Khóa luận Khai thác di tích chùa Keo ở Thái Bình phục vụ phát triển du lịch

pdf 75 trang huongle 2530
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Khai thác di tích chùa Keo ở Thái Bình phục vụ phát triển du lịch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_khai_thac_di_tich_chua_keo_o_thai_binh_phuc_vu_pha.pdf

Nội dung text: Khóa luận Khai thác di tích chùa Keo ở Thái Bình phục vụ phát triển du lịch

  1. Mục Lục Mục Lục 1 1.Tính cấp thiết của đề tài. 2 2. Mục đích nghiên cứu, ý nghĩa đề tài 3 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. 3 5. Bố cục của khóa luận. 4 CHƢƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG. 5 1.1. Khái niệm về di tích lịch sử văn hóa. 5 1.2. Các loại di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu: 6 1.3. Quan hệ giữa du lịch với các di tích lịch sử văn hóa. 11 Tiểu kết chƣơng 1. 20 CHƢƠNG 2 : THỰC TRẠNG KHAI THÁC DU LỊCH TẠI DI TÍCH CHÙA KEO – THÁI BÌNH. 21 2.1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Thái Bình. 21 2.2. Di tích chùa Keo – Thái Bình. 32 2.3.Giá trị của di tích Chùa Keo. 55 2.4. Thực trạng khai thác du lịch hiện nay tại chùa Keo. 57 Tiểu kết chƣơng 2. 60 CHƢƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHAI THÁC DI TÍCH CHÙA KEO PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI THÁI BÌNH. 61 3.1. Bảo tồn di tích thông qua hoạt động du lịch. 61 3.2. Xây dựng hình ảnh điểm đến. 63 3.3. Kết hợp với các loại hình du lịch khác . 65 3.4. Quảng bá xúc tiến. 67 Kết Luận 68 Danh mục tài liệu tham khảo. 69 Phụ Lục 70 1
  2. Mở đầu. 1.Tính cấp thiết của đề tài. Tỉnh Thái Bình là quê hƣơng anh hùng gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của nhiều danh nhân, danh tƣớng nổi tiếng trong lịch sử dân tộc nhƣ Bát nạn tƣớng quân Vũ Thị Thục Nƣơng (thế kỷ I)- bà là một nữ tƣớng tài ba dƣới thời 2 Bà Trƣng; Lý Bôn hay còn gọi Lý Bý, sau khi đánh tan quân Lƣơng, ông lên ngôi vua lấy hiệu Lý Nam Đế, đặt tên nƣớc là Vạn Xuân; Sứ quân Trần Lãm (?- 967), ngƣời có công giúp đỡ Đinh Bộ Lĩnh sau này lập ra nhà Đinh (968 - 980); Nhà bác học lỗi lạc Lê Quý Đôn. Và cũng không thể không nói đến những công trình di tích đã tồn tại từ rất lâu cho đến tận ngày nay nhƣ đền Trần (Tiến Đức – Hƣng Hà), đền Đồng Bằng (An Lễ - Quỳnh Phụ) Và đặc biệt hiện nay, tại Thái Bình còn lƣu giữ đƣợc một di tích rất cổ kính, độc đáo và có giá trị đặc biệt quan trọng đối với tỉnh Thái Bình nói riêng và nƣớc Việt Nam nói chung, đó chính là “chùa Keo”. Cùng với những di tích lịch sử và danh thắng khác trên đất Thái Bình, di tích Chùa Keo chính là một nguồn tài nguyên du lịch độc đáo, đầy tiềm năng, góp phần phục vụ và đóng góp vào sự phát triển chung của ngành du lịch Thái Bình. Nhƣng trên thực tế trong những năm qua, việc khai thác di tích này phục vụ cho du lịch của tỉnh Thái Bình chƣa phát huy đƣợc hết hiệu quả và tiềm năng vốn có của nó và vẫn còn tồn đọng nhiều mặt hạn chế. Hoạt động du lịch tại điểm đến này còn diễn ra một cách tự phát, chƣa có quy hoạch cụ thể đồng bộ, cũng nhƣ chƣa có sự quản lý một cách chặt chẽ các nguồn tài nguyên từ phía cấp chính quyền địa phƣơng, đã gây ra những lãng phí lớn về nguồn tài nguyên. Hơn thế nữa, những lợi ích về kinh tế do du lịch mang lại chƣa tƣơng xứng với tiềm năng, cụ thể đó là sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế của địa phƣơng còn rất hạn chế. Chính vì những lý do trên, em đã lựa chọn đề tài: “Khai thác di tích chùa Keo ở Thái Bình phục vụ phát triển du lịch” cho khóa luận tốt nghiệp của mình nhằm tìm ra các giải pháp thúc đẩy hiệu quả khai thác phát triển du lịch đối với di tích này. 2
  3. 2. Mục đích nghiên cứu, ý nghĩa đề tài - Mục đích nghiên cứu. Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu, tìm hiểu di tích chùa Keo tại tỉnh Thái Bình để thấy đƣợc một cách tổng thể nhất những giá trị của công trình này về lịch sử, về kiến trúc, về lễ hội cổ truyền và đặc biệt là những giá trị tiềm năng có thể khai thác cho du lịch. - Ý nghĩa đề tài: Đã có một số tài liệu viết và giới thiệu về di tích chùa Keo ở Thái Bình song việc thống kê, hệ thống một cách đầy đủ còn rất ít. Đồng thời phần lớn những tài liệu đó mới dừng lại ở chỗ cung cấp thông tin, ít tài liệu đề cập đến việc định hƣớng khai thác những tài nguyên này cho hoạt động du lịch của tỉnh. Vì thế, với đề tài này, trên cơ sở vận dụng những lý thuyết của du lịch học vào trong thực tiễn du lịch tỉnh Thái Bình, ngƣời thực hiện mong muốn đƣa ra một cái nhìn hệ thống về nguồn tài nguyên mang tính lịch sử này, cũng nhƣ những bất cập trong hiện trạng khai thác hiện nay, từ đó đề xuất những định hƣớng cho việc phát triển du lịch của địa phƣơng trong thời gian tới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tƣợng nghiên cứu: di tích chùa Keo tại xã Duy Nhất huyện Vũ Thƣ tỉnh Thái Bình. - Phạm vi nghiên cứu: không gian di tích và thời gian hình thành di tích chùa Keo. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Là phƣơng pháp chính đƣợc sử dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập thông tin tƣ liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau có liên quan tới đề tài nghiên cứu, ngƣời viết sẽ xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần thiết, có đƣợc tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu. 3
  4. Phương pháp thực địa: Quá trình thực địa giúp sƣu tầm thu thập tài liệu, nhằm nhận đƣợc thông tin xác thực cần thiết để thành lập ngân hàng số liệu cho việc hoàn thiện đề tài. Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp: Phƣơng pháp này giúp định hƣớng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tƣơng quan, phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh hƣởng của yếu tố tới hoạt động du lịch trong đề tài nghiên cứu; việc phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở trong việc thực hiện các mục tiêu dự báo, các chƣơng trình phát triển, các định hƣớng, các chiến lƣợc và giải pháp phát triển du lịch trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. 5. Bố cục của khóa luận. Đề tài ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo gồm có 3 chƣơng: Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận chung. Chƣong 2. Thực trạng khai thác du lịch tại di tích chùa Keo - Thái Bình . Chƣong 3. Đề xuất một số giải pháp khai thác di tích chùa Keo phục vụ phát triển du lịch tại Thái Bình. 4
  5. CHƢƠNG 1 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG. 1.1. Khái niệm về di tích lịch sử văn hóa. Khái niệm di tích lịch sử văn hoá đƣợc bắt nguồn từ các khái niệm về di tích lịch sử và di tích văn hóa. Vậy có thể hiểu: Di tích lịch sử văn hoá là nơi ghi dấu sự kiện chính trị quan trọng, tiêu biểu có ý nghĩa quyết định chiều hƣớng phát triển của đất nƣớc, của địa phƣơng. Đây là nơi ghi dấu những kỉ niệm, ghi dấu chiến công xâm lƣợc, ghi dấu tội ác của đế quốc và phong kiến. Di tích văn hóa là những đặc điểm ẩn dấu một bộ phận giá trị văn hóa trong lịch sử, là những di tích gắn với các công trình kiến trúc có giá trị. Những di tích này không chỉ chứa những giá trị kiến trúc mà còn chứa đựng cả những giá trị văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần. Theo Luật di sản văn hóa thì: Di tích lịch sử văn hoá đƣợc hiểu là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa khoa học. Di tích lịch sử văn hoá là những không gian vật chất cụ thể khách quan trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử do tập thể hoặc cá nhân con ngƣời sáng lập ra trong lịch sử để lại. Di tích lịch sử văn hoá là tài nguyên văn hóa quý báu của mỗi địa phƣơng, mỗi dân tộc, mỗi đất nƣớc và của cả nhân loại. Nó là bằng chứng trung thành, xác thực và cụ thể về đặc điểm văn hóa của mỗi nƣớc. Ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa, trí tuệ, tài năng, giá trị văn hóa nghệ thuật của mỗi quốc gia. Đó chính là bộ mặt quá khứ của mỗi dân tộc, mỗi đất nƣớc, là biểu tƣợng chói ngời trong kho tàng văn hóa dân tộc và nhân loại. Mỗi quốc gia đều có những quan niệm về di tích lịch sử văn hoá. Để các quan niệm đƣợc thống nhất với nhau thì cần có những quy định chung nhƣ sau: - Di tích lịch sử văn hoá là nơi ẩn dấu một bộ phận giá trị văn hóa khảo cổ. 5
  6. - Những địa điểm khung cảnh ghi dấu về dân tộc. - Những nơi diễn ra sự kiện chính trị quan trọng có ý nghĩa thúc đẩy lịch sử đất nƣớc, lịch sử địa phƣơng phát triển. - Những địa điểm ghi dấu chiến công xâm lƣợc, áp bức. - Những nơi ghi dấu giá trị lƣu niệm về nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, nhà khoa học. - Những công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị toàn quốc hoặc khu vực. - Những danh lam thắng cảnh do thiên nhiên bài trí sẵn và có bàn tay con ngƣời tạo dựng thêm vào đƣợc xếp là một loại trong các di tích lịch sử văn hoá. 1.2. Các loại di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu: 1.2.1. Đình làng Đình là yếu tố vật chất quan trọng nhất trong văn hóa làng. Ngôi đình là biểu tƣợng cho văn hóa làng Việt và khi nói đến văn hóa làng Việt là nói đến cây đa, giếng nƣớc, sân đình. Đình làng ra đời vào khoảng thế kỉ XV, các ngôi đình cổ nhất còn lại hiện nay là: đình Thụy Phiêu (Ba Vì - Hà Nội - 1531), đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hòa - Bắc Giang - 1576), đình La Phù (Thƣờng Tín - Hà Nội - 1579), đình Tây Đằng (Ba Vì - Hà Nội - 1583). Đến thế kỉ XVI đình phát triển nhiều và đến thế kỉ XVII là sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc đình. Đình không chỉ là biểu tƣợng cho làng xã Việt Nam mà còn là hình ảnh của con ngƣời Việt Nam, đặc biệt là trƣớc cách mạng tháng Tám không ở đâu có hệ thống đình phong phú nhƣ ở nông thôn miền Bắc nƣớc ta. Không biết tự bao giờ, đình làng đã trở thành một bộ phận trong đời sống của bà con nông dân, đây là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt, lề thói, mọi thay đổi trong đời sống văn hóa - xã hội của làng quê Việt Nam. Có thể nói đình là biểu tƣợng, là linh hồn của làng quê, đình là dấu ấn trong văn hóa truyền thống. 6
  7. Đình có ba chức năng chính đó là: chức năng hành chính, chức năng văn hóa và chức năng tôn giáo.Trƣớc hết đình là nơi thờ Thành Hoàng làng - ngƣời có công với làng. Tín ngƣỡng Thành Hoàng làng có nguồn gốc từ Trung Quốc và du nhập vào nƣớc Việt Nam từ thời Bắc thuộc. Thành Hoàng có nhiều loại: đó có thể là nhân thần vật lịch sử (hay còn gọi là nhân thần) đã có công với đất nƣớc nhƣ: các tƣớng của Hai Bà Trƣng, Ngô Quyền, Trần Hƣng Đạo; có thể là các tăng ni cao đạo nhƣ: Không Lộ, Minh Không, Từ Đạo Hạnh; có thể là thiên thần nhƣ Thánh Tản Viên; có thể là những ngƣời có công lập làng (gọi là Tiền Thần), hay những ông tổ họ của làng, những ngƣời là tổ nghề (gọi là Tiền Sƣ) Ngoài chức năng trên đình còn có chức năng hành chính. Đây là nơi thực hiện công việc của cả làng, cả xã. Việc xử, việc phạt, khao đều đƣợc tiến hành tại đình, phổ biến hƣơng ƣớc cũng đƣợc tiến hành tại đây. Đây là nơi chứng kiến những việc của làng xã, những thay đổi trong tổ chức hành chính của làng quê Việt Nam. Chức năng văn hóa: Đình là nơi để biểu diễn kịch hay các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Đặc biệt vào là vào dịp lễ hội, ngoài phần lễ nghi không thể thiếu phần hội với nhiều trò chơi dân gian nhƣ: múa hát, trọi trâu, trọi gà, đánh đu, bơi thuyền, hát xoan ghẹo Ở lễ hội, một mặt ngƣời ta biểu dƣơng, giáo dục truyền thống tốt đẹp của quê hƣơng đất nƣớc, hƣớng con ngƣời ta đến cái “chân - thiện - mỹ ”, ở đây họ tìm thấy sự thoải mái và bình đẳng. Mỗi dịp lễ hội nhƣ là một lần hẹn, vào dịp này tại mỗi làng quê, những ngƣời lao động không phải lo nghĩ gì, họ thả hồn mình đi trảy hội, đây là dịp để nam nữ hẹn hò gặp mặt Đình cũng là nơi để phát hiện, nuôi dƣỡng những môn nghệ thuật độc đáo. Ngay kể cả vào dịp không có lễ hội, mỗi khi thoáng mát, đình cũng là nơi nghỉ ngơi, trò chuyện của ngƣời dân làng quê. Việc xây dựng đình có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống của dân làng. Ngƣời dân Việt Nam luôn dành những gì tốt đẹp nhất cho đình làng. Đình đƣợc xây dựng do sự đóng góp tài sản và sức lực của mọi thành viên trong làng. Đình là nơi hội tụ những nét đẹp về mặt truyền thống, kiến trúc nghệ thuật và cả yếu tố phong thủy. Để xây dựng đình, ngƣời dân phải chọn một mảnh đất có phong thủy 7
  8. đẹp, tức là địa điểm đó phải có sông, có cây, có hƣớng đất đẹp, là nơi cao ráo, có long mạch Chính vì vậy nhiều đình để tạo thế đất ngƣời ta đào ao, hồ nƣớc trƣớc cửa đình. Ngoài những giá trị văn hóa, xã hội mà đình để lại cho đến ngày nay, thì giá trị kiến trúc - nghệ thuật lại không thể bỏ qua và đặc biệt ở đây là nghệ thuật điêu khắc. Tại đây ghi lại sự phát triển vƣợt bậc của nghệ thuật điêu khắc, đặc biệt là hình tƣợng con rồng. Các nghệ nhân đã dùng đôi bàn tay khéo léo và tâm hồn của mình để khắc họa lên những suy nghĩ, tâm tƣ, tình cảm và nguyện vọng của ngƣời dân Việt Nam. Tạo cho đình một không gian thoáng mát, linh thiêng và hội tụ những giá trị nghệ thuật cao đẹp. Đây không chỉ là những bằng chứng xác thực cho một thời kì, một nền văn hóa mà là một nguồn tài liệu về lịch sử - mỹ thuật Việt Nam để nghiên cứu đời sống hàng ngày cũng nhƣ tâm hồn của ngƣời dân Việt Nam. Về kiến trúc của đình thƣờng có một số kiểu kiến trúc phổ biến sau: Kết cấu chữ “Nhất” là kết cấu một tòa đình có 5 gian hoặc 7 gian và 2 dĩ. Kết cấu này thƣờng thấy ở các ngôi đình thời nhà Mạc, đến thế kỉ XVII ngƣời ta đƣa Thành Hoàng vào thờ ở đình, xuất hiện tục thờ thần, cấu trúc chữ “Nhất” của đình bị phá vỡ và phát triển thành kiểu kiến trúc nhƣ sau: Cấu trúc chữ “Nhị” gồm có phần đại đình và phần hậu cung. Cấu trúc chữ “Đinh” hay còn gọi hình “chuôi vồ”, bao gồm phần đại đình và phần hậu cung. Cấu trúc chữ “Công” gồm phần đại đình, hậu cung và tòa ống muống nối giữa hai phần này. Giống nhƣ đền và chùa, là những nơi linh thiêng nhƣng lại là nơi có kiến trúc tôn giáo khác biệt. Tại đây ta có thể bắt gặp những hình ảnh sinh động gần gũi với cuộc sống đời thƣờng. Cảnh hội hè đình đám: uống rƣợu, bơi chải, chọi gà; cảnh lao động làm ăn: dựng đình, săn hƣơu; cảnh sinh hoạt ở làng: bế con, gánh con, cõng con đã biến những khúc gỗ vô tri vô giác thành những bức trạm 8
  9. trổ mang tính nghệ thuật cao; cũng có khi là những hình ảnh thoáng đạt nhƣ hiện tƣợng đôi trai gái đùa ghẹo nhau hay đang tự tình; cũng có thể là hình tƣợng ngƣời phụ nự ngồi khỏa thân Qua sự biến đổi, phát triển của thời gian. Đến nay đã có nhiều ngôi đình trở thành kiệt tác nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đặc sắc, độc đáo và trở thành những di tích lịch sử văn hoá quốc gia nhƣ: đình Tây Đằng (Hà Nội), Đình Bảng (Bắc Ninh), đình Phù Lãng (Vĩnh Phúc) 1.2.2. Chùa Chùa là một loại di tích lịch sử, có kiến trúc nghệ thuật độc đáo, chiếm số lƣợng lớn, do vậy chùa có vị trí quan trọng trong di sản văn hóa nƣớc ta. Chùa có lịch sử ra đời và phát triển gắn liền với sự du nhập và phát triển của đạo phật ở nƣớc ta và lịch sử phát triển của đất nƣớc. Chùa đƣợc phát triển theo thời gian và phân hóa theo không gian, làng nào cũng có chùa (đất vua chùa làng). Chùa Việt Nam chủ yếu là chùa làng và chùa nƣớc. Chùa làng thƣờng đƣợc xây dựng trong một không gian đẹp, yên tĩnh, trong lành tĩnh mịch, nơi hội tụ khí thiêng trời đất. Giống với chùa làng, chùa nƣớc là những ngôi chùa có lịch sử hình thành và phát triển sớm, có quy mô lớn, giá trị về văn hóa, lịch sử, tôn giáo, là nơi tu hành của các vị cao tăng. Do vậy, đây là loại hình di tích lịch sử văn hoá có sức lôi cuốn và hấp dẫn với du khách trong những chuyến thăm quan, trong những chuyến hành hƣơng của khách du lịch. Chùa có vai trò và vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của con ngƣời Việt Nam. Nó giúp con ngƣời sống tốt hơn, lƣơng thiện hơn do đó mà họ có triết lý là sau khi chết đi linh hồn mình sẽ đƣợc siêu thoát và đƣợc lên cõi niết bàn. Chùa không chỉ là nơi thực hiện các nghi thức tôn giáo mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa của làng xã Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử những ngôi chùa vẫn tồn tại trong đời sống của ngƣời Việt Nam và nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống tâm linh của ngƣời Việt Nam. Chùa ở Việt Nam còn có những nét đặc biệt đó là trong chùa không chỉ thờ phật mà trong nhiều trƣờng hợp còn thờ cả thần. Bởi các tôn giáo Việt Nam không hề bài xích 9
  10. nhau mà cùng hòa hợp với nhau và hòa hợp với tín ngƣỡng bản địa. Đây chính là nét khác biệt của chùa ở Việt Nam so với các chùa khác trong khu vực. Về mặt kiến trúc: các giá trị kiến trúc, lối kiến trúc của chùa thay đổi theo không gian và thời gian, đồng thời biến đổi đa dạng theo tín đồ Phật giáo pha trộn với tín ngƣỡng bản địa Việt Nam. Chùa ở miền Bắc: thời kỳ đầu, chùa có kiến trúc dạng tháp nhƣ tháp Hòa Phong, chùa Một Cột, sau đó có kiến trúc chữ “ Nhất ”; kiến trúc chữ “ Đinh”; kiến trúc chữ “ Công ”, gồm: tam quan, bái đƣờng, đại bái, thiêu hƣơng, nhà hộ, thƣợng điện; kiến trúc “Nội công ngoại quốc”, gồm: tam quan, đại bái, thiêu hƣơng, thƣợng điện, dải vũ, nhà thờ tổ, nhà tăng, nhà khách; kiến trúc chữ “Tam”, gồm ba nếp nhà hoặc kiểu chùa Hạ, chùa Trung, chùa Thƣợng. Còn chùa ở miền Trung: chùa thƣờng có lối kiến trúc chữ “ Khẩu ”, chữ “Nhị” hoặc chùa ở miền Nam: chùa thƣờng có kiến trúc chữ “ Tam ” hoặc “ Nội công ngoại quốc ”, thƣờng thờ phật ở phía trƣớc và tháp xá lị cộng đồng ở phía sau. Kiến trúc, điêu khắc của chùa thể hiện tƣ tƣởng, phong tục tập quán làng xã, sự phát triển của làng xã Việt Nam qua các thời kỳ. 1.2.3. Đền, Miếu, Nghè, Am, Quán Các khái niệm hay tên gọi này thƣờng không có sự nhất quán giữa các làng song nhìn chung đây là nơi thờ thần linh, thành hoàng trú ngụ vì nhiều lí do khác nhau: là nơi sinh, nơi hóa của thần, nơi thần dừng chân, nơi đóng doanh trại của thần Đền là từ dùng chung chỉ mọi kiến trúc có liên quan đến thần linh, là giáo đƣờng để con ngƣời thực hiện nghĩa vụ thông linh và vấn linh. Đền là nơi thờ của các vị thần nhƣ: nhân thần, thiên thần, những danh nhân hay những vị anh hùng dân tộc, những tƣớng lĩnh nghĩa sĩ. Đền có lịch sử phát triển gắn liền với lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc. Vì vậy, đây là loại di tích lịch sử văn hoá có lịch sử phát triển lâu đời nhất ở nƣớc ta. Đền thƣờng đƣợc xây dựng ở những nơi diễn ra các sự kiện lịch sử, nơi sinh hoặc nơi hóa của các thần điện. 10
  11. Các ngôi đền có chức năng riêng, kiến trúc riêng và tên gọi riêng. Thứ nhất là các ngôi đền có liên quan đến Đạo giáo và Lão giáo, đƣợc gọi là Quán. Vào thời Lý, Trần, Lê Sơ, các quán Đạo nƣớc ta chủ yếu thờ thần tiên dân tộc, một số Quán trở thành đình (nhƣ quán Giá thuộc huyện Hoài Đức-Hà Nội) hoặc thành chùa (nhƣ chùa Sổ ở huyện Thanh Oai - Hà Nội). Còn những đền thờ thần linh mang tính chất phong thủy gọi là quán Đạo. Từ thế kỉ XVI trở đi có nhiều quán Đạo Lão là sản phẩm của tƣ tƣởng xã hội đƣợc hình thành. Các dạng đền khác nằm ngoài mục đích thờ thần linh, anh hùng dân tộc thì thuộc hệ thống miếu thờ những bậc thánh và những vị tiên hiền. Một dạng đền khác gắn với tín ngƣỡng dân gian, chủ yếu là thờ Mẫu gọi là Điện Mẫu. Các kiến trúc mang tính chất trung tâm là nơi thờ Mẫu và tập hợp đƣợc nhiều tín đồ địa phƣơng gọi là Phủ. Ở đây ta bắt gặp những giá trị thẩm mỹ nghệ thuật khác nhau nhƣ: các nhang án, đồ tế tự, tƣợng và đặc biệt là những hoành phi thƣờng đƣợc sơn son thếp vàng Những nét kiến trúc của đình thƣờng gắn liền với các truyền thuyết. Vì vậy, đền là nơi lƣu giữ những giá trị văn hóa, lịch sử truyền thuyết dân tộc. Đây là một hình thức giáo dục truyền thống gắn với tín ngƣỡng thờ tổ tiên của ngƣời Việt. 1.3. Quan hệ giữa du lịch với các di tích lịch sử văn hóa. 1.3.1. Du lịch văn hóa. 1.3.1.1. Khái niệm Luật du lịch Việt Nam năm 2005 có định nghĩa về du lịch văn hóa nhƣ sau: Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống (điều 4 luật du lịch năm 2005). Trong cuốn nhập môn khoa học du lịch của tác giả Trần Đức Thanh có định nghĩa nhƣ sau: Du lịch văn hóa là hoạt động du lịch diễn ra chủ yếu trong môi trường nhân văn hay hoạt động du lịch đó tập trung khai thác tài nguyên du lịch văn 11
  12. hóa. Nhƣ vậy theo các định nghĩa trên tài nguyên du lịch văn hóa cũng chính là tài nguyên du lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch văn hóa là tất cả những gì do xã hội cộng đồng tạo ra có sức hấp dẫn du khách cùng các thành tố khác đƣợc đƣa vào phục vụ phát triển du lịch. Nhƣ vậy tài nguyên du lịch văn hóa đƣợc hiểu là bao gồm các di tích, công trình đƣơng đại, lễ hội, phong tục tập quán. Tài nguyên du lịch văn hóa chính là các di sản văn hóa do con ngƣời tạo ra bao gồm cả giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. - Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. - Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, đƣợc lƣu truyền bằng miệng, truyền nghề trình diễn và các hình thức lƣu giữ, lƣu truyền khác bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xƣớng dân gian, lối sống nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y học, dƣợc học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác. 1.3.1.2. Đặc trƣng của sản phẩm du lịch văn hóa - Sản phẩm du lịch văn hóa đƣợc thể hiện là vật thể (các di tích lịch sử văn hóa, các quần thể kiến trúc làng bản, đô thị cổ, nhà cửa ) hoặc phi vật thể ( các phong tục tập quán, lễ hội, các sinh hoạt văn hóa dân gian, trò chơi dân gian ) - Là sản phẩm có sự tham gia sáng tạo của con ngƣời. - Là sản phẩm mang dấu ấn lịch sử, truyền thống của cộng đồng qua các thời kỳ lịch sử. 1.3.1.3. Nội dung của sản phẩm du lịch văn hóa Du lịch văn hóa chỉ thực sự có nội dung văn hóa khi gắn liền hoạt động của 12
  13. nó với kiến trúc lịch sử, xã hội liên quan đến tuyến điểm du lịch. Các di tích lịch sử văn hóa, di chỉ khảo cổ, các lễ hội truyền thống, trò chơi dân gian, các công trình kiến trúc, nghệ thuật ẩm thực của dân địa phƣơng cho du khách thấy đƣợc khung cảnh cuộc sống đa dạng của mỗi cộng đồng dân cƣ. Đó là những bằng chứng xác thực nhất về đặc điểm văn hóa của mỗi cộng đồng dân cƣ nói riêng, mỗi tộc ngƣời hay mỗi quốc gia nói chung. Ở đó chứa đựng tất cả những gì tốt đẹp thuộc về truyền thống, những tinh hoa trí tuệ, tài năng, giá trị văn hóa nghệ thuật của mỗi quốc gia. Nó là những bằng chứng trung thành, xác thực, cụ thể nhất về đặc điểm văn hóa của mỗi nƣớc. Đƣợc gọi là di tích lịch sử văn hóa vì chúng đƣợc tạo ra bởi con ngƣời trong quá trình hoạt động sáng tạo lịch sử, hoạt động văn hóa, trong đó bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Những di tích lịch sử văn hóa có khả năng rất lớn, góp phần vào việc phát triển khoa học nhân văn khoa học lịch sử. Đó chính là bộ mặt quá khứ của mỗi tộc ngƣời, mỗi quốc gia. Di tích lịch sử văn hóa chứa đựng nhiều nội dung lịch sử khác nhau. Mỗi di tích có nội dung, giá trị văn hóa, lƣợng thông tin riêng biệt khác nhau, sử dụng và bảo vệ di tích một cách có hiệu quả. Chính vì vậy di tích lịch sử văn hóa đƣợc phân chia nhƣ sau: - Di tích văn hóa khảo cổ (hay di tích khảo cổ học) là những nơi ẩn dấu một bộ phận giá trị văn hóa ở dƣới lòng đất và trên mặt đất. Những giá trị văn hóa này thuộc về thời kỳ lịch sử, xã hội loài ngƣời chƣa có văn tự. Những di tích văn hóa khảo cổ học này đƣợc phân ra làm hai loại là di chỉ cƣ trú và di chỉ mộ táng. - Di tích lịch sử văn hóa: những di tích này (thƣờng gắn liền với các công trình kiến trúc có giá trị) ghi lại các sự kiện lịch sử của đất nƣớc, của địa phƣơng, những địa điểm ghi dấu chiến công xâm lƣợc áp bức, những nơi ghi dấu giá trị lƣu niệm về nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa khoa học. Di tích lịch sử văn hóa là không gian vật chất cụ thể khách quan, trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử do tập thể hoặc do cá nhân con ngƣời hoạt 13
  14. động sáng tạo ra trong lịch sử. Các di tích này không chỉ chứa những giá trị kiến trúc mà còn chứa đựng những giá trị văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần, đây là những địa điểm ẩn dấu một bộ phận giá trị văn hóa lịch sử của một quốc gia, dân tộc. - Di tích văn hóa nghệ thuật: Những công trình kiến trúc mang giá trị nghệ thuật tiêu biểu, đặc sắc, có tính thẩm mỹ cao và có giá trị toàn quốc hoặc khu vực nhƣ đình làng, Văn miếu Quốc Tử Giám, nhà thờ Phát Diệm - Di tích cách mạng: Di tích ghi lại một sự kiện quan trọng của lịch sử cách mạng địa phƣơng, có ảnh hƣởng đến sự phát triển của phong trào cách mạng của địa phƣơng, của khu vực hay của cả quốc gia (Điện Biên Phủ, Đống Đa ) - Các loại danh lam thắng cảnh: Những di tích có những yếu tố do thiên nhiên bài trí sẵn kết hợp bàn tay con ngƣời tạo dựng thêm (chùa Hƣơng, núi Bài Thơ, động Tam Thanh ) Các danh thắng cảnh này thƣờng chứa đựng trong nó những giá trị của nhiều loại di tích lịch sử văn hóa vì vậy nó có giá trị quan trọng đối với phát triển du lịch. 1.3.1.4. Tác động của hoạt động du lịch với các di tích lịch sử văn hóa Ngày nay khi nền kinh tế phát triển, đời sống của con ngƣời đƣợc nâng cao thì du lịch trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của con ngƣời. Đặc biệt là nhu cầu về du lịch văn hóa, du lịch nhân văn, du lịch trở về cội nguồn đang trở thành nhu cầu cần thiết và chính đáng của con ngƣời thì mối quan hệ giữa du lịch và các di tích lịch sử văn hóa càng trở nên gắn bó và khăng khít với nhau. Một trong những ý nghĩa quan trọng của du lịch là góp phần cho việc trao đổi, giao lƣu văn hóa giữa các vùng miền. Từ việc giao lƣu này các di tích lịch sử văn hóa có cơ hội tiếp nhận những cái mới trên cơ sở chọn lọc, giữ nguyên những nét đặc trƣng vốn có của mình, làm cho văn hóa dân tộc ngày càng thêm phong phú, tiên tiến đậm đà bản sắc, vừa có thể hội nhập với văn hóa khu vực mà không mất đi bản sắc riêng của mình theo phƣơng châm “hòa nhập nhưng không 14
  15. hòa tan”. Đồng thời qua quá trình giao lƣu văn hóa cũng góp phần quảng bá hình ảnh các di tích lịch sử văn hóa địa phƣơng đến với mọi ngƣời, mọi vùng miền khác nhau trên thế giới. Hoạt động du lịch còn góp phần to lớn vào chiến lƣợc bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa để phục vụ cho hoạt động du lịch. Nhu cầu về nâng cao nhận thức trong chuyến đi của du khách thúc đẩy các nhà cung ứng chú ý đến việc khôi phục, duy trì và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Và ngƣợc lại việc phát huy bản sắc văn hóa dân tộc lại góp phần làm cho du lịch văn hóa phát triển. Hoạt động du lịch phát triển đã tạo ra nguồn thu để đầu tƣ cho công tác bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa. Nhƣ vậy qua hoạt động du lịch các di tích lịch sử văn hóa đƣợc khai thác phục vụ du khách, mang lại nguồn lợi cho cộng đồng địa phƣơng, giúp cho ngƣời dân nhận thức rõ về giá trị của các di tích lịch sử văn hóa, góp phần nâng cao nhận thức của họ trong việc bảo vệ các di tích ấy. Các điểm du lịch còn tạo ra một không gian sống cho các hoạt động văn hóa dân gian truyền thống gắn với các di tích đặc biệt là các giá trị văn hóa phi vật thể, hoạt động du lịch góp phần thổi hồn vào di tích, đƣa các giá trị truyền thống tham gia vào cuộc sống hàng ngày với ngƣời dân. Điều này đã góp phần giáo dục lòng yêu nƣớc và tự hào dân tộc cho mỗi ngƣời dân địa phƣơng cũng nhƣ những du khách đến từ mọi miền Tổ quốc và kiều bào nƣớc ngoài. Không những thế hoạt động du lịch còn góp phần giáo dục con ngƣời về tình yêu thiên nhiên, tình yêu truyền thống tốt đẹp và những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Qua đó thể hiện lòng tự hào dân tộc, tình yêu đối với đất nƣớc với con ngƣời và môi trƣờng xung quanh. Đặc biệt là đối với thế hệ trẻ ngày nay thƣờng xuyên tiếp nhận những yếu tố văn hóa ngoại lai từ bên ngoài, thì việc giáo dục truyền thống, giáo dục ý thức hƣớng về cội nguồn có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Đây chính là yếu tố quyết định vì chỉ khi có tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, tự hào về dân tộc mình thì con ngƣời mới có ý thức bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn và phát huy truyền thống quý báu và tốt đẹp của dân tộc. Bên cạnh ý nghĩa giáo dục truyền thống thì thông qua hoạt động du lịch về 15
  16. với các di tích lịch sử văn hóa còn đáp ứng yêu cầu văn hóa tâm linh của khách du lịch. Bởi vì gắn liền với các di tích lịch sử văn hóa là các lễ hội, lễ tƣởng niệm các vị thần linh đƣợc thờ ở các di tích. Đó là những ngƣời có công lập ra làng xã, những tổ nghề, những anh hùng dân tộc Họ là những vị thần đƣợc nhân dân tôn sùng, có sức mạnh và có ảnh hƣởng rất lớn, chi phối đời sống tinh thần của con ngƣời. Tham gia vào các lễ hội du khách muốn hòa mình vào không khí tƣng bừng của các cuộc biểu dƣơng lực lƣợng, biểu dƣơng tình đoàn kết cộng đồng. Nhất là khi con ngƣời phải đối mặt với những khó khăn, áp lực của cuộc sống đời thƣờng thì họ luôn có nhu cầu hƣớng về thế giới tâm linh bên các vị thần để đƣợc xoa dịu những nỗi đau trần thế, giúp họ vƣợt qua đƣợc những khó khăn, những thử thách nghiệt ngã của cuộc đời dù chỉ là về mặt tinh thần. Khi gặp những nỗi đau, những điều bất hạnh hầu nhƣ bất kì ai cũng có nhu cầu đƣợc chia sẻ đƣợc an ủi, và chính những lúc rơi vào tình huống nhƣ vậy nhiều ngƣời sẽ hƣớng về thế giới tâm linh để cầu mong sự che chở, vỗ về. Ngoài ra hƣớng về đời sống tâm linh còn tạo ra sự đoàn kết, tạo ra sự kết nối quá khứ - hiện tại - tƣơng lai. Nó có sức lan truyền mạnh mẽ, tạo ra những cảm xúc, những rung động thiêng liêng và do đó nó có tác dụng tập hợp đoàn kết, gắn bó con ngƣời một cách có hiệu quả và dƣờng nhƣ còn là một cách giúp con ngƣời sống lƣơng thiện hơn, tốt đẹp hơn. Nhƣ vậy có thể nói rằng: du lịch với các di tích lịch sử văn hóa vừa mang tính giáo dục truyền thống vừa đáp ứng yêu cầu văn hóa tâm linh. Đây chính là những yếu tố thu hút một lƣợng lớn khách du lịch tham gia vào hoạt động du lịch văn hóa về với các di tích lịch sử văn hóa. Tuy nhiên xét về một khía cạnh nào đó thì du lịch cũng có những ảnh hƣởng không tốt đến các di tích lịch sử văn hóa: + Khi hoạt động du lịch ngày càng phát triển, khách du lịch ngày càng đông mà nhiều khi những ngƣời quản lý ở các di tích lại không chú ý tới quy mô, sức chứa làm cho các di tích lịch sử văn hóa bị khai thác quá mức dẫn tới tình trạng bị xuống cấp, bị xâm hại nghiêm trọng. 16
  17. + Khách du lịch đến tham quan các di tích lịch sử văn hóa quá đông mà không đƣợc hƣớng dẫn cụ thể hay không có ý thức vô tình đã làm phá vỡ cảnh quan môi trƣờng xung quanh khu vực có di tích. Cộng thêm việc xả rác bừa bãi cũng là một vấn đề đáng báo động gây ô nhiễm môi trƣờng ở các khu vực di tích lịch sử văn hóa vốn đƣợc coi là những chốn thanh tịnh. + Mặt khác do chạy theo lợi nhuận kiếm lời không ít ngƣời đã làm méo mó các giá trị đích thực của các di tích lịch sử văn hóa bằng việc thuyết minh sai, chèo kéo khách mua hàng, bán hàng kém chất lƣợng Điều này vô tình đã làm mất đi ấn tƣợng không tốt của của du khách về các di tích lịch văn hóa. Hoạt động du lịch phát triển còn kéo theo nhiều tệ nạn phát sinh tại các khu vực có di tích nhƣ: mê tín dị đoan, ngƣời ăn xin quá đông hay một số kẻ lợi dụng lúc đông ngƣời đã trộm cắp đồ của khách gây hoang mang cho du khách. Chính những hành động ấy đã làm mai một đi truyền thống dân tộc, làm cho những giá trị tốt đẹp đã có từ lâu đời của dân tộc bị mờ dần do sự lạm dụng vì mục đích kinh tế. 1.3.1.5. Xu hƣớng phát triển của du lịch với các di tích lịch sử văn hóa - Gia tăng nhanh chóng về mặt số lƣợng: Nền kinh tế phát triển dẫn đến giá cả các dịch vụ giảm đi trong khi mức thu nhập của họ lại tăng. Thu nhập tăng càng cao thì càng nhiều ngƣời đi du lịch. Đời sống xã hội đƣợc cải thiện, trình độ giáo dục đƣợc nâng cao thì nhu cầu đi du lịch tăng lên rõ rệt, sự ham hiểu biết và mong muốn tìm hiểu cũng tăng lên trong nhân dân, thói quen đi du lịch hình thành ngày càng rõ. Mặt khác do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, máy móc dần dần thay thế sức lao động của con ngƣời nên làm giảm bớt thời gian làm việc, tăng thời gian rỗi. Điều này góp phần làm cho du khách gia tăng đáng kể. Quá trình đô thị hóa tạo nên một lối sống đặc biệt là lối sống thành thị. Quá trình đô thị hóa làm thúc đẩy quá trình cải thiện điều kiện vật chất và văn hóa cho nhân dân, làm thay đổi tâm lý và hành vi của con ngƣời. Mặt khác, quá trình đô 17
  18. thị hóa làm giảm chất lƣợng môi trƣờng, có ảnh hƣởng xấu tới sức khỏe con ngƣời. Những tác động tiêu cực của quá trình đô thị hóa làm tăng nhu cầu nghỉ ngơi du lịch của ngƣời dân thành phố. Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch nhƣ lƣu trú, vận chuyển ngày càng thuận tiện giúp du khách đi lại dễ dàng hơn. - Xã hội hóa thành phần du khách: Trƣớc chiến tranh thế giới thứ II du lịch chủ yếu dành cho tầng lớp quý tộc, tầng lớp trên của xã hội. Sau chiến tranh du lịch không còn là đặc quyền của tầng lớp này nữa. Xu thế quần chúng hóa thành phần du khách trở nên phổ biến ở nhiều nƣớc. Và trong bối cảnh đó du lịch đại chúng thời hiện đại đã khẳng định mình. - Mở rộng địa bàn: Sau khi ngƣời Anh chỉ ra giá trị du lịch của Địa Trung Hải với 3 chữ S, luồng khách Bắc - Nam là hƣớng du lịch chủ đạo đƣợc quan sát trên thế giới. Ngƣời Anh, Hà Lan, Đức, Bỉ đổ về các miền bờ biển Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Ý. Ngày nay hƣớng Bắc - Nam vẫn là hƣớng hấp dẫn nhiều du khách nhƣng không còn giữ vai trò áp đảo nhƣ trƣớc nữa. Luồng khách thứ 2 ngày nay cũng đã thịnh hành là hƣớng về các vùng núi cao phủ tuyết đƣợc mệnh danh là vàng trắng với các loại hình du lịch: trƣợt tuyết, leo núi, săn bắn Một luồng khách tuy mới phát triển nhƣng rất có triển vọng, trong tƣơng lai gần là chuyển động hƣớng Tây - Đông. Theo các chuyên gia thế kỉ XXI đƣợc gọi là thế kỉ châu Á - Thái Bình Dƣơng. Trong những năm gần đây du khách đến các nƣớc này với mục đích làm ăn ký kết hợp đồng, nghiên cứu đầu tƣ một số khác đến đây vì cảnh quan hay vì muốn tìm hiểu nền văn hóa phƣơng Đông giàu bản sắc và phần nào kì bí đối với họ. - Kéo dài thời vụ du lịch: Một trong những đặc điểm của hoạt động du lịch là mang tính thời vụ rõ 18
  19. nét. Ngày nay với trình độ của khoa học kĩ thuật và khả năng kinh tế, ngƣời ta đã và đang khắc phục những hạn chế của thiên nhiên, do tính thời vụ là một yếu tố bất lợi trong kinh doanh cho nên ngƣời ta phải tìm mọi cách để hạn chế ảnh hƣởng của nó nhƣ mở rộng loại hình du lịch, dịch vụ do đó góp phần tăng lƣợng khách trong những năm gần đây. Du lịch văn hóa đang có xu hƣớng gia tăng, bên cạnh loại hình du lịch tự nhiên, du lịch sinh thái, hoạt động du lịch văn hóa cũng không ngừng phát triển. Có xu hƣớng này là do một số nguyên nhân sau: Các đối tƣợng văn hóa đƣợc coi là tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn với du khách. Nếu nhƣ tài nguyên du lịch thiên nhiên hấp dẫn du khách bởi sự hoang sơ, độc đáo và hiếm có của nó thì tài nguyên du lịch văn hóa thu hút du khách bởi tính phong phú đa dạng, độc đáo và tính truyền thống cũng nhƣ tính địa phƣơng của nó, các đối tƣợng văn hóa là cơ sở để tạo nên các loại hình du lịch văn hóa phong phú có khả năng thu hút đông đảo du khách với mục đích tham quan nghiên cứu và nhiều mục đích khác. Các tài nguyên du lịch văn hóa thƣờng tập trung ở các điểm quần cƣ và thành phố lớn. Vì vậy thuận tiện cho du khách tham quan. Tài nguyên du lịch văn hóa không mang tính thời vụ, không phụ thuộc vào các điều kiện khí hậu và các điều kiện khác. Vì vậy du khách có thể sử dụng loại hình du lịch này vào bất kỳ thời gian nào. Một trong những đặc trƣng của tài nguyên du lịch văn hóa là việc nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ văn hóa, nghề nghiệp, lứa tuổi của khách du lịch. Ngày nay trình độ văn hóa cộng đồng không ngừng đƣợc nâng cao, du lịch trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của con ngƣời. Số ngƣời đi du lịch ngày càng nhiều xuất phát từ lòng ham hiểu biết, nhu cầu thích thƣởng thức những cảnh đẹp, mới lạ, những nền văn hóa độc đáo của các nƣớc xa gần. Xu hƣớng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra sôi động. Các quốc gia trên thế giới đang trong quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế, văn hóa và nhiều lĩnh vực khác. Vậy nhu cầu giao lƣu, tìm hiểu các nền văn hóa của các dân tộc khác nhau 19
  20. trên thế giới cũng là một động lực thúc đẩy khách du lịch tham gia vào hoạt động du lịch văn hóa, khiến cho du lịch văn hóa ngày một phát triển không ngừng. Tiểu kết chƣơng 1. Thái Bình là một tỉnh có các di tích lịch sử văn hóa rất phong phú và đa dạng. Có đƣợc điều đó là do bên cạnh việc đƣợc thiên nhiên ƣu đãi cho một địa thế thuận lợi thì con ngƣời Thái Bình với bàn tay và khối óc của mình cộng với tâm nguyện luôn hƣớng về cội nguồn từ bao đời nay đã tạo nên những công trình kiến trúc dân gian giàu tính văn hóa và tính lịch sử. Những công trình này không chỉ có ý nghĩa về mặt tâm linh mà nếu đƣợc khai thác một cách hợp lý sẽ góp phần mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội nhờ phát triển du lịch tại đây đặc biệt là du lịch văn hóa. Du lịch văn hóa hiện nay đang là một hƣớng phát triển hiệu quả của nghành du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Thái Bình nói riêng. Hệ thống các di tích lịch sử văn hóa, các công trình kiến trúc lịch sử đó đã đóng góp vai trò quan trọng trong đời sông tâm linh của ngƣời Việt, đồng thời đây cũng là tài nguyên quý giá cho sự phát triển của du lịch. Hoạt động du lịch đã khai thác rất nhiều các yếu tố văn hóa của cộng đồng dân cƣ Việt đƣợc đặc biệt quan tâm chú ý. Những công trình kiến trúc nhƣ: đình, chùa, miếu, đền, các di tích cách mạng gắn với các sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân cƣ Việt. Hoạt động du lịch văn hóa khai thác các yếu tố này để giúp cho du khách có thể hiểu đƣợc lịch sử của mỗi vùng miền và cảm nhận đƣợc những nét văn hóa đặc trƣng của từng vùng đất. Bên cạnh đó hoạt động du lịch văn hóa còn góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống của dân tộc biết giữ gìn những truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp của quê hƣơng. Chính vì vậy hiện nay sự phát triển du lịch văn hóa đang trở thành một hƣớng đi đúng đắn để thúc đẩy du lịch Thái Bình ngày một phát triển. 20
  21. CHƢƠNG 2 : THỰC TRẠNG KHAI THÁC DU LỊCH TẠI DI TÍCH CHÙA KEO – THÁI BÌNH. 2.1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Thái Bình. 2.1.1 Địa lí và cảnh quan. Thái Bình là một tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt Nam. Diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 1.545.84 km2, toàn tỉnh có 7 huyện, 1 thị xã, 284 xã, phƣờng, thị trấn. Trung tâm tỉnh là thành phố Thái Bình cách thủ đô Hà Nội 110 km về phía đông nam, cách thành phố Hải Phòng 70 km về phía tây nam. Thái Bình tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố: Hải Dƣơng ở phía bắc, Hƣng Yên ở phía tây bắc, Hải Phòng ở phía đông bắc, Hà Nam ở phía tây, Nam Định ở phía tây và tây nam. Phía đông là biển Đông (vịnh Bắc Bộ). Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. - Địa Hình Địa hình khá bằng phẳng với độ dốc thấp hơn 1%; độ cao phổ biến từ 1–2m trên mực nƣớc biển, thấp dần từ bắc xuống đông nam. Thái Bình có bờ biển dài 52 km. Tỉnh này có 4 con sông chảy qua: phía bắc và đông bắc có sông Hóa dài 35 km, phía bắc và tây bắc có sông Luộc (phân lƣu của sông Hồng) dài 53 km, phía tây và nam là đoạn hạ lƣu của sông Hồng dài 67 km, sông Trà Lý (phân lƣu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh từ tây sang đông dài 65 km. Các sông này tạo ra 4 cửa sông lớn: Diêm Điền (Thái Bình), Ba Lạt, Trà Lý, Lân. Do đặc điểm sát biển nên chúng đều chịu ảnh hƣởng của chế độ thủy triều, mùa hè mức nƣớc dâng nhanh với lƣu lƣợng lớn và hàm lƣợng phù sa cao, mùa đông lƣu lƣợng giảm nhiều và lƣợng phù sa không đáng kể khiến nƣớc mặn ảnh hƣởng sâu vào đất liền từ 15–20 km.Tọa độ: 20°18′đến 20°44′độ vĩ bắc, 106°06′đến 106°39′độ kinh đông. - Khí hậu - Thủy văn 21
  22. Thái Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm: mùa hè nóng ẩm, mƣa nhiều từ tháng 5 đến tháng 9; mùa đông khô lạnh từ tháng 11 năm trƣớc đến tháng 3 năm sau; tháng 10 và tháng 4 là mùa thu và mùa xuân tuy không rõ rệt nhƣ các nƣớc nằm phía trên vành đai nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình: 23,5 °C. Số giờ nắng trong năm: 1.600-1.800 giờ. Độ ẩm tƣơng đối trung bình: 85-90% Tỉnh Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nên hàng năm đón nhận một lƣợng mƣa lớn (1.700-2.200mm), lại là vùng bị chia cắt bởi các con sông lớn, đó là các chỉ lƣu của sông Hồng, trƣớc khi chạy ra biển. - Tài nguyên nƣớc Tài nguyên nƣớc trong dòng chảy mặt ở Thái Bình rất phong phú. Mật độ sông ngòi dày đặc chứa và lƣu thông một lƣợng nƣớc mặt khổng lồ. Nguồn cung cấp hàng tỷ m3 từ các con sông lớn nhƣ sông Hồng, sông Trà Lý, sông Thái Bình, cộng vào đó là lƣợng nƣớc mƣa nhận đƣợc hàng năm cũng rất lớn (hàng tỉ tấn). Đây là điều kiện thuận lợi để cƣ dân sử dụng tài nguyên nƣớc mặt phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất ở mọi nơi trong tỉnh. Các dòng chảy mặt đã đƣợc sử dụng tƣới tiêu cho đồng ruộng thông qua hệ thống thủy lợi: mƣơng, máng tƣới tiêu, hệ thống cống tự chảy Dòng chảy mặt của các con sông nội đồng ngoài tác dụng tƣới cho đồng ruộng, phục vụ sinh hoạt của cƣ dân, còn mang theo các chất thải ở thể lỏng chảy ra biển Đông (nƣớc thải sinh hoạt, nƣớc thau chua, rửa mặn đồng ruộng). Hệ thống dòng chảy mặt, nhất là hệ thống sông ngòi nội đồng chảy quanh co, ngang dọc trên đất Thái Bình làm thành cảnh quan, tạo ra một khung cảnh sông nƣớc, đồng ruộng, vƣờn cây trái, hài hòa, yên bình, thơ mộng. Các tầng chứa nƣớc nông đều có hàm lƣợng sắt cao, vƣợt quá tiêu chuẩn cho phép; Để dùng đƣợc phải qua xử lý, khử bớt sắt mới đảm bảo tiêu chuẩn cho phép. Hầu hết các giếng khoan đã có biểu hiện ô nhiễm các chất hữu cơ do tàn tích của các loài thực vật, có xuất hiện các ion độc hại nhƣ NH4, NO2, P04, S 22
  23. Nƣớc ngầm tầng mặt của Thái Bình, về mùa khô chỉ đào sâu xuống 1-1,5m, mùa mƣa chỉ đào sâu chƣa đến 1m. Tuy nhiên, đây chỉ là nƣớc ngầm trên mặt, nếu đào sâu xuống sẽ gặp nƣớc mặn và chua, độ trong không đảm bảo, không thể dùng trong sinh hoạt ngay đƣợc mà cần phải xử lý. Càng sâu trong đất liền (Quỳnh Phụ, Hƣng Hà) thì mức độ mặn, chua giảm hơn. - Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng ở 3 tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Tỉnh Thái Bình có 2 trong số 5 khu vực đa dạng sinh học đƣợc UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới châu thổ sông Hồng, 3 khu vực còn lại thuộc Nam Định và Ninh Bình. Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng nằm trên địa bàn các xã ven biển thuộc 3 tỉnh Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình đã đƣợc UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới từ năm 2004 với những giá trị nổi bật toàn cầu về đa dạng sinh học và có ảnh hƣởng lớn đến sự sống của nhân loại. Khu dự trữ sinh quyển ven biển Thái Bình gồm 2 phần nằm ở cửa biển, nơi giáp Hải Phòng và Nam Định: Rừng ngập mặn Thái Thuỵ: thuộc các xã Thụy trƣờng, Thụy Xuân, Thụy Hải, Thị trấn Diêm Điền, Thái Đô, Thái Thƣợng. Khu bảo tồn thiên nhiên Tiền Hải: thuộc các xã Nam Hƣng, Nam Phú, Nam Thịnh, Nam Hƣng, Nam Phú, Nam Thịnh. 2.1.2.Dân cƣ, kinh tế,xã hội. 2.1.2.1. Dân cƣ và truyền thống lịch sử. * Dân số Năm 2011, Thái Bình có 1.786.000 ngƣời,với mật độ dân số là 1.138 ngƣời/ km² Thành phần dân số: - Nông thôn: 90,1%. 23
  24. - Thành thị: 9,9%. Phấn đấu đạt tỉ lệ đô thị hoá 22,3% năm 2015, đến năm 2020 tỉ lệ đô thị hoá đạt khoảng 40%, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động khoảng 67%. * Lịch Sử Vùng đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay, vào thời Bắc Thuộc trƣớc thế kỉ 10, thuộc hƣơng Đa Cƣơng (vùng đất từ sông Luộc ra đến biển) của quận Giao Chỉ. Thời 12 sứ quân vùng đất này là căn cứ của sứ quân Trần Lãm. Tới nhà Hậu Lê, thời vua Lê Thánh Tông về sau vùng đất Thái Bình ngày nay thuộc trấn Sơn Nam. Đến cuối thời nhà Lê trung hƣng sang đầu nhà Nguyễn, vùng này thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Năm 1832, vua Minh Mạng nhà Nguyễn cắt hai phủ Thái Bình, Kiến Xƣơng nhập vào tỉnh Nam Định, nhập phủ Tiên Hƣng vào tỉnh Hƣng Yên. Ngày 21 tháng 3 năm 1890 Toàn quyền Đông Dƣơng ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình, gồm phủ Thái Bình, phủ Kiến Xƣơng (tách từ tỉnh Nam Định) và huyện Thần Khê (tách từ tỉnh Hƣng Yên và sáp nhập vào phủ Thái Bình - sau đổi tên là phủ Thái Ninh). Tỉnh lỵ đặt tại phủ lỵ Kiến Xƣơng, bờ nam sông Trà Lý. Ngày 28 - 11- 1894, Toàn quyền Đông Dƣơng ra nghị định cắt hai huyện Hƣng Nhân và Duyên Hà thuộc phủ Tiên Hƣng, tỉnh Hƣng Yên sáp nhập vào tỉnh Thái Bình; lấy sông Luộc làm ranh giới giữa hai tỉnh Hƣng Yên và Thái Bình. Nhƣ vậy lúc mới thành lập, tỉnh Thái Bình gồm có 3 phủ Kiến Xƣơng, Thái Ninh, Tiên Hƣng với tổng cộng là 12 huyện Đông Quan, Duyên Hà, Hƣng Nhân, Trực Định, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thanh Quan, Thƣ Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Thần Khê, Vũ Tiên. Sau đó, đơn vị hành chính cấp phủ bị loại bỏ, các huyện có sở lị phủ thì đổi theo tên của phủ kiêm quản trƣớc đó: Thanh Quan thành Thái Ninh, Trực Định thành Kiến Xƣơng, Thần Khê thành Tiên Hƣng. 24
  25. Tỉnh lị tỉnh Thái Bình khi mới thành lập năm 1890, đặt tại xã Kỳ Bố, trƣớc là huyện lị của huyện Vũ Tiên (từ thời Minh Mạng). Sau này, tỉnh lị Thái Bình phát triển mở rộng sang các huyện lân cận thành thị xã Thái Bình, rồi thành thành phố Thái Bình. Sau năm 1954, tỉnh Thái Bình có 13 đơn vị hành chính gồm thị xã Thái Bình và 12 huyện: Đông Quan, Duyên Hà, Hƣng Nhân, Kiến Xƣơng, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thái Ninh,Thƣ Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Tiên Hƣng, Vũ Tiên. Ngày 17 tháng 6 năm 1969, hợp nhất 2 huyện Đông Quan và Tiên Hƣng thành huyện Đông Hƣng; hợp nhất 2 huyện Hƣng Nhân và Duyên Hà thành huyện Hƣng Hà; hợp nhất 2 huyện Quỳnh Côi và Phụ Dực thành huyện Quỳnh Phụ; hợp nhất 2 huyện Thái Ninh và Thụy Anh thành huyện Thái Thụy; hợp nhất 2 huyện Vũ Tiên và Thƣ Trì thành huyện Vũ Thƣ, tỉnh Thái Bình còn 1 thị xã và 7 huyện. Ngày 29 tháng 4 năm 2004, chuyển thị xã Thái Bình thành thành phố Thái Bình. 2.1.2.2. Kinh tế - xã hội * Kinh tế. - Năm 2013 Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2013 ƣớc đạt 37.188 tỷ đồng, tăng 8,8% so với năm 2012;Tổng giá trị sản xuất ƣớc tăng 9,74%. Cơ cấu nông, lâm thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ năm 2013 tƣơng ứng: 31,97% - 34,76% - 33,27%, GDP bình quân đầu ngƣời năm 2012 là 24,8 triệu/ngƣời, năm 2013 là 26,1 triệu / ngƣời. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (CPI) của tỉnh Thái Bình năm 2013 xếp thứ 21, tăng 4 bậc so với năm 2012. - 6 tháng đầu năm 2014 Giá trị sản xuất công nghiệp ƣớc đạt 16.165,3 tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trƣớc, đạt 47,18% kế hoạch 2014. Tổng mức lƣu chuyển hàng hoá bán lẻ 6 tháng đầu năm 2014 ƣớc đạt 11.218 tỷ đồng, tăng 8,7% so cùng kỳ năm 25
  26. trƣớc, đạt 43,1% kế hoạch năm 2014. Kim ngạch xuất khẩu ƣớc đạt 446,85 triệu USD, tăng 11,23% so với cùng kỳ năm trƣớc, đạt 41,57% kế hoạch năm 2014; Kim ngạch nhập khẩu ƣớc đạt 470,72 triệu USD, tăng 20,55% so với cùng kỳ năm trƣớc, đạt 47,55% kế hoạch năm 2014. * Văn Hóa - Xã Hội Có gần 82 lễ hội đặc sắc, 16 loại hát múa, trò chơi nhƣ: chiếu chèo "làng Khuốc", trò múa rối nƣớc làng Nguyên Xá (Đông Hƣng) và làng vƣờn Bách Thuận (Vũ Thƣ) v.v . Phát triển du lịch văn hoá gắn với các lễ hội, giỗ tổ Đền thờ vƣơng triều nhà Trần, tham quan chùa Keo, đền Mẫu Đợi xã Đông Hải huyện Quỳnh Phụ, đền Đồng Bằng xã An Lễ huyện Quỳnh Phụ, đền Tiên La, du lịch sinh thái gắn với xây dựng Khu du lịch Cồn vành, Cồn Thủ, du lịch làng nghề (Đồng Xâm, Hồng Thái Capital - Kiến Xƣơng ), du lịch biển (Đồng Châu - Tiền Hải). 2.1.3. Khái quát về hoạt động du lịch ở Thái Bình. 2.1.3.1. Tài nguyên du lịch Thái Bình. Thái Bình là một tỉnh đồng bằng, có địa hình bằng phẳng, sông ngòi, hồ ao nhiều, khí hậu mát mẻ, giao thông thuận tiện, có nhiều làng nghề với nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống có giá trị; nhiều di tích lịch sử và văn hóa với các lễ hội, trò chơi, điệu múa dân gian đặc sắc, hấp dẫn. Đó là những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế du lịch. Trong quy hoạch phát triển du lịch Quốc gia, Thái Bình nằm trong không gian trung tâm du lịch Hà Nội và phụ cận, thuộc vùng du lịch Bắc Bộ với tiềm năng du lịch sinh thái; du lịch văn hóa, lễ hội, làng nghề, du lịch biển độc đáo. Với những điều kiện thuận lợi về địa lý, dân cƣ và đặc thù của vùng đất lấn biển vừa cổ xƣa, vừa mới mẻ, Thái Bình đƣợc xem là một trong những nơi có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế du lịch. 26
  27. Cùng với tài nguyên du lịch sinh thái - tự nhiên, còn có tài nguyên du lịch nhân văn. Theo thống kê, Thái Bình có trên 1.400 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó có 261 di tích đƣợc xếp hạng; các di tích lịch sử - văn hóa đƣợc phân bố ở khắp các huyện, thị trong tỉnh. Chẳng hạn, cụm di tích Thành phố Thái Bình và vùng phụ cận, bao gồm: Khu di tích chùa Keo, đền Đồng Xâm, chùa Đoan Túc, đình Thƣợng Liệt, khu lƣu niệm Bác Hồ, cụm di tích Hƣng Hà, bao gồm: Khu lăng mộ các vua Trần, cung Long Hƣng, từ đƣờng Lê Quý Đôn, đền Tiên La, Chùa Diệc cụm di tích đền Đồng Bằng và phụ cận, gồm: Di tích các đình An Cổ, Vân Đồn, Ngũ Thôn, Bích Đoài, Tử Các, khu lƣu niệm Nguyễn Đức Cảnh Đó là những cụm, nhóm di tích - lịch sử văn hóa có giá trị và khả năng thu hút khách du lịch cao. Mỗi nhóm di tích trên đều có những nội dung và đặc trƣng khác nhau, có thể khai thác kết hợp với du lịch sinh thái để hình thành các tuyến du lịch tổng hợp và tuyến du lịch chuyên đề. Bên cạnh mạng lƣới di tích lịch sử - văn hóa, còn có làng nghề với nhiều lớp nghệ nhân đã tạo ra những sản phẩm độc đáo, từ lâu đƣợc khách du lịch trong nƣớc và ngoài nƣớc biết đến. Các điểm du lịch chính. 1. Chùa Keo. 2. Khu lăng mộ các vua Trần và đền Trần. 3. Cụm di tích lƣu niệm danh nhân Lê Quý Đôn. 4. Khu lƣu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. 5. Đền Đồng Bằng, đền Tiên La và đền Đồng Xâm. 6. Làng kháng chiến Nguyên Xá. 7. Làng vƣờn Bách Thuận. 8. Khu di lịch Đồng Châu – Cồn Vành – Cồn Thủ. 9. Cụm du lịch Diêm Điền. 27
  28. - Phủ thờ chùa Muối. - Khu lƣu niệm Nguyễn Đức Cảnh. 2.1.3.2. Cơ sở hạ tầng,cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch. a. Cơ sở hạ tầng. * Giao Thông Thái Bình là một tỉnh nằm trong vùng ảnh hƣởng trực tiếp của tam giác tăng trƣởng kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh là địa bàn chịu tác động lớn của quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong vùng. Thái Bình cách thủ đô Hà Nội 110km, cách thành phố Hải Phòng 70km, có trên 50km bờ biển với 5 cửa sông lớn (Ba Lạt, Lân, Trà Lý, Diêm Điền, Thái Bình), nên thuận lợi cho giao lƣu kinh tế hƣớng ra biển. Đƣờng bộ: Quốc lộ 10 sang Nam Định, quốc lộ 39 nối Hƣng Yên - Diêm Điền và Hải Phòng; đƣờng 217 sang Hải Dƣơng, Quốc lộ 37 nối Cảng Diêm Điền với tỉnh Yên Bái. Đƣờng thuỷ: Cảng Diêm Điền, đang đầu tƣ xây dựng để tàu 1000 tấn có thể ra vào. Khởi công xây dựng Cầu Hiệp nối 2 tỉnh Thái Bình và Hải Dƣơng, chiều dài cầu 542.5 m, khổ rộng 12m, tổng mức đầu tƣ 245.425 tỉ đồng. Dự án xây dựng Cầu vƣợt sông Hồng và tuyến đƣờng bộ nối 2 tỉnh Thái Bình, Hà Nam với đƣờng cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình (khởi công ngày 25/1/2010). Giai đoạn 2 của dự án nối quốc lộ 10 với đƣờng ven biển Tiền Hải - Thái Thuỵ. Dự án tuyến đƣờng ôtô cao tốc ven biển đƣợc chính phủ phê duyệt, dự án tại Thái Bình qua 2 huyện : Thái Thụy và Tiền Hải. Đƣờng 39B (TL458) nối Thành Phố Thái Bình - Kiến Xƣơng - Tiền Hải - Cảng Diêm Điền (Thái Thuỵ), Đƣờng 39B nối thị trấn Thanh Nê với Thị Trấn Diêm Điền dài 28.9 km. Phƣơng tiện vận tải đƣợc đầu tƣ, nâng cấp, vận tải hành khách phần lớn bằng xe có chất lƣợng cao, đảm bảo vận chuyển an toàn và đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu đi lại của nhân dân. 28
  29. * Hệ thống điện Hệ thống lƣới điện tỉnh Thái Bình luôn không ngừng đƣợc đầu tƣ xây dựng và phát triển. Hiện nay, tỉnh có 1 trạm biến áp 220kV (tại xã nguyên Xá, huyện Đông Hƣng) và 42,2Km đƣờng dây 220KV; 8 trạm biến áp 110kV và 143Km đƣờng dây 110kV đƣợc bố trí trên tất cả 8 huyện, thành phố trong tỉnh, hệ thống lƣới điện này thực hiện nhiệm vụ nhận điện từ lƣới điện quốc gia truyền tải điện năng về cung cấp cho tỉnh Thái Bình và liên thông với các tỉnh lân cận, để tạo điều kiện điều tiết nguồn điện ổn định, đảm bảo hệ số cung cấp điện, an toàn, ổn định cao khi có sự cố lƣới truyền tải điện xẩy ra. Trong những năm qua, tỉnh Thái Bình luôn luôn đƣợc sự quan tâm, giúp đỡ và tạo điều kiện của Bộ Công Thƣơng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các Bộ, Ngành ở Trung ƣơng, Thái Bình đã căn bản hoàn thành quy hoạch phát triển lƣới điện giai đoạn 2006-2010 và tiếp tục triển khai các kế hoạch trong giai đoạn tiếp theo. * Giáo Dục Ngành Giáo dục - Đào tạo và khoa học công nghệ đƣợc giữ vững và phát triển. Trong năm học 2012 - 2013, Thái Bình là một trong 5 tỉnh, thành phố đầu tiên trong cả nƣớc đƣợc công nhận đạt phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi; học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt tỷ lệ cao; số học sinh đỗ đại học, cao đẳng xếp thứ 2 toàn quốc Năm 2004, Thái Bình có 295 trƣờng mầm non, 293 trƣờng tiểu học, 276 trƣờng trung học cơ sở, 39 trƣờng trung học phổ thông. * Y tế Theo số liệu thống kê năm 2012, các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh Thái Bình bao gồm: + Tuyến tỉnh,thành phố : Bệnh viện Đa khoa Tỉnh; Bệnh viện Phụ sản; Bệnh viện Nhi; Bệnh viện Tâm thần; Bệnh viện Mắt; Bệnh viện Lao & phổi; Bệnh viện Điều dƣỡng phục hồi chức năng; Bệnh viện Y học cổ truyền Thái Bình; Ban 29
  30. bảo vệ chăm sóc tỉnh Thái Bình và 7 trung tâm y tế, với tổng số giƣờng bệnh là 1.565 giƣờng. + Tuyến huyện,xã : Bệnh viện Đa khoa Đông Hƣng, Bệnh viện Đa khoa Hƣng Nhân, Bệnh viện Đa Khoa Nam Tiền Hải, Bệnh viện Đa khoa Thái Ninh, Bệnh viện Đa khoa Vũ Thƣ, Bệnh viện Đa khoa Hƣng Hà, Bệnh viện Đa khoa Kiến Xƣơng, Bệnh viện Đa khoa Phụ Dực, Bệnh viện Đa khoa Thái Thuỵ , Bệnh viện Đa khoa Tiền Hải, Bệnh viện Đa khoa Quỳnh Phụ,với tổng số giƣờng bệnh là khoảng 1.430 giƣờng. Bên cạnh đó còn có tổng số 278 trạm y tế trên địa bàn các phƣờng xã của tỉnh,thành phố Thái Bình. Tỉnh cũng đang triển khai cấp phép xây dựng Bệnh viện Đa khoa 1000 giƣờng, nâng cấp bệnh viện đa khoa tỉnh từ 500 giƣờng lên 700 giƣờng,bệnh viện nhi, Indochina Hospital, bệnh viện Cuộc Sống Thái Bình và đang triển khai xây dựng khu trung tâm y tế tỉnh đây là tổ hợp của các bệnh viện và khu trung tâm chữa bệnh chất lƣợng cao đáp ứng đƣợc nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân thành phố, của tỉnh và các tỉnh Đồng bằng sông Hồng. b. Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch. Những năm qua toàn tỉnh Thái Bình đã tập trung nâng cấp, xây mới đầu tƣ vào hệ thống khách sạn nhà hang,năm 2012 với 140 cơ sở lƣu trú trong đó có 01 khách sạn xây dựng theo tiêu chuẩn 4 sao, 04 khách sạn 2 sao và 01 khách sạn 1 sao góp phần nâng cao sức chứa để đón khách du lịch: Tại khu vực trung tâm thành phố có khoảng 20 khách sạn với tổng số hơn 400 phòng. Đặc biệt có khách sạn Dầu Khí với tiêu chuẩn 4 sao, Tọa lạc ngay tại trung tâm thành phố với ƣu thế tuyệt đối về giao thông cùng với cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời, hệ thống tổ hợp khách sạn Dầu khí Thái Bình đƣợc trang bị đầy đủ về hạ tầng của một khách sạn hiện đại vào bậc nhất khu vực các tỉnh ven đồng bằng sông Hồng. Khách sạn Dầu Khí Thái Bình cũng là công trình đạt tiêu chuẩn 4 sao đầu tiên và duy nhất trên Quê Lúa Thái Bình. - Tại huyện Kiến Xƣơng có khoảng 7 khách sạn với tổng số 100 phòng. - Tại huyện Đông Hƣng có khoảng 3 khách sạn với tổng số 90 phòng. 30
  31. - Tại huyện Hƣng Hà có khoảng 14 khách sạn nhà hàng với tổng số hơn 100 phòng. - Tại huyện Tiền Hải có khoảng 20 khách sạn với tổng số hơn 350 phòng. - Tại huyện Vũ Thƣ có khoảng 15 khách sạn với tổng số hơn 180 phòng. - Tại huyện Quỳnh Phụ có khoảng 13 khách sạn với tổng số hơn 170 phòng. - Tại huyện Thái Thụy có khoảng 16 khách sạn với tổng số hơn 100 phòng. 2.1.3.3 Tình hình kinh doanh du lịch tại Thái Bình. a. Số lƣợng khách : Số lƣợng du khách tăng dần trong những năm gần đây, tỷ lệ tăng bình quân là 17%; Năm 2006 số lƣợng khách là 257.000 lƣợt ngƣời, trong đó khách quốc tế là 3.400 lƣợt ngƣời; năm 2009,đã có 302.500 lƣợt khách du lịch đến với Thái Bình trong đó có 5.182 lƣợt khách quốc tế, đến năm 2012 số lƣợng khách là: 525.000 lƣợt ngƣời, trong đó khách quốc tế 8.900 lƣợt ngƣời. Khách quốc tế hàng năm đến Thái Bình không nhiều Thị trƣờng khách chủ yếu là khách du lịch từ Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Xing ga po, Nhật Bản, Philippin, Thái Lan, Trung quốc Số lƣợng khách quốc tế chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số khách du lịch đến Thái Bình. Khách nội địa vẫn chiếm 98% lƣợng khách đến Thái Bình và thƣờng là tham quan lễ hội, khách nghỉ dƣỡng chiếm tỷ lệ nhỏ. Du khách đến Thái Bình đi theo nhóm do các công ty du lịch lữ hành tổ chức hay các tổ chức công đoàn của cơ quan xí nghiệp. Khách du lịch nội địa chủ yếu đến từ Hà Nội và các tỉnh lân cận nhƣ Hải Phòng, Hải Dƣơng, Nam Định. b. Doanh thu. Theo thống kê của sở Thƣơng mại và du lịch Thái Bình thì doanh thu từ du lịch trong giai đoạn 2000 – 2005: 54,1 tỷ đồng. Cho đến năm 2006 doanh thu từ du lịch của tỉnh TháI Bình đạt 67 tỷ đồng, đến năm 2012 đạt 172 tỷ đồng. Hiện nay, tỉnh Thái Bình đang tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng giảm mạnh tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Hàng năm, ngành du lịch tỉnh Thái Bình trích ra một phần ngân sách, 31
  32. đóng góp hàng trăm triệu đồng để trùng tu, nâng cấp các hạng mục các khu di tích trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Đồng thời, hoạt động này còn tạo công ăn việc làm cho gần trăm lao động địa phƣơng vào các dịp tết và lễ hội. Tạo công ăn việc làm cố định cho rất nhiều lao động địa phƣơng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nhà hàng, khách sạn, hoạt động lữ hành, bán hàng ăn, đồ lƣu niệm, nƣớc giải khát ở các điểm du lịch trong toàn tỉnh. 2.2. Di tích chùa Keo – Thái Bình. 2.2.1. Vài nét về Cuộc đời Thiền sƣ Không Lộ. Lịch sử chùa Keo đƣợc gắn liền với sự tích của Thiền sƣ Không lộ.Theo sách “Không lộ Thiền sƣ ký ngữ lục” thì Ngài họ Dƣơng tên huý là Minh Nghiêm sinh ngày 14 tháng 9 năm Bính Thìn (1016) dƣới triều vua Lý Thái Tổ, niên hiệu Thuận Thiên năm thứ VII. Quê mẹ của Ngài ở làng Hán Lý phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dƣơng, quê cha ở làng Giao Thuỷ (sau đổi là Hộ Xá) phủ Hải Thanh đến đời Trần đổi là phủ Thiên Trƣờng. Gia đình Ngài sinh sống tại làng Giao Thuỷ chuyên nghề chài lƣới ven sông. Thiền sƣ Không Lộ đƣợc dân gian suy tôn là Thánh tổ và đƣợc thờ phụng ở rất nhiều nơi trong cả nƣớc.Tƣơng truyền Không Lộ là ngƣời dị thƣờng có nhiều tài năng xuất chúng, là một danh sƣ uyên thâm, một lƣơng y nổi tiếng lại biết làm thơ, ngâm vịnh, hiểu biết nhiều và thƣờng đi du ngoạn khắp nơi. Năm 1044, lúc đó ngài mới 29 tuổi, đã bỏ nghề chài lƣới để theo học đạo thiền.Ngài đã thọ giáo thiền phái Vô Ngôn Không và đắc đạo trở thành tổ đời thứ 10 của thiền phái này. Đến năm 1057 Không Lộ lại thọ giáo phái Thảo Đƣờng tức phái Thiền tông thứ 3 ở Việt Nam. Không Lộ Thiền sƣ về tu tại chùa Hà Trạch sau chuyển sang chùa Duyên Phúc (chùa này sau đổi tên là chùa Viên Quang) ở làng Hộ Xá. Năm 1062, Thiền sƣ Không Lộ cùng hai ngƣời bạn tu hành của Ngài là Giác Hải và Từ Đạo Hạnh đi sang Tây Trúc để cầu phép lạ. Khi ba vị đến nƣớc Kim Xỉ gặp một ngã ba sông lớn nhƣng không có thuyền để sang bờ. Sau có một 32
  33. chiếc thuyền nhỏ chở đƣợc 2 ngƣời. Đức Không Lộ và Giác Hải lên thuyền dặn Từ Đạo Hạnh ngồi chờ ở bến. Hai ngài đã đƣợc Phật tổ Nhƣ Lai truyền cho phép Phật và đƣợc giác ngộ nên đã về thẳng không qua chỗ Đạo Hạnh chờ, Từ Đạo Hạnh ngồi chờ mãi sau đƣợc biết 2 bạn về đã lâu rồi.Đạo Hạnh đã đựơc bà già chỉ cho phép rút ngắn đƣờng vƣợt biển, vƣợt sông cho nên ngài đã đuổi kịp hai ngƣời.Ngài vào rừng biến thành hổ để thử tài hai ôngg rồi nhảy nhót gầm thét nhƣ muốn vồ lấy hai ngƣời. Không Lộ và Giác Hải biết đó là Đạo Hạnh hoá thân nên mới bảo rằng “đã muốn nhƣ thế, kiếp sau sẽ phải chịu”.Bấy giờ Đạo Hạnh lấy làm hổ thẹn rồi tạ lỗi hai ngƣời và nói rằng “nếu kiếp sau nghiệp chƣớng chƣa trả xin cứu giúp cho”. Sau khi đi Tây Trúc về,Thiền sƣ Không Lộ trở về làng Giao Thuỷ dựng chùa Nghiêm Quang và tu tại đó. Truyền thuyết còn kể lại rằng: vua Lý Nhân Tông ở ngôi 56 năm (1072 – 1127) bị bệnh tâm thần chỉ nghe tiếng tắc kè kêu cũng sinh bệnh. Các danh y đã lo chữa bệnh cho nhà vua nhƣng đều không khỏi. Quốc Mẫu, Hoàng Hậu và các bậc đại thần đều lo sợ. Nghe tiếng tăm của Thiền sƣ Không Lộ, Quốc Mẫu đích thân viết chiếu chỉ mời ngài vào cung chữa bệnh cho vua. Ngài đã dùng phép thuật chữa khỏi bệnh cho nhà vua, cả triều đình và thần dân đều mừng. Vua phong ngài làm Quốc sƣ và ban thƣởng cho nhiều bổng lộc. Tục truyền Đức Thánh Không Lộ đã tạo đúc “Tứ đại khí” là 4 tác phẩm nghệ thuật lớn thời Lý đó là: Tháp chùa Báo Thiên (Hà Nội); Tƣợng Phật Adiđà ở chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều- Quảng Ninh); Vạc chùa Phổ Minh (Nam Định); Chuông chùa Phả Lại (Hải Dƣơng). Ngƣời đời sau thƣờng gọi là “Thiên nam tứ khí”. Để đúc đƣợc “Thiên nam tứ khí” Không Lộ đã khoác áo cà sa, tay cầm tích trƣợng, vai mang túi nhỏ đi chu du khắp thiên hạ để khuyến giáo. Một lần ngài chữa khỏi bệnh hiểm nghèo cho một vị vua Phƣơng Bắc đƣợc nhà vua cho phép tự ý lựa chọn vật thƣởng. Không Lộ chỉ xin nhà vua số đồng bỏ đầy tay nải của ngài. Vua cƣời và đồng ý ngay, nhƣng rồi khi quân lính đã bỏ vào tay nải của ngài hết 10 kho đồng mà không thấy đầy, vua quan Phƣơng Bắc thất sắc, ngài cƣời vác túi đồng lên vai và đi ra biển.Tất cả những chiếc thuyền lớn nhất của 33
  34. phƣơng Bắc cũng không sao chở nổi nhà sƣ phƣơng Nam và chiếc túi nhỏ. Vua tôi phƣơng Bắc lại bó tay.Ngài cƣỡi trên nón Tu Lờ vƣợt ra biển khơi về nƣớc.Trên đƣờng vƣợt biển ngài còn gặp phải rất nhiều khó khăn nguy hiểm nhƣng nhờ có phép thuật đạp lên sóng dữ mà ngài đã chiến thắng rồi thong dong trở về nƣớc thực hiện nguyện vọng của mình tạo đúc “tứ đại khí”. Khi đúc xong “Tứ đại khí” vẫn chƣa hết đồng, Không Lộ đã đúc thêm quả chuông chùa Keo (Hành Cung) tƣơng truyền tiếng vang của chuông vang ngân cách xa 7 dặm đƣờng còn nghe thấy. Nhờ có tài đúc đƣợc “Thiên Nam tứ khí”, Thiền sƣ Không Lộ đƣợc tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng ở Việt Nam. Trong dân gian còn truyền lại rất nhiều câu chuyện về tài đức uyên thâm của Đức Thiền sƣ Không Lộ. Ngài là ngƣời có công phò vua giúp nƣớc, giảm sƣu cao thuế nặng cho dân, góp phần giải phóng con ngƣời lao động khổ cực.Ngài còn là ngƣời chế ngự thiên nhiên, khai thác thuỷ hải sản, sản xuất lúa gạo, chinh phục sông nƣớc, chiến thắng thuỷ tặc làm chủ biển khơi. Đặc biệt Thiền sƣ Không Lộ, ông tổ nghề đúc đồng Việt Nam đã khôi phục và làm sống lại kỹ nghệ đúc đồng nƣớc nhà mà một thời nhƣ bị mai một. Ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất (1094) Đức Thánh Tổ Thiền sƣ Không Lộ hoá, Ngài thọ 79 tuổi. Ngày 10 tháng 8 năm 1095 Thiền Sƣ Giác Hải thu xá lỵ, lập tháp ở chùa Nghiêm Quang (năm 1167 đổi tên là Thần Quang, nay là chùa Keo Hành Thiện). Sau khi Ngài mất, hàng năm nhân dân đã tổ chức lễ hội để tƣởng nhớ công ơn của Ngài. Hội mở từ ngày 13 tháng 9 tức 100 ngày sau khi Thiền sƣ Không Lộ qua đời. Ngày 14 là ngày sinh của Ngƣời, hội mở thêm ngày rằm là lễ tiết hàng tháng của đạo Phật (tính theo âm lịch).Năm 1167, vua Lý Anh Tông đã đổi tên chùa Nghiêm Quang thành Thần Quang (Thần Quang tự). Hội Keo tháng chín đã mang đậm tính hội lịch sử, hội văn nghệ, gắn liền với cuộc đời của Thiền sƣ Không Lộ. 2.2.2. Lịch sử ra đời chùa Keo. 34
  35. Giữa trung tâm vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng từ lâu nhân dân vẫn nhắc đến chùa Keo và một sự song trùng lịch sử khá thú vị khi đôi bên tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng có 2 ngôi chùa đƣợc tạo dựng cùng thời, cùng có tên Chùa Keo và đều thờ Thiền sƣ Không Lộ. Phía tả ngạn có chùa Keo thƣợng nằm ở làng Dũng Nhuệ nay là xã Duy Nhất huyện Vũ Thƣ tỉnh Thái Bình. Bên hữu ngạn có chùa Keo hạ ở làng Hành Cung nay là làng Hành Thiện xã Xuân Hồng huyện Xuân Trƣờng, tỉnh Nam Định. Đến nay cả hai ngôi chùa Keo này tuy có quy mô và vị trí khác nhau nhƣng xem khởi nguồn của nó lại đều bắt nguồn từ thƣợng lƣu Sông Hồng vùng Quán Các (nay là xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Cách đây gần ngàn năm, dƣới triều vua Lý Thánh Tông đã tiến hành xây dựng nhiều cung điện nguy nga lộng lẫy, nhiều đền chùa mọc lên. Chùa Nghiêm Quang đƣợc coi là danh thắng và có quy mô bề thế của nƣớc Đại Việt bấy giờ. Chùa nằm trên đất Giao Thuỷ vì vậy nhân dân thƣờng gọi là chùa Keo. Trải qua mấy trăm năm với sự phát triển huy hoàng của Phật giáo dƣới triều đại Lý – Trần đã trở thành quốc giáo có ảnh hƣởng lớn đến đời sống tinh thần của nhân dân. Năm Tân Hợi (1611), một trận lũ lớn đã ập đến vùng này, cuốn trôi vĩnh viễn ngôi chùa Nghiêm Quang xƣa và trang ấp này cũng có sự thay đổi khi hai làng Hành Cung và Dũng Nhuệ phải dời đi hai nơi: Dân Hành Cung rời về Đông Nam hữu ngạn sông Hồng đến đời Minh Mạng (1820 -1840) đổi thành Hành Thiện (nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trƣờng, tỉnh Nam Định). Dân Dũng Nhuệ chuyển cƣ sang phía Đông Bắc tả ngạn sông Hồng, đời Tự Đức (1848 – 1883) đổi thành làng Dũng Mỹ (nay là xã Duy Nhất, huyện Vũ Thƣ, tỉnh Thái Bình). Sau khi đã an cƣ, cả hai làng đều tiến hành xây dựng lại ngôi chùa. Chùa Keo bên tả ngạn sông Hồng đƣợc xây dựng từ tháng 8 năm Canh Ngọ (1630) đến tháng 11 năm Nhâm Thân (1632). Ngoài chức năng thờ Phật, chùa Keo Thái Bình cũng nhƣ chùa Keo Nam Định còn là nơi thờ Thánh Dƣơng Không Lộ và những ngƣời có có công lớn 35
  36. trong việc dựng chùa (Trịnh Thị Ngọc Lễ, Hoàng Nhân Dũng, Trần Thị Ngọc Duyên, Lê Hồng Quốc, Nguyễn Văn Trụ). Trƣớc Cách mạng tháng 8(1945), chùa Keo (Thái Bình) thƣờng mở hội 2 lần trong một năm. Hội xuân đƣợc tổ chức ngày mùng 4 tháng Giêng, mang tính chất của một lễ hội nông nghiệp. Ngoài các nghi lễ thông thƣờng, trong hội còn có nhiều trò đặc sắc, nhƣ thi nấu cơm, thi ném pháo, thi bắt vịt, trong đó, thi nấu cơm đƣợc coi là hoạt động trung tâm của hội. Hội tháng 9 đƣợc tổ chức vào ngày 13 đến ngày 15, gắn với ngày sinh (13/9), ngày mất (14/9) của Thánh Dƣơng Không Lộ và một số lễ nghi gắn với Phật giáo. Cũng nhƣ nhiều lễ hội khác ở nƣớc ta, sau Cách mạng tháng Tám, hội chùa Keo (Thái Bình) đã có một thời gian bị gián đoạn. Trong khoảng vài chục năm trở lại đây, hội chùa Keo (Thái Bình) đã đƣợc phục hồi theo nhƣ lệ cũ để phục vụ nhu cầu văn hóa của cộng đồng, tuy nhiên, một số nghi thức và trò diễn trong hội xƣa đã đƣợc giản lƣợc, cải biên để phù hợp với đời sống hiện nay. Trải qua trên 400 năm, chùa đã đƣợc tu bổ, tôn tạo nhiều lần, vào các năm 1689, 1707, 1941, 1957, 2004. Xét về quy mô, bố cục, đặc điểm và nghệ thuật kiến trúc, có thể coi chùa Keo (Thái Bình) là một trong những công trình sáng giá nhất trong hệ thống chùa dạng thức “tiền Phật hậu Thánh” cũng nhƣ dạng thức chùa “trăm gian” ở Việt Nam. 2.2.3. Vị trí địa lý, và kiến trúc. 2.2.3.1. Vị trí địa lý. Chùa Keo (tên chữ: Thần Quang tự 神光寺) là một ngôi chùa ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thƣ, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam đƣợc bảo tồn hầu nhƣ còn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi. Ngày 28-4-1962, Chùa Keo đƣợc công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá Quốc gia. Đến tháng 9-2012, một vinh dự nữa lại đến với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Thái Bình: Thủ tƣớng Chính phủ đã Quyết định xếp hạng Chùa Keo là di tích quốc gia đặc biệt, cùng với 10 di tích khác của cả nƣớc. 36
  37. 2.2.3.2. Kiến trúc chùa Keo. Chùa đƣợc xây dựng năm 1630 với quy mô to lớn, chạm trổ gỗ tinh xảo, thể hiện phong cách thời Lê chạm khắc rất tinh xảo, kiến trức độc đáo nhất cả nƣớc. Theo văn bia và địa bạ chùa Keo Thái Bình thì diện tích toàn khu kiến trúc rộng 28 mẫu(108.000m2). Bề ngang gần 500m. Chiều sâu dài trên 200m. Nếu chỉ tính 154 gian của 21 công trình, chùa đã có diện tích 58.000m2. Hiện nay toàn bộ kiến trúc của chùa còn lại 17 công trình, gồm 128 gian. Chùa Keo ngoài thờ Phật còn thờ Thánh ( tiền phật hậu thánh), vị Thánh đƣợc thờ ở đây là Dƣơng Không Lộ, là một nhà sƣ thời Lý cò trình độ hiểu biết sâu sắc về Phật học,qua sự tích còn cho chúng ta thấy ông là một ngƣời có những hoạt đông thực tiễn trong đời sống xã hội. Vị Thánh đƣợc thờ nhƣ một vị Thành Hoàng làng nên điều khác biệt trong kiến trúc chùa Keo là trƣớc tòa Đền Thánh có thêm một tòa Gía Roi. Trƣớc hết ngay tên gọi của nó „„Giá Roi‟‟- cũng thấy không có trong bất cứ sách Phật nào cũng nhƣ trong các chùa chiền ở Việt Nam. Theo những cụ già ở chùa Keo cho biết Gía roi là căn nhà mà xƣa dùng làm nơi xử kiện, phạt vạ, bổ bán công điền, công thố của làng Dũng Nhuệ (làng Keo). Với chức năng đó, rõ ràng chùa Keo là một trung tâm hành chính của thôn xã cổ. Mãi cho đến thế kỉ 19, ngƣời làng Keo mới xây dựng đình làng, đối với làng Keo vai trò của ngôi chùa trong đời sống tình cảm của ngƣời làng Keo cho đến tận bây giờ vẫn còn sâu nặng hơn hẳn ngôi đình nên chùa Keo vốn xƣa kia không có sƣ trụ trì mà dân làng cử một số ngƣời đèn nhang và trông coi khu di tích, chỉ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 mới có sƣ trụ trì tại chùa Keo. Chùa Keo là công trình kiến trúc có quy mô tô lớn và bố cục rất chặt chẽ. Chùa Keo với hơn một trăm gian lớn nhỏ khác nhau lại bố trí thành một kiểu kiến trúc đăng đối và chặt chẽ. Toàn bộ kiến trúc chính đƣợc bố trí theo chiều dọc. Tam quan ngoại, hồ nƣớc lớn, đến tam quan nội, đến chùa Phật đến đền Thánh, và cuối cùng là gác chuông. Các kiến trúc đƣợc đối xứng qua trục dọc đó là 2 dãy hành lang Đông và Tây, phía sau 2 dãy hành lang là 2 hồ nƣớc lớn phía 37
  38. Đông và phía Tây tạo vẻ thoáng mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông cho công trình này. Chùa Keo với số lƣợng nhiều tòa nhà, với nhiều gian nhà, song kiến trúc chùa Keo vẫn không cho ta một cảm giác tẻ nhạt và đơn điệu. Bởi lẽ những ngƣời thợ xây ở đây là những bậc thầy trong việc sử dụng tỷ lệ, kích thƣớc, độ cao của các công trình. Tất cả các căn nhà trong cụm kiến trúc chính thoạt nhìn có vẻ nhƣ giống nhau về kích cỡ nhƣng thực ra không căn nào giống căn nào. Chúng đƣợc xây dựng theo một nhịp điệu „„mở ra, thu lại, rồi lại mở ra‟‟, nhịp điệu thay đổi ấy không gây cảm giác nhàm chán và khơi dậy một khát khao đòi hỏi tìm tòi. Ngay cả 2 dãy hành lang Đông và Tây làm đối xứng và thiết kế giống nhau, mỗi bên có 33 gian nhà, tổng số các gian cộng lại là 91 mét, nhƣng kích thƣớc của mỗi gian không giống nhau : gian bé nhất 1,65m, gian rộng nhất là 3,25m, còn lại các gian có kích thƣớc từ 2,40m đến 3,15m, trong đó có những gian 2,70m có 10 gian, 2,80m có 10 gian. Những ngƣời thợ xây dựng chùa Keo không chỉ giỏi về việc xử lý khối hình, mà còn tài khéo ở chỗ taọ ra dộ dãn cách hợp lý giữa các công trình. Khoảng cách giữa các công trình từ tam quan ngoại đến gác chuông không hề giống nhau. Sự không giống nhau này nhằm tạo một nhịp điều kiến trúc khác, nhịp điệu „„chống mỏi‟‟ bằng cách thu ngắn dần. Ví dụ từ tam quan ngoại đến tam quan nội dài 42m (theo đƣờng chim bay), tam quan nội đến khu chùa Phật dài 29,5m. Từ tòa Tam Bảo đến tòa Giá Roi dài 7m, từ tòa Thƣợng Điện đến Gác Chuông dài 2m. Mặt bằng các công trình kiến trúc của chùa Keo có nhiều cấp độ cao thấp khác nhau, lúc lên lúc xuống bồng bềnh nhƣ trong cõi phật. Khu chùa Phật đƣợc cấu trúc nền 3 lớp cao dần từ ngoài vào trong : Chùa Ông Hộ, tòa ống muống và tòa cao nhất là tòa Tam Bảo. Từ đây chiều cao đột ngột hạ xuống cho tới nền sân để rồi tiếp đến là công trình thứ 2 là khu đến Thánh. Đi hêt nền sân là đến tòa Giá Roi ( tòa phía trƣớc Đền Thánh), mặt bằng lại đƣợc nâng lên 0,3m. Sau tòa Giá Roi nhịp điệu 3 cấp lại đƣợc lặp lại cao dần từ tòa Giá Roi, tòa Thiêu Hƣơng, tòa Phụ Quốc và cao nhất là tòa Thƣợng Điện, từ đây chiều cao lại hạ xuống bằng mặt sân,rồi lại lên cao nền của tòa Gác Chuông. 38
  39. Các công trình tiêu biểu của chùa Keo : - Tam quan ngoại Tam quan ngoại gồm 3 gian, hai chái, khung gỗ, 4 chân hàng cột, mái lợp ngói mũi hài. Kết cấu vì chính theo kiểu giá chiêng, kết cấu vì nách theo kiểu chồng rƣờng. Phía trƣớc Tam quan ngoại có 4 trụ biểu và một sân lát đá (kích thƣớc 11,10m x 10,10m), phía sau là một hồ nƣớc (hình vuông), bờ kè đá, diện tích khá rộng. Xung quanh hồ là hệ thống đƣờng giao thông dẫn du khách vào khu vực Tam quan nội. - Tam quan nội. Tam quan nội ở phía sau hồ nƣớc (hình vuông), khung gỗ, gồm 3 gian, hai chái, 3 hàng chân cột, 4 bộ vì, mái lợp ngói mũi hài. Hai vì giữa đƣợc kết cấu theo kiểu chồng rƣờng, vì hồi đƣợc kết cấu theo kiểu kẻ chuyền. Đây là một kiến trúc khá độc đáo, nghệ thuật chạm khắc tinh xảo. Đặc biệt là bộ cửa ở vị trí trung quan, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII (Bộ cửa ở đây hiện nay là hiện vật phục chế, bộ cửa gốc hiện đƣợc lƣu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam). - Chùa thờ Phật. Chùa thờ Phật đƣợc dựng trên mặt bằng hình chữ Công, gồm 3 toà (chùa Ông Hộ, Ống muống, Tam bảo). + Chùa Ông Hộ: đƣợc dựng theo thức tàu đao lá mái, gồm 7 gian, kết cấu gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Khung kiến trúc gồm 6 bộ vì chính và 2 bộ vì chái bồ câu, dựng trên 4 hàng chân cột. Các cấu kiện kiến trúc đƣợc chạm khắc rất công phu, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật kiến trúc thế kỷ XVII. Trong khu vực này an vị hai tƣợng Hộ pháp, khám và tƣợng các vị từng có nhiều công lao đối với việc dựng chùa xƣa kia: Hoàng Nhân Dũng, Nguyễn Văn Trụ, Trịnh Thị Ngọc Trân, Lại Thị Ngọc Lễ. Hai gian đầu hồi an vị bộ tƣợng Thập điện Diêm vƣơng. + Tòa Ống muống: khung gỗ, không có tƣờng bao, gồm 3 gian, 4 bộ vì, 4 hàng chân cột, kết cấu vì theo dạng thức thƣợng giá chiêng, hạ chồng rƣờng, mái lợp ngói mũi hài, nối liền chùa Ông Hộ và Tam bảo Trong không gian này có một chiếc sập thờ, mang phong cách nghệ thuật chạm khắc thời Lê Trung hƣng, trên đặt bát hƣơng ban Công đồng. 39
  40. +Tòa Tam bảo: đƣợc dựng theo thức tàu đao lá mái, các bộ vì kiểu giá chiêng chồng rƣờng, kết cấu gỗ, gồm 3 gian, không có tƣờng bao, mái lợp ngói mũi hài. Đây là khu vực an vị hệ tƣợng Phật giáo. - Đền Thánh và tòa Giá roi. Đền Thánh đƣợc dựng theo dạng thức mặt bằng chữ Công, gồm 3 tòa: Thiêu hƣơng (5 gian), Ống muống (3 gian), Thƣợng điện (5 gian). Phía trƣớc đền là toà Giá roi (5 gian). Khu đền Thánh đƣợc nối tiếp với khu thờ Phật gồm toà Giá roi, toà Thiêu Hƣơng, toà Phục quốc và thƣợng điện. Những công trình này nối tiếp với nhau tạo thành một kết cấu kiểu chữ công và sau khi xuyên suốt mỗi bên 33 gian hành lang đến hai toà tả vũ, hữu vũ, khách sẽ bắt gặp toà gác chuông ba tầng, cuối cùng là khu tăng xá - Hai dãy hành lang phía Đông và phía Tây Hai dãy hành lang Đông và Tây đƣợc dựng bao quanh chùa Phật - Đền Thánh, phía trƣớc thông qua hàng dậu và Tam quan nội, phía sau kết nối với Gác chuông, hợp thành ô chữ Quốc. Hai dãy hành lang đều đƣợc dựng trên mặt bằng hình chữ L, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói, mỗi dãy 33 gian. - Gác chuông. Một điều khác biệt so với các ngôi chùa cổ ở nƣớc ta, gác chuông chùa Keo đƣợc xây dựng ở vị trí gần cuối cùng của khu di tích. Gác chuông có chiều cao 11,04m (tính từ nền tới bờ nóc) với ba tầng mái thiết kế theo kiểu cổ các chồng diêm. Toàn bộ sức nặng của gác chuông đƣợc đặt trên bốn cột lớn (mỗi cột có đƣờng kính chân 0,55m, cao 5 m). Mỗi gác dựng một cột góc, hai cột hiên. Tất cả đƣợc liên kết với nhau bằng hệ xà ngang xà nách. Tầng một có bốn cột lớn đi thẳng lên sàn mái tầng hai.Tƣờng sau lắp ngƣỡng đơn, đố lụa, hai bên và mặt trƣớc dựng bạo xoi. Trên ngƣỡng tƣợng, mỗi chiều để một cửa nhỏ, hai bên dựng bạo, lắp trụ đấu con song. Hàng con song tiện tôn thêm vẻ đẹp Tầng hai có bốn cột ăn thẳng sàn mái, hệ thống cột hiên thu rút vào tâm 0.4m, liên kết với tầng dƣới qua hệ xà dầm.Tầng này đƣợc trang trí rất công phu. Mỗi mặt chia thành ba khoang, bạo ngang hai lớp uốn thành cửa 40
  41. võng. Ván dƣới là những cánh sen cách điệu.Giữa văng lan can chạy con song tiện, trong lắp cánh cửa Tầng ba lại thu nhỏ thêm, không có cột thông xuống thềm.Các dàn đấu ăn mộng thƣớc thợ với dầm hai. Mộng đấu định vị mặt bằng tạo thế vững vàng cho khu kiến trúc. Cổ các tầng thƣợng đƣợc chia thành 12 ô, diềm dƣới lắp một đài sen cánh vuông.Các khoang dựng bạo. Diềm trên chạm một hàng cánh sen nhỏ. Ván gió trổ hoa chìm thành các ô trám. Ô lớn đặt giữa, ô nhỏ đặt đối xứng nhau lùi về bốn góc, diềm hoa, cánh hoa đan quyện vào nhau. Mái tầng thƣợng trông có dáng nhƣ nhà rông. Bờ nóc xoi hai hàng chỉ thẳng bắt góc chỉ xoi bờ cánh. Hồi nóc xây khối kỷ hà đắp nổi văn triện. Góc chuyển bờ cánh nối bờ mềm không đắp nghê đặt đấu mà chỉ giáp chỉ xoi chuyển từ độ dốc rồi cong dần vút lên cuộn thành song loan mây cuốn. Đao tầng hai tầng ba cũng có phong cách này. Ba tầng gác chuông với 12 đao loan cuốn bay làm cho gác chuông trông thanh thoát, nhẹ nhàng Có thể nói gác chuông chùa Keo đã đạt tới sự tuyệt mỹ trong tổng thể kiến trúc. Đó là sự kết hợp hài hoà trong tỷ lệ giữa bờ nóc, bờ thẳng, bờ mềm, độ vƣơn của bờ nóc góc cao. Sự tính toán chính xác giữa các tầng, khoảng cách giữa các cột đã tạo cho gác chuông có dáng đẹp và khoẻ về lực Tất cả đã phản ánh trình độ cao của ngƣời thợ thủ công xƣa kia. Ngoài các kiến trúc chính, chùa Keo còn một số kiến trúc phụ trợ, nhƣ Khu Tăng xá, Nhà khách (phía Đông và phía Tây), trụ sở Ban Quản lý Di tích. Đặc biệt, chùa còn là nơi hiện đang lƣu giữ và 197 di vật, cổ vật gắn với lịch sử hình thành và phát triển của chùa (từ thế kỷ XVII đến nay), đƣợc tạo tác từ nhiều loại chất liệu (gỗ, đá, đồng), có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc. Đánh giá chung. Mỗi cụm kiến trúc của chùa Keo có chiều cao và chiều rộng mái khác nhau. Độ cao mái của cụm kiến trúc chùa cao hơn tòa Giá Roi và Đền Thánh. Bộ mái cao nhất là Gác Chuông, bộ mái thấp nhất là hai dãy hành lang đông và tây. Nên nếu nhìn từ trên, độ cao mái của các công trình, cùng độ xòe rộng cao thấp khác 41
  42. nhau của các bộ mái đã nhiều ngƣời liên tƣởng trông nhƣ hình ảnh của một „„lớp sóng cồn‟‟. Chùa Keo là một phức hợp kiến trúc đa dạng nhất trong tất cả các kiến trúc Phật giáo Việt Nam và là một không gian kiến trúc hòa nhập với môi trƣờng. Nghệ thuật sử dụng cây xanh trang trí cho không gian ngoại thất ở Chùa Keo cũng đƣợc ngƣời xƣa lƣu ý một cách đặc biệt khoa học, ở nơi nào đƣợc trồng cây to, nơi nào đƣợc điểm xuyết bằng những vƣờn hoa, hồ nƣớc, tất cả đều làm cho công trình không gò bó, khô cằn. Nếu hai bên cạnh tòa ống muống của tòa Phụ Quốc nơi đây thiết kế hai vƣờn hoa cây cảnh xanh thắm màu sắc của lá, rực rỡ vàng đỏ, trắng của hoa, thì hai bên tòa ống muống của Đền Thánh lại xây hai bể nƣớc để lấy ánh sáng mặt trời phản quang vào đền Thánh, muốn vậy hệ thống ván bƣng của hai cạnh tòa ống muống này lại thiết kế thành hệ thống cửa thông phong để ánh sáng ấy không chỉ hắt lên toàn bộ khu đền mà còn hắt vào trong đền tạo thành những màu sắc huyền ảo thật là kỳ diệu. Với những gỗ, gạch lát, tƣờng xây dựng bằng ván bƣng, mái ngói mũi hài, cùng với việc sử dụng hệ thống hồ ba mặt của chùa ( phía trƣớc hồ nam, hồ phía đông và tây) không chỉ gây cảm giác tôn chiều cao của công trình và tạo cho công trình một vẻ huyền ảo, đƣợc soi bóng xuống hồ nƣớc mà còn có chức năng điều chỉnh về khí hậu, thoáng mát dễ chịu về mùa hè, ấm áp về mùa đông. „„Việc xử lý môi trƣờng không gian kiến trúc chùa Keo đã đƣợc các nhà kiến trúc hiện đại coi nhƣ một mẫu hình có tính truyền thống và tính thực dụng cho kiến trúc hiện đại‟‟. Chùa Keo là một công trình kiến trúc nghệ thuật khá độc đáo và tiêu chuẩn cho kiến trúc thời hậu Lê, một kiến trúc đƣợc xây dựng hoàn toàn bằng gỗ lim và có những đặc trƣng cơ bản khác với một số công trình kiến trúc chùa chiền khác. Đặc trƣng về bộ mái : Kết cấu „„tàu đao là mái‟‟ là kiến trúc mang nhiều nét truyền thống của kiến trúc gỗ cổ truyền Việt Nam đƣợc thể hiện ở chùa Keo. Hầu hết các tòa đều có kết cấu mái theo kiểu này trừ bộ mái của tòa Giá Roi đƣợc làm theo kiểu „„ hồi diêm mái chảy‟‟. Đặc trƣng về các bộ vì kèo của công trình kiến trúc chùa Keo chủ yếu là kiến trúc theo kiểu „„chồng rƣờng bẩy hiên‟‟ và hệ thống bẩy vuông góc với thân 42
  43. cột. Có những công trình kiến trúc khác nhƣ chùa Tây Phƣơng cũng có kiểu thức kiến trúc này nhƣng chỉ có ở chùa Keo mới dùng các con sơn chống bẩy để hỗ trợ cho các bẩy hiên gồm các con sơn nội và các con sơn ngoại, đồng thời dùng các con sơn này thể hiện các đề tài chạm khắc. Chùa Keo là một công trình kiến trúc có nhiều mảng chạm khắc nghệ thuật điển hình của thời Lê. Đặc trƣng trong điêu khắc của chùa Keo, điều nổi bật trong trang trí kiến trúc chùa Keo đồng thời cũng là nét độc đáo riêng biệt của chùa Keo chính là các con sơn của tòa Giá Roi, tòa Thiêu Hƣơng, tòa Phụ Quốc và tòa Thƣợng Điện. Với số lƣợng 86 con sơn nội và con sơn ngoại ở khu vực thờ Thánh này đã cho thấy sự khác biệt giữa hai khung kiến trúc thờ Phật và thờ Thánh. Các con sơn ở đây phần lớn đƣợc chạm hai mặt, có con sơn chạm ba mặt, có con sơn đƣợc chạm bốn mặt, mỗi mặt đƣợc chạm khắc các hình khác nhau. Đề tài trang trí trên các con sơn ngoại chủ yếu là hình rồng các kiểu,con sơn nội đƣợc chạm khắc hình con nghê hay hoa lá cách điệu. Con sơn ngoại hay con sơn nội đƣợc lắp đặt trong kết cấu kiến trúc ở các tòa nhà trong chùa Keo không chỉ nhằm mục địch để đỡ đầu bẩy hay xà khỏi bị gục xuống mà còn là một yếu tố thẩm mỹ làm tăng thêm vẻ đẹp của toàn bộ các công trình kiến trúc ở nội thất cũng nhƣ ngoại thất. Một đặc trƣng quan trọng khác đó là các bức chạm ở chùa Keo chạm khắc các đề tài những hình mây lửa, đao mác bao quanh thân rồng ở đôi cánh cửa tam quan nội hoặc các bức chạm khắc rồng tại các bức cống của tòa Giá Roi, hoặc chạm khắc rồng ở ban thờ của tòa Phụ Quốc . Ngoài các đặc trƣng trên, các bức chạm khắc của chùa Keo với đề tài long, ly, quy, phƣợng mang phong cách dân gian, với kỹ thuật chạm lỗng, bong kênh rất tinh xảo và đẹp mắt. Chùa Keo còn lƣu giữ đƣợc nhiều đồ thờ có giá trị về nghệ thuật, mỹ thuật, đồng thời còn giữ đƣợc 3 bia đá thời Lê và một số vật quý giá khác nhƣ chuông đồng, khánh đá. 2.2.4. Lễ hội chùa Keo – Thái Bình 43
  44. Lễ hội chùa Keo là lễ hội tôn giáo (Phật giáo) do đó không thể không có các hình thức lễ nghi. Nói đến lễ hội tôn giáo là nói đến một trình tự Lễ và Hội, lễ trƣớc, hội sau. Trƣớc khi vào hội là việc thực hiện các hình thức lễ nghi với thần linh, sau đó là hội với các hình thức diễn xƣớng Lễ hội tôn giáo trƣớc hết phải mang yếu tố thiêng liêng bởi nó là sản phẩm của tôn giáo, bởi đối tƣợng mà lễ hội biểu đạt là thần linh (Thần, Thánh, Phật, Chúa ). Lễ hội tôn giáo là một hình thức sinh hoạt văn hoá của cộng đồng ngƣời, không có lễ hội tôn giáo nào chỉ thuộc về một cá nhân Chính vì lẽ đó mà nó có sức lâu bền và tác động quan trọng đến tâm thức của cộng đồng, hƣớng thiện cho cộng đồng và tồn tại qua nhiều thế kỷ đến hôm nay. Hội xuân đƣợc tổ chức vào ngày 4 Tết Nguyên Đán. Hội vui xuân chùa Keo xƣa, ngoài lễ Phật là các cuộc đua tài giải trí gắn với sinh hoạt của cƣ dân nông nghiệp, trong đó, đáng chú ý là ba trò thi: Bắt vịt, nấu cơm và ném pháo. Hội thu mở từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 9 âm lịch hàng năm. Ngày 13 tháng 9 tức 100 ngày sau khi thiền sƣ Không Lộ qua đời, ngày 14 là ngày sinh của Ngƣời, hội mở thêm ngày rằm là lễ tiết hàng tháng của đạo Phật (tính theo âm lịch). Nếu hội xuân ở làng Keo vừa có tính chất thi tài, vừa là hội làng về phong tục thì hội Keo tháng 9 mang đậm tính hội lịch sử, hội văn nghệ, gắn liền với cuộc đời của thiền sƣ Không Lộ. Để chuẩn bị cho lễ hội thì công tác chuẩn bị phải đƣợc tiến hành trƣớc đó hàng tháng về mặt thủ tục hành chính, nội dung, chƣơng trình kế hoạch, nhân sự và an ninh Theo quyết định của Bộ Văn hoá thông tin ban hành tháng 5 năm 1994 và tháng 8 năm 2001 về quy chế lễ hội thì lễ hội chùa Keo là lễ hội pha mầu sắc tôn giáo, đƣợc phép tổ chức định kỳ hàng năm nhƣng phải báo cáo bằng văn bản với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền về văn hoá, ít nhất 20 ngày trƣớc khi khai hội. Nội dung báo cáo phải đủ các mục về thời gian, địa điểm, nội dung và danh sách Ban tổ chức lễ hội. Chủ hội không còn trực tiếp điều hành lễ hội nhƣ xƣa, nay chỉ làm chủ tế nhƣng là một chức vị danh dự nên chủ hội vẫn là niềm vinh dự lớn cho ngƣời đắc 44
  45. cử và gia đình. Nhiệm kỳ chủ hội một năm, nhƣng công việc tập trung chủ yếu trong tháng lễ hội, không ai đƣợc làm chủ hội quá một nhiệm kỳ. Chủ hội do Ban quản lý di tích lịch sử văn hoá chùa Keo dự kiến trình Hội nghị liên tịch đại diện các xóm xem xét quyết định trên cơ sở các tiêu chí về tƣ cách đạo đức bản thân, gia đình và thanh cát (không có tang bụi).Việc lựa chọn chủ hội hiện nay đã bỏ qua tiêu chí xƣa phải là quan viên, tuy nhiên lại nâng cao tiêu chí song toàn xƣa thành song thọ (đã hƣởng hƣơng yến). Trang phục chủ hội vẫn nhƣ xƣa là mũ cánh chuồn có hoa văn mặt nguyệt dát bạc lấp lánh phía trƣớc, áo thụng mầu lam đính bối tử trƣớc ngực, bối tử vuông nền đỏ viền vàng thêu hoa sen vàng ở giữa. Chủ hội giữ lệ xƣa chay tịnh cả tuần lễ hội nhƣng ở nhà riêng, không ở chùa nhƣ xƣa. Từ sáng sớm ngày khai hội, chuông khánh lớn và trống cái hoà tấu từng hồi dài vang động khắp xóm làng.Sau lễ nhập tịnh mở cửa chùa, làng làm lễ thỉnh Phật, lễ tấu thánh, lễ dâng hƣơng và dựng cờ khai hội Suốt mấy ngày tế lễ, dâng hƣơng tụng kinh niệm Phật, đọc kệ chầu Thánh Tổ Không Lộ. Lễ hội chùa Keo gồm có phần Lễ và phần Hội. Phần Lễ đƣợc tiến hành tuần tự nhƣ sau: - Lễ rƣớc nƣớc: Sáng sớm ngày 13, sau khi làm lễ nhập tịch mở cửa chùa, làng làm lễ lấy nƣớc từ giữa sông rƣớc về chùa. Nƣớc đƣợc đựng vào một chiếc bình sứ đã đƣợc lau chùi sạch sẽ. Nƣớc phải đƣợc múc bằng gáo đồng đổ qua miếng vải đỏ ở miệng bình, sau đó nƣớc đƣợc đƣa lên kiệu rƣớc về chùa. Lễ rƣớc nƣớc mở đầu các ngày hội với mục đích dùng nƣớc để tắm tƣợng Thánh và rửa khí tự nhƣng đồng thời cũng là một hình thức cầu mƣa của cƣ dân trồng lúa nƣớc. Việc rƣớc nƣớc ở giữa dòng sông là để mong muốn cân bằng âm dƣơng, tìm đến sự cân bằng trong “lƣỡng phân – lƣỡng hợp”, tạo ra sự phát triển bền vững. Đây là ý nguyện đƣợc hình thành từ xa xƣa trong cội nguồn lịch sử của các tầng lớp cƣ dân sống trên và ven các dòng sông cổ. - Lễ mộc dục: Sau khi rƣớc nƣớc về, làng cử hành luôn lễ mộc dục (tức là tắm rửa tƣợng Thánh). Công việc này do Chủ hội cùng một số ngƣời có uy tín 45
  46. trong làng tiến hành trong chùa Thánh một cách trang nghiêm và kín đáo. Ngƣời mộc dục cho tƣợng Thánh phải trai giới trƣớc đó và khi làm lễ phải bịt miệng bằng một chiếc khăn điều để trần khí không xông tới Thánh cung mà mang tội bất kính.Đầu tiên họ thắp hƣơng, dâng lễ rồi tiến hành công việc một cách thận trọng và trang nghiêm. Tƣợng của Thánh bao giờ cũng đƣợc tắm hai lần: lần thứ nhất tắm bằng nƣớc làng vừa rƣớc về, lần thứ hai đƣợc tắm bằng nƣớc ngũ vị đã đƣợc chuẩn bị trƣớc để cho thơm. Gọi là tắm nhƣng không phải lấy nƣớc giội vào tƣợng Thánh mà chỉ lấy một tấm vải đỏ nhúng vào chậu nƣớc sạch rồi lau chùi nhẹ nhàng, thận trọng. Sau khi tắm cho tƣợng Thánh xong, chậu nƣớc ngũ vị đƣợc giữ lại để cho các vị bô lão, chức sắc nhúng tay, xoa vào mặt mình nhƣ một hình thức “hƣởng ơn Thánh”. ý nghĩa của việc tắm tƣợng là nhằm “rửa sạch bụi nhơ” để Đức Thánh đƣợc sạch sẽ trƣớc khi vào tế lễ. Thông qua các nghi thức của lễ mộc dục phần nào hé mở cho thấy cội nguồn xa xƣa từ những nghi thức cầu mƣa của tín ngƣỡng dân gian bản địa, của cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc truyền thống Việt Nam. Nƣớc ở đây chính là nƣớc thanh tịnh, nƣớc mát lành, “nƣớc phúc”, có thể rửa sạch tanh hôi, bùn nhơ. Nƣớc mang đến cho sinh hoạt của cƣ dân, mang no ấm hạnh phúc đến cho cƣ dân sản xuất nông nghiệp. - Lễ Phục miều y: Để chuẩn bị cho lễ Phục miều y, hàng năm cứ tới dịp này, dân làng Keo ở Thái Bình lại chuẩn bị 100 vuông lụa để may áo cho tƣợng Thánh, sau đó chờ ngày tốt làng sẽ làm lễ thay áo. Thông qua lễ Phục miều y, dân làng mong muốn đƣợc nhận phƣớc từ Đức Thánh tổ, lấy may cho con cháu, ngƣời già, em nhỏ Chiều ngày 13, dân làng tiến hành dựng cột và kéo lá phƣớn. Đó là giải lụa hồng đào viền xanh (xƣa viền vàng) dài 10m rộng 0,4m.Trƣớc kia cột đƣợc làm bằng gỗ, nay đã thay bằng cột sắt. Trên đầu cột là hình con quạ đen bằng gỗ, trên lƣng quạ có gắn chong chóng luôn quay tít. Dƣới quạ là tay đòn có ròng rọc để kéo lá phƣớn, dƣới nữa là cột treo lá cờ đại của làng. Cột phƣớn gắn liền với truyền thuyết về sức mạnh vô biên của Phật đại từ đại bi, răn dạy cảm hoá chúng sinh cải tà quy chính. 46
  47. Tƣơng truyền sự tích cây phƣớn là mấy sãi ở chùa đi quyên tiền về tô tƣợng đúc chuông.Buổi tối nọ các sãi nghỉ trọ ở một quán nhỏ bên bìa rừng vắng không ngờ con trai chủ quán là kẻ cƣớp của giết ngƣời. Sau khi nghe các sãi giảng giải Phật đạo từ bi cứu nhân độ thế, bao dung kẻ lầm lạc biết cải tà quy chính, đột nhiên anh trai trẻ cầm dao tự mổ phanh bụng, moi lòng ruột đặt lên bàn, nhờ các sãi dâng lên cửa Phật.Quá bất ngờ và choáng váng, các sãi và bà mẹ không kịp ngăn cản cho đến khi chàng trai dứt lời và trút hơi thở cuối cùng. Lúc đó các sãi chợt hiểu chàng trai nọ đã làm theo nghĩa đen câu giáo huấn “cốt ở tấm lòng, lòng thành dâng cửa Phật”.Trên đƣờng về chùa, các sãi phải bỏ lại bên đƣờng món lễ vật đã bốc mùi.Khi các sãi về đến chùa, cũng là lúc đàn quạ đen sà xuống thả bộ lòng ruột vắt qua mái tam quan. Phỏng theo câu chuyện đó, ngƣời xƣa đã cho dựng cây phƣớn, trên đầu cột có hình quạ đen ngậm giải lụa hồng đào. Cây phƣớn biểu tƣợng sức mạnh cảm hoá vô biên của Phật giáo, nhằm cứu giúp chúng sinh muôn loài cải tà quy chính, dù là kẻ cƣớp của giết ngƣời đến loài quạ đen chuyên rỉa xác chết . - Lễ Thánh đản: Đƣợc tiến hành vào đêm ngày 13 rạng ngày 14 (giờ tý). Trong toà Thiêu Hƣơng (cung giữa) trƣớc bài vị Thánh là đỉnh trầm hƣơng và một mâm son bày hoa quả tƣơi, bên cạch đó là một mâm bánh dầy cùng ấm đĩa chén bạc mạ vàng, trạm nổi hình rồng phƣợng, con trâu bạc đặt nằm cạnh mâm. Các thầy chùa mặc áo cà sa đọc Thánh ca bằng lời cổ với giọng ê a trầm bổng trong tiếng mõ cầm nhịp và hồi chuông nhỏ ngắt câu chia đoạn, ở toà thánh Giá Roi (cung ngoài) các lão bà lần tràng hạt chầu kệ (thánh ca diễn nôm). Một già lĩnh xƣớng dẫn lời trong tiếng mõ đều đều, các già khác đồng thanh đệm “A di đà Phật” kèm tiếng chuông chấm câu và hồi chuông ngắt đoạn. Lễ Thánh đản có mục đích đón rƣớc và thỉnh mời Đức Thánh về dự hội hƣởng lễ vật, đây cũng là dịp để dân làng chúc tụng, bày tỏ lòng biết ơn của làng đối với Đức Thánh và cầu mong ngài bảo hộ cho dân làng đƣợc bình yên - Rƣớc phụng nghinh: Đây là lễ rƣớc có quy mô lớn cả về số ngƣời, số kiệu rƣớc và các hoạt động khác, lễ rƣớc đƣợc tiến hành vào sáng ngày 14 tháng 9, kỷ niệm ngày sinh của Đức Thánh tổ Không Lộ. 47
  48. Mở đầu đám rƣớc phụng nghinh có cờ lệnh, cờ ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) dẫn đầu, sau đó là đoàn Phù Kiều của các già làng trong trang phục quần áo dài nâu, tay cầm cành Phan căng hai bên cầu, vừa đi vừa lần tràng hạt vừa đọc kinh niệm Phật. Giải Phù Kiều là tấm vải dài tƣợng trƣơng cầu Phật độ cứu giúp chúng sinh thoát khỏi bể khổ trầm luân. Tuỳ số ngƣời Phù Kiều, mỗi giải cầu có một hoặc hai, ba nhịp, mỗi nhịp dài từ 12 - 15m, rộng 0,6m. Lá xanh, hoa sen thắm đỏ trang trí trên nền vải vàng nẹp nâu hoặc nẹp xanh sẫm.Các già, các bà đi bai bên căng cầu bằng cành Phan căng nhỏ mắc vào giải khuy hai bên mép vải, cách đều nhau 0,7m. Tay lần tràng hạt, các già vừa đi vừa đọc kinh Phật, chốc chốc tiếng tù và rúc lên từng hồi tu tu buồn tha thiết, hú gọi các linh hồn lầm lạc hãy thành tâm hối lỗi, hành thiện, tránh ác, cố bám vào cầu Phật độ mà thoát khỏi địa ngục âm ty. Sau đoàn rƣớc Kiều có đội bát âm luôn hoà tấu nhạc Lƣu Thuỷ Hành Vân giúp cho việc hành lễ thêm nghiêm trang tiếp đến dàn hoà tấu trống cái, trống con, nạo bạt, đến hai hàng bát biểu gồm tám biển gỗ thếp vàng, cao 30 cm, rộng 40 cm, chạm trổ các hình mẫu biểu tƣợng các đặc trƣng văn khoa. (Nếu nhìn kỹ các hoạ tiết nhƣ ống quyển, nghiên, bút đan xen cùng hoa lá chạm trên bát biểu sẽ thấy rõ khía cạnh này). Sau hai hàng bát biểu là kiệu hƣơng án, gồm bát hƣơng bách thần, đỉnh trầm, chân nén đồng, mâm ngũ quả, bình hoa và hình mẫu thuyền bát nhã (thuyền chở phúc, cứu độ chúng sinh). Tiếp đến là đoàn nam nhạc hoà tấu phƣờng Già Lam gồm trống cơm, kèn tầu, hồ, nhị, níu, đàn tứ, đàn nguyệt âm vang điệu lƣu thuỷ dẫn đƣờng để lần lƣợt: - Kiệu Long đình có bát hƣơng thỉnh Phật, đài nến một đôi, bình hoa, đỉnh trầm và mâm ngũ quả. - Cờ tứ linh là bốn lá cờ thêu long, ly, quy, phƣợng. - Hộp triều phục vua ban Đức Thánh Tổ gồm 4 hộp gỗ đựng mũ, áo, đai, hài. 48
  49. - Kiệu sắc: Kiệu rƣớc sắc chỉ vua phong Đức Thánh tổ Không Lộ là Quốc sƣ để trong khung gỗ lồng kính, là sắc chỉ Cảnh Hƣng 43 (năm Quý Mão – 1783). - Lọng vàng một đôi bằng vải satanh 3 mầu, tua vàng kim tuyến, đƣờng kính mỗi lọng 1,4m. - Tàn đỏ một đôi bằng satanh, đƣờng kính mỗi tàn 0,8m, dài 1m, bọc lụa vàng, thêu long, ly, quy, phƣợng, tua vàng kim tuyến. - Kiếm vàng một đôi bằng gỗ nhũ vàng - Cờ bái chùa Thánh một đôi lá dài thêu chữ Hán: Từ vân ấm vạn gia: Mây lành ấm vạn nhà Ngâm kệ truyền thiên cổ: Đọc kệ truyền ngàn năm - Cờ đệ nhất tối linh thêu chữ Hán Thánh cung vạn tuế: Đức Thánh vạn năm. - Quạt ngà một đôi: nan quạt bằng ngà voi, bọc lụa tơ tằm, hoa văn rồng phƣợng, quạt gấp dài 0,8m, quạt mở rộng 1,7m. - Âm nhạc hoà tấu chiêng trống cái với phƣờng ngũ lôi. - Kiệu chính rƣớc bài vị Đức Thánh tổ Không Lộ, gồm mũ cánh chuồn, áo đại trào vua ban, trƣớc bài vị có bình hoa, đỉnh trầm, chân nến, mâm ngũ quả.Kiệu chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng và có màn lụa che quanh. Màn lụa màu hồng thêu hoa văn, với tua vàng kim tuyến rực rỡ, các đầu đòn khiêng kiệu đều chạm trổ đầu rồng thếp vàng. Trong hành tiến, kiệu chính luôn xô lệch nghiêng ngả tả hữu, tiến nhanh chậm và dừng bất kỳ nhƣng không đổ, gọi là kiệu bay. Với những phật tử mộ đạo, kiệu bay mang ý nghĩa tâm linh rất lớn, nhiều bà mẹ đã bế con chui qua gầm kiệu để lấy may. - Kiệu thuyền rồng (hình tƣợng thuyền của Quốc sƣ lên kinh đô chữa bệnh cho nhà vua), lần lƣợt khi tiến, khi lui. Lúc ào ào nhƣ bay làm cho đám rƣớc thêm phần sinh động, lại đƣợm vẻ mầu nhiệm phép Thần. Hai bên kiệu còn có cờ, quạt vả, tàn vàng, lọng tía, rồi các biển gỗ đề “tĩnh túc” (nghiêm trang, yên lặng), “hồi 49
  50. tị” (nhìn lại, tránh ra) nhắc nhở mọi ngƣời có thái độ đúng mực khi rƣớc phụng nghinh. Trong đoàn rƣớc còn đƣợc gƣơng cờ thần, cờ có thêu hàng chữ: Lý thuỷ đằng không, hô phong hoán vũ Đi trên nước, bay trên không, gọi gió làm mưa. Hoặc cờ thêu hàng chữ: Giao hƣơng hiển Thánh: Thánh hiền làng Giao Lý triều quốc sƣ: Quốc sư triều Lý nhƣ nhắc nhở bà con về uy vũ của Thần, cũng nhƣ công trạng của Quốc sƣ. - Cờ chủ hội, xƣa ông chủ hội ngồi võng do giai làng khiêng đi sau cờ (trai làng do các phe cắt cử để phục vụ tạp dịch lễ hội) nhƣng ngày nay chủ hội có thể không ngồi kiệu mà đi sau cờ. Trong lễ hội chùa Keo ở Nam Định có một điểm khá đặc biệt là bên cạnh việc rƣớc kiệu chính thì ở đây còn tổ chức việc rƣớc kiệu hờ. Kiệu hờ cũng đƣợc chạm trổ sơn son thếp vàng nhƣ kiệu chính nhƣng cũ hơn, cũng có đỉnh trầm, chân nến, mâm ngũ quả nhƣng không có bài vị và mũ áo nhƣ kiệu chính. Khoảng cách giữa các kiệu đều nhau, có ngƣời phù giá đi theo, có đội bát âm. các đồ tế khí đi cùng nhƣ Bát Bửu, cờ quạt, có các đội rồng, sƣ tƣ múa lƣợn nhịp nhàng làm cho không khí lễ hội thêm nhộn nhịp. Sau cùng mới đến các đoàn tế nam, tế nữ quan, bô lão, hƣơng sắc, đoàn các dòng họ, hội đồng hƣơng, phe giáp, các già và nhân dân tạo một đám rƣớc sôi động, trang nghiêm lại đƣợm ý nghĩa nhân văn ở một làng quê hiếu học, lễ, nghĩa. Đoàn rƣớc còn có thuyền Rồng là một tác phẩm mỹ thuật tinh xảo do các nghệ nhân làm ra. Trên thuyền Rồng còn treo một số thứ nhƣ túi gấm, nón Tu lờ, gậy trúc gắn liền với truyền thuyết về tài và đức của Đức Thánh tổ. Xƣa kia hành trình của đoàn rƣớc thƣờng đi quanh làng, đi từ chùa qua cổng phía Đông rồi theo lối sau đƣờng làng đến Miếu chợ dừng lại.Sau cuộc bơi chải 50
  51. lại rƣớc tiếp lên chùa nhập cổng phía Tây rồi diễu quanh hồ.Trên đƣờng phụng nghinh còn có nhiều hƣơng án bày hoa quả lễ vật ngát khói hƣơng đặt bên đƣờng để bái vọng Đức Thánh khi đi qua. Khi lễ rƣớc diễu quanh hồ rất sôi động trong tiếng nhạc, tiếng tụng kinh của các già làng, càng sinh động hơn với những động tác uyển chuyển múa lƣợn của những đội rồng, lân, sƣ tử và còn nhiều động tác dẹp đƣờng cho đoàn rƣớc.Trong khi đó dƣới hồ, thuyền Rồng (cò cốc) bơi theo.Thuyền này đƣợc sơn đen viền son mài bóng. Mũi và đuôi thuyền vƣơn cao nhƣ cổ cò trông rất nhẹ nhàng, thanh thoát nhƣ lƣớt nhẹ trên mặt hồ nƣớc trong xanh. Trên thuyền có 10 thiếu niên đầu chít khăn đỏ chèo lái trông rất sinh động. Đoàn rƣớc kéo dài hàng cây số, những chiếc kiệu sơn son thếp vàng rực rỡ, cờ quạt, lọng dù đủ màu sắc, âm nhạc nhẹ nhàng, trang nghiêm. Lễ rƣớc đã thu hút mọi ngƣời đến kỳ lạ bởi các kiệu rƣớc thƣờng liên tục ngả nghiêng, lùi tiến nhanh chậm, có lúc sôi động lên khi kiệu bay, kiệu quay.Điều này thật khó lý giải bởi ngƣời xƣa thƣờng rất tin vào sự màu nhiệm của các thần linh. Song nay mọi ngƣời đã hiểu rõ hơn và có thể đã lý giải đƣợc hiện tƣợng này. Thầm cảm phục cái tài, sự khéo léo của các nghệ nhân xƣa đã có những sáng tạo trong việc đóng kiệu, với những “khớp bánh chè” nên khi rƣớc kiệu cứ đong đƣa, đu đẩy tạo thành thế kiệu quay, kiệu bay. Lễ rƣớc ở chùa Keo là nét sinh hoạt văn hoá tinh thần độc đáo nhiều ngƣời ƣớc mơ và thầm gửi tất cả niềm tin của mình vào Đức Thánh Tổ, vào các hoạt động lễ hội và luôn ƣớc mong cuộc sống gặp nhiều may mắn hơn. Qua đám rƣớc kiệu, cuộc đời của Dƣơng Không Lộ đƣợc biểu hiện nhƣ một diễn xƣớng lịch sử. Trong đám rƣớc giá thuyền rồng sơn son thiếp vàng tƣợng trƣng cho chuyến đi của Không Lộ lên kinh đô chữa bệnh cho nhà vua và cũng có ý nhắc tới một quãng đời chài lƣới của Dƣơng Không Lộ. Đoàn trẻ mục đồng (gồm tám em tuổi từ 12 đến 14) tƣợng trƣng cho những em bé chăn trâu, cắt cỏ đƣợc gần gũi Không Lộ khi ông còn làm nghề chài lƣới. Đặc biệt khi đám rƣớc đi đến góc bờ ao, ngƣời xem thấy xuất hiện bốn ngƣời điều khiển bẩy hình ngƣời bằng gỗ. Trong đó ngƣời thứ nhất điều khiển tƣợng gỗ hình phụ nữ. Đó là nhân vật Bà Chàng (hay bà Cả Rồi). Tƣợng Bà Chàng giơ tay vẫy chào kiệu Thánh. 51
  52. Ngƣời ta kể rằng, xƣa kia Bà Chàng theo Không Lộ lên trời bán cá, vì quá vui nên quên mất đƣờng về. Hôm sau Không Lộ lại lên trời, Bà Chàng trông thấy vui mừng vẫy tay theo về. - Múa ếch vồ: Chiều 14 tháng chín tại toà Giá roi có một nghi lễ chầu thánh bằng một điệu múa cổ, ngƣời dân ở đây thƣờng gọi là múa ếch vồ. Điệu múa do 12 ngƣời chân kiệu chính (hàng đội) có trang phục nhƣ khi rƣớc kiệu, xếp thành hai hàng dọc ở gian giữa, quay vềphía tƣợng điện, đứng chỉnh tề. Khi nghe một tiếng trống của ông chấp hiệu mọi ngƣời để hai tay trƣớc ngực rồi quỳ xuống, hai bàn tay chống xuống đất trƣớc mặt, hai đầu bàn chân xoay chếch về hai phía, hai gót chân chụm lại đội lấy mông. Một tiếng trống tiếp theo, hai hàng đội vung mạnh hai tay về phía trái cho toàn thân bật dậy trở về tƣ thế ban đầu. Các động tác này lặp đi lặp lại năm lần. Hình thức lễ thánh này đã đƣợc cách điệu nhƣ một điệu múa. - Bơi trải cạn cũng đƣợc biểu diễn trƣớc cửa đền Thánh. Mỗi giáp chọn 12 ngƣời đẹp, đức độ. Trong số này một ngƣời là “cái hò” (còn gọi chủa, hay con hò), đầu đội mũ “tì lƣ”, áo có tua, chân quấn xà cạp, một tay cầm mõ nhỏ, một tay cầm dùi (khi múa nếu để rơi mõ hoặc dùi sẽ bị phạt một con lợn). 11 ngƣời khác gọi là “nhà khăn” vác chèo trên vai, mặc quần trắng, áo trắng, đai đỏ, khăn vắt chéo đỏ, một tay giữ chèo, một tay cầm quạt hoặc khăn lụa. Khi có ba hồi lệnh phèng, phèng thì đội hình phải tề tựu. Khi múa, con hò nhảy cao hơn mặt đất chừng 5 hoặc 7 cm, theo kiểu bƣớc chữ đinh về chữ bát, lúc quay sau, lúc nhìn trƣớc một cách hài hƣớc, sinh động và đánh mõ cầm nhịp theo bài văn hò chầu Thánh tổ. Khi ngƣời lĩnh xƣớng hát xong một đoạn nhà khăn lại ơ hò! hay ơ đốc! đồng thời đổi vị trí phách khiến đội hình sinh động. Nhà khăn vái chèo nhƣng cũng nhảy, cũng reo a hò! đồng thời nghiêng ngả bộc lộ tình cảm vui mừng, theo nội dung văn do “con hò” thay nhau lĩnh xƣớng. Do vậy bốn hàng của bốn giáp đã tạo sự đẹp mắt, vui nhộn. Bà con quanh sân vừa nghe bài văn hò phụng Thánh tổ, vừa xem biểu diễn khiến không khí ngày 52
  53. hội rất vui nhộn, lắng đọng nhiều giá trị lịch sử mà 900 năm trƣớc Thánh tổ Không Lộ đã lƣu lại cho hậu thế. Buổi tối, trong ánh sáng huyền ảo của nhang nến, ngƣời ta lại kính cẩn rƣớc nhang án, long đỉnh, thuyền rồng, tiểu đỉnh về Thiêu Hƣơng.Tại đây đã diễn ra cuộc lễ thánh tôn nghiêm. Đoàn lễ đầu tiên gồm: ông chủ hội, các ông tùng giá cùng tám em bé (mục đồng); tiếp đến đoàn chấp hiệu (bảy ngƣời) sau đó đến đoàn hàng thập (những ngƣời mặc áo vàng cầm đồ bát bửu trong cuộc rƣớc kiệu thánh hôm sau) và hai ông tổng cờ, cuối cùng đến hàng đội (những ngƣời chân kiệu đóng khố bao) vào lễ. Bên cạnh phần Lễ, việc tổ chức các trò chơi nhƣ múa rối,thi giã bánh dầy, tổ tôm điếm, cờ bỏi, bơi cò cốc, nấu cơm thi, bơi trải cũng song song đƣợc tổ chức, đây chính là phần Hội của lễ hội chùa Keo. Phần Hội gồm có nhiều hình thức khác nhau nhƣng đặc biệt hơn cả vẫn là bơi trải.Đây là phầnviệc chính mà từ già làng, chức sắc đến bà con ai cũng rõ trọng trách, ai cũng đợi chờ giờ phút thiêng liêng trong lễ hội chùa. - Bơi trải để ôn lại sinh hoạt buổi thiếu thời của Quốc sƣ Không Lộ đƣợc tổ chức vào ngày 15, đây là hoạt động không thể thiếu trong hội chùa Keo.Thƣờng niên, ban tổ chức phải quy định tuyến bơi, định đƣờng đua đồng thời cắm phao, đích và đặt giải thƣởng. Song điều không thể thiếu là nhắc nhở những điều luật để các phe giáp thực hiện, đảm bảo tính trong sáng, tình cảm của xóm làng cùng nét đẹp truyền thống trong bơi trải của quê hƣơng. - Múa rối cạn, đây là hình thức sinh hoạt văn hoá tâm linh đƣợc hình thành từ lâu. Nhóm rối rất sinh động gồm có cô tiên và sáu đầu rối đƣợc thể hiện với những nét mặt khác nhau. Cô tiên xinh xinh búi tóc đuôi gà, yếm thắm, áo tứ thân, thắt lƣng xanh hoa lý và váy lĩnh đen, sáu đầu rối bằng gỗ to hơn đầu ngƣời có vẻ mặt cách điệu ở các trạng thái tình cảm khác nhau. ở đây vừa múa vừa hát những bài ca ngợi đất nƣớc thanh bình hoặc kể lại những sự tích, những lời khuyên răn trong đạo lý con ngƣời. 53