Khóa luận Khai thác giá trị lịch sử, văn hóa cá di tích thờ Tướng quân nhà Trần ở huyện Thủy Nguyên-Hải Phòng phục vụ cho du lịch
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Khai thác giá trị lịch sử, văn hóa cá di tích thờ Tướng quân nhà Trần ở huyện Thủy Nguyên-Hải Phòng phục vụ cho du lịch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_khai_thac_gia_tri_lich_su_van_hoa_ca_di_tich_tho_t.pdf
Nội dung text: Khóa luận Khai thác giá trị lịch sử, văn hóa cá di tích thờ Tướng quân nhà Trần ở huyện Thủy Nguyên-Hải Phòng phục vụ cho du lịch
- Khoá luận tốt nghiệp Phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của khoá luận. Hiện nay, du lịch đ•ợc xem là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế. Du lịch được gọi là “ngành công nghiệp không khói”, là một trong những ngành có đóng góp to lớn vào tổng thu nhập quốc dân . Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng du lịch rất dồi dào, đa dạng và phong phú, có thể nói không hề thua kém bất cứ một quốc gia nào trong khu vực. Việt Nam có điều kiện phát triển du lịch rất mạnh mẽ ở tất cả các loại hình du lịch nh•: Du lịch biển, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ d•ỡng, du lịch mạo hiểm đặc biệt là du lịch văn hoá. Trong loại hình du lịch nhân văn, các di tích văn hoá lịch sử và lễ hội chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Hệ thống các di tích văn hóa lịch sử hầu hết đều gắn liền với các lễ hội,các phong tục tập quán của cộng đồng, phản ánh cuộc sống, lao động của con ng•ời tại các làng quê, gắn liền với việc tái hiện lịch sử chống giặc ngoại xâm của cha ông, gắn với các danh nhân văn hoá lịch sử của dân tộc. Đồng thời phản ánh khát vọng trong đời sống tâm linh của con ng•ời, mang ý nghĩa giáo dục con ng•ời h•ớng tới cái Chân- Thiện- Mỹ. Để tạo ra đ•ợc sự mới lạ, hấp dẫn với du khách trong ch•ơng trình du lịch hiện nay đang h•ớng tới khai thác những tuyến du lịch với các di tích ,lễ hội độc đáo đã đ•ợc biết đến hoặc mới bắt đầu khai thác phục vụ du lịch. Các di tích thờ t•ớng quân nhà Trần ở huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng cũng là một trong những điểm du lịch văn hoá cần đ•ợc khai thác để phục vụ cho du lịch. Thuỷ Nguyên là một trong những huyện có bề dày truyền thống lịch sử văn hoá của Hải Phòng. Toàn huyện có tới 147 di tích lịch sử các loại, trong đó có 23 di tích lịch sử đã đ•ợc xếp hạng cấp quốc gia, 28 di tích lịch sử đ•ợc xếp hạng cấp thành phố. Trong số đó có nhiều di tích, văn hoá truyền thống đã trở thành nét văn hoá tiêu biểu của Hải Phòng. Trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, môi tr•ờng sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử,cụm di tích thờ t•ớng quân nhà Trần ở Thuỷ Nguyên sẽ có một sức hấp dẫn với khách du lịch nhất là những du khách có trình độ học vấn và muốn hiểu biết về lịch sử Việt Nam. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 1
- Khoá luận tốt nghiệp Điểm du lịch văn hoá tại các di tích thờ t•ớng quân nhà Trần ở Thuỷ Nguyên cũng đã và đang đ•ợc đ•a vào khai thác. Tuy nhiên để khai thác triệt để tiềm năng du lịch ở đây đạt đ•ợc những gì nh• mong muốn cần phải có một mục tiêu phát triển du lịch tại cụm di tích này. Việc đ•a vào xây dựng tuyến du lịch văn hoá, lễ hội của cụm di tích ở Thủy Nguyên góp phần quan trọng vào sự phát triển văn hoá- kinh tế- xã hội của huyện. Đồng thời góp phần to lớn trong việc giáo dục truyền thống lịch sử văn hoá cho thế hệ trẻ, bảo vệ các di sản văn hoá, nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân địa ph•ơng về giá trị của các di tích, lễ hội để phát huy những nét đẹp văn hóa của địa ph•ơng. Chính vì vậy, ng•ời viết đã chọn đề tài cho khóa luận tốt nghiệp là : “ Khai thác giá trị lịch sử, văn hoá các di tích thờ t•ớng quân nhà Trần ở huyện Thuỷ Nguyên – Hải Phòng phục vụ cho du lịch” 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khoá luận. -Tìm hiểu các giá trị lịch sử, văn hoá, lễ hội của các di tích thờ t•ớng quân nhà Trần ở Thuỷ Nguyên cũng nh• đánh giá hiện trạng phát triển du lịch tại các điểm di tích này. - Phác họa khái quát các di tích về lịch sử, kiến trúc, hiện vật, lễ hội - Đề xuất một số giải pháp về việc khai thác cụm di tích thờ t•ớng quân nhà Trần phục vụ cho phát triển du lịch, góp phần phát triển kinh tế, bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống văn hoá của huyện Thuỷ Nguyên 3. Đối t•ợng và phạm vi nghiên cứu. - Đối t•ợng nghiên cứu là các điểm di tích thờ t•ớng quân nhà Trần ở huyện Thủy Nguyên với các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. - Khai thác giá trị của các di tích lịch sử văn hóa là một phạm vi rộng lớn, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, điều kiện kinh tế cũng nh• trình độ và ph•ơng pháp của ng•ời nghiên cứu. Do điều kiện và khả năng của ng•ời viết trong b•ớc đầu tập sự nghiên cứu khoa học cho nên khóa luận chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu: tìm hiểu, khai thác giá trị một số di tích thờ t•ớng quân nhà Trần về ph•ơng diện văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. 4. Ph•ơng pháp nghiên cứu Đề tài này thuộc lĩnh vực nghiên cứu Khoa học xã hội và Nhân văn cho nên đ•ợc sử dụng các ph•ơng pháp nghiên cứu sau: - Ph•ơng pháp nghiên cứu các tài liệu văn bản Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 2
- Khoá luận tốt nghiệp - Ph•ơng pháp phân tích, hệ thống để phân tích ,nghiên cứu, đánh giá các giá trị văn hoá của cụm di tích trong mối liên hệ với môi tr•ờng sinh thái, lịch sử hình thành, đời sống văn hoá của c• dân, điều kiện lịch sử văn hoá, kinh tế xã hội của địa phương - Ph•ơng pháp điền dã: Tiếp xúc trực tiếp khảo sát đối t•ợng nghiên cứu là các điểm di tích, trao đổi trực tiếp với những nhân vật phụ trách hoặc có hiểu biết về các di tích. - Ph•ơng pháp đối chiếu so sánh để khắc họa những giá trị đặc tr•ng của các di tích này. 5. Lịch sử nghiên cứu Cuộc kháng chiến chống quân xâm l•ợc Nguyên - Mông thế kỉ XIII mãi mãi là những chiến công hiển hách của quân và dân Đại Việt trong lịch sử dựng n•ớc và giữ n•ớc của dân tộc. Vai trò to lớn của các t•ớng quân nhà Trần với hào khí “ Đông A” đã làm nên những kỳ tích phi thường ba lần đánh bại quân xâm l•ợc Nguyên – Mông bảo vệ giang sơn gấm vóc còn sáng mãi nghìn thu. Trên khắp mảnh đất của Thủy Nguyên Hải Phòng - vùng đất tiền tiêu duyên hải đều in rõ dấu chân của các t•ớng quân nhà Trần năm x•a đã đ•ợc ghi nhiều trong sử sách. Có nhiều tài liệu đã viết về cuộc kháng chiến chống quân xâm lược ở thế kỉ XIII như: “ Đại Việt sử ký toàn th•" – Ngô Sĩ Liên; “ Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỉ XIII” – Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm.Có một số đề tài cũng đã viết về các di tích thờ t•ớng quân nhà Trần ở Quảng Ninh, Nam Định Nh•ng cho đến nay theo tác giả đ•ợc biết thì ch•a có tài liệu nào viết riêng về các di tích thờ t•ớng quân nhà Trần ở Thủy Nguyên đ•ợc công bố. Vì vậy vấn đề mà ng•ời viết lựa chọn để nghiên cứu, tìm hiểu là một vấn đề hoàn toàn mới không trùng lặp với bất kỳ tài liệu nào đã công bố. 6. Đóng góp của khóa luận - Đóng góp cho bản thân: Là một b•ớc rèn luyện, tập làm khoa học, nghiên cứu tìm hiểu một vấn đề khoa học. - Vấn đề đ•ợc thu thập, nghiên cứu đ•ợc coi nh• một cuốn tài liệu tham khảo cho các h•ớng dẫn viên, những ng•ời làm công tác văn hóa của và cho những nhà kinh doanh du lịch của Hải Phòng nói chung và Thủy Nguyên nói riêng. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 3
- Khoá luận tốt nghiệp - Khi vấn đề nghiên cứu đ•ợc thẩm định, bổ sung, hoàn chỉnh sẽ trở thành một tài liệu giới thiệu cho các di tích và khách khi đến tham quan, du lịch tại các điểm di tích này. 7. Bố cục của khoá luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phụ lục Nội dung của khoá luận chia làm ba ch•ơng: - Ch•ơng 1: Cơ sở lí luận về di tích lịch sử - văn hoá. - Ch•ơng 2: Khai thác giá trị văn hóa một số di tích thờ t•ớng quân nhà Trần ở Thuỷ Nguyên. - Ch•ơng 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác và phát triển du lịch văn hóa ở huyện Thủy Nguyên. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 4
- Khoá luận tốt nghiệp CHƯƠNG 1 TổNG QUAN Về DU LịCH VĂN HóA – DI TíCH LịCH Sử Văn Hóa 1.1. Tài nguyên du lịch. 1.1.1. Khái niệm về du lịch. Tổ chức du lịch thế giới (WTO – World Tourism Organization ) đã đ•a ra định nghĩa: “ Du lịch là tổng thể các hiện t•ợng và các mối quan hệ xuất phát từ sự giao l•u du khách, các nhà kinh doanh, chính quyền địa ph•ơng và cộng đồng dân c• trong quá trình thu hút và đón tiếp khách”.(15.tr.12 ) Theo PTS Trần Nhạn: “ Du lịch là quá trình hoạt động của con ng•ời rời khỏi quê h•ơng đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là đ•ợc thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo, khác lạ với quê h•ơng, không nhằm mục đích sinh lời đ•ợc tính bằng đồng tiền”.( 15.tr.8) Pháp luật du lịch Việt Nam định nghĩa: “ Du lịch là hoạt động của con ng•ời ngoài nơi c• trú th•ờng xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ d•ỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. 1.1.2. Tài nguyên du lịch. Theo luật du lịch Việt Nam năm 2006: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con ng•ời và các giá trị nhân văn khác có thể đ•ợc sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”.( điều 4 của LDL) Du lịch là một trong những ngành có sự định h•ớng tài nguyên du lịch rõ rệt. Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố cơ sở để tạo nên vùng du lịch. Số l•ợng tài nguyên vốn có, chất l•ợng của chúng và mức độ kết hợp các loại tài nguyên trên lãnh thổ có ý nghĩa đặc biệt trong việc hình thành và phát triển du lịch của một vùng hay một quốc gia. Một lãnh thổ nào đó có nhiều tài nguyên du lịch các loại với chất l•ợng cao, có sức hấp dẫn khách du lịch lớn và mức độ kết hợp các loại tài nguyên phong phú thì sức thu hút khách du lịch càng mạnh. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 5
- Khoá luận tốt nghiệp Tài nguyên có sự ảnh h•ởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ của ngành du lịch, đến việc hình thành, chuyên môn hoá các vùng du lịch và hiệu quả kinh tế của hoạt động dịch vụ. Đồng thời tài nguyên du lịch cũng chịu sự chi phối gián tiếp của các nhân tố kinh tế - xã hội: Ph•ơng thức sản xuất và tính chất của quan hệ sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và cơ cấu, khối l•ợng nhu cầu du lịch. Về thực chất, tài nguyên du lịch là tổng thể các yếu tố tự nhiên, văn hoá - lịch sử đã bị biến đổi ở nhiều mức độ nhất định d•ới ảnh h•ởng của nhu cầu xã hội và khả năng sử dụng trực tiếp vào mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hoá - lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục và phát triển thể lực và trí lực của con ng•ời, khả năng lao động và sức khoẻ của họ, những tài nguyên này đ•ợc sử dụng cho nghiên cứu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch. Tài nguyên du lịch là một phạm trù lịch sử, bởi vì những thay đổi cơ cấu và l•ợng nhu cầu đã lôi cuốn vào hoạt động du lịch những thành phần mới mang tính chất tự nhiên cũng nh• tính chất văn hoá - lịch sử. Khái niệm “Tài nguyên du lịch” là một phạm trù động, vì nó thay đổi tuỳ thuộc vào sự tiến bộ của kỹ thuật, sự cần thiết về kinh tế, tính hợp lý và mức độ nghiên cứu. Khi đánh giá tài nguyên và xác định h•ớng khai thác chúng ta cần phải tính đến những thay đổi trong t•ơng lai về nhu cầu cũng nh• khả năng kinh tế - kỹ thuật, sự cần thiết về kinh tế, tính hợp lý và mức độ nghiên cứu. Khi đánh giá tài nguyên và xác định h•ớng khai thác các tài nguyên du lịch cần tính đến những thay đổi trong t•ơng lai về nhu cầu cũng nh• khả năng kinh tế, kỹ thuật khai thác các loại tài nguyên du lịch mới. 1.1.3. Đặc điểm - Khối l•ợng các nguồn tài nguyên và diện tích phân bổ các nguồn tài nguyên là cơ sở cần thiết để xác định khả năng khai thác và tiềm năng của hệ thống lãnh thổ nghỉ ngơi, du lịch. - Thời gian có thể khai thác các định tính mùa vụ của du lịch, nhịp điệu dòng du lịch. - Tính bất biến về mặt lãnh thổ của đa số các loại tài nguyên tạo lên lực hút cơ sở hạ tầng và dòng du lịch tới nơi tập trung các loại tài nguyên đó. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 6
- Khoá luận tốt nghiệp - Vốn đầu t• t•ơng đối thấp và giá thành chi phí sản xuất không cho phép xây dựng t•ơng đối nhanh chóng cơ sở hạ tầng và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cũng nh• khả năng sử dụng độc lập từng loại tài nguyên. - Khả năng sử dụng nhiều lần tài nguyên du lịch nếu tuân theo các quy định về sử dụng tự nhiên một cách hợp lý, thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ chúng. 1.2. Tài nguyên du lịch nhân văn 1.2.1. Khái niệm. Tài nguyên du lịch nhân văn đ•ợc hiểu là các tài nguyên sáng tạo của con ng•ời bao gồm: Di tích lịch sử, văn hoá, lễ hội, phong tục tập quán và các công trình đ•ơng đại do xã hội và cộng đồng con ng•ời sáng tạo, có sức hấp dẫn du khách, có tác dụng giải trí, h•ởng thụ mang ý nghĩa thiết thực và đ•ợc đ•a vào khai thác phục vụ phát triển du lịch. 1.2.2. Đặc điểm. - Là tài nguyên du lịch nhân văn tập trung tại các điểm quần c• ở cả nông thôn và đô thị, cả miền núi và đồng bằng, ven biển, hải đảo. - Việc tham quan, tìm hiểu tài nguyên du lịch nhân văn có tác dụng nhận thức nhiều hơn, tác dụng giải trí không điển hình hoặc có ý nghĩa thứ yếu. - Việc tìm hiểu các đối t•ợng nhân tạo đ•ợc diễn ra trong thời gian ngắn. Nó th•ờng kéo dài một vài giờ, cũng có thể một vài phút, thích hợp với loại hình du lịch nhận thức theo lộ trình. - Số ng•ời quan tâm tới tài nguyên du lịch nhân văn th•ờng có trình độ văn hoá cao, thu nhập và yêu cầu th•ởng thức cao. - Tài nguyên du lịch nhân văn có •u thế to lớn là đại bộ phận không có tính mùa vụ, ít bị phụ thuộc vào điều kiện khí t•ợng và các điều kiện tự nhiên khác. - Sở thích của những ng•ời tìm hiểu đến tài nguyên du lịch nhân văn rất phức tạp và rất khác nhau Tài nguyên du lịch nhân văn tác động theo từng giai đoạn: + Giai đoạn thông tin: Giai đoạn này du khách nhận đ•ợc những thông tin chung nhất, qua các thông tin miệng hay ph•ơng tiện thông tin đại chúng, nên có thể ch•a thật rõ ràng về đối t•ợng. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 7
- Khoá luận tốt nghiệp + Giai đoạn tiếp xúc: Là giai đoạn khách du lịch có nhu cầu tiếp xúc bằng mắt th•ờng với đối t•ợng, tuy chỉ là l•ớt qua nh•ng là quan sát bằng mắt thực. + Giai đoạn nhận thức: Giai đoạn này khách du lịch làm quen với đối t•ợng một cách cơ bản hơn, đi sâu vào nội dung của nó, thời gian tiếp xúc dài hơn. + Giai đoạn đánh giá nhận xét: ở giai đoạn này, bằng kinh nghiệm sống của bản thân về mặt nhận thức, khách du lịch so sánh đối t•ợng này với đối t•ợng gần với nó. Thông th•ờng việc làm quen với tài nguyên du lịch nhân văn dừng lại ở hai giai đoạn đầu, còn giai đoạn nhận thức và đánh giá nhận xét dành cho du khách có trình độ văn hoá nói chung và có chuyên môn cao. 1.2.3. Phân loại a. Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể Là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học đ•ợc l•u giữ bằng trí nhớ, chữ viết, đ•ợc l•u truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức l•u giữ, l•u truyền khác, bao gồm: tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học ngữ văn truyền miệng, diễn x•ớng dân gian, lối sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y d•ợc cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những trí thức dân gian khác. b.Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể. Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm: Di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, là g•ơng mặt lịch sử, là nhân chứng của các thời đại. Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể ở n•ớc ta phong phú, đa dạng, đặc sắc, mang các giá trị lịch sử văn hoá, gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của đất n•ớc, gồm: Di tích khảo cổ, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử, các công trình đ•ơng đại. Trong đó các di tích kiến trúc nghệ thuật nh• chùa, đình, đền, nhà thờ, miếu, nhà cổ, lăng tẩm, cung điện chiếm số l•ợng lớn, l•u giữ nhiều giá trị lịch sử, kiến trúc nghệ thuật văn hoá có giá trị, là những điểm tham quan, nghiên cứu hấp dẫn du khách. * Đình làng Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 8
- Khoá luận tốt nghiệp Đình là yếu tố vật chất quan trọng nhất trong văn hoá làng. Đình là ngôi nhà chung của cộng đồng làng xã Việt Nam, là biểu t•ợng cho văn hoá làng Việt, và khi nói đến làng ng•ời Việt là nói đến cây đa, giếng n•ớc, sân đình. Đình có từ lâu, lúc đầu nh• các quán, miếu qua đ•ờng, tới thế kỉ XVI đình phát triển nhiều. Thế kỉ XVII là sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc đình. Nơi dựng đình th•ờng ở giữa làng, trên một khu đất cao, thế đất đẹp, có long mạch. Về cấu trúc của đình th•ờng có một kiểu kết cấu phổ biến nh• sau: Kết cấu chữ “ Nhất” là kết cấu một toà đình có 5 gian hoạc 7 gian và 2 chái. Kết cấu này th•ờng thấy ở các ngôi đình thờ nhà Mạc, đến thế kỉ XVII ng•ời ta đ•a Thành Hoàng vào thờ ở đình, xuất hiện tục hậu thần, cấu trúc nh• sau: - Cấu trúc chữ “Nhị” gồm có phần đại đình cộng với phần hậu cung. - Cấu trúc chữ “Đinh” hay còn gọi là hình chuôi vồ, bao gồm phần đại đình và phần hậu cung. - Cấu trúc chữ “Công” gồm phần đại đình, hậu cung và toà ống muống nối giữa 2 phần này. Sân đình cách mặt đất 0,6m -0,8m, th•ờng có thứ bậc (Tiền tế, Ph•ơng đình), để quy định thứ bậc ngồi trong đình. Kiến trúc của đình thể hiện giá trị nghệ thuật điêu khắc cao hơn hẳn so với các loại hình kiến trúc khác, là nguồn liệu để nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Việt Nam, đời sống hàng ngày cũng nh• tâm hồn của ng•ời nông dân Việt Nam. Về điêu khắc ở đình làng, qua mỗi thời kì, mỗi triều đại Lê - Trịnh - Nguyễn đều có một kiểu kiến trúc gắn với điêu khắc khác nhau. Những nét khác biệt đó thể hiện chủ yếu trong các môtíp trang trí, rõ nhất ở hình con rồng và ở vị trí của các hoạt cảnh dân gian. Về chức năng của đình làng gồm có ba chức năng: - Chức năng tín ng•ỡng: Thờ những ng•ời có công với làng đó là những Thành Hoàng làng bao gồm: + Thiên thần: Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm thì hoá bay về trời nh•: Thánh Tản Viên ( chùa Tây Đằng ). + Nhân thần: Đ•ợc thờ nhiều nhất trong các đình làng, gồm: Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 9
- Khoá luận tốt nghiệp Ng•ời có công khai canh lập làng và những ng•ời có công dạy cho dân làng một nghề nào đó gọi là tổ nghề. Ng•ời có công với làng với n•ớc, các vị anh hùng dân tộc đ•ợc tôn làm Thành Hoàng làng: Lê Chân, Hai Bà Tr•ng, Trần H•ng Đạo, Ngô Quyền. Có thể là các nhà s• thời Lý: Không Lộ, Minh Không, Từ Đạo Hạnh. + Dị thần ( hạ đẳng thần). - Chức năng hành chính: Mọi việc của làng đều đ•ợc giải quyết ở đình ( nh• thu thuế, cử ng•ời đi đắp đê, bản thảo lập h•ơng •ớc, khao vọng). - Chức năng văn hoá: Đình làng còn là nơi tổ chức các sinh hoạt văn hoá xã hội mang tính “ đẳng cấp” của làng, thể hiện qua hệ thống ngôi thứ ở đình khi hội họp, đình đám, khi tế lễ, năm lẻ tổ chức nhỏ, năm chẵn tổ chức lớn. Đình làng cũng phản ánh sự can thiệp của Nhà n•ớc phong kiến vào làng xã thể hiện qua những đề tài điêu khắc nh•: Hình t•ợng con rồng, qua hệ thống thần, hay hệ thống ngôi thứ trong đình, dựa trên phẩm hàm, bằng cấp. Đình là nơi thể hiện những đặc điểm về tín ng•ỡng, sinh hoạt văn hoá, lễ hội, phong tục tập quán của làng xã ( tín ng•ỡng đa thần, thờ tổ tiên, tục đặt hậu). Đình làng còn là nơi ghi dấu lịch sử dựng n•ớc và giữ n•ớc của dân tộc ta, hầu hết các vị thần là ng•ời có công xây dựng xóm làng, các t•ớng lĩnh có công đánh giặc giữ n•ớc. Đình còn chứa đựng nguồn tài liệu Hán Nôm rất phong phú để tìm hiểu về làng xã cổ truyền. Các văn bản Hán Nôm phản ánh những mặt của đời sống làng xã. Có thể nói đình là yếu tố quan trọng nhất, lớn nhất trong kết cấu làng Việt và cũng giống nh• ngôi chùa ở Việt Nam, đình làng đóng vai trò không thể thiếu trong đời sống tinh thần của ng•ời Việt. *Đền, miếu, nghè, am, quán: Các tên gọi này không có sự nhất quán giữa các làng, song nhìn chung đây là nơi thần linh thành hoàng trú ngụ vì nhiều lý do khác nhau: Là nơi sinh, nơi hoá của thần, nơi thần dừng chân, nơi đóng doanh trại khi đánh trận, nơi bày chiến trận của thần. Đền là những công trình kiến trúc nghệ thuật, thờ các vị nhân thần, thiên thần, những danh nhân, anh hùng dân tộc. Đền có lịch sử phát triển gắn liền với lịch sử dựng n•ớc và giữ n•ớc. Vì vậy đây là một loại di tích lịch sử văn Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 10
- Khoá luận tốt nghiệp hoá có lịch sử phát triển lâu đời nhất n•ớc ta, th•ờng đ•ợc xây dựng ở những nơi diễn ra các sự kiện lịch sử, nơi sinh hoặc mất của các thần điện. Đền có các mảng điêu khắc, các nhang án, đồ tế tự, t•ợng, hoành phi th•ờng đ•ợc sơn son thiếp vàng có giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật, các công trình kiến trúc th•ờng gắn liền với các truyền thuyết, các lễ hội để tôn vinh các thần điện hoặc danh nhân, các anh hùng dân tộc. Đền trong làng Việt còn là nơi thờ Mẫu gắn với tục thờ nữ thần, hệ trọng trong quan niệm của dân làng. Nhiều làng Việt còn có Quán của Đạo giáo. Kiến trúc của các Quán đạo cũng gần giống nh• chùa. Hệ thống t•ợng thờ gồm có t•ợng Tam Thanh đó là Thái Thanh, Th•ợng Thanh và Ngọc Thanh, phía d•ới là Tứ Ngự đó là bốn vị thần cai quản bốn ph•ơng, ngoài ra còn có ông Ngũ Lão quân (Lão Tử). Đặc điểm chung của các di tích kiến trúc nghệ thuật ở Việt Nam. - Chịu ảnh h•ởng nhiều của phong cách mỹ thuật ph•ơng Đông, từ thế kỷ XIX có ảnh h•ởng nhiều phong cách kiến trúc ph•ơng Tây. - Đ•ợc quy hoạch xây dựng tuân theo phong cách phong thuỷ của ph•ơng Đông và quan niệm âm d•ơng trong kinh dịch. - Về mặt vị trí địa lý, đạt đ•ợc các đặc điểm có long chầu, hổ phục, có tiền án, hậu trẩm và minh đ•ờng, th•ờng xuyên lấy thiên nhiên tô điểm cho kiến trúc, nơi nào thiếu các yếu tố tự nhiên thì tạo ra phong cảnh nh• đào hồ, trồng cây để trang trí cho công trình và kiến trúc hài hoà với thiên nhiên, th•ờng đ•ợc xây dựng ở những nơi có cảnh đẹp. - Tên gọi của các công trình hay các bộ phận cấu trúc của công trình, hệ thống hoành phi câu đối, đại tự đều có ý nghĩa triết học, là những câu văn hay , xúc tích, những từ mang ý nghĩa triết học. - Các công trình đ•ợc bố trí xây dựng theo lối đăng đối, có trật tự, các công trình chính th•ờng nằm trên trục dũng đạo, các công trình khác đ•ợc bố trí đăng đối, có trật tự tiền, hậu ,tả, hữu - Phần lớn các di tích đ•ợc xây dựng bằng vật liệu truyền thống quý, kết hợp hài hoà các giá trị văn hoá, kiến trúc nghệ thuật giữa văn hoá Việt Nam với văn hoá Trung Hoa, ấn Độ và văn hoá ph•ơng Tây. Đặc điểm và các giá trị kiến trúc nghệ thuật phụ thuộc vào các chức năng của các di tích nên mỗi loại di tích lịch sử có kiểu dáng kiến trúc mỹ thuật riêng. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 11
- Khoá luận tốt nghiệp Trong các di tích lịch sử văn hoá, th•ờng là thờ các nhân vật gắn liền với điển tích, công lao của các nhân vật và là nơi diễn ra các lễ hội. Có thể nói, mỗi di tích lịch sử văn hoá th•ờng thể hiện những đặc điểm chung về kiến trúc mỹ thuật của từng thời đại, mang tính phân vùng và phù hợp với điều kiện địa lý tại chỗ. 1.3. Du lịch văn hoá 1.3.1.Khái niệm Văn hoá là một hoạt động của con ng•ời tự do, biến đổi thế giới tự nhiên thành thế giới tự nhiên thứ hai có cấu trúc cao hơn và có dấu ấn ng•ời( có tính ng•ời). Trong quá trình đó con ng•ời hình thành cái thiên nhiên bên trong của chính mình ( cảnh quan nội tại của chính mình), đồng thời thể hiện thái độ ( ứng xử) với thiên nhiên thứ nhất và thiên nhiên thứ hai và ứng xử đối với chính mình. Văn hoá là một hình thái xã hội toàn diện gồm ba hình thái: Chuẩn mực, giá trị và biểu t•ợng. Du lịch văn hoá là loại hình du lịch mà ở đó con ng•ời h•ởng thụ những sản phẩm văn hoá của nhân loại, của một quốc gia, một vùng dân c•. Mục đích chính của du lịch văn hoá là thúc đẩy và nâng cao hiểu biết văn hoá cho cá nhân. Loại hình du lịch này thoả mãn lòng ham hiểu biết và ham thích nâng cao văn hoá thông qua các chuyến du lịch đến những nơi lạ để tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử , kết cấu kinh tế, thể chế xã hội, phong tục tập quán, tín ng•ỡng của c• dân vùng du lịch. Ngày nay du lịch văn hoá là một xu h•ớng mạnh mang tính toàn cầu, trong đó văn hoá trở thành nội hàm, động lực để phát triển du lịch bền vững, giá trị văn hoá khiến sản phẩm du lịch mang đậm tính độc đáo nhân văn, đ•ợc coi là nguồn tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn. Nếu tài nguyên du lịch tự nhiên hấp dẫn du khách bởi sự hoang sơ, hùng vĩ, độc đáo và hiếm hoi của nó, thì tài nguyên du lịch nhân văn thu hút du khách bởi tính phong phú, đa dạng, độc đáo và tính truyền thống cũng nh• tính địa ph•ơng của nó. Các đối t•ợng văn hoá, tài nguyên du lịch nhân văn là cơ sở để tạo nên các loại hình du lịch văn hoá phong phú, nó đánh dấu sự khác nhau giữa nơi này với nơi khác, quốc gia này với quốc gia khác, dân tộc này với dân tộc khác, là yếu tố thúc đẩy động cơ du khách, kích thích quá trình lữ hành. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 12
- Khoá luận tốt nghiệp Có thể nói, du lịch văn hoá là hoạt động du lịch diễn ra trong môi tr•ờng nhân văn hoặc hoạt động du lịch đó tập trung khai thác tài nguyên du lịch nhân văn tại các điểm du lịch, vùng du lịch. 1.3.2. Nội dung của sản phẩm du lịch văn hoá Du lịch văn hoá bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, du lịch văn hóa chỉ thực sự có nội dung văn hoá khi gắn liền hoạt động của nó với kiến trúc lịch sử, xã hội liên quan đến tuyến điểm du lịch. a. Các di tích lịch sử văn hoá, di chỉ khảo cổ học, các lễ hội truyền thống, trò chơi dân gian, các công trình kiến trúc, nghệ thuật ẩm thực của địa ph•ơng cho khách du lịch thấy đ•ợc khung cảnh cuộc sống đa dạng của mỗi cộng đồng c• dân. Nó là tài sản quý giá của mỗi địa ph•ơng, mỗi dân tộc, mỗi đất n•ớc và của cả nhân loại. Nó là bằng chứng trung thành, xác thực, cụ thể nhất về đặc điểm văn hoá của mỗi n•ớc, trong đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa, trí tụê, tài năng, giá trị văn hoá nghệ thuật của mỗi quốc gia. Di tích lịch sử văn hoá có khả năng rất lớn, góp phần vào việc phát triển trí tuệ, tài năng của con ng•ời, góp phần vào việc phát triển khoa học nhân văn, khoa học lịch sử. Đó chính là bộ mặt quá khứ của mỗi dân tộc, mỗi đất n•ớc. Đ•ợc gọi là di tích lịch sử văn hoá vì chúng đ•ợc tạo ra bởi con ng•ời (tập thể hoặc cá nhân) trong quá trình hoạt động sáng tạo lịch sử, hoạt động sáng tạo văn hoá. Văn hoá ở đây gồm cả văn hoá vật chât,văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần. ở Việt Nam, theo pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hoá và danh lam tháng cảnh công bố ngày 4/4/1984 thì di tích lịch sử - văn hoá đ•ợc quy định nh• sau: “ Di tích lịch sử – văn hoá là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sử , khoa học, nghệ thuật, cũng nh• có giá trị văn hoá khác, hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá - xã hội”. “ Danh lam thắng cảnh là những khu vực thiên nhiên có cảnh đẹp, hoặc có công trình xây dựng nổi tiếng”. Từ đây có thể rút ra những quy định chung một cách khoa học và hệ thống về di tích lịch sử văn hóa: Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 13
- Khoá luận tốt nghiệp + Di tích lịch sử - văn hoá là những nơi ẩn dấu một bộ phận giá trị văn hoá khảo cổ. + Những địa điểm khung cảnh, ghi dấu về dân tộc học. + Những nơi diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng có ý nghĩa thúc đẩy lịch sử đất n•ớc, lịch sử địa ph•ơng phát triển. + Những địa điểm ghi dấu chiến công chống giặc xâm l•ợc, áp bức. + Những nơi ghi dấu giá trị l•u niệm về nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá, khoa học. + Những công trình kiến trúc, nghệ thuật có giá trị toàn quốc và khu vực. + Những danh lam thắng cảnh do thiên nhiên bài trí sẵn và có bàn tay con ng•ời tạo dựng thêm vào, đ•ợc xếp là một loại trong các loại hình di tích lịch sử - văn hoá. Như vậy có thể định nghĩa cụ thể: “ Di tích lịch sử văn hoá là những không gian vật chất cụ thể, khách qua, trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân con ng•ời sáng tạo ra trong lịch sử để lại”. Mỗi di tích lịch sử - văn hoá chứa đựng nhiều nội dung lịch sử khác nhau. Có thể chia thành các loại di tích nh• sau: * Loại hình di tích văn hoá khảo cổ ( di chỉ khảo cổ): Là những địa điểm ẩn giấu một bộ phận giá trị văn hoá, thuộc về thời kì lịch sử xã hội loài ng•ời ch•a có văn tự và thời gian nào đó trong lịch sử cổ đại. Ví dụ nh•: Di chỉ khảo cổ Tràng Kênh - Thủy Nguyên - Hải Phòng. Đa số các di tích văn hoá khảo cổ nằm trong lòng đất, cũng có tr•ờng hợp tồn tại trên mặt đất: Các bức chạm khắc trên vách đá. Những di tích văn hoá khảo cổ này đ•ợc phân thành hai loại là di chỉ c• trú và di chỉ mộ táng. * Loại hình di tích lịch sử văn hoá: Th•ờng gắn liền với các kiến trúc có giá trị ghi dấu về dân tộc học ( sự ăn ở, sinh hoạt của các tộc ng•ời); ghi dấu chiến công xâm l•ợc áp bức; những nơi ghi dấu giá trị l•u niệm về nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá khoa học; ghi dấu sự vinh quang trong lao động; ghi dấu tội ác của đế quốc và phong kiến. * Loại hình di tích văn hoá nghệ thuật: Là những di tích gắn với các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật tiêu biểu, đặc sắc. Những di tích này không chỉ chứa đựng những giá trị kiến trúc mà còn chứa đựng cả những giá Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 14
- Khoá luận tốt nghiệp trị văn hoá xã hội, văn hoá tinh thần: Văn Miếu Quốc Tử Giám, nhà thờ Phát Diệm, toà thánh Tây Ninh hay nh• đình Hàng Kênh - Hải Phòng * Di tích cách mạng: Là những di tích ghi lại một sự kiện quan trọng của lịch sử cách mạng địa ph•ơng, có ảnh h•ởng lớn tới sự phát triển của phong trào cách mạng của địa ph•ơng, khu vực hay cả quốc gia. * Các loại danh lam thắng cảnh: Do thiên nhiên bài trí sẵn và có bàn tay con ng•ời tạo dựng thêm và đ•ợc xếp là một trong các loại hình di tích lịch sử - văn hoá ( chùa H•ơng, Yên Tử, động Tam Thanh, ) Các danh lam thắng cảnh th•ờng chứa đựng trong đó giá trị của nhiều loại di tích lịch sử –- văn hoá. Vì vậy nó có giá trị quan trọng đối với phát triển du lịch. b. Các lễ hội truyền thống “ Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hoá tổng hợp hết sức đa dạng và phong phú, là một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt nhọc, hoặc là một dịp để con ng•ời h•ớng tới các sự kiện lịch sử trọng đại; ng•ỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống hoặc là để giải quyết những nỗi lo âu, những khao khát, •ớc mơ mà cuộc sống thực tại ch•a giải quyết đ•ợc” [8.tr.67]. Lễ hội có lịch sử rất lâu đời từ khi có nhu cầu sinh hoạt của con ng•ời thì lễ hội đ•ợc ra đời. Do đó cùng với sự phát triển của xã hội thì những lễ hội đ•ợc mở rộng hơn phù hợp với điều kiện sinh hoạt của con ng•ời. Lễ hội bao giờ cũng gắn với một cộng đồng dân c• nhất định và đó là một sinh hoạt văn hoá không thể thiếu đ•ợc. Bất kỳ một dân tộc nào trên thế giới cũng đều h•ớng cho mình những lễ hội mang bản sắc riêng. Đối với c• dân lúa n•ớc thì lễ hội là dịp để ng•ời ta bày tỏ tình cảm của con ng•ời với thiên nhiên, với các vị thần linh mà ng•ời ta cho rằng nhờ các yếu tố đó mà có mùa màng bội thu ( Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn ) 1.3.3.Vai trò của các sản phẩm du lịch văn hóa. Các di tích lịch sử - văn hoá, lễ hội bên cạnh các giá trị tâm linh về mặt đời sống của cộng đồng, nó còn có vai trò to lớn đối với sự phát triển của hoạt động du lịch của một số địa ph•ơng, một đất n•ớc. - Di tích lịch sử - văn hoá là những công trình kiến trúc có giá trị lịch sử: đình, chùa, nghè, miếu, đố là những di sản văn hoá vật thể ẩn chứa trong nó những trang sử hào hùng, những giá trị tôn giáo, tâm linh của từng thời kỳ lịch sử, của từng vùng miền. Đây là chốn linh thiêng của các vị thành hoàng, Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 15
- Khoá luận tốt nghiệp những vị anh hùng dân tộc có công trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất n•ớc. - Di tích lịch sử - văn hoá là những bằng chứng xác thực, trung thành, cụ thể nhất về đặc điểm văn hoá của mỗi đất n•ớc, nó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa trí tuệ, tài năng, giá trị văn hoá nghệ thuật của mỗi quốc gia. Tất cả các di tích lịch sử này đều mang đến cho con ng•ời những thông điệp từ quá khứ, nó làm thoả mãn nhu cầu tham quan, hiểu biết tìm về cội nguồn của du khách. Là tài nguyên du lịch nhân văn quý giá giúp cho du lịch của địa ph•ơng và của quốc gia ngày càng phát triển ổn định và bền vững. - Lễ hội là một hoạt động, là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật, truyền thống của một cộng đồng, một dân tộc. Lễ hội vừa có tính thần linh, vừa có tính trần tục, vừa ôn lại quá khứ để giáo dục hiện tại và bồi d•ỡng tình cảm của con ng•ời đối với thiên nhiên đối với cộng đồng. - Lễ hội là một công đoạn trong chu kỳ sản xuất nông nghiệp, kết thúc một chu kỳ sản xuất cũ, mở đầu một chu kỳ mới. Lễ hội đáp ứng yêu cầu đời sống tâm linh, th•ởng thức các giá trị văn hoá cho nông dân, nó phản ánh đặc điểm tín ng•ỡng, phong tục tập quán, sự phân tầng xã hội trong làng xã. Lễ hội chứa đựng những giá trị to lớn về cố kết cộng đồng; Qua đó sự chia sẻ cảm thông giữa các thành viên trong làng, trong xã, trong địa ph•ơng ngày càng đ•ợc củng cố, phát triển. - Lễ hội là một không gian thiêng, là nơi con ng•ời thể hiện đạo đức “ Uống nước nhớ nguồn” của mình. Thông qua lễ hội mà người ta hiểu được truyền thống văn hoá của dân tộc, hiểu đ•ợc nguồn gốc hình thành của dân tộc, hiểu đ•ợc sự xuất hiện của cộng đồng làng xã và hiểu đ•ợc nguồn gốc của các dòng tộc, gia tộc. Lễ hội là dịp để cha ông giáo dục truyền thống cho con cháu. Lịch sử văn hoá của dân tộc từ khi hình thành đến khi trở thành truyền thống, đó là sự chuyển giao từ thế hệ này đến thế hệ khác, mà lễ hội chính là một tr•ờng học mà thế hệ tr•ớc dạy lại cho thế hệ sau. Lễ hội là sợi dây mềm mại gắn kết cộng đồng góp phần tạo nên truyền thống đoàn kết, tính bền vững của xã hội. - Lễ hội là điều kiện phát huy sắc thái văn hoá của mảnh đất, con ng•ời, là dịp tôn vinh văn hoá dân tộc. Nó đ•ợc coi là bảo tàng sống sinh hoạt văn hoá tinh thần của con ng•ời Việt Nam. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 16
- Khoá luận tốt nghiệp - Lễ hội truyền thống là dịp tôn vinh những danh nhân, anh hùng dân tộc, ng•ời có công với dân với làng với n•ớc, ng•ời tạo nghề, lập làng, lập nghiệp khai khẩn đất đai. - Lễ hội gắn với di tích lịch sử, đều có vai trò quan trọng đối với việc giáo dục truyền thống, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá trong sự phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội mang tính bền vững. Đồng thời nó có sức hấp dẫn du khách, cũng có giá trị đối với sự phát triển du lịch của địa ph•ơng, của quốc gia. Có thể nói: “ Lễ hội là cuộc đời thứ hai bên cạnh cuộc đời thật; là hình thức tổng hoà văn hoá nghệ thuật; là một hiện t•ợng văn hoá mang tính trội”. Nh• vậy, di tích là tiếng nói của các thế hệ đi tr•ớc đã có công dựng n•ớc và giữ n•ớc cho hôm nay và mai sau, còn lễ hội là phần hồn, là bản chất, là chất keo nối kết cộng đồng dân tộc Việt Nam thành thể thống nhất và bền vững. Chính vì vậy đây là điều kiện khai thác tốt hơn cả di tích và lễ hội vào mục đích du lịch. Các di tích và lễ hội luôn gắn bó song hành với nhau và đó là cơ sở để chúng ta xây dựng các tuyến du lịch văn hoá - lễ hội. Tiểu kết Ngày nay, du lịch văn hoá đóng vai trò chủ yếu, quan trọng nhất trong tài nguyên du lịch nhân văn, nó đ•ợc coi là một h•ớng phát triển hiệu quả của ngành du lịch Việt Nam. Hệ thống các di tích lịch sử văn hoá, các công trình kiến trúc, các lễ hội đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của ng•ời Việt, đồng thời đây cũng là nguồn lực để phát triển và mở rộng hoạt động du lịch, đã hấp dẫn đ•ợc l•ợng lớn khách du lịch trong và ngoài n•ớc. Hoạt động du lịch đã khai thác rất nhiều các yếu tố văn hoá có liên quan đến các di tích lịch sử, các lễ hội truyền thống, những môn nghệ thuật dân gian và những giá trị văn hoá phi vật thể khác luôn là những chủ đề nghiên cứu, xây dựng sao cho những tài nguyên văn hoá đó trở thành những sản phẩm du lịch văn hoá đặc sắc. Mục đích của việc khai thác các yếu tố cấu thành nên sản phẩm du lịch văn hoá nhằm giúp cho du khách có thể hiểu đ•ợc lịch sử của mỗi vùng miền, mỗi địa danh và cảm nhận đ•ợc những nét văn hoá đặc tr•ng của điểm du lịch đó. Đồng thời, hoạt động du lịch văn hoá còn mang tính giáo dục sâu sắc, bởi nó giúp cho thế hệ trẻ hình thành nhân cách và thế giới quan trên nền tảng truyền thống, có ý thức bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống. Hiện nay sự phát triển của du lịch văn hoá dang trở thành một Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 17
- Khoá luận tốt nghiệp điểm đi đúng đắn, mang lại hiệu quả kinh tế cao của ngành du lịch Việt Nam, trong đó có du lịch của Thủy Nguyên - Hải Phòng. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 18
- Khoá luận tốt nghiệp CHƯƠNG 2 Khai thác giá trị lịch sử văn hóa các di tích thờ t•ớng quân nhà Trần ở Thuỷ Nguyên – Hải Phòng 2.1. Giới thiệu khỏi quỏt về huyện Thuỷ Nguyờn 2.1.1. Điều kiện tự nhiờn và tài nguyờn du lịch tự nhiờn *Vị trí địa lý Thuỷ Nguyên là huyện thuộc miền duyên hải Hải Phòng,nằm trong toạ độ 20º55´ vĩ độ Bắc,106º45´ kinh độ Đông,có diên tích 242km². Hiện nay huyện Thuỷ Nguyên có 37 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn:Minh Đức và Núi Đèo và 35 xã Vùng đất nơi đây đã đ•ợc hình thành từ rất lâu, x•a đ•ợc gọi là Nam Triệu Giang nằm trong vùng An Biên do nữ t•ớng Lê Chân cai quản, sau gọi là huyện Thuỷ Đ•ờng thuộc phủ Tân An Châu Đông Triều. Đến triều vua Duy Tân thời Nguyễn(1908)đổi tên là huyện Thuỷ Nguyên thuộc tỉnh Kiến An ,sau đó sát nhập vào tỉnh Hải Phòng. Thủy Nguyên nh• một hòn đảo nằm trong vòng ôm của những dòng sông phía tây là sông Hàn,phía Bắc là sông Đá Bạc, phía Đông là sông Bạch Đằng, phía Nam là sông Cấm ngăn cách huyện Thuỷ Nguyên với quận Hải An và nội thành Hải Phòng,nằm ngang huyện là hồ sông Giá thơ mộng. Từ lịch sử xa x•a, Thuỷ Nguyên là nơi trung gian quá cảnh đi nhiều vùng miền khác nhau bằng cả đ•ờng bộ lẫn đ•ờng thuỷ. Trên bản đồ hành chính của Hải Phòng ,huyện Thuỷ Nguyên giống nh• một quả tim lớn, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp huyện Kinh Môn tỉnh Hải D•ơng, phía Nam giáp với quận Hải An và nội thành Hải Phòng, phía Đông nhìn ra biển và cửa Nam Triệu. Chiều dài của huyện từ bến Đụn (đập Phi Liệt) đến bến rừng Tam H•ng là 31km, chiều rộng từ bến Bính đến cầu Đá Bạc dài khoảng 17 km. Dọc huyện là quốc lộ số 10 chạy nối liền Hải Phòng với khu vực mỏ Quảng Ninh. Bên cạnh quốc lộ 10 là đ•ờng 5B và đ•ờng 205 từ Trịnh Xá qua bến phà Đụn sang vùng mỏ Mạo Khê. Ngoài ra còn có đ•ờng máng n•ớc từ Vàng Danh đ•a n•ớc ngọt qua Thuỷ Nguyên. *Địa hình Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 19
- Khoá luận tốt nghiệp Thuỷ Nguyên là huyện ven biển ở vào vị trí chuyển tiếp của hai vùng địa lý tự nhiên lớn là châu thổ sông Hồng và vùng đồi núi Đông Bắc. Địa hình Thuỷ Nguyên gồm địa hình đồng bằng, đồi núi và vùng trũng cửa sông ven biển. Địa hình có núi đá vôi xen kẽ. Dạng địa hình này nằm ở phía bắc huyện gồm địa hình núi đá vôi, đồi núi đất chạy từ An Sơn qua xã Lại Xuân, Liên Khê, L•u Kiếm, Minh Tân, Gia Minh, Gia Đức và Minh Đức. * Địa hình đồng bằng Đồng bằng trung tâm huyện gồm các xã Kiền Bái, Mỹ Đồng, Thuỷ Sơn .có lượng phù sa lớn thích hợp cho việc trồng lúa, hoa màu và cây ăn quả, độ cao trung bình của bề mặt th•ờng là từ 0,2 - 0,8m. Đồng bằng ven sông Đây là vùng đồng bằng vốn đ•ợc bồi tụ, th•ờng bị ngập n•ớc của các xã Hoàng Động, Hoa Động, Lâm Động, Tân D•ơng, Phục Lễ, Phả Lễ, An l•, Thuỷ Triều thuận lợi cho nền nông nghiệp phát triển. Vùng cửa sông ven biển Nét khác biệt đặc tr•ng cho dải đất ven biển huyện Thuỷ Nguyên là các bãi lầy đ•ợc tạo thành từ một lớp phù sa và bùn nhão, ở bề mặt th•ờng có màu phớt hồng. Đây là môi tr•ờng thuận lợi cho việc phát triển hệ thống thực vật phong phú và rừng ngập mặn. Các dạng địa hình đặc biệt: - Điạ hình hang động: Trong quá trình hoạt động của vỏ trái đất đã ban tặng cho Thuỷ Nguyên một địa hình Karst trên cạn với nhiều hang động hấp dẫnvà kì thú. Các hang động phần lớn tập trung ở phía Bắc huyện trong đó vẫn còn có rất nhiều hang động giữ đ•ợc vẻ hoang sơ nh• ban đầu. ở đây có nhiều hang động nổi tiếng nh• Hang Vua, hang Vảo, hang Ma, hang Sộp, hang Lương, hang Đốc Tít Hiện nay ch•a có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về quá trình hình thành tạo các hang động kì thú này. Hầu hết các hang động ở đây đều có độ dài d•ới 200m, các hang động có độ dài lớn nhất cũng không v•ợt quá 500m. Vị trí của hang động th•ờng tập trung ở mức cao 4 -6m,15-20m, hoặc 30m so với mặt n•ớc biển. Chiều rộng từ 5-10m, chiều cao từ 10-18m tuy kích th•ớc hang động không lớn nh•ng các hang động ở Thuỷ Nguyên lại có địa hình đẹp, nhiều Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 20
- Khoá luận tốt nghiệp thành tạo địa chất hấp dẫn, nhiều thạch nhũ. Bên cạnh đó các hang động ở đây th•ờng gắn liền với tên tuổi của các vị anh hùng dân tộc qua các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc. *Khí hậu Khí hậu Thuỷ Nguyên mang tính chất nhiệt đới nóng ẩm gió mùa, do sự chi phối của làn l•u gió mùa Đông Nam á. Đặc biệt là không khí cực đới nên khí hậu ở đây chia làm 2 mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình là 23ºC, độ ẩm 82- 85%. *Tài nguyên n•ớc Trên bản đồ Hải phòng, huyện Thuỷ Nguyên nh• một ốc đảo bao bọc xung quanh và cả trong lòng huyện là hệ thống sông ngòi dày đặc. Sông có sông n•ớc ngọt, sông n•ớc lợ, sông n•ớc mặn sát ngay biển,đẹp nhất và có tiềm năng du lịch nhất là sông Giá. Sông Giá là một vùng cảnh quan thiên nhiên đẹp không phải ngẫu nhiên ng•ời ta gọi sông Giá là sông giàu huyền thoại. Sông Giá là một chi l•u của hệ thống sông Bạch Đằng,bắt nguồn từ sông Đá Bạc tại thôn Giao D•ơng xã Lại Xuân, chảy qua các xã phía Đông Bắc huyện Thuỷ Nguyên rồi đổ ra sông Bạch Đằng ở khu Đầm Đe thị trấn Minh Đức. Sông Gía len lỏi giữa các vùng núi non kì vĩ, tả ngạn là các xã Liên Khê, L•u Kiếm, Minh Đức hữu ngạn là các xã Lại Xuân, Kỳ Sơn, Chính Mỹ, Kênh Giang, Hoà bình, Trung Hà, Phục Lễ. Sông Giá nằm giữa miền châu thổ ven biển đông, nơi tạo ra các nền văn minh lớn của c• dân Lạc Việt. Ngàn năm tr•ớc sông Giá hiền hoà góp phần hình thành “Hành lang văn hoá” của vùng đất Thuỷ Nguyên cổ kính đỉnh cao là văn hoá Tràng Kênh, văn minh Đông Sơn. Đôi bờ sông Giá còn là một kho tàng văn hoá phong phú, là quê h•ơng của nhiều danh tài mặc khách, nơi gìn giữ phong tục tập quán lâu đời của quê h•ơng đất n•ớc. Hồ sông Giá là vùng du lịch cảnh quan sinh thái bao gồm 3 khu vực chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong khai thác đó là: - Vùng lòng hồ sông Giá có chiều dài 16,5km từ đập Minh Đức tới đập Phi Liệt, chiều rộng trung bình từ 250 đến 400m, diện tích là 6,6km2. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 21
- Khoá luận tốt nghiệp - Vùng bờ phía Bắc hồ bao gồm các xã Minh Tân,.L•u Kiếm, Liên khê và thị trấn Minh Đức. Nơi đây có nhiều núi đá, hang động và danh thắng đẹp nh• Hang Vua, đền thờ Trần Quốc Bảo. - Vùng phía Nam hồ gồm các xã Ngũ Lão, Thuỷ Triều, Trung Hà với những đồi thấp ven hồ, những v•ờn cây ăn quả trù phú. * Tài nguyên đất Tài nguyên đất ở huyện Thuỷ Nguyên rất phong phú và đa dạng, đ•ợc phân bố ở khắp mọi nơi bao gồm các loại đất sau: - Đất phù sa màu nâu xám nhạt ở Liên Khê, Lại Xuân. Đất này có khả năng trồng lúa và hoa màu. - Đất đồi núi và thung lũng th•ờng phân bố ở An Sơn, Phù Ninh, Quảng Thanh có khả năng trồng lúa, hoa màu và các loại cây khác như chè, dứa - Đất cát ven sông có lớp phủ sú vẹt ở các xã dọc theo các dòng sông. - Đất chua mặn ở phía Nam huyện đất này phân bố ở ven sông, ven biển. * Tài nguyên động thực vật Động vật Cho tới nay trên vùng đất của Thuỷ Nguyên gần nh• vắng bóng động vật hoang dã. Đây là hậu quả của quá trình khai phá rừng hoang để mở rộng địa bàn l•u trú và sản xuất của con ng•ời. Tuy nhiên, hiện nay ở Thuỷ Nguyên vẫn còn có một số động vật tồn tại và phát triển, chúng th•ờng xuất hiện ở các dãy núi đá vôi nh•: khỉ, dê, sơn dương Cho tới nay huyện Thuỷ Nguyên đang triển khai kế hoạch phủ xanh đồi trọc bằng cách trồng các loại cây có ích và thả các loại động vật hoang dã để giữ cân bằng sinh thái. Thực vật Thuỷ Nguyên có khí hậu nhiệt đới gió mùa bị chi phối mạnh bởi khí hậu của biển nên thực vật xanh tốt và sinh tr•ởng mạnh mẽ quanh năm cùng với tính chất đa dạng của địa hình và cấu tạo tạo địa chất đã tạo lên tính đa dạng của các kiểu thực vật bì và phong phú về nguồn gen. Dựa vào đặc điểm sinh thái và sự phân bố tự nhiên có thể chia thực vật tự nhiên thành các kiểu thực vật chính sau: - Rừng trên đỉnh núi đá vôi có đặc điểm cây cối th•ờng cao không quá 5m, rừng chủ yếu gồm 1 đến 2 tầng. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 22
- Khoá luận tốt nghiệp - Rừng trong các thung áng, trên núi đá vôi và trên các s•ờn núi đá vôi. Đánh giá Tài nguyên du lịch tự nhiên của Thuỷ Nguyên phong phú đa dạng và hấp dẫn, đ•ợc hình thành bởi đặc điểm tổng hoà của các yếu tố địa chất - địa hình, khí hậu, thuỷ văn, thảm thực vật và thế giới động thực vật. Với sự phong phú về tài nguyên này huyện Thuỷ Nguyên có khả năng phát triển nhiều loại hình du lịch nh•: du lịch sinh thái, nghỉ d•ỡng, vui chơi giải trí, du lịch thắng cảnh, du lịch leo núi Do đặc điểm về thời tiết, khí hậu có các yếu tố bất lợi nh•: gió, bão, m•a nên hoạt động du lịch của Thuỷ Nguyên sẽ bị ảnh h•ởng nếu chỉ khai thác các lợi thế về tài nguyên du lịch tự nhiên. 2.1.2 Tài nguyên du lịch nhân văn huyện Thuỷ Nguyên * Dân c• Vùng đất Thuỷ Nguyên đ•ợc hình thành từ rất sớm, dân c• sống tại vùng đất này đã xuất hiện từ rất xa x•a. Theo điều tra dân số của huyện Thuỷ Nguyên đến năm 2007 có khoảng gần 3 vạn ng•ời. Thuỷ Nguyên là trong những huyện có mật độ dân số cao của Hải Phòng 170 ng•ời/km2. Từ x•a tới nay khi nói đến con ng•ời Thuỷ Nguyên là ng•ời ta th•ờng nói tới trai tài gái sắc, thông minh duyên dáng nổi tiếng khắp vùng.Sự phong phú đa dạng về địa hình tạo cho con ng•ời Thuỷ Nguyên có khả năng phát triển về mọi mặt có thể khắc phục đ•ợc những khó khăn trong cuộc sống cũng nh• nhanh chóng thích nghi đ•ợc với môi tr•ờng sống hiện đại. Điều kiện đất đai khí hậu đã giúp con ng•ời Thuỷ Nguyên không chỉ giỏi về làm nông nghiệp, nghề làm rừng, làm v•ờn, chài l•ới mà còn thông thạo các nghề thủ công, th•ơng mại, máy móc công nghiệp. *Di tích lịch sử văn hoá Tính đến nay Thuỷ Nguyên có 147 các di tích lịch sử văn hoá trong đó có 28 di tích lịch sử đ•ợc xếp hạng cấp thành phố, và 23 di tích lịch sử xếp hạng cấp quốc gia, và Thuỷ Nguyên cũng là nơi có nhiều thắng cảnh đẹp hấp đẫn phục vụ tham quan du lịch. Huyện Thuỷ Nguyên có tài nguyên nhân văn khá phong phú và có giá trị cao đối với du lịch. Thuỷ Nguyên cũng là mảnh đất chứa nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc và đồng thời cũng là nơi xuất hiện những ng•ời cổ đại qua các di chỉ mộ cổ. Nhiều di tích lại nằm gần khu danh lam thắng cảnh nh• Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 23
- Khoá luận tốt nghiệp Hang Vua, đền thờ Trần Quốc Bảo và di tích về bãi cọc chiến Bạch Đằng, hang Đốc Tít trong thời kì chống thực dân Pháp càng làm tăng thêm giá trị du lịch. Hơn nữa Thuỷ Nguyên còn là miền đất có nhiều lễ hội dân gian đặc sắc, là nơi tập trung nhiều làng nghề thủ công truyền thống có sức thu hút khách du lịch. Tuy nhiên việc khai thác tiềm năng trên phục vụ cho du lịch còn rất hạn chế, các di tích lịch sử đ•ợc khai thác phục vụ du lịch còn quá ít. Lý do chủ yếu là cơ sở hạ tầng kém, giao thông ch•a thuận tiện, mặt khác các di tích đang bị xuống cấp nghiêm trọng, có nơi còn bị đổ nát. Một số đình chùa đ•ợc tôn tạo nh•ng lại ch•a đảm bảo đ•ợc tính chân thực của lịch sử, phong cách kiến trúc cổ. * Một số nét về tình hình kinh tế- xã hội Thuỷ Nguyên hiện nay. Nằm ở phía Bắc thành phố Hải Phòng, Thuỷ Nguyên đ•ợc đánh giá là huyện có vị trí chiến l•ợc quan trọng về kinh tế, an ninh, quốc phòng. Với diện tích 242,7km² lớn nhất so với các quận huyện khác của thành phố, dân số gần 30 vạn ng•ời với 37 đơn vị hành chính, Thuỷ Nguyên là đầu mối giao thông quan trọng về đ•ờng bộ, đ•ờng sông và đ•ờng biển. Trong phát triển kinh tế, Thuỷ Nguyên có tiềm năng lớn về phát triển ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển, khai thác chể biến, sản xuất vật liệu xây dựng, nhiệt điện, phát triển đô thị hiện đại và dịch vụ th•ơng mại, dịch vụ nuôi trồng và khai thác thuỷ sản. Là một trong những địa bàn đ•ợc đầu t• lớn về phát triển hệ thống giao thông và các dự án công nghiệp quan trọng. Huyện Thuỷ Nguyên là nơi hội tụ các điều kiện của vùng kinh tế động lực. Việc xây dựng và phát triển huyện Thuỷ Nguyên có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế của các địa ph•ơng khác. Thuỷ Nguyên hôm nay đang từng b•ớc thay da đổi thịt nhờ những chính sách đổi mới phù hợp với đội ngũ lãnh đạo năng động dám nghĩ dám làm. Trong những năm qua, đảng bộ, quân và dân huyện Thuỷ Nguyên đã nỗ lực phấn đấu đạt đ•ợc những kết quả quan trọng và khá toàn diện trên các lĩnh vực. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng h•ớng giảm dần tỉ trọng nhóm ngành nông nghiệp, tăng tỉ trọng nhóm ngành công nghiệp, xây dựng, th•ơng mại và dịch vụ. Kinh tế tăng tr•ởng liên tục và luôn ở mức khá cao. Kinh tế xã hội Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 24
- Khoá luận tốt nghiệp ,nhất là hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng nông thôn, các công trình phục vụ sản xuất đ•ợc quan tâm đầu t•. Việc quản lí đất đai, xây dựng có chuyển biến tích cực, tốc độ đô thị hoá khá nhanh. Huyện đã kết hợp chặt chẽ với các ngành chức năng triển khai các dự án xây dựng nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy nhiệt điện Tam Hưng, cầu Bính Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo , y tế, văn hoá thông tin, thể dục thể thao từng b•ớc đ•ợc xã hội hoá phát triển khá nhanh cả về quy mô, chất l•ợng đạt nhiều thành tựu xuất sắc. Những vấn đề xã hội bức xúc nh• xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo các chính sách xã hội đ•ợc chú trọng. đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng b•ớc đ•ợc cải thiện và nâng cao, t• t•ởng quần chúng ổn định, tin t•ởng vào đ•ờng lối đổi mới của Đảng và sự lãnh đạo của huyện. Với sự cố gắng của các cấp các ngành, tình hình kinh tế - xã hội Thuỷ Nguyên vẫn ổn định và tiếp tục phát triển, đạt đ•ợc các chỉ tiêu nhiệm vụ đề ra, 6 tháng đầu năm 2007, tổng giá trị sản xuất của các ngành đạt đ•ợc 562,725 triệu đồng bằng 54,7% kế hoạch, tăng 15,5% so với cùng kì năm tr•ớc, trong đó nông nghiệp, thuỷ sản tăng 11,9%, công nghiệp - xây dựng tăng21,4%, dịch vụ tăng 13,7%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch hiệu quả, tỉ trọng ngành công nghiệp chiếm 38,39%, công nghiêp - xây dựng chiếm 35,12%, dịch vụ chiếm 25,5%. Công tác văn hoá, thông tin thể thao đ•ợc duy trì và phát triển tốt, chất l•ợng giáo dục đào tạo có nhiều chuyển biến các công trình dự án lớn trên địa bàn tiếp tục đ•ợc triển khai thực hiện. Nhiều công trình đ•ợc khởi công hay khánh thành vào dịp kỉ niệm những ngày lễ lớn. Để thực hiện đ•ợc các mục tiêu, nhiệm vụ trên, đảng bộ và nhân dân huyện Thuỷ Nguyên sẽ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu: Tiếp tục bổ sung điều chỉnh quy hoạch phát triển không gian đô thị và quy hoach phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển mới. Bảo đảm sự tiên tiến đồng bộ, toàn diện, hiện đại, phát huy có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế cho đầu t•, bảo đảm cho kinh tế - xã hội phát triển nhanh bền vững theo h•ớng khai thác tốt nhất tiềm năng,tài nguyên khoáng sản, quỹ đất, lợi thế về giao thông, ngành nghề truyền thống. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng “Công nghiệp dịch vụ, thuỷ sản, nông nghiệp” tạo thành điểm nhấn, nâng cao năng lực thu hút và cạnh tranh với các vùng miền. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 25
- Khoá luận tốt nghiệp Tóm lại tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của huyện Thuỷ Nguyên rất đa dạng và phong phú, tình hình kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân ngày càng đ•ợc cải thiện rõ nét từng b•ớc đ•a Thuỷ Nguyên trở thành một huyện phát triển nhất của thành phố Hải Phòng. Tuy nhiên vấn đề phát triển du lịch của huyện ch•a thực sự đ•ợc quan tâm và đầu t• theo đúng h•ớng để từng b•ớc đ•a du lịch Thuỷ Nguyên phát triển xứng đáng với tài nguyên sẵn có của nó. 2.2. Một số di tích thờ t•ớng quân nhà Trần ở Thuỷ Nguyên Trong lịch sử Việt Nam thời trung đại, có lẽ ch•a có một v•ơng triều nào nh• v•ơng triều nhà Trần chỉ trong vòng 30 năm (1258 - 1288) đã lãnh đạo dân tộc nhỏ bé trên d•ới 5 triệu dân với ch•a đầy 20 vạn quân liên tiếp đánh bại ba cuộc xâm l•ợc của đế chế Nguyên - Mông hùng mạnh nhất thế giớ bấy giờ. Thế kỉ XIII, vó ngựa Nguyên Mông đã từng chinh chiến khắp á - Âu. Chúng đi tới đâu là gieo rắc thảm hoạ, chết chóc tới đó, nh•ng ba lần chúng đến n•ớc ta thì cả ba lần chúng đều bị quân dân Đại Việt đánh cho đại bại. Trong những lần kháng chiến hết sức khó khăn và ác liệt đó, để lập đ•ợc những chiến công hiển hách muôn đời sử sách l•u danh ấy, cùng với việc phát huy tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu n•ớc quật c•ờng của dân tộc, nhà Trần đã có đ•ờng lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, có nghệ thuật quân sự tài giỏi. Trong ba lần kháng chiến các vua Trần đã đóng góp vai trò hết sức quan trọng vào thắng lợi đó của dân tộc. Các vua Trần là ng•ời chịu trách nhiệm chính tr•ớc toàn thể dân tộc về việc chuẩn bị điều kiện và phát động cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, và các vua Trần là ng•ời có tiếng nói quyết định trong việc phát động cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông. Trên mảnh đất Thuỷ Nguyên , nơi có nhiều dấu tích của các cuộc kháng chiến chống xâm l•ợc, hiện nay có những công trình kiến trúc, các di tích lịch sử văn hóa thờ các t•ớng quân nhà Trần. 2.2.1. Di tích t•ởng nhớ t•ớng quân Trần H•ng Đạo Trần H•ng Đạo là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà chính trị lỗi lạc, nhà quân sự kiệt xuất, có công lao to lớn trong công cuộc chuẩn bị và thực hành ba cuộc kháng chiến của quân dân ta, đánh bại mọi cố gắng xâm l•ợc điên cuồng Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 26
- Khoá luận tốt nghiệp của đế chế Nguyên Mông, giữ vững độc lập chủ quyền của dân tộc, truyền lại cho chúng ta nhiều quan điểm t• t•ởng chính trị quân sự tiến bộ v•ợt thời đại. Đền Trần H•ng Đạo toạ lạc ở cửa sông Bạch Đằng thuộc về mảnh đất Tràng Kênh-thị trấn Minh Đức-Thuỷ Nguyên-Hải Phòng. Nằm trên một nhánh sông Thải nối với nhánh sông Bạch Đằng, đằng sau là một ngọn núi đá hùng vĩ. Theo lời kể của ng•ời thủ từ ngôi đền thì: X•a nơi đây không có ng•ời ở mà chỉ có một miếu nhỏ do những ng•ời đi thuyền chài ở dòng sông này lập lên với mong muốn cho việc làm ăn đ•ợc bình an và gặp nhiều may mắn nh•ng thực ra họ cũng không biết là thờ cúng ai mà chỉ biết đây là một nơi vô cùng linh thiêng. Từ khi nhà máy xi măng Hải Phòng xây dựng ở đây thì đã nhiều lần nâng cấp, tu sửa miếu đó lên khang trang sạch đẹp hơn. Sau thời gian đó thì ông Lê Văn Thành giám đốc nhà máy xi măng Hải Phòng có tìm hiểu xem miếu này thờ nhân vật nào và thông qua bà Phan Thị Bích Hằng-nhà ngoại cảm thì ông đ•ợc biết vua Trần H•ng Đạo đã từng đánh giặc ở đây. Vua Trần H•ng Đạo cùng với các t•ớng quân nhà Trần đã từng đứng trên đỉnh núi này để đánh giặc Nguyên Mông nên nơi đây vẫn còn l•u giữ rất nhiều linh hồn thiêng của dân tộc. Từ ý nghĩa đó mà ông giám đốc nhà máy xi măng Hải Phòng đã xin đ•ợc làm đền thờ để thờ Trần H•ng Đạo và đ•ợc Ngài hiện lên báo mộng. Sau khi đ•ợc Ngài hiện lên báo mộng thì ông Lê Văn Thành đã đi đến nhiều nơi từng vào đền Kiếp Bạc, Đền Bảo Lộc, về nhà Trần ở Nam Định -quê h•ơng của Trần H•ng Đạo để tham khảo và chọn lọc các mẫu kiến trúc, đi đến đâu ông đều chụp hình chụp ảnh của mỗi nơi. Sau khi về ông đã mời bà PhanThị Bích Hằng tới nói chuyện với Trần H•ng Đạo để tham khảo ý kiến của Ngài xem ngài có thích đ•ợc xây đền ở đây không và ngài đã chọn nơi này để xây dựng đền. Từ cấu trúc, hoa văn, bố cục, thiết kế đều theo ý muốn của Trần Hưng Đạo. Ngày 9/9/2008 ông giám đốc nhà máy xi măng Hải Phòng đã phát động xây dựng ngôi đền do toàn thể cán bộ công nhân viên trong nhà máy đóng góp mà đứng đầu là ông Lê Văn Thành. Quá trình xây dựng ngôi đền diễn ra vô cùng thuận lợi không xảy ra bất cứ một vấn đề gì làm cản trở khó khăn trong quá trình thi công, phải chăng đó là do sự linh thiêng che chở của Ngài? Tr•ớc đây khi là miếu thì chỉ có diện Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 27
- Khoá luận tốt nghiệp tích 200m2 nh•ng trong quá trình xây dựng lại thì đã bắn mìn phá núi, tân đất lấn sông nên bây giờ diện tích của ngôi đền đã lên tới 4000m2. Do sự cố gắng của các nghệ nhân, quá trình xây dựng thuận lợi nên trong khoảng thời gian ngắn ngủi là trong vòng 99 ngày thì ngôi đền đ•ợc khánh thành mà vẫn bảo đảm được chất lượng tốt. Bây giờ được đặt tên là “Linh từ Tràng Kênh”. Ngôi đền tuy nhỏ nhưng tâm rất lớn, trong đó chứa đựng biết bao tâm huyết, lòng thành kính của cán bộ công nhân nhà máy xi măng Hải Phòng nói riêng và nhân dân cả n•ớc nói chung. Ngôi đền cấu trúc theo hình chữ Đinh bên ngoài là ba gian tiền đ•ờng, đến tiếp là hai gian hậu cung, trong cùng là t•ợng thờ Trần H•ng Đạo. Pho t•ợng này nặng 1,2,tấn đ•ợc đúc bằng đồng nguyên chất, bên ngoài đ•ợc thiếp bạc thiếp vàng. Xung quanh đền đ•ợc bao bọc bởi t•ờng đá đ•ợc chuyển ra từ Ninh Bình và do các nghệ nhân đến từ Ninh Bình thi công. Cổng đền làm theo kiến trúc tam quan, ba tầng toàn bằng đá khối. Toàn bộ gỗ trong đền, các cột đều làm từ gỗ lim do những ng•ời thợ cao tay đến từ Vĩnh Bảo thi công. Toàn bộ án thờ, lọng thờ đều do nghệ nhân đến từ Hà Tây đảm nhận. Tất cả đồ chầu, hạc là do thợ Nam Định đúc. Một điều đặc biệt nữa ở ngôi đền này là quá trình xây dựng ngôi đền không có sự hạch toán, dự toán nào hết mà cứ xây thiếu gì thì lại bổ xung thêm nên không rõ kinh phí để xây dựng ngôi đền này hết bao nhiêu tiền mà cứ cán bộ công nhân viên nhà máy đóng góp còn thiếu đâu là do ông Lê Văn Thành đóng góp, bỏ tiền ra xây dựng. * Hàng năm có ba kì lễ hội lớn tại đền Trần H•ng Đạo: + Đầu năm : 14 tháng giêng cấp ấn tín Từ 14-16 tổ chức cúng tế, các khách thập ph•ơng xa gần, công nhân trong công ty tổ chức làm lễ cúng tế. + Ngày 20/8 là ngày giỗ của Đức Thánh Trần-Trần H•ng Đạo. + Ngày 14 tháng chạp là ngày khánh thành ngôi đền. Từ 14-16 tổ chức cúng tế. Đền Trần H•ng Đạo đ•ợc đúc ấn tại đây, cứ vào ngày mồng một và 15 ai có nhu cầu xin ấn tín thì đến đây,ấn tin đ•ợc đúc từ đền Bảo Lộc ở Nam Định rồi sau đó xin Ngài đồng ý mới chuyển ra đây. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 28
- Khoá luận tốt nghiệp 2.2.2. Di tích T•ởng nhớ T•ớng quân Trần Quốc Bảo * Vài nét về lịch sử T•ớng Trần Quốc Bảo thuộc dòng dõi quý tộc triều Trần, cháu gọi vua Trần Nhân Tông bằng ông. Trong trận đại chiến Bạch Đằng năm 1288 của quân dân nhà Trần chống giặc Nguyên Mông xâm l•ợc, ông là một trong những vị t•ớng tài giỏi, góp phần quan trọng vào chiến thắng vang dội này. Ông đã chiến đấu và anh dũng hi sinh tại vùng đất núi Tràng Kênh - thị trấn Minh Đức - Thuỷ Nguyên - Hải Phòng. Cũng nh• bao v•ơng tử trong triều đại nhà Trần, Trần Quốc Bảo đ•ợc thừa kế những truyền thống quật c•ờng bất khuất của cha anh, rèn trí luyện tài mong có ngày được xông pha trận mạc “Phá cường địch báo hoàng ân” nhờ tài trí thông minh hơn ng•ời, tinh thông võ nghệ, am t•ờng binh th•, binh pháp. Trong trận quyết chiến Bạch Đằng, TRần Quốc Bảo đ•ợc triều đình giao quyền chỉ huy đội thuỷ binh mai phục khu cửa ải Bạch Đằng Tràng Kênh tấn công đoạn binh thuyền của Ô Mã Nhi khi chúng xuôi từ sông Đá Bạc vào sông Bạch Đằng. Sau khi khảo sát nghiên cứu lợi thế dãy núi Tràng Kênh và đặc điểm thuỷ triều của sông Bạch Đằng, Trần quốc Bảo cho đóng quân ở áng Hồ, áng Lác, áng Gỗ ngày đêm luyện tập quân lính vừa đánh thuỷ kết hợp với đánh bộ, huy động nhân dân trong vùng lập những đội dân binh, rèn đúc giáo mác, g•ơm đao, đóng thuyền chiến Mông Đồng, làm nhiều bè nứa, thuyền nan chứa củi khô, chất dễ cháy giấu kín tại các lạch sông vùng núi đá Tràng Kênh, Gia Đ•ớc kéo dài đến Do Lễ, Nghi Lễ (xã Tam H•ng) chuẩn bị cho cuộc hoả công. Ngày 9/4/1288 quân mai phục của ta trên các mõm núi của dải Tràng Kênh với cung tên, g•ơm giáo, câu liêm sẵn sàng chờ lệnh. Vào khoảng giờ Mão, đại binh thuyền của Ô Mã Nhi do tham chính Phàm Tiếp chỉ huy đi đầu đã bị quân ta đánh chặn ở các ngả buộc theo dòng sông Đá Bạc xuôi xuống sông Bạch Đằng. Chờ khi thuyền chiến địch đã lọt vào trận địa mai phục của ta, thời cơ giết giặc đã đến Trần Quốc Bảo ra lệnh vừa dứt các t•ớng sĩ cùng dân binh với những thuyền chiến Mông Đồng từ những áng núi Tràng Kênh dũng mãnh lao nh• tên bắn vào đội hình quân giặc. Đội quân tiên phong của ta với những đòn đánh quyết liệt, m•u trí và dũng cảm khiến địch choáng váng, đội hình rối loạn liều chết chống trả hòng tìm đ•ờng tháo chạy. Trận chiến diễn ra vô cùng khốc liệt kéo dài nhiều giờ đồng hồ trên sông giữa một Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 29
- Khoá luận tốt nghiệp bên là những đại binh thuyền to lớn đang liều chết với một bên là những chiến thuyền Mông Đồng nhỏ bé. Trần Quốc Bảo chỉ huy đội thuỷ binh dồn sức đánh áp chiến thuyền địch. Thuyền chiến của ta tả xung hữu đột làm chủ hoàn toàn trên quãng Ghềnh Cốc, các đội dân binh mai phục từ các mõm núi đá Tràng Kênh và trong rừng Trang, Sú ven sông vừa hò la, đánh trống đánh chiêng làm nghi binh cổ vũ cho thuỷ quân xông lên vừa bắn tên đốt củi khô, cỏ khô đã chất sẵn trên thuyền lao về phía địch nh• m•a, dồn thuyền địch về bên tả ngạn sông nơi có trận địa cọc ngầm đang sẵn đón địch. Tr•ớc thế quân ta tấn công nhanh mạnh nh• n•ớc thuỷ triều, Ô Mã Nhi phải thúc thuyền tiến vào sông Chanh, sông Kênh, sông Rút để tìm đ•ờng tháo chạy. Trong lúc trận ác chiến diễn ra ác liệt Trần Quốc Bảo tiên phong tả xung hữu đột nhằm chiến thuyền chỉ huy của địch mà đánh, trong lúc vừa đánh vừa chỉ huy quân ông bị trúng tên độc. Nh•ng với niềm tin chiến thắng ông vẫn giữ bình tĩnh chỉ huy các đội binh thuyền, động viên các tướng sĩ một lòng “Sát thát” không hề nao núng xông lên đánh giặc dồn thuyền địch vào dãy cọc ngầm đang bất thần nhô lên từ các lòng sông, thuyền chiến của địch vừa bị vỡ chìm vừa bị đốt cháy làm cả khúc sông ngùn ngụt khói lửa, t•ớng tiên phong của địch là Phàm Tiếp bị bắt sống, trận chiến Bạch Đằng toàn thắng. Lúc này t•ớng quân Trần Quốc Bảo đ•ợc các phó t•ớng và quân sĩ đ•a về núi hang núi áng Hồ cứu chữa, song do vết th•ơng quá nặng ông đã anh dũng hi sinh. Đêm đó phó t•ớng Vũ Nạp cho quân đắp một con đ•ờng nhỏ từ núi áng Hồ đến núi Ph•ợng Hoàng đ•a ông an táng tại đây. Sau khi Trần Quốc Bảo mất , dân làng đã lập đền thờ ông ở chân núi đá thuộc dãy Tràng Kênh từ đó gọi là núi Hoàng Tôn hay núi Hoàng Phái, cách không xa lăng mộ. Hàng năm ng•ời dân địa ph•ơng cùng khách thập ph•ơng th•ờng xuyên đến thăm viếng, h•ơng nhang cúng tế,bỏ công sức tiền của tu sửa lên ngôi đền này càng to đẹp, xứng đáng là t•ợng đài chiến thắng Bạch Đằng trên đất Hải Phòng. Ca ngợi tài trí dũng cảm của vị t•ớng trẻ, nhân dân địa ph•ơng khắc ghi câu đối ở đền thờ vọng đời đời truyền tụng : “Tự cổ triều Trần vô địch tướng Vu kim kênh thuỷ tối linh từ” (Từ x•a là t•ớng vô địch của triều Trần Đến nay lại có đền thiêng bên dòng Tràng Kênh) Ngôi đền nằm ở vị trí h•ớng ra dòng sông Bạch Đằng lịch sử bên tả có núi Mã Yên tựa rồng uốn khúc, bên hữu là núi Hoàng Tôn sừng sững uy Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 30
- Khoá luận tốt nghiệp nghiêm tạo thế rồng chầu hổ phục càng tôn thêm vẻ tôn nghiêm của ngôi đền cùng khu di tích lịch sử Tràng Kênh - Bạch Đằng. Nét nổi bật của ngôi đền thờ Trần Quốc Bảo là những kiến trúc cổ độc đáo. Tam quan thiết kế thấp hơn so với thông th•ờng, ng•ời b•ớc vào hay ra đều phải kính cẩn cúi mình tr•ớc tôn nghiêm thần t•ớng. Qua cổng tam quan là nhà bái đ•ờng bốn mặt trống, quanh năm lộng gió kiến trúc theo kiểu chồng diêm hai mái, tám đầu mái rồng uốn cong vút với dáng vẻ thanh thoát kì vĩ. Phía trên mái đ•ợc trang trí hoa văn kiểu lá lật ph•ợng mớm với l•ỡng long chầu nguyệt, mang đậm nét đặc tr•ng văn hoá đền đình Việt Nam cổ kính, tầng mái đ•ợc đỡ bởi 16 cột gỗ tròn gồm 2 vành, vành chính 4 cột, vành phụ 12 cột bao quanh. Bái đ•ờng bài trí h•ơng án và các đồ tế tự đơn sơ nh•ng hết sức trang nghiêm. Phía tr•ớc có đôi hạc gỗ đứng trên l•ng rùa, hai bên là bộ bát bửu t•ợng tr•ng cho sự uy nghiêm của võ t•ớng. Đền chính có hai gian nối tiếp kiểu ống muống, gian ngoài (Tiền đ•ờng) chính giữa đặt bàn thờ sơn son thiếp vàng cùng long ngai trang trọng, hai bên thờ quan văn võ. Bên phải tiền đ•ờng đặt t•ợng một viên quan Giám Mã, tay dắt ngựa bạch yên c•ơng sẵn sàng nh• đang chờ chủ t•ớng lên đ•ờng đánh giặc. Gian hậu cung là nơi đặt t•ợng thờ t•ớng Trần Quốc Bảo. Ngài uy nghi trong bộ võ phục màu đỏ khoắc hồng bào, nơi khám thờ sơn son thiếp vàng, mắt hùm h•ớng về phía tr•ớc, nơi dòng sông Bạch Đằng lịch sử vẫn rì rào sóng gió nh• đang đốc quân chiến đấu với quân thù, đuổi giặc xâm lăng, giữ thanh bình cho quê h•ơng đất n•ớc. Trải qua các thời kì lịch sử, đền thờ Trần Quốc Bảo đ•ợc các triều đình sắc phong là “ Minh hiển thiên tử hoàng tôn th•ợng đẳng phúc thần”; “Thượng đẳng tối linh từ” đồng thời cấp ruộng đất cắt suốt đinh trông nom bảo vệ ngôi đền. Ngày 28/4/1990 bộ văn hoá thông tin cấp công nhận khu di tích lịch sử danh thắng văn hoá Tràng Kênh, thị trấn Minh Đức - Thuỷ Nguyên trong đó có đền thờ và lăng mộ t•ớng Trần Quốc Bảo. Ngày 10/5/2002 chủ tịch n•ớc Trần Đức L•ơng đã về thăm thị trấn và trồng cây l•u niệm tại đền thờ Trần Quốc Bảo. * Lăng mộ Trần Quốc Bảo Sau khi t•ớng Trần Quốc Bảo hi sinh, phó t•ớng Vũ Nạp và quân sĩ đã an táng ông tại chân núi Ph•ợng Hoàng cách trung tâm thị trấn Minh Đức chừng 1km theo đ•ờng chim bay về h•ớng Tây Bắc. Ngôi mộ x•a đơn sơ giản Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 31
- Khoá luận tốt nghiệp dị chỉ một bàn thờ cùng bát h•ơng bằng đá, đ•ợc nhân dân địa ph•ơng và khách khắp nơi th•ờng xuyên thăm viếng và đặt h•ơng hoa t•ởng niệm. Xét về vị trí địa lý, mộ nằm nơi đắc địa theo thuật phong thuỷ của ng•ời x•a. Những ngọn núi đá núi đất đan xen nhau tạo thành thung lũng khá rộng và cao hơn hẳn những vùng đất xung quanh. Lăng mộ t•ớng Trần Quốc Bảo nằm ngay d•ới chân núi Ph•ợng Hoàng, đ•ợc che trở bởi hai cánh khổng lồ của ngọn Cánh Chim hùng vĩ, h•ớng về phía tr•ớc là sông Bạch Đằng quận dòng chảy xiết tạo thế “ Gối sơn đạp thuỷ”. Phía sau dựa l•ng vào núi Ph•ợng Hoàng gọi là Chủ Phong, bên tả có núi gọi là Thanh Long, bên hữu có núi gọi là Bạch Hổ, hai núi này đứng hộ vệ chầu vào núi chính tạo thành vòng tay ngai che chắn những luồng ác phong bảo vệ cho sinh khí không bị gió xua tan. Theo sách Táng Thư thì đây là nơi “Tàng phong” và “Đắc thuỷ”. Vì thế khi phó tướng Vũ Nạp mai táng tướng Trần Quốc Bảo đã chọn ngôi đất này để “ Táng tiên ấm hậu” khắc ghi công đức vị tướng trẻ từng lập bao chiến công lừng lẫy trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất n•ớc, góp phần giữ gìn nét văn hoá truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam”Uống nước nhớ nguồn”, tháng 3/2003 nhân dịp kỉ niệm 715 năm chiến thắng Bạch Đằng, 50 năm ngày Thuỷ Nguyên quật khởi 25/10 (1948-2003), đảng uỷ, HĐND, UBND thị trấn Minh Đức đã huy động các nhà hảo tâm và nhân dân địa ph•ơng đóng góp công của quy hoạch xây dựng khu lăng mộ t•ớng Trần Quốc Bảo có quy mô to đẹp, thiết kế kĩ thuật cao với diện tích lăng mộ 50m², sân tr•ớc rộng 500m ². Toàn bộ lăng mộ từ chân móng lên tới đỉnh mái đ•ợc xây dựng bằng đá xanh đẽo cuộng công phu và đ•ợc trang trí hoa văn tứ linh tứ quý kết hợp mái ngói mũi hài thêm phần tạo cảnh quan cổ kính thâm nghiêm. Hai tuyến đ•ờng từ trung tâm thị trấn đến lăng mộ, một từ chợ Tràng Kênh cũ đến, một từ đền thờ Trần Quốc Bảo sang đ•ợc địa ph•ơng quan tâm đầu t• nâng cấp sạch đẹp tạo thuận lợi cho nhân dân địa ph•ơng và khách thập ph•ơng đến thăm viếng. Từ đó đến nay, hàng năm địa ph•ơng tiếp tục đầu t• tôn tạo hoàn thiện khu lăng mộ gồm cổng tam quan, giếng Nguyệt, bài trí bồn hoa cây cảnh làm nổi bật quần thể lăng mộ trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Lăng mộ cùng với đền thờ t•ớng quân tạo lên quần thể di tích văn hoá lịch sử Tràng Kênh-Bạch Đằng xứng đáng với tầm vóc một di tích văn hoá lịch sử của thành phố và quốc gia. Hơn bảy thế kỉ đã trôi qua nh•ng chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 vẫn đ•ợc nhắc đến nh• một chiến công hiển hách trong lịch sử dựng n•ớc và giữ Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 32
- Khoá luận tốt nghiệp n•ớc của dân tộc ta. Vùng đất Tràng Kênh nằm bên hữu ngạn con sông Bạch Đằng vẫn ngày đêm cuộn sóng, là nơi x•a kia đội quân nhà Trần đã từng đem quân mai phục chờ giặc ở áng Hồ, áng Lác (sông Thải) để rồi từ đó làm lên trận địa vùi xác quân thù trên sông n•ớc Bạch Đằng. Tràng kênh đã đi vào lịch sử dân tộc nh• một địa bàn quan trọng của chiến thắng vĩ đại ấy. Còn nay đó là một danh thắng với những hang động thung lũng đá vôi kì thú đặc biệt sự hiện diện của ngôi đền thờ danh t•ớng Trần Quốc Bảo của v•ơng triều Trần sừng sững trông ra cửa sông Bạch Đằng-Nam Triệu nh• một t•ợng đài kỉ niệm nhắc nhở chúng ta về những chiến công oanh liệt chống giặc ngoại xâm. 2.2.3. Di tích lịch sử văn hoá đền Vũ Nguyên, thôn Du Lễ xã Tam H•ng. * Vài nét về lịch sử địa ph•ơng. Là một làng xã lớn trong số những làng ven sông Bạch Đằng mãi mãi đi vào lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam: Truyền thống Bạch Đằng - Chi Lăng Đống Đa. Tam H•ng sẽ mãi đ•ợc ghi nhận là một trong những điểm chuẩn bị và triển khai trận địa phục kích Bạch Đằng năm 1288 của Trần H•ng Đạo và quân dân vùng biển đông bắc. Địa ph•ơng còn sản sinh ra Vũ Nguyên ng•ời lập công xuất sắc trong chiến trận Bạch Đằng lịch sử ( Theo hồ sơ công nhận di tích) Theo truyền sử địa ph•ơng, chỗ ngôi đền toạ lạc hiện nay vốn tr•ớc là ngôi nhà cũ của Vũ Nguyên. Trải qua quá trình tồn tại, tr•ớc thiên nhiên khắc nghiệt và chiến tranh tàn phá kiến trúc bái đ•ờng, phần lớn kiến trúc đã bị thu hẹp, còn lại gian cung chuôi vồ ba gian bốn vì kèo gỗ t•ờng xây bít đốc.Tại đây bản xã vẫn tổ chức hàng năm ngày sinh của Vũ Nguyên 15/9. Đồng thời với kỉ niệm chiến thắng Bạch Đằng mồng 9/4 và ngày hoá mồng 9/11 âm lịch. Trong lòng quê h•ơng yêu dấu, tên tuổi Vũ Nguyên cùng với ngôi đền thờ t•ởng niệm ông còn sống mãi trong niềm tự hào của nhân dân làng xã Tam H•ng. Tiếp theo cuộc tổng điều tra kiểm kê các di tích lịch sử Hải Phòng năm 1976-1977. Sở văn hoá thông tin - Ban quản lý di tích danh thắng Hải Phòng đã có quyết định công nhận đền Tam H•ng là dấu hiệu di tích lịch sử ( theo pháp lệnh số 14 ngày 4/4/1984 của hội đồng nhà n•ớc) thì dấu hiệu di tích cũng đ•ợc bảo vệ nh• di tích. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 33
- Khoá luận tốt nghiệp Xét trên toàn cục đền Vũ Nguyên xã Tam H•ng xứng đáng đ•ợc tu tạo và bảo vệ cho xứng đáng với vai trò của nhân vật lịch sử đang đ•ợc nhân dân thành kính tôn thờ. *Đ•ờng đến cụm di tích Từ trung tâm thành phố Hải Phòng qua Cầu Bính đi tới thị trấn Núi Đèo huyện Thuỷ Nguyên, theo đ•ờng quốc lộ số 10 cách bến Phà Rừng 1km, rẽ tay phải hỏi thăm UBND xã Tam H•ng sẽ đ•ợc chỉ dẫn tới cụm di tích. * Sự kiện nhân vật lịch sử Căn cứ vào bảng thần phả do dân làng l•u giữ chữ đề : Hoàng triều Vĩnh Tộ 3 (1622). Hoàng Triều Thành Thái thất niên thừa sao chính bản năm ất Mùi (1896) đ•ợc biết. Sau chiến thắng, Vũ t•ớng công đ•ợc triều đình phong tặng chức t•ớc, cử về trấn thủ vùng cửa biển, không may bị tai nạn chết, ông hoá. Cảm th•ơng ng•ời trung nghĩa,dân làng trình biểu tấu sớ lên triều đình, chiếu chỉ cho bản xã truyềndân lập đền từ đèn h•ơng cúng tế ngày sinh ngày hoá của Vũ Nguyên tại quê nhà. Căn cứ vao kí ức dân dã địa ph•ơng sao chép lại bằng chữ Hán thân thế sự nghiệp của t•ớng quân Vũ Nguyên do Hàn Lâm Viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và Quản giám bách thần tri điện hùng lĩnh bách thần Nguyễn Hiền phụng sao năm Vĩnh Tộ thứ 3 (1622). Bản thần tích Vũ t•ớng quân đ•ợc dân làng thừa sao năm Thành Thái 7 (1896) công tích Vũ Nguyên đ•ợc trích l•ợc nh• sau: Trang Do Lễ thủa ấy (TK XIII) có một gia đình nông dân chồng là Vũ Bang vợ là Trần Thị Viễn sống thanh bần nh•ng tính tình cởi mở ham làm điều thiện. Ng•ời con trai tên gọi Vũ Nguyên, ngay từ tấm bé vốn sáng dạ, yêu kính cha mẹ lại ham học chữ nghĩa, luyện rèn cung kiếm. Ngoài tuổi 20, Vũ Nguyên trở thành một trang tuấn tú, văn võ kiện toàn, lòng mong báo đền nợ n•ớc. Khi quân Nguyên Mông ồ ạt sang đánh n•ớc ta một lần nữa(1287). H•ng Đạo V•ơng hành quân qua trang Du Lễ, Vũ Nguyên không tránh đi nh• mọi ng•ời khác mà cứ thản nhiên cày ruộng nhà. Thấy lạ H•ng Đạo V•ơng cho ng•ời đến hỏi vì sao không tránh khi quân đội triều đình đi qua, Vũ Nguyên khẳng khái trả lời: “Việc hành quân là việc trọng đại của nhà n•ớc có khi diễn ra ròng rã hàng tháng. Tôi nghỉ làm buổi nào thì không có l•ơng ăn nuôi mẹ già chứ không có ý nào khác”. Hưng Đạo Vương cả khen là người con có hiếu, Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 34
- Khoá luận tốt nghiệp liền ban th•ởng cho Vũ Nguyên 10 nén bạc về nuôi mẹ già. Đ•ợc biết Vũ Nguyên là ng•ời tài giỏi đ•ờng võ nghệ. H•ng Đạo V•ơng khuyên nên tòng quân đánh giặc cứu n•ớc, đ•ợc mẹ già khích lệ Vũ Nguyên đi theo H•ng Đạo V•ơng. Trận Bạch Đằng xuân năm 1288 trong đạo quân chủ lực của triều Trần, Vũ Nguyên anh dũng xung trận lập đ•ợc nhiều chiến công hiển hách. Sau chiến thắng Bạch Đằng quân giặc phải rút khỏi bờ cõi n•ớc Nam. Vũ Nguyên đ•ợc vua Trần ban th•ởng xứng đáng rồi lĩnh mệnh về trấn thủ ở vùng ven biển Đông Bắc. Trên đ•ờng về quê thăm mẹ già ông hoá cùng sông n•ớc. Dân làng xót th•ơng Ng•ời trung nghĩa, sớ tấu lên triều đình. Nhà Trần liền cử sứ giả mang sắc chỉ truyền cho nhân dân bản xã tu lập đền từ, bốn mùa hương khói. Nhất phong: “Đương cảnh thành hoàng, thổ chúa Đại Vương” chuẩn hứa: Thuỷ đ•ờng huyện Do Lễ xã hộ kiêm chính sở h•ơng hoả phụng sự: - Ngày sinh 15/4 - Ngày hoá 9/11 âm lịch. Lý giải về nguyên nhân thắng lợi của tổ tiên ta, chỉ trong vòng 30 năm liên tiếp đánh thắng một đế chế mạnh nhất thế gới lúc ấy. H•ng Đạo V•ơng Trần Quốc Tuấn đã nhấn mạnh yếu tố: “Trên dưới một lòng, cả nước đấu sức”.Ngoài một số ít sử liệu ghi chép về hoạt động của vương triều Trần cùng một số t•ớng lĩnh cao cấp, sự đóng góp của toàn thể dân đại Việt là to lớn lại ít đ•ợc ghi chép cụ thể. Do vậy sử liệu thành văn l•u truyền trong nhân dân d•ới dạng thần phả, bia kí, đền thờ nh• ở Tam H•ng hiện tại hôm nay, có tác dụng nh• chính sử, phần khiếm khuyết ghi chép về diện mạo của một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện d•ới sự lãnh đạo của v•ơng triều nhà Trần thế kỉ XIII. *Khảo tả di tích Ngôi đền thờ t•ớng quân Vũ Nguyên toạ lạc d•ới gò đất cao ráo, ngay trung tâm làng xóm đông đúc. Mặt chính ngôi đền đ•ợc quay về h•ớng Nam với ý tưởng dân dã truyền thống”Thánh nhân ngồi nghe thiên hạ tâu bày”. Là một nhân vật lịch sử sinh ra từ đồng đất quê hương “sinh vị tướng tử vi thần”. Trải qua năm tháng tồn tại đ•ợc sự h•ởng ứng của toàn dân bản xã, sự trợ giúp tiền bạc của triều đình. Đền thờ t•ớng quân Vũ Nguyên tr•ớc đây là một công trình kiến trúc bề thế gồm toà bái đ•ờng, hậu cung, kiến trúc cổng và cột đứng trụ. Toàn bộ công trình đ•ợc xây dựng theo kiến trúc cổ, bằng những vật liệu Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 35
- Khoá luận tốt nghiệp dẻo bền như gỗ tứ thiết , đá, vôi, vữa trộn mật , gạch Bát Tràng to bản Dấu vết còn lại của khoảng không gian và nền móng mà phạm vi ngôi đền thờ t•ớng quân Vũ Nguyên tồn tại rục rỡ một cách hoàn chỉnh vẫn còn y nguyên qua những chiếc đấu kê cột cái , cột quân, toà bái đ•ờng bằng đá xanh , có đ•ờng kính từ 0,6 đến 0,75 m còn rải rác ngay trên mặt nền. Tại khu vực nhà văn bia còn sót lại ba tấm bia còn nguyên vẹn. Trong 3 văn bia này , tr•ớc có kích th•ớc lớn nhất (100*60*20cm) mà chúng tôi ngờ rằng đó là dấu vết trang trí thời Lê - Mạc (ngót 400 năm nay). Hai văn bia còn lại đ•ợc tạo dựng vào thời Nguyễn niên đại muộn hơn nh•ng đều chung nội dung ghi lại việc làm công đức của cộng đồng làng xóm Do lễ và khách thập ph•ơng trong quá trình tu tạo tôn sửa ngôi đền Vũ Nguyên. Kiến trúc nguyên vẹn của ngôi đền hiện tại gồm phần hậu cung 3 gian, 4 vì gỗ. Toà bái đ•ờng ngôi đền mới đ•ợc dân làng tu tạo năm 1997. Kết cấu vì nóc hai vì gian giữa kiểu “chồng r•ờng đạp thước”. Hai vì bên bờ nóc theo kiểu cốn b•ng. Kết cấu trong hai vì gian trung tâm theo lối “cột trốn — quá giang”. Để tăng diện tích sử dụng, khung gỗ chịu lực có ba thanh đốc th•ớc đặt so le đỡ chống nóc và đôi hoành thứ nhất. Một thanh kẻ dài nối hai cột trốn ngồi trên quá giang cùng một thanh hoành gian nối liền 4 vì gỗ gian bái đ•ờng. Hai gian bên đỡ các thanh hoành lao ngay vào hồi đốc t•ờng bit-đốc. Bờ nóc má lắp đôi rồng chầu mặt trời. Đôi cột trụ xây đắp kiểu chung đèn lồng, lắp đặt đôi nghè cùng chầu vào đầu giải. Kiến trúc toà bái đ•ờng đ•ợc đóng mở bằng ba bộ cửa gỗ. Cửa th•ợng song hạ bàn, đứng vững trên ng•ỡng gỗ, hai gian hồi xây t•ờng gạch. Mặt chính kiến trúc quay h•ớng Tây Nam. Ngoài việc t•ởng niệm t•ớng quân Vũ Nguyên ng•ời bản xã. Di tích còn phối thờ Nam Hải đại v•ơng Phạm Tử Nghi một nhân vật kiệt xuất sống vào thời Mạc thế kỉ XVI có công giúp dân sản xuất và chống âm m•u bành tr•ớng xâm lấn lãnh thổ của triều Minh ph•ơng Bắc. Phạm Tử Nghi chính quê xã Vĩnh Niệm - An Hải - Hải Phòng. Di tích đền Vũ Nguyên đ•ợc đóng mở bằng ba khung cửa gỗ cổ, bao quanh là cả v•ờn cau xanh tốt tạo tiền cảnh khoáng đạt đến êm ả của một làng quê cổ đã sinh ra một anh hùng nhân dân trong chiến trận Bạch Đằng năm 1288. Đền thờ Vũ Nguyên và cả xã Tam H•ng quê h•ơng ông nằm trong dải Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 36
- Khoá luận tốt nghiệp di tích danh thắng Tràng Kênh- Bạch Đằng trên phạm vi rộng Hải phòng Quảng Ninh ngày nay. * Các hiện vật lịch sử Nh• để bù lại sự khiếm khuyết vật chất của ngôi đền thờ t•ớng quân Vũ Nguyên, số di vật còn lại của di tích cũng đủ để nói lên sự tôn thờ nhân vật lịch sử đã từng có công trong trận quyết chiến Bạch Đằng năm 1288. Đó là số t• liệu hành văn, 5 đạo sắc phong của các triều vua nhà Nguyễn cho thành hoàng Vũ Nguyên ng•ời Do Lễ. 1. Đó là 5 bản sắc phong vào các niên hiệu - Tự Đức 6 (1854) - Tự Đức 11 (1859) và Tự Đức thứ 31 (1879) - Đồng Khánh 2 (1888) - Thành Thái nguyên niên (1889) Nội dung đều ghi nhận: Hải D•ơng tỉnh, Thuỷ Đ•ờng huyện về sau đổi thành Thuỷ Nguyên, Do Lễ xã tòng tiền phục sự đ•ơng cảnh thành hoàng hộ quốc trong dân. 2. Quyển thần phả sao năm Thành Thái, do dân làng truyền tay nhau giữ gìn chiểu theo lệ cũ đã giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử hôm nay và mai sau thấy rõ một gương mặt có công trong bản hùng ca “Bạch Đằng tụ cổ huyết do hồng” (ý thơ cổ của sứ thần Giang Văn Minh,người ấy là Vũ Nguyên sinh ra và lớn lên từ đồng Đất Do Lễ ven sông Bạch Đằng). 3. Trên vị trí quan trọng của kiến trúc hậu cung ngôi đền đặt chính vị cỗ ỷ ngai chứa bài vị Vũ t•ớng quân. Theo dân làng cho biết do Vũ Nguyên hoá cùng sông n•ớc nên dân làng chỉ có lệ thờ ngai - bài vị chiểu theo sắc phong của triều đình. Tr•ớc đây đền còn giữ bộ mũ và áo thờ nh•ng đến nay đã bị thất lạc. 4. ở phần bệ thấp hơn chính vị là thần hiệu “Nam Hải đại vương” Phạm Tử Nghi phối thờ trong di tích. 5. Bát h•ơng đại, đ•ờng kính 32cm, men hoa lam. 6. Một số đồ thờ tự khác bằng gốm sứ nh•ng không đồng bộ. 7.Bia đá:Hậu thần bia kí 3 chiếc, một có kích th•ớc cụ thể 60*100*20cm. Trang trí nghệ thuật hoa dây hình sin, l•ỡng long chầu nguyệt. Nghệ thuật Lê-Mạc đ•ợc thể hiện hài hoà qua trang trí trán bia, rồng và tia mây thẳng. Diềm bia là những dải hoa văn hình học nổi hình: Bông cúc Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 37
- Khoá luận tốt nghiệp mãn khai mang ý t•ởng về cuộc sốn viên mãn m•a thuận gió hoà. Kế đó là hình các con thú 4 chân ngộ nghĩnh, sinh động trong nhiều t• thế đầy vẻ khoáng đạt. Toàn bộ sức nặng của tấm bia đ•ợc gắn trên mái vum của linh vật trong bộ tứ linh truyền thống. Hai chiếc bia còn lại có kích th•ớc nhỏ hơn (40*70*20) và chiếc thứ ba nhỏ dẹt đặt vào mặt kiến trúc cũ. Niên đại Nguyễn đầu thế kỉ XX. Nội dung ghi nhận công việc đóng góp tu tạo ngôi đền qua các niên đại ghi rõ tên họ, quê quán của hậu chủ và thập ph•ơng bản xã Do Lễ và Phục Lễ. Dù hạn chế về nội thất và khiếm khuyết của kiến trúc bái đ•ờng nh•ng di tích có giá trị đích thực là một chứng tích lịch sử của một con ng•ời và chiến công trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thế kỉ XIII chắc chắn có nhiều phần đóng góp của toàn trang Do Lễ thủa ấy mà Vũ t•ớng quân là tiêu biểu. 2.2.4. Miếu Phả Lễ Phả Lễ còn có tên gọi Phổ Lễ, là đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Thuỷ Nguyên. Tr•ớc năm 1945 thuộc địa bàn tổng Phục Lễ, phủ Thuỷ Nguyên, tỉnh Kiến An. Tên xã từ sau năm 1945 đ•ợc gọi theo tên làng xã ven sông biển. Phả Lễ có nghề truyền thống đánh bắt cá song song với nông nghiệp lúa n•ớc, c• dân có cuộc sống ổn định từ hàng trăm năm nay. Các công trình văn hoá, tín ng•ỡng cộng đồng từ xa x•a có đình, miếu, nghè ở Phả Lễ tôn thờ bốn vị thành hoàng rất nổi tiếng trong lịch sử: - Thần Quý Minh, nhân vật lịch sử thời Hùng V•ơng. - H•ng Đạo đại v•ơng Trần Quốc Tuấn đ•ợc thờ bằng bài vị ở nghè ch•a có sắc phong. - Phổ Hộ, Phổ Độ đều sinh vào thời Trần niên hiệu Nguyên Phong, có công giúp Trần H•ng Đạo đánh quân Ô Mã Nhi. * Đ•ờng đi đến di tích Từ trung tâm thành phố Hải Phòng qua cầu Bính theo quốc lộ 10 đến huyện Thuỷ Nguyên qua Núi Đèo đi tiếp con đ•ờng h•ớng tới bến Phà Rừng. Đến b•u điện văn hoá xã Ngũ Lão, Phục Lễ. Di tích miếu Phả Lễ nằm ngay sát con đ•ờng liên xã này đối diện trạm b•u điện văn hoá xã phả Lễ là đến nơi. *Lịch sử nhân vật đ•ợc thờ tự Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 38
- Khoá luận tốt nghiệp Qua khảo sát th•c tế, hiện tại toà miếu cổ làng Phả Lễ huyện Thuỷ Nguyên thờ các vi phúc thần nh• sau: 1.Quý Minh th•ợng đẳng thần - một nhân vật lịch sử thời Hùng V•ơng thứ 18. 2. Hai anh em Trần Hộ , Trần Độ (nguyên gốc cũ trong thần phả, sắc phong đọc là Phổ Hộ ,Phổ Độ. Cả hai anh em đều sinh tr•ởng trong một gia đình có nguồn gốc từ Châu ái tức Thanh Hoá thời nay). Bố mẹ hai ông đã làm nghề sông n•ớc lâu đời và sinh thành hai anh em tại mảnh đất ven sông Bạch Đằng chói ngời chiến công đánh thắng giặc Nguyên Mông. Căn cứ vào bảng thần phả ghi bằng chữ Hán hiện đ•ợc ban quản lý di tích miếu Phả Lễ l•u giữ cộng với sự tham khảo một số sách báo đã xuất bản ở Trung •ơng và thành phố Hải Phòng viết về nhân vật đ•ợc thờ tại di tích nh• sau: Theo sử cũ,vốn là hai anh em sinh vào thời Trần, sát cánh cùng lực l•ợng của triều đình tổ chức đánh giặc Nguyên Mông trong trận chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, d•ới sự chỉ huy của H•ng Đạo V•ơng Trần Quốc Tuấn và các đạo quân tinh nhuệ của hai vua Trần.Đạo quân Thánh Dực của Nguyễn Khoái, đội hữu vệ quân do t•ớng quân Phạm Ngũ Lão chỉ huy cùng tham gia chiến trận làm lên chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 còn có nhiều đội dân binh địa ph•ơng ở hai bên bờ sông Bạch Đằng. Sử sách không ghi chép cụ thể về nhũng tên tuổi cùng những chiến công của nhiều anh hùng địa ph•ơng nh•ng sự nghiệp đánh giặc cứu n•ớc của họ vẫn còn đ•ợc l•u truyền, ghi nhớ qua hệ thống di tích là đền, địa danh dọc hai bên sông thuộc Hải Phòng và Quảng Ninh. Với tư tưởng chủ đạo “Dựa vào nhân dân đánh giặc phát động tổ chức nhân dân các làng xã trực tiếp tham gia chiến đấu” Trần Hộ ,Trần Độ , Mai Đình Nghiễm nổi lên là những chỉ huy dẫn dắt dân binh địa ph•ơng xông pha chiến trận trên sông n•ớc lập đ•ợc công lớn. Trận đại phục kích quân Nguyên Mông diễn ra tại sông Bạch Đằng năm 1288 hai anh em tuyển mộ đội quân dân binh giúp H•ng Đạo V•ơng thực hiện kế hoả công thiêu cháy tàu, thuyền giặc lọt vào trận địa giăng sẵn của quân ta. “ Bạch Đằng nhất trận hoả công Phá tan quân giặc máu hồng dày sông” Khi cả hai anh em qua đời nhân dân địa ph•ơng đã lập đền miếu tôn thờ, suy tôn làm thành hoàng để ghi nhớ công đức muôn đời sau. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 39
- Khoá luận tốt nghiệp Các đời vua nhà Nguyễn: Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái,Khải Định đều có sắc phong cho các vị Quý Minh Th•ợng Đẳng thần Phổ Hộ ,Phổ Độ, tôn thần Mai Đình Nghiễm cũng là một vị chỉ huy đội dân binh đ•ợc làng Phục Lễ tôn thờ làm phúc thần tại miếu gần con đê cổ địa ph•ơng. *Khảo tả di tích . Di tích miếu Phả Lễ có bố cục mặt bằng kiểu chữ đinh gồm 5 gian tiền đ•ờng, 3 gian cung chuôi vồ. Niên hiệu tạo dựng của di tích vào thời Nguyễn Thành Thái năm Mậu Tuất (1898). Có lẽ từ sau mức thời gian tạo dựng này (106 năm ) ngôi miếu đã nhiều lần đ•ợc dân làng trùng tu tôn tạo. Mặt chính của di tích quay h•óng Tây Nam nơi con đ•ờng liên xã đi qua, hai phía hồi t•ờng Bắc-Nam của di tích đ•ợc che phủ bóng mát bởi màu xanh của hai cây gạo ta hoa đỏ ối tạo cảnh quan thiên nhiên ngọan mục tr•ớc nơi thờ cúng tôn nghiêm của dân làng. Kiến trúc tòa bái đ•ờng của ngôi miếu mang dáng dấp của ngôi đình cổ, quy mô vừa phải tuy nhiên mái đao cộng thêm cột tàu lá mái đã đ•ợc gia công cắt bỏ bớt chi tiết cũ qua nhiều lần tu tạo. a.Toà bái đ•ờng : Nhìn từ phía tr•ớc nổi rõ cột hàng hiên đỡ tàu lá mái - Bộ khung gỗ gồm 4 vì,hai gian bên được xây gạch theo lối” tường hồi bít đốc” - Kết cấu vì nóc mái kiểu giá chiêng Trong một bộ vì gỗ đ•ợc bao gồm 4 cột gỗ có hai cột cái, hai cột quân trong từng vì, đỉnh trụ của cây cột cái trong mỗi vì đ•ợc nối với nhau bằng một câu đầu bào nhẵn, khớp phần bụng đ•ợc bào nhẵn với đầu d• đ•ợc tạo dáng hình rồng có đủ mặt cấu tạo bên ngoài nh• mắt nồi, miệng cá ngậm viên ngọc, vẩy bờm tóc mang nét đặc tr•ng con rồng thời Nguyễn thế kỉ XIX + Tại phần ngọn phía đối xứng qua cột với đầu d• đ•ợc tạo dáng hình rồng là phần cốn trang trí trên kẻ nách, vừa có nhiệm vụ đỡ 4 thanh hoành gian nằm ngay trên các mảng cồn góc trên kẻ, đồng thời nối liền cột cái với cột quân. Tại ba gian chính giữa của toà bái đ•ờng đ•ợc đóng mở bằng ba bộ cửa gỗ kiểu” Thượng song-hạ bàn” đặt trên ngưỡng gỗ chạy suốt 3 gian giữa, bộ ng•ỡng cao 30m so với mặt nền miếu Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 40
- Khoá luận tốt nghiệp + Thềm hiện cao 0,15m so với diện tích sân hồi, phần mái hiên đ•ợc tạo bởi một kết cấu” Tiền kẻ - hậu bẩy” nhưng cột hiên đỡ mái tàu đỡ chân ngói đã đ•ợc thay thế bằng chất liệu xi măng. b. Toà hậu cung Cách toà bái đ•ờng 1,5m nguyên gốc là một kết cấu chuôi vồ khép kín, ngăn cách giữa toà bái đ•ờng và ngôi cửa miếu với phần cung cấm bằng những tấm bình phong gỗ, có lối đi hai bên tả hữu. Nay đã đ•ợc nhân dân địa ph•ơng tu tạo mở ra một khoảng cách giữa hai toà kiến trúc bái đ•ờng và cung cấm. Phía ngoài thềm cung cấm đặt một nhang án bài trí đôi ống h•ơng, một mâm bồng cỡ đại, một bát nhang, phía trong toà hậu cung bài trí ba bộ long ngai - bài vị đề duệ hiệu của ba vị phúc thần đ•ợc tôn thờ. * Các hiện vật còn lại 1. Một chiếc bia đá niên hiệu Thành Thái 13(1901) đặt phía sân sát hồi hiên bên phải toà bái đ•ờng. Bia có nhan đề “ Phả Lễ nhị xã bi ký” ghi lại sự giao •ớc giữa đại diện chức sắc hai thôn Phả Lễ - Lập Lễ cam kết phân chia đồng tiền, địa giới của hai bên. 2. Bộ chấp kích, bát biểu vũ khí thờ có: chuỳ, đoản kiếm, song lệnh gồm 16 thanh đ•ợc giá gọn gàng trên giá gỗ 3. Kiệu bát cống: Gồm 8 thanh rồng liên hệ với nhau qua khớp nối trụ xoay mang biểu t•ợng hình rồng Nguyễn thế kỉ XX 4. Ba bộ ngai án, bài vị: Biểu tr•ng cho uy linh của các vị phúc thần đ•ợc tôn thờ tại di tích. Trang trí đồ rồng và đồ án hình hoạ trên riềm bệ, thân bài vị đều mang đậm phong cách nghệ thuật Nguyễn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 5. Thần phả chữ hán; 1 cuốn 6. Sắc phong: Gồm 8 sắc của các đời vua nhà Nguyễn: Tự Đức, Thành Thái, Khải Định cho ba vị phúc thần 7. Đại tự: có 3 bức đ•ợc tạo nổi trên khung gỗ viền các dải trang trí sơn thếp rực rỡ, phần âm nghĩa đ•ợc dịch nh• sau: a. Đại tự số 1: Tối linh từ b. Đại tự số 2: Thần hoá dân nghi c. Đại tự số 3: Thánh cung vạn tuế Ngoài ra di tích còn l•u giữ đ•ợc một số l•ợng đáng kể các đồ thờ tự nh• lọ cắm hoa, bát nhang, hai chiếc h•ơng án tiền phục chế theo lối cổ góp phần tạo ra sự phong phú đa dạng của các di vật trong di tích lịch sử văn hoá. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 41
- Khoá luận tốt nghiệp 2.2.5. Di tích lịch sử đình Chung Mỹ * Đ•ờng đi đến di tích Đình Chung Mỹ nằm ven quốc lộ 10 nên có rất nhiều đ•ờng thuận lợi cho du khách đến thăm di tích. Từ Hải Phòng du khách qua cầu Bính rồi theo quốc lộ 10 đi phà Rừng khoảng 12km nhìn sang bên phải thấy mặt sau của một công trình kiến trúc cổ đó chính là đình Chung Mỹ. * Lịch sử vị thần đ•ợc thờ Theo truyền thuyết l•u truyền trong nhân dân địa ph•ơng và một số th• tịch cổ nh• sắc phong, bia kí sử cũ thì đình Chung Mỹ xã Trung Hà huyện Thuỷ Nguyên là đài t•ởng niệm nơi tôn thờ danh t•ớng H•ng Trí V•ơng thời nhà Trần (1226-1400) nh•ng tiếc thay bản thần phả tôn thần bị thực dân Pháp đốt mất trong thời gian đóng đồn, lập bốt tại đình. Nhân dân cũng xin nói thêm chùa Chung Mỹ và chợ chùa Chung Mỹ vang bóng một thời cũng đã bị quân đội viễn chinh Pháp đập phá tan tành không còn một dấu vết gì trên mặt đất, ngoài một số t•ợng Pháp, chuông đồng phải đem sơ tán, gửi nhờ. đ•ợc sự giúp đỡ tận tình dày công nghiên cứu của nhà sử học Ngô Đăng Lợi - Chủ tịch hội đồng lịch sử thành phố, chủ tịch hội khoa học lịch sử Hải Phòng mà chúng ta có đ•ợc bản tóm tắt tiểu sử sự nghiệp của Đức Thánh H•ng Trí V•ơng nh• sau: H•ng Trí V•ơng tên là Trần Quốc Hiện con trai thứ năm của H•ng Đạo V•ơng Trần Quốc Tuấn, quê gốc ở Tức Mạc nay thuộc thành phố Nam Định. Ngài sinh ở Thăng Long vốn bẩm tính thông minh hiếu học ham chuộng nghề võ. Từ tuổi thiếu niên đã đ•ợc theo cha anh rèn luyện hành quân tập trận. Khi xung trận ông dũng cảm không ngại gian nguy, đối với t•ớng sĩ d•ới quyền mệnh tuy nghiêm ngặt nh•ng th•ơng yêu quý mến cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Vùng đất miền Đông Bắc nhiều nơi là thực ấp của H•ng Đạo V•ơng gồm thực ấp của cha để lại mà V•ơng đ•ợc thừa h•ởng cả, vì thành V•ơng Doãn đã bỏ trốn, lại thêm thực ấp v•ơng đ•ợc ban ở Vạn Kiếp, Lục Ngạn số đất này V•ơng chia cho các con trai, mỗi ấp đều tổ chức dân binh, sắm sửa vũ khí tích luỹ l•ơng thảo đề phòng khi hữu sự. Tháng chạp năm Giáp Thân (1284) niên hiệu Thiệu Bảo thứ 6 t•ớng Nguyên là Thoát Hoan và A Lý Hải Nha đem 50 vạn tinh binh chia hai đ•ờng thuỷ bộ xâm phạm bờ cõi, vua cử Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội cả n•ớc chống giặc. Ngày 26 tháng này, giặc đánh tràn Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 42
- Khoá luận tốt nghiệp vào các cửa ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết L•ợc, Chi Lăng. Quân ta không chế ngự đ•ợc phải lui về đóng ở Vạn Kiếp. Tin dữ báo về triều đình, vua vội ngự thuyền nhẹ xuống Hải Đông gặp Trần H•ng Đạo hỏi han tình hình. Trần H•ng Đạo vâng lệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Bà Điểm chọn những ng•ời dũng cảm xung vào đội tiên phong v•ợt bể vào Nam. Quân các lộ đều tụ họp theo t•ớng lệnh. H•ng Trí V•ơng Hiện cùng các anh trai đem 20 vạn quân dân các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà H•ơng, Yên Sinh, Long Nhãn đến hội sự ở Vạn Kiếp. Khí thế quân ta lại nổi, lần chống Nguyên thứ 2 này thế n•ớc khó khăn nh• trứng chồng, nh•ng quân dân ta cuối cùng đã chiến thắng vẻ vang, đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. H•ng Trí V•ơng khi giữ ải Bắc, Lúc hộ giá thuyền vua lánh ấp Thiên Tr•ờng khi hộ giá chạy vào Tam Trĩ, lúc theo vua tiến đánh Đại mang bộ, trải lắm gian truân lập nhiều công trạng. Tháng 6 năm ất Dậu, niên hiệu Thiệu Bảo thứ 7 (1285) th•ợng t•ớng Trần Quang Khải r•ớc hai vua thu hồi kinh s•. Tháng 8 tuyên phong công thần theo thứ bậc, H•ng Trí V•ơng đ•ợc ban khen. Tháng 2 năm Đinh Hợi, niên hiệu Trùng H•ng thứ 8 (1287) vua Nguyên lại huy động quân chia đ•ờng thuỷ bộ vào đánh trả thù. H•ng Trí V•ơng lại đem quân bản bộ theo cha đánh giặc. Trong chiến dịch Bạch Đằng lịch sử mồng 8/3 năm Mậu Tý, niên hiệu Trùng H•ng thứ 4 (1288) quân ta đại thắng. H•ng Trí V•ơng dự trận lập công lớn. Khi đuổi hết giặc tháng 4 năm Kỉ Sửu niên hiệu Trùng H•ng thứ 5 (1289) đinh công dẹp Nguyên cha con ngài có công lớn đều đ•ợc ban th•ởng hậu. Vua tiến phong H•ng Đạo t•ớc Đại V•ơng, H•ng Võ V•ơng làm khai quốc công, H•ng Nh•ợng V•ơng làm tiết độ sứ Riêng H•ng Trí V•ơng tuy có nhiều công nh•ng không đ•ợc thăng trận vì đã có chiếu nhà vua không cản trở lại binh Nguyên rút về n•ớc nh•ng V•ơng vì căm thù giặc đã giết hại dân lành lại xâm phạm đến Chiêu Lăng nên phục quân đánh giết chúng. Sau khi đất n•ớc thanh bình, H•ng Trí V•ơng đến vùng Thuỷ Đ•ờng nơi nhiều lần đóng quân, thấy trang Chung Mỹ còn đất bãi rộng, V•ơng sai quân và mộ thêm dân đến khai khẩn lập thành trang trại. Từ đó dần dần dân khang vật thịnh sau trở thành một trang ấp lớn. Khi V•ơng qua đời hôm đó là ngày mồng 9 tháng giêng dân nhớ công lập đền thờ gọi là đền Hiển Linh. Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 43
- Khoá luận tốt nghiệp Các triều đại đều có sắc phong và tăng mỹ hiệu. Đền Hiển Linh đã đ•ợc các bộ quốc chí triều Nguyễn ghi chép. Ngài Nguyên đã đ•ợc tặng: Hiền l•ơng, L•ợng trực, Đôn ng•ng dục bảo trung h•ng, đ•ơng cảnh thành hoàng, thiện hộ h•ởng ứng, trung chính, hộ quốc. Năm Khải Định thứ 9 (1916) được tặng thêm mỹ hiệu “Quang ý”. Với khí thế của ng•ời chiến thắng sau chiến tranh d•ới sự chỉ đạo của H•ng Trí V•ơng, nhân dân Chung Mỹ đã ra sức hàn gắn lại vết th•ơng, v•ơn lên xây dựng cuộc sống thanh bình để truyền lại cho hậu thế một quê h•ơng t•ơi đẹp nh• ngày hôm nay. H•ng Trí V•ơng Trần Quốc Hiện là tấm g•ơng sáng về lòng yêu n•ớc, yêu nhân dân “Khoan thư sức dân”, “Đãi ngộ sĩ phu” để “Làm kế sâu rễ bền gốc, ấy là th•ợng sách” (Theo di huấn của H•ng Đạo V•ơng Trần Quốc Tuấn). Trân trọng bảo vệ những di tích l•u niệm về ông là trách nhiệm lịch sử của thế hệ hôm nay và muôn đời con cháu mai sau, t• t•ởng và việc làm của ông đã v•ợt ra ngoài khuôn khổ của thời đại ông. * Khảo tả di tích. Đình Chung Mỹ xã Trung Hà đ•ợc xây dựng trên một khu đất cao ráo, thoáng đãng, xung quanh có nhiều hồ n•ớc bao bọc nh• đ•ợc tách khỏi không khí ồn ã, sôi động của cuộc sống đời th•ờng, nh•ng không quá xa cách với xóm thôn. Đình quay h•ớng Nam đón gió từ biển thổi vào, xa xa là dòng sông Cấm, sông Ruột Lợn là những con đ•ờng giao thông thuỷ đ•a biển cả mênh mông về gần với mảnh đất và con ng•ời Chung Mỹ. Theo các bậc cao niên, đình Chung Mỹ hiện tại là kết quả của đợt thay đổi địa điểm lần thứ 3, trong khoảng thời gian cuối thế kỉ tr•ớc, đầu thế kỉ này. Đình Chung Mỹ x•a nằm ở trung tâm làng. Ngôi đình hiện nay nằm trên khu đất vốn là bến thuyền tấp nập x•a kia mà dấu vết của nó chính là hồ n•ớc rộng tr•ớc đình. Đình Chung Mỹ là một công trình kiến trúc to lớn và đẹp đẽ trông nh• một cung điện thu nhỏ đã từng nổi danh trên vùng đất Thuỷ Nguyên “Quan yếu” chỉ còn lại hình bóng lờ mờ trong trí nhớ của các cụ già. Đình cũ gồm có năm gian tiền đ•ờng và 3 gian hậu cung cao to sừng sững đ•ợc làm hoàn toàn bằng gỗ lim, xung quanh có t•ờng bao sâu rộng, phía tr•ớc có 2 toà giải vũ chắc chắn và ngũ môn bề thế soi mình d•ới mặt n•ớc Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 44
- Khoá luận tốt nghiệp trong. Tiếc thay trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm l•ợc (1946- 1954) quân Pháp đóng đồn bốt ở đây, chúng đã huỷ hoại toàn bộ công trình x•a, đốt phá đồ thờ tế tự. Di sót của công trình kiến trúc cổ đã một thời vang bóng chỉ còn lại 3 gian hậu cung. Những năm gần đây, với tấm lòng trân trọng di sản văn hoá cha ông và biết ơn ng•ời anh hùng có công với nhân dân, với đất n•ớc, nhân dân Chung Mỹ xây dựng thêm 3 gian tiền đ•ờng nho nhỏ để làm nơi t•ởng niệm thờ cúng thành hoàng. Đình Chung Mỹ có cấu trúc hình chữ Đinh đơn giản gồm 3 gian tiền đ•ờng và 3 gian hậu cung. Phía tr•ớc là một sân rộng nối liền với ao đình. Mái đình lợp ngói mũi hài nhỏ, rêu phong cổ kính, t•ờng và hồi đốc xây bằng gạch chắc khoẻ, hồi đốc xây theo kiểu bổ trụ giật cấp. Nhìn chung bộ mái của di tích không thể hiện trang trí gì ngoài “Hồi long” mang dáng dấp thuỷ quái Makara cầu m•a thuận gió hoà đang ngậm bờ dải. Kiến trúc toà hậu cung một bộ phận hiện hữu của công trình kiến trúc nghệ thuật cổ đã từng làm say đắm du khách thập ph•ơng và là niềm tự hào của bao thế hệ ng•ời Chung Mỹ. Đình Chung Mỹ rất giống với các kiến trúc gỗ dân gian th•ờng gặp trong vùng nh•ng chỉ với quy mô to lớn hơn mà thôi. Đây là kiểu nhà kết cấu khung gỗ chịu lực bởi sự liên kết các vì kèo do các hàng xà theo hai chiều ngang dọc. Khung nhà đ•ợc tạo bởi 4 hàng chân cột, gồm 2 cột cái và 2 cột quân. Các cột đều tròn to và thẳng đ•ợc kê trên chân tảng đá vôi, tạo dáng tròn trên vuông d•ới hay thắt cổ bồng có tác dụng chống lún, chống mối mọt cho công trình. Toà nhà đứng vững trên 4 bộ vì gỗ lim và bức hồi đốc hậu đình. Vì kèo đầu tiên b•ớc từ toà tiền đ•ờng vào làm theo kiểu kèo suốt. D•ới 2 thanh kèo thẳng hình chữ nhật, ng•ời ta lắp hệ thống đ•ờng riềm trang trí hình lá hoả. Mặt ngoài đ•ờng chạm nổi rất cầu kì các đồ án tứ linh, tứ quý, cỏ cây hoa lá thiêng một cánh liên hoàn. Phải nói rằng, nghệ thuật chạm khắc ở đây đạt đến độ tinh xảo cao, hiếm thấy ở các di tích khác. Vì thứ 2 làm theo lối “giá chiêng chồng rường đấu xen” quen thuộc. Các thanh r•ờng và đấu đều đ•ợc chạm nổi xen lẫn bong kênh đồ án hoa cúc cách điệu rất đẹp, đẹp đến đột ngột. Vì thứ 3 là vì ván mê làm bằng các ván gỗ dày. Vì ván mê cùng với hệ thống cửa gỗ kiểu cửa tùng khung khách tạo thành hệ thống vách gỗ che kín cung cấm, không để ánh sáng lọt vào góp phần làm cho cung cấm có nét Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 45
- Khoá luận tốt nghiệp huyền ảo kì vĩ của chốn linh thiêng. Toàn bộ hệ thống cửa và vì ván mê đều đ•ợc chạm khắc và sơn son thiếp vàng rực rỡ không khác gì các đồ thờ quý bằng gỗ hiện l•u giữ tại đình. Các bức chạm nổi đ•ợc thể hiện khá lớn nh• đ•ợc gắn từ ngoài vào. Đội xà nóc (th•ợng l•ơng) là hổ phù ngậm chữ thọ, hai bên hổ phù có đôi ph•ợng thân to nh• thân gà chọi đang xoà cánh múa. Tiếp đến là những đồ án linh thiêng quen thuộc nh• l•ỡng long chầu nguyệt, đôi long mã đi trên mây cụm ở khu vực cốn mặt ngời chạm nổi một rồng đơn uốn l•ợn nh• đang ôm chặt các thanh r•ờng. Trên câu đầu và quá giang chạm bong hình các đồ án, hoa lá, dải mây long mã hà đồ, rùa đeo hòm sách Hệ thống cửa cung cấm, điềm ngời tạo vách y môn cửa võng chạm rồng, ph•ợng, long mã và dải mây. Khi các cánh cử khép lại tạo thành một đồ án trang trí hoàn chỉnh. Trung tâm là đ•ờng tròn nổi, đ•ờng kính 1,2m bên trong chạm l•ỡng long chầu nguyệt, đôi long mã. Xung quanh đ•ờng tròn chạm tùng cúc khẳng kh•u, nở đầy hoa mãn khai và 5 chim ph•ợng hoàng nh• đang giang rộng cánh bay. Về trang trí kiến trúc, đình Chung Mỹ vẫn chỉ sử dụng những mảng đề tài truyền thống của nghệ thuật đình làng Việt Nam cổ truyền. Hình ảnh và màu sắc nơi đây đ•ợc các nghệ nhân xử lý một cách thích hợp, hài hoà và hết sức sinh động. Đình Chung Mỹ tuy nhỏ bé khiêm nh•ờng bởi dáng vóc hiện tại. Mặc dù các đề tài sử dụng trên trang trí kiến trúc không nhiều chỉ đủ làm đẹp cho công trình. Phần lớn các đồ án thể hiện đều mang tính trang nghiêm, quyền quý, song cũng một số đề tài và hình ảnh phản ánh •ớc vọng dân gian đ•ợc gửi gắm đan xen trong đó. Có lẽ đề tài rồng đ•ợc sử dụng nhiều nhất. Rồng ở đây là sự tổng hoà một số bộ phận của nhiều con vật khác: sừng h•ơu, mắt quỷ, mũi s• tử nhìn chung rồng đã mất tính thuần hoá, có bộ mặt dữ tợn, thân uốn khúc lúc ngắn lúc dài lúc to lúc nhỏ không nhất định mà tuỳ thuộc vào vị trí của rồng trên từng bộ phận kiến trúc. Rồng đ•ợc thể hiện nhiều khi rất phức tạp có chỗ lại vô cùng đơn giản biến hoá khôn l•ờng. Xem trang trí kiến trúc đình Chung Mỹ, du khách sẽ bắt gặp dáng vẻ đẹp đẽ và đa dạng của loài chim ph•ợng hoàng. Đó là các hình ảnh ph•ợng hoàng th•, ph•ợng múa chim ph•ợng đ•ợc thể hiện có mỏ diều hâu, mắt giọt lệ mơ màng, đuôi chim dài, tóc chim trĩ, cổ rắn có vảy, sau đầu và cổ th•ờng có lông đuôi nheo. Thân ph•ợng có con thể hiện nh• thân gà, có con ẩn mình trong mây cụm, hai cánh th•ờng xoè rộng cân xứng. Nền trang trí ph•ợng bao giờ Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 46
- Khoá luận tốt nghiệp cũng có mây cụm xoắn đầu, đầu và mỏ đội vân xoắn, hình thức đó tạo cho phượng một sức mạnh có tính chất “Vũ trụ” gắn với tầng trời nhằm đề cao thánh nhân. Hổ phù là một trong số các đề tài hiện diện ở nhiều nơi trong trang trí kiến trúc. Hổ phù là hình ảnh một con quỷ bị chặt làm đôi chỉ còn lại phần đầu. Miệng hổ phù há rộng đang nhả ra một hạt tròn có thể là hạt ngọc t•ợng tr•ng cho lòng dũng cảm và có thể là mặt trăng hay chữ thọ biểu t•ợng phồn thực đ•ợc mùa và thái bình. Ngoài ra di tích còn chạm khắc hình ảnh một số cây cỏ hoa lá nh• đào, mai, lan, huệ đ•ợc tạo dáng khúc khuỷu thành các hoá thân của rồng, lân, ph•ợng, rùa Tóm lại nghệ thuật trang trí đình làng Chung Mỹ xã Trung Hà huyện Thuỷ Nguyên mang đậm tâm hồn và phong cách Việt Nam. D•ới mái đình cổ kính, rêu phong là nơi tàng trữ nhiều di vật, đồ thờ tự là những tác phẩm nghệ thuật đã từng góp phần làm vẻ vang cho nền nghệ thuật dân tộc một thời. * Một số hiện vật lịch sử Số l•ợng hiện vật có giá trị cổ vật và văn hoá của đình Chung Mỹ còn lại không nhiều lắm, chủ yếu do chiến tranh tàn phá, sự huỷ hoại của tự nhiên và sự lãng quên của con ng•ời. Qua khảo sát thực tế ng•ời viết đã thu thập đ•ợc những thông tin nh• sau: + Long đình:Long đình trông giống nh• một ngôi lầu 2 tầng 8 mái, thân vuông, bốn chân thẳng. Tầng trên chỉ là khối hội nhỏ mang tính chất trang trí và tạo dáng, bốn mái khum hình chậu, góc mái cong tạo hình ph•ợng múa rồng bay. Thân long đình hình hộp chữ nhật nối bộ mái với chân tạo thành kiến trúc hoàn hảo. Các cửa tạo vách y môn, thân trang trí đề tài tứ quý, tứ linh và hoa lá cách điệu. Niên đại thế kỉ XIX, kích th•ớc cao 2,6m, rộng 0,82m. + Nhang án gỗ: 2 chiếc Chiếc thứ nhất có hình dáng tự nh• chiếc bàn gỗ 4 chân, mặt phẳng, các góc lắp tai vuông hình th•ớc thợ, mặt ngoài chạm nổi rồng đơn. Thân nhang án đ•ợc tạo bởi các thanh giằng hình chữ nhật, khớp nối các cột lại với nhau tạo thành khung chịu lực chính. Mặt tr•ớc và sau chia làm 30 ô, mặt bên 14 ô trang trí to nhỏ khác nhau. Trong các ô sử dụng các hình thức chạm nổi, chạm thuỷ để thể hiện đề tài hoa Sinh viên: Bùi Thị Hoa – VH902 47