Khóa luận Khai thác cụm đền và lễ hội đền tại Tràng Kênh-Minh Đức-Thuỷ Nguyên phục vụ phát triển du lịch
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Khai thác cụm đền và lễ hội đền tại Tràng Kênh-Minh Đức-Thuỷ Nguyên phục vụ phát triển du lịch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_khai_thac_cum_den_va_le_hoi_den_tai_trang_kenh_min.pdf
Nội dung text: Khóa luận Khai thác cụm đền và lễ hội đền tại Tràng Kênh-Minh Đức-Thuỷ Nguyên phục vụ phát triển du lịch
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG ISO 9001-2008 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH: VĂN HOÁ DU LỊCH Sinh viên : Phạm Thị Ngân Người hướng dẫn: Thạc sĩ Vũ Thị Thanh Hương HẢI PHÒNG – 2014
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG KHAI THÁC CỤM ĐỀN VÀ LỄ HỘI ĐỀN TẠI TRÀNG KÊNH - MINH ĐỨC - THUỶ NGUYÊN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY NGÀNH: VĂN HOÁ DU LỊCH Sinh viên : Phạm Thị Ngân Người hướng dẫn: Thạc sĩ Vũ Thị Thanh Hương HẢI PHÒNG – 2014
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Sinh viên: Phạm Thị Ngân Mã số:1012601001 Lớp: VH1401 Ngành: Văn hóa du lịch Tên đề tài: Khai thác cụm đền và lễ hội đền tại Tràng Kênh - Minh Đức - Thuỷ Nguyên phục vụ phát triển du lịch
- NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI 1. Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt nghiệp (về lý luận, thực tiễn, các số liệu ). . . . . 2. Các tài liệu, số liệu cần thiết: . . . . 3. Địa điểm thực tập tốt nghiệp. . .
- CÁN BỘ HƢỚNG DẪN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Ngƣời hƣớng dẫn thứ nhất: Họ và tên: Vũ Thị Thanh Hương Học hàm, học vị: Thạc sĩ Cơ quan công tác: Trường đại học dân lập Hải Phòng Nội dung hướng dẫn: . . . . Ngƣời hƣớng dẫn thứ hai: Họ và tên: Học hàm, học vị: Cơ quan công tác: Nội dung hướng dẫn: . . . . Đề tài tốt nghiệp được giao ngày 02 tháng 4 năm 2014 Yêu cầu phải hoàn thành xong trước ngày 30 tháng 7 năm 2014 Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN Sinh viênNgười hướng dẫn Hải Phòng, ngày tháng năm 2014 HIỆU TRƢỞNG GS.TS.NGƢT Trần Hữu Nghị
- PHẦN NHẬN XÉT TÓM TẮT CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN 1. Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp: 2. Đánh giá chất lƣợng của đề tài (so với nội dung yêu cầu đã đề ra trong nhiệm vụ Đ.T. T.N trên các mặt lý luận, thực tiễn, tính toán số liệu ): 3. Cho điểm của cán bộ hƣớng dẫn (ghi cả số và chữ): Hải Phòng, ngày tháng năm 2014 Cán bộ hƣớng dẫn
- LỜI CẢM ƠN Sau khoảng thời gian bốn năm đại học được làm khóa luận ra trường có thể coi là một bước ngoặt, là niềm tự hào của mỗi sinh viên chúng em. Đây giống như sự đánh dấu sự ghi nhận tất cả những sự cố gắng trong 4 năm học của sinh viên. Để có được kết quả như ngày hôm nay em xin gửi lời cám ơn đến trường đại học dân lập Hải Phòng nơi em đã theo học trong suốt 4 năm, em xin cám ơn ban giám hiệu nhà trường và các thầy cô trong khoa Văn Hóa – du lịch đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học. Đặc biệt em xin gửi lời cám ơn đến thạc sĩ Vũ Thị Thanh Hương là người đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ em rất nhiệt tình để em có thể hoàn thành tốt bài khóa luận của mình. Em cũng xin được gửi lời cám ơn đến các anh chị tại trung tâm thư viện thành phố Hải Phòng đã cung cấp cho em những tài liệu cần thiết cho bài khóa luận, em cũng xin gửi lời cám ơn đến ban quản lý các đền ở Tràng Kênh – Minh Đức và các vị thủ từ tại các đền đã cho em nhưng thông tin rất hữ ích. Do thời gian nghiên cứu và cũng do hiểu biết còn hạn chế nên bài khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự thông cảm và góp ý của thầy cô cho bài khóa luận của em Em xin trân trọng cảm ơn!
- MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH KHAI TÁC CÁC ĐỀN VÀ LỄ HỘI ĐỀN PHỤC VỤ DU LỊCH 4 1.1Khái quát về đối tượng được tôn thờ trong ngôi đền của người Việt. 4 1.2Đặc điểm chung trong kiến trúc xây dựng đền của người Việt 5 1.3 Đặc điểm chung trong nội dung lễ hội đền của người Việt 13 1.4Sơ lược về tình hình khai thác đền và lễ hội đền phục vụ phát triển du lịch 16 Tiểu kết chương 1 18 CHƢƠNG 2: ĐÁM GIÁ CỤM ĐỀN VÀ LỄ HỘI ĐỀ Ở TRÀNG KÊNH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 20 2.1 Giới thiệu khái quát về huyện Thủy Nguyên 20 2.1.1 Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội 20 2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên 20 2.1.1.2Điều kiện kinh tế xã hội 20 2.1.2 Tài nguyên du lịch 22 2.1.2.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên 22 2.1.2.2Tài nguyên du lịch nhân văn 24 2.2 Giới thiệu về thị trấn Minh Đức – Thủy Nguyên 25 2.3 Khái quát về cụm di tích Tràng Kênh 26 2.4 Các ngôi đền ở Tràng Kênh – Minh Đức 27 2.4.1 Đền thờ Đức Thánh Trần 29 2.4.2 Đền thờ đức vua Lê Đại Hành 32 2.4.3 Đền thờ đức vua Ngô Quyền 34 2.4.4 Đền thờ Trần Quốc Bảo 36 2.5 Lễ hội đền Tràng Kênh 38 2.6 Giá trị của hệ thống các đền trong cụm di tích Tràng Kênh 41 2.6.1 Giá trị lịch sử 41 2.6.2 Giá trị cộng đồng 42 2.6.3 Giá trị tâm linh 42 2.6.4 Giá trị văn hóa 44 2.6.5 Giá trị kiến trúc 45
- 2.7 Thực trạng hoạt động du lịch của các đền ở Tràng Kênh 46 2.7.1 Thực trạng hoạt động du lịch 46 2.7.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng 47 2.7.3 Công tác quản lý và tổ chức khai thác 48 2.7.4 Đánh giá thuận lợi và khó khăn của cụm di tích 50 Tiểu kết chương 2 53 CHƢƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM KHAI THÁC CÓ HIỆU QUẢ CỤM ĐỀN VÀ LỄ HỘI TRÀNG KÊNH NHẰM PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 54 3.1 Giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả hệ thống các đền và lễ hội Tràng Kênh phục vụ phát triển du lịch 54 3.1.1 Giải pháp cải tạo và bảo vệ môi trường 55 3.1.2 Giải pháp tuyên truyền quảng bá hình ảnh 55 3.1.3 Giải pháp bảo tồn tôn tạo di tích 56 3.1.4 Giải pháp thu hút vốn đầu tư 57 3.1.5 Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực 58 3.1.6 Giải pháp xây dựng các chế tài quy định cụ thể đối với du khách và dân cư sở tại 59 3.2 Một số kiến nghị với các tổ chức nhằm bảo tồn tôn tạo và khai thác có hiệu quả đối với các công trình trong cụm di tích Tràng Kênh và lễ hội Tràng kênh 60 3.2.1 Đối với sở văn hóa thể thao và du lịch Hải Phòng 60 3.2.2 Đối với phòng văn hóa thể thao và du lịch huyện Thủy Nguyên 60 3.2.3 Đối với chính quyền thị trấn Minh Đức – Thủy Nguyên 61 3.3 Xây dựng tour du lịch khai thác cụm đền và lễ hội đền ở Tràng Kênh 61 Tiểu kết chương 3 63 KẾT LUẬN 64 PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Du lịch đã đang và ngày càng trở thành một nhu cầu rất phổ biến trong xã hội hiện nay. Đi du lịch không chỉ để nâng cao tầm hiểu biết, mở rộng các mối quan hệ xã hội mà du lịch còn giúp người ta cải thiện được sức khỏe và giảm stress. Du lịch còn là một trong những tiêu chí để đánh giá mức sống của xã hội bởi ai cũng có thể có nhu cầu du lịch nhưng nó chỉ thực sự trở thành hiện thực khi đời sống của con người đã được đáp ứng đầy đủ những như cầu thiết yếu: ăn, uống, nghỉ ngơi và có đủ điều kiện kinh tế. Một trong những quan hệ phổ biến của quan hệ cung cầu đó chính là có cung ắt sẽ có cầu bởi vậy mà du lịch đang trở thành một trong những ngành nghề hấp dẫn nhất hiện nay. Nằm trong quy luật đó Hải Phòng cũng ngày càng chú trọng đầu tư phát triển du lịch nhằm tạo ra những sản phẩm du lịch hoàn thiện hơn, có chất lượng hơn và đáp ứng ngày càng tốt hơn mong muốn của khách du lịch. Nhắc tới Hải Phòng là chúng ta nghĩ ngay đến hình ảnh của một thành phố trẻ năng động, có nền công nghiệp rất phát triển và hơn nữa đây còn là quê hương của rất nhiều địa danh du lịch hấp dẫn độc đáo và những lễ hội truyền thống và hiện đại đã và đang đi vào tâm thức của rất nhiều người con Hải Phòng và những vị khách khắp bốn phương. Đó là một Đồ Sơn lộng gió với cát trắng nắng vàng và làn nước mát rượi, đó là Cát Bà với VQG Cát Bà là khu dự trữ sinh quyển thế giới, đó là lễ hội “Chọi trâu Đồ Sơn”, là liên hoan du lịch “Đồ Sơn biển gọi”, là lễ hội “Hoa Phượng đỏ” được tổ chức thường niêm thu hút hàng trăm nghìn lượt khách đến với Hải Phòng. Thủy Nguyên - một vùng đất với bề dày truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước, do vậy nơi đây hiện có rất nhiều ngôi đền, ngôi đình để tưởng niệm những vị anh hùng có công với đất nước. Đó là Đình Kiền Bái đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia, đình Đồng Lý có từ thế kỷ 17 tiềm ẩn nhiều giá trị lịch sử và văn hóa, chùa Linh Sơn, chùa Mỹ Cụ Và chúng ta không thể quên được một địa danh đã gắn liền với biết bao chiến công oanh liệt, hào hùng để lại 1
- những trang sử vàng trong lịch sử dân tộc ngày ngày vẫn soi mình xuống dòng sông Bạch Đằng huyền thoại đó chính là mảnh đất Tràng Kênh thuộc thị trấn Minh Đức với những ngôi đền uy nghi mang trong mình bao ý nghĩa cùng với đó là lễ hôị Tràng Kênh diễn ra vào dịp đầu Xuân nhằm tưởng nhớ vị anh hùng Trần Quốc Bảo ngày càng thu hút sự quan tâm của du khách không chỉ ở địa bàn thành phố mà còn cả du khách thập phương. Khai thác những giá trị của khu di tích Tràng Kênh và lễ hội Tràng Kênh để phục vụ cho hoạt động du lịch là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của lãnh đạo thị trấn Minh Đức nói riêng và huyện Thủy Nguyên nói chung. Tràng Kênh với bề dày lịch sử của mình thì đây không phải là một cái tên mới nhưng những ngôi đền ở Tràng Kênh thì vẫn còn khá mới mẻ với rất nhiều người đặc biệt là khách du lịch ngoại tỉnh tuy nhiên với tên tuổi cũng những đối tượng được thờ tại đây cũng như những giá trị và ý nghĩa to lớn về mặt lịch sử mà Tràng Kênh đã có thì càng ngày nơi đây càng thu hút thêm nhiều du khách và tôi tin tưởng rằng trong tương lại gần thì lượng khách đến với Tràng Kênh sẽ lớn hơn nhiều. Để có thể quảng bá được hình ảnh, giá trị của cụm di tích Tràng Kênh cũng như lễ hội cổ truyền Tràng Kênh, đưa hình ảnh và tên tuổi của những ngôi đền tại Tràng Kênh đến gần hơn với mọi người để những ngôi đền nơi đây không chỉ là chốn tâm linh của người dân địa phương, không chỉ là điểm đến của số ít những du khách trong huyện hay trong thành phố thì cần phải có những cách thức và biện pháp khai thác một cách đúng hướng chính vì vậy tôi đã chọn đề tài “khai thác cụm đền và lễ hội đền tại Tràng Kênh – Minh Đức – Thủy Nguyên phục vụ phát triển du lịch” để làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục tiêu của khóa luận Tổng quan về tình hình khai thác các đền và lễ hội đền phục vụ du lịch Đánh giá khả năng khai thác đền Tràng Kênh và lễ hội Tràng Kênh phục vụ hoạt động du lịch. Đề xuất những giải pháp nhằm khai thác tốt hơn những giá trị của Tràng Kênh phục vụ phát triển du lịch 2
- 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Các ngôi đền thuộc thôn Tràng Kênh – Minh Đức – Thủy Nguyên: Đền thờ Đức Vua Lê Đại Hành, đền thờ Đức Thánh Trần, đền thờ Ngô Quyền, đền thờ Trần Quốc Bảo. Lễ hội Tràng Kênh 4. Phương pháp nghiên cứu Điền dã: Trực tiếp đến khu di tích Tràng Kênh – Minh Đức – Thủy Nguyên để khảo sát và trực tiếp tìm hiểu về đối tượng. Thu thập xử lý tài liệu: Thông qua hệ thống internet và các sách báo được đọc và tổng hợp lại để làm tài liệu cho bài viết Xã hội học: Phỏng vấn xin ý kiến trong lĩnh vực tìm hiểu, thông qua việc trực tiếp đến địa điểm nghiên cứu để có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với những người có hiểu biết về các ngôi đền tại Tràng Kênh để từ đó có thêm được những thông tinh rất hữu ích cho bài khóa luận. 5. Kết cấu khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về tình hình khai thác các di tích và lễ hội đền phục vụ du lịch Chương 2: Đánh giá cụm đền và lễ hội đền ở Tràng Kênh phục vụ phát triển du lịch Chương 3: Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa và lịch sử của cụm di tích và lễ hội Tràng Kênh nhằm phục vụ phát triển du lịch. 3
- CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH KHAI TÁC CÁC ĐỀN VÀ LỄ HỘI ĐỀN PHỤC VỤ DU LỊCH 1.1 Khái quát về đối tượng được tôn thờ trong ngôi đền của người Việt. Từ bao đời nay bên cạnh những ngôi chùa, đình và đền đã gắn bó với tín ngưỡng và đời sống tâm linh, với văn hóa và kiến trúc của các dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đền là nơi thờ thần thánh hoặc là những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Đó có thể là một vị minh quân, một vị anh hùng hoặc một vị thần đã có công với dân với nước. Ngay từ thời sơ khai, trong quá trình đấu tranh chống thú dữ, khai phá thiên nhiên gian khổ, có những trở ngại lớn không dễ gì khuất phục nổi. Trong hoàn cảnh đó, xuất hiện những nhân vật tài ba có công dẫn dắt cộng đồng vượt qua khó khăn. Con người dần dần nảy sinh ý thức khuất phục và sùng bái, ý niệm tôn kính, thờ, tế thần xuất hiện. Người Việt thờ hai loại thần đó là thiên thần và nhân thần. Thiên thần là những nhân vật thần thoại có sức mạnh siêu nhiên, có tác dụng răn đe con người làm điều tốt làm điều thiện, vừa hỗ trợ con người chống lại cái ác, chống lại ngay chính những lực lượng thiên nhiên xâm hại con người như bão lụt, bệnh tật Nhân thần là những nhân vật có thật trong lịch sử đã có công trong việc giúp dân làm ăn sinh sống, đánh đuổi giặc ngoại xâm, mở mang và giữ gìn bờ cõi. Thần là vị tài giỏi phán bảo mọi điều, mọi nhẽ. Vì vậy người ta thường nói thần kỳ là chỉ sự tài giỏi và kì lạ. Còn thánh là nhân vật huyền thoại hoặc có thực, khi còn sống có công trạng dời non, lấp biển, chết hiển thánh. Thời cổ trước đây, đối với người còn sống cũng được phân ra bậc hiền là người đạo đức hoàn hảo và có một phần tài giỏi nào đó. Trên hiền là á thánh, trên á thánh là bậc thánh người có đầy đủ đức tài. Đối với người Việt, phổ biến nhất, nổi bật nhất là thần ở làng, hầu như làng nào cũng có đền, đình, miếu thờ thần. Bởi vì làng vừa là một đơn vị cư trú, là nơi tụ cư, làng cũng là đơn vị sản xuất trên phạm vi công điền, công thổ, ruộng tư nhất định, người làng, mỗi làng tự làm ăn sinh sống. Với quan niệm “đất có thổ công, sông có hà bá”, “sống 4
- gửi hồn, chết gửi xương”, “sống khôn thác thiêng” nên muốn lập nghiệp an cư, con người không thể không thờ thần, cầu thần phù hộ cho phong đăng hòa cốc, bồ thóc đầy vơi. “Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ” là vậy. Chính vì thế làng không thể thiếu một biểu tượng thiêng liêng, vị thần hộ mệnh để phát tin tập hợp, củng cố, bảo vệ và phát triển cộng đồng. Mỗi làng phụng sự một vị thánh, có làng thờ 2, 3 vị, có làng thờ 6, 7 vị, gọi là phúc thần. Phúc thần chia làm ba hạng: thượng đẳng thần, trung đẳng thần, hạ đẳng thần. Tại nhiều làng, ngoài vị Thành hoàng chính thờ tại đình, còn các vị thần khác thờ tại các đền. Đền thường nhỏ hơn đình, nhưng kiến trúc cũng tương tự như kiến trúc đình, nghĩa là cũng chia ra hậu cung và nhà đại bái. Thường trong những ngày thần kỵ, trong làng có mở hội thí dân làng bao giờ cũng tổ chức lễ rước thần từ đền tới đình. Ngày nay, tại các nơi đô thị thường chỉ có đền, nên hội kỷ niệm thần linh thương tổ chức ngay tại đền. Trong mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại các di tích lịch sử văn hóa như đền, đình là một bộ phận di sản văn hóa, vật chất do nhân dân lao động sáng tạo ra. Mặt khác, gắn liền với nó là những sự tích, truyền thuyết, tín ngưỡng, liên quan đến sự hình thành của các di tích trong tiến trính lịch sử. Đối tượng được tôn thờ trong các ngôi đền là yếu tố quyết quan trọng nhất quyết định đến vị trí của ngôi đền trong đời sống tâm linh của người Việt. 1.2Đặc điểm chung trong kiến trúc xây dựng đền của ngƣời Việt Đền thờ là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị thần hoặc một danh nhân quá cố. Đền vốn là chốn tâm linh bao đời của người dân Việt bởi vậy trong thiết kế và kiến trúc thể hiện rõ được nét văn hóa của người Việt a. Về vị trí xây dựng Người Việt vốn rất sùng bái, tôn kính và tin tưởng vào sức mạnh cũng như tâm đức của thần linh và những người có công giúp đỡ họ. Họ quan niệm rằng người ta sinh ra ở đâu thì khi chết đi hồn xác họ cũng muốn trở lại với nơi đó. Thế nên địa điểm xây dựng thường được lựa chọn ở những vị trí có liên quan đến những truyền thuyết hoặc sự tích, cuộc sống của vị thần siêu nhiên hoặc các nhân vật được tôn thờ, nơi thờ thần thánh phải được đặt vào vị thế đẹp, 5
- có vị trí thuận lợi nhất của vùng đó để phân biệt với “đất rừng” của ma quỷ và đất làng xã của người trần tục. b. Về kết cấu Đại thể kiến trúc bên ngoài của đình, đền, miếu mạo có những đặc điểm cơ bản giống của kiến trúc đình chùa, nhưng nội dung thờ cúng và trang trí nội thất có khác nhau. Theo nghiên cứu thì đền chính là tiền thân của những ngôi đình làng ngày nay. Trước đây người ta chỉ biết đến đền miếu. Đền cũng chính là nơi thờ thần và những người có công với dân làng thế nên nhiều khi người ta còn không phân biệt rạch ròi giữa đền và đình. Bởi vậy về mặt thiết kế thì đền cũng tương tự như những ngôi đình làng. Nhìn từ ngoài thì đền khá giống ngôi đình với mái cong. Người ta mô phỏng mái cong của đền giống như hình con thuyền úp ngược. Đường cong đó giúp cho ngôi đình ngôi đền trở nên thanh thoát hơn và nhiều nhà nghiêm cứu đã lý giải rằng; “cong vì nó đẹp và mang ý nghĩa biểu tượng đề cao tôn linh, mặc dù khó làm hơn thẳng.”. Kiến trúc tôn giáo phương Tây xuất hiện đường cong VÒM parabon úp ngược; thể hiện quyền năng siêu phàm ở đỉnh cao vút như biểu lộ một giới hạn đóng - khép chặt bởi hai tia cong, cảm giác dồn nén, ép chặt lại vào phía bên trong rồi được thăng hoa lên đỉnh vòm Kiến trúc tôn giáo tâm linh phương Đông ngược lại, đường cong mở không bị giới hạn bởi hướng lên trời, cảm giác nhẹ nhõm, thoát tục, như có sự nâng đỡ dẫn đến sự hướng thiên Đường cong mang tính chất vô hướng, biểu lộ ý nghĩa giải thoát; còn đường thẳng lại có tính chất định hướng, gần gũi với các quy chế gò bó con người trong các định lệ Vì thế mái đình đền chùa miếu mạo được làm cong lên, phụ họa cho nội dung ý nghĩa của các thuyết lý về giải thoát con người, phù hợp với tâm lý người phương Đông. c. Về bố cục cảnh quan Các đền, miếu thường tuân theo thế phong thủy, như phải có minh đường, tả thanh long, hữu bạch hổ nhưng có khi khá đơn giản, thường theo bố cục chữ đinh (丁), chữ nhị (二), gồm nhà tiền tế và hậu tẩm, hoặc kiến trúc chữ 6
- công (工), chữ tam (三). Thông thường một ngôi đền thường có 3 phần đó là tiền đường, chánh điện và hậu cung. Tùy theo quy mô bề thế của ngôi đền mà đền có thêm các phần như trung đường, thiêu hương d. Về đồ thờ và bài trí ban thờ trong đền Đồ thờ trong di tích của người Việt trở thành bộ phận hữu cơ giữa con người và thần linh, mối quan hệ này được thể hiện theo trục tung (con người - đồ thờ - thần linh) là sự giao tiếp giữa tầng dưới với tầng trên, giữa trần tục với linh thiêng là công cụ trung gian để con người bày tỏ ước vọng của mình với thế giới siêu nhiên. Bên cạnh đó, đồ thờ gắn liền với các công trình kiến trúc như đình, chùa, đền, miếu nó thể hiện sự tương quan về kết cấu, hình dáng, phong cách và niên đại với quy mô, loại hình kiến trúc. Đó là mối quan hệ được thể hiện theo trục ngang (hoành) - mối quan hệ lịch sử giữa đồ thờ đối với di tích (con người - đồ thờ - kiến trúc). Như vậy con người được coi là chủ thể, đồ thờ là trung tâm trong mối ràng buộc với di tích tín ngưỡng. Con người đã không chỉ tạo hình hài cho đồ thờ thông qua lao động nghệ thuật mà còn thổi vào nó linh hồn thông qua những hoạt động văn hóa tín ngưỡng. Ngoài ra, con người còn tạo cho đồ thờ những mối liên kết với không gian kiến trúc cùng dòng chảy của lịch sử dân tộc. Mỗi đồ thờ thường gắn với những loại hình di tích nhất định. Tuy nhiên, một số loại đồ thờ được sử dụng phổ biến cho tất cả các loại hình kiến trúc thờ cúng mà ý nghĩa của nó cũng không thay đổi là bao. Đối với di tích Phật giáo, do có tính chặt chẽ về giáo lý, nghi thức nên đồ thờ được quy định khá chuẩn mực và ổn định về ý nghĩa tượng trưng. Đối với các di tích như đình, đền, miếu về cơ bản cũng đã định hình trong lịch sử, ít nhất là vào thời Lê sơ, nhưng lại mang trong mình nhiều yếu tố dân gian đậm chất nông nghiệp nên đồ thờ của chúng thường khó phân định chính xác là nó thuộc không gian thờ cúng nào. Chính vì vậy, có thể bắt gặp rất nhiều đồ thờ giống nhau ở các di tích đình, đền, miếu Bên cạnh các đồ thờ được đặt trên nhang án như: bát hương, cây đèn, lọ hoa, còn có các đồ thờ ngoài hệ thống nhang án như linh vật (long, lân, quy, 7
- phượng), bát bửu, chấp kích, chiêng, trống được bài trí theo một quy chuẩn nhất định. Theo cách bài trí phổ biến trên mặt phẳng, đây là quan hệ về chiều sâu (từ ngoài vào trong, từ nhỏ tới lớn, từ thấp tới cao, từ sáng vào tối) tạo nên một trật tự về không gian trong kiến trúc. Mối quan hệ chiều sâu đó, một vài đồ thờ được dàn trải sang hai bên của di tích để tạo nên điểm nghỉ mắt cho người hành hương và sự phá cách cho không gian bày biện. Nếu đứng cùng hướng và ở vị trí trong sâu của di tích, có thể thấy được toàn bộ hệ thống đồ thờ từ cao xuống thấp, từ lớn tới nhỏ, từ tối ra sáng nó tôn lên hình ảnh mờ ảo và không gian huyền bí đối với con người khi tiếp cận di tích, từ đó vai trò của vị thần được thờ cúng được linh thiêng hơn. e. Ý nghĩa các biểu tượng và con vật trong kiến trúc đền Ở nước ta các công trình tôn giáo tín ngưỡng thường bị ảnh hưởng lẫn nhau đặc biệt là trong kiến trúc đền, đình, miếu mạo. Bởi vậy nên các hình tượng rồng, phượng, rùa, hạc chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp trong đình, chùa, miếu mạo và các ngôi đền của người Viêt. Nó vừa mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc vừa thể hiện và phản ánh tính cách và khát vọng của người dân Việt Nam. Hình tượng Rồng Đối với các nước phương Đông, con rồng là kiệt tác sáng tạo nghệ thuật có lịch sử lâu đời. Trên thực tế, rồng chỉ là sản phẩm của nghệ thuật, vì nó không tồn tại trong thế giới tự nhiên mà là sự sáng tạo nghệ thuật siêu tự nhiên. Cùng với sự phát triển của lịch sử, từ lâu các nước phương Đông hình thành nên quan niệm phổ biến về con rồng, tổng hợp trong con vật linh thiêng này là trí tuệ, tín ngưỡng, niềm tin, lý tưởng, nguyện vọng, sức mạnh Trải qua bao đời, các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ ở mỗi nước phương Đông đã dần tạo cho con rồng trở thành biểu tượng cao quý và sức sống vĩnh hằng, có ảnh hưởng to lớn, ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống xã hội ở mỗi nước. Đối với dân tộc Việt Nam, ngoài nét chung nói trên, rồng còn có ý nghĩa riêng, đó là nó chỉ dân tộc Việt Nam có xuất xứ từ con rồng cháu tiên. Từ câu chuyện huyền thoại chàng Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, sau nở thành một trăm người con, hình ảnh con rồng đã dần dần ǎn sâu vào tâm 8
- thức của người Việt. Hà Nội là thủ đô cả nước, với tên gọi đầu tiên: Thăng Long (rồng bay). Vùng Đông Bắc nước ta có Hạ Long (rồng hạ), một trong những thắng cảnh đẹp nhất nước. Đồng bằng Nam Bộ phì nhiêu được làm nên bởi dòng sông mang tên Cửu Long (chín rồng). Không những là biểu tượng cho xuất xứ nòi giống dân tộc Việt Nam, rồng còn là thần linh, chủ của nguồn nước, mang lại sức sống mãnh liệt, làm cho mùa màng tốt tươi. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, chính vì vậy mà các vua chúa đã lấy hình tượng rồng đại diện cho uy lực triều đình. Thời Lê, rồng trở thành bản mệnh của nhà vua. Hình tượng rồng được thêu lên tấm áo vua mặc. Hình tượng con Rùa Về mặt sinh học, rùa là loài bò sát lưỡng cư có tuổi thọ cao và thân hình vững chắc. Nó có thể nhịn ǎn uống mà vẫn sống trong một thời gian dài. Rùa không ăn nhiều, nhịn đói tốt nên được coi là một con vật thanh cao, thoát tục. Trên bàn thờ ở các đền chùa, miếu mạo, chúng ta thường thấy rùa đội hạc, rùa đi với hạc trong bộ đỉnh thơm ngát và thanh tịnh. Rùa tượng trưng cho sự trường tồn và bất diệt. Hình ảnh rùa đội bia đá, trên bia đá ghi lại sử sách của dân tộc Việt Nam chứng tỏ rùa là loài vật chuyển tải thông tin và văn hóa. Tuy không phải là con vật của Phật giáo, nhưng rùa cũng là biểu trưng cho sự trường tồn của Phật giáo. Trong một số ngôi chùa thời Lý – Trần, rùa được chạm thành tường bằng đá làm bệ đội bia. Dáng rùa đầu to, mập, vươn ra khỏi mai, mõm thuôn nhọn, mắt nhỏ, bốn chân khép sát vào thân mai. 82 tấm bia đã ghi tên tiến sĩ đỗ đạt được đặt trên lưng rùa, một con vật biểu hiện sự trường tồn, hiện còn lưu giữ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội là bằng chứng hùng hồn biểu hiện nền văn hiến bất diệt của dân tộc Việt Nam. Hình tượng chim Phượng Phượng là linh vật được biểu hiện cho tầng trên. Phượng thường có mỏ vẹt, thân chim, cổ rắn, đuôi công, móng chim cứng đứng trên hồ sen. Với ý nghĩa đầu đội công lý, mắt là mặt trời, mặt trǎng, lưng cõng bầu trời, lông là cây cỏ, cánh là gió, đuôi là tinh tú, chân là đất, vì thế phượng tượng trưng cho cả vũ trụ. Khi phượng ngậm lá đề hoặc ngậm cành hoa đứng trên đài sen, nó biểu hiện 9
- là con chim của đất Phật. Tức là có khả nǎng giảng về đạo pháp, làm nhiệm vụ giống như các nữ thần chim: nhảy múa, hát ca chào mừng Phật pháp. Quan niệm của người Việt Nam cho rằng phượng xuất hiện báo hiệu đất nước được thái bình. Chim phượng là loài chim đẹp nhất trong 360 loài chim. Nó có thân hình quyến rũ, kết tinh được vẻ đẹp, sự mềm mại, thanh lịch, vẻ duyên dáng của tất cả các loài chim. Chim phượng còn tượng trưng cho nữ tính, cho phái đẹp của tầng lớp quý phái. Hình tượng con Hạc Ở Việt Nam hạc là con vật của đạo giáo. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu , hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt. Hình tượng con lân Cũng gọi là Kỳ Lân, vì con đực được gọi là Kỳ, con cái gọi là Lân. Lân có hình giống như con hươu nhưng lớn hơn, mình có vảy, đuôi giống đuôi trâu, chân giống chân ngựa, miệng rộng, mũi to, đầu có một sừng, lông trên lưng có 5 màu, lông dưới bụng chỉ có màu vàng, tánh rất hiền lành, không đạp lên cỏ tươi, không làm hại các sanh vật, nên được gọi là Nhân thú (con thú có lòng nhân từ). Mặt trời -Mặt trăng Hình tượng mặt trời biểu tượng cho sự chủ động và sự thống lĩnh. Mặt trời là thái dương hay đại diện cho nguyên lý thuần dương, biểu hiện của dương tính mạnh mẽ. Trong truyền thuyết Trung Hoa, mặt trời (vầng thái dương) cũng có khi là biểu tượng của hoàng đế. Môtíp mặt trời thường được sử dụng với hình tượng “lưỡng long chầu nhật”, được đắp nổi bằng vữa có gắn mảnh sành trên 10
- nóc đình, hoặc trong các đồ án trang trí ở cửa võng. Mặt trăng là hình ảnh mang nguyên lý đối lập với mặt trời. Xét theo nguyên lý âm dương, mặt trăng mang tính thuần âm, liên quan đến phụ nữ. Mặt trăng mang lại điềm lành, hạnh phúc. Đạo giáo cho rằng, mặt trăng là nơi cư trú của chú thỏ ngọc, đang nghiền thuốc trường sinh ở gốc đa. Trong cách hiểu như vậy, mặt trăng là nơi chứa đựng nguồn sống bất tử. Trong chạm khắc trang trí đình làng mô típ mặt trời và mặt trăng có mặt trong đồ án trang trí như: lưỡng long chầu nhật, lưỡng long chầu nguyệt. Môtíp này thường được bố trí ở vị trí trung tâm, trang trọng, như cửa võng, bàn thờ, ở trên nóc đình, trên trán bia đá. Đặc biệt chúng ta thấy một biểu tượng rất phổ biến trong thiết kế của các ngôi đền đó là biểu tượng lưỡng long triều nhật (hoặc lưỡng long chầu nguyệt) đã được sử dụng và phát triển từ thời Nguyễn về sau. Rồng chầu hoa cúc, hoa hướng dương đều là các dạng của lưỡng long triều nhật với ý nghĩa cầu trời mưa, hình tròn có ngọn lửa tượng trưng cho sấm sét, nguồn nước, mang đến mùa màng tươi tốt Hoa cúc và hoa hướng dương cũng được sử dụng tượng trưng cho mặt trời (nhật dương). Mây Mây mang đến những dấu hiệu tốt lành, hạnh phúc. Đối với cư dân nông nghiệp, mây dấu hiệu báo hiệu cơn mưa. Cuộc “mây mưa” còn được ví như hành vi tính dục, có ý nghĩa phồn thực. Đối với cộng đồng, cá nhân, mây mang đến điềm báo cát tường, như mây ngũ sắc cũng có nghĩa là ngũ phúc. Khi đức Phật ra đời, có mây ngũ sắc toả ánh hào quang. Trong những lễ tế thần, người xưa quan niệm có ứng nghiệm là khi có những đám mây trắng hoặc mây ngũ sắc hiện ra. Với ý nghĩa trên, hình tượng mây được những người nghệ nhân dân gian xưa bố trí trong những đồ án trang trí cùng với Tứ linh như long vân khánh hội, long ẩn vân, phượng mây, mây nâng vòng Thái cực Hoa sen Là loại cây cao quý, gắn với Phật giáo, có biểu tượng của sự cao quý, trong sạch của tâm hồn. Do mọc từ bùn nhơ, ngâm mình trong nước, vươn lên trời cao, hoa sen còn biểu tượng cho sự chân tu, thoát khỏi những hệ lụy của 11
- cuộc đời mà có phẩm hạnh. Trong nghệ thuật tạo hình Phật giáo, chúng ta thường bắt gặp hình ảnh Đức Phật ngồi tọa thiền hoặc đứng thuyết giảng trên toà sen. “Một trong nhiều ý nghĩa bông sen được nghĩ tới là: nơi để sinh ra. Đó là một ý nghĩa bắt nguồn từ thời nguyên thuỷ. Chúng ta đã gặp những hiện vật của thời đó về người đàn bà, mà bộ phận để sinh ra và bộ phận nuôi dưỡng được cường điệu khá lớn, trong ý nghĩa cầu phồn thực - một mặt của hạnh phúc Từ ý kiến trên, có thể rút ra: hoa sen mang yếu tố âm. Vì thế trong kiến trúc người ta nhìn thấy đá chân tảng chạm đài sen (âm) làm chỗ kê của chiếc cột (mang hình Linga - dương) như một sự kết hợp của âm dương trong sự cầu mong vững bền và sinh sôi nảy nở”. Hoa sen được dùng làm mô típ trang trí chủ đạo trong chùa. Trong trang trí đình làng hoa sen được sử dụng nhiều trong những ngôi đình muộn. Tuy nhiên, chúng ta bắt gặp hình hoa sen cách điệu, cây sen (hoa, lá, thân) tả thực trong hoạt cảnh tắm đầm sen trên gạch trang trí vách tường đình, các cửa đền hay trên các bức vách của đền. Cây đào Cây đào là một trong những loại cây có vị trí quan trọng trong nhiều loại hình nghệ thuật và tập quán, phong tục của nhiều nước ở phương Đông. Các nhà thực vật học cho rằng cây đào có nguồn gốc từ Trung Quốc. Loại cây này được biết như loài cây cho trái quý của chốn thần tiên, mọc ở khu vườn Tây Vương Mẫu, 3000 năm mới kết quả một lần, ăn vào sẽ “trường sinh bất lão”. Cây đào có biểu tượng phổ biến là mùa xuân, mùa bắt đầu của năm, mùa của sự phồn sinh, đem lại sinh lực và hạnh phúc mới. Hoa đào còn là biểu tượng vẻ đẹp của người phụ nữ, nó tượng trưng cho gương mặt, cho nụ cười của người con gái đẹp. Hoa đào còn mang lại tình yêu, hạnh phúc đôi lứa (được yêu nhiều = đào hoa). Hình tượng cây đào cổ thụ mang biểu tượng của sự trường sinh. Trên cốn của đình Dư Hàng (Hải Phòng) cây đào được bố cục uốn lượn trong hình chữ nhật dài, bên cạnh cây tre. Trong chạm khắc trang trí đình làng và một số ngôi đền đào được cách điệu với môtíp “đào hoá lân” hoặc “đào hoá rồng”. Đây là loại môtíp có tính lưỡng nguyên: vừa là cây, vừa là vật. Hoa cúc 12
- Hoa cúc với màu vàng rực rỡ, thuộc hành thổ, biểu tượng cho sự giàu sang, phú quý, vương giả. Hoa cúc còn là biểu tượng của mùa thu, người xưa gọi tháng chín là “cúc nguyệt”. Chữ cúc và chữ lưu (giữ lại) đều có cách phát âm giống nhau là Ju. Tháng chín là “cửu” ( Jiu) cũng đồng âm với từ “cửu” với nghĩa vĩnh cửu. Do đó, “cúc nguyệt” (cúc tháng chín) có biểu tượng là lời chúc cho sự trường thọ, an khang, nhiều may mắn. Hoa cúc còn biểu tượng cho sự an lạc, viên mãn, niềm vui. Đào Tiềm (365 - 427) là thi sỹ nổi tiếng ở Trung Quốc đã cáo quan, về ở ẩn để làm thơ, vui thú với rượu, nhạc và trồng hoa cúc. Hoa cúc là đề tài được sử dụng nhiều trong chạm khắc đình làng, và các ngôi đền dưới nhiều kiểu thức như: cúc hoa, cúc dây, cúc leo Ở ngôi đình sớm nhất, đình Thụy Phiêu (1531), trên cột trốn vì nóc người thợ đã tạc một bông hoa cúc mãn khai khá lớn, ở những ngôi đền chúng ta thường thấy hình ảnh hoa cúc xuất hiện cùng với những loài hoa trong bộ tứ quý “tùng – cúc – trúc – mai) hay đơn giản là những bông cúc trong các họa tiết trang trí. 1.3 Đặc điểm chung trong nội dung lễ hội đền của ngƣời Việt Theo thống kê 2009, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Tùy theo đối tượng thờ cúng và tùy theo không gian thờ cúng người ta có nhiều loại lễ hội khác nhau: Hội chùa, hội đình, hội đền, hay miếu mạo Đối với mỗi vùng miền, địa phương khác nhau sẽ có những sự khác nhau nhất định trong nghi thức và các cách thức tổ chức lễ hội. Hội đền cũng là một trong những hình thức lễ hội dân gian tiêu biểu nên cũng giống như những lễ hội khác thường gồm hai phần chính đó là phần lễ và phần hội. Phần lễ: Đây là phần nghi thức bắt buộc vào những dịp hội hè. Tế lễ bao giờ cũng chiếm một vị trí trang trọng trong ngày hội. Có những hội mà ở đó phần lễ chiếm hầu hết thời gian, ngay cả những hội lớn thì dù là năm hội lớn hay hội lệ thì việc tế lễ vẫn được tiến hành đầy đủ. 13
- Công việc cử hành tế lễ được dân làng chuẩn bị rất cẩn thận từ nhiều tháng (thậm chí hàng năm trời) trước ngày mở hội (ví như nuôi lợn thờ). Người ta chọn ra một ban tế gồm những người đạt tiêu chuẩn nhất định về vị trí xã hội, trí thức, kinh nghiệm, gia cảnh và phẩm hạnh cá nhân. Những người ấy cần phải tập luyện rất công phu vì họ đại diện cho dân làng tiếp xúc với thần thì không phải cá nhân người đó mà cả dân làng sẽ phải chịu tội trước thần linh. Như thế ta thấy tầm quan trọng của tế lễ và những người hành lễ to lớn đến nhường nào. Cuộc tế là dịp để người ta bằng nghi thức tôn giáo nhắc lại công lao của vị thần được dân làng thờ phụng để toàn thế trẻ già gái trai được ngưỡng mộ, ghi nhớ coi như một lần đọc lại lịch sử trước dân làng. Đồng thời đây cũng là dịp để người ta dâng lên vị thần những sản phẩm do dân làng làm ra với lòng kính trọng, với sự biết ơn về sự bảo trợ của thần do dân làng năm qua đã yên ổn và thịnh vượng. Để rồi nhân đó, người ta lại tiếp tục cầu xin thần phù hộ, giúp đỡ cho dân làng năm tới lại càng thịnh vượng và bình an hơn nữa. Cứ như vậy tạo nên một tâm lý vững vàng bước vào những thử thách mới cho tất cả cộng đồng. Đồng thời đây cũng là dịp để người ta tập hợp cộng đồng trong một niềm cộng cảm, tình đoàn kết gắn bó một cách chặt chẽ giữa các thành viên, dòng họ với nhau trước một vị thần linh chung của toàn cộng đồng. Một sự đoàn kết, cộng cảm tự giác và bền chặt. Cuộc tế thường diễn ra đầu và cuối hội với tên thường gọi là tế nhập tịch và tế rã đám. Phần Hội Là phần vui chơi, giải trí thư giãn của những người tham dự. Với người dân quê xưa, cuộc sống hàng ngày lam lũ vất vả, một nắng hai sương, do vậy họ có rất ít thời gian để nghỉ ngơi. Ngoài ra những dịch vụ cũng như hoạt động văn hóa cho đến ngày hôm nay ở nông thôn vẫn còn hạn chế, vì thế ngày hội là thời điểm mà họ có thể được “xả láng” đôi chút. Người ta đến hội không đơn thuần chỉ là người cưỡi ngựa xem hoa mà họ có thể thực sự tham dự như một thành viên thực thụ. Phần hội đã tạo điều kiện để cho họ thực hiện điều đó. Anh có sức khỏe, xin mời hãy vào sới vật, anh thích tranh tài có thể thi đốt pháo, bịt mắt bắt 14
- dê, hát giao duyên Người ta vừa là người xem vừa là người diễn một cách tự nhiên, hồ hởi. Thêm nữa, đi hội còn được xem người, xem cảnh, các chàng trai cô gái trổ hết tài năng của mình vào những cuộc thi, mặc những bộ cánh đẹp nhất để thu hút sự chú ý của mọi người và biết bao tình duyên đôi lứa, những cuộc hẹn hò đã bắt nguồn từ đây để mùa sau “đến hẹn lại lên”, vào ngày lành tháng tốt làng mở hội, những đôi lứa khác tiếp tục nên duyên. Đến hội người ta còn có dịp để mua bán và thử sản phẩm, chút quà kỷ niệm, một chút đặc trưng địa phương. Cũng tại đây, ngoài “một miếng giữa đàng”, ngoài “lộc thánh” ban, thì việc “bóp mồm bóp miệng” quanh năm hôm nay cũng được xả láng đôi chút để ăn một bữa quà trong hội. Vui như hội là vậy. Dù bận bịu quanh năm ngày tháng thì đến hội người ta cũng cố đi. Đi để vui, để giải trí và còn để lễ thần, cầu xin sự bảo trợ, giúp đỡ của thần cho bản thân, cho gia đình an khang thịnh vượng. Đi để được hòa mình vào cộng đồng cùng hưởng thụ và chia sẻ cả vinh dự và trách nhiệm Đấy phải chăng là những nguyên nhân thu hút bao lớp người đến hội, từ già trẻ, gái trai ai ai cũng bị hấp dẫn. Đối với lễ hội đền đặc biệt là lễ hội để tưởng nhớ những vị anh hùng có công thì lễ hội người ta thường thấy có một sự kiện trong truyền thuyết được diễn lại. Đó có thể là sự kiện liên quan đến cuộc đời, sự kiện quan trọng nhất, nổi bật trong cuộc đời của người anh hùng. Vào ngày hội sự kiện đó được cách điệu hóa thành một cuộc chiến đấu đã được sân khấu hóa, một trò diễn hay một đám rước hay một phong tục đặc biệt nào đó. Đó là trận đánh giặc Ân hùng vĩ của Thánh Gióng ở hội Gióng, là trò cờ lau tập trận của Đinh Tiên Hoàng ở hội đền Đinh, là đám rước voi của hội đền Hai Bà Trưng, trò rước vua sống của hội đền Cổ Loa, Những sự kiện đó được cách điệu hóa, biểu tượng hóa thành những hình tượng nghệ thuật đã khắc sâu vào lòng người. Lễ hội nói chung là lễ hội đền nói riêng là một hiện tượng văn hóa tổng hợp trong đó các yếu tố của nó đan xem, liên kết chặt chẽ với nhau nhưng đồng thời cũng tác động, bổ sung cho nhau để tạo nên bộ mặt hoành tráng của lễ hội 15
- mà ta còn thấy đến bây giờ. Đó là chưa tính đến những sự bồi đắp của các lớp văn hóa qua từng thời kỳ khác nhau của lịch sử. 1.4 Sơ lƣợc về tình hình khai thác đền và lễ hội đền phục vụ phát triển du lịch Khai thác các điểm du lịch là các ngôi đền chùa, đình miếu hiện nay đang ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn đối với khách du lịch đặc biệt là vào dịp đầu xuân. Đền không chỉ là chốn tâm linh bao đời của người dân Việt mà đó còn là nơi mà khách tham quan có thể vãn cảnh và thưởng ngoạn. Nếu như trước đây các ngôi đền chỉ thuần túy là nơi để thờ cúng thần linh, các anh hùng có công với nước với dân thì ngày nay những ngôi đền được chú trọng đầu tư tôn tạo về mặt cảnh quan để phục vụ và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của du khách. Khắp chiều dài đất nước, hầu hết các tỉnh, thành địa phương chúng ta đều có thể bắt gặp hình ảnh của những ngôi đền, lớn có nhỏ có. Theo thống kê trong cuốn “hỏi đáp về những ngôi đền nổi tiếng ở Việt Nam” do nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 2009 thì cả nước có trên 500 ngôi đền được nhiều người biết đến trong đó Hà Nội vốn được biết đền với rất nhiều ngôi đền chùa nên cũng không lạ khi Hà Nội tập trung tới 90 ngôi đền nổi tiếng; bên cạnh đó Bắc Ninh có 31 ngôi đền, Hải Dương có 31 ngôi đền, Nam định có 30 ngôi đền, Ninh Bình có 15 ngôi đền, Thanh Hóa có 36 ngôi đền, Thái Bình có 37 ngôi đền, tp HCM có 5 ngôi đền, An Giang có 5 ngôi đền, Quảng Ngãi có 5 ngôi đền, Quảng Nam có 7 ngôi đền Như vậy chúng ta có thể thấy được mật độ của các ngôi đền. Mặc dù trải dài nhưng hầu hết những ngôi đền đều tập trung ở phía bắc. Có những ngôi đền mang quy mô, nổi tiếng được cả nước biết đến: như đền Hùng (Phú Thọ), đền Trần (Nam Định); đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh), có ngôi đền nổi tiếng về sự linh thiêng được cả nước biết đến như đền Đồng Bằng, đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh), đền Bà Đế (Hải Phòng) Có những ngôi đền có cảnh quan đẹp: đền Ngọc Sơn (Hà Nội), đền Bà Triệu (Thanh Hóa), đền thờ Tiên Dung công chúa, đền Mẫu Tây Thiên (Phú Thọ) Cùng hàng loạt các ngôi 16
- đền nổi tiếng: đền Chử Đồng Tử, đền Tản Viên, đền An Dương Vương, đền Đế Thích (Hà Nội); đền Nguyễn Trung Trực, đền Thoại Ngọc hầu, đền chủ tịch Tôn Đức Thánh (Anh Giang); đền Bồng Lai, đền Cao, đền Đông Hải Đại Vương, đền Mạc Trạng Nguyên (Hải Dương); đền Bích Châu, đền Bùi Ngự Sử, đền Đặng Quốc Công ( Hà Tĩnh) Hàng năm cứ mỗi độ xuân về bên cạnh những ngôi chùa là lựa chọn để người ta đi dâng hương lễ phật cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa, buôn may bán đắt thì những ngôi đền cũng là điểm đến của rất nhiều du khách thập phương. Họ đi lễ đền để tạ ơn thần thánh đã giúp đỡ phù hộ họ trong suốt một năm qua, họ còn đến với đền để cầu tài cầu lộc, cầu tình duyên con cái. Ngày trước nếu nói đến đi lễ thì người ta nghĩ đến ngay đó thường là những người có tuổi, có gia đình hoặc những người làm ăn buôn bán; nhưng ngày nay đối tượng đi lễ đền chùa không giới hạn ở bất cứ tầng lớp, nghề nghiệp hay độ tuổi nào. Và điều đáng nói là ngày nay các bạn trẻ cũng rất quan tâm đến việc đi đền, chùa. Bên cạnh việc dâng hương thành kính thì vãn cảnh cũng là một trong những mục đích chính trong các chuyến đi của họ Như vậy có thể thấy đền và hội đền ngày càng đi sâu vào tâm thức của người dân đất Việt và ngày càng trở thành điểm đến của du khách bốn phương. Hoạt động khai thác các đền phục vụ cho du lịch cũng ngày càng được quan tâm đầu tư. Lễ hội đền Hùng diễn ra hàng năm vào ngày 10/3 âm lịch được công nhận là quốc giỗ và được Unesco công nhận là di sản văn hóa của nhân loại hàng năm thu hút hàng triệu khách hành hương. Lễ hội đền Hùng năm 2013, riêng ngày 10/3 đón gần 2 triệu du khách; năm 2014 chỉ trong 3 ngày từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 8 âm lịch đền Hùng đã đón tới gần 4 triệu lượt khách. Cho thấy sức thu hút của một hội đền mang tầm cỡ quốc gia. Lễ hội Đền Trần năm 2013 thu hút hàng vạn khách hành hương từ khắp nơi đổ về. Năm 2014 cũng hàng vạn người lườm lượt kéo về hội. Như vậy có thể dễ dàng nhận thấy việc khai thác các đền là lễ hội đền thu hút khách du lịch đáng kể và từ đó cũng mang lại nguồn thu đáng kể đóng góp cho sự phát triển của ngành du lịch nói chung. 17
- Các lễ hội tại các ngôi đền vốn mang ý nghĩa tâm linh tín ngưỡng sâu sắc nhưng hiện nay lại đang có hiện tượng bị thương mại hóa, ngày càng mất đi những giá trị nguyên gốc, xen kẽ những yếu tố hiện đại, lai căng gây phản cảm cho du khách. Vì vậy để tổ chức lễ hội dân gian vừa giữ được bản sắc văn hóa dân tộc vừa phục vụ phát triển du lịch, ngành văn hóa cần kết hợp với ngành du lịch, chính quyền địa phương rà soát lại tất cả lễ hội dân gian; có công trình nghiên cứu khoa học mang tính tổng thể về lễ hội truyền thống, phải chỉ ra được những giá trị tích cực của lễ hội, phải rạch ròi đâu là tín ngưỡng văn hóa dân gian, đâu là mê tín dị đoan, đâu là giá trị vốn có, đâu là những yếu tố lai tạp, vay mượn Từ đó, chúng ta mới có thể lựa chọn và khai thác giá trị của lễ hội, cái nào có thể biến thành sản phẩm phục vụ đối tượng khách nào, vào thời điểm nào, ở đâu và như thế nào. Để tổ chức lễ hội dân gian nói chung cũng như lễ hội đền vừa giữ được bản sắc văn hóa dân tộc vừa phục vụ phát triển du lịch, ngành văn hóa cần kết hợp với ngành du lịch, chính quyền địa phương rà soát lại tất cả lễ hội dân gian; có công trình nghiên cứu khoa học mang tính tổng thể về lễ hội truyền thống, phải chỉ ra được những giá trị tích cực của lễ hội, phải rạch ròi đâu là tín ngưỡng văn hóa dân gian, đâu là mê tín dị đoan, đâu là giá trị vốn có, đâu là những yếu tố lai tạp, vay mượn Từ đó, chúng ta mới có thể lựa chọn và khai thác giá trị của lễ hội, cái nào có thể biến thành sản phẩm phục vụ đối tượng khách nào, vào thời điểm nào, ở đâu và như thế nào. Tiểu kết chƣơng 1 Du lịch chính là một trong những động lực đã và đang tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế. Nó có tác động một cách tổng hợp tới nhiều ngành kinh tế và góp phần nâng cao dân chí cải thiện đời sống xã hội. Du lịch bao gồm nhiều hình thức và loại hình khác nhằm nhằm đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của du khách trong đó du lịch tâm linh là hình thức du lịch được rất nhiều người dân Việt ưa chuộng. Đó là các di tích lịch sử, các ngôi đình, ngôi chùa và không thể quên vai trò của những ngôi đền trong việc làm 18
- phong phú hơn những lựa chọn cho du khách ưa chuộng hình thức du lịch tâm linh. Chương 1 đã trình bày những nét khái quát về đền và tình hình khai thác lễ hội đền trong du lịch ở Việt Nam. Đưa ra nét khái quát về đối tượng được tôn thờ, những nét tiêu biểu trong đặc điểm kiến trúc xây dựng và bài trí trong đền, những đặc điểm cơ bản trong lễ hội đền của người Việt cuối cùng là sơ lược về tình hình khai thác đền và lễ hội đền phục vụ du lịch ở Việt Nam. Đó là những cơ sở lý luận nền tảng giúp cho người đọc hiểu hơn vai trò, giá trị của những ngôi đền nói chung và tác giả tiếp tục đi sâu nghiên cứu ở một địa điểm cụ thể: cụm đền và lễ hội đền ở Tràng Kênh – Minh Đức – Thủy Nguyên. 19
- CHƢƠNG 2: ĐÁM GIÁ CỤM ĐỀN VÀ LỄ HỘI ĐỀ Ở TRÀNG KÊNH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 2.1 Giới thiệu khái quát về huyện Thủy Nguyên 2.1.1 Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội 2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên a. Vị trí địa lý Huyện Thủy Nguyên là một huyện lớn nằm bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây Nam giáp huyện An Dương Hải Phòng, phía Tây Nam là cửa biển Nam Triệu. Thủy Nguyên nằm ở cửa ngõ phía bắc thành phố Hải Phòng có diện tích tự nhiên 242 km2, dân số trên 35 vạn người với 35 xã, 2 thị trấn trong đó có 6 xã miền núi. Thủy Nguyên như một hòn đảo nằm trong vòng ôm của những dòng sông, phía tây là sông Hàn, phía Bắc là sông đá Bạc, phía đông là sông Bạch Đằng, phía Nam là sông Cấm ngăn cách huyện Thủy Nguyên với quận Hải An và nội thành Hải Phòng, ngăn cách huyện với Uông Bí – Quảng Ninh là hồ sông Giá thơ mộng. Thủy Nguyên là huyện ven biển ở vào vị trí chuyển tiếp của hai vùng địa lý tự nhiên lớn là châu thổ sông Hồng và vùng đồi núi Đông Bắc. Địa hình Thủy Nguyên gồm địa hình đồng Bằng, đồi núi và trũng cửa sông ven biển. b. Khí hậu Khí hậu Thủy Nguyên mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa, do sự chi phối của gió mùa Đông Nam Á đặc biệt là không khí cực đới nên khí hậu ở đây chia làm 2 mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình là 230C, độ ẩm 82 – 85%. 2.1.1.2Điều kiện kinh tế xã hội Bên cạnh nông nghiệp thì công nghiệp được coi là thế mạnh của huyện. Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, trên địa bàn huyện có hơn 20 xí nghiệp, nhà máy, hàng trăm cơ sở sản xuất - kinh doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động đã tạo lập môi trường sản xuất - kinh doanh sôi động, cạnh tranh lành mạnh, góp phần giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, tăng nhanh giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng trên địa bàn 20
- huyện. Cùng với những thành tựu đạt được, Thuỷ Nguyên còn đón nhận nhiều dự án lớn đang được đầu tư trên địa bàn như: tuyến Quốc lộ 10 từ Bến Kiền qua cầu Đá Bạc sang Quảng Ninh; nhà máy nhiệt điện 600 MW (xã Tam Hưng); Nhà máy Xi măng Hải Phòng (thị trấn Minh Đức); mở rộng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Nam Triệu Đây sẽ là những nền tảng cơ bản cho sự phát triển của Thuỷ Nguyên trong tương lai. Trong phát triển kinh tế, Thủy Nguyên có tiềm năng lớn về phát triển ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển, khai thác, chế biển, sản xuất vật liệu xây dựng, nhiệt điện, phát triển đô thị hiện đại và dịch vụ thương mại, dịch vụ, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Là một trong những địa bàn được đầu tư lớn về phát triển hệ thống giao thông và dự án công nghiệp quan trọng. Huyện Thủy Nguyên là nơi hội tụ các điều kiện của vùng kinh tế động lực. Việc xây dựng và phát triển huyện Thủy Nguyên có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ với sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương khác. Thủy Nguyên ngày càng phát triển và từng bước thay da đổi thịt nhờ những chính sách đổi mới phù hợp với đội ngũ lãnh đạo năng động dám nghĩ dám làm. Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa thông tin, thể dục thể thao từng bước được xã hội hóa phát triển khá nhanh cả về quy mô, chất lượng đạt nhiều thành tựu xuất sắc. Với sự cố gắng của các cấp các ngành, tình hình kinh tế - xã hội Thủy Nguyên vẫn ổn định và tiếp tục phát triển đạt được các chỉ tiêu nhiệm vụ đề ra. Với tất cả những chính sách và đường nối đúng đắn Thủy Nguyên hôm nay giống như một bức tranh đa sắc làm cho những ai đã từng đến rồi quay lại với Thủy Nguyên hay đặc biệt là những người con xa quê lâu ngày trở về không khỏi ngỡ ngàng trước sự thay da đổi thịt của vùng đất này. Sự phát triển không ngừng của những khu công nghiệp như Auroza, Nomoza và mới đây nhất là khu công nghiệp viship đã cho thấy sự trưởng thành của một huyện giàu tiềm năng. 21
- Tất cả những thế mạnh kinh tế đó tạo ra cho Thủy Nguyên một tiền đề và động lực cho ngành du lịch trong việc đầu tư tôn tạo và duy tu các điểm di tích, cải thiện cơ sở vật chất kĩ thuật, bộ mặt huyện sẽ đẹp hơn trong con mắt của bạn bè khi đến Thủy Nguyên và đó cũng là cơ sở cho hoạt động du lịch phát triển trên mảnh đất này. 2.1.2 Tài nguyên du lịch 2.1.2.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên Thủy Nguyên là huyện thuộc miền duyên hải hải phòng, được bao bọc bới các con sông Đá Bạc, sông Bạch Đằng, sông Cấm. Ở ngang huyện có hồ sông Giá thơ mộng bốn mùa nước trong xanh với trữ lượng nước trên 3 triệu m3. Hồ sông Giá là niệm tự hào của huyện Thủy Nguyên, ở đây có hệ thông nước từ thượng nguồn xuống hạ nguồn và đổ ra biển. Nơi đây đã trở thành một trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng, hoạt động thể thao và giải trí lớn của huyện Thủy Nguyên. Thủy Nguyên có cấu trúc địa hình phức tạp, ở vào vị trí chuyển tiếp của hai vùng tự nhiên đồng bằng sông Hồng và vùng núi Đông Bắc tạo cho Thủy Nguyên sự đa dạng về cảnh quan. b. Địa hình địa mạo Địa hình địa mạo của huyện rất phong phú và đa dạng. Nét cơ bản của địa hình Thủy Nguyên là hai cấu trúc chính: phức nếp lồi Hạ Long và phức nếp lõm Hải Phòng. Ranh giới giữa cấu trúc này là đứt gãy sông Giá. Dạng thứ nhất: địa hình đồi núi ở phía Bắc huyện. Gồm địa hình núi đá vôi, đồi núi đát chạy từ An Sơn qua xã Lại Xuân, Liên Khê, Lưu Kiếm, Minh Tân, Gia Minh, Gia Đức, và Minh Đức. Núi đa vôi thấp cắt xẻ mạnh. Ở phía BẮc Thỷ Nguyênđộ cao các đỉnh thấp hơn so với Cát Bà, nhiều đỉnh thì cao vài chục mét nhưng đặc điểm hình thái vẫn có dạng sắc nét như Cát Bà nhưung các chỉ sốkhác về độ dốc và độ sâu chia cắt giảm hơn. Sự có mặt của kiều địa hình đặc sắc này giúp tạo điều kiện cho việc thu hút khách. Địa hình hang động: Trong quá trình hoạt động của vỏ trái đất đã ban tặng cho Thủy Nguyên một địa hình karst trên cạn với nhiều hang động hấp dẫn và kì 22
- vĩ, nhiều hang động hiện nay vẫn còn giữ được vẻ hoang sơ, có các hang nổi như hang Lương, hang Vua, hang Ma, hang Vải, Các hang động của Thủy Nguyên phần lớn đều nằm ở phía bắc huyện. Hầu hết các hang đều có độ dài dưới 200m, các hang có dộ dài lớn nhất không quá 500m. Vị trí cửa hang thường tập trung ở mức 4 – 6m, 15 – 20m, hoặc 30m, chiều rộng từ 5 – 10m và cao 10 – 18m. Các hang ở Thủy Nguyên không lớn nhưng lại rất đẹp vào có nhiều thạch nhũ đặc biệt có ý nghĩa đối với quá trình chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Bởi vậy đây được coi là một tài nguyên du lịch hấp dẫn của huyện. b. Khí hậu Khí hậu Thủy Nguyên mang tính chất nhiệt đới nóng ẩm gió mùa do sự chi phối của hoàn lưu gió mùa đông Nam , đặc biệt là không khí cực đới nên khí hậu ở đây chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều kéo dài từ tháng đến tháng 9, mùa đông lạnh từ tháng 11 đến tháng 3. Khí hậu Thủy Nguyên chi phối bởi khí hậu của biển làm giảm bớt nhiệt độ độ ẩm. Khí hậu thường xuyên biến động bởi yếu tố nhiệt độ trong mùa đông và yếu tố mưa trong mùa hạ. Lượng mưa trung bình năm của huyện là 162mm. c) Thủy văn Thủy Nguyên có mạng lưới sông ngòi dày đặc bao quanh khiến Thủy Nguyên giống như một ốc đảo. Thủy Nguyên là hạ lưu sông ven biển, nước mặn từ biển xâm nhập vào làm cho hàm lượng muối Natriclỏa khá lớn trong nước sông. Độ khoáng ở đây thay đổi theo mùa, mùa lũ thấp hơn so với mùa cạn. Nước ngầm: ở thủy Nguyên ngoài nguồn nước mặt dồi dào còn có nguồn nước ngầm khá phong phú, là điều kiện tốt góp phần cho việc giải quyết nước cấp cho đô thị. d. Tài nguyên đất Đất phù sa nâu xám nhạt có ở Lại Xuân có khả năng trồng lúa và hoa màu. Đất phù sa thường có ở Mỹ Đồng. Đất đồi núi và thung lúng phân bố ở An Sơn, Phù Ninh, Quảng Thanh, Chính Mỹ, Kêng Giang, Lưu Kiếm, Minh Tân, Ngũ Lãocó khả năng trông lúa và hoa màu. Đất cát ven sông ven biển nằm ở các xã 23
- dọc các dòng sông. Đất chua mặn ở phía nam huyện đất này phân bố ở ven sông, ven biển cần cải tạo. e. Tài nguyên động thực vật Thực vật: Thủy Nguyên có khí hậu nhiệt đới gió mùa bị chi phối mạnh bởi khí hậu của biển nên thực vật xanh tốt và sinh trưởng mạnh mẽ quanh năm. Cùng với tính chất đa dạng của các kiểu thực bi và phong phú về nguồn gen Động vật: cho tới nay vùng đất Thủy Nguyên đã không còn những động vật hoang dã. Đó là hậu quả của một quá trình khai phá rừng hoang để mở rộng địa bàn cư trú và sản xuất của con người. Tuy nhiên vẫn còn một số động vật tồn tại và phát triển trên địa bàn Thủy Nguyên thường gặp ở các núi đá như: rắn, dê, tắc kè và các loài chim hiện nay Thủy nguyên đang có kế hoạch phủ xanh đồi trọc, trồng các loại cây có ích và thả các động vật hoang dã để cân bằng môi trường sinh thái. Trong tương lai có thể quy hoạch nơi đây thành một khu bảo tồn thiên nhiên. Từ đó có thể thấy tài nguyên du lịch tự nhiên của huyện Thủy Nguyên khá phong phú và đa dạng từ nguồn nước, tài nguyên đất, tài nguyên động thực vật Với sự phong phú về tài nguyên, Thủy Nguyên có khả năng phát triển nhiều loại hình du lịch như sinh thái, thể thao, nghỉ dưỡng, thăm quan, thắng cảnh và du lịch cuối tuần. Nếu được đầu tư đúng hướng trong tương tương lai không xa đây sẽ trở thành nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên quan trọng cho sự phát triển của du lịch Thủy Nguyên đặc biệt phù hợp với loại hình du lịch leo núi, du lịch sinh thái. 2.1.2.2Tài nguyên du lịch nhân văn a. Di tích lịch sử văn hóa Thủy Nguyên vốn là một vùng đất anh hùng trong kháng chiến và có bề dày lịch sử nên ở nơi đây hiện còn lưu giữ và là mảnh đất của những di tích lịch sử khá nổi tiếng của thành phố cũng như quốc gia. Hiện huyện có 147 di tích lịch sử văn hóa trong đó có 28 di tích lịch sử được cấp hạng thành phố và 23 di tích cấp hạng di tích cấp quốc gia: đình Kiền Bái, đền thờ Trần Quốc Bảo Và nơi đây cũng là quê hương của nhiều cảnh quan đẹp hấp dẫn phục vụ phát triển 24
- du lịch như hồ sông Giá, sân golf sông Giá, quần thể di tích danh thắng Tràng Kênh. b. Các loại hình văn hóa nghệ thuật Thủy Nguyên có khá nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian đặc sắc có giá trị cao như hát chèo, hát Chầu văn, hát Ca trù, đặc biệt là hát Đúm (Loại hình di sản văn hóa phi vật thể độc đáo và tiêu biểu nhất của huyện Thủy Nguyên) . c. Các làng nghề truyền thống Là nơi tập trung của nhiều làng nghề thủ công truyền thống có sức hút khách du lịch như làng nghề đúc đồng (xã Mĩ Đồng), làng cau (xã Cao Nhân), làng hương (xã Kiền Bái). d. Các lễ hội Thủy Nguyên còn là miền đất có nhiều lễ hội dân gian đặc sắc: lễ hội các xã Phù Ninh, Hợp Thành, Hoa Động, Mỹ Đồng, Thủy Triều, Kênh Giang, Hoàng Động, Đông Sơn, thị trấn Núi Đèo, lễ hội miếu Trang Vi, Lễ giỗ Ca Công (xã Hòa Binh), lễ hội các xã Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ, Ngũ Lão, Tân Dương, Gia Đức, thị trấn Núi Đèo, Minh Đức 2.2 Giới thiệu về thị trấn Minh Đức – Thủy Nguyên Thị trấn Minh Đức là thị trấn công nghiệp nằm về phía đông bắc huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Tổng diện tích đất tự nhiên theo địa giới hành chính là 1381,43 ha; có trên 3000 hộ dân với 13.650 nhân khẩu, có nhiều cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn. Với vị trí địa lý quan trọng, giao thông thuỷ bộ thuận lợi, địa hình địa mạo đa dạng, có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội toàn diện, là một trong những khu công nghiệp, dịch vụ trọng điểm của huyện và thành phố. Đặc biệt thị trấn còn có vị trí quan trọng trong chiến lược phòng thủ quốc phòng an ninh. Sự thuận lợi của vị trí địa lý cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhanh đã có tác động lớn đến công tác quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên đất trên địa bàn thị trấn . 25
- Thị trấn Minh Đức gồm 12 tổ dân phố: Phượng Hoàng, Hoàng Long, Hoàng Tôn, Quyết Thành, Thắng lợi, Chiến Thắng, Quyết Hùng, Quyết Tâm, Quyết Tiến, Quyết Thắng, Đà Nẵng, Bạch Đằng. 2.3 Khái quát về cụm di tích Tràng Kênh Nhiều người cho rằng đến Thủy Nguyên mà không ghé thăm Tràng kênh thì cũng coi như chưa đến Thủy Nguyên. Tràng Kênh có núi U Bò Có sông Quán Đá có đò sang ngang Cụm di tích Tràng Kênh thuộc thôn Tràng Kênh thị trấn Minh Đức – huyện Thủy Nguyên - Thành phố Hải Phòng đã tồn tại theo dòng lịch sử Việt Nam từ 4000 ngàn năm nay, nơi đây có bề dày lịch sử văn hoá, đồng thời đây còn là danh thắng với cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ do hệ thống núi đá vôi và sông ngòi tạo thành. Tràng Kênh, vùng đất cổ được biết đến qua di chỉ khảo cổ học nổi tiếng, hiện còn bảo lưu trong lòng đất. Theo các nhà nghiên cứu, Tràng Kênh là một di chỉ khảo cổ học, một công xưởng chế tác đồ trang sức bằng đá lớn nhất vùng Đông Bắc Tổ quốc, có niên đại cách ngày nay gần 4000 năm, thuộc sơ kỳ đại kim khí. Từ buổi khai sơn, phá thạch, tạo dựng cuộc sống, người Tràng Kênh với bàn tay khéo léo đã chế tác ra những đồ trang sức bằng đá tinh xảo, với những vòng tay, hoa tai, chuỗi hạt đa dạng, phong phú, đầy màu sắc.Thông qua các cuộc khai quật và nghiên cứu, các nhà khảo cổ học đã kết luật rằng: Tràng Kênh cách đây gần 4000 năm đã thực sự là một công xưởng chế tác đồ đá có quy mô lớn, sản phẩm của nó không chỉ được trao đổi ở nội địa, mà còn vượt biển tới các nước Đông Bắc Á và Đông Nam . Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, Tràng Kênh - Bạch Đằng là một địa danh trọng yếu trong tuyến phòng ngự bảo vệ cửa Đông tổ quốc. Theo các nguồn sử liệu, mảnh đất này xưa vốn là xã Tràng Kênh, tổng Dưỡng Động, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên. Vào năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền đã vùi chôn tham vọng xâm lăng của đại quân Nam Hán. Năm 981, vua Lê Đại Hành đã chiến thắng giặc Tống trên sông Bạch Đằng. Năm 1288, nơi 26
- đây Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo đã lãnh đạo nhấn chìm toàn bộ đạo thủy binh của đế quốc Nguyên - Mông trên con đường bành trướng xuống phương Nam. Với các địa danh đã đi vào sử sách dân tộc như núi U Bò, Hoàng Tôn, Phượng Hoàng hay cửa Bạch Đằng, nơi hợp lưu của 3 con sông đổ về, cùng các dấu tích về những trận địa cọc hay những địa danh như Áng Hồ, Áng Lác cho biết vùng đất này đã ghi dấu về một chiến trường do quân và dân triều Trần bày trận đón đánh quân thù. Những chiến công đó đã minh chứng cho trí tuệ Việt Nam, biết nắm vững và lợi dụng tài tình địa thế và chế độ thủy triều để bày ra trận địa cọc lim chủ động chờ đón địch để đưa đến thắng lợi hoàn toàn. Dấu ấn của chiến thắng là các địa danh đã đi vào sử sách như núi U Bò, Hoàng Tôn, Phượng Hoàng, các dấu tích về những trận địa cọc hay những địa danh như Áng Hồ, Áng Lác Tràng Kênh Bạch Đằng, một địa danh lịch sử từ lâu đã đi vào tiềm thức của người dân thành phố Hải Phòng như một ký ức không thể nào quên về chiến công vĩ đại chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cách đây trên 7 thế kỷ. Cùng với nhiều di sản mang những nội dung lịch sử văn hoá có giá trị, Tràng Kênh vùng đất thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh năm 1962 2.4 Các ngôi đền ở Tràng Kênh – Minh Đức Tràng kênh – Minh Đức là vùng đất lịch sử gắn với bao di tích vẫn còn sống mãi với thời gian và những thắng cảnh làm bao người say lòng: cũ có, mới có nhưng những giá trị và ý nghĩa của những di tích, những thắng cảnh này là không thể phủ nhận. Đầu tiên phải kể đến quần thể di tích và thắng cảnh Tràng Kênh tiêu biểu với đền thờ Đức Vua Lê Đại Hành, đền thờ Đức Thánh Trần và đền thờ Đức Vương Ngô Quyền – những người mà tên tuổi đã lưu danh sử sách muôn đời về tâm, về tài và những đóng góp lớn lao cho lịch sử, cho hòa bình và độc lập dân tộc. Ba ngôi đền cùng với ngôi chùa Tràng Kênh Trúc Lâm nằm trong một khuôn viên rộng lớn hướng mặt ra sông Bạch Đằng, lưng tựa vào núi đá Tràng Kênh được bao quanh bởi không gian ngập tràn màu xanh của bàng, 27
- của những vườn thông, của những cây đa cây đề, khoác lên mình màu trắng sữa của những bông hoa đại phảng phất tỏa hương giữa không gian xanh mát, rồi màu đỏ của những bông phượng vốn là biểu tượng tự hào của người dân Hải Phòng. Thực sự là cảnh sắc “sơn thủy hữu tình”! Ngay từ những bước chân đầu tiên khi đi qua cổng chính cụm di tích này sẽ đưa chúng ta đến với một hành chính khám phá vô cùng thú vị. Đầu tiên là hình ảnh của cột đá lớn với dòng chữ “giang sơn vượng khí Bạch Đằng thâu” (hồn thiêng sông núi tụ hội nơi sông Bạch Đằng). Càng vào sâu, càng khám phá du khách sẽ càng thấy thú vị. Ngôi đền đầu tiền mà các bạn được chiêm ngưỡng và dâng hương là đền thờ đức vua Lê Đại Hành với những đường nét kiến trúc và thiết kế cảnh quan mang lại cho người ta cảm giác giống như một ngôi đền cổ. Dọc theo con đường lát gạch đỏ với những hàng cây xanh ngắt một bên là dòng sông Bạc Đằng lịch sử, một bên là núi đá Tràng Kênh hùng vĩ các bạn sẽ đến tiếp với ngôi đền thứ 2 đó là đền thờ Đức Thánh Trần. Sau khi đã tham quan xong ngôi đền thờ danh tướng của dân tộc tiếp tục hành trình trên những viên gạch đỏ rẽ theo con đường với những cây bàng nhỏ phân cách sẽ đưa chúng ta đến với ngôi đền thờ vị tổ trùng hưng của nước Việt đó là đền thờ đức Vương Ngô Quyền. Bước vào quần thể di tích chúng ta có cảm giác như lạc vào một khu rừng xanh trong chuyện cổ tích thấp thoáng hình ảnh của những tòa lâu đài chính là những ngôi đền uy nghi tráng lệ. Dọc đường đi là những chiếc ghế đã được đặt bên những tán cây xanh là nơi mà du khách có thể ngồi nghỉ nếu thấy mỏi chân hay có thể từ từ thưởng thức không gian nơi đây và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những ngôi đền. Một không gian sạch đẹp, trong lành, thoang thoảng mùi hương khói, dìu dịu mùi hoa cỏ, man mát mùi của những chiếc lá non, gió từ dòng sông Bạch Đằng thổi vào nhè nhẹ, từng người từng đoàn khách thành kính dâng hương khấn nguyện trong những ngôi đền tất cả như một bức tranh vô cùng đẹp, vô cùng hấp dẫn. Ba ngôi đền này mặc dù thờ những đối tượng khác nhau nhưng chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy những nét tương đồng trong thiết kế và kiến trúc bên cạnh những nét riêng nhất định của mỗi đền, tất cả tạo nên một quần thể kiến trúc đẹp, hài hòa nhất quán Với những ý nghĩa lịch sử và đóng góp 28
- lớn lao của những đối tượng được tôn thờ nơi đây khiến cho những ngôi đền này tuy chưa có tuổi nhưng lại vô cùng có ý nghĩa và giá trị. Tiếp đến không thể bỏ qua ngôi đền cổ nằm khiêm nhường dưới chân núi đá Hoàng Tôn – nơi thờ vị tướng tài trẻ tuổi đã có công lớn trong trận chiến Bạch Đằng năm 1288 – tướng quân Trần Quốc Bảo. Ngôi Đền đã được xây dựng từ rất lâu, tồn tại cùng bao biến cố và thăng trầm cùng trầm cùng thời gian đến nay vẫn giữ nguyên những nét cổ nhất, u tịch, trang nghiêm vốn có của những ngôi đền cổ. Bao đời nay ngôi đền là nơi sinh hoạt cộng đồng của người dân vùng núi đá Tràng Kênh, là nơi để họ gửi gắm những khấn nguyện trong cuộc sống đời thường: cầu công danh sự nghiệp, cầu học hành đỗ đạt, cầu tự, cầu sản xuất thuận lợi Ngôi đền không lớn nhưng đây là điểm nhấn, là niềm tự hào bao đời của người dân vùng Tràng kênh – Minh Đức. Cụm đền ở Tràng Kênh – Minh Đức được xây dựng tại những thời điểm khác nhau tuy nhiên có một điểm chung lớn nhất ở những ngôi đền này đó chính là các ngôi đền được xây dựng để tưởng nhớ công đức của những con người đã có công lớn trong các trận chiến oanh liệt trên dòng sông Bạch Đằng lịch sử làm nên những trang sử vàng vẻ vang của dân tộc Việt. 2.4.1 Đền thờ Đức Thánh Trần Nằm trong quần thể di tích và danh thắng Tràng Kênh đền thờ Hưng Đạo Vương được khởi công xây dựng ngày mùng 9/9 năm 2008. Ngôi đền có khuôn viên khoảng 20.000m2. Đền được xây dựng để tưởng nhớ công lao của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và tri ân quan quân tướng sĩ đã hi sinh vì dân vì nước. Hưng Đạo Vương là người có công lớn quyết định đến thắng lời của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 3. Ông là một vị tướng tài ba, một danh nhân văn hóa kiệt xuất với những đóng góp lớn lao cho dân tộc. Đền thờ để tưởng nhớ công đức của ông có mặt ở nhiều nơi trên cả nước. Và tại mảnh đất Tràng Kênh - Minh Đức – Thủy Nguyên ông đã từng lãnh đạo quan quân nhà Trần anh dũng chiến đấu và thắng lợi đoàn quân hung hăng của đế chế Mông Nguyên giúp đánh tan âm mưa xâm chiếm Việt Nam của đế chế này. Để 29
- tưởng nhớ công lao to lớn đó người dân Thủy Nguyên nói chung và người dân Tràng Kênh – Minh Đức nói riêng cũng đã lập ngôi đền. Khi đến với ngôi đền này và được gặp gỡ trò chuyện với người thủ từ ở đây tôi không khỏi bất ngờ với câu chuyện thú vị về ngôi đền này. Theo vị thủ từ “trước đây vùng đất Tràng Kênh vốn không có dân cư sinh sống mà chỉ có những người làm nghề thuyền chài đánh cá. Hàng ngày họ thắp nhang cầu nguyện tại một ngôi miếu nhỏ để mong cho một cuộc sống ấm no, ổn định trong công việc. Tuy nhiên họ không hề biết lực lượng, vị thần nào đang phù hộ cho họ. Trải qua nhiều thế hệ người ta cũng không hỏi đến cũng chẳng ai hay ngôi miếu đó thờ ai chỉ biết rằng đó là một nơi rất linh thiêng. Cũng từ sự linh thiêng đó mà có câu chuyện khá li kì về sự hình thành của ngôi đền khang trang như ngày nay mà chúng ta thấy. Năm 1997 khi mà dự án chuyến nhà máy xi măng Hải Phòng từ Hồng Bàng về vùng núi đá Tràng Kênh thuộc thì trấn Minh Đức thì ngay từ khi bắt đầu thì người ta đã đến dâng hương tại ngôi đền nhỏ đó. Cho đến năm 2004 toàn bộ dự thảo hạng mục công trình hoàn tất và cũng vào thời điểm đó nhà máy tiếp nhận giám đốc mới là ông Lê Văn Thành lên nắm quyền quản lý nhà máy. Cùng với thời gian xây dựng nhà máy thì ngôi miếu nhỏ đó cũng được tu sửa ngày càng khang trang và đẹp đẽ. Cũng có thể là do tâm linh nhưng người ta rất ngạc nhiên về sự thuận lợi của toàn bộ quá trình thi công nhà máy. Không hề có một trở ngại nào. Ông Lê Văn Thành thấy làm lạ và quyết tâm tìm hiểu về sự linh thiêng đó. Có lẽ là duyên số nên vào dịp đó ông Thành đã liên lạc được với nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng. Bà đã về khu di tích Tràng Kênh và đến nơi có đặt ngôi miếu nhỏ đó, bà cho hay đây vốn là vùng đất thiêng, vào cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ 3 đây là trung tâm của trận đánh oanh liệt đó. Nơi đây Trần Hưng Đạo đã từng sáng suốt lãnh đạo quân dân ta chiến đấu và đây cũng là nơi nằm xuống của biết bao quan quân tướng sĩ nhà Trần cũng như là nơi tử nạn của binh sĩ phía địch. Từ ý nghĩa lịch sử đó ông muốn được dựng một ngôi đền để thờ vị danh tướng Trần Hưng Đạo. Sau những chuyến hành hương với quê hương Nam Định và những nơi có di tích thờ cúng ông để thực hiện nguyện vọng lớn lao của 30
- mình. Sau ba năm thành tâm ông đã nhận được tin mừng từ phía bà Phan Bích Hằng đó là Hưng Đạo Vương đã hiển linh về đồng ý cho dựng đền. Ngay sau khi nhận được tin vào ngày 5/9/2008 thì dự án được chính thức bắt đầu và ngày 9/9/2008 công trình được khởi công xây dựng. Chỉ trong vòng 99 ngày với sự góp sức của 200 thợ xây dựng thì công trình đã được hoàn tất vô cùng suôn sẻ. Đá dùng để xây dựng đền được chuyển từ Ninh Bình ra. Toàn bộ kiến trúc và thiết kế của ngôi đền hoàn toàn được làm theo như sự sắp đặt của thánh nhân chứ không hề có sự can thiệp của các kiến trúc sư. Ngôi đền hướng ra dòng sông Bạch Đằng lịch sử với tam quan cao 10m được đục đẽo từ đá liền khối với những đường nét tinh xảo mềm mại thiết kế theo kiểu kiến trúc 3 tầng mái chồng diêm, phía trên ba tầng mái là hình ảnh lưỡng long triều nhật vốn là thiết kế rất quen thuộc trong kiến trúc đền của người Việt. Bên trên hai cửa phụ có ghi năm xây dựng đền (Mậu tý – 2008). Trên bốn cột đá của cửa tả và cử hữu có chạm nổi hình ảnh hoa văn tứ quý (tùng – cúc – trúc – mai) rất tinh tế. Qua nghi môn chúng ta sẽ đến với sân tế lễ có diện tích 300m2. Tiếp đó qua 5 bậc thềm sẽ đưa ta vào với chính điện của ngôi đền. Hình ảnh tiếp theo mà chúng ta bắt gặp là hình ảnh của những chiếc cửa được làm hoàn toàn bằng gỗ lim có chạm nổi họa tiết hoa văn. Bước vào bên trong ngôi đền ta sẽ thấy một không gian thờ tự trang nghiêm thành kính. Ngôi đền làm bằng gỗ thơm tỏa hương ngào ngạt khắp các gian thờ, với những trang trí sơn son thiếp vàng khiến cho ngôi đền toát lên vẻ đẹp, sư linh thiêng trang nghiêm như chính vị thánh nhân được thờ ở đó. Đền thiết kế theo kiểu chữ Đinh gồm các khu: cung cấm thờ tượng đồng của ngài và cộng đồng gia tiên, trung đường thờ quan quân tướng sĩ, bên tả thờ chi vị quan văn, bên hữu thờ chư vị quan võ, hai bên trung đường có đặt hàng chấp kích để thể hiện uy quyền. Gian thờ ngoài cùng thờ công đồng các quan. Trên ban thờ có đặt các bức tượng của quan văn – quan võ, tiếp đến là lư đồng và bát hương. Hai bên ban thờ là hình ảnh rùa đội hạc ngậm hoa sen. Bên trên ban thờ chính là bức đại tự khắc 4 chữ “Sơn Thủy lưu đức” (ơn đức lưu truyền cùng sông núi), bên tả là bức đại tự với 31
- 4 chữ “chí tráng sơn hà”, bên hữu bức đại tự ghi “tinh minh trụ vu”. Tất cả đều nói lên ơn đức lớn lao của Đức Thánh Trần với dân tộc Việt Công trình cùng với cảnh quan khác của vùng núi đá Tràng Kênh – sông Bạch Đằng lịch sử đã tạo thành một quần thể bề thế xứng đáng là nơi tâm linh để nhân dân cả nước thờ phụng, nơi tưởng niệm đức thánh Trần – người anh hùng dân tộc Việt Nam và là một trong 10 danh tướng của thế giới. 2.4.2 Đền thờ đức vua Lê Đại Hành Nằm trong quần thể di tích và danh thắng Tràng Kênh đền thờ đức vua Lê Đại Hành được xây dựng để tưởng nhớ công đức của Lê Đại Hành và các tướng sĩ đã có công trong việc lãnh đạo và anh dũng chiến đấu đẩy lúi quân Đại Tống phương Bắc. Đền thờ đức vua Lê Đại Hành gắn với chiến thắng oanh liệt năm 981. Ngôi đền được khởi công xây dựng vào năm 2009. Nói về nguồn gốc của ngôi đền thì nó cũng gắn với một câu chuyện tâm linh khá là lý thú. Truyện kể rằng vào khoảng thời gian trước năm 2009 thì đội tuyển bóng đá của nhà máy xi măng Hải Phòng đá trận nào cũng thất bại và đội bóng cảm thấy rất là thất vọng. Nghe nói ngôi đền Tràng Kênh nổi tiếng linh thiêng nên đội bóng này đã đến đền dâng hương để cầu xin may mắn. Có điều trùng hợp đó là vào dịp đó thì đoàn tâm linh của cậu Liên cũng về với khu di tích để dâng hương. Và khi đi qua gốc đa nơi mà ngày nay có đền của đức vua Lê Đại Hành thì cậu Liên thấy có bóng của ai đó đứng mãi không rời. Khi được hỏi thì người đó tự xưng là đức vua Lê Đại Hành. Ông nói đã ở đó lâu lắm rồi nhưng không ai biết đến cũng không hề thờ tự. Nay đội bóng muốn thắng trận thì phải lập đền thờ. Câu chuyện tưởng chừng như khá là phi lý đó nhưng đội bóng lại tin tưởng và lập môt một ngôi miếu nhỏ để thờ trước khi xây dựng ngôi đền khang trang như ngày nay. Công ty cổ phần Trung Thủy, các doanh nghiệp, cán bộ công nhân viên chức xi măng Hải Phòng cùng với nhân dân thập phương đã phát tâm công đức xây dựng đền thờ Đức Vua Lê Đại Hành. Sau đó vào tháng 6/2009 ngôi đền được khởi công xây dựng. Một điều khá là đặc biệt đó là khi người ta tiến hành xẻ núi để làm đền đất đá rơi rớt và người ta chỉ dùng 1 cái ô để che cái miếu nhưng không hề có vật gì rơi vào ngôi miếu đó. Và cũng từ 32
- khi dựng ngôi đền thì đội bóng xi măng Hải Phòng đá trận nào thắng trận đó. Chẳng biết là may mắn hay trùng hợp ngẫu nhiêu nữa nhưng ai nấy đều lấy làm lạ về những chiến tích đó. Ngôi đền xây dựng vỏn vẹn trong vòng 3 tháng thì hoàn thành. Cũng kể từ câu chuyện đó mà người ta thêm tin tưởng vào sự linh thiêng của ngôi đền này. Đền được xây dựng bằng gỗ lim, thiết kế theo kiểu chức Đinh. Gồm các khu: bên trong là cung cấm có đặt tượng đồng của Đức Vua cao 1,76m, nặng 1,2 tấn, một bên thờ thái hậu Dương Vân Nga, một bên thờ cung phủ vương mẫu; trung đường thờ quan quân tướng sĩ, bên hữu thờ chư vị quan văn, bên tả thờ chư vị quan võ. Trên ban thờ có đặt lư hương và bát hương lớn, biểu tưởng của những búp sen bông sen vàng lấp lánh làm tăng sự lộng lẫy cho gian thờ. Hai phía ngoài của gian trung đường là hình ảnh của giàn chấp kích. Gian ngoài cùng là nơi đặt những vật lễ của những vị khách có tâm hay người dân trong làng. Hai bên của gian thờ là hình ảnh rùa đội hạc ngậm bông sen. Phía trước đền là sân tế lễ rộng 300m2. Cổng đền được thiết kế theo kiểu cổng cung đình bằng đá xanh nguyên khối cao 10m với các đường nét chạm khắc tinh xảo. Phía trên tứ trụ là hình ảnh của những búp sen vươn lên giống như người dân Việt luôn ngẩng cao đầu chẳng hề khuất phục, phía dưới là hình ảnh của những con rồng uốn lượn quấn lấy những cột đá. Trên mỗi cột đá là hình ảnh của những chú sư tử nằm phục và hai bên cổng đền là hình ảnh của hai chú voi lớn nằm hai bên như muốn canh giữ cho đức vua được yên nghỉ đời đời kiếp kiếp. Bao quanh đền là những bức tường đá thấp với những chiếc cột nhỏ đục đẽo hình ảnh của thân trúc thân tre rất đẹp mắt. Đền thờ đức vua Lê Đại Hành trong quần thể khu di tích và danh thắng Tràng Kênh là ngôi đền đầu tiên mà chúng ta sẽ được chiêm bái khi bước vào quần thể di tích và thắng cảnh Tràng Kênh với cảnh quan khá đẹp được tạo bởi những cây xanh và phía trước đền là hình ảnh của dòng sông Bạch Đằng anh dũng tạo cho du khách một cảm giác vừa linh thiêng vừa rất thoải mái “sơn thủy hữu tình” khi bắt đầu hành trình khám phá quần thể di tích Tràng Kênh. 33
- 2.4.3 Đền thờ đức vua Ngô Quyền Cũng nằm trong khu di tích và danh thắng Tràng Kênh đền thờ Đức Vương Ngô Quyền được xây dựng để tưởng nhớ công đức to lớn làm nên chiến thắng Bạch Đằng nổi tiếng năm 938 kết thúc hơn 1117 năm bắc thuộc mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do cho dân tộc ta. Ngô Quyền là cái tên giúp chúng ta nhớ đến trận Thủy chiến oanh liệt giúp đánh tan quân Nam Hán, ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam, là vị "vua đứng đầu các vua", là vị Tổ trung hưng của Việt Nam. Đây là ngôi đền được xây dựng và hoàn thành muộn nhất trong số ba ngôi đền thuộc quần thể di tích và danh thắng Tràng Kênh nằm dưới chân núi U Bò. Tại dòng sông Bạch đằng lịch sử cách đây hơn 1000 năm về trước đức vương Ngô Quyền và quân dân ta đã lập nên những chiến công hiển hách giữ vững nền độc lập dân tộc. Để tưởng nhớ đến công lao của đức vương Ngô Quyền và tri ân các quan quân tướng sĩ đã hi sinh vì nước vì dân. Các doanh nghiệp và nhân dân địa bàn Thủy Nguyên đã khởi công xây dựng đền thờ đức vương Ngô Quyền. Ngôi đền được khởi công xây dựng vào tháng 5/2010 và sau hơn năm tháng thi công thì đến tháng 10/2010 ngôi đền đã được khánh thành và trở thành nơi để tưởng nhớ công lao to lớn của Ngô Quyền đối với mỗi người dân Thủy Nguyên nói chung cũng như người Hải Phòng và bạn bè cả nước. Ngôi đền tọa lạc tại ngã ba sông Bạch Đằng bên dãy núi đá Tràng Kênh lịch sử. Có thể nói ngôi đền là điểm nhấn về kiến trúc và thiết kế trong quần thể khu di tích và danh thắng Tràng Kênh. Hình ảnh đầu tiên mà chúng ta bắt gặp khi đến với ngôi đền đó chính là hình ảnh của cổng ngũ môn vô cùng hoành tráng được là hoàn toàn bằng đá xanh nguyên khối được chạm khắc hoa văn của cây trúc cây mai vô cùng tinh tế, trên các trụ đá là các câu đối nói về công đức của Ngô Quyền – vị tổ trùng hưng của dân tộc. Chồng lên phía trên các cột đá là hình ảnh chạm khắc chim phượng uốn lượn tạo nên nét mềm mại nhưng cũng vô cùng bề thế của chiếc cổng ngũ môn. Phía trên ngũ môn chúng ta sẽ thấy thiết kế kiến trúc theo kiểu hai tầng mái xếp chồng được tạo dáng như những chiếc thuyền cách điệu với bốn góc là hình ảnh bốn đầu rồng quay đầu vào nhau, trên 34
- hai tầng mái lại là hình ảnh lưỡng long chầu nhật vô cùng quen thuộc trong kiến trúc đền của người Việt. Qua ngũ môn chúng ta sẽ đến với sân tế lễ có diện tích 1000m2. Đáng chú ý khi vào với sân tế lễ chúng ta sẽ bắt gặp hình ảnh của hai chú voi phục khá lớn nằm hai bên tả hữu của sân tế lễ được làm hoàn toàn bằng đá ong được chuyển từ làng cổ Đường Lâm vốn là quê hương của Ngô Quyền. Hai chú voi nằm phục làm cho không gian của ngôi đền trở nên trang nghiêm hơn. Việc tạo hình chú voi từ những nguyên liệu chuyển từ quê hương của Đức Vương cũng thể hiện sự tận tâm và tri ân của những người đã làm nên ngôi đền cũng như dân chúng vùng Tràng Kênh – Minh Đức với công đức của Ngài. Từ sân tế lễ nhìn lên mái đền xuất hiện trước mắt chúng ta là hình ảnh của những góc mái cong cong hình mũi hài và hình ảnh rồng phượng quấn quýt chụm đầu vào nhau. Đỉnh mái lại là hình ảnh hai chú rồng chầu trước mặt trời thể hiện rõ triết lý âm dương trong quan niệm của người Việt. Bước qua năm bậc thềm chúng ta sẽ đến với cửa đền được làm hoàn toàn bằng gỗ lim chạm khắc hình ảnh của tứ quý “tùng – cúc – trúc – mai”, qua cửa đền chúng ta sẽ bước vào các gian thờ chính của đền. Cũng như 2 ngôi đền thờ đức vua Lê Đại Hành và Đức thánh Trần đền thờ đức Vương Ngô Quyền cũng được thiết kế theo hình chữ Đinh gồm các khu: cung cấm thờ tượng đồng của Ngài, trung đường thờ quan quân tướng sĩ, bên tả thờ chư vị quan văn, bên hữu thờ chư vị quan võ. Ban thờ được sắp xếp khá giống với hai ban thờ ở hai ngôi đền thờ Đức Thánh Trần và Đức Vua lê Đại Hành: cũng gồm có lư đồng, bát hương, những bông sen vàng, hai phía của gian trung đường à hai hàng chấp kích, hai phía của gian thờ ngoài cùng là hình ảnh rùa đội hạc ngậm bông sen. Tất cả đều được chạm khắc, sơn son thiếp vàng vô cùng tinh tế tạo nên không gian thờ tự trang nghiêm nhưng cũng không kém phần lộng lẫy. Đền thờ Đức Vương Ngô Quyền cùng với đền thờ Đức Thánh Trần và đền thờ Đức Vua Lê Đại Hành và những cảnh quan khác của vùng núi đá Tràng Kênh, sông Bạch Đằng lịch sửđã tạo thành một quần thể bề thế, xứng đáng là nơi tâm linh để cả nước thờ phụng, nơi tưởng niệm Đức Vương Ngô Quyền – anh hùng dân tộc. 35
- 2.4.4 Đền thờ Trần Quốc Bảo Ngôi đền nằm ở phía Nam chân núi Hoàng Tôn, thuộc thôn Tràng Kênh, thị trấn Minh Đức, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. vị tướng của vương triều Trần có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông của dân tộc ta ở thế kỷ XIII. Trần Quốc Bảo là cháu gọi vua Trần Nhân Tông (1279-1293) bằng ông. Trong trận chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, 9/4/1288 Trần Quốc Bảo đã anh dũng chiến đấu nhưng bị quân mai phục nên bị thương nặng. Ngày 9/4/1288 Tướng quân Trần Quốc Bảo được các phó tướng và quân sĩ đưa về khu vực núi Áng Hồ cứu chữa, song do vết thương quá nặng nên đã tử trận. Đêm đó, phó tướng Vũ Nạp cho quân sỹ đắp một con đường nhỏ từ núi Áng Hồ đến núi Phượng Hoàng để đưa thi thể ông về an táng tại đây. Sau khi Trần Quốc Bảo mất, nhân dân đã lập đền thờ vọng ở chân một ngọn núi trong dãy núi đá Tràng Kênh (nằm cách lăng mộ khoảng 1km); ngọn núi đó sau có tên là núi Hoàng Tôn hay Hoàng Phái. Bên tả ngôi đền là núi Mã Yên lượn vòng quanh co như rồng uốn khúc, bên hữu có núi Phượng Hoàng nguy nga muôn dặm như lớp lớp hồ chầu. Phía trước là dải sông Đằng, cuộn dòng chảy siết làm phương Chu Tước (tụ thủy minh đường). Đằng sau là chín khe suối róc rách nước ngưng xanh biếc hợp nguồn Huyền Vũ. triều đình nhà Trần đã truyền cho nhân dân địa phương vùng Tràng Kênh, nơi ông đóng quân và hy sinh, lập miếu thờ và truy phong làm Thái Tử. Các triều đại phong kiến tiếp theo đều thừa nhận công lao của Trần Quốc Bảo và suy tôn là Thượng đẳng phúc thần, phong sắc Thành hoàng làng Tràng Kênh Ngày 28/4/1962, Bộ Văn hoá - Thông tin đã xếp hạng cấp Quốc gia cho Quần thể Di tích Lịch sử - Danh thắng Tràng Kênh – Bạch Đằng, thị trấn Minh Đức, trong đó có Khu Di tích đền thờ và lăng mộ Tướng quân Trần Quốc Bảo. Ngày 10/5/2002, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã về thăm thị trấn và trồng cây lưu niệm tại Khu di tích. Lúc đầu ngôi đền được xây dựng khá đơn sơ với hai gian nhỏ để thờ cúng; qua các thời kỳ đã được trùng tu, tôn tạo khang trang hơn. Đến năm 1904, thì xây dựng thêm tòa Bái đường. Qua nhiều lần tu sửa nên các vết tích vật chất (thể 36
- hiện ở kiến trúc, đồ thờ tự, ) có niên đại sớm không còn nhiều. Lần tu sửa mới đây giữ lại được các cột vì xà trong hậu cung mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đền có bố cục hình chữ 二 - Nhị, gồm có hai toà nhà song song Tiền đường và Hậu cung. Ngôi Tiền đường có kiến trúc độc đáo với 2 tầng, 8 mái đao cong, đắp hoạ tiếng trang trí lình lưỡng long, song phụng. Hậu cung là nơi đặt tượng thờ Trần Quốc Bảo. Nổi bật nhất trong thiết kế kiến trúc của đền Trần Quốc Bảo là những đường nét cổ kính, độc đáo. Tam quan thiết kế thấp hơn so với thông thường khiến người bước vào hay ra đều phải kính cẩn cúi mình trước tôn nghiêm Thần tướng. Qua Tam quan là Bái đường kiến trúc theo kiểu “Chồng diêm 2 tầng, 8 mái”, các bờ đao uốn cong vút với dáng vẻ thanh thoát, mềm mại. Phía trên mái được trang trí hoa văn kiểu lá lật, phượng mớm, “Lưỡng long chầu nguyệt” mang đậm nét đặc trưng văn hoá đình, đền Việt Nam; phần nóc Bái đình có bốn Hán tự lớn “Anh Dục Tú Trung” với ngụ ý ca ngợi đức kiên trung, anh dũng của thần tướng. Tầng mái được đỡ bởi 16 cột gỗ tròn, gồm 2 vành (vành chính 4 cột, vành phụ 12 cột) bao quanh. Chính giữa tòa bái đường là bức đại tự với bốn chữ “Vũ phi vân hành” (thắng như mưa giông chớp giật) ngụ ý ca ngợi chiến thắng nhanh gọn và mạnh mẽ của nhân dân ta. Hai bên tấm hoành phi là hai câu đối “ tự cổ Trần triều vô địch tướng – Vô kim kinh thủy tối linh từ” (Thời xưa tướng Trần là vô địch – Ngày nay đất Tràng Kênh có ngôi đền thiêng). Xung quanh Bái đường không xây tường vây mà để ngỏ 4 mặt, tạo không gian khoáng đạt, mát mẻ. Trong nội thất bài trí hương án và các đồ tế tự thâm nghiêm, phía trước có đôi hạc gỗ đứng trên lưng rùa, hai bên là bộ bát bửu tượng trưng cho sự uy nghiêm của võ tướng. Đền thờ chính gồm hai gian nối tiếp kiểu “Ống muống”, gian ngoài (Tiền đường), chính giữa đặt bàn thờ sơn son thiếp vàng cùng long ngai trang trọng, hai bên thờ quan văn, võ. Bên phải tiền đường đặt tượng một viên quan Giám mã, tay dắt ngựa bạch yên cương sẵn sàng như đang chờ lệnh chủ tướng lên 37
- đường đánh giặc. Gian hậu cung là nơi đặt tượng Tướng quân Trần Quốc Bảo. Ngài uy nghi trong bộ võ phục màu đỏ, khoác hồng bào; tay trái úp lên đầu gối, tay phải cầm lệnh bài, mắt hùm hướng về phía trước, nơi dòng sông Bạch Đằng vẫn rì rào sóng vỗ như đang đốc quân chiến đấu với quân thù, đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ con dân, bảo vệ sự yên bình và trường tồn cho Tổ quốc. Trên cửa vào gian Hậu cung có bức đại tự niên đại 1886 do vua triều Nguyễn phong: 迹 芳 江 白 Bạch giang phương tích (với ý nghĩa sự tích sông Bạch Đằng mãi lưu truyền muôn thủa.) Nằm phía sau Hậu cung chếch về bên trái (theo hướng từ Tam quan vào) là Nhà thờ Trần triều Quốc mẫu), cạnh đó là miếu thờ Phó tướng Vũ Nạp. Tiếp lên các bậc cao của sườn núi Hoàng Tôn có 3 ngôi miếu nhỏ, chính giữa là miếu thờ vọng Tướng quân Phạm Hữu Điều (sở dĩ là miếu thờ vọng do vào năm 1993, dòng họ Phạm ở An Hải đã sang xin phần mộ cụ về thờ tại cố hương), bên trái là miếu thờ quan Thái giám, bên phải là miếu thờ Sơn thần. Các công trình nằm phân bố theo sườn núi, nối với nhau bởi những bậc thang khúc khuỷu, cao hẹp tạo thành một hợp thể kiến trúc cổ kính, trầm mặc nằm giữa một vùng thắng cảnh hùng vĩ, tráng lệ nổi tiếng. Trải qua các thời kì lịch sử, sự linh thiêng của Tướng quân Trần Quốc Bảo đã được các triều đình ngưỡng vọng, sắc phong là “Thượng Đẳng thần”, duệ hiệu “Minh hiển thiên tử hoàng tôn đại vương”. Ngôi đền được phong “Thượng đẳng tối linh từ”; đồng thời cấp ruộng đất, cắt suất đinh trông nom, bảo vệ ngôi đền. 2.5 Lễ hội đền Tràng Kênh Hàng năm cứ sau khi chuẩn bị đón tết truyền thống của dân tộc thì người dân vùng đất Tràng Kênh nói riêng và huyện Thủy Nguyên nói chung lại tưng bừng, háo hức chờ đón lễ hội Tràng Kênh diễn ra dịp đầu xuân. Nhắc tới lễ hội Tràng Kênh là người ta nghĩ ngay đến một lễ hội có quy mô vào bậc nhất ở 38
- huyện Thủy Nguyên được duy trì và tổ chức đều đặn hàng năm vào dịp đầu xuân lôi cuốn sự tham gia của đông đảo một vùng cư dân rộng lớn Hải Phòng – Quảng Ninh – Hà Nội và du khách thập phương để tưởng nhớ vị anh hùng trẻ tuổi Trần Quốc Bảo. Ở Tràng Kênh có khá nhiều lễ hội đền như lễ hội tưởng nhớ Trần Hưng Đạo diễn ra ngày 14/1 âm lịch, lễ hội tưởng nhớ đức Vương Ngô Quyền ngày 18/1 âm lịch, lễ hội tưởng nhớ đức Vua Lê Đại Hành ngày 8/3 âm lịch nhưng do mật độ lễ hội khá dày nên người ta thường gộp chung vào dịp đầu xuân gắn với lễ hội Trần Quốc Bảo diến ra vào dịp đầu xuân, thường khai hội vào mồng 6 tháng giêng âm lịch và kéo dài sau đó khoảng 5 ngày. Vào dịp này du khách ở nhiều nơi đặc biệt là người dân địa phương sẽ nô nức đến với đền Trần Quốc Bảo để dâng hưởng tưởng nhớ công của ngài, vãn cảnh đền, tham gia vào các trò chơi dân gian và không quên ghé thăm và dân hương tại quần thể các ngôi đền tại quần thể di tích và thắng cảnh Tràng Kênh nằm soi mình bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Lễ hội bắt đầu vào ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch, hội chính vào ngày mùng 7 tháng giêng và kéo dài sau đó khoảng bốn đến năm ngày. Mặc dù những ngày hội chính kéo dài chưa tới một tuần nhưng để có được một lễ hội thật rộn ràng, thật hoành tráng và trang nghiêm như chúng ta thấy thì người dân trong làng phải tiến hành công tác chuẩn bị trong vòng nhiều tháng trời có khi bắt đầu từ tháng mười âm lịch của năm trước. Đó là công tác chuẩn bị lễ vật để cúng tế, chọn người rước kiệu, người rước cờ, người tế lễ rồi chủ tế tất cả đều tuân theo những quy tắc tuyển chọn nhất định. Đầu tiên về chọn chủ tế: đó phải là người có chức sắc, có tư cách, có kỳ vọng và uy tín trong làng được toàn thể dân làng tôn trọng và tín nhiệm (trước đây thường do lý trưởng đảm nhiệm vai trò chủ tế). Đội tế lễ gồm 12 nam và 12 nữ (trước đây chỉ có nam mới được tham gia tế lễ tại đền), những người tham gia tế lễ phải là những người đứng đắn, có tư cách, trong sạch, không vi phạm pháp luật, không rượu chè bài bạc, là những người có quan hệ hôn nhân một vợ một chồng và tuổi từ 45 – 60 (người trẻ tuổi không được tham gia vào đội hình 39
- tế lễ). Đội rước kiệu thánh gồm những nam thanh niên chưa vợ có tư cách đạo đức tốt. Đội rước cờ thường là nam học sinh có thành tích học tập tốt và tư cách đạo đức tốt. Sau khi những công tác chuẩn bị đã có khoảng thời gian dài để hoàn tất thì dân làng sẽ cùng chờ đến ngày hội đền. Lễ vật để cúng tế rất tươm tất bao gồm lợn quay, bánh chưng, bánh dày, rượu cúng, xôi chè, hoa quả và vàng hương Vào ngày khai hội (06/1 âm lịch) người ta sẽ tổ chức lễ rước kiệu thần: sắc và bài vị của Trần Quốc Bảo sẽ được đưa lên kiệu để tiến hành lễ rước từ đền qua đình làng và đi quanh những tuyến đường lớn trong làng. Đội hình lễ rước được sắp xếp theo trật tự nhất định: đi đầu là ba lá cờ tổ quốc, tiếp đến là 20 lá cờ thần do 20 nam học sinh đảm nhiệm, theo sau là đoàn nhạc trống và đoàn nhạc bát âm, tiếp đó là hương án kèm theo các lễ vật (lợn quay, xôi, hoa quả ), đoàn sanh tiền do nữ đảm nhiệm, đoàn rước kiệu thánh - kiệu mẫu mỗi kiệu do tám thanh niên khiêng, tiếp đó là đoàn tế nam, đoàn tế nữ, theo sau là đoàn cán bộ - ủy ban và cơ quan đoàn thể của thị trấn Minh Đức và cuối cùng là sự có mặt của dân chúng. Sau lễ rước mọi người sẽ tập trung tại sân đền để làm lễ tế thần với sự góp mặt của chủ tế và đội hình tế gồm 12 nam và 12 nữ. Sau phần tế lễ thì coi như phần lễ đã hoàn thành, khoảng thời gian tiếp theo sẽ dành cho dân chúng dâng hương và tham gia vào phần hội. Trong khoảng thời gian này có rất nhiều trò chơi dân gian diễn ra: chơi đu, cờ người, bóng chuyền nam – nữ, bóng đá, hát đúm (trước đây có hát chèo và hát tuồng). Bên cạnh đó là các tiết mục văn nghệ của dân làng thường được tổ chức vào các buổi tối. Có một điều đáng ghi nhận ở lễ hôi Tràng Kênh đó chúng ta vẫn thấy những nét truyền thống vốn có của lễ hội Tràng Kênh từ đời xưa và vẫn duy trì đều đặn trong các dịp lễ hội Tràng Kênh mà ngày nay chúng ta còn thấy. Điều đó không dễ gì có thể thực hiện được bởi cuộc sống hiện đại bận rộn, bộn bề, người ta sẽ quên đi những giá trị của lễ hội làng từ đó lễ hội bị rút gọn và rồi dần mai một theo thời gian. Đó là những cố gắng nỗ lực không nhỏ của chính quyền 40
- Tràng Kênh – Minh Đức và cũng và ý thức bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc của người dân vùng núi đá Tràng Kênh. Lễ hội Tràng Kênh không chỉ đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh cho các tầng lớp nhân dân mà còn có ý giáo dục lịch sử sâu sắc, góp phần củng cố thêm tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc cho các thế hệ trẻ gợi nhớ về lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. 2.6 Giá trị của hệ thống các đền trong cụm di tích Tràng Kênh 2.6.1 Giá trị lịch sử Huyện Thủy Nguyên ngay từ xa xưa đã được biết đến với sự anh dũng kiên cường và hào hùng trong suốt quá trình dựng nước và giữ nươc. Người dân Thủy Nguyên dũng cảm trong chiến tranh và ngoan cường trong quá trình xây dựng đời sống mới. Thủy Nguyên vùng đất với bề dày chiến công hiển hách in dấu lên những di tích lịch sử đến ngày nay vẫn còn tồn tại. Đó là chùa Phương Mỹ, đình Kiền Bái, chùa Hoàng Pha và không thể không nhắc tới các ngôi đền tại cụm di tích và danh thắng Tràng Kênh: đền thờ Ngô Quyền với chiến thắng quân Nam Hán năm 938, đền thời đức vua Lê Đại Hành chiến thắng quân Tống năm 981, đền thờ Trần Hưng Đạo với chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1288. Chính vì vậy khi đến với Thủy Nguyên các bạn sẽ được đến với mảnh đất lịch sử, đến với các ngôi đền ở đây sẽ giúp mỗi người hiểu thêm về một thời kí anh dũng với những chiến công oanh liệt một thời và cũng là một quá trình lâu dài đòi hỏi các thế hệ dân cư phải đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt của thời tiết. Đồng thời chịu sự tác động của các yếu tố xã hội như xâm lấn của giặc từ mọi hướng đặc biệt là phong kiến Phương Bắc. Mặc dù vậy nhưng Thủy Nguyên vânc là một địa phương giàu truyền thống. Trong suốt quá trình lịch sử các thế hệ cư dân Thủy Nguyên đã có những đóng góp lớn trong việc trấn ải vùng Đông Bắc của tổ quốc. Trong lịch sử con người Thủy Nguyên thể hiện được ý trí kiên cường và lòng dũng cảm làm nên những chiến thắng vang dội trong lịch sử dân tộc. Chính ý nghĩa tồn tại của những ngôi đền tại khu di tích Tràng Kênh cho thấy một Thủy Nguyên truyền thống và giá trị lịch sử to lớn của các ngôi đền kể trên. 41
- 2.6.2 Giá trị cộng đồng Người Việt Nam vốn có lối sống và tập quán sinh hoạt làng xã, sự cố kết cộng đồng trong quan hệ của người Việt khá bền vững. Chính vì vậy những công trình công cộng thể hiện sự gắn kết cộng đồng rất được người Việt đề cao. Và những công trình thể hiện sự côs kết cộng đồng thường là những ngôi đình, ngôi chùa và đặc biệt không thể không kể đến những ngôi đền vốn là nơi sinh hoạt cộng đồng khá phổ biến của người Việt. Bên cạnh những ngôi đền chùa thì đền là nơi diễn ra những buổi văn nghệ, buổi tụ họp và những ngày hội lớn của dân làng. Nếu chùa thờ phật, đình làng thờ thành hoàng làng thì đền cũng có vai trò không kém; đây là nơi thờ những người có công với nước với dân hay đơn giản đó chỉ là đối tượng được nhân dân sùng bái và họ tin rằng những người đó sẽ mang lại may may cho họ. Mỗi lần có hội đền thì dân làng rất phấn khởi quần áo tươm tất để tham gia hội. Đây là dịp để họ gặp gỡ, giao lưu, trao đổi thông tin và đặc biệt nói cho nhau nghe những việc đã làm được hoặc còn đang thực hiện dang dở. Đặc biệt khi tha gia lễ hội dường như ai ai cũng thấy được sự bình đẳng, không còn sự phân chia giai cấp, địa vị xã hội hay giàu nghèo hơn thiệt mà họ chơi hết mình, vui hết mình để hòa mình vào ngày hội chung.Từ đó mối quan hệ giữa họ được tăng cường và ngày càng tốt đẹp hơn. Điều đó khẳng định giá trị cộng đồn lớn lao của những ngôi đền nói chung và các ngôi đền tại cụm di tích và danh thắng Tràng Kênh nói riêng. 2.6.3 Giá trị tâm linh Cuộc sống càng trở nên gấp gáp hơn bởi những guồng quay của đồng tiền của những sự bon chen đấu tranh vì lợi ích của bản thân mình mà người ta bỏ qua những giá trị nên có trong cuộc sống. Và đôi lúc khi giật mình nhìn lại bỗng nhiên ta thấy sao ta lạc lõng giữa cuộc đời, sao tâm hồn ta lại trở nên khô cằn đến vậy và những lúc như thế ta cần một không gian yên tĩnh, một không gian lắng đọng đủ để cho ta bình tâm và suy xét lại mọi chuyện, để biết được ta đang đi về đâu! Và bên cạnh những ngôi chùa thì đền chính là một nơi như vậy. Đền không chỉ có sự thanh bình vốn có của chốn thờ tự mà đây còn là nơi vô cùng 42
- linh thiêng bởi đối tượng được thờ trong các ngôi đền đều là đấng được dân làng vô cùng sùng bái. Đền là nơi để mỗi người có thể dãi bày và trải lòng mình, là nơi để người dân gửi gắm vào đó những ước nguyện: mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, cầu sức khỏe, cầu bình an, cầu buôn may bán đắt. Cũng bởi những điều đó mà đền có giá trị tâm linh sâu sắc không thể thay đổi được. Đối với cụm đền tại khu di tích Tràng Kênh Minh Đức Thủy Nguyên ai ai cũng cảm nhận được giá trị này. Bởi ngay từ ban đầu khi chưa có đền thờ đức vua Lê Đại Hành, đền thờ Ngô Quyền, đền thờ Trần Hưng Đạo hay đền thờ Trần Quốc Bảo thì người ta đã biết tôn thờ đối tượng rất siêu nhiên vô hình mà họ cho rằng những đối tượng đó vẫn ngày ngày dõi theo và giúp họ trong công cuộc mưu sinh. Để tìm hiểu thêm về vị trí của ngôi đền trong đời sống của người dân địa phương tác giả đã tiến hành cuộc phỏng vấn điều tra nhỏ theo hình thức bảng hỏi đối với 30 người dân sống trên địa phận thị trấn Minh Đức. Những người được hỏi đều là những người có độ tuổi trên 18 và có nghề nghiệp khá đa dạng. Khi được hỏi bạn có biết về đối tượng được tôn thờ tại các ngôi đền ở Tràng Kênh không? Có 33% số người được hỏi trả lời là có, còn lại là những người trả lời không biết hoặc họ cũng không quan tâm. Như vậy có thể thấy những người dân ở đây cũng như phần nhiều những người Việt đi lễ, thường thì có rất ít người quan tâm đến đối tượng được thờ cúng hay nguồn gốc của ngôi đền đó mà họ thường đi theo phong trào hay đơn giản thấy người ta bảo hay thì đến. Tuy nhiên cũng có số ít những người đi lễ một cách tích cực hơn, chủ động tìm hiều về thông tin điểm đến. Khi được hỏi bạn đến các ngôi đền này bao nhiêu lần trong năm? 100% những người được hỏi đều trả lời “nhiều hơn 3 lần”. Điều đó chứng tỏ những ngôi đền ở đây đã gắn bó với đời sống sinh hoạt của người dân địa phương. Khi được hỏi “bạn đến các ngôi đền vào dịp nào?” . có tới 83% số người được hỏi trả lời “bất cứ dịp nào”, 14% chọn “ngày rằm, mùng một” còn lại 3% chọn “ngày hội ngày lễ”. Như vậy có thể thấy những ngôi đền ở đây đã đi sâu 43
- vào tiềm thức và tâm linh của người dân nơi đây. Bất cứ là việc lớn nhỏ họ đều đến đền làm lễ và cầu xin sự đồng ý, sự ủng hộ của các đối tượng được thờ tại các ngôi đền. Khi được hỏi “bạn thường cầu xin gì khi là lễ tại đền?”. 21% trả lời “công danh”, 27% trả lời “tài lộc”, 27% trả lời “tình duyên”, còn lại trả lời “con cái”. Như vậy càng có thể khẳng định vai trò của các ngôi đền trong đời sống tâm linh của người dân địa phương. Bất cứ điều gì mà họ muốn có được họ đều cầu xin thần thánh tại các ngôi đền này. Khi được hỏi “bạn có tin vào sự linh thiêng của các ngôi đền này không?” . có 66% trả lời “có”, còn lại trả lời “không rõ”. Hầu hết những người được hỏi đều tin tưởng vào sự linh thiêng của những ngôi đền này, điều đó cũng dễ hiểu bởi tất cả những công việc lớn nhỏ trong đời sống sinh hoạt cá nhân hay tập thể đều được họ chia sẻ với các vị thần, các đối tượng được thờ tại các ngôi đền. số còn lại vẫn chưa thực sự tin tưởng mà vẫn ở mức bán tín bán nghi. Qua cuộc phỏng vấn nhỏ đó chúng ta có thể thấy rẳng vai trò và vị trí của các ngôi đền ở Tràng Kênh trong đời sống tâm linh của người dân địa phương. Đây thực sự là nơi gửi gắm niềm tin, mơ ước, thể hiện khát vọng của người dân địa phương. Họ tin vào sự linh thiêng và ứng nghiệm của những ngôi đền nơi đây, tin vào sự phù hộ của các vị thánh, của đối tượng được thờ tại các ngôi đền để từ đó hình ảnh của các ngôi đền này ăn sâu vào tiềm thức và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống, trong sinh hoạt của người dân địa phương. 2.6.4 Giá trị văn hóa Mỗi công trình kiến trúc đều thể hiện được tư tưởng và vị trí tồn tại nhất định đặc biệt là những công trình mang tính chất cộng đồng. Đền không chỉ phản ánh những nét đẹp ở ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa cộng đồng và ý nghĩa tâm linh sâu sắc hơn thế nữa nó còn có nhiều giá trị về mặt văn hóa. Đầu tiên phải kể đến sự phản ánh giá trị văn hóa thông qua hệ thống các đối tượng được tôn thờ trong đền: thờ những người có công với nước với dân thể hiện tư tưởng uống nước nhớ nguồn, thờ các đối tượng và lực lượng siêu nhiên thậm chí cả những vật vô tri vo giác như thần núi, thần sông thể hiện tư 44
- tưởng vạn vật hữu linh, người Việt vốn coi mọi vật đều có linh hồn và khi họ thờ phụng họ thì họ cũng sẽ được phù hộ, thờ thần mặt trời, thần gió thần mưa thể hiện tư tưởng tôn sùng tự nhiên Tiếp theo phải kể đến các nét chạm khắc trong kiến trúc đền: đó là hình ảnh con rồng uốn lượn hiên ngang ngẩng cao đầu thể hiện cho giống nòi Rồng Tiên và ý trí quật cường không bao giờ cúi đầu trước khó khăn của người Việt, đó là hình ảnh “lưỡng long triều nhật” thể hiện rõ triết lý âm dương trong tư tưởng người Việt. Cũng phải kể đến những ý nghĩa các con vật được thờ trong đền của người Việt như con hạc thể hiện sự thanh cao, con rùa tượng trưng cho sự trường tồn bất diệt Và tiếp đó là các đối tượng khác như mây, gió, mặt trời tất cả đều có ý nghĩa nhất định và thể hiện được tư tưởng chung của người Việt. Một khía cạnh văn hóa khác được thể hiện thông qua việc người Việt luôn có thói quen đi lễ đền chùa đầu năm để cầu xin may mắn. Vì vậy khi đi đến những điểm đó họ thường phát tâm công đức, hay chuẩn bị đồ lễ khá chu đáo để thể hiện sự thành tâm. Qua đó cũng cho thấy người Việt có tồn tại tư tưởng”có qua có lại” Không chỉ có vậy các ngôi đền thờ nhựng vị anh hùng dân tộc, những người có công đánh đuổi giặc ngoại xâm như các ngôi đền ở Tràng Kênh – Minh Đức còn là nơi giáo dục về lòng yêu nước cho muôn đời sau, để khơi dậy niềm tự hào dân tộc luôn luôn tồn tại trong mỗi người con đất Việt. Qua những điều đơn giản đó thôi thì phần nào tính cách người Việt và văn hóa của người Việt đã được phản ánh khá rõ ràng. 2.6.5 Giá trị kiến trúc Đây là giá trị nổi bật mà chúng ta có thể nhận thấy khi đến với ngồi đền thờ vị danh tướng trẻ tuổi Trần Quốc Bảo. Trải qua bao lần trùng tu và sửa chữa nhưng ngôi đền vẫn giữ lại được nguyên dạng như ban đầu không hề thay đổi. Việc lựa chọn những vật liệu thay thế từ những cây cột, cây kèo hay nhỏ hơn là những viên ngói cũng được thực hiện rất cẩn thận. 45
- Ấn tượng nhất của ngôi đền chính là cổng đền rất thấp. Nếu như ngày này những chiếc cổng chùa, cổng đình hay cổng đền được xây mới một cách quy mô, hoành tráng thì ngôi đền thờ Trần Quốc Bảo với cổng tam quan thấp, nhỏ, rêu phủ lại gây không ít xúc động cho du khách khi đến với đền. Cổng tam quan của ngôi đền thể hiện được quan niệm, cũng như sự sùng bái, tôn trọng đối tượng được thờ trong ngôi đền vì vậy người xưa quan niệm khi vào đình vào đền là phải ra luồn vào cúi. Cổng đền Trần Quốc Bảo cũng đã được sửa chữa nhiều lần nhưng không hề tác động đến kích thước và dáng vẻ vốn có của nó. Ngôi đền tuy nhỏ nhưng tạo cho mỗi người khi bước đến đó chính là cảm giác u tịch, lắng đọng thanh thản của một chốn tâm linh để rồi khi dâng hương làm lễ thánh người ta có cảm giác như trút bỏ được hết những ưu phiền bực dọc của cuộc sống. Đó là ý nghĩa của giá trị kiến trúc cổ mà ngôi đền vẫn giữ được cho đến ngày nay. 2.7 Thực trạng hoạt động du lịch của các đền ở Tràng Kênh 2.7.1 Thực trạng hoạt động du lịch Với những ý nghĩa lịch sử to lớn và ý nghĩa cộng đồng, ý nghĩa tâm linh cũng như giá trị văn hóa không thể nào chối bỏ của các ngôi đền tại khu di tích Tràng Kênh thì có thể khẳng định đây là một tiền năng rất lớn về du lịch. Tuy nhiên hiện nay ngành du lịch Thủy Nguyên nói chung cũng như chính quyền ủy ban nhân dân thị Trấn Minh Đức nói riêng vẫn chưa khia thác hết những tiềm năng lợi thế vốn có của các ngôi đền này. Về nguồn khách: phần lớn đối tượng khách tham quan đến đây là người dân địa phương hay trong địa bàn huyện hoặc một số địa phương gần đó. Gần đây thì các ngôi đền này thu hút được sự chú ý của những bản tin du lịch của đài phát thanh và truyền hình Hải Phòng. Cũng đã có một số nhà nghiên cứu và tín ngưỡng thờ Ngô Quyền hay thờ Trần Hưng Đạo đã tìm đến Tràng Kênh để nghiên cứu. Ba ngôi đền: đền thờ đức Vương Ngô Quyền, đền thờ đức vua Lê Đại Hành và đền thờ Đức Thánh Trần thuộc quần thể di tích và danh thắng Tràng Kênh nằm trong một khuôn viên khá rộng lớn, với cảnh quan núi sông hữu tình, 46
- muôn cây xanh tốt thực sự là một không gian đẹp, hấp dẫn; đền thờ Trần Quốc Bảo nằm ngay dưới chân núi Hoàng Tôn tồn tại lâu dài cùng bao mưa nắng thời gian cũng là một nơi đầy mời gọi nhưng thực tế chúng ta chưa thấy hết được giá trị của nó. Mặc dù cái tên Tràng Kênh là một cái tên rất quen thuộc nhưng khi hỏi về các ngôi đền ở đây thì số người biết khá ít và số người đã từng đến đó càng ít đặc biệt là 3 ngôi đền còn khá mới (muộn nhất là đền thờ Ngô Quyền mới khánh thành năm 2011). Số lượng khách đến với các ngôi đền này chưa nhiều, hầu hết chỉ vào dịp đầu xuân vào lễ hội đền Tràng Kênh và kéo dài đến hết 3 tháng xuân. Khoảng thời gian sau đó vẫn có những đoàn khách ghé thăm nhưng số lượng rất ít và rải rác. Các dịp khác: thường vào dịp tuần rằm thì người dân địa phương và số ít những khách ở khu vực lân cận cũng đến hành hương. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận rằng ngày càng có nhiều người biết đến khu di tích Tràng Kênh với các ngôi đền vẫn ngày ngày soi bóng bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Hoạt động du lịch ở nơi này đang được duy trì và từng bước đẩy mạnh các biện pháp nhằm thu hút khách hơn nữa. 2.7.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch bao gồm hệ thống điện nước, dịch vụ vận chuyển, hệ thống thông tin liên lạc, cơ sở phục vụ ăn uống và dịch vụ vui chơi giải trí. a. Hệ thống điện nước: là một thị trấn công nghiệp nặng được ưu tiên hàng đầu đặc biệt là sự có mặt của 2 nhà máy xi măng lớn của Hải Phòng đó là công ty xi măng Chinfon hải Phòng và công ty xi măng Vicem Hải Phòng nên ở Minh Đức hệ thống điện khá tốt đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân địa phương và phục vụ hoạt động du lịch. Về hệ thống nước sinh họat: nếu như trước kia hầu hết nguồn nước được dùng là nước mưa và nước giếng khoan nên nguồn nước ở đây khá là ô nhiễm không đảm bảo sức khỏe nhưng từ khi hệ thống nước máy được đưa vào để phục vụ thì nguồn nước ở đây được cải thiện đáng kể. 47