Khóa luận Khai thác các công trình tưởng niệm nữ tướng Lê Chân tại Hải Phòng phục vụ phát triển du lịch

pdf 106 trang huongle 1560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Khai thác các công trình tưởng niệm nữ tướng Lê Chân tại Hải Phòng phục vụ phát triển du lịch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_khai_thac_cac_cong_trinh_tuong_niem_nu_tuong_le_ch.pdf

Nội dung text: Khóa luận Khai thác các công trình tưởng niệm nữ tướng Lê Chân tại Hải Phòng phục vụ phát triển du lịch

  1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài Thành phố Hải Phòng là một trong những thành phố anh hùng gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của nhiều danh nhân,danh tướng nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, trong đó không thể không nhắc đến nữ tướng Lê Chân - người có công khai phá nên mảnh đất nơi đầu sóng ngọn gió này. Hiện nay, tại Hải Phòng còn lưu giữ được nhiều di tích, kiến trúc phụng thờ và tưởng niệm vị nữ tướng tài ba này. Cùng với những di tích lịch sử và danh thắng khác trên đất Hải Phòng, các công trình kiến trúc tưởng niệm nữ tướng Lê Chân chính là một nguồn tài nguyên du lịch độc đáo, đầy tiềm năng, góp phần phục vụ và đóng góp vào sự phát triển chung của ngành du lịch Hải Phòng. Nhưng trên thực tế trong những năm qua, việc khai thác những tài nguyên này phục vụ cho du lịch của thành phố chưa được chú trọng và quan tâm đầu tư đúng mức.Hoặc có một số công trình đã được đưa vào khai thác trong du lịch, nhưng vẫn còn tồn đọng nhiều mặt hạn chế.Hoạt động du lịch tại các điểm đến này còn diễn ra một cách tự phát, chưa có quy hoạch cụ thể đồng bộ, cũng như chưa có sự quản lý một cách chặt chẽ các nguồn tài nguyên từ phía cấp chính quyền địa phương, đã gây ra những lãng phí lớn về nguồn tài nguyên. Hơn thế nữa, những lợi ích về kinh tế do du lịch mang lại chưa tương xứng với tiềm năng, cụ thể đó là sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế của địa phương còn rất hạn chế. Chính vì những lý do trên, người viết đã lựa chọn đề tài: “Khai thác các công trình tưởng niệm nữ tướng Lê Chân tại Hải Phòng phục vụ phát triển du lịch” cho khóa luận tốt nghiệp của mình nhằm tìm ra các giải pháp thúc đẩy hiệu quả khai thác phát triển du lịch đối với các công trình và di tích đó. 1
  2. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu về nữ tướng Lê Chân nói chung cũng như tìm hiểu về các công trình kiến trúc tưởng niệm nữ tướng Lê Chân ở Hải Phòng nói riêng, có thể điểm qua một số bài viết tiêu biểu của các tác giả sau: Trước hết là những bài viết về cuộc đời và sự nghiệp của nữ tướng Lê Chân: -“Nữ tướng Lê Chân - tiền công nội đô Hải Phòng, công thần khai quốc triều Trưng”, tác giả bài viết là nhà sử học Ngô Đăng Lợi.Trong bài viết này tác giả đã dựng lại hình ảnh một nữ tướng Lê Chân cả trong đời thường và trong huyền tích, nhấn mạnh công lao khai phá đất Hải Phòng và là một cân quắc anh hùng trong phong trào khởi nghĩa Hai Bà Trưng đầu thế kỉ I. -“Nữ tướng Lê Chân trong tâm thức người dân Hải Phòng” do Bảo tàng Hải Phòng tổ chức nghiên cứu, sưu tầm tư liệu, biên soạn và được NXB Hải Phòng ấn bản năm 2011. Đây là một công trình được biên soạn một cách đầy đủ và có hệ thống về Nữ tướng Lê Chân, những giá trị lịch sử, văn hóa và lễ hội truyền thống bảo lưu tại Đền Nghè và các di tích có liên quan. Cuốn sách là tư liệu quý cho những ai muốn tìm hiểu thêm về thân thế, sự nghiệp một vị nữ tướng anh hùng. Về các công trình tưởng niệm nữ tướng Lê Chân, nhà nghiên cứu Đỗ Xuân Trung - Phó giám đốc Bảo tàng Hải Phòng có bài viết “Hệ thống các di tích thờ nữ tướng Lê Chân”. Bài viết là lời giới thiệu tổng quan về hầu hết các công trình tưởng niệm nữ tướng không chỉ riêng trên địa bàn Hải Phòng mà còn tại một số địa phương khác trong cả nước.Bài viết cũng đề cập tới một số dạng tài nguyên du lịch có thể khai thác tại các di tích nhưng chưa đi sâu vào phân tích thực trạng cũng như giải pháp nhằm khai thác hiệu quả các tài nguyên này. Ngoài ra, tác giả Nguyễn Đình Chinh - Trưởng phòng quản lí di tích Bảo tàng Hải Phòng cũng có những nhận định khá chi tiết về việc phụng thờ nữ tướng 2
  3. Lê Chân tại một công trình di tích cụ thể qua bài viết “Nữ tướng Lê Chân và việc phụng thờ tại Đền Nghè”. Bài viết thể hiện một cái nhìn sâu sắc về lịch sử, nghi thức thờ tự nữ tướng tại Đền Nghè-một công trình tiêu biểu nhất trong hệ thống các công trình tưởng niệm nữ tướng tại Hải Phòng.Tuy nhiên bài viết hoàn toàn không đề cập tới việc định hướng phát triển du lịch tại điểm đến hấp hẫn này. 3. Mục đích nghiên cứu, ý nghĩa đề tài - Mục đích nghiên cứu: Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu, tìm hiểu các công trình kiến trúc tưởng niệm nữ tướng Lê Chân tại Hải Phòng để thấy được một cách tổng thể nhất những giá trị của các công trình đó về lịch sử, về kiến trúc, về tâm linh và đặc biệt là những giá trị tiềm năng có thể khai thác cho du lịch. - Ý nghĩa đề tài: Đã có một số tài liệu viết và giới thiệu về các công trình kiến trúc tưởng niệm nữ tướng Lê Chân ở Hải Phòng song việc thống kê, hệ thống một cách đầy đủ còn rất ít. Đồng thời phần lớn những tài liệu đó mới dừng lại ở chỗ cung cấp thông tin, ít tài liệu đề cập đến việc định hướng khai thác những tài nguyên này cho hoạt động du lịch của thành phố.Vì thế, với đề tài này, trên cơ sở vận dụng những lý thuyết của du lịch học vào trong thực tiễn du lịch thành phố Hải Phòng, người thực hiện mong muốn đưa ra một cái nhìn hệ thống về nguồn tài nguyên độc đáo này, cũng như những bất cập trong hiện trạng khai thác hiện nay, từ đó đề xuất những định hướng cho việc phát triển du lịch của địa phương trong thời gian tới, tạo nên các tour du lịch hấp dẫn cho du khách với một loại tài nguyên còn đang bỏ ngỏ. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu:Hệ thống các công trình và di tích tiêu biểu thờ phụng, tưởng niệm nữ tướng Lê Chân. 3
  4. - Phạm vi nghiên cứu: Thành phố Hải Phòng. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Là phương pháp chính được sử dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập thông tin tư liệutừ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau có liên quan tới đề tài nghiên cứu, người viết sẽ xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần thiết, có được tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp thực địa:Quá trình thực địa giúp sưu tầm thu thập tài liệu, nhằm nhận được thông tin xác thực cần thiết để thành lập ngân hàng số liệu cho việc hoàn thiện đề tài. Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp: Phương pháp này giúp định hướng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan, phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh hưởng của yếu tố tới hoạt động du lịch trong đề tài nghiên cứu; việc phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở trong việc thực hiện các mục tiêu dự báo, các chương trình phát triển, các định hướng, các chiến lược và giải pháp phát triển du lịch trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. 6. Bố cục của đề tài Đề tài ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo thì gồm có 3 chương: Chương 1.Nữ tướng Lê Chân với thành phố Hải Phòng: Chương này sẽ giới thiệu tổng quan về cuộc đời và sự nghiệp của nữ tướng Lê Chân, công tích của Bà với mảnh đất Hải Phòng và vị trí của nữ tướng trong đời sống tâm linh của người dân Hải Phòng. Chương 2. Tìm hiểu các công trình kiến trúc tưởng niệm nữ tướng Lê Chân ở Hải Phòng: Trong chương này, đề tài sẽ đi sâu tìm hiểu về 4 công trình, di 4
  5. tích tiêu biểu thờ phụng nữ tướng Lê Chân trên địa bàn Hải Phòng, đánh giá giá trị của các di tích đó trên phương diện nghệ thuật, kiến trúc, đồng thời phân tích thực trạng khai thác các di tích đó trong những năm gần đây. Chương 3. Đề xuất một số giải pháp khai thác các công trình kiến trúc tưởng niệm nữ tướng Lê Chân phục vụ phát triển du lịch tại Hải Phòng: Trên cơ sở phân tích những thực trạng từ chương 2, trong chương 3 đề tài sẽ mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa việc khai thác hiệu quả hoạt động du lịch tại các công trình thờ phụng nữ tướng Lê Chân trên địa bàn Hải Phòng trong thời gian tới. 5
  6. CHƢƠNG1. NỮ TƢỚNG LÊ CHÂN VỚI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 1.1.Cuộc đời và sự nghiệp của Nữ tƣớng Lê Chân 1.1.1. Sơ lược vềcuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 - 43) Nước ta dựng nước vào khoảng thế kỷ thứ VIITCN với sự khai sáng của các vua Hùng. Có thể coi đây là thời kỳ tạo dựng nên bản lĩnh và bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt. Theo truyền thuyết lịch sử ghi lại, nhà nước Văn Lang truyền được 18 đời Hùng Vương thì được thay thế bởi nhà nước Âu Lạc do Thục Phán An Dương Vương đứng đầu. Thời thịnh trị của Âu Lạc kéo dài không lâu thì An Dương Vương do lầm mưu của Triệu Đà nước Nam Việt - một nước nhỏ ở phía nam đế quốc Tần nên để mất nước vào năm 179TCN. Mốc thời gian này cũng đánh dấu sự mở đầu cho một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân tộc, kéo dài tới một nghìn năm - thời Bắc thuộc (179TCN - 938). Trải qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc, các triều đại phong kiến Trung Hoa lần lượt thay thế nhau cai trị Việt Nam. Chúng thi hành chính sách chia để trị, biến nước ta trở thành một quận, sáp nhập vào bản đồ lãnh thổ của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc luôn cố gắng tìm mọi cách để đồng hóa dân tộc ta, bắt dân ta phải theo phong tục, luật lệ, văn tự của họ. Ách cai trị thắt chặt của phong kiến Trung Quốc còn thể hiện rõ qua việc tăng cường các chính sách bóc lột, nô dịch và đẩy mạnh hàng loạt biện pháp đồng hoá có hệ thống với quy mô ngày càng lớn. Chính quyền cai trị nắm độc quyền nhiều ngành sản xuất như rèn sắt, mua bán muối Sản vật quý, của ngon vật lạ từ khắp mọi miền đất nước đều bị vơ vét, thu gom về phương Bắc. Việc thu gom cống phẩm không theo quy định mà được tiến hành hết sức tùy tiện, vô hạn độ càng làm dân ta khốn khổ. Ngoài việc vơ vét tài nguyên, của ngon vật lạ để cống nạp về triều đình trung ương, các quan lại tại Giao Châu còn ra sức bóc lột người dân bằng nhiều loại tô thuế và lao dịch. Chính sách 6
  7. di dân, đồng hoá cũng được đẩy mạnh thông qua biện pháp thâm độc là di dân người Hán sang ở lẫn với người Việt Có thể nói với chính sách đồng hóa và những thủ đoạn thâm độc, tàn ác, trong lịch sử Trung Quốc đã đồng hóa được nhiều quốc gia dân tộc nhỏ xung quanh. Nhưng nhân dân Việt Nam với bản lĩnh anh dũng quật cường và truyền thống văn hóa tốt đẹp bền vững được hun đúc suốt từ thời các vua Hùng dựng nước, đã liên tục nổi dậy khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, dù nhiều lần bị dìm trong biển máu nhưng sau đó lại vùng đứng lên để cuối cùng đã chính thức giành lại giang sơn Việt do người Việt làm chủ và tiếp tục xây dựng nền văn hiến rạng rỡ. Trong 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân Việt luôn tùy thời cơ nổi lên chống lại bọn đô hộ, giành độc lập dân tộc, giành quyền sống, tiêu biểu nhất là các cuộc khởi nghĩa: Hai Bà Trưng (40-43) chống lại nhà Hán, khởi nghĩa của Lí Bí chống lại nhà Lương và lập nên nhà nước Vạn Xuân (541- 602), khởi nghĩa của Mai Hắc Đế (713 - 722), và của Bố Cái đại vương Phùng Hưng (776-791)chống lại nhà Đường. Bốn cuộc khởi nghĩa lớn này có quy mô toàn quốc, đánh đổ được bọn quan lại cai trị, và bước đầu giành quyền tự chủ xây dựng chính quyền dân tộc Tuy giữ nước không được lâu nhưng các vị đều là những bậc anh hùng lỗi lạc, ghi lại những mốc son rực rỡ trong lịch sử dân tộc. Thành công và thất bại của các vị chính là những tiền đề để họ Khúc dấy nghiệp tự chủ, nhà Ngô dựng nền độc lập, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc ta - kỷ nguyên độc lập, tự chủ, thống nhất. Trong số 4 cuộc khởi nghĩa nói trên, khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo được xem là cuộc khởi nghĩa có qui mô lớn đầu tiên mở đầu cho truyền thống đấu tranh giành độc lập dân tộc kiên cường và bất khuất kéo dài hơn một nghìn năm. Trước khi cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bùng nổ, nước ta đang nằm dưới ách đô hộ của nhà Đông Hán. Năm Giáp Ngọ (34) niên hiệu Kiến Vũ thứ 10, vua Hán Quang Vũ sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định là người 7
  8. tham lam, bạo ngược, thi hành luật lệnh hà khắc, đàn áp dã man khiến nhân dân vô cùng oán giận. Theo sách Quốc sử tiểu học lược biên (ký hiệu A 1327) của Trường Viễn Đông Bác cổ - tờ 9a), Thi Sách - chồng Trưng Trắc làm quan lệnh ở huyện Dương Tuyền mưu giết Tô Định trừ hại cho dân, nhưng sự việc bị tiết lộ nên ông đã bị Tô Định giết[22]. Trước tình hình đó, Trưng Trắc đã phất cờ khởi nghĩa, dân Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Nghĩa quân hạ được 65 thành, bọn Tô Định phải chạy trốn về Nam Hải. Sau khi giành lại đất nước, Trưng Trắc lên làm vua, xưng là Trưng Nữ vương, đóng đô ở Mê Linh. Sử gia không ghi việc Hai Bà đặt quan lại, định quân đội, ban hành chính lệnh mới nhưng tất phải có, vì vua phải có người giúp việc ở trong triều, ngoài trấn, quân đội đương nhiên phải chấn chỉnh sắp xếp tập luyện, chính sách thuế khóa lao dịch phải đặt để yên lòng dân đã theo Hai Bà chống bọn đô hộ tham tàn, hà khắc. Có lẽ vì thế nên các nhà sử học đều đánh giá cao sự kiện: Đô kỳ đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta. (Đại Nam quốc sử diễn ca) Năm Tân sửu (41), vua Hán Quang Vũ sai Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Lưu Long làm Phó tướng cùng Đoàn Chí đem quân thủy bộ sang đánh Trưng Vương. Mã Viện men theo đường bể - tức đường vùng Quảng Yên - Hải Phòng - Hải Dương mà tiến, quân thủy, quân bộ dựa vào nhau mà tiến qua trên một ngàn dặm mới đến hồ Lãng Bạc, gặp phục binh lớn của Trưng Vương, hai bên đánh nhau to, sau quân ta thất lợi lui về giữ Cấm Khê. Mã Viện củng cố lực lượng, năm sau đem đại binh tấn công căn cứ Cấm Khê. Quân ta thua to, Hai Bà phải nhảy xuống sông tự tử. Quân ta rút về phía Nam, lập phòng tuyến ở vùng núi tỉnh Hà Nam bây giờ để chống giặc. Mã Viện tiếp tục tấn công, phá vỡ phòng tuyến, quân ta rút tiếp về quận Cửu Chân. Trận giao chiến ở huyện Cư Phong quân ta lại thua, Đô Dương 8
  9. và nhiều quân tướng bị sát hại, bị bắt. Mã Viện bình định được Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, khởi nghĩa Hai Bà Trưng chấm dứt vào năm 43. Mặc dù thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà đã để lại một dấu son ngời chói trong lịch sử. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng cũng ghi danh nhiều vị cân quắc anh hùng và được công nhận là cuộc khởi nghĩa có nhiều vị nữ danh tướng tiêu biểu nhất trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. 1.1.2.Cuộc đời và sự nghiệp của Nữ tướng Lê Chân Qua truyền thuyết và thần phả đền miếu thờ các nhân vật, các danh tướng, các nhân thần trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, thành phố Hải Phòng ngày ấy tự hào có nhiều nhân vật đã khẳng khái tham gia khởi nghĩa, nổi bật nhất là nữ tướng Lê Chân. Sự tích vị anh hùng này được ghi lại qua rất nhiều thần phả tại các nơi thờ bà như ở đền Suối tại quê gốc làng An Biên huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; đình đền làng An Biên, huyện An Dương nơi lập ấp (Hải Phòng ngày nay); làng Lạt Sơn huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam nơi tuẫn tiết hay qua truyền thuyết nữ tướng lập sới vật luyện quân ở Hoàng Mai, Mai Động (Hà Nội); ở vùng núi Voi An Lão. Người đưa tên tuổi của nữ tướng vào chính sử đầu tiên là cử nhân Ngô Giáp Đậu, soạn giả bộ sách Trung học lịch sử toát yếu khắc ván in năm 1901. Đến năm 1951, Vũ Huy Chân đưa vào cuốn sách do ông tự xuất bản mang tên Những người không chết. Bài viết công phu, có chi tiết quan trọng về Lê Chân tổ chức phòng ngự ngăn quân Mã Viện từ địa đầu biên giới Đông Bắc, giao chiến 3 trận rồi mới rút dần về căn cứ Lãng Bạc. Lịch sử Việt Nam tập I do Uỷ ban KHXHVN xuất bản năm 1971 cũng ghi "Để giữ vững các nơi hiểm yếu, Trưng Vương sai Thánh Thiên đóng quân ở Hợp Phố phòng mạn Bắc. Đô Dương giữ Cửu Chân. Bà Lê Chân được giao trọng trách "Chưởng quản binh quyền nội bộ" đóng bản doanh ở Giao Chỉ" [6]. 9
  10. Với những nguồn tư liệu ở các địa phương khác nhau cùng viết về một nhân vật, có thể khẳng định vai trò của Lê Chân trong lịch sử. Bản thần tích đền Nghè làng An Biên - Hải Phòng hiện lưu ở đền, cùng bản khai thần tích của Hộ phố Lê Xuân Nhự, theo yêu cầu của Hội Folklore Đông Dương năm 1938 và bia thần đạo đền Nghè tạo năm 1919 hiện còn đều có nội dung thống nhất như sau: Lê Chân - con ông Lê Đạo và bà Trần Thị Châu quê ở làng Vẻn (An Biên), Đông Triều. Gia đình họ Lê chuyên nghề dạy học, làm thuốc, dốc lòng làm việc thiện, tránh điều ác, những việc làm cầu, dựng chùa, tô tượng, đúc chuông đều hết sức đóng góp, do đó được nhân dân trong vùng kính mến. Chỉ hiềm ông bà tuổi cao, muộn con nên rất lo lắng. Một hôm, hai vợ chồng thành tâm sửa lễ vậtlên chùa Yên Tử làm lễ cầu tự. Đêm ấy, ông Lê Đạo nằm mơ thấy 2 vị thiên sứ một vị mặc áo xanh tay cầm kim mâu, một vị mặc áo tía tay cầm bảo kiếm dẫn ông lên thiên cung, ông bàng hoàng kinh sợ vội sụp lạy trước một vị đại quan ngồi trong điện, đầu đội mũ bách tinh, mình mặc áo bào vàng; bên trái bên phải mỗi bên có 1 vị quan tay cầm giấy bút. Ông Đạo văng vẳng nghe thấy lời truyền bảo: "Nhà ngươi có phúc lớn, tiếng đến thiên đình. Nay nhân có một tiên nữ phạm lỗi, Ngọc Hoàng sai đầy xuống trần 40 năm, cho đầu thai làm con nhà ngươi, sau sẽ làm rạng rỡ gia đình, con trai cũng không sánh kịp. Bỗng chuông trống chói tai làm ông chợt tỉnh, biết là nằm mơ. Vợ chồng ra về, một buổi sáng sớm, bà đi ra ngoài ấp thấy một vết chân lớn, đưa chân ướm thử, thấy người xúc động rồi có thai. Sau 12 tháng, sinh được một gái (hôm ấy là ngày 08 tháng 02) má phấn môi son, mày ngài mắt phượng, sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Nhân cớ ướm chân nên đặt tên là Chân. Tháng lại ngày qua, tuổi vừa đôi tám, thông minh hơn người, độ lượng khác đời, cầm thi cung kiếm đều thạo, mọi người đều cho là bậc trai lạ trong giới nữ lưu. Đến tuổi 20, tài sắc vượt trội, khắp nơi nức tiếng, mối manh tấp nập, nhưng nàng đều từ tạ, gác bỏ ngoài tai những lời ong bướm. Lúc ấy, Tô Định nghe tiếng, muốn cưỡng ép lấy nàng, nàng không nghe. Qua ba bốn phen bị từ chối, Tô Định 10
  11. oán giận, tìm cách giết hại cha nàng. Nàng lập tức thu thập gia tư, ôm mối thù cha, tìm phương rửa hận, thề không đội trời chung với kẻ thù. Nàng lánh đến huyện An Dương, nàng phát hiện ở vùng ven biển có đường thủy nối liền, lòng riêng mừng thầm, nghĩ được trời ban cho nơi che chở. Bèn trở về quê chiêu mộ nghĩa sĩ quen biết cùng họ hàng được vài chục người, cấp cho lương thực, nông cụ đến nơi đất mới khai khẩn cấy trồng để tích tụ lương thực. Qua 3 năm dựng thành một ấp, lấy tên quê gốc trang An Biên (sau đổi là xã), lại mở một chợ ở bên sông để tiện việc mua bán. Nàng ở đây chừng chục năm, thu nạp những người trốn tránh vì có thù với giặc hoặc không đường sinh sống, để trả thù cho cha. Nhưng nghĩ mình là một người con gái, chưa biết mưu tính thế nào thì may sao trời cao giúp đỡ, nhân dân muốn nổi loạn chống bọn tham tàn. Lúc ấy ở đạo Sơn Tây có một người con gái của vị quan họ Hùng tên là Trưng Trắc, căm giận Tô Định giết chồng là Thi Sách, mới cùng em là Trưng Nhị phát hịch kêu gọi anh tài trai gái khắp nơi khởi nghĩa giết Tô Định. Lê Chân được tin, lập tức mộ được hơn 100 thanh niên trai gái ở An Biên, An Dương làm quân thân tín, kéo về Sơn Tây. Tháng 3 năm Canh Tý (40) Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống bè lũ thống trị Đông Hán. Hưởng ứng lời hịch của Hai Bà, thủ lĩnh và nhân dân khắp 4 quận Giao Chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân (Bắc Trung Bộ), Nhật Nam (Trung Trung bộ), Hợp Phố (Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc) đã nhất tề nổi dậy, hợp sức với đạo quân chủ lực của Hai Bà, tấn công địch ở khắp nơi. Đạo quân của Lê Chân từ mạn biển xứ Đông đánh thốc lên Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) lỵ sở quận Giao Chỉ, nơi có bộ máy thống trị của bè lũ Tô Định, phối hợp với quân của Hai Bà Trưng và các thủ lĩnh nghĩa quân khác, giải phóng quận thành. Tô Định vội vã tháo chạy về đất Nam Hải (Trung Quốc) xin quân cứu viện[1; 15]. Nước Nam được bình định, Trưng Trắc tự lập làm vua, khao thưởng quân sĩ, ban khen công thần. Lê Chân được phong là Thánh Chân công chúa đồng thời được ban bổng lộc và sắc sai đem binh mã về trang An Biên dựng đồn binh đề phòng giặc Bắc. Công chúa vâng mệnh trở về làng cũ dựng đồn. Từ đó, thuyền buôn 11
  12. phương Bắc nhất thiết bị cấm, không được qua lại nơi này. Công chúa lại xuất tiền tài chẩn cấp cho dân. Chỉ vài năm vùng này trở nên giàu có, nhân khang vật thịnh, ai ai cũng đội ơn sâu, kính yêu công chúa như cha mẹ. Trong thời gian bà Trưng Trắc làm vua, nhà Đông Hán phải lo đối phó với biến loạn lớn trong nước, nên không thể phát quân xâm lược nước ta. Song triều đình Hán đã sửa soạn kỹ cho cuộc đàn áp. Mùa hạ, tháng 4 năm Kiến Vũ thứ 18 (42), vua Quang Vũ phong lão tướng 58 tuổi Mã Viện làm Phục Ba Tướng quân thống suất quân sĩ sang xâm lược nước ta. Mã Viện chỉ huy cả hai đạo quân, chia hai đường thủy bộ, vừa dùng thuyền vượt biển, vừa đi đường ven chân núi phát cây mở đường hơn nghìn dặm; hai cánh quân thủy, bộ không cách xa nhau lắm để còn liên hệ phối hợp với nhau. Từ vùng ven biển vịnh Bái Tử Long, Hạ Long, hai đạo quân thủy, bộ Đông Hán tiến đến cửa sông Bạch Đằng (Quảng Ninh - Hải Phòng) để vào nội địa nước ta [22]. Đội quân thường trực phòng thủ ven biển Đông Bắc do Chưởng quản binh quyền Lê Chân chỉ huy đã ra quân kịp thời chặn đánh quyết liệt đoàn thuyền binh đông đảo của giặc ngay từ cửa sông Bạch Đằng. Theo lệnh của Trưng Vương, trên bộ nữ tướng Thánh Thiên đem quân lên đánh giặc ở biên giới; nữ tướng Bát Nàn chặn cánh quân trên bộ của Mã Viện ở cửa biển, phối hợp với nữ tướng Lê Chân. Suốt dọc sông Bạch Đằng, Đá Bạc, dưới nước và trên bờ hai đạo quân, đa số là phụ nữ chiến đấu quyết liệt. Lê Chân cho dựng chướng ngại vật trên sông, dùng những chiếc thuyền chiến nhỏ, nhẹ, dễ cơ động tập kích vào mạn sườn đoàn thuyền to lớn, nặng nề của giặc, làm chúng tổn thất không ít. Song do quá chênh lệch về lực lượng, trang bị, vũ khí so với địch, nên hai nữ tướng phải lui quân về bảo vệ kinh đô Mê Linh. Chờ đợi không thấy quân Mã Viện tấn công, Hai Bà Trưng đã chủ động tiến quân từ Mê Linh, qua Cổ Loa (Tây Vu), xuống Lãng Bạc đánh quân xâm lược đang đóng tại đây. Quân ta chiến đấu ngoan cường, đội quân tiên phong do nữ tướng Lê Chân chỉ huy tả xung, hữu đột. Bị cầm chân nhiều ngày, quân tướng địch đã có 12
  13. phần nao núng. Nhưng kẻ địch còn rất mạnh, quân đông, thủy bộ phối hợp lại thạo đánh tập trung do tên lão tướng Mã Viện xảo quyệt chỉ huy, nên dần xoay chuyển tình thế. Quân Hai Bà Trưng trang bị thiếu, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, chưa quen đánh kiểu trận địa nên bị thiệt hại nặng, Hai Bà Trưng, nữ tướng Lê Chân và một số tướng lĩnh phải chuyển sang hữu ngạn sông Hồng, rồi lùi về căn cứ Cấm Khê (Kim Khê) - thung lũng suối Vàng ở chân dãy núi Ba Vì (Hà Nội). Đây là vùng núi rừng hiểm trở, ba mặt có sông lớn (sông Đà, sông Hồng, sông Đáy) ở thế thiên hiểm, tốt cho việc phòng ngự. Quân thù kéo tới vây hãm, mở nhiều đợt tấn công. Quân ta kháng cự quyết liệt nhưng dần vào thế bất lợi. Mở đường máu Hai Bà Trưng và các nữ tướng Lê Chân, nàng Tía, lão tướng Đô Dương đem lực lượng còn lại rút theo hai đường thủy, bộ. Đường thủy theo sông Tích ra sông Đáy. Để bảo toàn khí tiết, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông tự tận. Nữ tướng Lê Chân tiếp tục cùng thủy binh xuôi về phía nam đồng bằng sông Hồng. Đạo quân của Đô Dương, nàng Tía rút theo đường thượng đạo đi len lỏi dưới chân dãy núi đá vôi 99 ngọn từ Ba Vì, Hòa Bình vào đất hai huyện Kim Bảng, Thanh Liêm (gọi là dãy Nam Công) rồi qua Ninh Bình vào Cửu Chân (Thanh Hóa)[1; 24]. Sau khi tiến quân vào Hà Nam, Nữ tướng Lê Chân đã chọn vùng rừng núi hiểm trở Lạt Sơn để làm căn cứ phòng thủ chặn quân Đông Hán, để một bộ phận nghĩa quân của nàng Tía, lão tướng Đô Dương tiếp tục rút về Cửu Chân (Thanh Hóa) vì tuyến đường thượng đạo từ Ba Vì cũng qua đây. Đầu căn cứ ở phía Bắc, đặt tiền đồn ở thung Mộc Bài, nơi đây bố trí đội quân tiên phong chặn mũi tiến công đầu tiên của quân thù phía sau Mộc Bài là đồi Dốc voi Trượt nơi bố trí đội tượng binh. Tiếp xuống phía Nam, lần lượt là thung Hóc Bạc có kho lương thực, hậu cần; thung Bể, thung Dâu nơi đóng đại quân. Hang Diêm trên sườn núi phía Nam thung Bể là nơi đặt tổng hành dinh. Phía Tây thung Dâu là núi Thượi cao khoảng 225 m đặt vọng gác, quan sát được toàn bộ căn cứ. Gần núi Thượi có đồi Điểm quân, có lẽ là địa điểm tập hợp kiểm đếm số lượng binh sĩ. Sau thung Dâu là 13
  14. hai thung Đội Nhất, Đội Nhì nơi trú đóng của hai đội quân. Đồi Ông Tượng, điểm cuối căn cứ cách không xa sông Ngân về phía Tây. Cách vị trí đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km là thung Trống, nhân dân địa phương giải thích là nơi có lầu trống dùng để đánh cầm canh và hiệu lệnh chiến đấu. Một số địa danh trong khu căn cứ như đồi Dớn, non Tiên, thung Thùng Chạ, đặc biệt hồ Trứng rộng mấy chục mẫu cần xác minh thêm về ý nghĩa[1; 25]. Cùng với xây dựng căn cứ, nữ tướng Lê Chân gấp rút chiêu mộ thêm binh sĩ chủ yếu là người Lạt Sơn và các vùng lân cận, lập nhiều cơ đội. Đạo quân của Đô Dương đã bổ sung một bộ phận binh sĩ, trong đó có nhiều người họ Dương cho căn cứ Lạt Sơn. Căn cứ còn chưa vững chắc, Mã Viện đã đưa quân đến vây hãm, mở nhiều trận tấn công. Nữ tướng Lê Chân tổ chức kháng cự cả trong các thung và trên sông Ngân. Các trận đánh ác liệt diễn ra, quân ta chiến đấu kiên cường. Biết không đủ lực lượng đánh bại quân thù, hơn nữa lão tướng Đô Dương, nàng Tía đã rút lui an toàn, Bà cho binh sĩ bí mật rút khỏi căn cứ để mưu kháng chiến lâu dài, còn Bà và số ít tướng lĩnh, một bộ phận quân sĩ ở lại tử thủ. Quân giặc nhanh chóng phá vỡ tiền đồn Mộc Bài, tràn vào thung Hiên, thung Bể, dồn nghĩa quân về Đồng Gơ. Trận huyết chiến ác liệt cuối cùng diễn ra ở Đồng Loạn, nữ tướng Lê Chân cùng mấy tướng tâm phúc rút lên núi Giát Dâu. Từ đỉnh núi cao, sườn dốc đứng, nữ tướng Lê Chân gieo mình tự vẫn để khỏi phải sa vào tay giặc, (núi này cách đền bà Lê Chân hiện nay khoảng 3 km về phía Tây). Thời khắc ấy vào buổi chiều ngày 13 tháng 7 năm Quí Mão (43). Mấy tướng tâm phúc đã mai táng Bà ở một hang động trong căn cứ[1; 26]. Truyền thuyết dân gian truyền lại rằng, Thánh Chân công chúa sau khi lao đầu xuống sông tự vẫn thường rất linh ứng. Lúc này ở trang An Biên người và vật đều không được yên. Ban đêm mọi người mơ thấy công chúa trở về bảo: "Nay ta đã hết hạn ở dưới trần phải về chầu Thượng đế. Dân chúng nếu sớm ra bờ sông thấy có vật lạ nên rước về ấp thờ phụng, nếu không Hoàng Thiên sẽ trách phạt. Nhân dân 14
  15. tỉnh mộng, sớm hôm sau cùng ra bờ sông. Hôm ấy là mồng ba tháng giêng, bầu trời u ám, gió lớn mưa to, mặt nước sông cuộn sóng, thuồng luồng, rùa giải đua bơi, cá côn cá kình rẽ sóng. Bỗng thấy một phiến đá trôi từ từ ngược dòng, dân các nơi dâng lễ cầu lạy, nhưng phiến đá không trôi vào. Dân trang An Biên trông thấy, lại gặp đúng phiên chợ, vào sắm lễ vật. Nhưng chỉ còn một sóc cua bể và một mâm bún, bèn dâng lên hương án rồi cùng nhau sụp lạy. Bỗng phiến đá dạt vào; cùng nhau nhìn kỹ thì ra là một tháp đá, trên tháp có một miếu đá, trong miếu ghi hàng chữ Thánh Chân công chúa. Dân chúng cùng với người ở chợ rước phiến đá về ấp. Khi đến xứ Đồng Mạ có hình mộc, phiến đá rơi xuống, dân muốn di chuyển đến nơi khác nhưng không lay chuyển được nên làm đền quay về hướng Đông để thờ. Sau công chúa rất linh thiêng. Nhân thế dân ấp cứ đến ngày mồng 3 tháng giêng đến miếu hành lễ (lễ phẩm dùng cỗ chay, tế xong có ca hát, đấu vật). Từ đó cầu mưa được mưa, cầu gió được gió. Trải đến lúc vua Trần Anh Tông đi dẹp quân Chiêm vào cướp phá hải phận nước ta, một hôm nhà vua hành quân qua địa phận An Biên thì vừa lúc mặt trời gác núi, vua cho dừng thuyền nghỉ. Đến đêm, vua mộng thấy một phụ nữ, xiêm áo chỉnh tề đến tâu vua rằng: "thiếp tôi vốn là tướng của vua Trưng bị giặc Hán sát hại. Sau khi mất, Thượng đế thương tình cho làm phúc thần xứ này. Nay hoàng đế ra quân dẹp giặc, thiếp tôi nguyện xin âm phù vận nước, giúp đỡ ba quân, đợi tin chiến thắng, thần thiếp cũng rửa được hận cũ". Nhà vua tỉnh giấc, ghi vào kim chương để xem ứng nghiệm ra sao. Đến khi tiến quân thuyền trôi như bay, đến thẳng đất Chiêm giao chiến, quân Chiêm thua to, chạy tan tác. Dẹp yên giặc giã, vua đem quân về triều xét công ban thưởng tướng sĩ có công, gia phong các thần, ban sắc cho Thánh Chân công chúa, lại ban thêm tên hiệu đẹp là Nam Hải uy linh, sai đem rước sắc về xã An Biên huyện An Dương làm lễ, cấp cho xã An Biên 100 quan tiền để sửa sang đền miếu thờ tự. Từ đó về sau thường linh ứng giúp nước che chở cho dân, các triều đại đều chiếu phong bà là Thượng đẳng phúc thần công chúa,hương khói lưu truyền mãi mãi[8]. 15
  16. Thần tích kể trên có sự tổng hòa của nhiều yếu tố lịch sử với thần thoại. Có thể nói với công tích và sự nghiệp lừng lẫy của mình, nữ tướng Lê Chân đã hiển thánh trong lòng của người dân Việt, đặc biệt tại những vùng đất gắn liền với cuộc đời và công trạng của nữ tướng như Hải Phòng, Quảng Ninh. Bỏ qua các yếu tố huyền thoại, huyễn hoặc, có thể xem nữ tướng Lê Chân là một nhân vật lịch sử có thật, mà uy vọng và ân đức của Bà còn hiển linh mãi đến ngàn sau. 1.2. Nữ tƣớng Lê Chân và công lao khai phá đất Hải Phòng 1.2.1.Dấu tích làng Vẻn xưa Theo thư tịch cũ, toàn địa bàn xứ Đông (Hải Dương) xưa - gồm cả Hải Phòng nay - thời Hùng Vương dựng nước thuộc bộ Dương Tuyền, chỉ có sách Việt sử lược ghi là Thang Tuyền (chữ Dương và chữ Thang hơi giống nhau nên dễ lầm)[6]. Theo tờ khai thần tích thần sắc của chức dịch làng Cao Đôi, tổng Cao Đôi, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương (ký hiệu Viện Thông tin KHXH số Q.4o18/IX, 93) và làng Quảng Tân cùng tổng (ký hiệu số Q.4o18/IX, 93) thì tên cũ của 2 làng là Dương Tuyền trấn. Từ thông tin này có thể suy đoán lỵ sở của bộ Dương Tuyền đời Hùng vương đặt ở Tổng Cao Đôi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương sau này. Các di chỉ khảo cổ ở Cát Bà, Thủy Nguyên, An Lão xác định thời Hùng Vương dựng nước, nhiều vùng đất thuộc địa bàn Hải Phòng đã có cư dân Việt sinh tụ, làm ăn: Địa bàn Hải Phòng nay đã có trong bản đồ hành chính nhà nước Văn Lang, Âu Lạc thời cổ[7; 11]. Khi nhà Hán đô hộ nước ta, nhiều quan lại tham lam tàn bạo, ngay sử Trung Quốc cũng không dấu nổi sự thực. Sách An Nam chí nguyên cho biết "trước kia vì những người làm thứ sử thấy đất Giao Châu có ngọc minh châu, lông chim trả, sừng tê, ngà voi hương lạ gỗ tốt là những vật quý, hết thẩy đều tham nhũng: hễ vơ vét đủ, lại xin người sang thay, cho nên lại dân đều chống cự. Đến khi thứ sử Giả 16
  17. Mạnh Kiên đến hơi rõ tình trạng, (dân) đều nói rằng: Các quan trước thu thuế nhiều, bắt góp nặng trăm họ khổ sở [22]. Những vật quý mà bọn quan lại Trung Quốc vơ vét, hầu hết ở địa bàn Hải Phòng đều có, đặt biệt ngọc minh châu tốt thị quận Giao Chỉ, chỉ vùng Cát Bà mới có. Mãi đến ngày Pháp cai trị, địa chí cũ còn chép việc dân tổng Đại Trà, huyện Nghi Dương chuyên ra vùng Nghiêu Phong bắt đồi mồi, trai ngọc để làm đồ mỹ nghệ. Còn cá, muối phải nộp thuế, phải cung đốn cho quan lại, binh lính lúc ấy, dân vùng ven biển xứ Đông đều phải nộp. Với vị trí quan trọng của mình, ngót 2 ngàn năm trước, vùng đất Hải Phòng đã được Hai Bà Trưng chọn làm tuyến phòng thủ bờ biển chống lại mưu đồ xâm lược của phong kiến phương Bắc, với cái tên “Hải tần phòng thủ”.Theo huyền tích và thư tịch cổ, đại bản doanh của “Hải tần phòng thủ”được đặt tại làng Vẻn do Nữ tướng Lê Chân chọn.Quá trình hình thành và phát triển của làng Vẻn gắn liền với sự nghiệp đánh giặc cứu nước của nữ tướng Lê Chân. 1.2.2. Nữ tướng Lê Chân và công lao khai phá đất Hải Phòng Có thể nói, làng Vẻn - chính là chiếc nôi cổ xưa nhất của Hải Phòng ngày nay.Khởi thủy, vùng đất này mới chỉ là những đụn cát kéo dài nằm giữa bao la sình lầy, cây cối um tùm, cận sông, gần biển nên thuận việc công thủ trong thuật dùng binh.Theo sách “Trung hịchViệt sử toát yếu”: Nữ tướng Lê Chân là người làng Vẻn (tên chữ là An Biên), trấn Hải Dương. Mang nặng “thù nhà, nợ nước”, Lê Chân đã tìm đến mảnh đất bãi bồi hoang vu bên dòng Cấm Giang, bí mật chiêu dân, tuyển mộ hiền tài, xây dựng căn cứ, chờ thời cơ nổi dậy đánh đuổi quân xâm lược Đông Hán bạo tàn.Khi đất mới thành trang ấp, Lê Chân lấy tên quê cũ đặt cho ấp mới, gọi là trang An Biên (tên Nôm là làng Vẻn). Sau khi Hai Bà Trưng nổi dậy khởi nghĩa, Lê Chân đã nhanh chóng hội quân với hai Bà. Với khí thế tiến công như vũ bão, chỉ trong 2 tháng, nghĩa quân đã 17
  18. chiếm được 65 thành trì, đập tan ách thống trị của nhà Đông Hán. Đất nước sạch bóng quân thù, bà Trưng Trắc được tướng sĩ, nghĩa quân tôn làm vua (Trưng Vương). Trưng Vương xét công lao ban thưởng tướng sĩ. Lê Chân khi ấy 24 tuổi, được phong là Thánh Chân công chúa, ban chức Chưởng quản binh quyền (tổng chỉ huy quân đội) kiêm trấn thủ miềnHải tần (duyên hải Đông Bắc).Nữ tướng Lê Chân vâng mệnh đem quân trở về vùng đất An Dương khi trước, dựng đồn luỹ, mở mang trang ấp, nhằm mở rộng trang An Biên. Nữ tướng ra lệnh chiêu tập dân phiêu tán khai hoang vùng đất ven biển lập ra "Hải Tần phòng thủ" - tảng nền của thành phố Hải Phòng ngày nay, đồng thời dùng nhân công khai khẩn đất hoang dọc ven sông Tam Bạc thành đồng ruộng cấy lúa, trồng dâu xanh tốt. Chỉ trong thời gian ngắn, trang An Biên dân cư đã đông đúc, kinh tế phát triển, nhiều nhà trở nên giàu có. Bà Lê Chân thường xuyên cho luyện tập trận thế, mở những lớp đấu vật, đài thi võ để nâng cao sức khỏe, khả năng chiến đấu của binh sĩ, dân chúng. Như vậy có thể nói, công cuộc mở mang làng Vẻn trở thành trung tâm của “Hải tần phòng thủ” - một dạng đô thị, thành lũy sơ khai của người Việt cổ đãđược đẩy mạnh ngay từ thời kỳ đó.Lúc bấy giờ, dường như mọi sinh lực của dân tộc đều dồn về vùng cửa biển rộng lớn này, phục vụ sự nghiệp kiến tạo bờ cõi, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, sửa soạn nền tảng văn hóa, văn minh dân tộc. “Hải tần phòng thủ” là một công trình lớn dưới thời Hai Bà Trưng, tiêu biểu cho tài năng sáng tạo của người xưa.Đặc biệt điều kiện địa hình, chế độ thủy văn đã được người đương thời vận dụng phù hợp.Họ biết dùng sông ngòi, lạch thoát triều, đầm hồ rừng ngập mặn đào hào sâu, cạm bẫy ngăn chặn quân thù cùng thú dữ và sử dụng những cồn cát tự nhiên gia công thêm thành chiến lũy, đê điều bảo vệ sản xuất, cơ động trong tấn công, phòng thủ.Hàng ngày ở đại bản doanh An Biên có hàng vạn quân sĩ, dân binh thay nhau luyện tập bắn nỏ, tập chèo thuyền, tập thủy chiến, mở lò rèn đúc vũ khí, cấy lúa, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, đánh bắt cá dưới sự chỉ huy của vị nữ tướng “Chưởng quản binh quyền nội bộ” can đảm, anh hùng. 18
  19. Trong quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu, vùng đất Hải tần phòng thủ từ buổi hồng hoang đã gắn liền với vị nữ tướng anh hùng - Thánh Chân Công chúa, người khai thiênlập địa, đặt nền móng cho thành phố Hải Phòng ngày nay. Hình ảnh làng Vẻn thuở hồng hoang cùng bao vết tích xưa và bao câu chuyện truyền ngôn trong dân gian vẫn lặng lẽ vượt qua thời gian, mọi biến thiên của lịch sử để nhắc nhở các thế hệ người Hải Phòng về nguồn cội qua những cái tên quen thuộc (Cát Dài, Cát Cụt, Trại Cau, An Đà, Đà Cụ, Hồ Nam, Hồ An Biên) và một số công trình kiến trúc từng làm vẻ vang nền nghệ thuật dân tộc một thời (Đền Nghè, chùa Vẻn, đình Đông An) [6]. Đủ thấy lịch sử làng Vẻn không chỉ là lịch sử của một làng quê đơn thuần, mà còn là cả chặng đường phát triển trong mối quan hệ liên làng - liên vùng và quá trình hóa thân từ một làng nông - chài trở thành đô thị cảng biển sầm uất.Theo sơ đồ hiện còn lưu giữ thì làng cổ An Biên trước năm 1872 bao gồm phần lớn quận Lê Chân bây giờ, một địa phận nhỏ ở địa phận quận Hồng Bàng và quận Ngô Quyền, phía Bắc giáp sông Cấm, Tây giáp sông Tam Bạc, Nam giáp làng An Dương và Hàng Kênh, Đông giáp làng Gia Viên và Đông Khê.Khu nội vị của làng An Biên xưa nay là địa bàn các phường Mê Linh, Cát Dài, Hồ Nam, An Biên, Trại Cau, Phan Bội Châu, Phạm Hồng Thái, Quang Trung, Lạch Tray và một phần đường Lê Lợi, Đằng Giang, Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Cầu Đất [7; 13]. Cũng như bao làng quê Việt Nam, làng Vẻn có đầy đủ mọi công trình văn hóa, tín ngưỡng - nơi bảo lưu, nuôi dưỡng đạo lí và bản sắc văn hóa dân tộc.Chùa Vẻn (tên chữ là Linh Quang tự) ban đầu được xây dựng tại khu vực Nhà hát lớn thành phố bây giờ.Nội dung của bài minh văn khắc trên “Thạch thiên đài trụ” dựng năm 1695 ca ngợi cảnh chùa Vẻn như sau: “Chùa Linh Quang ở vị trí rất đẹp.Trước chùa là biển ngày ngày nước biển lên xuống”.Đến đời Đồng Khánh thứ 2, năm Đinh Hợi (1887) chùa dời về vị trí hiện nay.Miếu sơn thần của làng An Biên, tọa lạc trên khu đất của khách sạn Lạc Hải Thông sau này.Năm 1946, nhiều người Hải 19
  20. Phòng vẫn còn nhìn thấy ngôi miếu cổ ấy.Đình Vẻn cũ nay là trung tâm y tế quận Lê Chân.Trường học của làng Vẻn nổi tiếng xưa nay là trường PTTH Ngô Quyền [7; 16]. Hoạt động thương mại ở làng Vẻn cũng hình thành rất sớm.Với tư cách là một làng xã mở, nhờ sức mạnh nội sinh dần dần trở thành một cửa ngõ thông thương của đất nước. Sự lựa chọn của “Hải tần phòng thủ” và sau đó là phát triển đô thị cảng Hải Phòng đã chứng tỏ lưỡng thế tự nhiên và xã hội của khu vực này.Con người làng Vẻn xưa và Hải Phòng nay đều là kết quả của sự giao tiếp, hòa trộn, đan xen nhiều tinh hoa văn hóa của các địa phương trong nước và hấp thu có chọn lọc văn hóa từ bên ngoài vào.Nhưng dù có nguồn gốc nơi đâu, ai đã đến định cư tại mảnh đất Hải Phòng đều một lòng tâm niệm tôn thờ vị nữ tướng tài ba dưới quyền Trưng Vương buổi đầu công nguyên - nữ tướng Lê Chân làm thần chủ của mảnh đất nơi đầu sóng ngọn gió này. 1.2.3. Nữ tướng Lê Chân trong tâm thức người dân Hải Phòng Như vậy từ một nhân vật lịch sử có thật, vị nữ tướng anh hùng dưới triều Trưng Vương đã hiển thánh trong lòng dân và được nhân dân Hải Phòng bao đời qua tôn vinh là Thánh Mẫu Lê Chân, là Thành hoàng của vùng đất ven biển: lúc sinh thời, đây là vùng đất gắn liền với sự nghiệp và tâm huyết của Bà, sau khi mất Nữ tướng đã hiển linh báo cho dân làng An Biên rước linh vật về thờ phụng, công đức của vị nữ tướng còn in đậm trong tâm trí mỗi người dân thành phố. Vậy nữ tướng Lê Chân đã hiển Thánh như ra sao? Trước hết, theo thần tích, ngọc phả, bia ký thì bà không phải là người thường mà là vốn tiên nữ do mắc lỗi mà bị giáng trần (giống như công chúa Liễu Hạnh). Bà được sinh ra từ cuộc hôn phối thiêng liêng, kỳ lạ - thân mẫu vô tình ướm thử vào vết chân khổng lồ thấy xúc động rồi có thai (tương tự trường hợp mẹ Thánh Gióng). Và sau khi thác hóa, bà có 20
  21. sức mạnh thần kỳ, quyền năng vô lượng - để không bị sa vào tay giặc và bảo toàn khí tiết, nữ tướng Lê Chân nhảy xuống sông tự vẫn. Khí thiêng của bà hoá thành tảng đá trắng trôi ngược dòng sông, đêm thường phát sáng rực rỡ. Dân chúng các nơi thấy "linh thạch" trôi qua đều bảo nhau dâng lễ cầu xin thánh ý, nhưng đều không được. Một hôm, đúng vào ngày mồng 3 tháng Giêng, "thạch linh" trôi về đến khúc sông chảy qua trang An Biên thì tự nhiên dừng lại, quay tròn. Do đêm trước, hầu hết dân chúng trang An Biên đều được thần nhân báo mộng rằng sớm nay ra bờ sông thấy có vật gì lạ thì bảo nhau rước về mà lập đền miếu phụng thờ. Dân chúng sắm sửa lễ vật, chờ đợi bên bờ sông và thấy một tảng đá hình tháp có khắc hình toà cổ miếu, ẩn hiện dòng chữ "Thánh Chân công chúa" dạt vào. Bà con hò nhau rước thạch linh về, khi đến xứ đồng Mạ có hình mộc, bỗng như có sức mạnh vô hình hút chặt "linh thạch" xuống đất, dù bao nhiêu người ra sức nâng cũng không hề nhúc nhích. Cho đó là Thánh ý, dân trang An Biên lập đền thờ Ngài tại đó - vị trí đền Nghè hiện nay, mặt quay hướng Đông[9]. Sau có công âm phù giúp vua Trần Anh Tông dẹp giặc Chiêm Thành, bà Lê Chân được ban thần hiệu là "Thánh Chân công chúa" và tặng mỹ tự "Nam Hải uy linh" Với những biểu hiện như trên thì rõ ràng nữ tướng Lê Chân đã hiển hiện bóng dáng của một bà "Mẹ xứ sở" - Mẹ Đất và Nước và thần tích về Bà đã ngưng kết trong đó những giá trị tín ngưỡng dân gian cổ xưa. Như vậy, trong đời sống tâm linh của người Hải Phòng, nữ tướng Lê Chân đã hóa thân thành Thánh Mẫu thiêng liêng, do đó đã vượt qua tín niệm "Trống làng nào làng nấy đánh, Thánh làng nào làng nấy thờ" - tức là từ vị trí thành hoàng làng An Biên đã trở thành vị Thánh Mẫu bảo hộ cho cả vùng đô thị Hải Phòng rộng lớn. Để rồi Thánh Mẫu Lê Chân đi vào đáy sâu của tâm hồn tín ngưỡng của người Hải Phòng, đánh dấu quyền năng ở mọi lĩnh vực đời sống của tầng lớp thị dân đất Cảng. 21
  22. Gần 2000 năm qua, ghi nhớ công ơn của nữ tướng Lê Chân, đặc biệt công khai phá và lập ra làng An Biên xưa - nay là Hải Phòng, người dân Hải Phòng đã xây dựng đền Nghè(An Biên cổ miếu) thờ bà Lê Chân trên phố Mê Linh, Bà được coi là Thành hoàng của Hải Phòng. Đền Nghè được xếp hạng là di tích quốc gia và được nhân dân coi là chốn linh thiêng. Nhân dân Hải Phòng và các tỉnh lân cận như: Quảng Ninh, Thái Bình, Hải Dương thường đến lễ viếng và tham quan, nhất là những ngày mồng 1 và 15 hàng tháng, người dân đến lễ rất đông. Hàng năm vào dịp 25 tháng Chạp, thành phố Hải Phòng thường tổ chức lễ hội dâng hương tưởng niệm ngày mất của Bà - vị nữ tướng anh hùng - người có công xây dựng và bảo vệ quê hương.Đầu xuân, nhân dân thành phố nô nức đi dâng hương đền Nghè để tỏ lòng chiêm bái, ngưỡng vọng anh linh vị nữ tướng anh hùng của dân tộc. Và sinh hoạt này đã trở thành lệ hay, tục đẹp của người Hải Phòng. Cái tính cách An Biên ấy đã thấm đậm trong tâm linh các thế hệ người Hải Phòng. Những giá trị tinh thần đó trải qua thời gian được kết tinh lại thành giá trị văn hóa vô giá của dân tộc nói chung và trong tâm thức nhân dân thành phố Hải Phòng nói riêng, tiếp nối lưu truyền trong dân gian từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Tiểu kết chƣơng 1 Cách đây gần 2000 năm, từ An Biên trang, huyện Đông Triều, Lê Chân với ý chí đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, đã đến vùng đất ven biển phía đông khai hoang lấn biển, tích trữ lương thảo, rèn luyện quân sĩ và trở thành một nữ tướng tiên phong, kiệt xuất của Hai Bà Trưng. Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, Bà được phong là Thánh chân công chúa, giao giữ chức “Chưởng quản binh quyền nội bộ”. Công tích của Nữ tướng Lê Chân không chỉ được các triều đại phong kiến Việt Nam ghi nhận ban tặng, sắc phong là “Nam hải uy linh Thánh Chân Công chúa” mà còn được nhân dân suy tôn, tưởng nhớ, dựng đền, đình thờ phụng muôn đời. Hệ thống thờ tự Nữ tướng Lê Chân được hình thành trong một không gian rộng lớn từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội đến Nam Hà và trường tồn mãi với 22
  23. thời gian, đến nay đã gần 20 thế kỷ. Nữ tướng Lê Chân trong tâm thức dân gian là Tiền tổ khai canh, là Thánh mẫu, người bảo trợ tinh thần của muôn dân. Hệ thống các di tích thờ phụng Bà, dù có quy mô, kiến trúc khác nhau, song đều là những đài tưởng niệm suy tôn công đức lớn lao của một Nữ tướng đã góp phần quan trọng vào việc giành nền độc lập cho dân tộc trong buổi đầu dựng nước và là người khai hoang, mở đất, đặt nền móng cho việc tạo lập thành phố Hải Phòng ngày nay./. 23
  24. CHƢƠNG 2. TÌM HIỂU CÁC CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC TƢỞNG NIỆM NỮ TƢỚNG LÊ CHÂN Ở HẢI PHÒNG 2.1.Tổng quan về các công trình kiến trúc tƣởng niệm nữ tƣớng Lê Chân ở Hải Phòng 2.1.1.Đền Nghè(An Biên cổ miếu) - một công trình kiến trúc thờ tự tiêu biểu 2.1.1.1.Lịch sử xây dựng Đền Nghè Di tích lịch sử Đền Nghè hiện nay tọa lạc ở trung tâm thành phố Hải Phòng. Vị trí ngôi đền nằm giáp hai mặt phố Mê Linh và phố Lê Chân, thuộc phường An Biên, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Đền Nghè xa xưa thuộc xã An Biên (tên nôm là làng Vẻn), huyện An Dương, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đền Nghè ban đầu là một ngôi miếu nhỏ nằm trên bãi soi, nơi ngã ba sông Tam Bạc gặp sông Cấm, cũng là nơi đầu tiên Lê Thánh Công chúa từ làng quê của mình đặt chân lên vùng đất ven biển. Khi thực dân Pháp xâm lược, theo hòa ước Giáp Tuất (tháng 4 năm 1874), vùng đất này thuộc đất nhượng địa của thực dân Pháp, nhân dân làng An Biên khi đó đã di chuyển Đền Nghè về phía Nam. Đến vùng đất hiện nay thì dây khiêng “thạch quang” bị đứt (theo truyền thuyết, “thạch quang” là vật thiêng do Nữ tướng sau khi mất báo mộng về), khiêng đi không được nên nhân dân đã dựng đền tại đây để thờ phụng [3]. Đền Nghè bản nguyên có thể đã được nhân dân dựng từ rất xa xưa. Trong An Biên thần tích bi ký ghi: Khi Nữ tướng Lê Chân mất, Bà báo mộng cho nhân dân làng An Biên ra bờ sông rước vật thiêng về lập miếu thờ, mọi việc cầu đảo hết thảy đều ứng nghiệm. Ban đầu, đền có thể chỉ là một ngôi miếu thờ nhân thần là nữ nhân vật lịch sử triều Trưng có công đánh giặc Hán đô hộ với tên gọi An Biên cổ 24
  25. miếu (miếu cổ làng An Biên). Miếu xưa chỉ là tranh, tre, nứa, lá, dần dần sau này được làm to đẹp hơn. Đến thời Trần (thế kỉ XII - XIII), Thánh Chân công chúa báo mộng âm phù giúp vua Trần Anh Tông đánh thắng giặc Chiêm Thành nên được phong mỹ tự là Nam Hải uy linh và miếu được cấp tiền tu sửa (văn bia ghi là 100 quan)[8]. Bằng tấm lòng "hằng tâm, hằng sản" của nhiều thế hệ người Hải Phòng, di tích đền Nghè ngày một khang trang. Năm 1919, toà hậu cung 3 gian được xây dựng theo lối "chồng diêm tầng 4 mái". Đặc biệt, trong thời gian từ năm 1924 đến năm 1927 dưới triều vua Khải Định thời Nguyễn, Đền Nghè được nhân dân trùng tu trên quy mô lớn. Trong văn bia tại nhà giải vũ Đền Nghè ghi rõ vào mùa xuân năm Giáp Tý, niên hiệu vua Khải Định năm thứ 9 (năm 1924), dân làng An Biên hội họp để khởi công trùng tu, tôn tạo di tích miếu An Biên; năm 1926 xây tòa thiêu hương, dựng tòa tiền tế , sau ba, bốn năm mới hoàn thành. Riêng nhà tứ phủ Đền Nghè có lẽ công trình này được trùng tu, tôn tạo thời gian sau khoảng cuối thập kỷ 30 của thế kỷ XX. Trải qua thời gian và di chứng củachiến tranh, di tích bị xuống cấp nghiêm trọng. Đến khoảng năm 2007-2009, đền Nghè đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đầu tư cấp kinh phí tu bổ, tôn tạo như hiện nay. 2.1.1.2. Nghệ thuật kiến trúc và các hạng mục di tích tại Đền Nghè Đền Nghè là một công trình kiến trúc tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ nhân thần, bao gồm bên trong đó nhiều hạng mục công trình lớn nhỏ như: nghi môn, toà tiền tế, thiêu hương, giải vũ, Hậu cung, tứ phủ, nhà bia Nghi môn: Nghi môn Đền Nghè có kiểu cửa phương thành, đây là kiến trúc phổ biến vào thế kỷ XIX, một sự kết hợp giữa kiến trúc cổng làng truyền thống người Việt 25
  26. và phong cách kiến trúc phương Tây (kiến trúc vauband như của kinh thành Huế). Nghi môn Đền Nghè gồm 3 cửa vào: Cửa chính giữa (trung quan) là cửa lớn nhất. Đây là cửa thường chỉ được mở vào những dịp lễ chính của đền. Khi rước kiệu thì đội cờ, lọng, đội tế đi cửa này. Cửa bên trái (hữu quan) và bên phải (tả quan) thấp hơn cửa chính giữa. Hai cửa này mở cửa ngày thường cho nhân dân vào chiêm bái. Nghi môn được xây dựng vào đầu thế kỷ XX và được tu sửa lại năm 2007. Trên Nghi môn trang trí nhiều linh vật trong thế giới tâm linh của người Việt như: Chim phượng, lân, rồng Trên trụ phía ngoài cổng có khắc đôi câu đối đề cao công đức của vị thần thờ trong đền: Đức đại yên dân thiên cổ thịnh Công cao hộ quốc vạn niên trường Có thể nói Nghi môn đền Nghè thực sự là một công trình kiến trúc đồ sộ, đẹp và hoành tráng như cổng các cung điện, lăng tẩm, đền đài thời trung cổ. Tiền tế: Qua Nghi môn vào khoảng sân rộng lát gạch Bát Tràng là bước vào không gian chính của Đền Nghè, phía trước là gian Tiền tế. Tiền tế có kiểu tường hồi bít đốc, trang trí trên bờ nóc là hình tượng các linh vật quen thuộc trong tâm thức người Việt. Hai bên bờ nóc là hai đầu rồng ngậm bờ nóc hướng về trung tâm, tiếp theo là hai chim phượng sải cánh trong thế tung bay. Tất cả các linh vật đều hướng về trung tâm trong tư thế chuyển động. Ở trung tâm bờ nóc là một cuốn thư lớn đề 4 chữ Hán “An Biên cổ miếu” (miếu cổ làng An Biên), các chữ được giát những mảnh sứ màu lam long lanh. Tiền tế có kiểu nóc chồng rường con thuận. Trung tâm của gian Tiền tế là ban thờ Công đồng các quan - những người đã phò tá và chinh chiến cùng Nữ 26
  27. tướng Lê Chân. Ban thờ có một nhang án lớn đặt trên long ngai thờ bài vị công đồng, hai bên là hai lọng che, phía trước nhang án là một lư hương lớn đặt chính giữa và hai chầu hướng vào, hai bên nhang án là hệ thống bát bửu.Hai gian bên cạnh tòa tiền tế là nơi đặt Long kiệu và Phượng kiệu tượng trưng cho âm dương đối đãi. Kiệu phục vụ trong những ngày lễ chính của đền. Ngoài ra tiền tế còn đặt một chuông và khánh đá làm bằng đá quý núi Kính Chủ. Tòa Tiền tế được xây dựng năm Khải Định cửu niên (năm 1924) dưới thời Nguyễn, đến năm 2007 được trùng tu tôn tạo lại. Thiêu hương: Qua nhà Tiền bái một khoảng bước chân, nằm chính diện cân đối trên đường thần đạo về phía trong là tòa thiêu hương. Tòa thiêu hương cấu trúc theo kiểu phương đình (nhà vuông). Tòa thiêu hương gồm bốn cột gỗ lớn đỡ các xà liên kết ngang (giũa các cột) và kẻ góc thu về nóc tạo thành hai tầng mái chồng diêm. Phần góc đao trang trí đề tài long phụng hồi chầu. Phần chồng diêm (giữa hai mái) ghép các bức tranh theo đề tài Đạo giáo: Ngọc hoàng thượng đế, Tam thanh. Các bức tranh này xoay quanh nguồn gốc và xuất xứ ly kỳ của Mẫu Lê Chân cho thấy ảnh hưởng sâu sắc của Đạo giáo. Trong tòa Thiêu hương đặt một sập đá lớn, trên sập đá đặt đồ tế khí. Các đồ tế khí được đặt theo nguyên tắc đăng đối qua trục thần đạo. Phần trên là một bức đại tự lớn: Thượng đẳng tôn thần, dẫn theo bản sắc phong của vua Khải Định phong năm 1924 [3]. Trung tâm của Thiêu hương đặt sập thờ. Đây là sập thờ khổ lớn bằng đá, kiểu chân quỳ dạ cá. Mặt sập phẳng mở ra bốn góc, dưới mặt sập là các đường chỉ trang trí cánh sen, hoa cúc dây nổi. Thân sập (dạ cá) trang trí ở bốn mặt: mặt chính 27
  28. diện là “hổ phù hàm thọ” (hổ phù ngậm chữ thọ, biểu trưng cho sự trường tồn), mặt sau là “quy tang”, hai bên trang trí “phượng thư bút” (chỉ đến những nữ giới cao quý có được sự tinh thông thao lược văn võ). Bốn góc sập là bốn mặt hổ phù trang trí bao trùm lên chân sập. Phần chân sập đỡ trên bốn con lân đá trong tư thế phủ phục, mắt mở tròn cảnh giác Các linh vật và các đường nét hoa văn trang trí trên sập đều được khắc nổi vân mây và hoa cúc dây làm nền trang trí, tạo cho sập đá có dáng vẻ mềm mại, các linh vật có hồn, sống động. Sập đá do bà Nguyễn Thị Năm, hiệu là Kỳ Nam cúng tạo vào năm Mậu Dần, niên hiệu Bảo Đại thứ 10 (năm 1938). Sập đá ghi nhớ sự tích Thánh mẫu Lê Chân khi hóa làm Thành hoàng làng An Biên đã hiển linh bàn đá trôi ngược trên dòng sông Cấm, Thánh mẫu Lê Chân đã báo mộng cho dân làng ra bến sông để rước về dựng đền thờ Bà. Hậu cung: Đây là không gian linh thiêng nhất của di tích. Hậu cung là một tòa nhà ba gian kiểu tường hồi bít đốc. Phía ngoài, trên bờ nóc hậu cung trang trí đề tài rồng chầu mặt nhật. Tường hồi hậu cung được cách điệu hình cánh cung mở góc tạo bờ hồi nóc có dáng vẻ mềm mại. Nhìn từ phía hồi chính giữa nóc hậu cung là hình một mặt hổ phù lớn đắp nổi ngậm chữ “thọ”, hai bên là hai đầu rồng chầu vào, phía trên là hình một chim phượng lớn nổi khối sải cánh bay Phía trước hậu cung có kiểu mái chồng diêm, trên đắp các bức phù điêu. Mỗi mảng phù điêu gắn với xuất thân, công trạng và hiển linh của Nữ tướng: Mảng chính giữa miêu tả cảnh sắc núi rừng Yên Tử hùng vĩ; bức phù điêu viết ba chữ Hán “An Tử sơn”, mảng phù điêu này nhằm nhắc lại truyền thuyết trong thần tích: Thân phụ, thân mẫu của đức thánh Lê Chân sau khi lên An Tử sơn cầu tự sinh ra Bà. Mảng phù điêu bên phải miêu tả cảnh đoàn quân khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và Nữ tướng Lê Chân đánh giặc Đông Hán, với khí thế hùng dũng, voi, ngựa, cờ xí, giáo mác rợp trời. Mảng phù điêu bên trái là hình ảnh vua Trần Anh Tông thế 28
  29. kỷXIV cùng đoàn quân hùng hậu, xe ngựa, thuyền rồng đi chinh phạt quân Chiêm Thành, khi đi qua vùng đất An Biên được đức thánh Lê Chân báo mộng âm phù. Trên hiên hậu cung (ngọc lộ) có một bàn đá trên thờ miếu đá. Truyền thuyết kể rằng, khi Bà mất đã hóa thành miếu đá trôi trên sông về vùng đất An Biên và báo mộng cho dân làng rước về thờ. Miếu đá là khối đá vuông, được tạo tác công phu. Trung tâm mặt trước miếu khắc chìm dòng chữ:“Đương cảnh Thành hoàng Nam Hải uy linh Thượng đẳng tôn thần”. Hai bên thân miếu là đôi câu đối: Ngọc miếu tăng sùng, Biên quận nhân tư đúc báo Thạch tọa lưu nghịch, Cấm giang nhật hiển linh thanh. Mặt bên của thân miếu chạm nổi hình cửa võng, bên ngoài rìa thân miếu khắc chìm câu đối chữ Hán, mặt tả ghi: Ngự Hán uy phong đào diệc nộ. Phù Trưng tâm sự thạch do linh Mặt hữu khắc: Hiển tích đức niên, giang hữu thạch Đương hùng trấn cổ, hải vô ba. Miếu đá đặt trên một bàn thờ đá.Bàn thờ đá cũng được tạo tác từ đá nguyên khối có dáng chân quỳ dạ cá.Mặt khối bàn thờ hình chữ nhật đỡ miếu, thân thu gọn vào lòng, dạ cá mở ra để đỡ toàn thân miếu, phía trước mặt bàn thờ đá trang trí hổ phù ngậm chữ Thọ Bên trong Hậu cung, bộ vì nóc có kiểu chồng rường trụ chốn giá chiêng.Trên thượng lương của tòa hậu cung ghi dòng chữ Hán “Hoàng triều Khải Định cửu niên tuế thứ Giáp Tý, Thập nhị nguyệt, sơ lục nhật trùng tu cổ miếu, thụ 29
  30. trụ thượng lương, đại cát” (Ngày 6 tháng 12 năm 1924 trùng tu miếu cổ An Biên, dựng cột, thượng lương tòa hậu cung, việc tốt lành). Chính gian giữa có bức đại tự khắc 4 chữ Hán: “Nghi gia vạn tuế” (Gia đình Nữ tướng Lê Chân mãi mãi được người dân nhớ ơn phụng thờ). Trong cung cấm, trung tâm di tích là ban thờ Nữ tướng Lê Chân.Thần tượng Bà ngự trong khám thờ với dáng vẻ uy nghi, khuôn mặt đôn hậu, xinh đẹp.Gian bên phải hậu cung là ban thờ thân mẫu của Nữ tướng, gian bêm trái là ban thờ thân phụ, hai ban thờ vọng không đặt thần tượng [3]. Giải vũ: Từ hai gian hồi của tòa tiền tế đi vào là đến hai gian giải vũ (tả vũ, hữu vũ).Hai tòa giải vũ được xây kiểu đầu hồi bít đốc trụ đấu, mỗi nhà ba gian mái chảy. Phần tường xây để trống ở phía trước và mở hai cửa nách phía hồi để tiện đi lại sang các công trình khác. Hệ thống giải vũ vì gỗ được làm theo kiểu vì kèo quá giang, biến thể giá chiêng. Điện Tứ phủ Đền Nghè: Điện Tứ phủ nằm trong khuôn viên di tích lịch sử Đền Nghè.Điện hướng mặt về phía Bắc và nhìn ra phố Lê Chân. Trong lịch sử hình thành các đền thờ nữ tướng hay nữ thần thường gắn liền với Tứ phủ thờ hệ thánh Mẫu của người Việt. Tứ phủ đền Nghè cũng được ra đời cùng với sự ra đời của đền thờ Nữ tướng Lê Chân.Ban đầu kiến trúc và thờ tự còn sơ sài, hiện nay là công trình kiến trúc được tu sửa vào năm 2007 - 2009. Tứ phủ Đền Nghè có kiểu chuôi vồ (chữ Đinh), gồm một tòa Tiền bái, một tòa hậu cung và hai gian phụ hai bên. Tiền bái là tòa nhà có kiểu tường hồi bít đốc. Phía ngoài, có hai trụ biểu lớn ngự hai bên hồi, trên có đôi câu đối ca ngợi vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của vùng đất này.Trên nóc Tiền bái, ở trung tâm trang trí lưỡng long chầu mặt nguyệt do một 30
  31. hổ phù lớn ngậm theo tích “hổ phù ọe mặt trăng”, hai bên là hai chim phượng sải cánh và phía góc có hai đầu rồng ngậm nóc mái. Bên trong, Tiền bái có kiểu vì chồng rường con thuận, ở trung tâm gian Tiền bái đặt ban thờ Công đồng các quan.Hai bên tòa Tiền bái là nơi thờ các ông Hoàng, bên trái thờ ông Hoàng Mười, bên phải thờ ông Hoàng Bảy. Từ trung tâm của Tiền bái đi vào Hậu cung là một tòa ống muống 2 gian kiểu chồng rường giá chiêng.Gian phía trước là nơi thờ Ngũ vị tôn ông. Gian trong cùng Hậu cung và là trung tâm của di tích là nơi đặt ban thờ Tam tòa Thánh mẫu. Ba vị Mẫu cai quản 3 miền: trời, đất, nước. Bên cạnh các Mẫu có các hầu cô, tiên cô, nàng Hương, nàng Thị giúp việc. Hai gian bên cạnh Tam tòa, gian bên trái là ban thờ vị Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, thần tượng đặt trong khám thờ trong tư thế ngồi, tượng mặc văn phục, tay cầm hốt lệnh điều quân. Gian bên phải Tam tòa thờ Mẫu Sơn trang, vị Mẫu cai quản miền núi rừng. Ban thờ được dựng giống với một sơn động có núi non, thác nước, cây cỏ và hang động. Mẫu mặc áo xanh, ngồi trong tư thế ngồi thiền động, bên cạnh có nhiều tiên cô giúp việc theo hầu [10; 46-47]. Nhìn tổng thể, hệ thống kiến trúc Đền Nghè gồm các công trình bố cục tạo thành chữ “Hồi”.Trong Hán ngữ, “Hồi” có nghĩa là trở về.Trong dân gian, vùng đất An Biên xưa và Hải Phòng ngày nay là nơi Nữ tướng đã gắn bó cuộc đời và sự nghiệp của mình, là nơi Bà tâm huyết dựng xây, khi mất, Bà đã hiển linh về vùng đất này để báo mộng cho nhân dân rước về làm thành hoàng trấn giữ vùng đất này. Trang trí Đền Nghè ngoài những đề tài tứ quý, tứ linh, tam đa, tam tài , còn thường xuyên xuất hiện một trong những đề tài nổi bật là hình ảnh chim phượng.Chim phượng được trang trí trực tiếp trên thức kiến trúc, trên đồ tế khí, tại các cửa võng, các bứcđại tự Phượng là loài chim thiêng biểu tượng cho thần linh, sự tinh khiết cao cả, phượng mang yếu tố âm, đặc trưng cho nữ thần, cho hình ảnh 31
  32. mẫu nghi thiên hạ, hiện diện trong tín ngưỡng Tứ phủ thờ Mẫu, đại diện cho lời cầu nguyện về sự sinh sôi, sựphát triển, sự thịnh vượng. Hệ thống thờ tự ở đền Nghè được xếp vào hàng "Kinh điển" trong nghi thức tín ngưỡng cổ truyền của người Việt. Nghi thức thắp hương dâng cúng ở đền Nghè cũng giống như ở nhiều đền miếu khác, được tiến hành theo thứ tự từ ngoài vào trong, từ phải sang trái, lên đền rồi xuống phủ Như vậy, các công trình kiến trúc của đền Nghè tạo thành một tổng thể không gian kiến trúc khép kín, tuân thủ theo phong cách cổ truyền dân tộcmang phong cách thời Nguyễn. Quy mô đền tuy không lớn nhưng bố cục cân đối hài hoà, thông qua các đồ án trang trí thể hiện kiến trúc để phản ánh ước mơ, nguyện vọng của người đương thời và là "thông điệp văn hoá" gửi lại cho đời sau. Di tích lịch sử đền Nghè là một di sản văn hoá "Viên khung" của thành phố, của đất nước, nơi bảo tồn nhiều nếp sinh hoạt cổ phong lành mạnh, góp phần làm phong phú kho tàng văn hoá vật thể và phi vật thể của người Hải Phòng. 2.1.1.3. Lễ hội Đền Nghè xưa Tại Đền Nghè trong một năm diễn ra rất nhiều dịp lễ hội, đó đều là những ngày lễ có liên quan trực tiếp đến cuộc đời và hành trạng của nữ tướng Lê Chân - vị thần chủ được thờ tự trong Đền. Có thể kể tên những lễ thức và lễ hội sau: Lễ Thánh đản: Lễ Thánh đản là lễ hội chính của Đền Nghè. Lễ hội diễn ra từ ngày mồng 7 đến ngày mồng 10 tháng 2 Âm lịch hằng năm. Đây cũng là dịp để tưởng nhớ ngày sinh của Thánh Chân Công chúa (ngày mồng 8 tháng 2 âm lịch). Gắn liền với không gian lễ hội của làng An Biên xưa và nay là các di tích: Đình An Biên và Đền Nghè (An Biên cổ miếu). Đình làng là không gian chính 32
  33. diễn ra hội làng, miếu là nơi thờ thánh và là nơi xuất phát lễ rước anh linh thần về đình bái tế an vị. Tuy đình là nơi diễn ra các hoạt động chủ yếu của hội làng An Biên nhưng thánh ngự tại Đền Nghè, vì vậy tại Đền Nghè các nghi lễ luôn được cử hành trang nghiêm, kính cẩn. Trước khi tiến hành Lễ Thánh đản, nhân dân trong làng cử ra một Ban hành lễ để điều hành lễ hội.Theo truyền thống trọng xỉ, những người trong Ban hành lễ là các cụ cao tuổi trong làng và các vị chức sắc hàng tổng (Chánh tổng, Phó Chánh tổng) và xã (Lý trưởng, Tiên chỉ ). Những người tham gia trong thời gian diễn ra lễ hội phải kiêng kị nhiều điều: gia đình không có tang ma,con cái song toàn,mạnh khỏe,kiêng kị chuyện chăn gối Ngày mồng 7 tháng 2 nhân dân thực hiện Lễ Nhập tịch (còn gọi là Lễ vào đám).Lễ Vào đám là lễ chuẩn bị cho ngày chính lễ.Trong ngày này,Thủ từ biện lễ cáo thần xin phép được chuẩn bị cho ngày chính hội.Thủ từ cùng những người trông coi đền chỉ đạo việc quét dọn vệ sinh khu đền,loại bỏ những đồ hư hỏng trong đền,sắm sửa bổ sung các trang thiết bị cần thiết phục vụ lễ hội. Trong ngày mồng 7, Thủ từ làm Lễ Mộc dục (Lễ tắm tượng),một nghi lễ quan trọng trong Lễ vào đám với mong muốn tượng mới sẽ đem lại hạnh phúc ấm no cho người dân. Sau khi tiến hành Lễ Mộc dục là Lễ Cáo yết.LễCáo yết là lễ báo cáo với thần linh mọi công việc chuẩn bị đã hoàn tất để chuẩn bị cho ngày chính lễ.Lễ vật dùng trong Lễ Cáo yết gồm 2 mâm xôi,2 con gà. Lễ Tế là nghi lễ trang nghiêm và long trọng nhất tại Đền Nghè.Lễ vật do Cai đám của năm đó phụ trách,chủ yếu là lợn: 4 con lợn,mỗi con khoảng 70kg. Ngoài lễ phẩm,Ban hành lễ cử người viết văn tế,thường do một người hay chữ,có uy tín trong làng viết (các thầy cúng hay các ông nghè).Văn tế ca ngợi công đức của vị thánh,thể hiện được ước muốn của nhân dân hướng lên Lê Thánh Công chúa để được ban ơn mưa móc cho mùa màng bội thu,hải vật phong phú,cầu mong sự phù 33
  34. trì để nhân dân ấm no,quốc thái,dân an,nhân khang vật thịnh.Lễ Tế điễn ra theo lần lượt là Lễ trình rồi tới Lễ Tiến phẩm.[3] Sau khi lễ tế tại Đền Nghè kết thúc,đoàn rước sẽ đưa bát nhang từ Đền Nghè lên kiệu để rước về đình An Biên.Trước khi kiệu khởi hành từ Đền Nghè,trống chiêng đánh liên hồi để mọi người biết được chuẩn bị tham gia.Khi rước kiệu ra khỏi đền,kiệu dừng lại một hồi để mọi người xếp vào hàng.Thứ tự rước đã được sắp xếp từ trước và tuân thủ đúng theo một nghi lễ rước truyền thống: Cờ hiệu, trống, bát bửu, chấp kích, bát âm, kiệu võng Theo quy định từ xưa,đoàn rước đi từ Đền Nghè,qua lối Cầu Đất rẽ vào Cát Dài để vào đình An Biên.Thời gian rước khoảng 1 canh giờ (khoảng 2 tiếng đồng hồ).[3] Vào dịp rước Thánh Lê Chân,nhân dân trong vùng và khách thập phương nô nức kéo về trẩy hội,nhân dân hòa vào đoàn tế,đứng hưởng ứng hai bên đường để chiêm ngưỡng anh linh của Lê Chân Thánh Mẫu ban phát ơn mưa móc cho mọi người. Kiệu thánh rước về tế an vị tại đình An Biên. Trong đình,Ban hành tế tiếp tục thực hiện lễ tế,đọc chúc văn và hóa chúc.Sau khi phần lễ xong,các trò chơi diễn ra sôi nổi.Các hoạt động thường diễn ra ở đình.Tuy nhiên,với quy mô của một hội làng,hầu hết tại các điểm di tích đều có các hoạt động trò chơi,nhưng nổi bật nhất vẫn là các trò chơi diễn ra ở đình An Biên và Đền Nghè, tiêu biểu như: Trò đấu vật,trò chơi pháo đất,đánh phết,đánh cờ Các trò chơi này gắn với xuất xứ từ lúc sinh thời của nữ tướng nhằm luyện tập sức khỏe và giải trí sau giờ luyện tập thao trường của quân lính và được dân gian hóa và duy trì qua nhiều thế hệ,ăn sâu vào tiềm thức của nhân dân trở thành một dịp lễ hội vui chơi giải trí sau những ngày mưa nắng ngoài đồng. 34
  35. Một trong những nét đặc sắc nhất trong phần Hội của Lễ hội chính của Đền Nghè chính là hội thi hoa thủy tiên.Đây là một nét đẹp văn hóa của nhân dân Hải Phòng từ xa xưa.Hội được tổ chức phổ biến khoảng đầu thế kỷ XX.Theo nguồn tư liệu của Hội hoa hữu cung cấp: từ năm 1920 đến năm 1943, hằng năm, Đền Nghè đều mở Hội thi hoa Thủy tiên. Chỉ những dòng Thủy tiên có hoa cánh trắng mới được tham dự thi để dâng cúng nữ anh hùng vào ngày mồng 8 tháng 2 âm lịch, ngày Thánh đản của nữ tướng. Hội kéo dài trong 3 ngày. Thủy tiên là một trong các loài hoa nở sớm nhất vào lúc chớm xuân, sau những tháng ngày dài rét mướt của mùa đông.Trong những ngày tết xưa kia tại miền Bắc Việt Nam, mỗi gia đình phong lưu đều có một bát Thủy tiên để trưng bày trên bàn thờ, trong phòng khách giúp tôn thêm vẻ tươi vui, ấm cúng của ngày xuân. Trước đây, hằng năm cứ đúng vào ngày mồng 8 tháng 2 Âm lịch - ngày đản sinh của nữ tướng Lê Chân và cũng là ngày khai hội Đền Nghè, những người trong “Hoa hữu hội” Hải Phòng lại cùng với nhân dân làng Vẻn khai mạc Hội thi hoa Thủy tiên. Người Hải Phòng đinh ninh rằng, nếu hội thi tuyển chọn đúng được những bình hoa Thủy tiên đẹp nhất để làm lễ dâng lên Thánh mẫu Lê Chân thì đời sống của mọi người nằm trong quyền năng, tha lực của Thánh Mẫu sẽ tươi đẹp suốt trong năm. Thông thường thì mỗi năm có khoảng trên dưới 30 bình hoa và một số chậu hoa dự thi.Tên và địa chỉ của các chủ hoa được viết trên giấy hồng điều, rồi đem dán ngược vào các thành bình và chậu hoa để khi chấm đảm bảo khách quan, vô tư. Ban giám khảo gồm những người sành chơi hoa và có uy tín trong Hoa hữu hội Hải Phòng và các vị chức sắc, dòng họ gốc của làng An Biên có am hiểu về hoa Thủy tiên. Những người trong ban giám khảo không được dự thi. Tất cả những bình hoa trúng giải xếp thành 4 loại để ở 4 vị trí khác nhau.Hai bình đoạt giải nhất gọi là “Giải nguyên” và “Á nguyên”.Giải của “Giải nguyên” được hưởng một đôi câu đối 35
  36. vóc, một cân chè Thái (gồm 8 bình chè tầu hảo hạng), một quạt tầu và 3 nghìn pháo tép.Giải “Á nguyên” kém hơn chút ít, được 1 đôi câu đối vóc, nửa cân chè Thái hảo hạng, một quan tầu và 1 nghìn pháo. Một bình được tặng giải nhì, gọi là giải “Đệ nhị” được hai bình chè, 5 vuông vóc và một quạt tầu.Một bình được tặng giải ba, gọi là giải “Đệ tam” được hưởng 1 bình chè Thái, 3 vuông vóc và một quạt tầu. Mười bình được tặng giải khuyến khích, gọi là giải “Thiên thủ”, mỗi giải được một bình chè Thái, 1 vuông vóc và một quạt tầu. Ngoài ra còn một giải tặng cho 2 chậu hoa đẹp nhất, được thưởng một bình chè, 1 vuông vóc và một quạt tầu[1; 38]. Hội thi hoa Thủy tiên ở Đền Nghè dường như đã trở thành hội xuân truyền thống của người Hải Phòng, mặc dù loài hoa này mới được du nhập vào đất Việt từ khoảng những năm đầu thế kỷ XX. Đáng tiếc, từ sau cuộc thi hoa Thủy tiên năm Quý Mùi (1943), hội thi bị gián đoạn đến ngày nay.Nguyên nhân là do thời điểm đó, phát xít Nhật tấn công Trung Quốc, đánh phá mạnh xuống vùng Hoa Nam, cắt đứt đường đưa hoa Thủy tiên từ vùng Hoa Nam (Trung Quốc) sang Hải Phòng. Hiện nay, Hội thi hoa Thủy tiên ở Đền Nghè đã bị thất truyền.Tuy nhiên, đây là một sinh hoạt tiêu biểu ở Đền Nghè nói riêng và ở thành phố Hải Phòng nói chung, do vậy, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân thành phố đều mong muốn sớm khôi phục lại hội thi này. Cùng với việc Đền Nghè đã được công nhận là Di tích Quốc gia năm 2009, việc tu bổ di tích đã hoàn thiện, khuôn viên di tích đã được mở rộng hơn trước kia, do vậy, việc khôi phục Hội thi hoa Thủy Tiên là một việc làm cần thiết nhằm bảo tồn di sản văn hóa quí giá này. Lễ mừng thắng trận (Lễ Khánh hạ): Hằng năm, vào ngày 15 tháng 8 âm lịch, dân làng lại tổ chức Lễ khánh hạ tại Đền Nghè,mừng ngày nữ tướng Lê Chân thắng trận trong cuộc khởi nghĩa thời kỳ đầu. Lễ vật gồm lễ chay: hương,hoa,xôi,quả và lễ mặn: lợn phải làm sạch,bỏ ruột và gan,thờ có thủ (đầu) và vĩ (đuôi). Sáng ngày 15,dân làng tiến hành rước anh linh 36
  37. Lê Thánh Công chúa từ đền Nghè về đình An Biên.Tại Đền Nghè,lễ được Ban hành lễ cử hành long trọng.Mở đầu hội là cuộc rước ngai,mũ,ấn từ đền Nghè về đình làng,khi rước phải xin phép Thành hoàng cho dân được cử hành lễ (thứ tự rước giống như trong lễ Thánh đản).Đi đầu đoàn rước là người cầm cờ,rước phướn đủ màu sắc; theo sau là các hiệu chiêng,hiệu trống,phường bát âm,sau nữa là các bô lão. Khi về đến đình cử hành lễ tế.Đặc biệt,những người chủ trì và tham dự lễ thiêng là phụ nữ,các vai nữ quan cũng tế theo nghi lễ truyền thống. Tế lễ xong,lễ vật được đem chia đều cho dân làng,không phân biệt nam hay nữ đều có phần.Sau lễ tế,dân làng tổ chức các hội vui chơi.Lễ hội diễn ra trong 3 ngày.Trong hội,dân làng diễn nhiều trò vui: cờ người,đấu vật, thi tài,ban đêm thì hát xướng Lễ giỗ: Lễ giỗ Thánh Chân Công chúa tại đền Nghè diễn ra vào ngày 25 tháng chạp hằng năm.Lễ vật ngoài hương hoa trà quả và rượu trắng còn có hải sản vùng biển là cua bể,tôm và bún.Cua bể (long đằng) và tôm (hải giải) là những con to,tươi ngon,bún phải là bún sợi nhỏ,trắng,được làm bằngthứ gạo thơm,sạch sẽ. Nguồn gốc lễ vật này gắn với sự hi sinh và hiển linh của Nữ tướng Lê Chân.Truyền thuyết kể rằng: Khi cuộc khởi nghĩa của nữ tướng tan rã,Bà đã đầm mình xuống sông (vùng Hà Nam),và báo mộng cho người dân làng An Biên rằng: “Nay ta đã hết duyên trần phải về thiên đình chầu thượng đế. Thượng đế ân phong làm Thành Hoàng,các ngươi nếu mai ra bờ sông thấy vật gì lạ thì rước về mà thờ phụng”. Người dân tỉnh mộng,sớm hôm sau cùng mọi người ra bờ sông, bỗng thấy có phiến đá từ từ trôi ngược dòng nước,nhân dân các nơi thấy lạ dâng lễ quỳ lạy nhưng phiến đá không vào.Dân làng An Biên trông thấy như ứng trong mộng bèn vào chợ mua sắm lễ vật,nhưng lạ thay mới phiên chợ buổi sáng mà chỉ có một sóc cua bể,một chao tôm và một mâm bún,bèn mua rồi dâng lên hương án,cùng nhau sụp lạy. Bỗng phiến đá từ từ trôi vào bờ,nhìn kỹ thì trên phiến đá có một miếu đá,trong miếu ghi dòng chữ: 37
  38. Thánh Chân Công chúa. Nhân dân rước về,lập đền thờ phụng,đến ngày giỗ,lễ tế không bao giờ thiếu một sóc cua bể,tôm và một mâm bún[8]. Lễ hội gồm tế lễ và các hoạt động hội.Lễ hội làng An Biên gắn với xuất xứ của người khai sinh ra vùng đấtvà cũng mang đậm yếu tố rèn luyện trong thực tế lao động và chiến đấu bảo vệ quê hương,đất nước. Hội làng An Biên thu hút nhiều lứa tuổi,nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Một số trò tiêu biểu thường được tổ chức như: vật,đánh phết,bơi chải,cờ tướng,cờ người,đấu gà Ngày nay,do những điều kiện về cơ sở hạ tầng,về không gian đô thị , lễ hội Đền Nghè nói riêng và ở nhiều di tích thờ Nữ tướng nói chung đã bỏ qua một số nghi thức truyền thống. Ở Hải Phòng lễ tế,lễ rước,các trò chơi chưa thể hiện được uy thế của một lễ hội với khí thế ra trận và tinh thần hào hùng thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa với vị trí là tuyến phòng thủ trọng yếu miền cửa biển. Vì vậy,cần bảo tồn và phục dựng những giá trị truyền thống tại Đền Nghè để đáp ứng yêu cầu,nguyện vọng của đông đảo nhân dân thành phố Hải Phòng. 2.1.2. Đình An Biên - nơi thờ Thành hoàng làng An Biên - Thánh Chân công chúa 2.1.2.1. Lịch sử xây dựng đình Từ khu vực trung tâm thành phố Hải Phòng đi theo đường Cầu Đất rồi rẽ vào phố Hai Bà Trưng (Cát Dài) khoảng 200m là tới di tích đình An Biên, nơi thờ Nữ tướng Lê Chân, người khai phá vùng đất Hải Phòng và tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 sau Công nguyên. Sau khi Bà hy sinh, nhân dân trang An Biên dựng ngôi miếu ở xứ Đồng Mạ để hương khói thờ Bà.Đến đời vua Trần Anh Tông, vì có công âm phù giúp vua Trần đánh thắng giặc Chiêm Thành, Bà được vua Trần phong là Thành hoàng trang An Biên. Các triều đại sau đều gia phong mỹ tự. 38
  39. Khởi thủy, vào cuối thế kỷ XIX, đình An Biên còn lợp tranh, vách liếp, nằm ở địa điểm “Lục Hải Thông” (phố Quang Trung ngày nay). Khi người Pháp qui hoạch xây dựng Hải Phòng, cho đào con kênh Bon nan (sông Lấp) để phân chia ranh giới người Âu, người Việt, họ đã phá dỡ ngôi đình đó và bắt dân làng di dời địa điểm của đình. Nhận thấy khu vực hiện nay vị trí thuận lợi ngay cửa sông Cấm, nhân dân quyết định dựng ngôi đình mới tại đây,vì thế, đình An Biên còn có tên là đình Đông An. Công trình được hoàn thành vào năm 1929 [10; 105]. Đình và miếu An Biên là những di tích gắn liền với sự nghiệp của Nữ tướng Lê Chân, nơi bà chỉ đạo khai hoang lập ấp, phát triển nông nghiệp, chăn nuôi cho nhân dân đồng thời cũng là nơi ghi dấu Bà đã khởi binh tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng giành thắng lợi. 2.1.2.2. Giá trị kiến trúc - nghệ thuật của Đình An Biên Khác với nhiều ngôi đình truyền thống ở làng quê Việt Nam thường thờ các nam thần, đình An Biên gắn liền với nguồn gốc là nơi thờ một nữ nhân vật lịch sử.Đây là ngôi đình có quy mô to lớn, tồn tại khá nguyên vẹn giữa lòng thành phố đông đúc.Từ ngoài đường người ta đã có thể dễ dàng nhận ra ngôi đình cổ nhờ những mái ngói rêu phong, đầu đao cong vút Đình An Biên tọa lạc trên khuôn viên hình chữ nhật rộng chừng 3000 m².Mặt bằng kiến trúc bố cục theo lối chữ Công (I) gồm 5 gian đại đình, 3 gian ống muống và 3 gian hậu cung. Tòa đại đình: Tòa đại đình gồm 5 gian.Trên mái, trung tâm trang trí đề tài phượng chầu mặt nhật, đôi chim phượng hướng vào trung tâm mái.Bờ nóc là 2 đầu rồng ngậm bờ nóc.Dưới bờ nóc một chút là một cặp kì lân đầu hướng vào trung tâm.Mái đao tòa đại đình trang trí đôi chim phượng mềm mại uốn lượn cuốn theo bờ nóc và kẻ góc. 39
  40. Bên trong tòa đại đình, cột đình là những thân gỗ lim đại thụ, đứng trên chân tảng là những phiến đá khối tạo dáng trên tròn giật cấp, giữa hình lục lăng còn đáy là khối vuông dày. Cột lớn cho nên các bộ phận khác cũng được lựa chọn sao cho thật hài hòa,như câu đầu,cột trốn,xà thượng,xà hạ,rường,đấu,hoành rui cũng khá nặng nề. Hệ thống mái đình được nâng đỡ bởi 6 bộ vì kèo.Các bộ vì được làm tương tự nhau,kết cấu kiểu "giá chiêng,chồng rường,đấu sen" truyền thống.Cốn của đình chủ yếu là các con rường kê sát nhau,thường qua đấu sen. Bề dày đấu bằng bề dày rường nên các mảng trang trí vẫn được liên tục. Đề tài phổ biến ở các bộ vì là một vài đồ án hoa lá cách điệu,đấu sen mảnh mai chỉ có tác dụng làm đẹp cho kiến trúc,chứ chưa phản ánh được nguyện ước người đương thời. Chỉ có vì cốn gian trung tâm tiền đường và bẩy hiên được chạm nổi trang trí tứ linh,tứ quý,hoa sen,hoa cúc hòa cùng sóng nước,mây bay. Toàn bộ tòa đại đình được trang trí 18 chiếc cửa võng theo các đề tài “rồng chầu mặt nhật”, rồng uốn dây hoa cúc, phượng uốn hoa cúc [10; 106]. Tòa ống muống: Tòa ống muống là ngôi nhà nối giữa đại đình và tòa hậu cung gồm 3 gian, hệ thống mái được nâng đỡ bởi 4 vì kèo gỗ lim. Các vì có kết cấu kiểu “chồng rường giá chiêng” và “ván mê”. Ba gian ống muống (hay còn gọi là nhà cầu).Bộ mái được làm theo lối "mái đao tầu thực" với các đao cong mềm mại như đang nhảy múa dưới nắng buổi sớm và gió buổi chiều. Mái lợp ngói mũi hài khía hoa,từ xa trông lại như muôn ngàn tinh tú lung linh.Các tòa nhà được thể hiện cao dần từ ngoài vào trong,tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp và phô diễn vẻ đẹp cho các trang trí trên bộ mái kiến trúc.Dù chỉ là đề tài quen thuộc như "rồng chầu phượng mớm","lá lật","phượng chầu mặt nguyệt","thủy quái Ma-ka-ra" ở "Hồi long","Kỳ lân" nơi góc mái nhưng được lắp theo lối tượng tròn,hình khối lớn gắn vảy sành rất sống động và có hồn,không thua kém những trang trí ở cung điện Huế bao nhiêu. 40
  41. Tòa ống muống chia thành 6 lớp cửa võng.Trên cửa võng thứ 3, thứ 4, thứ 5 đều đề các cuốn thư lần lượt ghi: “Phù quốc an dân” “Ân lộ Hải vũ” “Nam thiên Thánh nữ”. Tòa ống muống được bố trí đầu tiên là cờ ngũ sắc, tiếp theo bên phải đặt một cái chiêng, bên trái đặt một chiếc trống nhỏ, rồi lần lượt tới hệ thống bát bửu sau bát bửu là 2 lọng che, cặp hạc chầu, hồng mã, bạch mã. Tòa ống muống chia đôi mảnh sân hẹp trước hậu cung (đồng thời là phía sau đại đình) thành hai phần đều nhau.Phía ngoài 2 khoảng sân dựng nhà tả mạc và hữu mạc gọn gàng, tương tự nhau gồm 3 gian nho nhỏ[10; 107]. Tòa Hậu cung: Tòa hậu cung gồm có ba gian,song song với tiền đường.Tường hồi xây bằng gạch tạo dáng quai chảo,mặt ngoài đắp nổi trang trí rất cầu kỳ.Bốn góc dựng cột kiểu cột đồng trụ vuông,đỉnh cột có nghê chầu,mặt mũi dữ tợn.Gian trung tâm tạo thành cung cấm trong đồ hình vuông như một kiến trúc độc lập gồm 3 tầng 8 mái nhờ bốn cột gỗ limcao to.Nhìn bên ngoài,2 tầng trên của cung cấm như một ngôi lầu 2 tầng,tám mái antọa cân đối chắc chắn ở giữa mái ngói tòa hậu cung để trình diễn vẻ đẹp kiêu sa của mình. Hệ thống bậc tam cấp dẫn lên hiên tòa tiền đường ghép bằng những phiến đá vôi liền khối,tường đá ghép đỡ mái đao và hệ thống cửa gỗ kiểu "cửa tùng khung khách",cùng với hai dãy nhà chè song song với tòa ống muống,lợp ngói âmdương đã cùng hòa kết với nhau tạo nên nét uy nghi,chắc chắn và bề thế cho ngôi đình tân cổ. Gian trung tâm hậu cung đặt ban thờ Thành Hoàng có kiến trúc kiểu lầu điện, cao 3 tầng, 4 mái giống gác chuông, gác trống,trên có đặt các long ngai bài vị của Bạch hổ tôn thần, Thiên quan Đại vương. Sau ban thờ Thành hoàng là nơi thờ Thánh Chân công chúa, hai bên ban thờ là cặp bình lớn, lọng che. 41
  42. Trong cung cấm là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân và song thân của ngài.Trung tâm của gian là bức đại tự lớn đề 4 chữ Hán “Nữ tướng Lê Chân”; cữa võng của gian trang trí đề tài rồng chầu mặt nhật, dây nho uốn.Thần tượng Nữ tướng Lê Chân được đặt trong khám thờ dáng vẻ uy nghi.Hai bên ban thờ là lọng che, trước mặt hai bên ban thờ là hệ thống chấp kích. Gian bên phải ban thờ Nữ tướng là ban thờ thân phụ của ngài, gian bên trái thờ thân mẫu[10; 108]. Tứ phủ Đình An Biên: Bên phải gian hậu cung là Tứ phủ đình An Biên thờ Tam tòa thánh mẫu, trên cửa võng của tòa Tứ phủ chạm khắc hình ảnh phượng uốn dây hoa cúc. Trung tâm cửa võng là một cuốn thư lớn trên đề 4 chữ Hán “Tứ phủ công đồng”. Cuốn thư trên trang trí hình ảnh chim phượng bên dưới là hình một con rồng uốn mình. Dọc theo mép nóc Tứ phủ, bên phải là mô hình bạch xà, bên trái là thanh xà. Tường hồi phía sau tòa Tứ phủ trang trí đề tài long vân vũ hội với 2 con rồng hướng vào trung tâm. Hai bên chân ban thờ là 2 cậu đồng. Trên ban thờ Tứ phủ ngồi trước là 3 ông Hoàng (ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Bảy, ông Hoàng Mười ). Đứng bên cạnh 3 ông là cô Bơ và cô Bảy.Tiếp theo sau 3 ông Hoàng là Ngũ vị tôn ông, sau Ngũ vị tôn ông là Tam tòa thánh mẫu. Phía sau Tam tòa thánh mẫu là Ngọc Hoàng đại đế ngự trên long ngai uy nghi, phía sau là vị Thiên thủ bồ tát.Trên cùng gian thờ là tượng Phật tổ.Trên ban thờ trung tâm đặt một lư hương lớn hai bên là hai ngọn liên đăng. Bên trái Tứ phủ có một gian thờ Mẫu Sơn trang mô phỏng diện tích tương đối nhỏ.Bên trái gian hậu cung chính là gian thờ Đức Thánh Trần. Bên cạnh khám thờ là Nhị vị Vương cô.Dưới ban thờ bên trái có cặp voi tượng trong tư thế thủ phục. Mặt trước ban thờ chạm khắc hoa lá trung tâm là hình ảnh Tam kì lân chầu nhật[10; 109]. 42
  43. Ngoài các công trình kiến trúc kể trên, trong khuôn viên đình An Biên, ngoài sân, phía bên trái đường thần đạo là nhà bia công đức. Tòa nhà có kiểu kiến trúc phương đình.Trên mái phần trung tâm trang trí theo đề tài lưỡng long chầu nhật. Mái đao là 4 con rồng uốn lượn theo bờ nóc. Tứ trụ nhà bia được ôm trọn bởi 4 con rồng mềm mại cuốn lấy thân trụ. Nhà bia là công trình ghi lại công trạng hoặc đóng góp của các tộc họ An Biên trong việc khắc phục tu tạo đình từ năm 1992. 2.1.2.3. Lễ hội đình An Biên Cũng giống với nhiều di tích khác tưởng niệm Nữ tướng Lê Chân, Đình An Biên tổ chức các ngày Đại lễ gắn liền với cuộc đời sự nghiệp của Nữ tướng.Nét đặc biệt trong Lễ phẩm của đình An Biên, ngoài những lễ vật cần có như lợn quay, bánh dày, rượu, trầu cau, bánh kẹo, hoa quả Lễ tại đình An Biên nhất thiết phải có mực khô, cá khô, tôm, bún (Những thứ sinh thời tương truyền là được nữ tướng ưa thích).Người dân làng Vẻn tưởng nhớ tổ chức tại nhà cũng nhất thiết phải chuẩn bị lễ vật này.Tuy nhiên tại đình An Biên thường chỉ tổ chức long trọng Lễ Thánh đản và Lễ Khánh hạ.Lễ giỗ đình chỉ tiến hành tổ chức nội bộ cúng cơm như bình thường. Lễ Thánh đản: Lễ hội diễn ratừ ngày mồng 7 đến ngày mồng 10 tháng 2 Âm lịch hằng năm.Đây cũng là dịp để tưởng nhớ ngày sinh của Thánh Chân Công chúa (ngày mồng8 tháng 2 âm lịch).Trình tự của Lễ hôi tại Đình An Biên có nhiều nét tương đồng với lễ hội diễn ra tại Đền Nghè: cử Ban hành lễ - Lễ Nhập tịch (Lễ vào đám) - Lễ Mộc dục (Lễ tắm tượng) - Lễ Cáo yết - Lễ rước - Tế đại tế - Lễ rã đám. Tuy nhiên, lễ hội đình An Biên có một điểm khác biệt lớn so với ở Đền Nghè là nếu như tại Đền Nghè lễ tế diễn ra trước rồi mới cử hành lễ rước thì tại Đình An Biên, lễ rước diễn ra trước và thường rước anh linh nữ tướng từ đền Nghè về đình (rước 43
  44. Ngài từ nơi ngài ngự (Miếu) về nơi ngài dự (Đình)) rồi sau đó mới tổ chức tế Đại tế. Đội lễ tế thường là đội nữ quan. Lễ mừng thắng trận (Lễ Khánh hạ): Vào ngày 15 tháng 8 Âm lịch, nhân dân làng An Biên lại tổ chức lễ mừng thắng trận.Lễ vật gồm lễ chay: hương,hoa,xôi,quả và lễ mặn. Mở đầu hội là cuộc rước ngai,mũ,ấn từ đình An Biên rước về đền Nghè,khi rước phải xin phép Thành hoàng cho dân được cử hành lễ (thứ tự rước giống như trong lễ Thánh đản).Đặc biệt,những người chủ trì và tham dự lễ thiêng là phụ nữ,các vai nữ quan cũng tế theo nghi lễ truyền thống. Tế lễ xong,lễ vật được đem chia đều cho dân làng,không phân biệt nam hay nữ đều có phần. Phần Hội: Sau khi diễn ra phần tế lễ nhân dân làng An Biên lại hòa mình vào không khí náo nhiệt của phần hội.Nếu như tại Đền Nghè là nơi diễn ra những nghi thức tế lễ trang nghiêm thì đình An Biên lại là nơi chủ yếu diễn ra các trò chơi thú vị.Với không gian rộng sân đình An Biên là nơi diễn ra các hoạt động vui chơi trong đó tiêu biểu phải kể đến một số trò dân gian tiêu biểu như: Đấu vật, đánh phết, cờ người Đấu vật: Hội vật làng An Biên cònghọi là vật đập đất (vất ngã xuống đất) thường diễn ra vào mồng 3 Tết Âm lịch và ngày 8 đến mồng 10 tháng 2 Âm lịch. Hội diễn ra trong không khí của ngày lễ tưởng nhớ công trạng lúc sinh thời của Nữ tướng Lê Chân.Truyền thuyết kể rằng,bà là một nữ tướng của Hai Bà Trưng trấn giữ một miền,Bà đã cho quân sĩ luyện tập bằng cách đấu vật để rèn luyện sức khỏe,cổ vũ tinh thần và xung khí chiến trận. Trong thời bình,vật là hoạt động dân gian mua vui cho dân chúng,khi có chiến sự,việc có sức khỏe và luôn duy trì tinh thần thượng võ quyết thắng là những đóng góp rất quan trọng của môn thể thao truyền thống này.Thông thường,các đô vật là các trai đinh mạnh khỏe trong các 44
  45. giáp đăng kí tham dự.Sau này,khi Hội vật phát triển ở nhiều địa phương đã hình thành các lò vật nổi tiếng.Khi hội vật làng An Biên mở ra cũng thu hút nhiều lò vật tham gia như: Lò vật Bắc Hà,Hà Nam, Nam Sách, Hàng Kênh Người thắng chung cuộc được 5 vuông vải lụa,một gói chè hảo hạng và một mâm trầu cau,một ít tiền. Trầu cau thì người thắng,người thua đều được.Lễ phẩm này gắn liền với truyền thuyết trầu cau thời Hùng Vương chứng tỏ lễ hội đã được duy trì từ lâu đời mang ý nghĩa nguồn cội[1; 45] Bơi chải: Bơi chải là một lễ hội đặc trưng vùng sông nước vừa gắn với cư dân ngư nghiệp vừa gắn với cư dân nông nghiệp,biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực cầu mùa. Hội bơi chải làng An Biên thường tổ chức đối với cả nam và nữ.Đối với nữ,bơi bằng thuyền nan; với nam bơi bằng thuyền gỗ. Chải là một loại thuyền gỗ nhỏ đục từ 1 thân cây gỗ,có khi bơi chải bằng cả thuyền nan. Người tham gia thi đấu,đầu chít khăn xanh hoặc đỏ; thắt lưng bằng vải xanh,đỏ quanh bụng.Đích bơi được cắm trên sông Tam Bạc. Đội nào đưa thuyền về đích trước tiên là đội thắng cuộc.Lễ hội được nhân dân tham gia hò reo cổ vũ rất vui nhộn.[1; 46] Đánh phết: Phết là một trò chơi dân gian phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ. Tương truyền,Nữ tướng Lê Chân khi qua vùng Tam Nông(nay thuộc tỉnh Phú Thọ) thấy trẻ em chơi trò này,Bà đã về An Biên bày lại cho mọi người chơi. Người tham gia chơi cầm một chiếc gậy tre cong một đầu hoặc đẽo vát một đầu đánh vào quả cầu để đưa cầu đi.Gậy đó gọi là gậy phết.Những người chơi phết chia làm hai bên,số người tham gia không hạn chế,thường là 10 người.Ở mỗi đầu bãi phết có một cái hố tròn sâu từ 40 - 50 cm. bên nào đánh được quả phết vào lỗ là thắng cuộc.Người chơi phết phải là người có sức khỏe,khéo léo mới đưa quả phết vào lỗ được.[1; 46] Ngoài các trò chơi trên tại đình An Biên vào các dịp lễ thường tổ chức nghi thức hầu bóng, hầu đồng nhằm tôn vinh các thánh thần.Trước đây thường bị 45
  46. nghiêm cấm song hiện tại được tổ chức thường xuyên và công khai.Lễ hội ngày nây về phần lễ cơ bản vẫn như vậy, nhưng phần hội, các trò chơi dân gian như đấu vật, bơi chải, đánh phết đã vắng bóng. 2.1.3. Đền thờLê Chân tại Núi Voi,An Lão - nơi nữ tướng rèn quân tập trận 2.1.3.1. Lịch sử xây dựng Đền Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân - người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định, như chúng ta đã biết, Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng,dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập,tích trữ lương thảo,lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa.Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba,căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền,Tổng Thượng Câu huyện An Lão,(cách Núi Voi 6km),nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà [22]. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn 46
  47. ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Ngôi đền thờ bà Lê Chân có điện Phật cùng phối thờ bà ở trong hang. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”.Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. 2.1.3.2. Giá trị kiến trúc - nghệ thuật Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2 . Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung.Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành.Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tứ phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải[13]. Tòa Tiền tế: Tòa tiền tế là một tòa nhà 5 gian.Trên mái trang trí đề tài “rồng chầu phượng mớm”.Trung tâm mái là âm dương nhật.Hai bên bờ nóc là 2 đầu rồng ngậm bờ nóc hướng vào trung tâm.Phần góc mái đao được trang trí đôi chim phượng kẻ góc.Bên trong gian Tiền tế, vì kèo được kết cấu theo kiểu thuận chồng, mái đao theo kiểu “tiền tàu hậu bảy” 47
  48. Chính giữa gian tiền tế là một bức đại tự lớn trên đề “Thượng đẳng tôn thần”.Bức đại tự được trang trí lưỡng long chầu nhật, phía dưới là cửa võng cũng được trang trí đề tài lưỡng long chầu nhật.Phía trước trung tâm gian thờ là hệ thống chấp kích.Phía sau chấp kích có một bàn thờ cổ hai bên là 2 bình cổ lớn.Trong cùng là ban thờ Nữ tướng Lê Chân, ban thờ được trang trí rồng phượng hết sức tỉ mỉ độc đáo. Trên ban thờ đặt một khám thờ lớn bên trong đặt bài vị chính là bài vị của Nữ tướng Lê Chân. Hai bên ban thờ là hai lọng che kế tiếp là hệ thống bát bửu. Gian bên trái tiền tế đặt kiệu võng, phía sau kiệu võng là ban thờ Hữu quan văn.Gian bên phải tiền tế đặt long đình tương ứng phía sau là ban thờ Tả quan văn [13]. Hậu cung hay còn gọi là gian cấm là một tòa nhà 3 gian. Gian chính giữa thờ nữ tướng Lê Chân.Thần tượng Nữ tướng uy nghi ngồi trên long ngai được đặt trong khám thờ.Khám thờ trang trí rồng phượng theo đề tài rồng chầu mặt nguyệt được sơn son thiếp vàng. Gian bên phải thờ thánh vương phụ tức phụ thân Nữ tướng, gian bên trái thờ thánh vương mẫu. Bên ngoài sân phía trước cửa đặt một bàn thờ đá, phía trước trước là lư hương đá lớn, hai bên là 2 ngọn tháp đèn bằng đá. Hai bên thềm có đặt 2 con voi đá trong tư thế thủ phục.Mặt trước ban thờ đá trang trí đề tài long vân vũ hội. Hai bên sân là 2 tòa Giải vũ năm gian.Phía sau Đền trước chính là đền Hang xưa.Hang nhỏ nhưng quả là lộng lẫy,uy nghi. Hai bên có động Nam Tào,Bắc Đẩu,núi Xẻ Đầu,dưới tán cây Đại thụ từ sườn non cao toả rợp bóng sớm chiều [1; 56]. Tứ phủ công đồng: Tòa tứ phủ là một tòa nhà 3 gian được xây dựng bê tông hóa. Trên mái cũng được trang trí đề tài “rồng chầu phượng mớm”biểu thị âm dương hài hòa.Trung tâm mái là âm dương nhật.Hai bên bờ nóc là 2 đầu rồng ngậm bờ nóc 48
  49. hướng vào trung tâm, mái đao được trang trí chim phượng kẻ góc.Chính giữa bên trên cửa đề bức hoành phi “Thánh mẫu linh từ”. Trong tòa Tứ phủ, trung tâm gian giữa thờ Ngũ vị tôn ông, chính giữa gian là bức đại tự “Mẫu nghi thiên hạ”. Ngay tại bức đại tự 2 bên là hình tượng thanh xà, bạch xà.Gian trên trái thờ ông Hoàng Bảy, bên phải là ông Hoàng Mười. Phía sau ban thờ Ngũ vị tôn ông là gian thờ Mẫu. Thần tượng của 3 vị chúa mẫu đặt trong khám thờ trang trí nổi bật với đề tài lưỡng long chầu nhật.Hai bên ban thờ là 2 lọng che. Bên phải là quan đệ tam, bên trái là chúa đệ nhất.Trên mái rủ xuống 3 nón mẫu màu sắc tương ứng với các vị mẫu. Bên phải gian thờ mẫu là gian thờ Đức Thánh Trần. Ban thờ đặt thần tượng tam vị đức ông triều Trần. Bên trái gian thờ mẫu là Cung sơn trang.Gian thờ chỉ gồm một ban thờ, gian thờ không được mô phỏng núi non sơn cước như các di tích khác. Trên ban thờ thờ 3 vị sơn trang. Ngoài ra trong Tứ phủ còn đặt một cặp hồng bạch mã.Bên phải là hồng mã, bên trái là bạch mã[1; 58]. 2.1.3.3. Lễ hội Đền Hang Đền Hang là nơi trước đây Nữ tướng Lê Chân duyệt binh tập trận.Lễ hội chính trong năm của đền là Lễ Thánh đản diễn ra từ ngày 15 đến ngày 17 tháng giêng.Theo thông lệ nếu có việc đột xuất lễ hội có thể diễn ra sớm hoặc muộn hơn 1, 2 ngày.Có một nét đặc biệt trong Lễ hội nơi đây là có sự kết hợp với Lễ hội của Phật giáo. Trước khi tiến hành LễThánh đản,nhân dân trong làng cử ra một Ban hành lễ để điều hành lễ hội.Việc chuẩn bị cho lễ hội bao gồm cắt cử người trông coi Đền trong thời gian diễn ra lễ hội, chuẩn bị lễ vật, lễ phẩm, tập luyện nghi thức tế Khi lễ vật đã hoàn tất,Ban hành lễtổ chức tế tại đền trước khi tiến hành lễ rước thần tượng từ chùa Hoa Liên về đền Hang. Ban tế gồm 17 người: 1 Hội chủ,1 Đông 49
  50. xướng,1 Tây xướng,12 Chấp sự chia đều đứng hai bên. Ban hành tế được bố trí dọc theo trục thần đạo của hai bên nhang án,dưới đất trải chiếu[1; 59]. Sau khi lễ tế tại chùa Hoa Liên kết thúc,đoàn rước sẽ đưa bát nhang từ chùa Hoa Liên lên kiệu để rước về đền Hang. Trước khi kiệu khởi hành,trống chiêng đánh liên hồi để mọi người biết được chuẩn bị tham gia.Khi rước kiệu ra khỏi chùa,kiệu dừng lại một hồi để mọi người xếp vào hàng.Thứ tự rước đi như sau: Đi đầu là cờ hiệu,sau đó là 5 cờ đuôi nheo,màu sắc theo Ngũ hành, tiếp đến là trống cái to do hai người khiêng,sau là chiêng do 2 người vác và 1 người đánh. Trống và chiêng sẽ giữ nhịp cho đám rước.Tiếp theo là những người rước bát bửu và bộ chấp kích,biển “Tĩnh túc” (giữ nghiêm trang) và biển “Hồi tỵ” rồi đến phường đồng văn, cờ thêu chữ “lệnh”, kiếm lệnh, kiệu hương, kiệu võng. Kiệu võng do các trinh nữ mặc áo đỏ,đội khăn đỏ,đi hài xanhkhiêng. Sau kiệu võng là kiệu thánh (kiệu bát cống).Được lựa chọn trong đoàn rước kiệu là vinh dự của bản than,gia đình và dòng họ Tiếp theo kiệu là các đoàn tế nam,đoàn tế nữ của các địa phương lân cận tham gia,các chức sắc,bô lão đi theo hộ giá,sau là nhân dân tham gia đông đảo. Đoàn lễ tiến hành rước từ chùa Hoa Liên về đền Hang quãng đường khoảng 1km. Mỗi độ xuân về hòa cùng không khí trang nghiêm của nghi thức lễ mọi người lại vui vẻ cùng tham gia những hoạt động sôi nổi của phần hội.Ẩm thực vùng quê, đấu vật, hội diễn dân ca từ lâu đã trở thành những thứ không thể thiếu trong lễ hội tại Đền Hang.Ngoài ra một số năm núi Voi tổ chức đăng cai một số cuộc thi xen ghép trong dịp lễ hội tiêu biểu có giải giao hữu bóng chuyền nữ quốc tế với sự có mặt của một số khách mời tới từ Trung Quốc, Đài Loan. . . 2.1.4. Tượng đài Nữ tướng Lê Chân - một công trình tưởng niệm quy mô Năm 1982, chủ trương xây dựng tượng đài nữ tướng Lê Chân được khởi thảo với rất nhiều dự kiến và được nhiều nhà chuyên môn tham gia.Nhưng đến cuối năm 50
  51. 2000 tượng đài này mới hoàn thành.Cũng có thể coi đó là tượng đài đầu tiên của thành phố được đầu tư với quy mô lớn và đã được chú trọng nhiều về nghệ thuật, kỹ thuât, khả dĩ tồn tại lâu dài. Tượng đài Nữ tướng Lê Chân tọa lạc ở trung tâm dải vườn hoa thành phố Hải Phòng.Dải công viên trung tâm thành phố là địa điểm hấp dẫn: từ nơi đây có thể chiêm ngưỡng nét cổ kính của Nhà hát thành phố, sự thanh lịch, tươi trẻ của Quán Hoa, ngắm những đường vòng, uốn lượn của vòi phun nước nghệ thuật, thả bộ cùng sự tĩnh lặng của hồ Tam Bạc. Trong dải công viên cây xanh, tượng Nữ tướng Lê Chân có dáng đứng uy nghi, tay cầm đốc kiếm, áo choàng tung bay. Thần thái tượng thể hiện vẻ mạnh mẽ của một tướng lĩnh nhưng đầy nữ tính, biểu tượng cho vẻ đẹp và sự can trường của người phụ nữ Việt Nam. Nữ tướng có khuôn mặt đôn hậu, trẻ trung, đứng nhìn ra biển Đông như đang thị sát để chuẩn bị kế hoạch chống giặc, dựng ấp. Tượng Nữ tướng được đúc bằng đồng nguyên khối, chiều cao tổng thể 10, 09m, nặng 19 tấn.Trong đó, phần tượng Nữ tướng cao 7, 49m, phần lông chim Hạc trên đầu cao 0, 7m.Các họa tiết hoa văn đều được khai thác từ hoa văn thời đại Hùng Vương với các hình tượng sóng nước cuộn, lông chim hạc trên đỉnh đầu Tượng Nữ tướng Lê Chân là mẫu dự thi của 2 họa sĩ Nguyễn Phúc Cường và Nguyễn Mạnh Cường, sau khi được lựa chọn, tượng do Công ty Đúc đồng Hải Phòng thi công. Hình tượng Nữ tướng Lê Chân cưỡi thuyền thị sát cũng được khắc trên Trống đồng do Bảo tàng Hải Phòng và Hội Cổ vật đúc cung tiến vào Đèn Nghè nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội (năm 2010). Tượng đài là công trình tưởng niệm ghi nhớ công lao của Nữ tướng Lê Chân đối với thành phố Hải Phòng. Tượng đượcnhân dân thành phố Hải Phòng khánh thành vào tháng 1 năm 2001 [16]. 51
  52. 2.2. Thực trạng khai thác các công trình tƣởng niệm nữ tƣớng Lê Chân hiện nay 2.2.1. Thực trạng khai thác tại Đền Nghè 2.2.1.1. Hiện trạng tài nguyên Có thể nói, Đền Nghè là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ kính, một địa chỉ văn hóa, nơi sinh hoạt tín ngưỡng cổ truyền quen thuộc đối với mỗi người dân đất Cảng. Theo truyền ngôn, buổi đầu đền Nghè chỉ là một tòa miếu nhỏ đơn sơ, trải qua thời gian, bằng sự đóng góp của bao thế hệ người dân Hải Phòng, qui mô của đền đã trở nên ngày càng khang trang. Cho đến nay, Đền Nghè là một trong số ít các di tích ở thành phố Hải Phòng còn bảo lưu được nhiều cổ vật có giá trị lịch sử, nghệ thuật và văn hóa như: Tượng nữ tướng Lê Chân, sập đá, khánh đá, kiệu bát cống, kiệu phượng, hoành phi, cửa võng long khám, tượng voi đá ngựa đá, bát bửu chấp kích, bi ký Hầu hết hệ thống các di vật, cổ vật này đều có niên đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và là những di vật được hình thành trong quá trình xây dựng và tôn tạo di tích do nhiều cá nhân, tập thể cung tiến vào Đền Nghè. Hiện nay việc quản lý di tích và tổ chức lễ hội tại Đền Nghè được UBND thành phố Hải Phòng giao cho Bảo tàng Hải Phòng chịu trách nhiệm chính.Ban quản lí di tích Đền Nghè cũng được thành lập dưới sự quản lí của Bảo tàng Hải Phòng. Hàng ngày các khu vực của khu di tích đều có người trông coi bảo quản.Khi vào kỳ hội với hàng vạn người đến tham quan thì ban quản lí phối hợp cùng với lực lượng công an thành phố bảo vệ rất chu đáo. Là một công trình di tích quan trọng của thành phố nên ngay từ năm 1975, Đền Nghè đã vinh dự được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Trải qua thời gian mặc dù nhiều hạng mục công trình đã xuống cấp song đại bộ phận kết cấu kiến trúc vẫn được giữ nguyên vẹn, đặc biệt các hiện vật cổ vẫn được bảo lưu 52
  53. gìn giữ cẩn thận, đáp ứng được nhu cầu tham quan, dâng lễ của nhân dân và du khách thập phương. Tọa lạc ở vị trí trung tâm thành phố và nằm vắt ngang hai tuyến phố Mê Linh và Lê Chân nên có thể xem giao thông đi lại đến Đền Nghè tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, cả hai tuyến phố này đều là những con phố nhỏ, hơn nữa lại nằm rất gần với hai ngôi trường học lớn của thành phố là Trường PTTH Ngô Quyền và Trường tiểu học Minh Khai nên tình trạng tắc đường ở khu vực này thường xuyên xảy ra. Đặc biệt vào những ngày rằm, mùng một âm lịch hàng tháng, những ngày lễ tết và những ngày lễ hội, tình trạng tắc nghẽn giao thông càng trở nên khó kiểm soát, khiến cho nhiều du khách từ nơi xa đến cảm thấy ngại ngần khi phải chen chân, chờ đợi hàng tiếng đồng hồ để được vào đền dâng hương lên nữ tướng, đặc biệt không gian cho việc tham quan, chiêm ngưỡng di tích và cổ vật trong những ngày này là hầu như không có. Tuy nhiên, hai bên cổng chùa, đặc biệt là vào những ngày lễ, ngày rằm, mồng một, người dân lấn chiếm làm nơi buôn bán, kinh doanh hương hoa, đồ lễ và đặc biệt là đồ vàng mã cùng với dịch vụ đổi tiền lẻ khiến cho việc đi lại của du khách hết sức khó khăn, gây ô nhiễm môi trường xung quanh di tích, đồng thời cũng gây ảnh hưởng đến thẩm mỹ của một chốn linh thiêng cổ tự. Ngoài ra, do không có không gian đủ rộng nên việc tổ chức trông xe xung quanh khu vực Đền rất khó khăn, lộn xộn và mang tính tự phát. 2.2.1.2. Thực trạng khai thác trong đời sống và trong du lịch Với vị thế là một di tích kiến trúc cổ kính, một trung tâm của tín ngưỡng thờ nữ thần và thờ anh hùng dân tộc Hải Phòng, lại tọa lạc ở khu vực trung tâm thành phố, Đền Nghè có đầy đủ các điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch. Bởi vậy, từ lâu Đền đã trở thành một điểm đến rất có giá trị và không thể bỏ qua của du khách khi đến với thành phố hoa phượng đỏ. Còn đối với riêng người dân Hải Phòng, không biết từ bao giờ người dân đô thị Hải Phòng đã có tục đón giao thừa 53
  54. bằng cách rủ nhau cùng đi trảy hội Đền Nghè vào đêm 30 tháng chạp, cùng nhau dâng nén hương thành kính lên Thánh mẫu Lê Chân? Hàng năm, người dân Hải Phòng đều đã quen thuộc với hình ảnh vào đêm cuối cùng của năm âm lịch, từng đoàn người tấp nập, nườm nượp tiến về Đền Nghè. Dòng người dồn về đây luôn tỉ lệ thuận với thời gian đang nhích dần tới giao thừa - thời khắc “tống cựu nghinh tân”. Người hành hương ăn mặc đẹp, nô nức sắm sửa lễ vật là muối trắng, gạo trắng, diêm, hương hoa, trà quả dâng lên Thánh Mẫu với ước mong một năm mới của cải vật chất dồi dào, tình cảm trong gia đình thuận hòa, mặn nồng, nhiều may mắn người học hành cầu được đỗ đạt hiển vinh, người buôn bán phát lộc phát tài, người già khỏe mạnh, sống lâu Đến lễ Đền Nghè, ai cũng muốn mang được lộc đền về nhà, có khi là một cành lộc, một gói muối củ ấu hoặc một hòm diêm dán giấy đỏ với hy vọng năm mới mang lại nhiều điều may mắn tốt đẹp. Cùng với nhiều hoạt động đón năm mới, đây là địa điểm thu hút đông đảo nhân dân nội thành thành phố Hải Phòng tham gia. Không chỉ có vậy, Đền Nghè từ xa xưa đã nổi tiếng là nơi thờ tự linh thiêng. Trong hoạt động tín ngưỡng dân gian, nhiều tư gia đã đến đây lập đàn tế lễ, cầu cúng xin được Thánh Mẫu Lê Chân giáng cấp sắc cho chân nhang để rước về lập điện, phủ thờ tại gia, tôn vinh ngài làm thần chủ. Tuy nhiên cũng chính vì là trung tâm văn hóa tín ngưỡng trong đời sống tâm linh của người Hải Phòng nên trong những ngày đầu xuân, di tích Đền Nghè có thể nói thường xuyên bị quá tải trước nhu cầu tâm linh, nhu cầu thưởng xuân, đón tết của người dân. Theo cổ lệ và cũng là theo yêu cầu của cơ quan quản lý hiện nay, việc thắp nhang ở các ban thờ và ở tòa cung cấm của đền Nghè đều do nhà đền đảm nhiệm. Mỗi du khách thành tâm chỉ cần thắp một nén nhang cắm vào đỉnh hương vọng bái đặt trước cửa đền chính của đền tứ phủ là đủ. Tuy nhiên, bỏ qua lời phát thanh liên tục được phát đi phát lại của nhà đền, rất nhiều người dân vẫn thản nhiên cắm từng 54
  55. bó hương lớn vào các bát nhang hay cắm bừa vào các chậu cảnh, bồn hoa hoặc long kiệu, hương án Điều này không chỉ dẫn đến sự ô nhiễm về không khí trong đền, nhất là khi quá tải về lượng người đến dâng lễ, làm ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng mà còn làm mất đi sự thành kính thiêng liêng của nơi thờ tự. Không chỉ có vậy, môi trường sinh thái của đền Nghè còn bị những người đi lễ “vô ý thức” vứt bỏ rác bừa bãi, bất chấp qui định của nhà đền. Di tích vốn đã chật chội do đang bị xâm phạm nay lại càng trở nên ngột ngạt. Hình ảnh một đội quân khất thực và thậm chí là móc túi, trộm cắp hòa trong dòng người đi lại cũng gây nên cảm giác chưa trọn niềm vui cho du khách hay kèm vói đó là cảm giác bất an thay vì sự bình an nhân dịp đầu xuân năm mới. Đi lễ đền Nghè vào đêm giao thừa xong, người Hải Phòng từ bao lâu nay vẫn duy trì tập tục hái lộc, luôn hái một cành cây nhỏ mang về ngụ ý là lấy lộc của trời đất, thần linh ban cho. Nhưng hiện nay, hình ảnh nhiều người dùng dao để phá cây, chặt cành đã biến một tục lệ đẹp thành một thảm họa cho cây xanh ở di tích, và trong khu vực công viên, đường phố lân cận. Ngày nay tại Đền Nghè các hoạt động tín ngưỡng dân gian mang tính quy mô lớn, tổ chức dài thời gian, tập trung đông người như lập đàn xin giáng sắc, hoặc hầu bóng, lễ hội truyền thống không diễn ra. Chính những sự thiếu bóng của các hoạt động văn hóa truyền thống, tín ngưỡng trên cũng làm mất đi một phần những giá trị văn hóa phi vật thể vốn có của di tích Đền Nghè. Ngoài vị trí là trung tâm tâm linh và ngưỡng vọng của người dân thành phố Cảng, Đền Nghè còn là một trong những điểm di tích các hướng dẫn viên luôn luôn mong muốn đưa du khách đến để giới thiệu về lịch sử của thành phố Hải Phòng, về vị thần nhân đã có công khai sinh ra mảnh đất nơi đầu sóng ngọn gió này, về vị nữ tướng anh hùng đã hiển thánh trong lòng nhân dân. Dù là du khách nội địa hay du khách quốc tế, dù là bạn bè ghé thăm, người Hải Phòng đều muốn đưa họ đến đền 55