Khóa luận Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng - Nguyễn Thị Mai

pdf 83 trang huongle 1480
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng - Nguyễn Thị Mai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_giai_phap_phat_trien_du_lich_tien_lang_nguyen_thi.pdf

Nội dung text: Khóa luận Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng - Nguyễn Thị Mai

  1. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Lời cảm ơn Em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới thầy giáo hướng dẫn T.S Phạm Xuân Hậu, thầy đã định hướng và giúp em trong suốt quá trình làm khóa luận tốt nghiệp. Em cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn tới ban quản lý di tích huyện Tiên Lãng, các thầy cô giáo trong và ngoài khoa Văn Hóa Du Lịch trường ĐHDLHP những người quan tâm dạy dỗ em trong thời gian học tập tại trường. Cảm ơn gia đình và bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ động viên em để em hoàn thành khóa luận này. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  2. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 1. UBND Uỷ ban nhân dân 2. ĐHKHXH&NV Đại học khoa học xã hội và nhân văn 3. Đ/v Đơn vị 4. TTLL Thông tin liên lạc 5. ĐHQGHN Đại học quốc gia Hà Nội 6. NXB Nhà xuất bản 7. QĐ Quyết định 8. VH Văn hóa 9. DTLS Di tích lịch sử 10. UNWTO Tổ chức du lịch thế giới Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  3. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng MỤC LỤC Lời cảm ơn. Danh mục từ viết tắt. Chương I: Tổng quan nghiên cứu đề tài phát triển du lịch Tiên Lãng – Hải Phòng 1 Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài 2 Các mục tiêu nghiên cứu 3 Phạm vi nghiên cứu 4 Bố cục khóa luận 5 Một số lý luận về phát triển du lịch 5.1 Khái niệm du lịch và bộ phận cấu thành du lịch 5.1.1 Kkhái niệm về du lịch 5.1.2 Bộ phận cấu thành du lịch 5.2 Các loại hình du lịch 5.2.1 Căn cứ theo mục đích chuyến đi 5.2.2 Căn cứ vào sự tƣơng tác của du khách đối với điểm đến du lịch 5.2.3 Theo phạm vi lãnh thổ 5.2.4. Các cách phân loại khác 5.3 Các chỉ tiêu đánh giá phát triển du lịch 5.4 Các nhân tố ảnh hƣởng đến việc phát triển du lịch Tiên Lãng 5.4.1 Cầu du lịch 5.4.2 Cung du lịch 5.4.3 Môi trƣờng du lịch Chương II: Thực trạng phát triển du lịch huyện Tiên Lãng. 2.1 Khái quát về thực trạng khai thác tiềm năng du lịch tại huyện Tiên Lãng 2.1.1 Lược sử về huyện Tiên Lãng 2.1.2 Vài nét về hoạt động du lịch tại huyện Tiên Lãng 2.2 Thực trạng khai thác tiềm năng du lịch trên địa bàn huyện Tiên Lãng Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  4. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng 2.2.1 Thực trạng cầu về du lịch trên địa bàn huyện Tiên Lãng 2.2.2 Thực trạng cung về du lịch trên địa bàn huyện Tiên Lãng Chương III: Kết luận và đề xuất 3.1 Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu 3.1.1 Kết quả điều tra 3.1.2 Những kết luận thông qua nghiên cứu 3.1.3 Tồn tại 3.2 Các đề xuất và kiến nghị nhằm phát triển du lịch Tiên Lãng 3.2.1 Đề xuất giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng 3.2.1.1 Cần nhận thức đúng và đầy đủ hơn nữa về phát triển du lịch huyện Tiên Lãng 3.2.1.2 Định hướng và mục tiêu phát triển du lịch của huyện Tiên Lãng 3.2.1.3. Giải pháp tôn tạo và tu bổ di tích 3.2.1.4. Khôi phục bảo tồn lễ hội truyền thống 3.2.1.5 Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật – hạ tầng đến các địa điểm du lịch. 3.2.1.6.Giải pháp huy động vốn 3.2.1.7. Đào tạo những người phục vụ du lịch tại chỗ cho người dân địa phương 3.2.1.8 Giải pháp tuyên truyền quảng bá cho phát triển du lịch 3.2.1.9 Vận động sự tham gia của cộng đồng dân cư vào hoạt động du lịch. 3.2.1.10 Xây dựng tour,tuyến du lịch có sự kết hợp giữa du lịch tham quan, nghiên cứu các di tích lịch sử ,văn hóa với một số lọa hình du lịch khác. 3.2.2 Một số kiến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục I Phụ lục II Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  5. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng CHƢƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI PHÁT TRIỂN DU LỊCH TIÊN LÃNG 1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài Trong những năm qua, ngành du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Từ năm 1990 đến nay tốc độ tăng trưởng khách du lịch luôn đạt ở mức 2 con số, khách du lịch quốc tế tăng 11 lần từ 250.000 lượt (năm 1990) lên xấp xỉ 3 triệu lượt năm (năm 2004), khách du lịch nội địa tăng 14,5 lần từ 1 triệu lượt (năm 1990) lên 14,5 triệu lượt (năm 2004). Thu nhập xã hội từ du lịch tăng từ 1350 tỉ đồng (1990) lên 26.000 tỉ đồng (2004). Du lịch đã tỏ rõ vị trí của mình trong nền kinh tế với vai trò là một nghành kinh tế thực sự và có khả năng đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Không chỉ là nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước mà du lịch còn tạo việc làm cho hàng chục vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp. Ngoài Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  6. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng ra du lịch phát triển còn thúc đẩy nhiều hoạt động kinh tế khác như: vận chuyển, bưu chính viễn thông, ngân hàng, sản xuất hàng hóa, dịch vụ khách du lịch Du lịch đã thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và các thành phần dân cư trong xã hội, tạo ra diện mạo mới của du lịch Việt Nam, sôi động và rộng khắp trong phạm vi cả nước. Là 1 trong 7 huyện ngoại thành của Hải Phòng, huyện Tiên Lãng có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội thành phố. Nằm cách không xa trunh tâm kinh tế lớn của vùng đồng bằng sông Hồng, gần các khu công nghiệp tập trung và các khu du lịch nổi tiếng như Đồ Sơn, Cát Bà, Hạ Long, các trcuj giao thông quan trọng có ý nghĩa liên vùng. Với vị trí như vậy Tiên Lãng có thể liên kết, trao đổi, thu hút vốn đầu tư và phát triển kinh tế xã hội. Tiên Lãng có tiềm năng rất lớn trong phát triển du lịch, nhất là du lịch văn hóa, với hệ thống các di tích lịch sử văn hóa lâu đời chứa đủ những giá trị linh giá trị văn hóa cao cả và mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Tuy nhiên hoạt động du lịch tới các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh của Tiên Lãng chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có của nó, chưa khai thác được hết các giá trị trong lòng các di tích, danh lam thắng cảnh. Với mục đích đưa ra một số giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng mong muốn đóng góp phần nhỏ bé trong việc phát triển du lịch quê hương mình em chọn đề tài Giải phát phát triển du lịch Tiên Lãng làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài Mục đích của đề tài. Đề tài được trình bày trong khóa luận này nhằm khẳng định vai trò của nguồn tài nguyên đối với hoạt động du lịch của huyện Tiên Lãng, nêu lên thực trạng của hoạt động du lịch huyện trong những năm gần đây với những thành công và hạn chế cụ thể. Đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy cao nhất những thế mạnh, hạn chế tối đa những điểm yếu đẻ du lịch Tiên Lãng trở thành một trung tâm du lịch văn hóa và sinh thái của Hải Phòng. Nhiệm vụ của đề tài. Để thực hiện mục đích trên đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau; - Tìm hiểu những lí luận chung về du lịch: các khái niệm về du lịch , tài nguyên du lịch, phân tích vai trò của du lịch trong đời sống kinh tế xã hội của con người và xu thế phát triển của du lịch hiện nay. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  7. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng - Đánh giá các tài nguyên du lịch tại huyện Tiên Lãng về loại hình, số lượng và giá trị của chúng. - Thống kê và phân tích thực trạng sử dụng các tài nguyên trong hoạt động du lịch ở Tiên Lãng. - Ngiên cứu và tham khảo ý kiến, tìm ra các biện pháp thích hợp nhất để giải quyết các vấn đề còn tồn tại của hoạt động du lịch Tiên Lãng. 3 Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu tất cả những nguồn tài nguyên du lịch trên địa bàn huyện Tiên Lãng.Trong đó chú trọng nhất đến việc phân tích và đánh giá các tài nguyên du lịch nhân văn,du lịch sinh thái của huyện. Các giải pháp khắc phục vấn đề được đưa ra dựa trên thực trạng về tình hình kinh tế xã hội Tiên Lãng hiện tại. 4. Bố cục của khóa luận. Bô cục của khóa luận ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung về du lịch và xu hướng phát triển du lịch hiện nay. Chương 2: Tiềm năng du lịch và thực trạng phát triển du lịch huyện Tiên Lãng. Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa tính hiệu quả trong hoạt động du lịch huyện Tiên Lãng 5. Một số lý luận về phát triển du lịch 5.1 Khái niệm về du lịch và bộ phận cấu thành du lịch. 5.1.1 Các khái niệm về du lịch a. Tiếp cận du lịch dưới góc độ nhu cầu của con người. - Du lịch là một hiện tượng : Du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ việc đi lại và lưu trú của con người ngoài địa phương – những người không có mục đích định cư và không liên quan tới bất cứ hoạt động kiếm tiền nào. - Du lịch là một hoạt động : Du lịch có thể được hiểu là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. - Du lịch dưới góc độ là khách du lịch: Nhà kinh tế học người Anh, Ogilvie khái niệm về khách du lịch là tất cả những người thỏa mãn hai điều kiện: rời khỏi nơi cư trú thường Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  8. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng xuyên trong một khoảng thời gian dưới một năm và chi tiêu tiền bạc tại nơi họ đến thăm mà không kiếm tiền ở đó. Nhà kinh tế học Cohen lại quan niệm khách du lịch là một người đi tự nguyện, mang tính nhất thời, với mong muốn được giải trí từ những điều mới lạ và thay đổi thu nhận được trong một chuyến đi tương đối xa và không thường xuyên. Theo tổ chức du lịch thế giới (UNWTO): Khách du lịch quốc tế: là một người lưu trú í nhất một đêm nhưng không quá một năm tại quốc gia khác với quốc gia thường trú với nhiều mục đích khác nhau ngoài hoạt động để được trả lương ở nơi đến. Khách du lịch nội địa: là một người đang sống trong một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một nơi khác không phải nơi cư trú thường xuyên trong quốc gia đó, trog thoiwif gian ít nhất là 24 giờ và không quá một năm với cac mục đích có thể là: giải trí, đi công việc, hội họp, thăm thân nhân ngoài hoạt động làm việc để lĩnh lương ở nơi đến. Theo luật du lịch Việt Nam 2005: Khach du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch, là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch. Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. b. Dưới góc độ là một ngành kinh tế du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp của các lĩnh vực của các lữ hành, khách sạn, vận chuyển và các yếu tố cấu thành khác kể cả xúc tiến quảng bá nhằm phục vụ hu cầu vafmong muốn dặc biệt của khách du lịch. Khái niệm của hội liên hợp quốc (1971): Ngành du lịch là ngành đại diện cho tập hợp các hoạt động công nghiệp thương mại cung ứng toàn bộ hoặc chủ yếu các hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch quốc tế và nội địa Như vậy khi tiếp cận du lịch với tư cách là một hệ thống cung các yếu tố cần thiết trong các hành trình du lịch thì du lịch được hiểu là một ngành kinh tế cung ứng các hàng hóa và dịch vụ trên cơ sở kết hợp giá trị các tài nguyên du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn đặc biệt của du khách. c. Tiếp cận dưới góc độ tổng hợp Theo các tác giả McIntosh, Goeldner và Ritchie tiếp cận du lịch một cách toàn diện hơn, theo các ông khi tiếp cận du lịch phải cân nhắc tất cả các chủ thể (thành phần) tham gia vào hoạt động du lịch mới có thể Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  9. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng khái niệm và hiểu được bản chất của du lịch một cách đầy đủ. Cã chủ thể đó bao gồm: khách du lịch là những người tìm kiếm kinh nghiệm và thỏa mãn vật chất hay tinh thần khác nhau do đó xác định nơi đến du lịch lựa chọn và các hoạt động tham gia thưởng thức. Các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa và dịch vụ du lịch: nhà kinh doanh coi du lịch là cơ hội để kiếm lợi nhuận thông qua việc cung cấp hàng hóa dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường khách du lịch, họ tạo ra nguồn cung các sản phẩm dịch vụ du lịch để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi từ đó tạo ra doanh thu lợi nhuận trong các doanh nghiệp. Chính quyền sở tại: người lãnh đạo chính quyền địa phương luôn tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển và họ nhìn nhận du lịch như một nhân tố có tác dụng tốt cho nền kinh tế thông qua: tạo ra thu nhập góp phần phân phối lại lợi nhuận tạo ra nguồn thu ngoại tệ, tạo ra nguồn thu thuế cho ngân sách địa phương, giúp cho địa phương tạo cơ sở vật chất cho cơ sỏ hạ tầng, là nhân tố tạo công ăn việc làm cho dân ư địa phương, tạo ra sự giao lưu văn hóa giữa dân cư địa phương với khách du lịch. Dân cư địa phương : Dân cư địa phương thường coi du lịch là một nhân tố tạo công ăn việc làm và giao lưu văn hóa. Một điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là hiệu quả của sự giao lưu giữa số lượng lớn du khách quốc tế và dân cư địa phương . Hiệu quả này vừa có lợi vừa có hại. => Từ các cách tiếp cận trên ta có thể đưa ra dược khái niệm du lịch một cách tổng quát như sau: “ Du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ sự tác động qua lại giữa khách du lịch, các nhà kinh doanh chính quyền và cộng đồng dân cư địa phương trong qua trình thu hút và đón tiếp khách du lịch. 5.1.2 Bộ phận cấu thành du lịch a. Vận chuyển du lịch Du lịch gắn liền với di chuyển và các chuyến đi, vì vậy vận chuyển du lịch trở thành bộ phận không thể thiếu được trong ngành du lịch. Tham gia vào vận chuyển du lịch có các ngành hàng không, đường bộ, đường sắt, đường thủy. Đối với phương tiện vận chuyển hàng không: Đây là loại phương tiện hiện đại, tiện nghi, có tốc độ nhanh phù hợp với xu thế toàn cầu hóa du lịch. Trong du lịch quốc tế thì vận chuyển hàng không chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, đồng thời nó chiếm một tỷ trọng khá lớn trong toàn bộ chi tiêu cho chuyến đicủa du khách. Hiện nay phương tiện này còn có chi phí khá cao và khả năng cơ dộng bị hạn chế. Chính vì vậy mà việc sử Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  10. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng dụng phương tiện này cho khách du lịch nội địa còn chưa phổ biến, đặc biệt là ở các nướcđang phát triển Đối với phương tiện vận chuyển đường bộ: hiện nay hệ thống vận chuyển đương bộ vẫn giữ vị trí quan trọng trong vận chuyển du lịch, do chi phí thấp có thể phù hợp với mọi đối tượng khả năng cơ động cao, có thể đi đến hầu hết các điêm du lịch. Mặc dù vậy phương tiện vận chuyển này còn chậm và thiếu tiện nghi, chỉ phù hợp cho phát triển du lịch trong nước . Đối với phương tiện vận chuyển đường sắt: hiện nay hệ thống vận chuyển ở nhiều quốc gia đang có vị trí quan trọng đối với du lịch do có nhiều lợi thế về chi phí, khả năng an toàn cao, tiện lợi và có khả năng thỏa mãn nhu cầu ngắm cảnh. Trong tương lai phương tiện này sẽ là phương tiện có khả năng cao với sự chuyển biến về tốc độ và cải thiện về tiện nghi. Đối với phương tiện vận chuyển đương thủy: Mặc dù xuất hiện khá sớm nhưng việc kết hợp phương tiện này cho viaacj phát triển du lịch còn khá mới mẻ. hiện nay du lịch vận tải biển đang có tiềm năng gia tăng. Tham gia ào hình thức vận chuyển này có tàu, thuyền du lịch, các phương tiện đường thủy mang tính hiện đại hoặc tính truyền thống khác. b. Lƣu trú Là một lĩnh vực kinh doanh rất quan trọng đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi của khách du lịch. Lưu trú ảnh hưởng quan trọng đến cơ sở vật chất kỹ thuật và chaayts lượng phục vụ của ngành du lịch. Chính vì vậy việc phát triển hệ thống phục vụ lưu trú là một vấn đề quan trọng nhằm phát triển ngành du lịch . Tham gia vào phục vụ lưu trú có các loại hình như khách sạn, nhà hàng nhà trọ, motel, bãi cắm trại trong đó mỗi loại lại thỏa mãn nhu cầu có tính chất đặc trưng. Ví dụ: Motel là những khách sạn xây dựng ven đườngthương là trên trục đường cách xa khu dân cư. Các khách sạn nhằm đáp ứng nhu cầu khách du lịch đi bằng ô tô nghỉ lại trên đường với các dịch vụ có thể chỉ là ăn uống, lưu trú và có chỗ đỗ xe c. Ăn uống Ăn uống là một nhu cầu thiết yếu đối với khách du lịch vì vậy phục vụ ăn uống trở thành một hoạt động kinh doanh đáng kể trong du lịch. Có nhiều loại hình kinh doanh phục vụ ăn uống: nhà hàng, quán bar, quán café nó phản ánh nét văn hóa của từng địa phương. Đồng thời, các loại hình kinh doanh ăn uống cũng phát triển rất đa dạng theo quy mô, chất lượng phục vụ và chuyên môn hóa, hình thành nên các cơ sở quy mô lớn, quy mô nhỏ, các nhà hàng bình dân, đặc sản, cửa hàng cung cấp thức ăn nhanh. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  11. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng d. Hoạt động giải trí Đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút khách du lịch đến với điểm đến. bộ phận kinh doanh giải trí bao goomfhoatj động của các công viên giải trí vườn bách thảo, viện bảo tàng , các di tích, hội chợ ngoài ra các hoạt động mua sắm đặc biệt là hàng hóa lưu niệm cũng góp phần rất quan trọng trong sự hấp dẫn du lịch, hoặc các hoạt động văn hóa , các công trình kiến trúc, các nhà thờ mặc dù không mang tính chất thương mại song lại có khả năng hấp dẫn, thu hút khách du lịch. e. Lữ hành và các hoạt động trung gian Lữ hành và các hoạt động trung gian đã đóng góp một số vai trò như sau: - Thực hiện các hoạt động trung giannoois liền giữa khách du lịch với các nhà cung uwngshangf hóa dịch vụ du lịch - Có khả năng cung ứng cho khách những sản phẩm đồng bộ, trọn gói thông qua các liên lết các dịch vụ của nhà cung ứng du lịch nhằm tạo ra cho khách hàng chủ động cao, tiện lợi và hiệu quả trong các chuyến đi du lịch. - Có hai loại hình tổ chức kinh doanh lữ hành chủ yếu đó là đại lý du lịch và công ty lữ hành. + Đại lý du lịch là tổ chức trung giant hay mặt cho du khách sắp xếp với các đơn vị cung ứng dịch vụ du lịch và nhận tiền hoa hồng của các đơn vị này. + Công ty lữ hành thường kết hợp các dịch vụ du lịch đơn lẻ thành một sản phẩm lữ hành hoàn chinhrthoong qua mạng lưới đại lý du lịch để bán cho khách hàng. Khác với các đại lý du lịch mang tíh phân tán thì các công ty lữ hành có tính tập trung rất cao. Mặc dù chỉ có một số công ty nhưng lại chiếm phần lớn thị trường sản phẩm du lịch trọn gói và trở thành những bạn hàng lớn của các hang hàng không và các tập đoàn khách sạn. Như vậy tham gia vào hoạt động kinh doanh du lịch bao gồm nhiều bộ phận kionh doanh khác nhau hợp thành một chuỗi sản phẩm có tính phong phú, đồng bộ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Vì vậy muốn phát triển du lịch thì cần phải quan tâm , chú trọng phát triển tất cả các yếu tố cấu thành nên du lịch. 5.2 Các loại hình du lịch 5.2.1 Căn cứ theo mục đích chuyến đi Theo căn cứ này thì du lịch được phân ra thành các loại sau: Du lịch văn hóa: đây là loại hình du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu thẩm nhận văn hoascuar khách du lịch như tham quan di tích lịch sử, di tích văn hóa, lễ hội phong tục tập quán. Trong du lịch văn hóa lại được chia Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  12. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng nhỏ thành các du lịch khác nhau như: du lịch di tích lịch sử, du lịch phố cổ, du lịch lễ hội, du lịch các di tích văn hóa nổi tiếng. du lịch văn hóa đại trà cho mọi đối tượng. du lịch van hóa chuyên sâu nhằm nghiên cứu thấu đáo một loại hình văn hóa. Ví dụ như tìm hiểu sâu về Văn Miếu, về kinh thành Huế, Vạn Lý Trường Thành, tháp Ephen Du lịch thiên nhiên: hấp dẫn những người thích tận hưởng bầu không khí ngoài trời, thích thưởng thức phong cảnh đẹp và đời sống thực vật hoang dã. Ví dụ du lịch vườn quốc gia Cúc Phương , phong cảnh hung vĩ nhưng tĩnh lặng của Ngũ Hành Sơn. Du lịch thể thao: bao gồm du lịch leo núi, du lịch săn bắn, du lịch hành động, du lịch câu cá, du lịch lặn biển, du lịch tham dự các cuộc chơi như : bong chuyền, bóng rổ, bóng đá, trượt tuyết Du lịch sức khỏe: bao gồm du lịch chũa bệnh bằng khí hậu – nghỉ ngơi ở những vùng có khí hậu tốt, trog lành, các khu an dưỡng nghỉ mát núi cao, hoặc ven biển các vùng có suối nước nóng Du lịch hoạt động :thu hút khách bằng các hoạt động được xác định trước và thách thức hoàn toàn trong chuyến đi trong kỳ nghỉ của họ. ví du một số khách muốn khám phá đặc điểm văn hóa của một khu vực nhất định. Du lịch tôn giáo: thể loại du lịch này nhằm thỏa mãn cuộc hành hương tôn giáo, viếng thăm những nhà thờ, những ngôi đền, những địa danh xuất phát của một tôn giáo. Du lịch chuyên đề: liên quan đến một nhóm nhỏ, ít người đi du lịch với cùng một mục đích chung hoặc một mối quan tâm đặc biệt nào đóchỉ đối với riêng họ. Du lịch dân tộc học: đặc trưng cho những người quay trở về nơi quê cha đấy tổ tìm hiểu lịch sử nguồn gốc của quê hương, dòng dõi gia đình, hoặc tìm kiếm khôi phục truyền thống văn hóa bản địa. Du lịch giải trí: ví du như khách có nhu cầu đến những nơi có phong cảnh hữu tình như đến những bãi biển đẹp để tắm nắng, cắm trại Du lịch xã hội: hấp dẫn những người mà đối với họ sự tiếp xúc và giao lưu với người khác là quan trọng nhất. 5.2.2 Căn cứ vào sự tƣơng tác của du khách đối với điểm đến du lịch Du lịch thám hiểm: bao gồm các nhà nghiên cứu, học giả, những nhà leo núi và những nhà thám hiểm đi theo các nhóm với số lượng nhỏ. Những người này họ sử dụng những đồ dùng cá nhân, thức ăn chuẩn bị trước vì vậy loại hình du lịch này ảnh hưởng không đáng kể đến nền kinh tế, văn hóa xã hội môi trường tại điểm đếntại điểm đến. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  13. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Du lịch thượng lưu: cuyến đi của giới thượng lưu tới những nơi giải trí độc đáo, tìm kiếm sự mới lạ. số lượng khách thuộc loại hình này khá ít, có nhu cầu về những sản phẩm dịch vụ co chất lượng cao. Du lịch khác thường: bao gồm những khách du lịch không giàu có như những khách thượng lưu nhưng họ thích đến những nơi mới lạ, hoang dã, quan tâm đến nền văn hóa sơ khai hoặc tìm kiếm những phần bổ sung thêm trong một tour du lịch tiêu chuẩn Ngoài ra còn có du lịch đại chúng tiền khởi, du lịch đại chúng, du lịch thuê bao. 5.2.3 Theo phạm vi lãnh thổ Du lịch quốc tế: liên quan đến những chuyến đi vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ quốc gia của khách du lịch. Gồm có du lịch quốc tế đến (là chuyến viếng thăm của những người thuộc quốc gia khác), du lịch ra nước ngoài (là chuyến đi của cư dân trong nước đến một nước khác). Du lịch trong nước:là chuyến đi của một cư dân trong phạm vi quốc gia của họ. Du lịch nội địa: bao gồm du lịch trong nước và quốc tế đến. Du lịch quốc gia: bao gồm du lịch nội địa và du lịch ra nước ngoài. Trong thực tế ở Việt Nam, thuật ngữ du lịch nội địa được sử dụng để chỉ những chuyến đi du lịch trong nước của người Việt Nam (đồng nhất với khái niệm du lịch trong nước của McIntosh, Goeldner) và trường hợp người nước ngoài đang sinh sống tạm thời hoặc làm việc tại Việt Nam khi đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài về Việt Nam du lịch được quan niệm là khách du lịch quốc tề và thuộc loại hình du lịch quốc tế đến. còn người nuuwocs ngoài cư trú tại Việt Nam khi ra nước ngoài du lịch được quy định là khách du lịch quốc tế và thuộc loại hình du lịch ra nước ngoài. 5.2.4. Các cách phân loại khác a. căn cứ vào đặc điểm địa lý của điểm đến du lịch : bao gồm có du lịch biển, du lịch núi, du lịch thành phố, du lịch nông thôn(đồng quê, điền dã, trang trại ) b. căn cứ vào phương tiện giao thông: bao gồm du lịch xe đạp các phương tiện thô sơ (xích lô, xe ngựa, lạc đà ), du lịch xe máy, du lịch ô tô(ô tô du lịch hoặc xe bus đường dài), du lịch tàu hỏa, du lịch tàu thủy(bao gồm cả thuyền bè và ca nô), du lịch máy bay(bao gồm cả tàu lượn, trực thăng, khinh khí cầu). trong loại hình này du khách có thể phát sinh nhu cầu dịch vụ chuyên chở hoặc thuê phương tiện vận chuyển. c. theo thời gian du lịch: bao gồm du lịch dài ngày,thường từ 2 đến 5 tuần như du lịch dưỡng bệnh , thể thao, tiếp thị Du lịch ngắn ngày, thường từ 1 đến 3 ngày, như du lichjcuoois tuần. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  14. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng d. theo lứa tuổi: du lịch thiếu niên, du lịch thanh niên,du lịch trung niên, du lịch cao niên. e. theo hình thức tổ chức: có du lịch đoàn, du lịch gia đình, du lịch các nhân ( du lịch ba lô) 5.3 Các chỉ tiêu đánh giá phát triển du lịch Về mặt kinh tế: Doanh thu hàng năm của du lịch địa phương trên tổng số doanh thu về du lịch hang năm của tỉnh, đóng góp của du lịch vào thu nhập quốc dân, tạo việc làm, thu nhập của dân cư và phần trăm tăng thêm nhờ phát triển du lịch, quảng bá cho sản xuất địa phương, tăng nguồn thu cho nhà nước, phát triển nhu cầu du lịch trong nước, cải thiện cán cân thương mại quốc gia do nguồn thu ngoại tệ của du lịch. Về mặt văn hóa: Đóng góp của du lịch vào việc bảo tồn, duy trì, phát triển những nét văn hóa truyền thống của xã hội, tương tác giữa du khách và dân cư địa phương, thương mại hóa các tác phẩm nghệ thuật và đồ thủ công do sản xuất với số lượng lớn để bán cho du khách, đánh giá nhân cách và long tự hào vè văn hóa địa phương của người dân. Về mặt xã hội: Số lượng việc làm được tạo ra hàng năm từ du lịch, công tác tổ chức các sự kiện có liên quan đến du lịch của địa phương, việc truyền bá các hành vi không phù hợp cho người dân địa phương, việc tồn tại, phát triển của các tệ nạn xã hội, tình hình an ninh trật tự của địa phương, ảnh hưởng của du lịch đến lối sống, phong cách sinh hoạt của cư dân địa phương, việc cải thiện, nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho cư dân địa phương. ảnh hưởng của du lịch đối với môi trường tự nhiên cũng như xã hội làm thay đổi điểm đến du lịch như thế nào? 5.4 Các nhân tố ảnh hƣởng đến việc phát triển du lịch Tiên Lãng 5.4.1 Cầu du lịch Nhu cầu du lịch là một nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con người. Nhu cầu này được hình thành và phát triển trên nền tảng nhu cầu sinh lý và nhu cầu tinh thần. Nhu cầu du lịch phát sinh là kết quả tác động tích cực của lực lượng sản xuất trong xã hội và trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ. Trình độ xã hội ngày càng cao, các mối quan hệ càng hoàn thiện thì nhu cầu du lịch của con người ngày càng trở thành một nhu cầu không thể thiếu được. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người các công ty lữ hành đã tìm kiếm và phát triển nhiều loại hình du lịch mới trong đó du lịch sinh thái ngày càng được quan tâm hơn đây cũng chính là thế mạnh của huyện. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  15. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Để có thể phát triển du lịch huyện Tiên Lãng cầu thì trước tiên chúng ta phải làm cho khách du lịch thấy được mình có nhu cầu và muốn đến với Tiên Lãng. Để có được điều này thì các cơ quan chức năng liên quan như chính quyền, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch liên quan phải tích cực quảng bá du lịch Tiên Lãng, cung cấp thông tin đầy đủ và hấp daanxtaoj sự chú ý thu hút và ấn tượng với khách du lịch. Đồng thời tại địa phương có điểm du lịch cần có biện pháp quy hoạch hợp lý để cung cấp các dịch vụ cần thiết khác cho du khách và đáp ứng các tiêu chuẩn trong đánh giá việc phát triển du lịch. 5.4.2 Cung du lịch Việc cung cấp các dịch vụ phục vụ nhu cầu của khách du lịch: Các dịch vụ phục vụ các nhu cầu thiết yếu của con người như ăn uống, lưu trú, di chuyển ở nơi có điểm du lịch có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút khách du lịch. Và ở đây các nhà cung cấp có ảnh hưởng trực tiếp. Cơ quan chính quyền địa phương và nhân dân: Nhân tố ảnh hưởng tiếp theo là cơ quan chính quyền địa phương và người dân tại nơi có điểm du lịch có thân thiện hay không? Nét đẹp trong văn hóa truyền thống của nơi đây như thế nào? Chính quyền địa phương tạo điều kiện như thế nào cho việc phát triển du lịch? Cho việc tiếp đón du khách? Bản thân loại hình du lịch: Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến việc phát triển du lịch chính là bản thân loại hình du lịch đó có hấp dẫn hay không? Có thu hút được khách du lịch hay không? Quy mô và công tac tổ chức, quảng bá, tuyên truyền giới thiệu càng lớn thì càng thu hút được sự quan tâm và muốn tham quan của nhiều khách du lịch. Mùa du lịch: Mùa du lịch cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển du lịch. Đối với các mùa khác nhau thì khách du lịch đi với các loại hình du lịch khác nhau. Vì vậy đối với các mùa khác nhau thì cần có những chương trình du lịch khác nhau để phù hợp với nhu cầu của khách du lịch. 5.4.3 Môi trƣờng du lịch Về mặt nhận thức. Nhận thức của xã hội về hiện tượng du lịch có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động du lịch. Tại một số nước trên thế giới, số lần đi du lịch là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức sống của người dân. Việc đi du lịch không chỉ có ý nghĩa là thỏa mãn mục đích nhu cầu của chuyến đi mà còn phần nào thỏa mãn nhu cầu thể hiện mình trong xã hội. Trái lại một số nơi trên thế giới do không muốn chấp nhận sự thâm nhập cưa lối sống khác vào cộng đồng, du lịch được coi là một trong những hiểm họa Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  16. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng cần ngăn chặn, khách du lịch được nhìn nhận như những kẻ vô công rồi nghề, những kẻ bóc lột Hai cách nhìn nhận về du lịch như vậy dẫn đến hai thái độ khác nhau có ảnh hưởng trái ngược đối với sự phát triển du lịch. Đối với xã hội du lịch có vai trò giữ gìn, phục hồi sức khỏe và tăng cường sức sống của người dân. Theo nghiên cứu về y sinh học của Cricosev Dorn (1981), du lịch đã giúp dân cư giảm 30 % bệnh tật. Mặt khác du lịch có vai trò đoàn kết cộng đồng, giúp mọi người xích lại gần nhau hơn. Những chuyến du lịch tham quan tại các di tích lịch sử, các công trình văn hóa có tác dụng giáo dục tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, mở mang kiến thức văn hóa chung, góp phần vào việc phục hồi và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc. Cũng chính nhờ du lịch mà cuộc sống cộng đồng trở nên sôi động hơn, các nền văn hóa có điều kiện hòa nhập với nhau, làm cho đời sống tinh thần của con người thêm phong phú. Phát triển du lịch được coi là lối thoát khả thi để giảm bớt tỉ lệ thất nghiệp trong dân chúng, nâng cao mức sống trong hoàn cảnh sức ép về việc làm ngày càng gay gắt. Du lịch góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bên cạnh những mặt tích cực tác động đến xã hội khi du lịch phát triển thì nó cũng tạo ra những mặt tiêu cực, những nguy cơ to lớn khó có thể khắc phục trong ngày một ngày hai: đó là sự gia tăng của các tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm, trộm cắp Do sự khác nhau trong cách nhìn nhận về đạo đức, phong tục tập quán, tín ngưỡng, lối sống dẫn đến mâu thuẫn giữa khách du lịch và dân cư địa phương nơi khách đến. Những dị biệt về tôn giáo, văn hóa chính trị có thể tạo ra sự hiểu lầm, thậm chí dẫn đến hiềm khích, căng thẳng giữa chủ và khách. Ngoài ra có thể nảy sinh những bất hòa giữa cư dân địa phương và các nhà cung ứng du lịch. Các nhà cung ứng du lịch cần chú ý khai thác tài nguyên du lịch tối ưu háo lợi ích kinh tế cần đi đôi với lợi ích của cộng đồng cư dân địa phương. Văn hóa Các đối tượng văn hóa được coi là tài nguyên du lịch hấp dẫn bởi tính phong phú, đa dạng, độc đáo và tính truyền thống cũng như tính địa phương của nó. Các đối tượng văn hóa – tài nguyên du lịch nhân văn là cơ sở để tạo ra các loại hình du lịch văn hóa phong phú. Hơn nữa nhận thức văn hóa còn là yếu tố thúc đẩy động cơ du lịch của du khách. Như vậy nếu xét dưới góc độ thị trường thì văn hóa vừa là yếu tố cung, vừa góp phần hình thành yếu tố cầu của hệ thống du lịch. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  17. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Tuy nhiên mặt trái của hoạt động du lịch tác động vào văn hóa là rất lớn và nghiêm trọng. Một trong những chức năng của du lịch là giao lưu văn hóa, song sự giao lưu này nhiều khi bị lạm dụng trở thành hành động xâm hại của du khách vào nền văn hóa bản địa. Du lịch tạo ra sự suy thoái và những ý nghĩ sai lệch về những ý nghĩa đích thực của văn hóa cộng đồng, làm thay đổi lối sống của một bộ phận dân cư địa phương theo lối sống của khách du lịch, chối bỏ truyền thống và tư tưởng vọng ngoại biểu hiện rất rõ trong giới trẻ. Ảnh hưởng của hoạt động du lịch đến văn hóa và xã hội được thể hiện qua quan hệ giữa du khách và người dân địa phương. Nhìn chung, theo thời gian thái độ của người dân sở tại thay đổi dần từ tích cực sang tiêu cực nếu du lịch không khai thác đúng đắn và không quan tâm đến lợi ích của cộng đồng địa phương. Như vậy, văn hóa là một dạng tài nguyên vô cùng quan trọng trong phát triển du lịch. Tuy nhiên, những mặt tiêu cực mà du lịch tác động đến văn hóa trong quá trình phát triển của mình là rất nhiều, rất nặng nề và rất khó có khả năng phục hồi. Môi trƣờng Theo Projnik: Du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt-nghĩa là du lịch và môi trường là nhân tố cơ bản để tạo ra sản phẩm du lịch. Bằng thực tiễn phong phú, du lịch sẽ góp phần tích cực vào sự nghiệp giáo dục môi trường. Tuy nhiên, hoạt động du lịch ồ ạt có nguy cơ làm suy thoái tài nguyên du lịch tự nhiên, đánh mất giá trị ban đầu của tài nguyên du lịch nhân văn. Sự tập trung quá nhiều người và thường xuyên tại điểm du lịch làm cho thiên nhiên không kịp phục hồi và đi đến chỗ bị hủy hoại. Kinh tế * Vai trò của nền kinh tế đối với sự phát triển của du lịch. Dựa vào định nghĩa chúng ta thấy về phương diện xã hội, du lịch là một hiện tượng của một xã hội trình độ cao. Về phương diện kinh tế, du lịch là một ngành du lịch mà sản phẩm của nó dựa trên và bao gồm sản phẩm có chất lượng cao của nhiều ngành kinh tế khác nhau. Tuy du lịch là một ngành có tài nguyên định hướng tài nguyên rõ rệt nhưng khi nền kinh tế xã hội thấp kém thì cho dù có tài nguyên phong phú, hấp dẫn, cũng khó có thể phát triển du lịch được. Nền kinh tế tác động trực tiếp vào nhiều mặt đến hoạt động du lịch. Khi nền kinh tế phát triển,người dân có cuộc sống ổn định, mức sống được cải thiện và nâng cao, thời gian rỗi gia tăng, thu nhập cao hơn Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  18. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng và có nhiều dư thừa, có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định tham gia du lịch của du khách tiềm năng. Mặt khác, kinh tế phát triển,tạo môi trường thuận lợi cho việc cung ứng các nhu cầu của khách. Hầu như tất cả các ngành kinh tế đều tham gia vào việc thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Nông nghiệp là một ngành có ảnh hưởng quan trọng đến du lịch. Người nông dân cung cấp cho khách sạn, nhà hàng lươn thực thực phẩm để phục vụ du khách. Một ngành nông nghiệp lạc hậu, độc canh sẽ không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng cả về số lượng và chất lượng. Ngành công nghiệp, trong đó công nghiệp chế biến thực phẩm đòi hỏi luôn cải tiến về dây chuyền, quy trình kĩ thuật công nghệ cao, tiên tiến. Các ngành công nghệ dệt, công nghiệp chế biến đồ gỗ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng những vật tư thiết yếu cho ngành du lịch. Trong thời gian xây dựng ban đầu, ngành xây dựng và vật liệu xây dựng có vai trò quan trọng đối với du lịch. Những công trình xây dựng vừa là công cụ phục vụ nhu cầu du lịch, vừa là nguồn tài nguyên góp phần hấp dẫn khách đến, khách lưu lại lâu hơn.Nếu trình độ xây dựng thấp kém sẽ không đáp ứng được nhu cầu do du lịch đặt ra. Nhìn chung, những sản phẩm cung cấp cho ngành du lịch phải có chất lượng cao, ngang tầm quốc tế, nên đòi hỏi các ngành kinh tế phải có trình độ tiên tiến về công nghệ. Thông tin liên lạc phát triển cũng có ảnh hưởng sâu sắc tới du lịch. Các phương tiện truyền thông hiện đại với tốc độ truyền tin nhanh sẽ giúp cho việc quảng bá du lịch một cách hữu hiệu; cung cấp những thông tin cần thiết cho khách hàng về sản phẩm du lịch, tạo nhu cầu du lịch và dẫn du khách đi đến quyết định mua sản phẩm của mình. Sự đảm bảo về các phương tiện thông tin tại các điểm du lịch cũng là một trong những yêu cầu của du khách. Cho dù đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về du lịch, song không ai phủ nhận nội dung di chuyển trong các khái niệm này. Do vậy có thể thấy rằng một trong những yếu tố quan trọng của nền kinh tế có ảnh hưởng sâu sắc đến du lịch là giao thông vận tải. Trước cuộc cách mạng công nghiệp, du lịch còn khá hạn chế vì phương thức và phương tiện vận chuyển còn hét sức thô sơ. Song theo thời gian, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, ngành giao thông vận tải đã có những bước chuyển mình lớn được đánh dấu bằng cuộc cách mạng giao thông vận tải. Giao thông vận tải đã đóng góp vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy nhu cầu đi du lịch của người dân bởi sự đa dạng, giá cả Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  19. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng ngày càng phù hợp với đại đa số tầng lớp xã hội, thời gian vận chuyển được rút ngắn, tiết kiệm được thời gian di chuyển, tăng thời gian lưu trú,giảm sự mệt mỏi cho khách du lịch và ngày càng an toàn hơn. Các khía cạnh của nền công nghiệp và các nghành thủ công nghiệp địa phương là động lực quan trọng đối với du lịch. Một số đông khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài rất muốn biết về nền kinh tế của một quốc gia khác họ. Tham quan công nghiệp, thủ công nghiệp là một cách hay để phát triển mối quan tâm, niềm hứng thú khám phá và tạo ra một thị trường có tiềm năng lớn đối với các sản phẩm đã làm ra. Danh sách các khu công nghiệp có thể là những điểm du lịch hấp dẫn đối với không ít du khách. Du lịch có ảnh hưởng rất lớn lên nền kinh tế của địa phương thông qua việc tiêu dùng của du khách. Nhu cầu tiêu dùng của du khách là những nhu cầu đặc biệt: nhu cầu nâng cao kiến thức, học hỏi, nhu cầu vãn cảnh, thư giãn, nghỉ ngơi Du lịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng hàng hóa vật chất cụ thể, hữu thể và hàng hóa phi vật thể. Ngoài ra nhu cầu mở rộng kiến thức, quá trình cung ứng các sản phẩm vầ thái độ của người phục vụ rất được du khách quan tâm. Đó là nhu cầu về dịch vụ. Việc tiêu dùng dịch vụ mang tính thời vụ rõ nét, phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Điều này không chỉ đúng với việc đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm du lịch trên cơ sở khai thác tài nguyên tự nhiên mà còn đối với các tài nguyên du lịch nhân văn. Một đặc điểm quan trọng và khác biệt giữa việc tiêu dùng du lịch với tiêu dùng các loại hàng hóa khác là việc tiêu dùng sản phẩm du lịch xảy ra cùng lúc, cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Đây là lí do làm cho các sản phẩm du lịch mang tính độc quyền và không thể so sánh giá của sản phẩm du lịch này với giá của sản phẩm du lịch kia một cách tùy tiện. Như vậy, ảnh hưởng kinh tế của du lịch được thể hiện thông qua tác động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm du lịch. Quá trình này tác động lên lĩnh vực phân phối, lưu thông, do vậy ảnh hưởng đến những lĩnh vực khác nhau của quá trình tái sản xuất xã hội. Trên bình diện chung hoạt động du lịch có tác động biến đổi cán cân thu chi của địa phương và của đất nước. Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động du lịch làm xáo động hoạt động luân chuyển tiền tệ, hàng hóa. Cán cân thu chi được thực hiện giữa các vùng có trình độ kinh tế khác nhau, tuy không làm biến đổi cán cân kinh tế của đất nước, song có tác dụng điều hòa nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kinh tế kém phát triển hơn, kích thích sự phát triển kinh tế ở các vùng sâu vùng xa. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  20. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Khi khu vực nào đó trở thành điểm du lịch, du khách từ mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về hàng hóa tăng lên đáng kể. Điều này kích thích mạnh mẽ các ngành kinh tế có liên quan, đặc biệt là nông nghiệp, công nghiệp chế biến, giao thông vận tải, thông tin liên lạc phát triển cả về số lượng và chất lượng. So sánh với ngoại thương, ngành du lịch cũng có nhiều ưu thế nổi trội. Du lịch là ngành xuất khẩu tại chỗ, tiết kiệm được lao động, chênh lệch giá giữa người mua và người bán không quá cao, kích thích sản xuất và tiêu dùng. Do tiêu thụ tại chỗ nên tiết kiệm được chi phí đóng gói, bảo quản, xuất đi những mặt hàng ít bị hư hỏng mà ít rủi ro. Như vậy chúng ta thấy rằng, du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh tế khu vực. Nhiều nước trên thế giới coi du lịch là một giải pháp hiệu quả, mong muốn vực dậy nền kinh tế phát triển trì trệ của mình. Tuy nhiên, về mặt kinh tế, du lịch có một số ảnh hưởng tiêu cực: đó là tình trạng lạm phất cục bộ hay giá cả hàng hóa tăng cao, nhiều khi vượt quá khả năng chi tiêu của người dân địa phương, nhất là những người mà thu nhập của họ không liên quan đến du lịch Chính trị xã hội Bất cứ một xáo động chính trị, xã hội nào dù lớn hay nhỏ cũng đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động du lịch. Ổn định và an toàn là yếu tố có ý nghĩa rất lớn với du khách và các nhà cung ứng du lịch. Khi có một thông tin bất ổn về chính trị, xã hội xảy ra tại điểm du lịch nào đó thì khó có thể thuyết phục được du khách mua các chương chình du lịch đến đó. Thậm chí sẽ có không ít khách hàng đã mua chương chình đòi hủy bỏ hợp đồng hay thay đổi lịch trình, thời gian Mặt khác, những tác động của du lịch tới an ninh chính trị cũng rất rõ nét. Trước hết, phải khẳng định du lịch là chiếc cầu nối hòa bình giữa các dân tộc trên thế giới. Hoạt động du lịch giúp cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn, hiểu biết hơn về giá trị văn hóa của đất nước bạn bè. Du lịch thúc đẩy hòa bình, hợp tác hữu nghị giữa các quốc gia trên thế giới. Tất nhiên không phải không có những ảnh hưởng tiêu cực của du lịch về mặt an ninh trật tự và an toàn xã hội. Du lịch là con đường mà các thế lực phản động thường hay dùng để tuyên truyền, kích động. Đội lốt du khách, có những kẻ đã xâm nhập sâu vào nước để móc nối, xây dựng cơ sở, thực hiện âm mưu gây rối và phá hoại. Tiểu kết chƣơng I: Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  21. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Ngày nay hoạt động du lịch đã và đang trở thành một ngành không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế của huyện Tiên Lãng nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Tiên Lãng là một huyện không thực sự giàu có về tài nguyên du lịch nhưng không phải là không có tiềm năng để phát triển. Những di tích lịch sử đã được xếp hạng, hệ thống đình, miếu và các tài nguyên du lịch sinh thái chính là tiềm năng để phát triển du lịch. Tuy nhiên cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ lao động phục vụ du lịch của huyện Tiên Lãng còn yếu kém thể hiện nhiều hạn chế trong hoạt động khai thác nguồn tài nguyên du lịch của địa phương. CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN TIÊN LÃNG 2.1 Khái quát về thực trạng khai thác tiềm năng du lịch tại Tiên Lãng 2.1.1 Lƣợc sử về huyện Tiên Lãng Là một trong 7 huyện ngoại thành của Hải Phòng, huyện Tiên Lãng có diện tích tự nhiên 189 km2 gồm 23 đơn vị hành chính: 1 thị trấn (huyện lỵ) và 22 xã: Đại Thắng, Tiên Cường, Tự Cường, Tiên Tiến, Quyết Tiến, Khởi Nghĩa, Tiên Thanh, Cấp Tiến, Kiến Thiết, Đoàn Lập, Bạch Đằng, Quang Phục, Toàn Thắng, Tiên Minh, Bắc Hưng, Nam Hưng, Đông Hưng, Tây Hưng, Hùng Thắng, Vinh Quang. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  22. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Ngay từ xa xưa người dân Tiên Lãng đã có kinh nghiệm bền bỉ chống chọi với thiên nhiên, thau chua rửa mặn, khai hoang lấn biển để cấy lúa, trồng hoa màu. Cùng với nghề nông các nghề thủ công cũng hình thành như đan lát, dệt chiếu, làm mộc, bắt cá Tự hào về truyền thống lao động cần cù, nhân dân Tiên Lãng cũng rất tự hào về truyền thống văn hóa của địa phương mình. Tiêu biểu là những ngôi đền, chùa kiến trúc cổ kính mang đậm tính dân gian, có giá trị văn hóa và nghệ thuật cao như: đình Cựu Đôi, chùa Phú Kê, đền Hà Đới, đền Đá Canh Sơn, đền Gắm, đình Đốc Hậu. Mỗi dân tộc đều có sắc thái riêng chứng minh tài hoa của các nghệ nhân vùng ven biển. nếu chùa Phú Kê, đình Cựu Đôi, đền Gắm được tu sửa tôn tạo để bảo tồn công trình thì đền Đá Canh Sơn còn giữ nguyên vẻ sơ khai, huyền bí của kiến trúc nghệ thuật bằng đá lộ thiên, tiêu biểu cho kiến trúc nghệ thuật miền duyên hải phía Bắc. Tiên Lãng còn có di tích quê ngoại danh nhân văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ xã Kiến Thiết, nơi thờ tiến sĩ Nhữ Văn Lan ông ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm và người mẹ Nhữ Thị Thục đã sinh thành Trạng Trình. Tại xã Đại Thắng còn có nhà lưu niệm bác Tôn Đức Thắng – chủ tịch nước. Cùng với việc lập đền chùa miếu để thờ các vị danh tướng có công với sự nghiệp dựng nước, giữ nước của dân tộc. Tiên Lãng còn có nhiều lễ hội mang đậm bản sắc của văn minh sông Hồng như hội bơi thuyền, hội ném pháo đất, lễ hội ngũ linh tư. Trên địa bàn huyện có 14 chợ hàng hóa phong hpus đa dạng phục vụ tại chỗ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng chung của nhân dân. Đặc biệt là hội chợ Giải chỉ có một phiên vào sáng mồng 2 Tết Nguyên Đán hàng năm thu hút đông đảo nhân dân đến mua bán cầu may. Toàn bộ các hệ thống đường trục huyện, đường liên xã đều được trải nhựa. Trong các xóm đường đi đều được bê tông hóa, 100% số hộ trong huyện có điện thắp sáng, phương tiện nghe nhìn nước sạch vệ sinh môi trường ngày càng được cải thiện. từ khi quốc lộ 10 được nâng cấp cùng với việc xây dựng xong các cầu Tiên Cựu, Quý Cao, sông Mới nên việc giao lưu đi lại và sản xuất của nhân dân trong huyện đã có nhiều thuận lợi hòa nhập với tuyến “du khảo đồng quê” của thành phố tạo nên tour du lịch hấp dẫn. Gắn liền với cuộc sống hàng ngày của người dân Tiên Lãng còn giữ nguyên vẹn một số món ăn đặc sản của địa phương như: giò, chả chợ Đôi, nhục khuyển nổi tiếng đậm đà có thương hiệu từ lâu. Hàng năm vào ngày mồng 9 mồng 10 âm lịch là mùa rươi một đặc sản thiên nhiên giàu chất đạm, món ăn ngon bổ đã thành danh tiếng không phải đại phương Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  23. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng nào cũng có. Cây thuốc lào hay còn gọi là “Tương Tư Thảo” từng được trồng ở nhiều địa phương, vào nước ta từ năm 1660 đời Vua Lê Thánh Tông được dùng để tiến Vua được trồng ở xã Kiến Thiết, Cấp Tiến ngày nay. Ngày nay trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đát nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nhân dân Tiên Lãng đang đứng trước nhiều vận hội mới. phát huy lợi thế tiềm năng của địa phương với tinh thần cần cù lao động, chân thành mến khách, được thành phố quan tâm đầu tư xây cầu Khuể qua sông Văn Úc và một số khu cụm công nghiệp ven sông. Huyện Tiên Lãng sẽ là nơi thu hút nhiều nguồn lực, vật lực, tài lực để trở thành một địa phương phát triển về kinh tế vững mạnh về an ninh trật tự, an toàn xã hội và một miền đất du lịch hấp dẫn của thành phố Hải Phòng. Điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên của huyện Tiên Lãng có nhiều nét rất đặc thù xung quanh bao bọc bởi hai con sông lớn là sông Thái Bình, sông Văn Úc và biển Đông. Phần lớn đất đai chua mặn địa hình không đều có thuận lợi về phát triển giao thông đường thủy nhưng lại khó khăn trong việc phát triển giao thông đường bộ. Nằm giữa hai con sông lớn nên hàng năm được Tiên Lãng được lượng phù sa bồi đắp vùng bãi triều ven biển, mỗi năm vùng bãi triều tiến ra biển từ 60 – 80 m. Đây là lợi thế mà ít huyện có được. Vị trí địa lý Tiên Lãng là huyện đồng bằng ven biển nằm ở phía Đông Nam châu thổ sông Hồng, cách trung tâm thành phố Hải Phòng 21 km về phía Nam. Chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Sông Văn Úc làm ranh giới tự nhiên phía Bắc của Tiên Lãng, sông Thái Bình làm ranh giới tự nhiên phía Nam. Huyện Tiên Lãng có ranh giới tự nhiên với các địa phương khác như sau: - Phía Đông Bắc giáp huyện Tứ Kỳ và Thanh Hà (Hải Dương) - Phía Bắc giáp An Lão và Kiến Thụy - Phía Tây là sông Mía chảy từ Quý Cao đến Xuân Cát (xã Đại Thắng) dài 7 km. Sông Mía ngăn cách Tiên Lãng với Tứ Kỳ (Hải Dương). - Phía Nam giáp biển Đông thuộc vịnh Bắc Bộ Trên địa bàn huyện ngoài đường thủy còn có đường bộ gồm quốc lộ 10 qua huyện 3.5 km, đường trục huyện 211 – 212 dài 36 km, đương liên xã. Địa hình Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  24. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Tiên Lãng nằm trong tam giác châu thổ của đồng bằng Bắc Bộ thuộc loại hình thấp ven biển. Đất Tiên Lãng chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, đồng thời cũng tạo nên độ nghiêng theo hướng ấy. Độ cao trung bình 0.4m – 0.7m khu vực cao thuộc đồng bằng, không quá 1.2m, có nhiều vùng đất thấp hơn mực nước biển như đầm Bạch Đằng, Nhân Vực (xã Đoàn Lập), Phương Lai (Cấp Tiến), đầm Trì (Chấn Hưng), từ 0.28 – 0.32 m cao nhất khoảng 1.56 m (xã Quang Phục, Quyết Thắng, Toàn Thắng). có nhiều ô trũng do không được khai phá sớm, một số bãi triều rộng, có một khu rừng ngập mặn với diện tích 150 ha gồm chủ yếu các cây bần, chua, trang, sú, cói Do quá trình bồi đắp không liên tục của phù sa và sự biến động của thủy triều nên tạo thành những vùng đất thấp, cao không đều và xen kẽ nhau. Khí hậu Mang đặc tính chung của khí hậu đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, biển điều hòa. Mưa nhiều nên tạo thành hai mùa rõ rệt, mùa đông khô hanh, mùa hè nóng ẩm nhiều bão. Chênh lệch hai mùa khoảng từ 14° - 20°C. hướng gió thịnh hành là Đông Nam – Tây Bắc, nhiệt độ trung bình cả năm 23 - 24°C nhiệt độ nhiệt độ cao nhất 36° - 38°, thấp nhất 4° – 5° độ ẩm trung bình 85% - 90%, lượng mưa trung bình cả năm 1719mm. Chế độ gió thay đổi theo mùa, mùa đông thịnh hành gió đông bắc, mùa hè thịnh hành gió Nam và Đông Nam. Cuối mùa đông đến đầu mùa xuân thường có sương mù. Là một huyện giáp biển nên hàng năm Tiên Lãng phải đối mặt với 1 – 2 cơn bão trực tiếp, 6 – 7 cơn bão gián tiếp đổ bộ vào biển Đông từ tháng 7 đến tháng 9. nhìn chung thời tiết và khí hậu ở đây khá thuận lợi cho một số cây trồng và vật nuôi. Sông ngòi Mạng lưới sông ngòi huyện Tiên Lãng khá dày, các sông chính gồm có: sông Văn Úc, sông Mía, sông Mới. hướng chảy chủ yếu là Tây Bắc – Đông Nam độ uốn khúc lớn. nước các sông đều chịu ảnh hưởng của hai nguồn chủ yếu, thủy triều từ biển vào và nước từ thượng nguồn chảy về. do ảnh hưởng của thượng nguồn nên hàng năm Tiên Lãng nhận được một lượng phù sa khá phong phú làm màu mỡ thêm cho đất trồng trọt, đồng thời bồi lắng nhiều ở các vùng của sông. Sông Mới dài 3km nối sông Thái Bình và sông Văn Úc, ngoài ra huyện còn có một số đầm như đầm Lộc Trù, đầm Vòng, đầm Nhân Vực, đầm Thái Lai Đặc biệt huyện còn có mỏ nước khoáng nóng với nhiệt độ 56°C. Từ mũi khoan sâu 850m rất tốt cho việc chữa bệnh và nghỉ dưỡng. Biển Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  25. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Vinh Quang với bãi tắm chạy dài và bạt ngàn rừng thông. Nơi đây còn có làng chài Đông Ngư, nuôi nhiều loại hải sản như: tôm sú, cua bể, cá vược, cá song đây là điều kiện thuận lợi để huyện có thể phát triển du lịch sông nước. Dân cƣ và lao động Dân số của huyện là 156.300 người (2006) với 35.365 hộ. tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 0.9 % (2000) – 0.6% (2006). Có khoảng 75% số người đang trong độ tuổi lao động nhưng hiện nay lao động chủ yếu của huyện vẫn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và thủ công nghiệp, các ngành công nghiệp và dịch vụ còn hạn chế. Trình độ dân trí của người dân trong huyện đang ngày càng được nâng cao. Bảng dân số của huyện Tiên Lãng qua một số năm Năm Dân số(nghìn người) Tỷ lệ gia tăng tự nhiên % 2000 140.000 0.9 % 2004 149.200 0.8 % 2006 156.300 0.6 % Văn hóa xã hội Cùng với sự phát triển kinh tế, công tác xã hội hóa giáo dục huyện Tiên Lãng được đẩy mạnh,các tổ chức và nhân dân nhiệt tình hưởng ứng,đội ngũ giáo viên đảm bảo đủ về số lượng và chất lượng từng bước được nâng lên. Toàn huyện có 3 trường trung học phổ thông,1 trường trung học phổ thong dân lập và một trung tâm giáo dục thường xuyên.Có 19 trường tiểu học, 1 trường trung học cơ sở và 2 trường mầm non được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục toàn diện có chuyển biến tích cực, tỷ lệ học sinh đạt loại giỏi, khá về văn hóa, và số học sinh thi đỗ vào các trường đại học cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp tăng. Bên cạnh đó ngành giáo dục cũng chủ trương công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, số học sinh giỏi đoạt giải tại các kỳ thi học sinh giỏi cấp thành phố tăng, nhiều năm liền có số học sinh đoạt giải cấp quốc gia. Công tá phổ cập trung học và nghề được triển khai tích cực đã có 20 xã mở lớp phổ cập cho gàn 1000 học sinh. Trung tâm dạy nghề đã chú trọng đào tạo nghề phục vụ các trương trình phát triển kinh tế xã hôi của huyện. Về y tế. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được các cấp chính quyền quan tâm vì vậy số lần khám chữa bệnh, công suất giường bệnh đều đoạt kết quả đề ra. Chất lượng từng bước được nâng lên cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đội ngũ cán bộ y tế thôn xóm, khu dân cư được củng cố. Huyện có 1 trung tâm y tế huyện và các trạm y Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  26. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng té xã của các xã đều có các bác sỹ đảm bảo phục vụ ngày càng tốt hơn việc khám chữa bệnh tại chỗ cho nhân dân. Tình hình sản xuất nông nghiệp Trọng ứng dụng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất, tỷ trọng ngành chăn nuôi và thủy sản tăng lên. Giá trị sản lượng nghành nông lâm ngư nghiệp tăng bình quân 5,5%/năm. Để có năng xuất cao, huyện đã đưa giống cây trồng mới có giá trị kinh tế cao vào sản xuất như: cà chua, dưa chuột xuất khẩu, dưa hấu, khoai tây Hà Lan. Nhằm tránh thảm họa thiên tai, hàng năm huyện chỉ đạo trồng và bảo vệ rừng phòng hộ ven biển, nâng diện tích rừng từ 879ha năm 2000 lên 1300ha năm 2005, năm 2007 tăng lên 1317ha. Hiện nay chăn nuôi tập thể theo hình thức trang trại có chiều hướng tăng về số lượng và mở rộng về quy mô. Bên cạnh đó, chăn nuôi gia đình cũng được đẩy mạnh, có trên 2500 hộ chăn nuôi. Huyện còn tạo điều kiện để một số doanh nghiệp đầu tư nuôi trồng thủy sản theo phương pháp công nghiệp với quy mô lớn. Công tác quản lý, sử dụng tài nguyên đất ngày một tốt hơn, đã tích cực triển khai đo đạc lập bản đồ địa chính và đánh giá phân hạng đất, xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Làm tốt công tác giao đất, thu hồi đất cũng như việc đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhìn chung, giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân hàng năm 9,1%. Một số cơ sở sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tập trung vào các lĩnh vực: sản xuất đồ mộc dân dụng, chế biến lương thực thực phẩm, may mặc đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp của thành phố triển khai dự án sản xuất giày da tại huyện. Hoạt động dịch vụ tăng trưởng khá, đạt bình quân gần 115/năm đang chuyển mạnh theo cơ chế thị trường tập trung trên một số lĩnh vực chủ yếu như: thương mại, vận tải, ngân hàng, công nghệ, bưu chính biễn thông, môi trường và một số loại hình dịch vụ khác. Các công trình văn hóa – xã hội tiếp tục được đầu tư xây dựng như: nhà thi đấu đa năng, tượng đâì anh hung liệt sỹ Phạm Ngọc Đa, khu vui chơi giải trí và nhà văn hóa thiếu nhi, sân vận động trung tâm hầu hết các xã có từ hai đến ba trường cao tầng, hệ thống các công trình công cộng ở các xã thị trấn và hầu hết các thôn, khu dân cư cũng được xây mới, cải tạo, phục vụ cho các hoạt động chung của cộng đồng và góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn. BẢNG 3: Sản xuất nông nghiệp (2002 – 2007) Lĩnh vực Đơn vị Năm Năm Năm Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  27. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng tính 2002 2005 2007 Trồng trọt Diện tích lúa Nghìn ha 17 17 17 Năng suất lúa Tạ/ha 101 108 210 Sản lượng Nghìn tấn 86 90 95 Lương thực bình Kg/người 577 600 615 quân Diện tích rau màu ha 1.993 2.225 2.228 Rừng,rừng ha 879 1.300 1.317 phòng hộ 900 896 906 Cây công nghiệp- ha thuốc lào Chăn nuôi thủy sản Đàn lợn Nghìn con 55 63 66 Gia cầm Nghìn con 710 752 785 Sản lượng thủy sản Nghìn tấn 3.6 4.6 4.9 Nguồn: UBND huyện Tiên Lãng 2.1.2 Vài nét về hoạt động du lịch Tiên Lãng Hiện nay huyện Tiên Lãng có 188 di tích văn hóa, mật độ bình quân 0.6 di tích/1 km2 trong đó có 4 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 15 di tích xếp hạng cấp thành phố (Nguồn: Sở văn hóa – thông tin Hải Phòng). Hệ thống các di tích lịch sử văn hóa đã và đang đƣợc khai thác vào phục vụ du lịch: 1. Di tích lịch sử Đình Cựu Đôi Di tích có nguồn gốc trước đây là một ngôi đền nhỏ do nhân dân làng Cựu Đôi xây dựng để thờ tướng quân Đào Quang làm Thành Hoàng, do có công lao chiêu mộ dân sản xuất và tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 sau Công Nguyên. Đào Quang quê gốc ở trang Vĩnh Thế, phủ Kinh Môn, Hải Dương, dạy học ở làng Cựu Đôi. Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, ông cùng ba người làng Cựu Đôi là: Hoàng Công Đường, Trần Công Cát, Nguyễn Công Châu mộ trai tráng tham gia đánh giặc, giành lại chủ quyền cho đất nước. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  28. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Sau khi khởi nghĩa giành thắng lợi Đào Quang được Trưng Vương phong chức: “Trung phẩm đạo tướng”. Ba ông Châu, Cát, Đường được phong làm tướng quân. Đoàn quân do ông Đào quang dẫn đầu sau khi được phong chức đã tạ lễ Hai Bà Trưng rồi trở lại trang Cựu Đôi chăm lo việc nông trang, khuyến bảo việc học hành, cố kết nhân tâm, được nhân dân ai ai cũng yêu mến cảm phục. Đào Quang cùng các ông Hoàng Công Đường, Trần Công Cát, Nguyễn Công Châu đều qua đời tại trang Cựu Đôi vào ngày 15 tháng 11 âm lịch. Để ghi nhớ công lao của bậc tiền nhân có công đánh giặc giúp nước và mở mang làng xóm, nhân dân trang Cựu Đôi từ ngàn xưa đã lập đền rồi làm đình thờ Đào Quang và ba ông ngay vị trí trung tâm của trang ấp, nay là thị trấn Tiên Lãng. Đình Cựu Đôi được dựng trên một khu đất cao ráo, mặt chính hướng Nam. Tiếp giáp với đình về phía Tây và phía Bắc là trụ sở UBND huyện, phía Đông là phòng bưu điện. Con đường được trải nhựa chạy song song với cửa đình nhưng không làm thay đổi khung cảnh thiên nhiên trong tổng thể ngôi đình xưa. Đó là những cây xanh, bồn hoa, sân cỏ, gốc cây cổ thụ, hai giếng đất cùng một đoạn đường gạch xây lát nghiêng vẫn còn sót lại cho đến nay. Ngôi đình được dân trang ấp tu sửa vào năm 1907. Đình dựng kiểu chữ “Đinh” gồm 5 gian tiền đường (4 vì chính, 2 trái vẩy) và 3 gian hậu cung. Hậu quả của chiến tranh chống thực dân Pháp (1946 – 1954) đã bóc đi toàn bộ ván sân đình mà các dấu vết các lỗ mộng đục hình chữ nhật còn hằn rõ trên các cây cột cái và cột quân của đình Cưu Đôi hiện nay. Về kiến trúc: đình làm theo kiểu “Tàu đao lá mái” giống như tuyệt đại các ngôi đình làng khới dựng trong ba thế kỉ XVI, XVII, XVIII. Do cách rải các đòn tay kiểu “Thượng tứ hạ ngũ” nên khoảng cách từ rìa mái xuống mặt nền khá cao (2.50m). Bộ khung đình làm kiểu bốn hàng cột trong mỗi vì: những cột, xà, vì. Kèo từ gian tiền đình tới gian hậu đình đều được lắp khớp với nhau bởi những mộng tạo thành thế giằng co rất chắc chắn. Nhà tiền đình gồm 5 gian. 4 vì chính. Hai vì áp tường (trước đây bưng gỗ) được nối với vì chính bằng hệ thống cột góc và kèo ngồi tòa về các góc của gian tiền đường. Trong tổng số 42 cột gỗ tốt đường kính từ 0.38m đến 0.35m, 5 gian tiền đình chiếm 26 cột, 3 gian hậu cung chiếm 16 cột. Khoảng nối giữa 5 gian tiền đình và 3 gian hậu cung tính từ hàng cột tới vì xà thứ nhất của gian hậu là 2,4m tạo thành hai bờ xối (nối tiền đình với hậu đình). Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  29. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Cấu tạo gian hậu với 3 gian 4 vì, khoảng cách từ chân hàng cột tới vách tường bằng 0.50m, tạo thành lối đi ở hai bên cung. Khoảng rộng ở chính giữa các hàng cột và vì, xà để hương án và các đồ thờ tự. Về trang trí: Quan sát từ ngoài ta thấy mái đình được trang trí các con giống, đường viền hoa thị, hoa chanh. Chính giữa nóc đình, đôi rồng chầu mặt nguyệt đã bị hỏng nát. Đầu đao trang trí kiểu long chầu phượng mớn lá tầu bằng diềm bờ mái chạm thủng kiểu lá đề. Năm gian tiền đình là do hai kíp thợ chính mang phong cách trang trí khác nhau, không đăng đối, bên cạnh những con vật thuộc bộ tứ linh lại thấy đối diện có cả những con vật đời thường ở làng quê như: cò lội đầm sen, cua, cá, chủ yếu miêu tả trên 2 vì chính, khiến trang trí trên kiến trúc đình Cựu Đôi rất phong phú, hài hòa. Trên xà nách gian tiền đình khắc hai chữ La Hán: “Duy tân nguyên niên đông”. Trong khi đấu thượng lương và cốn thượng vì nóc được thể hiện kiểu đấu chồng hoa sen hình vuông, ba hàng chồng thì đấu dư được cấu tạo hình đôi rồng ngậm ngọc, hàng râu cá trê xoắn, mắt lồi, vẩy cá chép nổi chầu ngay dưới xà nách khắc ghi niên đại tu tạo đình. Ngoài ra cũng phải nói đến sự đọc đáo trong các lớp cửa võng, có kích cỡ to nhỏ và nội dung đề tài khác nhau. Từ vị trí gian nọ đến gian kia cuẩ tòa tiền đình đến ba lớp của gian hậu cung, ngay hai lối đi của một bên hậu cung, ở phía trên sát con kẻ dài nhất cũng được trang trí lướp võng chạm thủng. Phần trang trí nội thất thể hiện qua các lớp cửa võng của tòa đại đình và gian hậu cung rát phong phú, đa dạng. Màu sắc chủ yếu bằng sơn ta thiếp vàng, thể hiện tài năng và óc sang tạo của các nghệ nhân dân gian trong nghệ thuật kiến trúc đình làng. Các hiện vật còn lại trong đình như: Hai bia đá hậu thần bi kí, niên hiệu Vĩnh Trị (1667 – 1680) và phong hậu thần bi kí năm Chính Hòa (1680 – 1705), chữ còn đọc rõ tên tuổi, quê quán các thiện nam, tín nữ dân làng và khách thập phương có công đóng góp tự tạo đình, được bảo quản trang trọng tại gian bên trái tiền đình. Ở góc trái, ngay sau chiếc cột hoành treo quả chuông đòng cao 2.2m, có niên đại Cảnh Thị thứ 7 (1799), nguyên của ngôi chùa Sùng Ân khu vực Cựu Đôi, nay bảo quản tại đình. Tượng ông Đào Quang ngồi trong 1 khám gỗ, cao 2.5m, khám được sơn son thiếp vàng rực rỡ, phía sau khám vẽ lưỡng long chầu nguyệt. Vị tượng cao 0.90m, số đo vòng đùi 0.69m, mặc võ phục với đầy đủ áo, mũ, cân đai, bối tử tiền, hàng ria mép và chòm râu đen. Kệ đọc trúc bằng gỗ phủ sơn son, kích thước 40 x 49 cm. mặt kệ được trang trí rồn mây, đặt trên lưng đoi sư tử quỳ. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  30. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Một đôi đòn rồng: phế tích còn lại của cỗ kiệu bát cống, trước đây dân làng vẫn dùng đẻ rước Thành Hoàng trong lễ hội. Một hương án thờ kiểu chân quỷ dạ cám dùng để bày tỏ các đò lễ tự và lễ vật, kích thước 2,8m x 2.2 m x 0.75m. Ba bức đại tự gỗ: Bức 1: treo trên vị trí chính giữa gian hậu cung đề chữ: “Thượng đẳng phúc thần”. Bức 2: “Thánh cung vạn tuế” chữ đề trong bốn ô chữ nhật cách bức nhau bởi một dải băng khắc nổi, nét sâu, họa tiết trúc hóa long. Bức 3: Treo trên lớp cửa võng gian tiền đình đề chữ: “Long hưng dực vận” Một bộ đỉnh và 2 ống hương bằng đồng. Duy nhất di tích còn lại đôi câu đối kiểu long máng , treo dọc theo hai chiếc cột đá chính giữa gian tiền đình, nội dung ca ngợi công lao vị thành hoàn. “Vị Nhị Trưng chúa tiên cừu Tô tặc tảo thanh hà dĩ Bắc” và “Dữ tam tướng quân cộng sự Cựu Đôi vĩnh diện hải chi đông”. Ngôi đình Cựu Đôi ngày nay cho dù chưa được tu bổ hoàn mỹ, cảnh quan ít nhiều bị thu hẹp nhưng mãi mãi và duy nhất là một công trình kiến trúc giàu giá trị mỹ thuật của khu vực và địa ban Tiên Lãng. Đình Cựu Đôi đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia vao ngày 21/02/1990. Đền Gắm Đền Gắm thuộc địa phận thôn Cẩm Khê, xã Toàn Thắng đền thờ Ngô Lý Tín – một tướng tài và có cồng lớn vào cuối đời nhà Lý. Đây là di tích lịch sử, văn hóa được nhà nước xếp hạng di tích, danh thắng Quốc gia năm 1992. Ngô Lý Tín quê ở trang Vĩnh Đồng, huyện Khoái Châu, trấn Sơn Nam nay thuộc huyện Yên Hưng, cha là Ngô Huy Hiếu, mẹ là Đào Thị Phức. Ông sinh ngày 20 tháng Riêng năm Bính Ngọ, thuở nhỏ theo học chữ Hán một thầy có tiếng ở Kính Chủ, năm 18 tuổi cha mẹ lần lượt qua đời. Sau khi mãn tang ông tìm đén trang Cẩm Khê, huyện Bàng Hà thuộc tỉnh Hải Dương (nay là thôn Cẩm Khê, xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng). Cuối chiều Lý, nhân lúc loạn lạc, nhà vua có chiếu cầu hiền. Ngô Lý Tín xin ứng mộ, đem theo 30 người trang Cẩm Khê làm gia thần và đã lập được nhiều công lớn. Năm Nhâm Dần (1188), triều đình cử Phó thái Ngô Lý Tin phụ chính cho Vua Lý Cao Tông, đứng đầu trăm quan của triều đình. Ông là người có tài thao lược, có uy tín cao và lập công lớn. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  31. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Sử sách ghi chép lại: Ngô Lý Tín mất tháng 3 năm Canh Tuất (1190), sách Đồng Khánh địa dư chí có ghi: ông đem quân đi đánh dẹp giặc biển, thuyền bị sóng dữ làm đắm chết. Còn thần tích đền Gắm cho hay: khi ông được vua ban cho nghỉ dưỡng, Ngô Lý Tìn đam tướng sĩ, gia nhân về Cẩm Khê, giữa đường đi gặp bão to, ông và mọi người đều mất, hôm đó là ngày mồng 9 tháng Âm lịch. Hội làng Cẩm Khê mở trong 7 ngày từ ngày 16 đến 22 tháng Giêng hàng năm. Trước kia hội thưỡng diễn ra ở đình làng, làng tổ chức tế lễ ở đền Gắm, sau đó rước thần vị về làm lễ nhập tịch. Bên cạnh những nghi lễ trang nghiêm, ngày hội còn có nhiều trò vui như: đánh đu, đấu vật, hát chèo, đánh cờ, bắt vịt, bịt mắt bắt dê thu hút đông đảo mọi người tham gia. Đình Đốc Hậu Đình Đốc Hậu thuộc xã Toàn Thắng nằm bên bờ hữu ngạn song Văn Úc. Theo truyền ngôn, thôn Đốc Hậu đầu tiên có tên là Đốc Kính, về sau dân cư đông đúc dần lên mới đổi tên là Đốc Hậu. Đính thờ năm anh em họ Đặng có công giúp vua Lê Đại Hành đánh đuổi quân xâm lược nhà Tống năm 981 và cứu dân làng trong một trận bão lụt lớn, sau đó cả năm an hem đều bị dòng nước cuốn trôi. Thần phả thôn Đốc Hậu cho biết về lịch sử nhân vật được thờ như sau: ở trang Đốc Kính có một gia đình nông dân họ Đặng sinh hạ được năm người con trai. Người con cả là Đặng Xuân Công, tiếp theo là Đặng Công Trung, Đặng Công Thọ, Đặng Công Tuấn, Đặng Công Nghiêm. Tuy nhà nghèo nhưng ông bà Đặng Công Thành và Lý Thị Ngọc đều cố gắng cho năm con ăn học chu đáo. Các con lại chịu khó học, có hiếu với cha mẹ, vẹn toàn với làng xóm. Chẳng bao lâu năm an hem văn chương, võ nghệ đều tinh thông. Đầu năm 981, quân Tống xâm lược nước ta, vua Lê Đại Hành truyền hịch đi khắp nới tìm người tài giúp nước. Năm anh em tạm biệt cha mẹ và dân làng lên đường về kinh, họ được vua Lê Đại Hành thu nạp. Quân Tống chia làm hai đường thủy, bộ kéo vào nước ta, cánh quân bộ do Hầu Nhân Bảo vào Lạng Sơn, cánh quân thủy do Lưu Trứng, Giả Thực tiến vào theo sông Bạch Đằng. Vua Lê Đại Hành cho quân chặn đường thủy, ông đã dùng kế của Ngô Quyền xưa, quân Tống bị đánh tan, không đủ sức đi vào nội địa, trong khi đó cánh quân bộ cũng bị tiêu diệt. Quân Tống bại trận phải rút lui về nước, nhà vua tổ chức khao thưởng quân sĩ. Năm anh em họ Đặng lập công lớn và được phong chức Đại Quân về thăm mẹ và dân làng. Tại quê hương, sau tiệc mừng chiến thắng trời bỗng nổi phong ba, bão táp, mưa lớn, đê bị vỡ. Năm anh em cùng dân làng xông ra cứu đê, Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  32. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng bảo vệ xóm làng nhưng sóng to nước lớn cuốn trôi năm anh em và một số dân làng ra biển ngày 29 tháng 4 Âm lịch. Nhà vua giao cho dân làng Đốc Kính lập miếu thờ 5 anh em họ Đặng, miễn thuế, tạp dịch cho dân làng Đốc Kính trong ba năm. Đến nay, năm miếu thờ các ông vẫn còn dấu tích. Dân làng Đốc Kính láy ngày mùng 3 tháng Giêng Âm lịch hàng năm là ngày chiến thắng quân xâm lược Tống. Ngầy 20 tháng 06 Âm lịch là ngày sinh và ngày 24 tháng 09 Âm lịch là ngày hóa của năm anh em. Do thời gian và sự tàn phá của thiên nhiên, cả năm ngôi miếu đều đổ nát, dân làng đã dựng lại ngôi đình (hiện nay) vào năm Duy Tân thứ 6 (1913), đình Đốc Hậu được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc gia vào năm 1992. Đền Hà Đới Đền Hà Đới nằm giữa thôn Hà Đới xã Tiên Thanh. Đền thờ Trần Quốc Thành, một vị tướng thời nhà Trần đã lập nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông thế kỷ thứ XVIII. Trần Quốc Thành thuộc dòng dõi tôn thất nhà Trần, quê ở xã Vị Hoàng, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Năm 1285, khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta, Trần Quốc Thành được cử về xây dựng kho quân lương ở xã Hà Đới huyện Tiên Minh (nay là thôn Hà Đới, xã Tiên Thanh, huyện Tiên Lãng). Tại đây, trong quá trình luyện tập, ông đã tuyển thêm 20 trai tráng khỏe mạnh của thôn Hà Đới vào quân đội. Tháng 06 năm 1285, quân dân nhà Trần bắt đầu phản công quân Nguyên ở khắp nơi. Trần Quốc Thành tham gia vào cuộc tấn công quân địch ở Hàm Tử, Chương Dương góp phần vào việc giải phóng kinh thành Thăng Long. Dưới sự chỉ huy của Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Thành đã tham gia vào trận đánh lịch sử trên sông Bạch Đằng, phá tan hàng vạn quân xâm lược Nguyên – Mông vào ngày mùng 09 tháng 04 năm 1288. Chiến công của Trần Quốc Thành gắn liền với sự đóng góp của nhân dân Hà Đới. Sau khi ông mất dân lãng đã lập đền thờ ông ở chính địa điểm kho quân lương do ông xây dựng. Trần Quốc Thành còn được thờ ở các thôn Đồng Cống, xã Tiên Thanh, huyện Tiên Lãng và thôn Kim Ngân, xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Bảo. Không chỉ thờ Trần Quốc Thành, đền Hà Đới còn thờ Băng Ngọc Công chúa, theo thần phả bà là vị thần linh trấn trị Ngọc Đới (nay là Hà Đới). trong giấc mơ của Trần Quốc Thành ngay đêm đầu tiên ở đất này, bà hiện lên xưng là con vua Thủy Tề, xin được phù tá tướng quân lập công. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  33. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Hàng năm theo Âm lịch dân làng tổ chức tế lễ vào 12 tháng 3, 20 tháng 11 và 28 tháng 08, những ngày này kiêng chữ “Thành” đọc thành chữ “Thường”. Đền Hà Đới là một công trình kiến trúc mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVIII (Thời Hậu Lê). Đền có bố cục hình chữ Tam, gồm năm gian tiền đường, năm gian đền giữa và ba gian hậu cung. Năm 1948 giặc Pháp đã đốt cháy mất nhà tiền đường và đền giữa nên chỉ còn lại hậu cung. Nhà hậu cung kết cấu kiểu “chồng rường cốn mê”, hầu như mọi trang trí của tòa hậu cung đều tập trung ở hai vì kèo trung tâm. Đề tài trang trí vẫn là hình rồng, thú bốn chân, có khi cả ba con uốn khúc trong mây. Hình thức thể hiện mang phong cách thời Hậu Lê, có thể coi bức chạm trên ván lá gió cửa ngách có hai hình thú đua tài là bức chạm đặc sắc có tính tạo hình độc đáo. Bên cạnh phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê, còn có phong cách nghệ thuật thời Nguyễn với đề tài tứ linh, trúc hóa long, hoa lá hóa phượng và cả những con chim, con chuột được thể hiện bằng cách chạm nổi làm tăng thêm nét đẹp của ngôi đền. Đáng chú ý nhất là những hiện vật có giá trị như: - Hai pho tượng thờ Trần Quốc Thành (kích thước to bằng người thật) và Băng Ngọc Công chúa. - Hai pho tượng Phỗng ở tư thế quỳ hầu danh tướng Trần Quốc Thành với nét mặt ngộ nghĩnh - Khám thờ và nhiều hiện vật quý khác. Tất cả đều được sơn son thiếp vàng rực rỡ. Đền Hà Đới là một công trình kiến trúc nghệ thuật, là di tích lịch sử, văn hóa được nhà nước xếp hạng năm 1992. Đình Ngọc Động Đình Ngọc Động thuộc địa bàn xã Tiên Thanh là nơi thờ tự danh nhân Điện Tiền Đô chỉ huy sứ Thượng tướng quân Trần Quốc Thành – người có công cùng vua Trần đánh tan 20 vạn quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta lần thứ hai (1285). Địa danh Ngọc Động chính là bản doanh và quân doanh của tướng quân Trần Quốc Thành, cách đây hơn 700 năm. Cũng từ bản doanh này tướng quân đã chỉ huy xuất quân vào Châu Nghệ An diệt giặc Nguyên – Mông. Sau những tháng ngày cùng vua Trần và quân dân cả nước đánh tan giặc Nguyên – Mông đất nước trở lại thanh bình tướng quân được vua Trần thưởng công phong chức. Thượng tướng quân khi thác hóa cũng gửi mệnh lại địa danh Ngọc Động này. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  34. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Sau khi nghe biểu tấu tường trình ký sự vua Trần Nhân Tông không những tiếc thương và sắc phong mà còn ban lệnh truyền ngay cho nhân dân Ngọc Động lập đền thờ Thượng tướng quân. Thời Nguyễn dưới 12 triều vua (1684 – 1924) từ vua Chính Hòa đến vua Khải Định đã phong tặng 17 đạo sắc (nay còn 15) ca ngợi công tích, tài năng và đức độ Thượng tướng quân Trần Quốc Thành. Triều vua nào cũng giao cho Ngọc Động phụng tự danh nhân. Những di vật còn lại trong đình như: - Thần phả chữ Hán thời Vua Lê Phụng Tả (1472) do phòng văn hóa – thông tin huyện lưu giữ. - 15 đạo sắc phong chính bản và 17 đạo sắc sao vẫn còn lưu giữ tạo đình Ngọc Động - 3 bức đại tự và 4 đôi câu đối còn lại ca ngợi công tích và địa danh thờ Thượng tướng quân như: “Nhất trận hùng uy ô mã kệ Ức niên miếu vũ Ngọc Long triều Trương Dương thắng trận thiên vô mã Ngọc Động trung linh địa hữu long.” Theo lưu truyền ngày xưa hàng năm đến ngày Đản sinh 15 – 03, Đản hóa 20 – 11 các đền thờ danh nhân Trần Quốc Thành như: Đền Hà Đới (xã Tiên Thanh), đền Kim Ngân (xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Bảo) dan làng thường đến đình Ngọc Động rước Duệ Hiệu về mở hội tại đình làng. Đặc điểm di tích đặc thù này cũng chứng minh rằng sự xuất hện và tồn tại của di tích danh nhân Trần Quốc Thành ở địa danh Ngọc Động là chân thực hợp lẽ đã được hương ước quan lại vua chúa thời phong kiến và nhân dân huyện tôn vinh tín ngưỡng mà Ngọc Động là nơi sở tại. Miếu chùa Trung Lăng Chùa có tên chữ là Quang Khánh tự tên thường dùng là chùa Trung Lăng. Chùa tọa lạc phía Tây Bắc thôn Trung Lăng xã Minh Đức huyện Tiên Lãng, nay gọi là khu bốn huyện Tiên Lãng. Chùa có cách đây trên 300 năm từ thời hậu Lê, hiện còn một số bia nhưng do thời gian biến đổi, do chiến tranh nên số bia này không còn chữ. Theo lịch sử để lại ngôi chùa xưa nằm bên cạnh khu lăng miếu, đó là một khu rừng nguyên sinh rộng lớn um tùm có nhiều cây cổ thụ có giá trị như lim, sến, táu và có nhiều loại động vật quý hiếm như: báo, trăn, gấu do điều kiện tự nhiên thay đổi, do sự biến động của lịch sử xã hội, do nhu cầu của cuộc sống con người khu rừng dó đã dần dần mất đi. Thực dân Pháp xâm lược chúng cho xây bên cạnh ngôi chùa một sân quần ban lớn. Trước cách mạng tháng 08 (1945), chùa còn là nơi thành lập và hoạt động của tự vệ Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  35. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng quân. Sân chùa đêm đêm là nơi tập luyện của quân tự vệ giải phóng chủ lực du cụ Lý Bá Sơn chỉ đạo để bảo vệ cơ quan đầu não của huyện Tiên Lãng. Nơi đây tại sân chùa còn diễn ra các sự kiện lịch sử quan trọng là nơi quân cách mạng huyện Tiên Lãng xử bắn tên Hội Dường – một tên phản động khét tiếng. Cuộc xử bắn Hội Dường đã làm nức lòng toàn dân trong huyện và củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, với cách mạng để tiến tới Tổng khởi nghía Cách mạng tháng Tám (1945) thành công. Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp chùa vẫn là nơi tạm đóng quân của bộ đội, là nơi che chở, đùm bọc cán bộ, đội quân kháng chiến địa phương của xã Minh Đức huyện Tiên Lãng. Những năm cuối của cuộc kháng chiến 1949, 1950 thực dân Pháp xác định Tiên Lãng là căn ứ quan trọng của cuộc kháng chiến nên chũng đã xây dựng một hệ thống phòng ngự chắc chắn. đồng thời tiến hành một cuộc càn quét, đốt làng, phá chùa, các làng Đông Cầu, Triều Đông, trong đó 2/3 làng Trung Lăng bị tàn phá nghiêm trọng, chùa các làng cũng bị hủy sạch. Nhân dân đã bí mật cất giấu những pho tượng Phật và những đồ vật bảo quý của chùa. Thực dân Pháp xác định con đường 354 là con đường giao thông huyết mạch vô cùng quan trọng nên chúng đã xây dựng một loạt lô cốt, riêng Trung Lăng có một hệ tjhoongs lô cốt dày đặc. Chùa Trung Lăng cũng nằm trong quy hoạch xây dựng đồn bốt của Pháp. Năm 1950 bên cạnh chùa đã mọc lên một số lô cốt lớn gọi là lô cố Đầu Cầu. Sau hòa bình 1954 các Phật tử cùng nhân dân xây dựng lại chùa. Bấy giờ kình tế còn khó khăn nên chùa xây dựng còn sơ sài, có một gian nhỏ đắp đất luồn gianh. Từ đó đến nay chùa đã ba lần xây dựng lại, lân thứ nhất vào năm 1965 chùa phá đi xây lại gồm một gian hậu cung và ba gian ngoài, lần thứ hai vào năm 1987 chùa xây bổ xung thêm một gian ngoài, lần gần đây là năm 2005 chùa xây lại to đẹp, khang trang bề thế gồm: giân hậu cung và ba gian ngoài, kiến trúc theo kiểu chữ “Đinh” mái lợp ngói mũi, nên lát gạch hoa, sân chùa rộng rãi lát gạch bát đỏ tam quan cao rộng. Chùa có nhà thờ tổ, nhà thờ mẫu, có tăng xá, nhà thờ vọng, có vườn tượng. trong vườn tượng có thờ tượng phật bà Quan Âm, có hòn non bộ, cây cảnh, diện tích của chùa hơn 2 sào bắc bộ. chùa bên cạnh đình, miếu, tạo thành một quần thể đẹp vừa bề thế lại vừa tôn nghiêm. Ngoài mồng một, ngày rằm hàng tháng các tăng ni, phật tử đến chùa lễ phật. Ngoài ra chùa còn hành lễ vào các ngày Âm lịch khác trong năm như: - Ngày mùng 4 tháng giêng là ngàu giỗ Đức Thánh Công. - Ngày 15 tháng giêng là ngày dâng sao giải hạn cầu an cho dân làng. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  36. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng - Ngày mồng 8 tháng 4 là ngày phật Đản. - Ngày 25 tháng 5 là ngày giỗ quan Tuần Chanh. - Ngày 28 tháng 8 là ngày giỗ Đức Thánh Trần. Phật tử và nhân dân nơi đây vẫn giữ một tấm lòng hướng về cõi phật, giải tỏa tâm linh, mong cầu an lành cho mọi gia đình. Miếu và chùa Trung Lăng đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp thành phố năm 2005. Đình Trung Lăng Đình tọa lạc phía Tây Bắc thôn Trung Lăng, xã Minh Đức, còn gọi là khu 4 thị trấn Tiên Lãng. Đây là ngôi đình có kiến trúc cổ kiểu “nội công ngoại quốc”, có cây đa cổ thụ, giếng nước, sân đình. Đình lại gần với chùa, miếu, nhiều cây cối rậm rạp, xum xuê như một khu rừng nguyên sinh, trên một không gian cao, kín, rộng có ao, gò, cây cổ thụ rất hoành tráng và thâm nghiêm. Đình thời hai vị thành hoàng là:Cao Sơn Đại Vương và Quốc Thượng Hầu Trình, các vị đều có công cao chức trọng vì đã có công giúp nước giúp dân tiêu trừ hải tặc dưới thời Trần, Lê và dều hóa thân tại mảnh đất này. Vị Cao Sơn mất ngày 13 – 3 Âm lịch, vị Quốc Thượng Hầu Trình mất ngày 13 – 1 (tức tháng 11 Âm lịch). Sau khi mất các vị rất linh ứng, khi gặp thiên tai, giặc giã, cầu khẩn các ngài và đều được trợ giúp nên được tôn là “Phù vận chi thần”. Dưới chế đọ phong kiến qua các triều đại đã có nhiều sắc phong và giao cho dân làng Trung Lăng đời đời thờ phụng. Về văn hóa: Xưa kia, nơi đây có xây dựng một sân tennis, là nơi cắm trại Đại hội thể dục thể thao của học sinh các trường Hương sư Tổng sư kiêm vị trong toàn huyện. có từ thánh, từ hàng tổng và một sân vận động lớn. năm 1945 có một nhà nuôi dưỡng trẻ mồ côi. Cũng tại đình Trung Lăng nhân dân và đại biểu cử tri đã nghe đại biểu Quốc hội Nguyễn Đình Thi về nói chuyện văn hóa cứu quốc vào tháng 4 năm 1946. đình còn là nơi Tỉnh đội Kiến An huấn luyện, là nơi luyện tập hội thao, thi tài của dân quân tự vệ toàn huyện, là nơi phục kích đánh Nhật, đánh Pháp đổ bộ từ Bến Khuể, từ Vĩnh Bảo tập hợp về. năm 1950 thực dân Pháp đánh chiếm Tiên Lãng, chúng đã phá đình, chùa, xây bốt Trung Lăng thành cứ điểm lớn và kiên cố. Từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, hòa bình lập lại dân làng Trung Lăng cũng khôi phục, sưu tập lại những di sản văn hóa cụ thể như: lưu giữ được bản thần tích vị Cao Sơn Thượng đẳng thần Trần Quốc Công, 3 đạo sắc phong các vị thần được tôn thờ ở đình làng dưới triều vua Tự Đức, Duy Tân, Khải Định, một số pho tượng, một số tấm bia đá thờ ở ngôi miếu cổ. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  37. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Hàng năm đúng ngày 13 – 3 và 13 – 1 Âm lịch dân làng lại tổ chức kỵ nhật Thành Hoàng, còn gọi là ngày giỗ Thánh. Những năm có ý nghĩa lịch sử lớn thì tổ chức mở hội đủ 3 ngày : tiền lễ, chính lễ và hậu lễ, phần hội thì vui vẻ với sinh hoạt thể thao, văn hóa văn nghệ lành mạnh, phần lễ thì có tế rước linh đình. Những năm bình thường thì “đệ niên, đệ lệ „ coi lễ nghi là chính. Miếu Bến Vua Miếu Bến Vua làng Phú Kê, thị trấn Tiên Lãng, có tân chữ Hán là: “Quảng Trạch Linh Từ”. do được kiến lập ở nơi có địa danh là Bến Vua nên được người dân quen gọi là miếu Bến Vua. Theo lưu truyền từ người xưa thì nơi đây đã từng có thuyền ngự của một vị Vua về neo đậu nghỉ ngơi nên sau đó được dân làng đặt tên là: “Bến Vua”. Miếu Bến Vua thờ Đại Càn Thánh Mẫu thần vị là: “Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Thần chiêu linh ứng Tứ vị thánh nương Thượng đẳng phúc thần”. Đại Càn Thánh Mẫu gốc người Trung Quốc nhưng mộ phần an táng taih Việt Nam gồm: - Thái Hậu triều Nam Tống húy là Dương Hương Liên sinh ngày mồng 4 tháng giêng năm Nhâm Dần (1242). - Hai công chúa Triệu Nguyệt Thai và Triệu Nguyệt Đô cùng sinh ngày mồng 10 tháng 4. - Hai nữ tì Hồng Nương sinh ngày 12 tháng 11. Năm 1274 Vua Tống Đô Tông băng hà, Dương Thái Hậu phải thay con buông rèm nhiếp chính coi việc nước chống lại sự xâm lược của quân Nguyên – Mông trong suốt 5 năm. Năm 1279, do liên tiếp thua trận, thế lực suy yếu, triều đình Nam Tống phải rút lui về vùng Nhai Sơn tỉnh Quảng Đông và bị quân Nguyên – Mông bao vây, tiêu diệt tại đay. Thái Hậu, hai công chúa cùng Hồng Nương ôm nhau nhảy xuống biển tuẫn tiết để giữ trọn đạo trung trinh. Thi thể tứ vị thánh nương trôi dạt vào cửa Đại Càn ( Việt Nam ) được nhân dân địa phương vớt lên an tangstaij xã Cồn Hương huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Sau đó lập một ngôi miếu thờ cúng và rất linh nghiệm. ngày bốn thần tuẫn tiết là ngày 16 tháng 8 năm Kỷ Mão (1279). Đại Càn Thánh Mẫu đã từng lập hai chiến công lớn, đó là Hiền Thánh âm phù Vua Trần Anh Tôn (1372) và vua Lê Thánh Tông (1472) dẹp giặc, chiếm thành, giữ yên bờ cõi nên được các vị vua chúa xuất tiền trong kho xây đền miếu nguy nga tại cửa Đại Càn và định lệ “Quốc tế” hàng năm. Nhiều đời vua chúa của các triều đại :Trần, Lê, Tây Sơn, Nguyễn đã xuất trong kho sửa đền và phong nhiều sắc chỉ. Từ Nam ra Bắc trong cả nước đã có gần 2000 cửa đền cùng thờ Đại Càn Thánh Mẫu. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  38. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Tại miếu Bến Vua, Đại Càn Thánh Mẫu đã được 12 đời vua Lê Trung Hưng phong 14 sắc chỉ. Đến triều Nguyễn đã có 6 đời từ vua Minh Mệnh đến Khải Định phong 8 sắc chỉ. Miếu được xây dựng vào cuối thế kỉ XIV(1370 – 1380). Vị trí dựng miếu được một nhà phong thủy nổi tiếng người Trung Quốc tên là Hoàng Cầu từng 4 đời sinh sống tại Việt Nam giúp đỡ tìm kiếm và phát hiện. Người xưa xem nơi đây như “một quý địa, là nơi sơn kỳ thủy tú, đất địa linh nhân kiệt”, có thể “rồng chầu hổ phục”. Khi phát hiện ra nơi dựng miếu ông Hoàng Cầu đã tức cảnh ngâm 4 câu thơ: “Ngân bình ngọc trưởng chu tao khởi Cầm hồ sơ liễn thử đệ khai Dư khí trung thành duy kiểu mạch Linh cư chân khả kiến lâu dài”. Ngôi miếu tuy được xây dựng lại toàn phần nhưng vẫn giữ được nhiều nét kiến trúc cổ :3 tòa tiền đường, bái đường, hậu cung, giữ nguyên hình chữ tam trên diện tích của mặt nền cũ. Tòa hậu cung xây kiểu hai mái, chiều cao của ba tòa đều nâng cao hơn trước và mái ngoài của tòa tiền đường trang trí theo kiểu mái cong. Khuôn viên bên ngoài được mở rộng phía ngoài cùng của sân sát với hồ Lôi Đàm xây kè ba bậc lên xuống bằng đá phiến to, chiều ngang của sân miếu phía trước chia làm ba đoạn, đoạn giữa là cửa lên xuống hồ, hai bên xây hai đoạn tường hoa thấp, ngoài đầu mỗi đoạn là một cột đồng trụ cao. Ngoài bức tường oha, mỗi bên đắp hình tượng một con rồng to chầu vào cửa lên xuống, phía trong tường hoa dựng hai cây tháp cao bảy tầng, trên đỉnh tháp đặt hai ngọn bút lông. Sát và ngang với đầu trái tòa bán đường dựng một cổng tam quan, hai tầng mái cong, mặt quay về hướng Đông thẳng đứng đường trục giữa lang, hướng Mặt Trời mọc, thể hiện ước vọng của dân làng Phú Kê hướng về bình minh, hướng về một tương lai tốt đẹp. Miếu Bến Vua đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố năm 2005. Chùa Sùng Ân Chùa Sùng Ân làng Phú Kê thường được nhân dân trong vùng gọi Nôm là “Chùa Phú Kê” thuộc địa phận khu 1 thị trấn Tiên Lãng, đây là một ngôi chùa cổ được xây dựng rất sớm (trước thế kỷ XI). Hiện nay chùa còn lưu giữ nhiều tấm bia cổ ghi về sự việc tôn tạo, tu sửa chùa của nhiều thời đại khác. Trong đó có tấm bia ghi tên “Sùng Ân tự bi kí” niên đại Diên Thành thứ 10 (1587) là tấm bia cổ nhất ghi việc sãi, vãi xã Bảo Kê (tên làng thời ấy) tạc tượng đá mới và trùng tu các tượng Phật. Trong bia đá ghi tên rất nhiều thí tín người bản xứ cùng hàng Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  39. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng trăn tín thí người các xã trong huyện và ngoài huyện như ở Thụy Anh (Thái Bình), Nam Trực (Nam Định). Công việc tu tạo và xây dựng mở rộng chùa tập trung nhiều nhất vào thời niên hiệu Chính Hòa triều vua Lê Hy Tông (1680 – 1679). Những dấu ấn kiến trúc thời này đã tồn tại tới ngày ngôi chùa bị hủy hoại (1952). Chùa được kiến lập trên một gò đất cao ở trung tâm làng quay mặt về hướng Tây. Theo thuyết phong thủy của người xưa thì thế đất cư trú của dân làng mang hình dáng con rồng, nơi dựng chùa chính là đầu con rồng. Kiến trúc của chùa được phân chia làm hai khu vực gồm khu chính điện và khu nhà tổ. khu chính điện gồm tòa nhà tiền đường, tòa hậu cung, vườn hoa. Tận cùng phía ngoài vườn hoa là gác Tam Quan và hai cây tháp (dấu ấn của hai vị hòa thương có nhiều công đức tu tạo chùa đã viên tịch ở đây), chếch vè bên trái tòa tiền đường có hướng “Mắt rồng” xây kê bằng đá hình bát giáp, đường kính rộng 20m. Đằng sau tòa hậu cung có một cây thị cổ thụ hiện nay tuổi đời khoảng 700 năm. Khu nhà tổ gồm các tòa: nhà Tổ, nhà Khách, nhà Tự, tạo thành hình “gọng bừa” chếch về phía sau nhà tự có một chiếc ao dài gấp khúc, được gọi là “Ao Năm góc”. Trong và ngoài khuôn viên chùa có nhiều cây cổ thụ to, tuổi đời từ 300 - 400 năm dến 1000 năm, tán lá xum xuê, quanh năm xanh tốt. Do đặc điểm địa thế, kiến trúc và cảnh quan nên “Chùa Sùng Ân” đã được nhân dân trong vùng tặng thêm một cái tên dài 12 từ rất gần gũi và dễ nhớ: “Chùa chín nóc, ao năm góc, đa ba cây, đá một hòn”. Tuy là nơi trung tâm sinh hoạt tâm linh của dân làng nhưng chùa Sùng Ân cũng có những đóng góp nhất định. Thời Trần chống quân Nguyên – Mông chùa được chọn làm nơi dựng kho quân lương của đạo thủy quân do tướng Trần Quốc Thành chỉ huy. Thời kháng Nhật (1945) gac chuông chùa (Tam Quan) là nơi họp hội nghị thành lập hội “thanh niên cứu quốc” của hai làng Phú Kê và Cựu Đôi, tổ chức cách mạng chống Nhật đầu tiên của tổng Phú Kê nay là thị trấn Tiên Lãng. Cuối năm 1946, khi Hải Phòng kháng chiến công an liên tỉnh Hải Kiến đã đặt cơ quan ở chùa trong một thời gian dài. Năm 1948 chùa đã đem quả chuông đồng lớn đúc từ thời Mạc ủng hộ ngành quân giới Bộ Quốc Phòng làm nguyên liệu sản xuất vũ khí đánh giặc. năm 1950 giặc Pháp chiếm chùa đóng đồn bốt. Năm 1952 hầu như ngôi chùa bị hủy hoại do chiến tranh. Sau ngày chiến thắng 1954 tuy chùa có được tôn tạo nhưng còn đơn sơ và hạn hẹp, mãi đến những năm 1992 – 1997 chùa Sùng Ân mới được tôn tạo như hiện nay, để trở lại với hình ảnh của “Chùa chín nóc” công cuộc kiến thiết tôn tạo vẫn còn tiếp tục. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  40. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Chùa Bảo Khánh Chùa Bảo Khánh còn gọi là chùa Nam Tử thuộc làng An Tử Hạ, tổng Hán Nam, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Nay thuộc thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng. Chùa được khởi công xây dựng nhờ công của tiến sĩ thượng thư Nhữ Văn Lan cùng với tiền công đức của dân làng An Tử và làng Hán Nam. Chùa tọa lạc trong một khuôn viên rộng 4200m, trên một không gian thoáng đãng, cao ráo. Phía Bắc ngôi chùa tiếp giáp với cánh đồng thôn Phú Xuân, xã Cấp Tiến, ba mặt còn lại tiếp giáp với cánh đồng làng trù phú – nơi nổi tiếng với thuốc lào An Tử Hạ tiến vua. Theo gia phả của họ Nguyễn làng Nam Tử, chi út hậu duệ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì Văn Đạt tức Nguyễn Bỉnh Khiêm khi còn nhỏ đã từng nhập môn Nam Thiên Thánh Tổ, được sự giáo huấn của các thiền sư, hòa thượng và sự nuôi dưỡng chăm sóc dạy dỗ của ông ngoại Nhữ Văn Lan và thâm mẫu Nhữ Thị Thục đã góp phần quan trọng tạo nên nhân cách trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm – danh nhân văn hóa Việt Nam. Trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo với bao biến cố thăng trầm của lịch sử ngôi chùa vẫn giữ được những nét rêu phong cổ kính biểu hiện sức sống trường tòn cùng với thời gian. Ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, năm 1946 hưởng ứng lời kêu gọi của chính phủ nhà chùa đã ủng hộ kháng chiến một quả chuông đồng nặng 60 kg để đúc đạn. Vào những năm 1950 – 1952 ngôi chùa còn là cơ sở kháng chiến, nuôi giấu bảo vệ cán bộ bộ đội du kích, thương binh bằng chính sự che chở đùm bọc của nhà chùa. Nhà sư Trịnh Công Uyển – nguyên chủ tịch hội tăng gia yêu nước của huyện Tiên Lãng chủ trì chùa Nam Tử, người đã từng canh gác, đậy hầm bí mật bảo vệ cán bộ, du kích hoạt động trong những năm 1930 – 1931. Ngày 17 tháng 10 năm 1951 nhà sư bị sa vào tay giặc, dù bị tra tấn cực hình nhưng nhà sư vẫn giữ trọn khí tiết với cách mạng và đã anh dũng hy sinh được nhà nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ chống Pháp năm 2004. Thiếu tướng Mai Năng – anh hùng quân đội, hiện là chủ tịch hội cựu chiến binh thành phố Hải Phòng, nguyên là cán bộ trinh sát ban tham nưu tỉnh đội Kiến An, người đã từng được nhà chùa mà trực tiếp là nhà sư Trịnh Công Uyển nuôi dương, che chở và đùm bọc. Những năm đầu thế kỷ XX ông Phạm Xưởng, người làng Nam Tử được nhà sư trụ trì trong chùa là cụ Trần Tự Khiên dạy Hán tự. Đến năm 1950 ông tham gia quân đội và trở thành thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam. Chùa Nam Tử còn là mái trường thân yêu của học sinh lớp 4 đầu tiên của huyện Tiên Langxnawm học 1953 – 1954. Từ lớp học này nhiều Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  41. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng người đã trở thành cán bộ trung, cao cấp của Nhà nước và quân đội nhân dann Việt Nam. Nhằm bảo tồn những giá trị văn hóa cổ truyền, đồng thời tôn vinh, ghi nhớ những thành tích tham gia kháng chiến chống Pháp của chùa Nam Tử, với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã công nhận chùa Nam Tử là di tích kháng chiến theo quyết định số 1900 ngày 24/6/2006. Chùa Dƣơng Áo . Chùa Dương Áo thuộc địa phận xã Hùng Thắng. Nơi đây gắn với quá trình hoạt động cách mạng của liệt sĩ hòa thượng Thích Thanh Lãng, là địa điểm nuôi dưỡng, che dấu bộ đội, là căn cứ, cơ sở kháng chiến của xã Hùng Thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chùa có niên đại khởi dựng vào thế kỉ thứ XVII, còn có tên chữ là chùa Bạch Đa. Đình và miếu Dương Áo thờ 4 vị Thành Hoàng có công với dân làng: - Mộc Thần Thiên Uy Đại Vương tên húy là Mộc tương truyền khi dân mới đến lập ấp cầu đảo vị thần này rất linh thiêng. - Vua Hới Cống Đầm Đại Vương tên húy là Hới, có công dạy dân đắp đê khai phá đất đai thành ruộng cày cấy. - Thiên Quan Cây Gia Đại Vương tên húy là Gia có công dạy học cho dân - Hà Bạch Thượng Đẳng Tôn Thần, tên húy là Hà, có công cứu dân khỏi nạn chết đắm. Trừ vị Mộc Thần Thiên Uy được thờ bằng ngai ở đình, các vị còn lại được thờ bằng tượng ở miếu. Trước năm 1938 xã Dương Áo còn giữ được một số sắc phong thuộc các đời Duy Tân năm thứ 3(1909), Khải Định năm thứ 9 cho vị thứ nhất, sắc triều Quang Trung năm thứ 5 (1792), Khải Định 2 (1917) cho vị vua Hới, sắc Cảnh Hưng 44 (1883) , Thành Thái, Khải Định 9 (1924) cho vị Thiên Quan Cây Gia, sắc phong Đồng Khánh 2 (1887), Khải Định 9 (1924) cho vị Thiên Quan Cây Gia, sắc phong Đồng khánh 2 (1887), Khải Định 9 (1924) cho vị Hà Bạch. Ngày tế lễ hàng năm của dân làng 10/1, 24 và 15 tháng Âm lịch, 25/12 là ngày lễ tế chung cho cả 4 vị Thành hoàng, gọi là tế tứ quý. Chùa Dương Áo tọa lạc trên nền xưa móng cũ của ngôi chùa, được khởi dựng từ năm Chính Hòa 20 (1699). Theo tư liệu điền dã thu thập tại địa phương, 1952 thực dân Pháp đã dùng thuốc nổ giật đổ chùa và trong một trận càn ác liệt chùa đã bị tiêu hủy, hư hại nhiều công trình như: thượng điện, nhà tổ, nhà bia, duy nhất còn lại kiến trúc cổng tam quan Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  42. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng (cổng vòm 2 mái), niên hiệu tu tạo 1944 nay vẫn còn tồn tại trước khu vực ngoại vi cổng chùa. Hệ thống kiến trúc trong chùa gồm có : Tòa tam bảo, bố cục mặt bằng kiểu chữ Đinh, 5 gian tiền đường, 3 gian chuôi vồ. Kết cấu bộ vì nóc mái là một bộ khung giá chiêng lớn, đứng vững trên bề mặt thân, xà, hoành gian của kiến trúc. Phần chuôi vồ của kiến trúc cũng được liên kêt tương tự bằng kĩ thuật gia công, phục nguyên tương tự những công trình tín ngưỡng, tôn giáo ở Hải Phòng. Chỉ khác là tòa tam bảo được nhân dân phục dựng bằng vật liệu và công nghệ mang dấu ấn của thời hiện đại (2003 - 2003) . Kiến 6rucs gỗ 3 gian, 2 cửa giữa được đóng mở bằng bộ cửa gỗ kiểu thượng song – hạ bản (trên 6 ô con tiện, dưới là những bức tranh khắc họa phong cảnh vạn vật bốn mùa xuân, hạ, thu, đông ). Lẽ ra chi tiết mặt hổ phù chính giữa bờ nóc mái đi kèm theo tên chữ ngôi chùa Bạch Đa tự chỉ xuất hiện tại trang trí ở đền, đình, miếu mới hợp lẽ cổ truyền từ trước ở những mái chùa dân gian. Hai vì nóc mái có đặc điểm khác với một số ngôi chùa ở Hải Phòng mới được phục dựng trong thời gian gần đây. Bộ khung kiến trúc bằng vật liệu mới, có tỉ lệ số đo cột cái trên 6m, cột quân 4m, bộ mái chùa được lập ngói ta truyền thống, giữa mái chùa chính với mái hiên được kết cấu thành hai mái gối nhau. Chính giữa bờ nóc mái đắp trng trí phù điêu, bao quanh tên chữ “Bạch Đa Tự”. Đôi Nghê chầu nóc mái, mái hiên chùa được đỡ vững bởi hàng cột hiên, mái bẩy, hoành tất cả đều được chế tác bởi công nghệ bê tông cốt thép đạt độ vững chắc và mỹ thuật công trình. Các công trình kiến trúc khác như:nhà thờ 5 vị sư tổ kiêm nhà khách, nhà bia ghi công đức, sân vườn và khu hậu cần của chùa. Các hiện vật có trong chùa gồm có: - Bia ký, tượng phật gồm 11 pho tượng chất liệu gỗ và 3 pho tượng gỗ phủ chất liệu hợp lưu đồng nặng trên 100kg được bài trí theo thứ tự từ cao xuống thấp, từ trong ra ngoài. Gồm có: tượng tam thế, bộ tượng A Di Đà tam tôn, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Quan Âm Nam Hải - Duy nhất trên kiến trúc của chùa là đôi rồng chầu mặt trời, phía dưới là bức đại tự chữ Hán “Trang nghiêm bảo tướng”. Trên phật điện còn có một số ống hoa, đài quả, mâm bồng gỗ dùng trong nghi lễ hàng ngày. - Một bộ tháp có 4 chiếc, tọa lạc ngay vườn chùa, an táng xá lị năm vị sư đã từng tu hành và viên tịch ngay tại chùa. Chùa hiện còn lưu giữ nhiều pho tượng phật có giá trị nghệ thuật tao hình thời Lê Trung Hưng thế kỉ XVII, XVIII. Chùa có giá trị như một đài tưởng niệm đời đời ghi nhớ công lao những đồng bào, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh vì đất nước hôm nay. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  43. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng Các ngày tế lễ : ngày mồng 1 tháng 9 Âm lịch giỗ cụ Xuyên, vị tổ thứ nhất của chùa, ngày 20 tháng 9 giỗ nhà sư, liệt sĩ Thích Thanh Lãng – vị sư trụ trì đời thứ 44. Bản thân ngôi chùa là công trình tín ngưỡng, văn hóa gắn liền với cuộc sống lao động, sản xuất, mở mang xóm làng của cộng đồng dân cư địa phương nơi cửa sông, đầu sóng. Chùa Bạch Đa được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa ngày 11/11/2002. Miếu chùa Đông Ninh Miếu chùa Đông Ninh là công trình văn hóa tín ngưỡng có từ lâu đời của làng Đông Ninh, xã Tiên Minh. Thờ 3 vị nhân thần là nữ kiệt người địa phương :Đức Tạ Huy Thân, Tạ Ả Lãng, Tạ Đoàn Dũng. Ba bà đã có công lao to lớn tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đánh đuổi quân xâm lược Đông Hán vào năm 40 sau công nguyên giành độc lập cho dân tộc. ba bà được nhiều triều đại phong kiến có sắc phong là Thành Hoàng làng Đông Ninh. Chùa Đông Ninh nằm cùng trên khuôn viên đất của miếu Đông, chùa được xây dựng từ thời họ Mạc theeas kỷ XVI. Chùa hiện nay là công trình có kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Bộ khung gỗ của chùa hiện tại mang niên đại tu tạo năm 1893 năm Thành Thái thứ 4. Miếu và chùa Đông Ninh còn bảo tồn, lưu giữ được nhiều cổ vật có giá trị như: tượng đá, thạch đài trụ (thế kỷ XVIII), tượng phật, bia đá, bài vị, long ngai, săcs phong (thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX). Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, miếu chùa Đông Ninh còn là địa điểm hoạt động bí mật của lực lượng kháng chiến địa phương, một đầu mối giao thông quan trọng phục vụ kháng chiến của huyện Tiên Lãng. Vị sư trụ trì của chùa : Thích Thanh Tại (sinh năm 1902 tại xã Đại Thắng, huyện Tiên Lãng), vì bảo vệ che dấu cán bộ bộ đội nên bị giặc Pháp sát hại tại chùa vào ngày 13/10/1951. Năm 2002 nhà sư đã được nhà nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ chống Pháp. Đình Phú Cơ Đình Phú Cơ thuộc địa bàn xã Quyết Tiến , đình đã có từ thế kỷ XVII, XVIII. Năm 1942 làng Phú Cơ đã tổ chức đại tu trong thời gian 3 năm cuối năm 1942 thì hoàn thành, với hình thức một gian giữa với 4 cột tứ trụ, đường kính 0.9m, có 4 con dư bám đầu cột đỡ 2 giường hai bên, mỗi bên cao 50cm toàn bằng gỗ lim. Xung quanh đằng sau bảng gỗ lim 2 đầu hồi và mặt tiền của đình có ngưỡng và cánh cửa thùng. Gian giữa bốn cánh cửa ở bên dưới có con song tiện, các bức hồi, đầu cột quân đục chạm theo hoa văn long, ly, quy, phượng. Những bức cánh võng chạm hoa văn lưỡng long chầu nguyệt hoặc hổ phù, sơn son thiếp vàng. Các cột Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  44. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng đều có câu đối và trên xà có bức đại tự viết chữ nho và đồ thờ, giáo mác, đao trùy, bát biểu cắm hai bên giá trước nhang án thờ có hai cỗ kiệu bát văn. Khi tổ chức lễ hội dân làng mới mặc cầm cờ quạt đình có hai co ngựa gỗ hồng bạch trên giá xe khi rước thì đẩy trước kiệu. ngoài ra còn có một cột cờ bằng gỗ lim dài khoảng 15 – 18m dùng để treo cờ khi đại lễ. ngoài cửa đình còn có khoảng sân rộng 70m, xung quanh xây tường hoa, sân bằng gạch cậy (15 x 10 x 40). Trước cửa đình có cổng chính, cột trụ và hai nhà chờ là hai cổng phụ, sân lát gạch cậy vuông (40 x 40). Vọng cung đình, gian cuối làm cao lên 1m để tueoengj thần hoàng ngồi trong long đình, sơn son thiếp vàng kèm hòm sắc của Vua phong cùng thanh kiếm. đình làng Phú Cơ khi hoàn thành đại tu có thể nói là to và đẹp nhất khu vực này. Sau cách mạng tháng tám (1945), đình được ủy ban lâm thời xã mượn 3 gian ngoài làm trụ sở. ngoài sân là nơi tổ chức cho anh em tự vệ tập quân sự liên tục. cho đến đầu năm 1947 để tiêu thổ kháng chiến đình làng được giỡ gỗ phân phối gỗ cho các gia đình làm hầm tránh pháo của giặc Pháp chỉ còn lại cột xà. Năm 1948 làng bán cột xà (khung đình) lấy tiền mua súng và ủng hộ Nam tiến. Đến năm 1966 hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên của xã là hợp tác xã Tiền phong xây dựng năm gian nhà làm trụ sở hợp tác xã và làm kho trên nền đình , vẫn giữ nguyên năm gian vọng cung. Hiện nay ngày tết Nguyên Đán có thắp hương, đồng thời chuyển tượng phật ở chùa về cả đình. Đình Đại Công Đình Đại Công thuộc địa phận thôn Đại Công, xã Tiên Cường. đình thờ 3 vị Thành hoàng làng: Đức Quý Minh, Đức Chu Công và Đức Hai Công. Ba vị này xuất xứ ở thời Vua Hùng Vương thứ 18, có công dẹp giặc, cưu nước giúp nhân dân khai khẩn đất đai, làm thuỷ lợi phát triển sản xuất. ngày hóa của các ngài vào mồng 2 tháng 11 Âm lịch dân làng tổ chức tế lễ để các ngài sống mãi với trời đất. Trải qua các triều đại phong kiến đã có 16 lần được sắc phong thần tích và thần sắc của các ngài hiện vẫn đang lưu giữ tại Viện Hán Nôm thuộc Viện Khoa Học sao lục và đã đưa về làng. Do điều kiện chiến tranh nên đình chùa miếu đều bị phá hủy. đến nay các di vật còn lại không được bao nhiêu ngoài ba bát hương, đồ gốm và một số bia ghi công đức. Khu vực đất đình hồi chống Pháp là nơi làm hầm bí mật cho cán bộ, hồi chống Mỹ cho đào hào giao thông, hồ cá nhân để tránh máy bay Mỹ bắn phá. Đình Mỹ Lộc Đình Mỹ Lộc thuộc địa bàn xã Tiên Thắng, đình được xây dựng trên 400 năm. Đình tọa lạc trên một dải đất cao ráo, diện tích 183,4m. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004
  45. Giải pháp phát triển du lịch Tiên Lãng mặt chính của ngôi đình quay hướng Tây, phía trước của đình có hai cây gạo cổ thụ có tuổi khoảng 400 năm, phía Đông và Tât của đình có 2 giếng thiên nhiên, nhân dân thường gọi là “Mắt Rồng”. Đình thờ 5 vị thành hoàng: Cao Sơn Duyên Hưu Đốc Khánh, tên húy là Tuấn, Phù Rô Trần Cảnh, tên húy là Rô, Cửu Lũy Thổ Hoàn Thánh Mẫu Nguyên Quân Phù Chính, tên húy là Ngọc Hoa, Tiết Chế Tích Dương Hầu Thành Quốc Công, không có tên húy, Long Thần Bạt Hải, không có tên húy. Cả 5 vị được thờ bằng long ngai bài vị các vị Thành Hoàng đã được các triều đại phong kiến Việt Nam phong 24 sắc phong. Do chiến tranh nên hiện nay dân làng còn giữ được 22 sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam. Đình có kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm 5 gian tiền đường 3 gian hậu cung kết cấu vì nóc mái kiểu “kẻ chồng, giá chiêng”, lối rải hoành “thượng tam – hạ tứ”. kết cấu bộ khung gỗ tòa cung chuôi vồ, có hai vì gỗ kiểu “trên kẻ - hậu bẩy”, khoảng cách giữa cột cái và cột quân là 1,4m, tạo ra lối ra vào cửa cung của di tích. Phía đông và phía tây của ngôi đình được nhân dân xây kè, bậc cầu thang tạo cảnh quan thiên nhiên, giao hòa âm dương, nơi hậu tạ của đất thiêng, phù hợp với ước vọng của dân làng giữa chốn thần linh. Đình có nhiều hiện vật đáng chú ý như: - Nhang án tiền, bát hương thờ chất liệu gồm sành niên đại của thế kỉ 19, mang dáng hình rồng cách điệu với nét dặc trưng đao vẩy rồng, ba chân đế kiểu “ chân quỳ- dạ cá” tạo thế vững chắc. - Chuông đồng cao 0.82m, niên đại thời Nguyễn, đời vua Bảo Đại 1926. - Long ngai, bài vị của các thành hoàng (5 bộ), bài vị của Duệ Hiệu, ngai rồng, lan can hình con tiện chỗng, chân đế giật cấp kiểu “ thượng thu hạ thánh” niên đại thế kỉ 20. - Hai đôi câu đối long máng, chữ đề trên nền hoa gấm. - Sáu bức đại tự của thế kỉ 20. - Tượng phỗng: 1 đôi trong tư thế quỳ, cung kính dâng rượu. - 22 sắc phong từ thời Lê Chiêu Thống đầu thế kỉ 18 đến thời Nguyễn, Khải Định 1925. Hàng năm tại đình mở hội trong 3 ngày: mồng 4, mồng 5 và mồng 6 tháng giêng, dân làng tổ chức kiệu, bài vị, bát hương của ngôi vị thành hoàng về ngôi miếu cả( thờ thánh Cao Sơn) cúng tế liên tục. Sáng ngày mồng 6 rước về đình tạ lễ, biểu diễn các trò như: đánh cá, đấu vật tại cửa đình. Ngày 10/11 âm lịch hàng năm, có lệ rước từ miếu Thánh mẫu về đình, mở hội trong 3 ngày với lễ vật là các sản vật nông nghiệp như: bó Sinh viên: Nguyễn Thị Mai – Lớp VH1004