi là lễ tịch điền) - phần quan trọng nhất của Lễ hội Lồng Tồng. Một con trâu to, khỏe đƣợc đóng ách để một nông dân địa phƣơng vạch một luống cày mở đầu cho công việc nhà nông đầu năm, bởi theo phong tục thì sau lễ hội này các gia đình mới bắt đầu làm mùa. Cùng với những đƣờng cày đầu xuân, cuộc thi cấy nhanh cũng diễn ra trên một thửa ruộng khác. Rất nhiều phụ nữ dân tộc đã xuống ruộng tham gia cuộc thi này, không chỉ mong đoạt giải mà với họ, thi cấy còn thêm niềm vui mở đầu cho một năm hăng say lao động, sản xuất. Phần hội là các trò chơi diễn ra trong hội Lồng tồng, rất đa dạng, phong phú và kéo dài hết ngày hôm đó: Trò chơi tung còn: một trò chơi dân gian, là một hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ đƣợc thanh niên nam nữ rất ƣa thích. Ném còn thƣờng đƣợc tổ chức vào các dịp lễ hội của đồng bào. Nhƣng sôi nổi nhất vẫn là vào dịp hội Lồng tồng. Để chơi đƣợc trò ném còn, ngƣời ta phải dựng cây nêu thật cao, trên đỉnh cây nêu có một vòng tròn dán giấy màu. Quả còn đƣợc làm bằng vải ngũ sắc, trong bọc hạt giống đƣợc quấn chặt tạo thành hình tròn có đƣờng kính khoảng 15 cm. Ngƣời tham gia chơi đƣợc chia thành hai bên nam và nữ. Từng đôi trai gái thi nhau tung còn làm sao cho trúng vòng tròn, ai ném trúng thì đƣợc thƣởng. Quả còn đƣợc tung đi tung lại, ngƣời chơi phải khéo léo bắt đƣợc dây còn không cho quả còn rơi xuống đất. Trò chơi đánh quay: Quay đƣợc làm bằng loại gỗ dẻo và cứng, đẽo thành hình tròn có đƣờng kính khoảng từ 5 - 7 cm. Phần dƣới thu nhỏ dần đều về phía chính tâm và trên có một mấu ở giữa dài khoảng 3 cm là nơi để cuốn dây. Dây cuốn thƣờng là sợi vải hoặc dây rừng đƣợc se lại. Dây đƣợc quấn chặt vào đầu của con quay từ trong ra ngoài, quấn đƣợc càng nhiều vòng thì quay đƣợc càng 38
  39. lâu. Quấn xong dùng tay văng mạnh xuống đất, khi quay văng xuống đất cũng là lúc dây đƣợc từ từ dật ra khỏi quay tạo một lực phản làm quay quay tít. Khi chơi quay, trẻ vẽ một vòng tròn rồi bổ quay vào trong vòng tròn đó. Quay của ai ra khỏi vòng tròn trƣớc thì ngƣời đó đƣợc bổ trƣớc. Còn lại tất cả phải để quay của mình vào trong vòng tròn đó. Nếu ngƣời bổ quay bổ không trúng hoặc trúng mà quay của mình không quay thì phải nhặt quay của mình bỏ vào vòng tròn để ngƣời khác bổ. Nếu ngời nào bổ trúng quay của ngƣời khác mà quay của mình vẫn quay tít thì ngƣời đó sẽ giành phần thắng. Trò chơi kéo co: là một trò chơi khỏe mang tính tập thể cao nên đƣợc thanh niên ngƣời Tày ở Định Hóa rất ƣa thích. Để tổ chức đƣợc trò chơi này, ngƣời ta chọn dây thừng để chơi. Bãi chơi kéo co thƣờng là một sân cỏ rộng và bằng phẳng. Trƣớc khi chơi, họ dàn quân ra hai bên cầm sẵn hai đầu dây, mỗi bên có 6 - 8 ngƣời chơi tùy số lƣợng do bản quy định và cuộc thi bắt đầu. Tiếng trống dồn dập thôi thúc cả hai bên. Bên ngoài ngƣời xem cổ vũ hòa cùng tiếng trống hết sức náo nhiệt và vui nhộn. Trò chơi đánh yến: là một trò chơi dân gian mang tính phổ biến của đồng bào Tày ở huyện Định Hóa trong lễ hội Lồng tồng. Quả yến có hình dạng gần giống quả cầu lông, đế hình vuông hoặc hình lục giác đƣợc làm bằng tre, mai ở giữa đƣợc nối bằng một ống trúc ngắn trong đó cắm từ 3 đến 5 chiếc lông gà. Ngƣời chơi chủ yếu là phụ nữ. Đánh yến chủ yếu đƣợc chơi từng đôi một. Đánh yến là một trò chơi dân gian truyền thống của đồng bào Tày, nó xuất hiện từ lâu đời. Đây là trò chơi vui khỏe, đòi hỏi sự khéo léo, nhịp nhàng nhƣng hết sức vui nhộn, gây ấn tƣợng sâu đậm trong ngƣời đến dự hội. Trò chơi thi bắn nỏ: Trong lễ hội Lồng tồng cuộc thi bắn nỏ đã trở thành cuộc thi tài của thanh niên ngƣời Tày nơi đây. Khi tổ chức bắn, họ cắm hình nộm cách vị trí điểm bắn khoảng từ 30 đến 50m. Mỗi ngƣời chỉ đƣợc bắn 3 mũi tên, tuy nhiên có những xã ở Định Hóa cuộc thi bắn nỏ trong ngày hội Lồng tồng không hạn chế tên bắn, nghĩa là mũi tên chạm vào hình nộm là đƣợc thƣởng. 39
  40. Ngoài ra trong lễ hội Lồng tồng còn diễn ra rất nhiều trò chơi dân gian khác nhƣ đánh khăng, đánh đáo, múa rối, tái hiện lại cảnh lao động sản xuất, cảnh sinh hoạt trong đời sống hàng ngày của đồng bào dân tộc Tày. Đan xen là các làn điệu hát then cùng tiếng đàn tính của những thiếu nữ Tày. * Lễ hội cầu mùa Gần giống nhƣ lễ hội Lồng Tồng diễn ra trong dịp xuân về, lễ hội cầu mùa là một sinh hoạt văn hoá, giúp cho ngƣời dân vui tƣơi thoải mái về tƣ tƣởng; cầu cho con cái mạnh khoẻ, chăm ngoan, học giỏi; cầu cho cái xấu, cái ác ra khỏi nhà, cái may, cái hạnh phúc luôn vào nhà; cầu cho mùa màng tốt tƣơi chăn nuôi phát triển, trâu đầy đàn, lợn nhiều con năng suất cao. Lễ hội diễn ra vào ngày 28 tháng 3 âm lịch với hai phần lễ và hội. Phần lễ tổ chức trong hội trƣờng hay trong đình, gồm có các mâm xôi, thịt, hƣơng hoa để các già làng và thầy mo, thầy tào khấn vái. Phần hội tổ chức ở ngoài sân làng hay trên các bãi rộng. Phụ nữ thì thi nhau thêu thùa, làm các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ. Nam giới thì làm nỏ vót tên, làm bẫy bắt thú rừng. Tất cả tạo nên không khí vui tƣơi, sôi nổi. Đàn ông mặc áo chàm đen, phụ nữ mặc váy áo chàm, quàng khăn đen hoặc khăn chàm, cổ đeo vòng bạc duyên dáng. Mở đầu cho khai hội là múa lân, tung còn, đây là trò chơi có nhiều ngƣời tham gia. Cây còn làm cao 12 mét thể hiện 12 tháng trong năm. Trên sân khấu tổ chức múa hát văn nghệ đến khuya, đó là các làn điệu hát then, hát sli, hát lƣợn, hát đối đáp của dân tộc Tày - Nùng. Họ hát bằng cả tấm lòng của mình. Về khuya, các đôi nam nữ tìm hiểu nhau, trao cho nhau chiếc khăn tay, hay chiếc túi thổ cẩm thể hiện vật kỷ niệm đính ƣớc tình yêu Tan canh họ mời nhau ly rƣợu dã bạn gửi anh một chén rƣợu đi đƣờng, cũng là gửi lời thƣơng lời nhớ: hẹn đến lễ hội năm sau. Sau lễ hội cầu mùa nhiều đôi nam nữ đã nên vợ nên chồng. 2.3.5. Văn hóa ẩm thực Ngƣời Tày ở Định Hóa là cƣ dân nông nghiệp với nông phẩm chính là gạo tẻ cho nên cơm gạo tẻ là thành phần chủ yếu trong những bữa ăn hàng ngày. Lúa nếp không đƣợc trồng cấy nhiều nên gạo nếp chỉ dùng vào những dịp đặc biệt nhƣ chế biến các loại bánh, đồ xôi trong các dịp lễ tết, hội hè. Ngƣời Tày ở 40
  41. đây còn có riêng một ngày tết cốm, một số món cốm đƣợc chế biến khá công phu. Đơn giản nhất là món cốm non trộn với đỗ xanh và đƣờng. Cốm cá là món đƣợc làm bằng thịt cá chép, cá quả thái miếng nhỏ, xào với hành mỡ rồi đổ cốm vào đảo đều, ăn khi còn nóng. Cốm thịt lại là món đƣợc làm bằng thịt vịt băm nhỏ, trộn đều với cốm sau đó lầy lá gói lại rồi dùng nƣớc xáo luộc lên. Đó là cỗ cốm của ngày tết cốm. Ngƣời Tày còn có món xôi màu rất hấp dẫn. Ngày Tết Thanh minh có xôi nhuộm lá cẩm màu tím hoặc màu xanh, đỏ. Tết Trung thu có xôi trám đen. Nhƣng phong phú đa dạng hơn vẫn là các thứ bánh chế biến từ gạo nếp và bột gạo nếp. Tết tháng giêng là tết lớn nhất có bánh chƣng, bánh khảo, bánh bỏng, chè lam. Tết Thanh Minh có bánh lá ngải, bánh rán. Tết Đoan Ngọ có bánh tro. 2.4. Hiện trạng khai thác các giá trị văn hóa dân tộc Tày Tại Định Hóa. 2.4.1. Hiện trạng các giá trị văn hóa của dân tộc Tày. Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, sự bùng nổ thông tin và môi trƣờng giao lƣu văn hóa giữa các vùng, miền ngày càng đƣợc mở rộng, đã mang lại cho văn hóa truyền thống của ngƣời Tày ở Định Hóa nhiều mặt tích cực, song cũng gây ra những tiêu cực, gây ảnh hƣởng không nhỏ và đặt nền văn hóa truyền thống của ngƣời Tày nơi đây trƣớc những thách thức, nguy cơ bị mai một rất lớn. Cấu trúc làng bản, nhà ở một loại hình văn hóa vật chất in đậm bản sắc văn hóa truyền thống tộc ngƣời. Cũng có những biến đổi rõ rệt. Nhất là tại những khu vực gần thi trấn thị tứ hay gần các trục đƣờng giao thông đã xuất hiện những loại hình thức tụ cƣ mới, đó là những thôn xóm đƣợc quy hoạch theo kiểu làng phố, hoặc đƣờng phố. Nhiều nhà sàn gỗ đặc trƣng đƣợc làm bằng tre và lợp bằng tranh cọ nay đã đần bị thay thế bởi gạch xây và lợp ngói. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân nhƣ vật liệu làm nhà ngày một khan hiếm, ngày càng có ít những ngƣời thợ biết làm nhà sàn, quỹ đất ngày càng ít Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi cùng các phƣơng thức sản suất mới của ngƣời Tày đã làm thay đổi một số công cụ lao động sản xuất truyền 41
  42. thống của họ. Các công cụ thô sơ nay đang chuyển dần sang các công cụ sản xuất cải tiến, hiện đại nhƣ các máy móc cơ giới. Các thể loại văn học dân gian dƣới sự tác động của kinh tế thị trƣờng và sự lấn át của các phƣơng tiện nghe nhìn hiện đại cũng đang bị co dần lại. Việc sƣu tầm các vốn văn hóa tinh thần trong dân gian nhƣ truyện cổ, ca dao, dân ca, tục ngữ đƣợc nhà nƣớc và chính quyền địa phƣơng tạo điều kiện nhƣng vẫn gặp nhiều khó khăn và có nguy cơ ngày càng mai một. Việc sử dụng ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc mình cũng không còn đƣợc ngƣời dân gìn giữ. Trang phục truyền thống của ngƣời Tày đã và đang bị thu hẹp dần. Hiện nay, các y phục truyền thống chỉ phổ biến ở các xã vùng sâu và chỉ còn những ngƣời già trong làng xã còn giữ lại đƣợc những thói quen mặc quần áo truyền thống. Nhất là trong giới trẻ hiện nay đã không còn thói quen mặc trang phục truyền thống của họ nữa, mà thay vào đó là những trang phục hiện đại. Những trang phục này chỉ mặc vào những dịp nhƣ đám cƣới, lễ hội, lễ tết Đó là thực tế đáng báo động đối với truyền thống văn hóa mặc của ngƣời Tày ở Định Hóa. Lễ hội dân gian cũng đang mất dần đi tính truyền thống, đang bị hiện đại hóa. Nhiều vùng đã mai một các lễ hội dân gian, chỉ còn lƣu giữ đƣợc lễ hội Lồng tồng nhƣng các phần lễ bị lƣợc hóa, đơn giản đi, hiện nay chỉ còn chủ yếu phần hội. Tuy nhiên trong phần hội các trò chơi dân gian truyền thống nhƣ bắn nỏ, đánh quay, đánh bam thƣa dần nhƣờng chỗ cho các hoạt động của văn hóa hiện đại nhƣ thi đấu bóng đá, cầu lông, biểu diễn văn nghệ bằng tiếng phổ thông. * Công tác bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc Tày tại Định Hóa. Hiện nay, Đảng và Nhà nƣớc ta đang chủ trƣơng khô phục, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc. Các cấp lãnh đạo trong tỉnh cùng với huyện Định Hóa cũng đã quan tâm đến việc bảo tồn các giá trị văn hóa của các dân tộc, cụ thể nhƣ: Trong những năm qua, công tác bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống về văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số đã đƣợc triển khai thực hiện tích cực thông qua các đề tài cụ thể là: “Phục dựng đám cƣới ngƣời Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa”. Tổ chức Ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Việt Bắc, Liên hoan 42
  43. tiếng hát then, đàn tính. Các hoạt động đƣợc tổ chức thƣờng xuyên nhƣ: Lễ hội Lồng Tồng (cầu mùa), tổ chức diễn các trò chơi dân gian của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao Những lễ hội truyền thống đã thu hút hàng vạn ngƣời dân địa phƣơng tham dự. Trên từng khuôn mặt của ngƣời đến dự hội rạng ngời những nụ cƣời, niềm tự hào về văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Các hình thức diễn xƣớng dân gian nhƣ hát trống quân, diễn xƣớng then của ngƣời Tày, trò chơi tung còn trong lễ hội Lồng Tồng, múa rối cạn của ngƣời Tày ở Định Hóa, tết nhảy của ngƣời Dao Mang đậm nét văn hóa truyền thống giúp đồng bào dân tộc thiểu, loại bỏ những hủ tục để nâng cao giá trị văn hóa, sống đoàn kết, yêu thƣơng nhau và có tinh thần vƣơn lên thoát đói nghèo, lạc hậu. Năm 2010, ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch tham mƣu cho UBND tỉnh tổ chức các hoạt động văn hoá, du lịch chào mừng thành công Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ I và tuần văn hoá, du lịch Thái Nguyên; Xây dựng và thực hiện Đề tài “Điều tra di sản văn hoá phi vật thể vùng ATK tỉnh Thái Nguyên” gồm trang phục, ẩm thực, văn hoá các dân tộc tại địa bàn huyện Định Hoá. Qua triển khai đã thống kê, lƣu giữ, bảo tồn đƣợc những di sản quý giá nhƣ: Rối Thẩm Rộc, Các làn điệu Then, đàn tính; xây dựng Làng văn hoá Bản Quyên thuộc xã Điềm Mặc huyện Định Hoá. Song trong xu hƣớng toàn cầu hoá hiện nay, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số nói riêng đã và đang gặp rất nhiều khó khăn. Làm thế nào để bảo tồn, phát huy đƣợc các tinh hoá, các giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số, tránh đƣợc sự thất truyền, lai căng đồng thời xoá bỏ đƣợc các tập quán, hủ tục lạc hậu của một số dân tộc thiểu số trên địa bàn, đó chính là những vấn đề quan tâm không chỉ đối với lãnh đạo các cấp uỷ đảng, chính quyền mà chính ngay ngƣời dân tộc thiểu số cũng đang rất trăn trở với những vấn đề đó. 2.4.2. Hiện trạng hoạt động du lịch tại huyện Định Hóa Hiện nay, ở huyện Định hóa chƣa có phòng ban, bộ phận chuyên trách về quản lý và khai thác du lịch văn hóa các dân tộc thiểu số trong địa bàn huyện nói chung và dân tộc Tày nói riêng. Các công ty lữ hành cũng chƣa nghiên cứu, khai 43
  44. thác tuyến du lịch chuyên sâu về tìm hiểu tham quan văn hóa tộc ngƣời, chƣa có các chƣơng trình du lịch cụ thể đến các vùng dân tộc thiểu số. Đội ngũ ngƣời hƣớng dẫn viên chủ yếu là do tự phát chƣa có quy hoạch và quản lý của các cơ quan chức năng. Đặc biệt là thiếu các hƣớng dẫn viên cho khách du lịch tìm hiểu tham quan các bản ngƣời Tày nói riêng và các dân tộc thiểu số trong vùng nói chung. Nhân viên nhà hàng, khách sạn chƣa đƣợc đào tạo bài bản, chƣa qua trƣờng lớp đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ khách. Chƣa thể hiện đƣợc tinh thần và thái độ phục vụ khi khách sử dụng các dịch vụ. Các cơ sở lƣu trú phục vụ khách đang ở quy mô nhỏ, chất lƣợng phục vụ dừng lại ở mức trung bình, phong cách phục vụ chƣa chuyên nghiệp. Trang thiết bị trong phòng chƣa đạt tiêu chuẩn. Các nhà hàng, các dịch vụ bổ xung con nghèo nàn và đơn điệu. Đến nay, Định hóa đã xây dựng đƣợc một số tuyến đƣờng quan trọng. Vừa phục vụ cho đời sống vừa phục vụ cho hoạt động du lịch. Các tuyến đƣờng trên địa bàn chính hầu nhƣ đã đƣợc rải nhựa, thuận tiện cho việc đi lại. Kết hơp với việc xây dựng các tour du lịch đã thu hút đƣợc khách du lịch. Tuy nhiên còn gặp một số khó khăn về vốn đầu tƣ, và những tuyến đƣờng đi sâu vào các bản làng dân tộc thì vẫn còn rất khó đi, mà chủ yếu là đƣờng đất đỏ. Các phƣơng tiện giao thông phục vụ cho hoạt động du lịch thì thƣờng là các chuyến xe khách và xe buýt cũng rất thuận tiện. Đáp ững đầy đủ mọi nhu cầu đi lại của nhân dân trong huyện và du khách muốn đến đây tham quan và tìm hiểu văn hóa tộc ngƣời cũng nhƣ cảnh quan nơi đây. Nhƣng vẫn gặp một số khó khăn là các tuyến xe khách hay xe buýt thì chỉ dừng lại ở việc đƣa khách đến với thị trấn còn muốn đến các điểm du lịch thì chƣa có mà chủ yếu là xe của đoàn, hoặc thuê xe ngoài. Công tác tuyên truyền quảng bá về văn hóa truyền thống cũng nhƣ tiềm năng du lịch văn hóa của đồng bào dân tộc Tày còn hạn chế. Hình ảnh con ngƣời và cảnh quan nơi đây còn mờ nhạt, chƣa có nhiều thông tin về văn hóa tộc ngƣời Tày trên các phƣơng tiện truyền thông. 44
  45. Tiểu kết chương 2: Ngƣời Tày ở Định Hóa có những nét văn hóa đặc sắc, đa dạng và phong phú. Văn hóa của ngƣời Tày hiện nay đang có sự biến đổi nhất là ngôi nhà sàn truyền thống đang dần mất đi. Do vậy cần phải có biện pháp thích hợp để gìn giữ và bảo tồn những già trị làm nên bản sắc văn hóa Tày ở huyện Định Hóa nói riêng và văn hóa Tày nói chung. Trong ngôi nhà sàn, từ cách bố trí không gian thờ cúng tổ tiên, nơi tiếp khách, bếp núc cho tới buồng ngủ của mỗi thành viên trong gia đình đều thể hiện rõ phong tục, tập quán, nền nếp của đồng bào Tày. Bên cạnh đó,những ngôi nhà này còn thể hiện sự sáng tạo, khéo léo của ngƣời Tày làm nên những ngôi nhà vừa bền vững vừa có giá trị kiến trúc nghệ thuật. Những giá trị về tinh thần trong quan hệ cộng đồng, làng bản của dân tộc Tày cũng góp phần cho cuộc sống của ngƣời dân thêm tƣơi đẹp, nhờ đó có thể gìn giữ đƣợc những giá trị văn hóa tốt đẹp của tộc ngƣời. Do đó, cần có các biện pháp nhằm phát huy những yếu tố tốt đẹp đó, giúp cho xã hội thêm vững mạnh. Trang phục truyền thống của ngƣời Tày ở Định Hóa không chỉ gắn bó trực tiếp với nhu cầu đời sống của con ngƣời mà nó còn là những giá trị văn hóa mang đậm đặc trƣng tộc ngƣời. Trang phục thể hiện trí tuệ, sự sáng tạo, thị hiếu thẩm mỹ của ngƣời tạo ra nó qua nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật trang trí ,không chỉ có giá trị sử dụng mà còn đạt đến trình độ khá cao của thẩm mỹ dân gian. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, trang phục của ngƣời Tày ở Định Hóa nói riêng và đông bào Tày nói chung có nhiều biến đổi. Biểu hiện trƣớc hết là sự thay đổi về chất liệu để may quần áo. Hiện tƣợng dùng vải công nghiệp để may quần áo đã khá phổ biến. Bộ trang phục truyền thống đang dần đƣợc thay thế bằng những bộ quần áo theo lối hiện đại, ngƣời Tày nhất là lớp thanh niên ở thị trấn, ở những nơi gần thị xã, gần đƣờng quốc lộ hiện nay ăn mặc nhƣ ngƣời Kinh. Bộ trang phục truyền thống chỉ còn thấy ở ngƣời già và cƣ dân ở những bản xa thị trấn, xa đƣờng quốc lộ. Những nơi này nghề trồng bông dệt vải vẫn đƣợc duy trì trong mỗi gia đình. Những phong tục tập quán của ngƣời Tày nhƣ cƣới xin, lễ tết, ma chay có nhiều sắc thái riêng mang đâm đặc trƣng văn hóa tộc ngƣời. Nó phản ánh mối 45
  46. quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời, giữa con ngƣời với thiên nhiên. Đồng bào Tày có kho tàng văn học dân gian hết sức phong phú với nhiều thể loại nhƣ dân ca, câu đố, tục ngữ phản ánh nhiều mặt của cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của đồng bào. Các lễ hội truyền thống đƣợc tổ chức vào đầu năm nhất là lễ hội Lồng tồng không chỉ để cầu mong mƣa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống yên vui mà còn là dịp để đồng bào vui chơi, giao lƣu kết bạn với nhau. Những giá trị văn hóa đó cần phải đƣợc gìn giữ và trao truyền qua nhiều thế hệ để bản sắc văn hóa Tày không bị mai một đi. 46
  47. CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC TÀY TẠI HUYỆN ĐỊNH HÓA – THÁI NGUYÊN. Huyện Định Hóa có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Hiện Nay, trong huyện còn lƣu giữ đậm nét những đặc trƣng văn hóa của các dân tộc thiểu số. Song thực trạng hoạt động và khả năng khai thác các yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc Tày còn khá đơn điệu chƣa tƣơng xứng với tiềm năng của vùng.Việc phát triển du lịch văn hóa sẽ là một cách để phát triển kinh tế, xã hội của vùng. Với những tiềm năng sẵn có của huyện Định Hóa, để đóng góp cho sự phát triển du lịch của địa phƣơng thì có thể đề xuất một số giải pháp phát triển sau: 3.1. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc ngƣời. Đảng và nhà nƣớc ta đã xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Từ ý nghĩa đó, ngành du lịch đƣợc xác định “trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nƣớc”, ở đó văn hóa đóng vai trò nền tảng cho phát triển du lich, còn du lịch là một trong những phƣơng thức để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, gắn văn hóa với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm này thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển văn hóa và phát triển kinh tế xã hội. Văn hóa truyền thống của ngƣời tày ở Định Hóa cũng nhƣ văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số khác ở nƣớc ta vừa có những giá trị tốt đẹp, tiến bộ vừa chứa đựng những yếu tố không còn phù hợp với xã hội hiện đại. Cho nên, cần có các biện pháp để bảo tồn, phát huy nhằm nâng cao các giá trị truyền thống bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Tày ở Định Hóa nói riêng. Việc bảo tồn phát huy truyền thống của ngƣời Tày ở Định Hóa cần phải đặc biệt chú trọng đến việc củng cố và phát triển ý thức cộng đồng. Để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Tày có hiệu quả cần thực hiện những giải pháp cụ thể nhƣ sau: 47
  48. - Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa. Tăng cƣờng đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ tri thức. - Thực hiện tốt công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể tại địa phƣơng một cách khoa học và có hệ thống thông qua việc tƣ liệu hóa, vật thể hóa hệ thống di sản văn hóa nhằm nhận diện và xác định mức độ tồn tại, giá trị và sức sống của từng loại di sản văn hóa trong cộng đồng trên cơ sở đó đề xuất phƣơng án bảo tồn, phát huy một cách hiệu quả. - Nâng cao vai trò quản lý, định hƣớng của nhà nƣớc, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia bảo vệ di sản văn hóa, gắn hoạt động văn hóa dân tộc trong công tác, xây dựng đời sống văn hóa. Có chính sách, chế độ thích đáng cho các nghệ nhân tài giỏi, những cá nhân và gia đình có công sức giữ gìn tài sản văn hóa dân tộc. - Tăng cƣờng, đẩy mạnh việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, giao lƣu, hợp tác với các địa phƣơng trong và ngoài nƣớc trong hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. - Nâng cao nhận thức của ngƣời dân đối với di sản văn hóa của dân tộc mình, khơi dậy trong họ tình yêu đối với văn hóa cha ông và cho họ thấy họ đƣợc hƣởng lợi từ sinh hoạt văn hóa đó. -Tổ chức các cuộc thi viết về truyền thống văn hóa các dân tộc nhằm giới thiệu dân tộc mình cho bạn bè. Thông qua các bài viết thì độc giả có cái nhìn chuyên sâu hơn về các văn hóa và giá trị văn hóa từ đó có ý thức bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. -Tiếp tục triển khai và thực hiện các đề án về việc giữ gìn, bảo tồn và tôn tạo các giá trị văn hóa dân tộc của huyện và tỉnh đề ra. Các phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa càn đƣợc tăng cƣờng thƣc hiện. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa tới đồng bào dân tộc Tày ở đây, đƣa ra các tiêu chí cụ thể và có hình thức khen thƣởng đối với những gia đình hay làng bản đạt đƣợc các tiêu chí đã đề ra. -Thƣờng xuyên, liên tục mở các đợt tuyên truyền vận động bằng mọi hình thức nhƣ: thông qua hệ thống phát thanh của xã, xuất bản các tạp chí, qua đài 48
  49. truyền hình Nhằm nâng cao nhân thúc, ý thức của toàn xã hội về công tác bảo tồn, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Tày. - Tiếp tục tổ chức các hoạt động lớn nhƣ ngày hội văn hóa thể thao các dân tộc, liên hoan ca múa nhạc dân gian, triển lãm văn hóa dân tộc, hội thi giọng hát của ngƣời dân tộc thiểu số. Cần có các biện pháp nhằm kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của ngƣời Tày ở huyện Định Hóa dựa trên các nguyên tắc: kế thừa có tính phê phán, chọn lọc. Phải gắn với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đồng thời gắn với quá trình xây dựng xã hội mới, nền văn hóa mới và con ngƣời mới. Từ đó có các biện pháp cụ thể nhƣ sau: * Đối với nhà sàn truyền thống: Hiện nay, đang có xu hƣớng bị mất đi, vây nên chính quyền địa phƣơng cần có những chính sách hỗ trợ và giúp đỡ ngƣời dân có ý thức để bảo lƣu các ngôi nhà sàn để nâng cao hơn nữa các giá trị của nó. Đồng thời, tạo thành sản phẩm cho khách du lịch tham quan và nghỉ lại, giữ gìn nét văn hóa truyền thống. Với các biện pháp cụ thể nhƣ: - Khuyến khích đồng bào dân tộc giữ lại những ngôi nhà sàn. - Có các chính sách khen thƣởng cho những gia đình giữ lại đƣợc nếp nhà truyền thống. - Phục dựng lại những ngôi nhà sàn truyền thống bằng những vật liệu truyền thống. Còn có thể kế thừa lại những truyền thống dựng nhà của ngƣời Tày gốc nhƣng có thể sáng tạo cho phù hợp với đời sống hiện đại hiện nay mà không làm mất đi bản sắc văn hóa vốn có của nó, tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tốt đẹp. Có thể xây dựng lại những ngôi nhà sàn bằng những vật liệu tự nhiên chứ không phải bằng xi măng cốt thép, từ đó vẫn có thể giữ lại nét truyền thống của nhà sàn. * Đối với trang phục truyền thống: Những bộ y phục mầu sắc, hoa văn phong phú và những đồ trang sức của ngƣời Tày là những nét đẹp truyền thống, vừa nói lên tính cách tâm lý vừa thể hiện trình độ thẩm mỹ của tộc ngƣời Tày. Cũng cần có những chính sách phù hợp để bảo tồn và phát huy những giá trị của những trang phục truyền thống nhƣ: 49
  50. - Sƣu tập các mẫu trang phục cổ, các đồ trang sức đi kèm. - Tuyên truyền khuyến khích nhân dân mặc lại trang phục truyền thống của mình trong các dịp liên hoan, lễ hội, cƣới hỏi và các sinh hoạt văn hóa cộng đồng. - Có thể thay đổi chất liệu cho phù hợp với điều kiện hiện nay của ngƣời dân. - Tổ chức các buổi giao lƣu biểu diễn trang phục truyền thống của các dân tộc trong huyện. Từ đó ngƣời dân thấy đƣợc những nét đẹp của những bộ trang phục, qua đó thêm yêu và có ý thức giữ gìn. - Trang phục truyền thống của dân tộc Tày có thể đƣợc xem là tiềm năng du lịch, chính là ở sự độc đáo và tính chất thủ công của nó. Đó cũng là nét quyến rũ của du lịch các vùng, miền. Để bảo tồn các giá trị cũng nhƣ tính độc đáo của trang phục, cần có những dự án đầu tƣ,hỗ trợ cho sản xuất các sản phẩm trang phục truyền thống. * Đối với các thể loại văn học, nghệ thuật: - Sƣu tầm văn hóa dân gian, lựa chọn những giá trị đặc sắc của văn hóa dân tộc Tày cũng nhƣ văn hóa các dân tộc thiểu số khác trên địa bàn huyện, để đƣa vào phòng văn hóa truyền thống của huyện. Làm phong phú thêm hiện vật phản ánh giá trị văn hóa truyền thống của tộc ngƣời. - Chắt lọc những thể loại văn hóa dân gian đặc sắc có giá trị văn hóa cao làm nền tảng để củng cố cho nền văn học dân gian hiện nay. Loại bỏ nhƣng yếu tố cũ không còn phù hợp. - Thành lập các câu lạc bộ âm nhạc, đồng thời mời các nghệ nhân dậy cho các trẻ em trong thôn bản các bài dân ca của dân tộc mình. Sƣu tầm các bài hát qua việc ghi chép, qua trí nhớ của ngƣời già, từ đó tập hợp lại thành sách về dân ca Tày. Thông qua các cuộc hội thảo về phát hành sách để quảng bá và giới thiệu. - Thành lập các đội văn nghệ, duy trì, và phát triển phong trào văn nghệ quần chúng, duy trì các đội văn nghệ ở thôn bản. 50