Khóa luận Khai thác các giá trị của "thăng long tứ trấn" phục vụ phát triển du lịch tôn giáo tín ngưỡng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Khai thác các giá trị của "thăng long tứ trấn" phục vụ phát triển du lịch tôn giáo tín ngưỡng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_khai_thac_cac_gia_tri_cua_thang_long_tu_tran_phuc.pdf
Nội dung text: Khóa luận Khai thác các giá trị của "thăng long tứ trấn" phục vụ phát triển du lịch tôn giáo tín ngưỡng
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÕNG ISO 9001-2008 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH Sinh viên: Nguyễn Thị Dung Ngƣời hƣớng dẫn: Th.s Đào Thị Thanh Mai HẢI PHÕNG – 2015
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÕNG KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ CỦA ‘THĂNG LONG TỨ TRẤN’ PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO TÍN NGƢỠNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH. Sinh viên: Nguyễn Thị Dung Ngƣời hƣớng dẫn: Th.s Đào Thị Thanh Mai HẢI PHÕNG - 2015
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Sinh viên: Nguyễn Thị Dung. Mã số:1112601021 Lớp: VH1501 Ngành: Văn hóa du lịch Tên đề tài: KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ CỦA ‘THĂNG LONG TỨ TRẤN’ PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO TÍN NGƢỠNG
- NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI 1. Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt nghiệp (về lý luận, thực tiễn, các số liệu ). 2. Các tài liệu, số liệu cần thiết: 3. Địa điểm thực tập tốt nghiệp.
- CÁN BỘ HƢỚNG DẪN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Ngƣời hƣớng dẫn thứ nhất: Họ và tên: Đào Thị Thanh Mai Học hàm, học vị: Thạc sỹ Cơ quan công tác : Khoa Du lịch - Trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng Nội dung hƣớng dẫn : Họ và tên : Học hàm, học vị : Cơ quan công tác : Nội dung hƣớng dẫn : Đề tài tốt nghiệp đƣợc giao ngày tháng năm 2015 Yêu cầu phải hoàn thành xong trƣớc ngày tháng năm 2015 Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN Sinh viên Người hướng dẫn Hải Phòng, ngày tháng năm 2015 HIỆU TRƢỞNG GS.TS.NGƢT Trần Hữu Nghị
- PHẦN NHẬN XÉT TÓM TẮT CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN 1. Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp: 2. Đánh giá chất lƣợng của đề tài (so với nội dung yêu cầu đã đề ra trong nhiệm vụ Đ.T.T.N trên các mặt lý luận, thực tiễn, tính toán số liệu ): 3. Cho điểm của cán bộ hƣớng dẫn (ghi cả số và chữ): Hải Phòng, ngày tháng năm 2015 Cán bộ hƣớng dẫn
- NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA NGƢỜI CHẤM PHẢN BIỆN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP 1. Đánh giá chất lƣợng đề tài tốt nghiệp về các mặt thu thập và phân tích tài liệu, số liệu ban đầu; cơ sở lí luận chọn phƣơng án tối ƣu, cách tính toán chất lƣợng thuyết minh bản vẽ, giá trị lí luận và thực tiễn của đề tài. 2. Cho điểm của ngƣời chấm phản biện: (Điểm ghi bằng số và chữ) Ngày tháng năm 2015 Ngƣời chấm phản biện
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH TÔN GIÁO TÍN NGƢỠNG 4 1.1. Khái niệm, đặc điểm và các loại hình du lịch tôn giáo tín ngƣỡng. 4 1.1.1 Khái niệm về tôn giáo tín ngƣỡng và du lịch tôn giáo tín ngƣỡng 4 1.1.2. Đặc điểm của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng 8 1.1.3 Xu hƣớng phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng ở Việt Nam 10 1.2. Lịch sử hình thành và điều kiện phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng. 11 1.2.1 Lịch sử hình thành du lịch tôn giáo tín ngƣỡng 11 1.2.2 Điều kiện kinh tế và văn hóa xã hội để phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng 12 1.2.3 Điều kiện về tài nguyên du lịch tôn giáo tín ngƣỡng 12 1.3. Vị trí và vai trò của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng trong giai đoạn hiện nay. . 14 1.3.1 Vị trí của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng 14 1.3.2 Vai trò và ý nghĩa của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng 15 1.4. Xu hƣớng phát triển của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng 16 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 18 CHƢƠNG 2. KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ CỦA THĂNG LONG TỨ TRẤN (HÀ NỘI) PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO TÍN NGƢỠNG. . 19 2.1. Khái quát chung về cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn 19 2.1.1.Lịch sử hình thành cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn 19 2.2.2. Các giá trị tiêu biểu của cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn 21 2.2 Thực trạng phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng tại cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn. 35 2.3. Đánh giá chung 42 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 44 CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 45 3.1. Một số giải pháp bảo tồn và phát triển cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn phục vụ cho phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng 45 3.1.1. Tăng cƣờng công tác quản lý và bảo vệ cảnh quan 45
- 3.1.2. Tuyên truyền quảng bá 46 3.1.3. Tuyên truyền, giáo dục ý thức cho ngƣời dân 47 3.1.4. Áp dụng thành tựu khoa học vào công tác bảo tồn và phát triển di tích 48 3.1.5. Giải pháp về nguồn nhân lực 48 3.1.6. Nâng cao chất lƣợng, đa dạng hóa sản phẩm du lịch 49 3.1.7. Giải pháp về nâng cao sự sẵn sàng đón tiếp du khách 50 3.2. Một số kiến nghị trong việc phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng tại cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn 51 3.2.1. Đối với cơ quan quản lý cấp Bộ 51 3.2.2. Đối với sở VHTT & DL Hà Nội 52 3.2.3. Đối với ban tổ chức và quản lý cụm di tích 53 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 54 KẾT LUẬN 55 MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỤM DI TÍCH THĂNG LONG TỨ TRẤN 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
- LỜI CẢM ƠN Là một sinh viên ngành Văn hóa du lịch, đƣợc làm khóa luận tốt nghiệp thực sự là một vinh dự đối với em. Việc làm khóa luận đòi hỏi sự cố gắng học hỏi, tìm tòi kiến thức của bản thân, sự giúp đỡ hƣớng dẫn của giáo viên cùng sự giúp đỡ động viên của gia đình bạn bè. Trƣớc tiên, em xin trân trọng cảm ơn thạc sĩ Đào Thị Thanh Mai, ngƣời đã động viên, giúp đỡ em hoàn thành bài khóa luận, hƣớng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm trong học tập và suốt quá trình em nghiên cứu, hoàn thành khóa luận. Em xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng, quý cô trong Khoa Du lịch đã tạo mọi điều kiện cho em hoàn thành bài khóa luận. Đƣợc sự giúp đỡ của trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng, thầy cô, gia đình và bạn bè cùng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành đề tài khóa luận: “ Khai thác các giá trị của Thăng Long Tứ Trấn phục vụ phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng”. Trong qua trình làm đề tài khóa luận do kiến thức, kinh nghiệm còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận đƣợc những kiến đóng góp để bài khóa luận đƣợc hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Nguyễn Thị Dung
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử lâu đời của dân tộc ta đƣợc lƣu giữ qua những trang huyền thoại, ca dao tục ngữ, chuyện kể dân gian, bên cạnh đó sự trƣờng tồn của dân tộc còn đƣợc thể hiện qua các di tích lịch sử - văn hóa - tôn giáo tín ngƣỡng, đó là những minh chứng hùng hồn nhất. Việt Nam có vị trí địa lý đặc biệt quan trọng,với nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng,nhiều di tích lịch sử lâu đời. Nƣớc ta có 54 dân tộc cùng sinh sống với nhau trên một lãnh thổ,cũng chính vì thế mà Việt Nam là nơi giao lƣu, gặp gỡ của nhiều luồng văn hóa, trở thành một cộng đồng thống nhất. Chính sự đa dạng phong phú về thành phần tộc ngƣời đã dẫn đến sự đa dạng về hệ thống tôn giáo tín ngƣỡng. Điều này đƣợc minh chứng bằng hàng loạt các di tích lịch sử, công trình kiến trúc - văn hóa - tôn giáo tín ngƣỡng, nếp sống sinh hoạt ở khắp nơi trên đất nƣớc ta. Trong những năm gần đây, nƣớc ta chuyển sang thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nƣớc. Chính sách kinh tế mở cửa đƣợc đẩy mạnh phát triển, kinh tế nông nghiệp lạc hậu đƣợc dần thay bằng kinh tế công nghiệp hiện đại, đặc biệt kinh tế dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Với đặc điểm là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, ngành du lịch đƣợc xác định là ngành kinh tế mũi nhọn. Với nhiều loại hình du lịch khác nhau, ngành du lịch đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng là một trong những loại hình du lịch có ý đặc biệt quan trọng, góp phần lƣu giữ và bảo tồn các phong tục tập quán, nếp sống sinh hoạt, di tích lịch sử, di sản văn hóa, hƣớng con ngƣời đến Chân – Thiện – Mỹ thông qua các sản phẩm du lịch. Hà Nội là thủ đô ngàn năm văn hiến, còn lƣu dấu nhiều di tích lịch sử. Với tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng, Hà Nội đã trở thành điểm đến hấp dẫn, thu hút đông đảo lƣợng khách trong nƣớc và quốc tế. So với các tỉnh, thành phố khác của Việt Nam, thủ đô Hà Nội là một thành phố có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Trong nội ô, cùng với các 1
- công trình kiến trúc, Hà Nội còn sở hữu một hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Thành phố cũng có nhiều lợi thế trong việc giới thiệu văn hóa Việt Nam với du khách nƣớc ngoài thông qua các nhà hát sân khấu dân gian, các làng nghề truyền thống Là thủ đô hơn 1000 năm tuổi có lịch sử lâu đời, truyền thống văn hóa đa dạng và giàu bản sắc, Hà Nội thực sự là một trung tâm du lịch lớn của Việt Nam. Hà Nội luôn là một trong những địa điểm thu hút nhiều khách du lịch nội địa và quốc tế. Theo thống kê đến năm 2014, Hà Nội đứng đầu cả nƣớc về số lƣợng di tích Việt Nam với 3840 di tích trên tổng số gần 40.000 di tích Việt Nam (trong đó có 1164 di tích trên tổng số gần 3500 di tích cấp quốc gia ở Việt Nam). Chính vì vậy mà Hà Nội có thế mạnh và đủ điều kiện để phát triển du lịch văn hóa, tôn giáo tín ngƣỡng, tâm linh và hội thảo. Bên cạnh đó, Hà Nội có 511 cơ sở lƣu trú với hơn 12.700 phòng đang hoạt động. Ngoài 9 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia, Nikko, Sofitel Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza, và InterContinental, thành phố còn 6 khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao. Một trong những cụm di tích lịch sử nổi tiếng ở Hà Nội mang đậm dấu ấn về văn hóa tâm linh, tôn giáo tín ngƣỡng đó là Thăng Long Tứ Trấn. Thăng Long Tứ Trấn là khái niệm xuất hiện trong dân gian để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hƣớng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long cũ. Thăng Long Tứ Trấn đƣợc lƣu giữ trong tâm thức ngƣời Việt nói chung và ngƣời Hà Nội nói riêng không chỉ có ý nghĩa tâm linh mà còn mang giá trị văn hóa lịch sử sâu sắc. Tuy nhiên hiện trạng bảo tồn cũng nhƣ khai thác phục vụ du lịch của cụm di tích này còn nhiều hạn chế. Vì những lý do đó, em đã chọn đề tài : “Khai thác các giá trị của Thăng Long Tứ Trấn phục vụ phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng” làm đề tài khóa luận của mình. 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu: Các vấn đề lý luận,thực tiễn về loại hình du lịch tôn giáo tín ngƣỡng, hiện trạng và các giải pháp phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng tại Thăng Long Tứ Trấn. 2
- Phạm vi nghiên cứu: Về mặt không gian: cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn tại thủ đô Hà Nội bao gồm: đền Bạch Mã, đền Voi Phục, đền Kim Liên và đền Quán Thánh. Thời gian: Đề tài đƣợc thực hiện trong thời gian từ tháng 4/2015 đến tháng 6/2015. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong bài khóa luận đã sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu sau : Phƣơng pháp thu thập và xử lý tài liệu: ngƣời viết thu thập từ các nguồn tài liệu và số liệu đáng tin cậy, bao gồm giáo trình, sách và tạp chí chuyên ngành, số liệu do ban quản lý di tích cung cấp v.v để phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài. Phƣơng pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp: Sau khi đã có đƣợc số liệu và tài liệu, em đã tiến hành thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp để có đƣợc những đánh giá, kết luận cụ thể về tiềm năng, giá trị cũng nhƣ hiện trạng của vấn đề nghiên cứu. Phƣơng pháp khảo sát thực tế: Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài, em đã đến khảo sát thực tế tại bốn ngôi đền thuộc Thăng Long Tứ Trấn - thủ đô Hà Nội nhằm có những thông tin, số liệu cập nhật, đồng thời quan sát đánh giá trực tiếp hiện trạng của đối tƣợng nghiên cứu. 4. Bố cục của đề tài Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung khóa luận bao gồm 3 chƣơng : Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về du lịch tôn giáo tín ngƣỡng Chƣơng 2. Hiện trạng khai thác các giá trị của Thăng Long Tứ Trấn (Hà Nội) phục vụ phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng. Chƣơng 3. Một số giải pháp và kiến nghị 3
- CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH TÔN GIÁO TÍN NGƢỠNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm và các loại hình du lịch tôn giáo tín ngƣỡng. 1.1.1 Khái niệm về tôn giáo tín ngƣỡng và du lịch tôn giáo tín ngƣỡng a. Khái quát chung về tôn giáo tín ngƣỡng Tôn giáo hay đạo (tiếng Anh: religion - xuất phát từ tiếng Latinh religio mang nghĩa "tôn trọng điều linh thiêng, tôn kính thần linh" hay "bổn phận, sự gắn kết giữa con ngƣời với thần linh") - xét trên một cách thức nào đó, đó là một phƣơng cách để giúp con ngƣời sống và tồn tại với sức mạnh siêu nhiên từ đó làm lợi ích cho vạn vật và con ngƣời), đôi khi đồng nghĩa với tín ngƣỡng, thƣờng đƣợc định nghĩa là niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng nhƣ những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Những ý niệm cơ bản về tôn giáo chia thế giới thành hai phần: thiêng liêng và trần tục. Trần tục là những gì bình thƣờng trong cuộc sống con ngƣời, còn thiêng liêng là cái siêu nhiên, thần thánh. Đứng trƣớc sự thiêng liêng, con ngƣời sử dụng lễ nghi để bày tỏ sự tôn kính, sùng bái và đó chính là cơ sở của tôn giáo. Trong nghĩa tổng quát nhất, có quan điểm đã định nghĩa tôn giáo là kết quả của tất cả các câu trả lời để giải thích nguồn gốc, quan hệ giữa nhân loại và vũ trụ; những câu hỏi về mục đích, ý nghĩa cuối cùng của sự tồn tại. Chính vì thế những tƣ tƣởng tôn giáo thƣờng mang tính triết học. Số tôn giáo đƣợc hình thành từ xƣa đến nay đƣợc xem là vô số, có nhiều hình thức trong những nền văn hóa và quan điểm cá nhân khác nhau. Tuy thế, ngày nay trên thế giới chỉ có một số tôn giáo lớn đƣợc nhiều ngƣời theo hơn những tôn giáo khác. Đôi khi từ "tôn giáo" cũng có thể đƣợc dùng để chỉ đến những cái gọi đúng hơn là "tổ chức tôn giáo" - một tổ chức gồm nhiều cá nhân ủng hộ việc thờ phụng, thƣờng có tƣ cách pháp nhân. "Tôn giáo" hay đƣợc nhận thức là "tôn giáo" có thể không đồng nhất với những định nghĩa trên đây trong niềm tin tối hậu nơi mỗi tôn giáo (tức là khi một tín hữu theo một tôn giáo nào đó, họ không có cái gọi là ý niệm "tôn giáo" nơi tôn giáo của họ, tôn giáo chỉ là một cách suy 4
- niệm của những ngƣời không có tôn giáo bao phủ lấy thực tại nơi những ngƣời có tôn giáo). Có nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo: Một cách định nghĩa, đôi khi đƣợc gọi là "lối theo chức năng", định nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngƣỡng và phong tục nào có chức năng đề cập đến những câu hỏi căn bản về đặc tính loài ngƣời, đạo đức, sự chết và sự tồn tại của thần thánh (nếu có). Định nghĩa rộng ngày bao gồm mọi hệ thống tín ngƣỡng, kể cả những hệ thống không tin tƣởng vào thần thánh nào, những hệ thống đơn thần, những hệ thống đa thần và những hệ thống không đề cập đến vấn đề này vì không có chứng cớ. Cách định nghĩa thứ hai, đôi khi đƣợc gọi là "lối theo hình thể", định nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngƣỡng nào xác nhận những điều không thể quan sát một cách khoa học đƣợc, và chỉ dựa vào chức trách hay kinh nghiệm với thần thánh. Nghĩa này hẹp hơn phân biệt "tôn giáo" với chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa nhân bản thế tục, thuyết vô thần, triết khách quan và thuyết bất khả tri, vì những hệ thống này không dựa vào chức trách hay kinh nghiệm nhƣng dựa vào cách hiểu theo khoa học. Cách định nghĩa thứ ba, đôi khi đƣợc gọi là "lối theo chứng cớ vật chất", định nghĩa tôn giáo là những tín ngƣỡng về nhân quả mà Occam's Razor loại trừ vì chúng chấp nhận những nguyên nhân quá phức tạp để giải thích những chứng cớ vật chất. Theo nghĩa này, những hệ thống không phải là tôn giáo là những hệ thống không tin tƣởng vào những nguyên nhân phức tạp hơn cần thiết để giải thích những chứng cớ vật chất. Những ngƣời theo quan điểm này tự xƣng là "bất tôn giáo", nhƣng cũng có ngƣời tôn giáo nhìn nhận rằng "tín ngƣỡng" và "khoa học" là hai cách hoàn toàn khác nhau để đi đến chân lý. Quan điểm này bị bác bỏ bởi những ngƣời xem rằng những giải thích siêu hình là cần thiết để giải thích các hiện tƣợng tự nhiên một cách căn bản. Cách định nghĩa thứ tƣ, đôi khi đƣợc gọi là "lối tổ chức", định nghĩa tôn giáo là các hội đoàn, tín ngƣỡng, tổ chức, phong tục, và luật đạo đức chính thức của tất cả các tôn giáo chính có tổ chức. Nghĩa này đặt "tôn giáo" vào một vị trí 5
- trái ngƣợc với "tinh thần", cho nên không bao gồm những luận điệu của "tinh thần" về việc tiếp xúc, phục vụ, hay tôn thờ thần thánh. Tuy nhiên, trong nghĩa này tôn giáo và tinh thần không cần phải "đƣợc cái này mất cái kia": một ngƣời sùng đạo có thể có tinh thần hay không tinh thần, và một ngƣời có tinh thần có thể có hay không sùng đạo. Theo tƣơng tự, ta có thể xem "tôn giáo" nhƣ là than, củi, hay xăng, và "tinh thần" là ngọn lửa [8] Tôn giáo thể hiện đặc trƣng của một nền văn hóa, thể hiện bề mặt và tâm linh, phong tục tập quán của con ngƣời trong xã hội. Tôn giáo gắn liền với chính trị xã hội. Khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn phải đề cập đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu, thế giới của ngƣời sống và thế giới sau khi chết, thế giới của những vật thể hữu hình và vô hình. Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của con ngƣời trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất mình do đó phải dựa vào thánh thần mà còn hƣớng con ngƣời đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời thánh thiện, mang tính “Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc đời mà quá khứ, hiện tại, tƣơng lai cùng chung sống. Nó gieo niềm hi vọng vào con ngƣời, dù có phần ảo tƣởng để mà yên tâm, tin tƣởng để sống và phải sống trong một thế giới trần gian có nhiều bất công và khổ ải. Nhƣ vậy: Tôn giáo là niềm tin vào các lực lƣợng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, đƣợc chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hƣ ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng nhƣ ở thế giới bên kia. Niềm tin đó đƣợc biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, đƣợc vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau. Tín ngƣỡng mang tính dân tộc, dân gian. tín ngƣỡng có tổ chức không chặt chẽ nhƣ tôn giáo. Khi nói đến tín ngƣỡng ngƣời ta thƣờng nói đến tín ngƣỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn 6
- giáo thì thƣờng là không mang tính dân gian. Tín ngƣỡng không có một hệ thống điều hành và tổ chức nhƣ tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngƣỡng nếu phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo. Cơ sở của mọi tôn giáo, tín ngƣỡng là niềm tin, sự ngƣỡng vọng của con ngƣời vào những cái "siêu nhiên" hay gọi là "cái thiêng" cái đối lập với cái "trần tục", cái hiện hữu mà con ngƣời có thể sờ mó, quan sát đƣợc. Niềm tin vào "cái thiêng" thuộc về bản chất con ngƣời, nó ra đời và tồn tại, phát triển cùng với con ngƣời và loài ngƣời, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con ngƣời, cũng giống nhƣ đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tƣ tƣởng, đời sống tình cảm Tùy theo hoàn cảnh, trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi dân tộc, địa phƣơng, quốc gia mà niềm tin vào "cái thiêng" thể hiện ra các hình thức tôn giáo, tín ngƣỡng cụ thể khác nhau. Chẳng hạn nhƣ niềm tin vào Đức Chúa Trời, của Kitô giáo, niềm tin vào Đức Phật của Phật giáo, niềm tin vào Thánh, Thần của tín ngƣỡng dân gian, tín ngƣỡng Thành Hoàng, Đạo Mẫu Các hình thức tôn giáo tín ngƣỡng này dù rộng hẹp khác nhau, dù phổ quát toàn thế giới hay là đặc thù cho mỗi dân tộc thì cũng đều là một thực thể biểu hiện niềm tin vào cái thiêng chung của con ngƣời. Hiện tại, có nhiều ý kiến khác nhau khi sử dụng khái niệm tôn giáo và tín ngƣỡng. Theo quan điểm truyền thống, ngƣời ta có ý thức phân biệt tôn giáo và tín ngƣỡng, thƣờng coi tín ngƣỡng ở trình độ phát triển thấp hơn so với tôn giáo. Loại quan điểm thứ hai là đồng nhất giữa tôn giáo và tín ngƣỡng và đều gọi chung là tôn giáo, tuy có phân biệt tôn giáo dân tộc, tôn giáo nguyên thủy, tôn giáo địa phƣơng, tôn giáo thế giới (phổ quát). Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngƣỡng thể hiện ở một số điểm nhƣ: Tôn giáo có hệ thống giáo lý, kinh điển đƣợc truyền thụ qua giảng dạy và học tập ở các tu viện, thánh đƣờng, học viện có hệ thống thần điện, có tổ chức giáo hội, hội đoàn chặt chẽ, có nơi thờ cúng riêng nhƣ nhà thờ, chùa, thánh đƣờng , nghi lễ thờ cúng chặt chẽ, có sự tách biệt giữa thế giới thần linh và con ngƣời. Còn tín ngƣỡng thì chƣa có hệ thống giáo lý mà chỉ có các huyền thoại, thần 7
- tích, truyền thuyết. Tín ngƣỡng mang tính chất dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngƣỡng có sự hòa nhập giữa thế giới thần linh và con ngƣời, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, chƣa thành quy ƣớc chặt chẽ [8;58] b. Khái niệm du lịch tôn giáo tín ngƣỡng Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng đã có từ lâu và thịnh hành trên thế giới từ khi nhân loại bƣớc sang văn minh hậu công nghiệp. Nhu cầu muốn tạm thoát nhịp sống gấp gáp của thời hiện đại mở ra lựa chọn cho khách hành hƣơng tới những địa chỉ tôn giáo và tín ngƣỡng để tĩnh tâm, thỏa mãn nhu cầu tinh thần, trút bỏ đƣợc các cảm xúc khổ đau, vun đắp tâm nguyện hƣớng thiện, tỏ lòng thành kính với tổ tiên, với các bậc tiền nhân dày công đức với dân tộc. Dù cách diễn đạt có khác nhau, nhƣng xét tổng thể, du lịch tôn giáo tín ngƣỡng thực chất là một trong những loại hình du lịch văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu tôn giáo và tín ngƣỡng trong đời sống tinh thần du khách, hƣớng đến những điều cao đẹp, tạo cơ hội cho mỗi cá nhân thể hiện lòng mình với lẽ phải, điều thiện; với tổ tiên và quốc gia, dân tộc. Với cách nhìn nhận đó, du lịch tôn giáo tín ngƣỡng khai thác những yếu tố về đức tin và những giá trị tinh thần đặc biệt trong quá trình diễn ra các hoạt động du lịch. Khi đời sống vật chất ngày càng đƣợc nâng cao, xã hội càng hiện đại thì con ngƣời ta lại càng có nhu cầu nâng cao hơn nữa đời sống tinh thần. Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng bao hàm cả việc tìm kiếm các giá trị văn hóa truyền thống lẫn tìm lại chính mình, làm trỗi dậy sự giác ngộ của khách du lịch tại những địa danh tôn giáo tín ngƣỡng chính là mục tiêu của các tour du lịch này. Đây là loại hình du lịch kết hợp giữa nhu cầu tham quan, giải trí thƣ giãn với nhu cầu tâm linh. 1.1.2. Đặc điểm của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng xuất hiện từ rất lâu và đang ngày càng trở nên phổ biến, phát triển mạnh mẽ. Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng luôn gắn với những huyền thoại, những điều linh thiêng huyền bí. 8
- Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng. Các tín ngƣỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lƣợng, nhân ái và tinh thần đoàn kết. Trong nhiều cộng đồng dân cƣ có sự xen kẽ giữa ngƣời có tôn giáo và ngƣời không có tôn giáo. Du lịch tôn giáo giúp khách du lịch và cộng đồng tín ngƣỡng tôn giáo có thêm hiểu biết lẫn nhau, thông cảm và chia sẻ với nhau hơn. Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng mang những nét văn hóa riêng biệt nhƣng đều hƣớng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hƣởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc. Du lịch tôn giáo tìn ngƣỡng mang lại những cảm nhận, giá trị trải nghiệm và giải thoát trong tâm hồn con ngƣời, cân bằng và củng cố đức tin, góp phần nâng cao chất lƣợng cuộc sống. Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng ngày càng đƣợc tiếp cận và nhìn nhận tích cực cả về khía cạnh kinh tế và xã hội. Các quốc gia ngày càng quan tâm hơn đến du lịch tôn giáo tín ngƣỡng và coi đó là một trong những giải pháp đáp ứng đời sống tinh thần cho nhân dân song song với việc bảo tồn, tôn vinh những giá trị truyền thống, suy tôn những giá trị nhân văn cao cả. Một số đặc điểm của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng ở Việt Nam: Ở Việt Nam, trong các loại hình du lịch tôn giáo tín ngƣỡng thì du lịch gắn với Phật giáo chiếm tỉ lệ lớn nhất, cùng tồn tại với các tôn giáo khác nhƣ Thiên Chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, v.v Triết lý phƣơng Đông, đức tin, giáo pháp, những giá trị vật thể và phi vật thể gắn với các thiết chế, công trình tôn giáo ở Việt Nam nhƣ những ngôi chùa, tòa thánh, những công trình văn hóa tôn giáo gắn với các di tích là đối tƣợng mục tiêu hƣớng tới của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng. Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng ở Việt Nam gắn bó chặt chẽ với tín ngƣỡng thờ cúng, tri ân những anh hùng dân tộc, những vị tiền bối có công với với đất nƣớc dân tộc cho tới phạm vi làng xã (thành hoàng). Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng còn gắn với đạo lý uống nƣớc nhớ nguồn, trở về với cội nguồn dân tộc. Mới đây, 9
- tín ngƣỡng thờ cúng Hùng Vƣơng đã đƣợc UNESCO công nhận là di sản phi vật thể của nhân loại. Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng ở Việt Nam còn gắn với tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên, dòng tộc, tri ân báo hiếu đối với cha ông và các bậc sinh thành. Du lịch tín ngƣỡng tôn giáo ở Việt Nam gắn với các hoạt động thể thao tinh thần nhƣ thiền, yoga, hƣớng tới sự cân bằng, thanh tao siêu thoát trong đời sống tinh thần, đặc trƣng và tiêu biểu phải kể đến Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. 1.1.3 Xu hƣớng phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng ở Việt Nam Việt Nam có nhiều tiềm năng thế mạnh để phát triển du lịch tín ngƣỡng tôn giáo, thể hiện ở bề dày lịch sử văn hóa gắn với truyền thống, tín ngƣỡng, tôn giáo. Sự đa dạng và phong phú của các thắng tích tôn giáo và số lƣợng lớn các tín ngƣỡng, lễ hội dân gian đƣợc tổ chức quanh năm trên phạm vi cả nƣớc là điều kiện để du lịch tôn giáo tín ngƣỡng phát triển. Ngày nay trong xã hội hiện đại, nhu cầu tinh thần, tâm linh của con ngƣời ngày càng cao trở thành động lực thúc đẩy du lịch tôn giáo tín ngƣỡng phát triển. Hiện nay du lịch tôn giáo tín ngƣỡng đã trở thành một loại hình du lịch phổ biến ở Việt Nam. Số lƣợng du khách đi du lịch tôn giáo tín ngƣỡng ngày càng tăng, chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu khách du lịch, đặc biệt là khách nội địa. Số khách gia tăng cho thấy du lịch tôn giáo tín ngƣỡng đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Nhu cầu du lịch tôn giáo tín ngƣỡng không chỉ giới hạn trong khuôn khổ các hoạt động gắn với tôn giáo mà ngày càng mở rộng tới các hoạt động sinh hoạt tinh thần, tín ngƣỡng cổ truyền dân tộc và các yếu tố linh thiêng khác. Hoạt động tôn giáo tín ngƣỡng ngày càng chủ động, có chiều sâu và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của đại bộ phận nhân dân. Hoạt động đầu tƣ, kinh doanh du lịch tôn giáo tín ngƣỡng ngày càng phát triển mạnh mẽ, thể hiện ở quy mô, tính chất hoạt động của các khu, điểm du lịch gắn với yếu tố tâm linh. Xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều các điểm du lịch tâm linh ở hầu hết các vùng miền trên khắp cả nƣớc, tiêu biểu nhƣ Đền Hùng (Phú Thọ), Yên Tử (Quảng Ninh), Chùa Hƣơng (Hà Nội), Phát Diệm 10
- (Ninh Bình), Núi Bà Đen, Thánh thất Cao Đài (Tây Ninh), Chùa Bái Đính (Ninh Bình), Đại Nam Văn Hiến (Bình Dƣơng), Miếu Bà Chúa Xứ (An Giang), Côn Sơn Kiếp Bạc (Hải Dƣơng), Tây Thiên (Vĩnh Phúc), Đền Trần – Phủ Dầy (Nam Định) v.v 1.2. Lịch sử hình thành và điều kiện phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng. 1.2.1 Lịch sử hình thành du lịch tôn giáo tín ngƣỡng Con ngƣời xuất hiện trên trái đất này phải đối diện với biết bao nỗi lo sợ về thiên tai, lụt lội, sấm sét, động đất, núi lửa, bảo tố, bệnh tật, đói nghèo làm cuộc sống vốn đã khó khăn càng thêm khổ sở và ảnh hƣởng đến sự sống chết của họ. Lúc khoa học chƣa xuất hiện, con ngƣời không thông hiểu sự biến dịch, vận hành nên nỗi lo sợ là tác động khiến họ cố gắng tìm kiếm những lời giải thích, câu trả lời cho những hiện tƣợng liên quan đến đời sống của họ vì thế mà tôn giáo tín ngƣỡng đƣợc ra đời. Vì không thể giải thích những hiện tƣợng sinh diệt của thế gian một cách hợp lý, khách quan nên những tôn giáo tín ngƣỡng thờ Thƣợng đế hoặc đấng Phạm thiên vội kết luận đó là do những tha lực ngoài khả năng của con ngƣời, nhƣ của Thƣợng đế, thần thánh Con ngƣời tin vào tôn giáo tín ngƣỡng, tin vào thần thánh, tìm đến tôn giáo tín ngƣỡng nhƣ một niềm tin tuyệt đối, mong đƣợc thoải mái về mặt tâm linh. Các chuyến đi thỏa mãn đồng thời 2 nhu cầu: “đi cho biết đó biết đây” và chiêm ngƣỡng, hành lễ tại các công trình, địa điểm tín ngƣỡng tôn giáo đã tác động và hình thành du lịch tôn giáo tín ngƣỡng. Việt Nam thời cổ đã có các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tƣợng tự nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy, trong đó mô tả rất nhiều về hình ảnh một loài chim, mà cụ thể là chim Lạc khiến các sử gia tin rằng, chúng là đối tƣợng đƣợc ngƣời Việt cổ tin thờ. Ngoài ra, con rồng cũng đƣợc xuất hiện nhiều trong các sản phẩm nghệ thuật, mỹ thuật Việt Nam, phát sinh từ việc thờ kính Lạc Long Quân, một huyền thoại về ngƣời đƣợc cho là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các đối tƣợng tự nhiên khác nhƣ động vật, núi, sông, biển cũng đƣợc ngƣời 11
- Việt tôn làm thần bảo vệ, chúc phúc cho con ngƣời. Tôn giáo tại Việt Nam có mối liên hệ với nền văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ nhƣng ngƣời Việt còn kết hợp yếu tố truyền thống đạo đức dân tộc mình vào đó để hình thành tôn giáo mang bản sắc riêng. Chính sách mở cửa, giao lƣu hội nhập kinh tế văn hóa chính là điều kiện quan trọng thúc đẩy phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng. 1.2.2 Điều kiện kinh tế và văn hóa xã hội để phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng Điều kiện kinh tế là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hƣởng đến sự phát triển du lịch. Nền kinh tế phát triển là tiền đề cho sự phát triển du lịch nói chung và du lịch tôn giáo tín ngƣỡng nói riêng. Nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu ngƣời tăng cao dẫn đến những nhu cầu về nghỉ ngơi, ăn uống,lƣu trú,vui chơi giải trí,tham quan Nền kinh tế công nghiệp hóa hiện đại hóa kéo theo những vấn đề về giao thông vận tải,dịch vụ bổ sung, sản phẩm du lịch phục vụ cho việc phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng. Việc phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng phải mang dấu ấn con ngƣời, bản sắc dân tộc, phong tục tập quán nơi có tài nguyên du lịch. 1.2.3 Điều kiện về tài nguyên du lịch tôn giáo tín ngƣỡng Tôn giáo luôn là một vấn đề nhạy cảm, nhƣng không vì thế mà chúng ta tránh né hay không bàn đến khía cạnh khai thác các giá trị của tô ) để phát triển du lịch, không chỉ là một nguồn lực thông thƣờng mà là “một nguồn lực trí tuệ” nhƣ một chuyên gia về tôn giáo học đã phát biểu. Việc k Ở Việt Nam, số lƣợng ngƣời tham gia vào các chuyến du lịch tôn giáo càng tăng lên và trở thành một nhu cầu thật sự. 12
- Vì là nơi chứa đựng những giá trị văn hóa tinh thần vô giá của con ngƣời nên những công trình kiến trúc tâm linh thƣờng là những nơi du khách quan tâm tìm hiểu. Còn đối với ngƣời dân bản địa, phong tục tập quán đã khiến họ coi đình, đền, chùa là nơi cầu an, nơi che chở về đời sống tinh thần nên cứ mỗi độ xuân sang, tết đến, ngƣời dân tứ phƣơng nô nức về trảy hội, lễ chùa. Cho nên hoạt động du lịch tự phát đã diễn ra ở đây từ rất lâu. Tôn giáo tín ngƣỡng, tâm linh nhƣ một nguồn tài nguyên vô giá mà cha ông đã để lại cho muôn đời. Hệ thống các công trình kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng nhƣ chùa Chèm (Từ Liêm), chùa Đại Cát (Từ Liêm), chùa Bát Tháp (Ba Đình), chùa Am Cây Đề (Ba Đình), thƣờng quay về hƣớng Nam nhƣ chùa Diên Phức (Gia Lâm), chùa Ích Vịnh (Thanh Trì), chùa Bát Tháp (Ba Đình), hoặc gần ao, sông, hồ nhƣ chùa Kim Giang (Thanh Trì), chùa Kim Liên (Tây Hồ), Đình cũng đƣợc coi là trung tâm tôn giáo của làng, thế đất, hƣớng đình đƣợc xem là quyết định vận mệnh của cả làng nên đình cũng đƣợc xây dựng ở nơi cao ráo, thoáng mát, tựa núi, nhìn sông nhƣng vẫn ở vị trí trung tâm để ngƣời dân đi đâu cũng tụ hội tại đình. Đền, miếu lại thƣờng đặt ở vị trí có liên quan đến truyền thuyết hoặc sự tích cuộc sống của các vị thần thánh linh thiêng hay nhân vật lịch sử đƣợc lƣu truyền ăn sâu vào tâm trí ngƣời dân từ đời này qua đời khác nhƣ đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Hai Bà Trƣng Bên cạnh những giá trị vật thể to lớn, những công trình tôn giáo, tín ngƣỡng còn chứa đựng những giá trị phi vật thể, là tính cách, tâm hồn con ngƣời Việt Nam. Đình, chùa cũng là trung tâm tôn giáo và trung tâm văn hóa của cộng đồng dân cƣ nên đây cũng là nơi tập trung của lễ hội – một phong tục đẹp của con ngƣời Việt Nam diễn ra khi nông nhàn. Phần lễ diễn ra chính ở đình, chùa và phần hội ở khu vực xung quanh đó. Hà Nội có một số lễ hội đặc biệt. Về nghề nghiệp, có hội pháo Bình Đà (Thanh Oai), có hội làng Cổ Nhuế (Từ Liêm) diễn ra ở đình làng Cổ Nhuế thờ thần gắp phân, nhắc nhở vai trò của phân bón diễn ra vào những ngày đầu tháng giêng. Về kỷ niệm các anh hùng dựng nƣớc và giữ nƣớc, có hội Gióng (Phù Đổng, Gia Lâm), hội đền An Dƣơng Vƣơng (Cổ Loa, Đông Anh), hội Hai Bà Trƣng (làng Đồng Nhân, quận Hai Bà Trƣng), hội 13
- đền Hạ Lôi (Mê Linh), Lễ hội tôn giáo nhƣ hội chùa Hƣơng (Mỹ Đức), hội chùa Tây Phƣơng (Thạch Thất), v.v ; lễ hội tín ngƣỡng dân gian nhƣ hội đền Và (Bất Bạt) thờ thần Tản Viên, hội Chử Đồng Tử (Tự Nhiên, Thƣờng Tín), Lễ hội là một yếu tố quan trọng thu hút một số lƣợng đông đảo du khách hàng năm nên nó đƣợc coi là một tiềm năng lớn của ngành du lịch. Tựu chung lại, đình chùa là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên nhân văn to lớn về tôn giáo, tín ngƣỡng, phong tục tập quán, giá trị lịch sử v.v Những công trình tôn giáo, tín ngƣỡng nhƣ thế này ngày nay đƣợc đánh giá và xếp hạng di tích theo các thang bậc khác nhau về giá trị. Tính đến năm 2014, Hà Nội có khoảng 2000 di tích đƣợc xếp hạng, trong đó đa phần là các đình, đền, chùa, miếu, phủ. Đó chính là tiềm năng vô giá cho ngành kinh doanh du lịch tôn giáo tín ngƣỡng - ngành có định hƣớng tài nguyên rõ rệt. 1.3. Vị trí và vai trò của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng trong giai đoạn hiện nay. 1.3.1 Vị trí của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng Lâu nay chúng ta vẫn biết tự do tôn giáo tín ngƣỡng là một phần không thể thiếu đối với mỗi quốc gia, tập thể, tổ chức, cá nhân và hoạt động du lịch. Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng là xu hƣớng của các nƣớc vì nó đem lại giá trị lớn cho cộng đồng xã hội. Bên cạnh những loại hình du lịch nhƣ du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục gần đây du lịch tôn giáo tín ngƣỡng đƣợc xem là loại sản phẩm đặc thù của các nƣớc thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những di tích lịch sử, kể cả những phong tục tín ngƣỡng,đình, đền, chùa để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá tôn giáo tìn ngƣỡng và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ. Cuộc sống ngày càng trở nên phức tạp,các mối quan hệ, công việc tạo áp lực lớn đối với mỗi con ngƣời. Chúng ta cảm thấy mệt mỏi, bế tắc, muốn tìm 14
- một không gian để nghỉ ngơi, để lấy lại niềm tin vào cuộc sống. Chính vì điều đó mà ngày nay du lịch tôn giáo tín ngƣỡng đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đối với Việt Nam là quốc gia đƣợc đánh giá có tiềm năng du lịch to lớn không chỉ bởi trời phú cho hệ thống cảnh quan thiên nhiên tƣơi đẹp, sơn thủy hữu tình mà còn bởi vốn văn hóa tinh thần vừa đa dạng, phong phú, vừa độc đáo và mang nhiều bản sắc. Một trong những khía cạnh văn hóa Việt Nam là đời sống văn hóa tâm linh của con ngƣời Việt Nam. Nó tạo nên những giá trị nhân văn ở tín ngƣỡng đa thần, ở phong tục trảy hội, lễ chùa khi xuân sang, tết đến, ở hệ thống công trình kiến trúc đình, đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo khắp nơi trên cả nƣớc và có lịch sử ngàn đời. Đến các đình, đền, chùa trên đất nƣớc Việt Nam, du khách sẽ cảm nhận ngay đƣợc con ngƣời Việt Nam, văn hóa Việt Nam ở góc độ linh thiêng nhất, đậm đà bản sắc nhất. Bởi vậy, hệ thống các công trình kiến trúc tâm linh đƣợc coi là tiềm năng du lịch tôn giáo tín ngƣỡng cần đƣợc quan tâm và khai thác. 1.3.2 Vai trò và ý nghĩa của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng Tín ngƣỡng, tôn giáo là hiện tƣợng xã hội cổ xƣa nhất của nhân loại, quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo đã tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, tâm lý, đạo đức, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia trong đó có Việt Nam. Tín ngƣỡng, tôn giáo là một vấn đề thuộc lĩnh vực nhận thức, tình cảm, niềm tin. Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, các tôn giáo lớn đều thích ứng với lợi ích khác nhau của các giai tầng xã hội, với sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thƣợng tầng để tìm ra một tiếng nói chung, nhằm tôn vinh ý nghĩa “Tốt đời, đẹp đạo”. Coi tôn giáo tín ngƣỡng nhƣ một yếu tố văn hóa, những giá trị truyền thống của các tôn giáo tín ngƣỡng giá trị đạo đức tôn giáo có những điều phù hợp với xã hội mới Tôn giáo tín ngƣỡng đã góp phần xây dựng nền văn hóa: với tƣ cách là một bộ phận cấu thành của văn hóa, một mặt tạo ra sự phong phú cho văn hóa ,mặt khác góp phần lƣu giữ, phát triển những giá trị tốt đẹp của văn hóa (cả văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể và văn hóa giao tiếp). 15
- Về văn hóa phi vật thể, tôn giáo tín ngƣỡng cũng có những đóng góp đáng kể, làm sâu sắc và phong phú hơn những giá trị truyền thống về lòng từ bi với mọi sinh linh, về nhân quả, về vô ngã vị tha, về sự giác ngộ Tôn giáo tín ngƣỡng góp phần làm phong phú, sâu sắc giao tiếp xã hội thông qua các lễ hội. Các lễ hội tôn giáo nhƣ: Lễ Phật đản, lễ Vu lan của Phật giáo; lễ Noel của Công giáo và Tin lành, đã góp phần tạo sự liên kết cộng đồng và bổ sung, bảo lƣu, phát triển những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống. Chính khía cạnh xã hội của lễ hội tín ngƣỡng, tôn giáo đã để lại dấu ấn sâu đậm cho đời sống sinh hoạt cộng đồng, cho sự liên kết xã hội qua đó đã bảo lƣu và phát triển văn hóa . 1.4. Xu hƣớng phát triển của du lịch tôn giáo tín ngƣỡng Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng có xu hƣớng ngày càng gia tăng và phát triển. Nguyên nhân của việc không ngừng phát triển này là do: Tôn giáo tín ngƣỡng đƣợc coi là tài nguyên du lịch quan trọng,có sức hấp dẫn đặc biệt với khách du lịch. Con ngƣời cần đến tôn giáo tín ngƣỡng trong đời sống vì niềm tin của mỗi ngƣời về một hiện thực tâm linh siêu việt bên ngoài đời sống con ngƣời không bao giờ chấm dứt, cho dù con ngƣời có đạt đến trình độ văn minh đến đâu chăng nữa; do bởi "cái biết" của con ngƣời thì có hạn mà "cái không biết" thì vô hạn. Đã đến lúc con ngƣời cần nhìn tôn giáo tín ngƣỡng với cái nhìn trung thực không thiên kiến, chủ quan, đánh giá đúng vai trò của tôn giáo tín ngƣỡng với đời sống tinh thần của con ngƣời. Trình độ văn hóa,nhận thức ngày càng cao,con ngƣời muốn tìm hiểu, khám phá, nghiên cứu những điều mới lạ kì bí, những vấn đề mà khoa học chƣa giải thích chứng minh đƣợc. Tài nguyên du lịch tôn giáo tín ngƣỡng đa dạng và phong phú. Con ngƣời dù sơ khai hay con ngƣời văn minh đều có niềm tin vào một hiện thực tâm linh siêu việt ở bên ngoài thế giới loài ngƣời. Điều đáng nói là niềm tin đó đƣợc thể hiện vô cùng phong phú và đa dạng từ ngây ngô, đơn giản nhất đến tinh tế, phức tạp, phổ biến tùy theo căn cơ , trình độ tiến hoá, tri thức, thời đại của mỗi 16
- ngƣời. Niềm tin đó phát xuất từ sự quan sát hay cảm nhận của mỗi ngƣời đối với mọi sự vật chung quanh trong đời sống. Ở Việt Nam theo ThS. Lê Ngọc Lân (Viện Gia đình và giới), khảo sát cho thấy, trong hoạt động lễ chùa, 48,1% ngƣời đƣợc hỏi tham dự các dịp lễ chính (ngày Tết, rằm tháng Giêng, tháng Bảy, tháng Tám, tháng Chạp), con số này là 20,9% vào ngày rằm, mồng một hàng tháng. 7,3% chỉ thỉnh thoảng đến chùa nhân dịp đi công tác, du lịch và 23,4% hoàn toàn không đi lễ chùa. Trên thực tế, việc ngƣời dân tham gia lễ chùa gia tăng một phần do cuộc sống đƣợc cải thiện, các cơ sở thờ cúng đƣợc tôn tạo, đầu tƣ nhiều hơn. Với những việc đƣợc thực hiện khi đi lễ chùa thì đặt lễ công đức "giọt dầu" cho nhà chùa chiếm tỷ lệ cao nhất (97,5%). Một biểu hiện khác thể hiện nhu cầu tôn giáo tín ngƣỡng tâm linh là việc thờ cúng tại gia. Xem xét mức độ thờ cúng, cầu nguyện tại gia trong khoảng thời gian 12 tháng cho thấy, trong số 1.211 ngƣời trả lời có 3,7% không thực hiện nghi lễ này lần nào, 4,1% cúng lễ 1-2 lần trong năm và 2,6% thực hiện vài lần trong năm. Chiếm tỷ lệ cao nhất là những ngƣời thực hiện việc thờ cúng 1-2 lần trong tháng (83,2%). Số liệu khảo sát cho thấy 94% số hộ có thờ cúng ông bà, tổ tiên, 8,8% có thờ Đức Phật, 46,1% thờ Ông Địa và 10,9% thờ Thần Tài. Tìm hiểu ý nghĩa của việc hành lễ, thờ cúng tại gia đối với các gia đình Hà Nội hiện nay, 70,4% khẳng định đó là phong tục tập quán tốt, cần đƣợc giữ gìn, 48,6% cho rằng đây là những dịp để con cháu tỏ lòng thành kính với ông bà tổ tiên, 6,8% nêu tác dụng của việc thờ cúng tiền nhân, thần Phật là dịp để giáo dục con cái trong gia đình. Tham gia lễ hội truyền thống tại các địa phƣơng cũng đƣợc coi là một tiêu chí về sinh hoạt cộng đồng trên khía cạnh tôn giáo tín ngƣỡng. [9;137] 17
- TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 Du lịch là một trong những phƣơng tiện hàng đầu để giao lƣu văn hóa, tôn giáo tín ngƣỡng, tạo cơ hội cho mỗi con ngƣời đƣợc trải nghiệm không chỉ những gì trong quá khứ còn để lại mà cả cuộc sống và xă hội đƣơng đại. Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng ngày càng đƣợc thừa nhận rộng rãi là một động lực tích cực cho việc bảo vệ di sản thiên nhiên và văn hoá. Du lịch là một bộ phận chủ yếu của nhiều nền kinh tế quốc gia và khu vực, là một nhân tố quan trọng trong phát triển đất nƣớc. Bản thân du lịch đã thành một hiện tƣợng ngày càng phức hợp, đóng một vai trò chủ yếu trong các lĩnh vực kính tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tôn giáo tín ngƣỡng ,giáo dục, sinh thái và thẩm mỹ. Du lịch ton giáo tín ngƣỡng đem lại lợi ích cho cộng đồng địa phƣơng, tạo cho họ một động lực để bảo tồn, duy trì di sản và các tập tục văn hoá. Trong đời sống tâm linh con ngƣời đã từng tồn tại nhiều hình thức tín ngƣỡng, tôn giáo khác nhau. Ngƣời Việt có tục thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Phật, thờ các thần linh, thờ các anh hùng có công với nƣớc, với dân , đặc biệt thờ Mẫu (Mẹ). Tôn giáo tín ngƣỡng đã trở thành nhu cầu tinh thần của con ngƣời. Tôn giáo tín ngƣỡng không đơn thuần chỉ là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh, tinh thần, mà còn là vấn đề văn hóa, đạo đức, lối sống có những giá trị tốt đẹp mà công cuộc xây dựng xã hội mới có thể tiếp thu. Ngày nay có rất nhiều hình thức du lịch tôn giáo tín ngƣỡng khác nhau nhƣ : hành hƣơng, ngồi thiền, tham quan, tìm hiểu nếp sống văn hóa,phong tục tập quán, nghiên cứu đời sống tâm linh Du lịch tôn giáo tín ngƣỡng giúp con ngƣời thƣ giãn, giảm stress, tìm lại chính mình, có niềm tin vào cuộc sống Hiện nay du lịch tôn giáo tín ngƣỡng đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và theo hƣớng bền vững. 18
- CHƢƠNG 2. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ CỦA THĂNG LONG TỨ TRẤN (HÀ NỘI) PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÔN GIÁO TÍN NGƢỠNG 2.1. Khái quát chung về cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn 2.1.1.Lịch sử hình thành cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn a. Khái niệm, ý nghĩa cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn Thăng Long Tứ Trấn là khái niệm xuất hiện trong dân gian để chỉ về bốn ngôi đền thiêng trấn giữ các hƣớng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long, đó là: Trấn Đông: đền Bạch Mã (phố Hàng Buồm) thờ thần Long Đỗ - thành hoàng Hà Nội. Đền đƣợc xây dựng từ thế kỷ 9. Trấn Tây: đền Voi Phục (đúng ra là đền Thủ Lệ) (hiện nằm trong Công viên Thủ Lệ) thờ Linh Lang - một hoàng tử thời nhà Lý. Đền đƣợc xây dựng từ thế kỷ 11. Trấn Nam: đền Kim Liên, trƣớc đây thuộc phƣờng Kim Hoa, sau thuộc phƣờng Đông Tác, huyện Thọ Xƣơng, phủ Hoài Đức (nay là phƣờng Phƣơng Liên, Đống Đa, Hà Nội), thờ Cao Sơn Đại Vƣơng. Đền đƣợc xây dựng từ thế kỷ 17. Trấn Bắc: đền Quán Thánh (đúng ra là đền Trấn Vũ), (cuối đƣờng Thanh Niên), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ. Đền đƣợc xây dựng từ thế kỷ 10. Thăng Long Tứ Trấn còn một cách hiểu khác rộng hơn, đó là bốn kinh trấn hay còn gọi là nội trấn (ngoài ra còn gọi là các phiên trấn) bao quanh kinh thành Thăng Long, có nhiệm vụ che chắn, bảo vệ kinh thành ngay từ vòng ngoài khi kinh thành trực tiếp bị đe dọa. Vì ở gần kinh thành nên bốn trấn còn là những lực lƣợng có nhiệm vụ "cứu giá" và dẹp yên nội loạn khi kinh thành có biến. Đó là các trấn: Kinh Bắc: bao gồm 4 phủ (20 huyện) các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và Vĩnh Phúc sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Du, 19
- Võ Giàng, Quế Dƣơng (5 huyện - thuộc phủ Từ Sơn) Gia Lâm, Siêu Loại, Văn Giang, Gia Định, Lang Tài (5 huyện - thuộc phủ Thuận An) Kim Hoa, Hiệp Hoà, Yên Việt, Tân Phúc (4 huyện - thuộc phủ Bắc Hà), và cuối cùng là: Phƣợng Nhãn, Hữu Lũng, Yên Dũng, Bảo Lộc, Yên Thế, Lục Ngạn (6 huyện - thuộc phủ Lạng Giang). Vì trấn lỵ ở Đáp Cầu, huyện Võ Giàng (phía Bắc kinh thành), nên Kinh Bắc cũng đƣợc gọi là trấn Bắc hay trấn Khảm . Thành Bắc Ninh đặt tại Bắc Ninh. Sơn Nam: Gồm 11 phủ (42 huyện) tƣơng đƣơng các tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Hƣng Yên sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Thanh Đàm, Thƣợng Phúc, Phú Xuyên (3 huyện - thuộc phủ Thƣờng Tín) Thanh Oai, Chƣơng Đức, Sơn Minh, Hoài An (4 huyện - thuộc phủ Ứng Thiên) Nam Xang, Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục (5 huyện - thuộc phủ Lý Nhân) Đông An, Kim Động, Tiên Lữ, Thiên Thi, Phù Dung (5 huyện - thuộc phủ Khoái Châu) Nam Chân, Giao Thuỷ, Mỹ Lộc, Thƣợng Nguyên (4 huyện - thuộc phủ Thiên Trƣờng) Đại An, Vọng Doanh, Thiên Bản, Ý Yên (4 huyện - thuộc phủ Nghĩa Hƣng) Thuỵ Anh, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Đông Quan (4 huyện - thuộc phủ Thái Bình) Ngự Thiên, Duyên Hà, Thần Khê, Thanh Lan (4 huyện - thuộc phủ Tân Hƣng) Thƣ Trì, Vũ Tiên, Chân Định (3 huyện - thuộc phủ Kiến Xƣơng) Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang (3 huyện thuộc phủ Trƣờng An) và cuối cùng là: Phụng Hoá, An Hoá, Lạc Thổ (3 huyện - thuộc phủ Thiên Quan). Vì trấn lị ở phía Nam kinh thành, nên Sơn Nam cũng đƣợc gọi là trấn Nam hay trấn Ly .Trấn lỵ lần lƣợt đặt tại Ninh Bình, Hƣng Yên rồi Nam Định. Hải Dƣơng: Gồm 4 phủ (18 huyện) bao gồm các tỉnh Hải Dƣơng, Hải Phòng và Kiến An sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Đƣờng Hào, Đƣờng An, Cẩm Giàng (3 huyện - thuộc phủ Thƣợng Hồng) Gia Phúc, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Vĩnh Lại (4 huyện - thuộc phủ Hạ Hồng) Thanh Hà, Thanh Lâm, Tiên Minh, Chí Linh (4 huyện - thuộc phủ Nam Sách) và cuối cùng là: Giáp Sơn, Đông Triều, An Lão, Nghi Dƣơng, Kim Thành, Thuỷ Đƣờng, An Dƣơng (7 huyện - thuộc phủ Kinh Môn). Vì trấn lị ở phía Đông kinh thành, nên Hải Dƣơng cũng 20
- đƣợc gọi là trấn Đông hay trấn Chấn . Thành Đông -Thành Hải Dƣơng đặt tại Hải Dƣơng. Sơn Tây: Gồm 6 phủ (24 huyện) tƣơng đƣơng các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên và Sơn Tây sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Từ Liêm, Phúc Lộc, Yên Sơn, Thạch Thất, Đan Phƣợng (5 huyện - thuộc phủ Quốc Oai) An Lãng, An Lạc, Bạch Hạc, Tiên Phong, Lập Thạch, Phù Khang (6 huyện - thuộc phủ Tam Đái) Sơn Vi, Thanh Ba, Hoa Khê, Hạ Hoà (4 huyện - thuộc phủ Lâm Thao) Đông Lan, Tây Lan, Sơn Dƣơng, Đƣơng Đạo, Tam Dƣơng (5 huyện - thuộc phủ Đoan Hùng) Tam Nông, Bất Bạt (2 huyện - thuộc phủ Đà Dƣơng) và cuối cùng là: Mỹ Lƣơng, Minh Nghĩa (2 huyện - thuộc phủ Quảng Oai). Vì trấn lị ở phía Tây kinh thành nên Sơn Tây cũng đƣợc gọi là trấn Tây hay trấn Đoài. Thành Tây - Thành cổ Sơn Tây đặt tại Sơn Tây. Trong nội dung đề tài nghiên cứu, em chỉ đề cập đến Thăng Long tứ trấn với nghĩa hẹp là bốn ngôi đền thiêng ở Hà Nội. 2.2.2. Các giá trị tiêu biểu của cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn a. Giá trị lịch sử *) Đền Bạch Mã Đền Bạch Mã hiện nay tọa lạc ở 76 Hàng Buồm, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đƣợc xây dựng trƣớc khi có kinh thành Thăng Long, đền Bạch Mã nằm ở hƣớng chính Đông, là một trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xƣa. Xƣa kia nơi đền Bạch Mã tọa lạc thuộc địa dƣ phƣờng Hà Khẩu, tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xƣơng, phủ Hoài Đức. Đền thờ thần Long Đỗ (tức Rốn Rồng), vị thần gốc của Hà Nội cổ, bảo hộ kinh thành Thăng Long. Sự tích đền Bạch Mã: Ẩn sau câu chuyện huyền thoại đền Bạch Mã và sự tích ngựa thiêng về Hải Phòng giúp dân xây đình, là thông điệp về tinh thần tự tôn dân tộc và sự tiếp nối, tôn vinh các giá trị tốt đẹp của ngƣời xƣa. Ngựa là một trong những loài vật gắn bó với ngƣời Việt từ thời thƣợng cổ, kề vai sát cánh cùng nhân dân ta trong hoạt động lao động sản xuất lẫn chiến chinh bảo vệ bờ cõi. Vì vậy, gắn với ngựa là nhiều câu chuyện huyền thoại hóa 21
- linh thiêng. Sự tích đền Bạch Mã, cùng việc ngựa thiêng về Hải Phòng giúp dân địa phƣơng xây đình tuy huyền ảo nhƣng lại chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa của cổ nhân. Đời thƣờng hóa linh thiêng: Ngay từ thời vua Hùng dựng nƣớc, mỗi ngƣời Việt Nam ngay từ thuở nhỏ đều lớn lên cùng câu chuyện huyền thoại “chàng Gióng, cƣỡi ngựa sắt biết thét ra lửa, lao vun vút ra trận, dũng mãnh diệt giặc Ân”. Khi trƣởng thành, chúng ta ngầm hiểu Thánh Gióng là hình tƣợng ƣớc lệ cho sức mạnh vô địch chống ngoại xâm của cả dân tộc, cũng nhƣ ngựa sắt thần thông chỉ là sản phẩm do trí tƣởng tƣợng của tổ tiên, đƣợc nâng tầm từ chính những phẩm chất vốn có của những chú ngựa bình thƣờng, sống gần gũi với ngƣời. Ngựa trung thành, mạnh mẽ, giàu tốc độ không chỉ là phƣơng tiện đi lại, mà còn gian khổ cùng ngƣời Việt kiên cƣờng đánh giặc giữ nƣớc trong buổi đầu sơ khai. Vì thế, ngựa đƣợc con ngƣời yêu quý thần thánh hóa và huyền thoại trở thành con vật linh thiêng trong đời sống tâm linh của cộng đồng. Câu chuyện ngựa trắng, giúp vua Lý Thái Tổ xây thành Thăng Long, càng minh chứng rõ hơn cho điều này. Theo cuốn Việt sử giai thoại của nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần, tƣơng truyền khi Lý Công Uẩn dời kinh đô từ Hoa Lƣ đến Đại La, đổi tên là Thăng Long. Nhà vua sai đắp lại thành, nhƣng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai ngƣời đến cầu đảo tại đền thờ thần Long Đỗ. Chợt ngƣời cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân tại đó, và cuối cùng vào đền rồi biến mất. Nhà vua biết là thần Long Đỗ hiển linh hóa thân vào con ngựa trắng giúp mình xây thành, nên cứ theo vết chân ngựa mà đắp thì thành không lở nữa, rồi nhân đó, phong thần làm thành hoàng của Thăng Long, trấn giữ, bảo vệ cho kinh kỳ. Sau khi thành xây xong, vua sai ngƣời đúc tƣợng ngựa trắng tại đền để muôn đời sau thờ phụng và tên đổi tên thanh đền Bạch Mã bắt đầu xuất hiện từ đó. Các vua đời sau này cũng tôn kính mà phong thần Long Đỗ Bạch Mã tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối Linh Thƣợng Đẳng Thần. 22
- Ngựa thiêng về Hải Phòng: Bạch Mã là một trong tứ trấn nổi tiếng thành Thăng Long xƣa (nay là thủ đô Hà Nội). Nhƣng có một điểm khá thú vị mà không phải ai cũng biết là ở thành phố Hải Phòng cũng có nơi lấy thần Long Đỗ Bạch Mã làm Thành hoàng làng để thờ tự và sự tích xây đền cũng gắn liền với sự hiển linh của vị thần cƣỡi con ngựa trắng. Đó là đình Lệ Tảo, ở phƣờng Nam Sơn, quận Kiến An. Ông Nguyễn Văn Hứa, Trƣởng ban Trị sự đình kể lại câu chuyện khá ly kỳ: “Tƣơng truyền vào năm 1813, làng quyết định xây đình thờ thành hoàng làng “Bạch Thiên Quan Cán trúc tôn thần”, nhƣng không hiểu sao đình cứ xây xong lại đổ, mấy năm liền không hoàn thành. Sau các cụ cao niên trong làng nhiều lần nằm chiêm bao thấy thần Long Đỗ cƣỡi con bạch mã về báo mộng muốn giúp dân xây đình. Thế là ngay sau đó, làng phải cử ngƣời lên tận kinh thành để làm lễ, xin dấu, ấn của đền Bạch Mã. Kỳ lạ thay, kể từ đó đình làng nhanh chóng đƣợc hoàn thành và vững vàng qua bao thăng trầm thời gian cho đến tận ngày nay. Ghi nhớ công ơn này, nhân dân trong làng quyết định thờ thêm thần Long Đỗ Bạch Mã làm Thành hoàng, ngựa trắng trở thành vật thờ cúng thiêng trong đình”. Câu chuyện xây dựng đình Lệ Tảo cũng nhƣ sự tích xây thành Thăng Long tuy mang đầy chất huyền ảo, kỳ bí, nhƣng nó lại phản ánh tính liên tục và kế thừa trong đời sống tâm linh và tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt. Đó là, sự tiếp nối mạch nguồn truyền thống, tri ân những bậc tiền nhân, anh hùng, danh nhân có công với làng, với nƣớc và sự tự hào về mảnh đất Việt Nam địa linh nhân kiệt, nơi đâu cũng có thần linh phù trợ. Vậy ra, dù ở đình thiêng cấp làng hay ở đền linh - một trong tứ trấn của Thủ đô, thì việc tạc tƣợng, thờ thần, xây dựng đền miếu, hƣơng khói, truyền tụng những sự tích của ngƣời xƣa, tƣởng chừng nhƣ huyền ảo, kỳ bí, nhƣng ngẫm ra cũng chỉ cốt nhằm mục đích “chuyển tải đến muôn đời tinh thần tự hào dân tộc và sự tôn vinh những giá trị tốt đẹp của thế tục mà thôi”. Văn bia hiện còn ở đền cho biết, đền Bạch Mã đƣợc tu bổ lớn vào niên hiệu Chính Hòa (1680-1705) đời Lê Hy Tông. 23
- Cuối thế kỷ XVII đền đƣợc tôn nền cũ và mở rộng. Năm 1781, chúa Trịnh cho dân các giáp Mật Thái, Bắc Thƣợng, Bắc Hạ thuộc phƣờng Hà Khẩu chung quanh đền Bạch Mã đƣợc “tạo lệ” (sắm lễ vật tế, không phải sƣu sai, tạp dịch khác). Năm 1829, Đền đƣợc sửa chữa rất tráng lệ. Đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), đền lại đƣợc tu bổ thêm: dựng riêng văn chỉ, xây Phƣơng đình để làm nơi cúng lễ các tuần tiết, quy mô ngày càng rộng rãi, cảnh quan tôn nghiêm, nổi tiếng ở chốn đất thiêng. Ngoài ra trong đền còn lƣu giữ những dấu tích của các danh nhân văn hóa lịch sử nhiều thời kỳ. Thời Trần, Thƣợng tƣớng Thái sƣ Trần Quang Khải có bài thơ đề tặng, hiện vẫn còn ở biển gỗ thờ tại đền Tích văn hách trạc Đại vương linh, Kim nhật phương tri quỷ mị kinh. Hoả bắc tam khu thiêu bất tận, Phong lôi nhất trận phiến nan khuynh. Chỉ huy vọng lượng tam thiên chúng, Hô hấp tiễu trừ bách vạn binh. Nguyện trượng dư uy thanh Bắc khấu, Đôn linh vũ trụ lạc thăng bình. Bản dịch: Đại vương xưa nức tiếng oai linh Nay mới hay rằng ma quỷ kinh Lửa tụ ba khu không cháy miếu Gió lay một trận chẳng nghiêng mình Khiến sai bọn quỷ ba nghìn đứa Đánh dẹp loài ma trăm vạn binh Nhờ cậy dư uy trừ giặc Bắc Giúp ngay đất nước được thanh bình (Trần Lê Văn dịch) 24
- Một trong những câu đối còn tại đền đã khái quát khá tiểu biểu công ơn của thần Bạch Mã: Phù quốc lộ ư La Thành, vạn cổ uy thanh truyền mã tích Ngật tôn từ vu giang tứ, thiên thu vượng khí trấn Long Biên Tạm dịch: Giúp nước thịnh ở La Thành, muôn thuở uy danh truyền dấu ngựa Bến sông nước, nghìn năm vượng khí giữ Long Biên Đền đƣợc đề cập đến trong ''La Thành cổ tích vịnh,'' soạn năm Lê Chiêu Thống Mậu Thân (1788) Rồng cuộn đất thiêng thành thắng cảnh Tích truyền Bạch Mã trấn danh châu Cao vương chuyện cũ nay bùn đất Vật đổi sao dời đã mấy Thu. *) Đền Voi Phục Đền Voi Phục đƣợc lập từ thời Lý Thái Tông (1028-1054) ở góc phía tây nam thành Thăng Long cũ thuộc địa phận làng Thủ Lệ nay là công viên Thủ Lệ. Thờ hoàng tử Linh Lang, con của vua Lý Thái Tông, và bà phi thứ 9 Dƣơng Thị Quang, nhƣng tƣơng truyền vốn là con của Long Quân, tên gọi là Hoàng Châu, thác sinh, là ngƣời có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lƣợc nhà Tống, và đã hi sinh trên phòng tuyến sông Cầu vào năm 1076. Sau khi mất, đƣợc ngƣời dân Thủ lệ lập đền thờ và đƣợc nhà vua sắc phong là Linh Lang đại vƣơng thƣợng đẳng phúc thần. Thần đã nhiều lần âm phù giúp nhà Trần trong cuộc chiến chống quân xâm lƣợc Nguyên - Mông, và nhà Lê trong cuộc phục hƣng. Vì trƣớc cửa đền có đắp 2 con voi quỳ gối nên quen gọi là đền Voi Phục và vì đền ở phía tây kinh thành nên còn gọi là trấn Tây hoặc trấn Đoài (Đoài, theo bát quái thuộc phƣơng Tây). Trong lịch sử, đền Voi Phục nhƣ một trấn thiêng ở phía Tây của thành Thăng Long, đền không chỉ liên quan trực tiếp với Kinh đô mà nó đã hội vào bản thân rất nhiều dòng chảy của tín ngƣỡng dân gian để tồn tại với thời gian, hiện nay khó ai có thể nắm bắt đƣợc hết những ý nghĩa thiêng liêng của kiến 25
- trúc mang vẻ đẹp thánh thiện này, chỉ biết rằng, đền Voi Phục, từ nay sẽ luôn đƣợc tôn tạo xứng đáng, vì đó là một điểm sáng trong tinh thần bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc. *) Đền Kim Liên Đền Kim Liên Hà Nội đƣợc mệnh danh là Nam trấn Thăng Long do vị trí địa lí của đền, lại mang danh của thần Cao Sơn nên ngồi đền nổi tiếng về sự linh thiêng. Đền Kim Liêm hay còn đƣợc gọi là Đền Cao Sơn nằm ở phía Nam của kinh thành Thăng Long. Đền thờ Thần Cao Sơn, có tên khác là Cao Sơn Đại Vƣơng là một trong những ngƣời con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đền Kim Liên đƣợc xây dựng dƣới thời vua Lý Thái Tổ, đƣợc dựng lên với lục đích bảo vệ kinh thành ở phía Nam Thăng Long. Nay đền thuộc phƣờng Phƣơng Liên, quận Đống Đa, Hà Nội. Một số ngƣời khi đi xa nhƣ làm ăn, công tác hay du lịch Hà Nội đều tới đền Kim Liên cầu thuận buồm xuôi gió, sóng yên bể lặng. Đền Kim Liên cũng là một địa điểm du lịch Hà Nội trong mùa lễ hội. Lễ hội tại đền diễn ra vào Tháng 3 Âm lịch. Trƣớc kia, lễ hội tại đền kéo dài một tuần trời những đến nay chỉ gói gọn vào ngày 15 Tháng 3 Âm lịch và ngày 16 Tháng 3 Âm Lịch. Ngày lễ chính là ngày 16. Lễ hội diễn ra tƣng bừng với nhiều chƣơng trình, trò chơi dân gian thu hút khá nhiều bạn bè, ngƣời trẻ quan tâm. Làng Kim Liên từ trƣớc đến nay nổi tiếng với các tay kéo cắt tóc khéo léo và cẩn thận. Một trong nhƣng cuộc thi diễn ra vào ngày hội chính là cắt tóc, vừa thể hiện phong cách hiện đại, trẻ trung nhƣng cũng không quên truyền thống của cha ông từ xƣa. *) Đền Quán Thánh Nhắc đến đền Quán Thánh, ngƣời ta sẽ nghĩ ngay đến pho tƣợng đồng quý giá Huyền Thiên Trấn Vũ. Bức tƣợng đồng nổi tiếng này chứa đựng nhiều điều kỳ bí cần đƣợc giải mã. Đền Quán Thánh đƣợc xây dựng từ đầu thời Lý, xƣa kia đƣợc xem là một trong Thăng Long tứ trấn và Thăng Long tứ quán. 26
- Thăng Long tứ quán là bốn quán của Đạo giáo ở đất Thăng Long xƣa. Quán là nơi tu hành của những ngƣời theo Đạo giáo. Ở Thăng Long có bốn Đạo quán lớn, bao gồm: Trấn Vũ quán, nay gọi là đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh. Huyền Thiên quán, nay là chùa Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai. Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đƣờng Thành. Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên. Những Đạo quán này đều xây dựng từ thời kỳ phát triển của Đạo giáo ở Việt Nam từ xa xƣa, nhƣng cũng chỉ đến hết đời Mạc. Từ đời Lê Trung Hƣng, do Đạo giáo suy thoái, những đạo quán bị Phật giáo hóa, trở thành chùa. Bên cạnh tƣợng các thánh của Đạo giáo còn có thêm tƣợng Phật. Ngoại trừ Trấn Vũ quán có tƣợng Trấn Vũ quá lớn nên vẫn còn giữ đƣợc bản chất đạo quán, những quán còn lại đều đổi tên thành chùa, trở thành nơi thờ Phật. Tƣơng truyền ngôi đền Quán Thánh có từ đời Lý Thái Tổ thờ thánh Trấn Vũ - vị thần trấn giữ phƣơng Bắc. Vì vậy mà đền có tên là Đền Trấn Võ, Quán Thánh Trấn Võ hay Quán Thánh. Theo truyền thuyết, thánh Trấn Vũ là ngƣời có công trị loài hồ ly tinh chuyên quấy nhiễu dân lành. Để tƣởng nhớ công ơn to lớn của ông, nhân dân đã cùng nhau đúc lên một bức tƣợng phác họa hình ảnh của ông bằng đồng đen. b. Giá trị kiến trúc mỹ thuật *) Đền Bạch Mã Hiện tại ngôi đền có qui mô kiến trúc lớn gồm có nghi môn, phƣơng đình, đại bái, thiêu hƣơng, cung cấm và nhà hội đồng ở phía sau. Các hạng mục này đƣợc bố trí theo chiều dọc, trong một không gian khép kín. Kiến trúc đền còn lƣu lại hiện nay chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Nổi bật trong kết cấu kiến trúc của đền là toàn bộ khung nhà gỗ với hệ thống cột gỗ lim lớn, các bộ vì đỡ mái đƣợc làm kiểu "giá chiêng chồng rƣờng con nhị", đặc biệt là "hệ củng 3 phƣơng" tại nhà phƣơng đình vừa có tác dụng chịu lực, vừa là tác phẩm nghệ thuật và sử dụng để treo đèn trong các ngày lễ hội và kết cấu "vòm vỏ cua" đỡ mái hiên nhà thiêu hƣơng. Trên các cốn gỗ, xà 27
- lách, xà ngang, các vì chồng rƣờng đều có nhiều mảng trang trí với các đề tài phong phú và nét chạm chắc, khỏe. Hiện nay đền vẫn giữ nguyên cấu trúc, nhƣng đƣợc sắp xếp lại theo cấu trúc “tam nguyên đồng hoá” tức là thêm điện thờ Phật và Mẫu, đƣợc Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1986. Đến nay, đền còn lƣu giữ nhiều di vật cổ có giá trị nhƣ: bia đá, sắc phong, kiệu thờ, hạc thờ, đôi phỗng, Cùng với các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, di tích đền Bạch Mã là một nguồn tƣ liệu quí để nghiên cứu, tìm hiểu Thăng Long-Hà Nội về nhiều mặt. Trong nội thất của đền, phƣơng đình ở phía trong, bên trái có cây hƣơng, bàn thờ, phía ngoài có miếu thờ Tề Vƣơng Phi, bên phải phƣơng đình thờ Bể Núi. Thiêu hƣơng và cung cấm có ban thờ và đồ tế lễ. Hiện đền còn lƣu giữ nhiều di vật cổ có giá trị nhƣ: bia đá, sắc phong, kiệu thờ, hạc thờ, đôi phỗng, Cùng với các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, di tích đền Bạch Mã là một nguồn tƣ liệu quý để nghiên cứu, tìm hiểu Thăng Long-Hà Nội về nhiều mặt. Có hơn một nghìn năm lịch sử, đền Bạch Mã là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu của thủ đô Hà Nội. Trong đền hiện nay còn lƣu giữ đƣợc khá nhiều hiện vật có giá trị nhƣ 15 văn bia (nội dung các văn bia đề cập sự tích của Đền, Thần, nghi lễ cúng thần, các lần trung tu tôn tạo), đồ thờ gồm các vũ khí thời cổ nhƣ xích, đạo, thƣơng, câu liêm đƣợc sơn son thiếp vàng, chạm khắc tinh xảo. Trong Đền, cùng với các lƣ hƣơng đồng, bình đồng, còn có tƣợng Phật và một đôi hạc, đôi phỗng trong tƣ thế đứng trang nghiêm. Hội Đền hằng năm mở ngày 12 và 13-2 âm lịch hàng năm. *) Đền Voi Phục Đền Voi Phục hiện nay nằm tại phƣờng Ngọc Khánh, quận Ba Đình, Hà Nội. Trƣớc đây, đền nằm trong hệ Tứ Trấn, "giữ" phía Tây kinh thành. Nơi đây vốn là đất lắm hồ ao, lầy lội, là một trong Thập tam trại có từ thời Lý. Đƣơng thời, thuộc tổng nội, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (trƣớc đó là ông Thiên) Tƣơng truyền, đền Voi Phục đƣợc xây dựng năm Chƣơng Thánh Gia 28
- Khánh thứ 7 (năm 1065) đời vua Lý Thánh Tông trên một khu gò cao thuộc vùng đất của trại Thủ Lệ -một trong 13 làng trại ở phía tây kinh thành Thăng Long. Bƣớc vào đền ta có thể thấy cổng tứ trụ, nhƣ những trục vũ trụ đem sinh khí từ tầng trên truyền xuống trần gian (đây là sản phẩm của thế kỷ XIX - XX), hai bên cổng có bia hạ mã và đôi voi chầu phục (hiện mới đƣợc xây thêm nghi môn tứ trụ nữa, ở sát với đƣờng lớn). Cũng chính vì điều này mà đền mang tên Voi Phục. Đƣờng lên sân có ba lối, chính giữa có 12 bậc đá rộng, nơi chỉ để rƣớc kiệu trong ngày lễ, bình thƣờng đi hai lối bên. Trƣớc mặt lối giữa là một giếng vuông mang ý nghĩa tụ thuỷ tụ phúc, nơi xƣa kia lấy nƣớc cúng (có lẽ giếng đã đƣợc sửa thành vuông trong thời gian gần đây). Ý nghĩa cầu nƣớc và cầu no đủ còn đƣợc thể hiện ở đôi rồng mây "chạm tròn" bằng đá, một sản phẩm khoảng giữa thế kỷ XIX và đôi hổ phù gắn hai bên tƣờng cửa chính đƣợc chạm nổi, mang nét chuẩn mực. Đền Voi Phục có dạng chữ Công. Tiền tế 5 gian, kết cấu vì chồng rƣờng, mái lợp ngói mũi hài cổ. Trung đƣờng 1 gian chạy dọc vào phía trong nối với hậu cung. Tại tòa này đƣợc đặt ngai lớn chạm khắc hình rồng, hoa lá tỉ mỉ, các nét chạm mang nghệ thuật thế kỷ XIX. Dƣới ngai thờ thần là tƣợng 2 vị tuỳ tƣớng quỳ chầu. Hậu cung cũng 5 gian, gian chính giữa ở vị trí sâu và cao nhất là pho tƣợng đức Linh Lang Đại vƣơng với nét mặt thanh tú, cao sang. Phía trƣớc pho tƣợng Ngài là một hòn đá lớn đƣợc đặt trong hộp kính. Hòn đá có vết lõm, tƣơng truyền thần đã từng gối đầu trên hòn đá này. Hai bên hòn đá là tƣợng 2 vị phụ tá đứng chầu. Trong đền, ngoài các pho tƣợng còn có hoành phi, câu đối, nhang án, long ngai, cửa võng bát bửu cùng các đồ tế khí. đều đƣợc sơn son thếp vàng lộng lẫy. Ngoài ra, đền Voi Phục còn sở hữu 9 cây muỗm đại cổ thụ nằm ngay trƣớc sân đền.Những cây muỗm này có tuổi khoảng 700 năm. Cả 9 cây đều đƣợc trồng cùng với việc xây dựng ngôi đền Voi Phục từ thời nhà Lý. Mặc dù có kích thƣớc khác nhau và đã có một số cây bị xâm hại (bị cƣa cành hoặc sâu bệnh) nhƣng về cơ bản cả 9 "Cụ Muỗm" này đều rất đồ sộ và vẫn còn xanh tốt. Chu vi thân từ 3 đến 5 m, chiều cao từ 25 – 30 m. Chính quyền địa phƣơng đã 29
- có kế hoạch trùng tu, bảo vệ quần thể di tích đền Voi Phục, trong đó có 9 cây Muỗm cổ thụ này. Lễ hội của đền là một cuộc sinh hoạt văn hoá thƣờng niên, mang tính chất mở, với sự tham gia của thập phƣơng, vƣợt ra ngoài không gian đất Thủ Lệ, ít nhất là vùng Thuỵ Khuê, Thủ Lệ, Vạn Phúc rồi vùng Thập tam trại và cả Bồng Lai (Đan Phƣợng - Hà Tây) - lễ hội chính của đền Voi Phục diễn ra vào ngày 9 và 10 tháng hai âm lịch., từng năm có thể kéo dài từ 3 tới 10 ngày tuỳ theo sự đóng góp của dân, đáng kể nhất là việc rƣớc kiệu và một vài tục lệ khác. Đền Voi Phục đã đƣợc trùng tu sửa chữa nhiều lần và ngôi đền hiện nay khang trang hơn so với ngôi đền cũ bị thực dân Pháp phá hủy năm 1947. Năm 1994, nhân dân Thủ Lệ quyên góp đúc lại quả chuông cao 93 cm, đƣờng kính miệng 70 cm, thân chia 4 múi, mỗi múi có hàng chữ Hán đúc nổi: "Tây trấn thƣợng đẳng". Ngày 10/8/2000, thành phố Hà Nội khởi công tu sửa lại Đền Voi Phục. Đợt tu bổ này tập trung chủ yếu vào khôi phục nhà Hữu Vu, hoàn chỉnh kiến trúc tổng thể cho khu di tích. Ngày 4/7/2009, Đền Voi Phục một lần nữa đƣợc trùng tu tôn tạo để hƣớng tới Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội./. Đền đƣợc tách hẳn khỏi công viên thủ lệ, toạ lạc trên gò Long Thủ giữa một khu đất rộng, dƣới xum xuê cành lá. Mặt tiền trông ra hồ thủ lệ mênh mông gợn sóng. Sau khi đƣợc tu bổ, giờ đây, bất cứ ai đi qua phố Kim Mã xuôi hƣớng Cầu Giấy về phía cuối hồ Thủ Lệ cũng dễ dàng nhận thấy ngay bên tay phải là cổng đền Voi Phục lộng lẵy, uy nghiêm. Đền Voi Phục đƣợc Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngày 28/4/1962. *) Đền Kim Liên Đền Kim Liên vốn đƣợc lập nên để thờ Cao Sơn Đại Vƣơng (theo tín ngƣỡng dân gian, thì đây là một ngƣời con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, sau theo mẹ lên núi). Theo tấm bia đá đặc biệt cao 2,34m, rộng 1,57m, dày 0,22m hiện còn lƣu giữ tại đền (đây cũng là di vật quý giá nhất ở đền này) có bài tựa "Cao Sơn đại vƣơng thần từ bi minh", văn bia do sử thần Lê Trung soạn năm 1510, nói về công lao của thần Cao Sơn. Nội dung cho biết: Khi vua Lê Tƣơng Dực cầm quân dẹp loạn, khôi phục cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ, có ba vị đại 30
- thần là Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoàng Dụ và Nguyễn Văn Lữ cùng đem quân đi chinh phạt. Đến địa phận huyện Phụng Hoá (nay là di tích đền Láo, xã Văn Phƣơng, Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) thì thấy cảnh núi rừng rậm rạp có ngôi đền cổ ghi bốn chữ "Cao Sơn đại vƣơng". Rất lấy làm lạ, vua quan bèn khẩn cầu thần phù trợ. Quả nhiên sau mƣời ngày đã thành công. Vì thế, vua Lê Tƣơng Dực cho xây dựng đền thờ thần Cao Sơn đƣợc lập ở Phụng Hóa. Sau nhớ ơn thần đã ngầm giúp dẹp loạn ở Đông Đô, nên năm 1509, vua cho xây dựng lại đền thờ to đẹp hơn ở phƣờng Kim Hoa gầnThăng Long thời bấy giờ. Sau này, dân làng Kim Liên đã lập thêm cổng tam quan ở phía trƣớc cổng đền ngay sát đầm Kim Liên và bổ sung thêm một số kiên trúc mới, tạo thành đình Kim Liên. Ngoài Cao Sơn Đại Vƣơng, trong đền và đình này còn thờ Tam Phủ, thờ Mẫu, và thờ Hồ Chí Minh. Đình đƣợc xây dựng trên một gò đất cao ở phía đông đầm Kim Liên. Cổng đình và cửa chính điện đều hƣớng về phía tây, trông ra đầm Kim Liên (đầm này nay không còn do bị lấp đi để làm đƣờng vành đai 1). Kiến trúc của đình bao gồm hai phần tƣơng đối rõ: phần phía trƣớc gò có một cổng trụ biểu, hai dãy giải vũ hai bên sân gạch rộng và phần kiến trúc chính của di tích nằm trên gò đất cao. Đi hết khoảng sân trên thì qua chín bậc gạch cao đƣợc xây bằng những viên gạch vồ có kích thƣớc lớn thời Lê Trung Hƣng nối hai bộ phận kiến trúc trên. Đình chính gồm Nghi môn, Đại bái và Cung cấm. Nghi môn là một nếp nhà ba gian, xây kiểu tƣờng hồi bít đốc. Bốn bộ vì đỡ mái đƣợc làm theo kiểu chồng rƣờng giá chiêng, cột trốn. Trên các bộ phận kiến trúc các họa tiết trang trí đƣợc thể hiện sinh động, công phu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Nhà đại bái gồm 5 gian mới đƣợc thành phố tôn tạo trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội, với kiểu dáng kiến trúc truyền thống. Hậu cung là một nếp nhà ba gian dọc, xây gạch trần mái lợp ngói ta. Trong nhà xây vòm cuốn, nội thất đƣợc bố trí nhƣ sau: gian ngoài cùng, bó bệ gạch cao để đặt hƣơng án; gian thứ hai xây bệ gạch cao để đặt long ngai và các đồ tế khí. Gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vƣơng và hai nữ thần phối hƣởng (Tôn nữ Động Hồ Trƣng 31
- Vƣơng (công chúa con gái vua Lê) và Huệ Minh công chúa). Hiện (tháng 2 năm 2009) đình đang đƣợc sửa sang, tu bổ. Di vật quan trọng nhất tại đình Kim Liên là tấm bia đá "Cao sơn Đại Vƣơng thần từ bi minh" do sử thần Lê Tung soạn năm 1510 nói về công lao của thần Cao Sơn trong việc ngầm giúp vua Lê giành lại ngai vàng từ tay ngoại thích và hệ thống 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vƣơng, trong đó có hai sáu đạo thời Lê Trung Hƣng, mƣời ba đạo thời nhà Nguyễn, sớm nhất trong số đó là sắc phong có niên đại Vĩnh Tộ năm thứ hai (1620). *) Đền Quán Thánh Đền đƣợc xây dựng vào đầu thời nhà Lý, từng trải qua nhiều đợt trùng tu vào các năm 1618, 1677, 1768, 1836, 1843, 1893, 1941 (các lần trùng tu này đƣợc ghi lại trên văn bia). Đợt trùng tu năm Đinh Tỵ niên hiệu Vĩnh Trị thứ 2 tức đời vua Lê Hy Tông. Trịnh Tạc ủy cho con là Trịnh Căn chủ trì việc xuất của kho để di tạo Trấn Vũ Quán và pho tƣợng Thánh Trấn Vũ. Nghệ nhân trực tiếp chỉ huy đúc tƣợng Thánh Huyền thiên Trấn Vũ là Vũ Công Chấn.[1]Ông cho đúc tƣợng Huyền thiên Trấn Vũ bằng đồng hun, thay cho pho tƣợng bằng gỗ trƣớc đó. Năm Cảnh Thịnh thứ 2 (1794) đời vua Quang Toản, viên Đô đốc Tây Sơn là Lê Văn Ngữ cho đúc chiếc khánh đồng lớn. Vua Minh Mạng nhà Nguyễn khi ra tuần thú Bắc Thành cho đổi tên đền thành “Chân Vũ quán”. Ba chữ Hán này đƣợc tạc trên nóc cổng tam quan. Tuy nhiên, trên bức hoành phi trong Bái đƣờng vẫn ghi là Trấn Vũ quán. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm đền và ban tiền đúc vòng vàng đeo cho tƣợng Trấn Vũ. Đền đƣợc công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đợt đầu năm 1962. Có thể thấy ngƣời xƣa chấp nhận cả hai cách viết và gọi là Trấn Vũ quán và Đền Quán Thánh. Quán là Đạo Quán và là nơi thờ tự của Đạo Giáo, cũng nhƣ chùa là của Phật Giáo. Thánh Trấn Vũ là một hình tƣợng kết hợp nhân vật thần thoại Việt Nam (ông Thánh đã giúp An Dƣơng Vƣơng trừ ma trong khi xây dựng thành Cổ Loa) và nhân vật thần thoại Trung Quốc: Chân Võ Tinh quân (vị Thánh coi giữ phƣơng Bắc). 32
- Tƣơng truyền đền có từ đời Lý Thái Tổ (1010-1028). Nhƣng theo Vũ Tam Lang trong cuốn Kiến trúc cổ Việt Nam, thì đền đƣợc khởi dựng năm 1102 (có lẽ là năm 1012 thì đúng hơn). Theo Vũ Tam Lang thì đền đƣợc di dời về phía Nam hồ Tây trong đợt mở rộng Hoàng thành Thăng Long năm 1474 của vua Lê Thánh Tông, nhƣng diện mạo đƣợc tu sửa vào năm 1836-1838 đời vua Minh Mạng. Các bộ phận kiến trúc đền sau khi trùng tu bao gồm tam quan, sân, ba lớp nhà tiền tế, trung tế, hậu cung. Các mảng chạm khắc trên gỗ có giá trị nghệ thuật cao. Bố cục không gian thoáng và hài hòa. Hồ Tây phía trƣớc mặt tiền tạo nên bầu không khí mát mẻ quanh năm. Ngôi chính điện (bái đƣờng) nơi đặt tƣợng Trấn Vũ có 4 lớp mái (4 hàng hiên). Chính giữa là bức hoành phi đề "Trấn Vũ Quán". Hai tƣờng hồi có khắc các bài thơ ca ngợi ngôi đền và pho tƣợng Trấn Vũ của các tác giả thời nhà Nguyễn nhƣ Nguyễn Thƣợng Hiền, Vũ Phạm Hàm Nhà Tiền tế có khám thờ và án thƣ cùng tƣợng thờ nghệ nhân đúc tƣợng Trấn Vũ, ông Trùm Trọng. Tƣợng Trấn Vũ trong đền Quán Thánh mang nhiều giá trị điêu khắc mỹ thuật có giá trị. Pho tƣợng thần Huyền Thiên Trấn Vũ đƣợc đúc bằng đồng đen vào năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), đời Lê Hy Tông . Tƣợng cao 3,96m, chu vi 8m, nặng 4 tấn tọa trên tảng đá cẩm thạch cao 1,2m. Tƣợng có khuôn mặt vuông chữ điền nghiêm nghị nhƣng bình thản, hiền hậu với đôi mắt nhìn thẳng, râu dài, tóc xoã không đội mũ, mặc áo đạo sĩ ngồi trên bục đá với hai bàn chân để trần. Bàn tay trái của tƣợng đƣa lên ngang ngực bắt ấn thuyết pháp, bàn tay phải úp lên đốc kiếm, kiếm chống trên lƣng rùa nằm giữa hai bàn chân, quanh lƣỡi kiếm có con rắn quấn từ dƣới lên trên. Rùa, rắn và kiếm là biểu trƣng của Huyền Thiên Trấn Vũ. Theo nhƣ sự tích đƣợc ghi chép ở đền thì Huyền Thiên Trấn Vũ là thần trấn quản phƣơng Bắc đã nhiều lần giúp nƣớc Việt đánh đuổi ngoại xâm. Lần thứ nhất vào đời Hùng Vƣơng thứ 6 đánh giặc từ vùng biển tràn vào, lần thứ hai vào đời Hùng Vƣơng thứ 7 đánh giặc Thạch Linh Trong bản ghi chép còn có chi tiết Huyền Thiên Trấn Vũ giúp dân thành Thăng Long trừ tà ma và yêu quái, 33
- giúp An Dƣơng Vƣơng trừ tinh gà trắng xây thành Cổ Loa, diệt Hồ ly tinh trên sông Hồng đời Lý Thánh Tông Pho tƣợng Huyền Thiên Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo, đánh dấu kỹ thuật đúc đồng và tài nghệ của các nghệ nhân Việt Nam cách đây 3 thế kỷ. Đền Quán Thánh đã đi vào lời thơ lục bát của nhà thơ Dƣơng Khuê: Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mùng khói toả ngàn sương, Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây hồ. Tóm lại, Thăng Long Tứ trấn luôn là niềm tự hào của ngƣời dân đất Hà thành nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung. Đây là nơi lƣu giữ các giá trị văn hóa truyền thống, tín ngƣỡng tâm linh cùng một khối lƣợng lớn các hiện vật rất có giá trị. Ngày nay, mọi ngƣời biết đến Thăng Long Tứ Trấn với hàm nghĩa gốc là phổ biến nhất. Bởi nó có lịch sử hình thành và tồn tại dài lâu, luôn gắn liền với những biến cố thăng trầm trong lịch sử. Và hơn hết là gắn liền với cuộc sống hàng ngày của ngƣời dân - đền nơi thờ cúng thần linh, nơi con ngƣời gửi gắm hy vọng của mình, đồng thời đây cũng đƣợc xem là tài sản nghệ thuật vô giá của dân tộc mãi vẫn còn đƣợc lƣu giữ. Bốn ngôi đền với những lối kiến trúc truyền thống hết sức tinh tế, độc đáo đã tạo nên một không gian thiêng liêng cổ kính cho vùng đất Thăng Long - Hà Nội. Bốn ngôi đền: Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên, Quán Thánh xác định địa giới Thăng Long, tạo nên ý nghĩa và tầm vóc của mảnh đất kinh kỳ. Vì thế, cả bốn ngôi đền đều là những địa điểm mà ngƣời dân Hà Nội thƣờng đến dâng lễ cũng nhƣ vãn cảnh đặc biệt vào đầu xuân mới và ngày mồng Một, ngày Rằm. Đây cũng là một cách thể hiện lòng thành kính đến với những vị thần ngày đêm canh giữ, bảo vệ để ngƣời dân kinh kỳ có cuộc sống ấm no, an lành. Việc thờ 4 vị thần bảo vệ thành Thăng Long từ 4 phía là nét độc đáo của văn hóa tâm linh Thăng Long. Không chỉ thế, Thăng Long Tứ trấn là những di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc, điêu khắc độc đáo gắn với huyền thoại dân gian, lịch sử Thăng Long và đất nƣớc Việt Nam đƣợc nhiều ngƣời tìm 34
- tới để hiểu biết thêm về Thăng Long ngàn năm văn hiến. Đây còn là địa chỉ du lịch hấp dẫn nhiều du khách nƣớc ngoài khi tới thăm quan thủ đô Hà Nội 2.2 Thực trạng phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng tại cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn. a. Các cơ quan ban ngành chịu trách nhiệm quản lý cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn hiện nay Theo tìm hiểu của tác giả đề tài, Thăng Long Tứ trấn thuộc sự quản lí của nhiều ban, ngành, tổ chức khác nhau, điểu này liên quan chặt chẽ đến định hƣớng phát triển, công tác trùng tu bảo tồn và khai thác phát triển du lịch tại cụm di tích. Các cơ quan nhà nƣớc chịu trách nhiệm quản lý bao gồm: Phòng Văn hóa và Thông tin các quận Đống Đa, Ba Đình, Hoàn Kiếm: Phòng Văn hóa và Thông tin là cơ quan quản lý nhà nƣớc về văn hóa, thông tin, thể thao, du lịch và gia đình trên địa bàn quận và chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp của lãnh đạo các quận và quản lý chuyên ngành về văn hóa, thể thao, du lịch và thông tin của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Sở Thông tin và Truyền thông. Ban Quản lý di tích Hà Nội và Ban Quản lý di tích các đền Quán Thánh, Bạch Mã, Voi Phục, Kim Liên.Ban Quản lý di tích Hà Nội có chức năng, nhiệm vụ nhƣ sau: - Tham mƣu, giúp việc cho lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh và di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Hà Nội. - Xây dựng kế hoạch dài hạn, hàng năm, chƣơng trình, giải pháp về phát triển và quản lý các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh, văn hóa phi vật thể trên địa bàn Hà Nội. Tổ chức thực hiện sau khi đƣợc duyệt. - Hƣớng dẫn các tổ chức, đơn vị, cá nhân trên địa bàn Hà Nội thực hiện Luật Di sản văn hóa và các quy định của Nhà nƣớc về quản lý các di tích trên địa bàn Hà Nội. - Quản lý và tổ chức các hoạt động bảo vệ và khai thác phát huy giá trị di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh trên địa bàn Hà Nội. 35
- - Quản lý và huy động nguồn nhân lực để bảo vệ, tôn tạo, trùng tu các di tích. Nghiên cứu, sƣu tầm lập hồ sơ xếp hạng các di tích trên địa bàn Hà Nội. Thu nhận di vật, bảo vật quốc gia do thăm dò, khai quật, hoặc do tổ chức, cá nhân phát hiện giao nộp hoặc hiến tặng. - Nghiên cứu, xây dựng kịch bản tổ chức lễ hội và phát huy giá trị văn hóa các lễ hội truyền thống của địa phƣơng. - Tổ chức kiểm tra phối hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra để giữ gìn phát huy giá trị di sản văn hóa. Xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. - Bồi dƣỡng đội ngũ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ các bộ, viên chức làm công tác quản lý. - Ban quản lý di tích chịu sự chỉ đạo quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Văn hóa, Thể thao và Du Lịch, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hƣớng dẫn, kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của Cục Di sản văn hóa Cục Di sản văn hóa là cơ quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có chức năng tham mƣu giúp Bộ trƣởng thực chức năng quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa, đƣợc Bộ trƣởng giao trách nhiệm chỉ đạo và hƣớng dẫn hoạt động phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trong phạm vi cả nƣớc theo đƣờng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nƣớc. Thẩm định trình Bộ trƣởng phê duyệt hoặc thỏa thuận quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích Thăng Long Tứ trấn, các dự án cải tạo, xây dựng công trình nằm ngoài các khu vực bảo vệ tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt và di sản thế giới xét thấy có khả năng ảnh hƣởng xấu đến di tích theo quy định của pháp luật. Phối hợp thẩm định trình Bộ trƣởng thỏa thuận quy hoạch, các dự án phát triển kinh tế - xã hội có liên quan đến di sản văn hóa. Thẩm định hồ sơ thiết kế kỹ thuật của các dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích. Công ty TNHH nhà nƣớc Một thành viên Vƣờn thú Hà Nội: quản lý Đền Voi Phục. Ban Quản lý dự án các quận: Đống Đa, Ba Đình, Hoàn Kiếm. Uỷ ban nhân dân các phƣờng có di tích. 36
- Việc quản lý nhiều cấp nhiều ngành có tác dụng tích cực là liên kết ngành cùng quản lý, nhƣng đồng thời cũng tạo nên hiện tƣợng chồng chéo, khó phân định trách nhiệm cụ thể thuộc về cơ quan đơn vị nào. *) Đối tượng khách du lịch Tứ trấn Thăng Long - 4 ngôi đền thờ 4 vị thần trấn giữ tứ hƣớng để bảo vệ cho kinh thành Thăng Long - chính là những nơi linh thiêng mà khách du lịch trong và ngoài nƣớc nói chung,ngƣời dân kinh kỳ nói riêng thƣờng tìm đến trong dịp đầu năm. Đối tƣợng khách tham quan di sản Thăng Long Tứ trấn không phân biệt lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, họ thƣờng là: Ngƣời dân quanh vùng đi lễ, cúng bái. Những ngày đông khách là những ngày lễ lớn của dân tộc (Tết Nguyên Đán, tết bánh trôi, Tết Đoan Ngọ, tết trùng cửu, ) và ngày Rằm, Mồng Một. Học sinh, sinh viên đi tham quan để lấy tƣ liệu học tập. Khách đến ngắm cảnh, nghỉ ngơi, thƣ giãn Các nhà nghiên cứu đến tìm hiểu về các di tích lịch sử văn hóa tâm linh. Du khách nƣớc ngoài đến với các di tích chủ yếu là khách lẻ, nhóm nhỏ, lƣợng khách không đều, chủ yếu với mục đích tham quan, tìm hiểu văn hóa. *) Doanh thu và lượt khách tham quan: Nguồn thu ở các di tích chủ yếu là tiền công đức và tiền giọt dầu của ngƣời dân đi lễ đền, khách tham quan. Riêng đền Quán Thánh thu phí vào đền là 10.000đ/ngƣời. Cứ 6 tháng 1 lần, bản quản lý di tích cùng với chính quyền địa phƣơng thành lập ban kiểm kê tiền công đức, tất cả số tiền thu đƣợc sẽ đƣợc gửi tiết kiệm trong ngân hàng. Nguồn thu này chủ yếu quay trở lại phục vụ công tác trùng tu, sửa chữa, bảo tồn di tích khi cần. Năm 2013, Hà Nội đƣợc tạp chí Smart Travel Asia bình chọn là một trong 10 điểm đến du lịch, nghỉ ngơi đƣợc ƣu tiên lựa chọn hàng đầu châu Á. Còn độc giả website du lịch danh tiếng TripAdvisor đã bình chọn Hà Nội xếp thứ 8 trong tổng số 10 điểm du lịch đang lên của thế giới, riêng đối với khu vực Châu Á thì Hà Nội chỉ xếp thứ 3 sau Kathmandu (Nepal) và Sapporo (Nhật Bản). Đây là 37
- điểm đáng khích lệ cho ngành du lịch Thủ đô khi trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang khủng hoảng, ảnh hƣởng mạnh tới ngành du lịch nhƣng lƣợng khách quốc tế đến Hà Nội vẫn đạt mức tăng cao, trong đó một số thị trƣờng trọng điểm có lƣợng khách du lịch quốc tế đến Hà Nội cao nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Pháp Theo ƣớc tính của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội thì lƣợng khách quốc tế đến Hà Nội đạt 2,58 triệu lƣợt ngƣời, nhƣ vậy là tăng 12,2% so với năm 2012. Khách nội địa đến Hà Nội đạt 14 triệu lƣợt ngƣời, tăng 11,3% so với năm trƣớc. Đền Bạch Mã nằm trong khu phố cổ sầm uất, khách nƣớc ngoài dạo quanh phố cổ thƣờng không bỏ qua ngôi đền cổ kính này. Trung bình mỗi tháng đền Bạch Mã đón từ 900 đến 1000 lƣợt khách. Riêng khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 3 âm lịch năm sau, du khách đến với đền rất đông khoảng 2000 lƣợt khách/tháng, đặc biệt trong tháng Tết. Đền Kim Liên đón khoảng 10.000 lƣợt khách mỗi năm, chủ yếu là ngƣời dân địa phƣơng đi lễ, lƣợng khách quốc tế ít hơn so với đền Bạch Mã và đền Quán Thánh. Đền Quán Thánh nằm ở vị trí giữa hồ Tây và hồ Trúc Bạch lại gần với lăng Hồ Chủ Tịch cùng kiến trúc to đẹp, độc đáo thu hút lƣợng khách đông nhất trong Tứ trấn. Hàng năm đền Quán Thánh đón từ 20.000 – 25.000 lƣợt khách quốc tế và nội địa đến tham quan, đi lễ. Đền đông khách du lịch vào mọi thời điểm trong năm, đặc biệt vào dịp Tết. Đền Voi Phục cũng rất đông du khách, trung bình mỗi năm có khoảng 10 đến 12.000 lƣợt khách tham quan bao gồm cả khách quốc tế và khách nội địa. Nhìn chung, số lƣợng khách du lịch tôn giáo tín ngƣỡng đến cụm di Thăng Long Tứ Trấn ngày càng tăng mạnh với các mục đích khác nhau nhƣ : hành hƣơng, thiền, tham quan tìm hiểu giá trị lịch sử, tôn giáo tín ngƣỡng *) Tiềm năng và yếu tố thúc đẩy phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng ở cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn Ngày nay, trên đà phát triển nhƣ vũ bão của ngành kinh doanh du lịch dịch vụ trên toàn thế giới, Việt Nam là quốc gia đƣợc đánh giá có tiềm năng du 38
- lịch to lớn không chỉ bởi trời phú cho hệ thống cảnh quan thiên nhiên tƣơi đẹp, sơn thủy hữu tình mà còn bởi vốn văn hóa tinh thần vừa đa dạng, phong phú, vừa độc đáo và mang nhiều bản sắc. Một trong những khía cạnh văn hóa Việt Nam là đời sống văn hóa tâm linh của con ngƣời Việt Nam. Nó tạo nên những giá trị nhân văn ở tín ngƣỡng đa thần, ở phong tục trảy hội, lễ chùa khi xuân sang, tết đến, ở hệ thống công trình kiến trúc đình, đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo khắp nơi trên cả nƣớc và có lịch sử ngàn đời. Đến các đình, đền, chùa trên đất nƣớc Việt Nam, du khách sẽ cảm nhận đƣợc con ngƣời Việt Nam, văn hóa Việt Nam ở góc độ linh thiêng nhất, đậm đà bản sắc nhất. Bởi vậy, hệ thống các công trình kiến trúc tâm linh đƣợc coi là tiềm năng du lịch văn hóa vật thể cần đƣợc quan tâm và khai thác. Có thể nói rằng đền là đại diện tiêu biểu cho hình thức kiến trúc cách thức ứng xử với môi trƣờng tự nhiên và nghệ thuật điêu khắc, hình khối - văn hóa tổ chức cộng đồng của con ngƣời Việt Nam. Về kiến trúc, đền, chùa đƣợc coi là chốn linh thiêng nên việc lựa chọn nơi xây dựng thƣờng là nơi có phong cảnh hữu tình, hội tụ đủ yếu tố phong thủy trên căn bản âm dƣơng ngũ hành. Lễ hội là một yếu tố quan trọng thu hút một số lƣợng đông đảo du khách hàng năm nên nó đƣợc coi là một tiềm năng lớn của ngành du lịch. Tựu chung lại, đền, chùa là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên nhân văn to lớn về tôn giáo, tín ngƣỡng, phong tục, tập quán, lịch sử, Những công trình tôn giáo, tín ngƣỡng nhƣ thế này ngày nay đƣợc đánh giá và xếp hạng di tích theo các thang bậc khác nhau về giá trị. Hà Nội có khoảng 2000 di tích đƣợc xếp hạng, trong đó cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn là một trong số đó . Đó chính là tiềm năng vô giá cho sự phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng tại Việt Nam nói chung và tại Hà Nội, cụ thể là cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn nói riêng. *) Cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật phục vụ cho việc phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng tại cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn. Để thực sự có một sản phẩm du lịch đến với du khách, cần phải xét đến khả năng cung ứng của cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ ngành kinh doanh du lịch trên địa bàn. Cơ sở hạ tầng bao gồm các yếu tố: giao thông 39
- vận tải, thông tin liên lạc, các công trình cung cấp điện, nƣớc có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đẩy mạnh phát triển du lịch. Thăng Long Tứ Trấn là một trong những cụm di tích lịch sử lâu đời tại Hà Nội, là trung tâm văn hóa của ngƣời dân đất Thăng Long cũ. Thăng Long Tứ Trấn nằm trọn vẹn trong khu vực trung tâm thành phố Hà Nội nên hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch vào loại tốt nhất cả nƣớc. Tuy nhiên vì mật độ dân cƣ đông, vào mùa du lịch lại thêm số lƣợng khách trong nƣớc và quốc tế đến với Hà Nội rất lớn nên thƣờng xuyên xảy ra tình trạng ùn tắc giao thông, nhất là những tuyến phố chính. Điều này ảnh hƣởng tiêu cực đến khả năng tiếp cận di tích của khách du lịch nói chung và khách du lịch tín ngƣỡng tôn giáo nói riêng. Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng nhƣ quyết định mức độ khai thác tiềm năng du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của du khách. Tài nguyên du lịch nhân văn dù có phong phú đến đâu nhƣng nếu không có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bổ trợ thì nó vẫn không thể đƣợc khai thác và luôn ở dạng tiềm năng. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm nhiều thành phần, chúng có những chức năng và ý nghĩa nhất định đối với việc tạo ra, hỗ trợ các sản phẩm du lịch. Cơ sở phục vụ ăn uống và lƣu trú là thành phần đặc trƣng nhất trong toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, đáp ứng nhu cầu căn bản nhất của con ngƣời (ăn và ở) khi họ sống ngoài nơi cƣ trú thƣờng xuyên của mình. Ở quanh khu vực các đền của cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn có nhiều khách sạn lớn, đạt tiêu chuẩn quốc tế phục vụ du khách nƣớc ngoài quan tâm tìm hiểu văn hóa Việt Nam. Khách du lịch lƣu trú tại các khách sạn Intercontinental, Sheraton, Sofitel Plaza Hanoi thƣờng thích thú với việc có thể ngắm nhìn hình ảnh đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc từ cửa sổ phòng mình, với việc đi bộ tham quan chùa Trấn Quốc, đền Quán Thành và việc chỉ mất vài phút đi xe tới chùa Kim Liên hay Phủ Tây Hồ. Đó là những yếu tố thiết yếu hiện nay có thể đáp ứng cho việc khai thác tiềm năng du lịch tôn giáo tín ngƣỡng tại các đền Thăng Long Tứ Trấn. Bên cạnh đó là hệ thống các khách sạn vừa và nhỏ, hệ thống nhà hàng phục vụ món ăn Việt Nam và quốc tế, các cơ sở phục vụ dịch vụ 40
- bổ sung nhƣ trung tâm thƣơng mại, khu vui chơi giải trí, từng bƣớc đƣợc xây dựng và mở rộng. Tại đây cũng có hệ thống các cửa hàng bán đồ lƣu niệm là các đặc sản địa phƣơng. Các trung tâm thông tin văn hóa và du lịch tuy chƣa nhiều và quy mô nhỏ song đã đƣợc quan tâm xây dựng tại mỗi điểm để cung cấp các thông tin cần thiết cho du khách trong và ngoài nƣớc thông qua các ấn phẩm sách, tờ rơi, postcard, bằng nhiều thứ tiếng. Có thể nói, ở trung tâm thủ đô Hà Nội, cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn đƣợc có nhiều điều kiện để khai thác du lịch tôn giáo tín ngƣỡng nhờ hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch hàng đầu của Việt Nam. *) Nguồn nhân lực Mỗi đền đều có ban quản lý riêng khoảng 25 đến 30 ngƣời trong đó bao gồm 1 trƣởng ban, 1 phó ban, 1 ông từ và ban nghi lễ chịu trách nhiệm trông coi, quét dọn, hƣơng khói trong đền. Trong 4 ngôi đền thì có đền Quán Thánh có thuyết mình viên tại điểm riêng, 3 ngôi đền còn lại do kiến trúc không lớn cùng nhu cầu tìm hiểu, nghe thuyết minh ko nhiều nên ông từ của đền có thể thay thế hƣớng dẫn viên thuyết minh về lịch sử của đền khi có khách hoặc đoàn khách yêu cầu. Đền Quán Thánh cũng là đền duy nhất thu phí vào cửa nên tại đền có 2 ngƣời chịu trách nhiệm bán vé cạnh cổng vào. Ngoài ra, ban quản lý di tích có thể thành lập ban bảo vệ, trông giữ xe vào thời điểm đông khách nhƣ mùng 1, ngày rằm, các dịp lễ, tết, hội đền. *) Các dịch vụ hỗ trợ Tại cụm di tíchThăng Long Tứ Trấn, các đền đều có dịch vụ cung cấp đồ lễ cho khách tới viếng đền: vàng mã, hƣơng, oản, bánh kẹo Các quán bán đồ lễ nằm ngay trên đƣờng vào đền, ngay gần cổng vào. Những hàng quán đó đều là của các hộ gia đình nằm gần khu di tích, đều là kinh doanh cá nhân riêng lẻ, không phụ thuộc tổ chức nhân sự của đền. Tất cả các đền trong cụm di tích đều có dịch vụ viết sớ cho khách đến cúng bái. Tại đền Voi Phục, Kim Liên có hát văn phục vụ việc thắp hƣơng dâng lễ của ngƣời dân. Cũng tại Đền Voi Phục còn có dịch vụ xem bói, xem tƣớng số cho khách. Đây là những dịch vụ làm phong phú thêm hoạt động du lịch tín ngƣỡng tâm linh của du khách. Tuy nhiên các 41
- dịch vụ này cần phải đƣợc quản lý chặt chẽ để tránh tình trạng chặt chém khách, truyền bá hoạt động mê tín dị đoan v.v 2.3. Đánh giá chung Nhìn chung, công tác quản lí bảo tồn ở Thăng Long Tứ Trấn đƣợc thực hiện khá tốt. Qua tìm hiểu của tác giả đề tài, vì là những di tích văn hóa lịch sử có giá trị ở trung tâm thủ đô, các công trình đƣợc thƣờng xuyên chăm sóc và trùng tu, tôn tạo, đã có các hành động thiết thực bảo vệ cảnh quan môi trƣờng của các cơ quan có thẩm quyền. Các hoạt động văn hóa tâm linh, lễ hội tại đây vẫn đƣợc phát huy. Do có nhiều ban, ngành, bộ phận quản lí di tích nên việc trùng tu, tôn tạo cũng nhƣ khai thác phục vụ du lịch đƣợc quan tâm theo dõi sát sao. Cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn tạo thêm màu vẻ cho các điểm tham quan đặc sắc của thủ đô, đồng thời là những biểu tƣợng văn hóa lịch sử, tín ngƣỡng tôn giáo của đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến. . Bên cạnh những mặt tích cực đó, vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nhƣ: các cơ quan quản lí có hiện tƣợng trùng lặp về một số quyền hạn, chức năng, chồng chéo về tổ chức, nhiệm vụ. Đa phần ngƣời dân vào lễ tại các điểm văn hóa tâm linh nói chung vẫn chƣa nhận thức đúng về hành vi và thái độ khi vào làm lễ: còn nặng về việc thắp hƣơng, mang lễ vật linh đình, hóa vàng mã nhiều quá mức cần thiết. Ngƣời lễ còn chƣa hiểu rõ trình tự vào thắp hƣơng làm lễ khi đến các địa điểm tâm linh.Vẫn còn hiện tƣợng ngƣời làm lễ nhét tiền vào tay tƣợng Thần, Phật, và thả tiền xuống giếng. Một số thanh niên, khách nƣớc ngoài khi vào đền mặc trang phục không phù hợp: quần ngắn, áo hai dây, Xét về mặt lịch sử, kiến trúc, giá trị văn hóa và ý nghĩa tâm linh to lớn của Thăng Long Tứ Trấn, có thể khẳng định Thăng Long Tứ trấn có tiềm năng rất lớn để trở thành sản phẩm du lịch đặc thù của Hà Nội nếu đƣợc khai thác đúng hƣớng, phát huy các thế mạnh của di tích và khắc phục đƣợc những hạn chế yếu kém trong công tác quản lý, bảo tồn di tích. Việc đầu tƣ nâng cấp các di tích với tƣ cách là một sản phẩm du lịch chƣa đƣợc triển khai trong một quy chế chặt chẽ và toàn diện, trong đó có tính đến yếu tố du lịch. Còn phổ biến tình trạng giao khoán cải tạo thậm chí đƣợc phó mặc cho những ngƣời quản lý, đầu tƣ tự sáng 42
- tạo theo ý mình trong trùng tu, tôn tạo, xây mới bằng các biện pháp chặt cây, phá núi; xây bậc xi măng thay cho vẻ đẹp của đất và đá tự nhiên; thay gạch, bê tông cho các cấu kiện gỗ; dùng sơn công nghiệp thay cho sơn ta trong trang trí kiến trúc làm mất đi vẻ đẹp ban đầu, mất đi những “phần hồn” của các di tích. Những lỗ hổng trong cách quản lý đó dẫn đến hậu quả khôn lƣờng, không những không có tác dụng thu hút du khách mà ở một chừng mực nhất định còn làm phƣơng hại đến hình ảnh của điểm du lịch, hình ảnh chung về nền văn hoá của cả quốc gia. Hơn nữa, thực tế còn tồn tại một mâu thuẫn khá lớn giữa nhu cầu phát triển kinh tế đất nƣớc và yêu cầu của những nguyên tắc, cách thức bảo tồn di tích. Nhận thức của cộng đồng về giá trị của di sản văn hoá chƣa thật sâu sắc nên trong nhiều trƣờng hợp cụ thể ngƣời ta lại muốn hy sinh văn hoá cho nhu cầu kinh tế. Cũng phải kể tới nguyên nhân do chính sự phát triển du lịch làm ảnh hƣởng trực tiếp tới trạng thái bảo quản di tích, di vật. Để phát triển du lịch, các nhà quản lý, kinh doanh du lịch có thể khai thác một cách bừa bãi giá trị của di tích hoặc phá hỏng không gian cảnh quan di tích để xây dựng các dịch vụ du lịch. Vành đai bảo vệ của các di tích ngày càng bị thu hẹp. Ngƣời ta xây dựng tràn lan các cơ sở phục vụ khách tham quan, khách du lịch, làm thay đổi diện mạo di tích và làm biến mất sự tồn tại của vùng cảnh quan, vốn là một nhân tố tạo sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch. Giá trị của di tích không còn đƣợc nhận biết. Các di tích có một đặc tính "mong manh, dễ vỡ". Tác động của điều kiện tự nhiên (thời tiết, khí hậu) và quá trình khai thác của con ngƣời, sự quá tải của số lƣợng khách tham quan tại một thời điểm nào đó đã tạo nên những tác động cơ học, hoá học làm huỷ hoại di tích và di vật nhƣ các vật dụng trang trí, các đồ thờ tự. Điều này trở thành mối nguy cơ đe doạ sự xuống cấp của các di tích, di vật. Ví dụ: chân của pho tƣợng đức thánh Trấn Vũ bị trơn nhẵn không còn nhận biết đƣợc nét nghệ thuật trong điêu khắc do khách tham quan xoa đầu, chân lấy may. Những viên gạch cổ bị mòn lõm, những hàng cây không thể đâm lá do lƣợng ngƣời qua lại Sự phát triển các dịch vụ du lịch thiếu kiểm soát và sự bùng nổ du khách còn có tác động mạnh mẽ đến môi trƣờng văn hoá và môi trƣờng sinh thái tại các khu di tích. Tại nhiều khu di tích, du khách đã viết tên, 43
- khắc tên lên các bộ phận di tích một cách bừa bãi. Bụi bặm, khói xăng dầu, rác thải gây ô nhiễm, ảnh hƣởng không ít đến di tích. TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 Hà Nội là thủ đô 1000 năm tuổi có lịch sử lâu đời, truyền thống văn hóa đa dạng và giàu bản sắc, Hà Nội thực sự là một trung tâm du lịch lớn của Việt Nam. Hà Nội luôn là một trong những địa điểm thu hút nhiều khách du lịch nội địa và quốc tế. Hà Nội đứng đầu cả nƣớc về số lƣợng di tích Việt Nam với 3840 di tích trên tổng số gần 40.000 di tích Việt Nam (trong đó có 1164 di tích trên tổng số gần 3500 di tích cấp quốc gia ở Việt Nam). Chính vì vậy mà Hà Nội có thế mạnh và đủ điều kiện để phát triển du lịch văn hóa, tâm linh và hội thảo. Thăng Long - Hà Nội, chốn kinh đô bậc nhất của các vị đế vƣơng, một trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị quan trọng và phồn thịnh nhất của cả nƣớc trong các thời kỳ. Đây còn là nơi lƣu giữ những giá trị truyền thống, những di sản quý báu của dân tộc, hàng loạt các công trình kiến trúc cổ vô giá và độc đáo hiện vẫn đang đƣợc giữ gìn vô cùng chu đáo, tiêu biểu là “Thăng Long Tứ Trấn”. Thăng Long Tứ Trấn là một hệ thống kiến trúc lịch sử với bốn ngôi đền thiêng của vùng đất thủ đô Hà Nội ngày nay gồm đền Bạch Mã, đền Voi Phục, đền Quán Thánh và đền Kim Liên, tất cả đƣợc xếp là di tích lịch sử cấp quốc gia. Thăng Long Tứ Trấn là một danh từ xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử dân tộc, gắn liền với nhiều giai thoại về công cuộc dựng nƣớc, giữ nƣớc của cha ông chúng ta và có vai trò quan trọng đối với sự bình yên, hƣng vong của vùng đất đế đô Thăng Long trong những năm tháng đầy biến động của lịch sử. Thăng Long Tứ Trấn không những là dấu mốc long mạch của đất kinh kỳ xƣa mà còn là nơi hội tụ tâm linh của ngƣời dân Việt ngày nay. Du khách gần xa tìm đến Thăng Long Tứ Trấn nhƣ một nhu cầu tinh thần, một chốn linh thiêng nơi có niềm tin về tôn giáo tín ngƣỡng. Thăng Long Tứ Trấn là điểm đến hấp dẫn của du lịch văn hóa, tôn giáo tín ngƣỡng. 44
- CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Một số giải pháp bảo tồn và phát triển cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn phục vụ cho phát triển du lịch tôn giáo tín ngƣỡng 3.1.1. Tăng cƣờng công tác quản lý và bảo vệ cảnh quan Trƣớc hết cần định rõ những yếu tố cơ bản tác động có hiệu quả trong việc bảo vệ di tích lịch sử văn hoá, đảm bảo duy trì đƣợc tính đặc sắc cho di tích: Các văn bản pháp lý của quốc gia và quốc tế về bảo vệ di sản văn hoá nói chung và di tích lịch sử văn hoá nói riêng. Các thiết chế văn hoá là cơ quan thƣờng trực đƣợc giao quyền quản lý tài sản văn hoá. Các phƣơng pháp/cách thức bảo quản, tu sửa, tôn tạo. Các tổ chức quần chúng và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Bốn yếu tố cơ bản trên đây đều rất cần thiết và quan trọng, tác động một cách đồng bộ tới các di sản văn hoá nói chung và di sảnThăng Long Tứ Trấn nói riêng nhằm mục đích bảo vệ cho di sản tồn tại lâu dài để khai thác phục vụ xã hội. Trƣớc sức ép của nền kinh tế thị trƣờng, cảnh quan đô thị đã bị tác động thay đổi nhiều, gây ảnh hƣởng không nhỏ đến công trình kiến trúc cổ. Do đó cần quản lí, kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng, quy hoạch các công trình nhà ở, khách sạn đƣờng xá, tại gần khu vực di tích, tránh tình trạng các công trình nhà cao tầng, đƣờng xá, tại gần khu vực di tích, tránh tình trạng các công trình nhà cao tầng, đƣờng xá lấn át cảnh quan di tích. Cần giữ nguyên cảnh quan của mỗi di tích, trùng tu tôn tạo, bảo tồn những giá trị truyền thống cổ xƣa của di tích: khi trùng tu cách di tích cần giữ nguyên mẫu mã hiện vật, chọn vật liệu phù hợp tƣơng đồng với vật liệu cũ của di tích. Bảo vệ nguyên trạng vị trí bố trí các công trình kiến trúc trong khu di tích, không thêm bớt các công trình khác vào, tránh tình trạng làm mới toàn bộ mà mất đi kiến trúc truyền thống. 45
- Đảm bảo vấn đề vệ sinh cảnh quan môi trƣờng, không xả rác bừa bãi tại khu di tích văn hóa tâm linh, không hóa vàng sai nơi quy định. Không viết vẽ bậy tại khu di tích. Dùng nguồn vốn xứng đáng cho việc bảo vệ môi trƣờng trong tổng số vốn đầu tƣ cho các công trình văn hóa tâm linh này, có kế hoạch phân phối nguồn vốn vào các hạng mục một cách phù hợp. Giáo dục nâng cao ý thức cộng đồng trong việc bảo vệ môi trƣờng cảnh quan di tích thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Việc khai thác các di tích phải làm nổi bật đƣợc những giá trị đặc sắc của di tích, của thủ đô Hà Nội, đó chính là việc tạo ra sức thu hút đối với khách tham quan, khách du lịch và cũng là linh hồn của hoạt động du lịch. Các di tích đặc sắc, độc đáo mới có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, để tích có giá trị đặc sắc, cần phải cố gắng hết sức duy trì diện mạo nguyên thuỷ của nó, tránh sửa chữa một cách quá mức hoặc phá cũ xây mới hoàn toàn. 3.1.2. Tuyên truyền quảng bá Tuyên truyền giáo dục, phổ biến cho quần chúng nhân dân hiểu biết đúng đắn về giá trị lễ hội và di tích lịch sử văn hóa tâm linh, làm tăng niềm tự hào dân tộc, từ đó nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ nét văn hóa đặc sắc đó.Thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục phối hợp với các cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình nhằm tuyên truyền, quảng bá các giá trị của di tích lịch sử văn hoá. Thông qua hoạt động của các văn phòng du lịch giới thiệu rộng rãi hơn về cụm di tích Thăng Long Tứ Trấn nói riêng và các công trình kiến trúc tâm linh nói chung. Đặc biệt, muốn hoạt động khai thác di tích phục vụ phát triển du lịch đƣợc đẩy mạnh và đạt hiệu quả, cần phải tăng cƣờng công tác quảng bá, tiếp thị, tập trung giới thiệu rộng rãi các di tích dƣới góc độ tài nguyên du lịch văn hoá cho du khách trong và ngoài nƣớc thông qua ấn phẩm quảng cáo, tập gấp, sách hƣớng dẫn, mạng Internet, các cuộc hội chợ, triển lãm 46
- Mở rộng mối quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ và khai thác di sản để tranh thủ sự trợ giúp về vật chất và tinh thần của các nƣớc trên thế giới và khu vực cần kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nƣớc để thành lập quỹ hỗ trợ bảo tồn và phát triển di tích, góp phần vào công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị các di tích. 3.1.3. Tuyên truyền, giáo dục ý thức cho ngƣời dân Thực tế khi lên thắp hƣơng ở các Đền, Chùa, lễ vật thắp hƣơng không cần đơn giản nhƣng tinh khiết. Do trong đền thờ có nhiều hình thức thờ cúng khác nhau (thờ thần, thờ thánh, thờ Phật, thờ Mẫu, ) nên việc sắp lễ thắp hƣơng cũng cần chú ý nhiều. Đền là nơi thanh tịnh, tôn nghiêm nên vào dâng lễ hay vãn cảnh, ngƣời vào phải giữ đƣợc tôn nghiêm, thanh tịnh, không có những hành động, lời nói không hay không lịch sự, không ăn mặc hở hang, kệch cỡm. Không tự tiện lấy tài sản của các Đền, Đình, Chùa, Miếu, Điện, làm vật sở hữu của mình. Mọi vật ở những nơi thờ tự đó, dù chỉ là cành cây, viên gạch, không ai đƣợc phép nhặt làm của riêng cho mình, trừ khi có sự cho phép của ngƣời quản lí. (Đồ đƣợc phép lấy khi có sự cho phép của ngƣời quản lí là hoa quả, bánh kẹo, oản, vài cành củi, lá cây những loại hình ngƣời đến cúng coi là lộc). Trên các bàn thờ Phật thì tuyệt nhiên không đƣợc thắp hƣơng lễ mặn, rƣợu và thuốc lá, vì những thứ này nhà Phật cấm kị. Nhiều ngƣời còn sắm cả tiền vàng, tiền âm phủ và đồ mã. Khi lên thắp hƣơng tại ban Phật, các loại tiền giấy âm phủ và cả tiền thật cũng không đƣợc phép đặt lên hƣơng án của chính điện. Điều kiêng kị nữa là việc kẹp tiền vào mâm hoa quả dâng cúng, vì cách làm đó phạm luật tục dâng cúng phẩm vật tại chính điện, làm mất vẻ thanh tịnh thờ Phật. Trên các bàn thờ Thánh, Thần, Mẫu, thì đơn giản hơn không yêu cầu khắt khe nhƣ thờ Phật, có thể sắm lễ mặn gà, giò, chả, rƣợu, trầu cau, nhƣng cũng không nên làm quá cầu kì, tốn kém. 47
- Ngƣời dân đến Đền, Chùa, thắp hƣơng chỉ mỗi ngƣời một nén là đủ. Không thắp nhiều hƣơng gây tình trạng khói nhiều ám vào công trình kiến trúc, nhanh hỏng, lai dễ gây hỏa hoạn. Chỉ cần có lòng thành, không cần nhiều hƣơng khói lễ vật. Không nhét tiền vào các tƣợng thờ, vừa gây mất mỹ quan, vừa tạo cảm giác đút lót thần thánh. Nên để tiền vào trong hòm công đức thay cho việc nhét tiền vào tƣợng. Khi vào Chùa lễ Phật, nên vào lễ ban Đức Ông trƣớc, sau đó mới vào lễ ở Tam Bảo và các ban khác. Vào Đền lễ Thần Thánh thì lễ ở ngoài tiền đƣờng trƣớc, rồi sau đó vào lễ riêng trong các Cung Thánh ở trong. 3.1.4. Áp dụng thành tựu khoa học vào công tác bảo tồn và phát triển di tích Áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật mới nhất vào lĩnh vực bảo tồn và phát huy di tích là: thành tựu tin học phục vụ cho việc xây dựng và quản lý hệ thống dữ liệu về di tích và bảo tàng, ứng dụng hoá chất vào việc bảo quản di tích, sử dụng vật liệu hiện đại cho việc tu bổ di tích; ứng dụng công nghệ 3D trong việc phục dựng không gian di tích, Tạo điều kiện cho cán bộ quản lý ngành du lịch và văn hoá đƣợc học tập kinh nghiệm quản lý và khai thác tài nguyên tại các nƣớc, các vùng trong khu vực và trên thế giới phục vụ cho phát triển du lịch, bảo tồn di sản văn hoá. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu tìm hiểu tại các địa điểm di tích văn hóa tâm linh, với các đối tƣợng khách là học sinh, sinh viên, các nhà nghiên cứu, Tăng cƣờng tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về di tích, lễ hội, các trò chơi dân gian, các loại hình nghệ thuật truyền thống. 3.1.5. Giải pháp về nguồn nhân lực Nâng cao chất lƣợng hoạt động thuyết minh hƣớng dẫn tại các điểm tham quan di tích bằng cách tăng cƣờng đào tạo đội ngũ hƣớng dẫn viên du lịch và các thuyết minh viên tại các địa danh để đạt yêu cầu cao về trình độ, ngoại ngữ, cách giao tiếp ứng xử với khách. Tổ chức lại việc đón tiếp khách, giới thiệu, trƣng bày và tổ chức các sự kiện tránh cảm giác tẻ nhạt, nhàm chán. 48