Khóa luận Khai thác tuyến phố cổ Hà Nội phục vụ phát triển du lịch - Đồng Thị Thực

pdf 82 trang huongle 2530
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Khai thác tuyến phố cổ Hà Nội phục vụ phát triển du lịch - Đồng Thị Thực", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_khai_thac_tuyen_pho_co_ha_noi_phuc_vu_phat_trien_d.pdf

Nội dung text: Khóa luận Khai thác tuyến phố cổ Hà Nội phục vụ phát triển du lịch - Đồng Thị Thực

  1. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Phố cổ Hà Nội có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển kinh tế văn hóa đặc biệt là đối với ngành du lịch của thủ đô. Nhắc tới phố cổ Hà Nội là nhắc tới vẻ đẹp của kiến trúc nhà ống, vẻ đẹp của những con phố nhỏ với những tên gọi độc đáo, đan xen nhƣ những ô bàn cờ và văn hóa đƣợc kết tinh trong trong cuộc sống của những cƣ dân phố cổ. Đặc biệt, sau Đại Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, giá trị văn hóa, lịch sử của phố cổ Hà Nội ngày càng đƣợc khẳng định. Phố cổ Hà Nội là điểm du lịch có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Phố cổ Hà Nội đƣợc khai thác du lịch trong nhiều năm. Tuy nhiên, hoạt động khai thác du lịch tại phố cổ Hà Nội hiện nay còn nhiều điều bất cập: Chất lƣợng tour, tuyến; đội ngũ thuyết minh viên, hƣớng dẫn viên; vấn đề đầu tƣ chất lƣợng dịch vụ, đầu tƣ cơ sở vật chất kỹ thuật, vấn đề quy hoạch trở thành tuyến phố đi bộ; môi trƣờng xã hội và môi trƣờng sinh thái tại phố cổ Hà Nội Bên cạnh đó, phố cổ Hà Nội ngày nay đã có nhiều thay đổi, phần lớn khu phố đã phần nào mất đi dáng vẻ đặc trƣng độc đáo hấp dẫn do sự ảnh hƣởng của thời gian, khí hậu và bởi con ngƣời Giá trị phố cổ mất đi đồng nghĩa với việc giảm khả năng thu hút khách khách du lịch. Do đó, để khai thác hiệu quả giá trị của phố cổ Hà Nội cho phát triển du lịch và đảm bảo vấn đề bảo tồn, tôn tạo phố cổ Hà Nội thì phải có hệ thống các giải pháp và chƣơng trình triển khai đồng bộ, trong đó từng khu phố phải đƣợc nghiên cứu kỹ và đƣợc quy hoạch sao cho khai thác đƣợc hợp lý những giá trị lịch sử văn hóa của nó. Do vậy, việc chọn đề tài “Khai thác tuyến phố cổ Hà Nội phục vụ phát triển du lịch” nhằm đóng góp những ý tƣởng, nâng cao hiệu quả khai thác tuyến phố cổ Hà Nội phục vụ phát triển du lịch trong mối quan hệ hài hòa giữa mục tiêu bảo tồn và phát triển kinh tế xã hội. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 1
  2. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài - Tổng hợp những vấn đề lý luận về quản lý phố cổ nhằm mục đich phát triển Du lịch. Xác định nhu cầu phát triển của phố cổ nói chung trong thời đại hiện đại - Đánh giá những thực trạng phát triển du lịch hiện nay của phố cổ Hà Nội hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác du lịch tại phố cổ 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu khai thác tuyến phố Cổ Hà Nội nhằm phát triển du lịch. - Phạm vi nghiên cứu: về mặt lãnh thổ, khóa luận tập trung nghiên cứu trong khu phố Cổ Hà Nội. Về mặt nội dung, khóa luận tiến hành nghiên cứu các vấn đề xã hội( nhân văn, cơ sở hạ tầng, môi trƣờng ) trong khu phố Cổ Hà Nội nhằm khai thác phục vụ phát triển du lịch của Thủ đô nói riêng và cả nƣớc nói chung. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu _ Phƣơng pháp khảo sát thực địa _ Phƣơng pháp tiếp cận và phân tích hệ thống thông tin, dữ liệu _ Phƣơng pháp thống kê du lịch _ Phƣơng pháp bản đồ 5. Kết cấu của Khóa luận Khóa luận bao gồm có 3 phần lớn là: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Ngoài ra Khóa luận còn có phần tài liệu tham khảo và phụ lục. Phần nội dung của Khóa luận gồm có 3 chƣơng nhƣ sau: Chƣơng 1: Phố cổ Hà Nội và cơ sở lý luận về quản lý và khai thác phố cổ Hà Nội trong phát triển du lịch Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động du lịch tại phố cổ Hà Nội. Chƣơng 3: Các định hƣớng và giải pháp nhằm khai thác hiệu quả việc khai thác du lịch tại phố cổ Hà Nội. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 2
  3. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VÀ KHAI THÁC PHỐ CỔ HÀ NỘI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 1.1. Khái niệm phố cổ Theo Bản quy ƣớc về việc đặt tên đƣờng, phố, ngõ của Tp Hà Nội đƣợc UBND Tp Hà Nội ban hành từ năm 1998, việc đặt tên phố, tên đƣờng đƣợc dựa trên vào quy mô, vị trí, tính chất của từng trƣờng hợp. Cụ thể là: Đặt là phố đối với những đƣờng có quy mô nhỏ và hai bên có những công trình kiến trúc liên tiếp (nhà ở, cửa hàng, cửa hiệu, trụ sở cơ quan, ) Theo Bách khoa toàn thƣ, có viết khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thƣờng của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cƣ hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thƣơng, hình thành lên những phố nghề đặc trƣng, mang những nét truyền thống riêng biệt của cƣ dân thành thị, kinh đô. Theo Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc cho rằng: Danh từ Phố cổ mới xuất hiện từ sau năm 1980, trƣớc đó khi ngƣời ta nói đến các khu phố cổ thì ngƣời ta gọi đơn giản là "Phố" hoặc "Hà Nội 36 phố phƣờng”. “Thực ra cách gọi là phố cổ cũng không đúng lắm, vì trong khu phố ấy nhà cửa cũng chỉ trên 100 năm tuổi, nhƣng vị trí thì đã có trên 1000 năm rồi, nên gọi thế để dễ phân biệt với khu phố do ngƣời Tây xây dựng”. Trong diễn đàn “ Đi tìm tên mới cho phố cổ Hà Nội” trên báo Lao Động năm 2006, nhiều nhà nghiên cứu về Hà Nội cũng nói đến ý nghĩa của cụm từ “ phố cổ”. Nhiều kiến trúc sƣ cho rằng tên “phố cổ” đã không phản ánh đúng hiện thực vì giá trị của phố cổ không chỉ nằm ở các vật thể hữu hình mà còn đƣợc tạo nên bởi các truyền thống sinh hoạt của ngƣời dân. Quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng tên gọi phố cổ chỉ mang tính ƣớc lệ nhƣng đã đƣợc dùng quen và đƣợc nhiều ngƣời thừa nhận từ nhiều năm nay. Nhƣ vậy, tên gọi “phố cổ” đƣợc hiểu chính xác và đầy đủ nhất phải bảo gồm cả giá trị hữu hình và các giá trị vô hình. Có nghĩa là tại phố cổ phải bảo tồn đƣợc các công trình kiến trúc cổ nhƣ đình, chùa, nhà ở truyền thống và Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 3
  4. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch bảo lƣu đƣợc nét truyền thống sinh họat, văn hóa, lối sống của ngƣời dân nơi đây. Nói đến “Phố cổ” Hà Nội là nói đến một khu vực gồm nhiều con phố, phản ánh những đặc thù lịch sử, văn hoá của Hà Nội có từ xa xƣa, thể hiện đƣợc nét độc đáo riêng biệt, đặc thù không thể trộn lẫn của Thủ đô ngàn tuổi. 1.2. Vị trí, giới hạn của khu phố cổ Hà Nội Theo Quyết định số 70 BXD/KT-QH ngày 30/3/1995 của Bộ Xây dựng, khu phố cổ Hà Nội có phạm vi đƣợc xác định: - Phía Bắc: Phố Hàng Đậu - Phía Tây: Phố Phùng Hƣng - Phía Nam: Các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng. - Phía Đông: Các phố Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật. Toàn bộ khu vực trên thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, có tổng diện tích quy hoạch khu phố cổ khoảng 100ha với 76 tuyến phố thuộc 10 phƣờng với khoảng 84 ngàn dân (là nơi có mật độ dân số đông nhất nƣớc). Mƣời phƣờng có phạm vi thuộc khu phố cổ Hà Nội là: Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa Đông, Lý Thái Tổ. Phạm vi nghiên cứu quy hoạch đƣợc phân chia 2 khu vực bảo vệ, tôn tạo đặc trƣng nhƣ sau: + Khu bảo vệ tôn tạo cấp 1: giới hạn bởi các phố Hàng Chiếu,Hàng Đƣờng, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Mắm và Trần Nhật Duật. + Khu bảo vệ tôn tạo cấp 2: phần còn lại trong gianh giới Phố cổ. Đặc trƣng nổi tiếng nhất của khu phố cổ là các phố nghề với chính sản phẩm đƣợc buôn bán trở thành tên phố, bắt đầu bằng chữ "Hàng" đằng trƣớc và kiến trúc nhà cổ trong khu phố buôn bán. Năm 2004, khu phố cổ Hà Nội đƣợc xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 4
  5. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch 1.3.Phô Cô - tài nguyên du lịch quan trọng của thủ đô Hà Nội 1.3.1.Sự hình thành và phát triển của phố cổ Hà Nội Thế kỷ XI - XIV Phố cổ Hà Nội bắt đầu hình thành từ thời Lý - Trần. Vào thời kỳ này, dân cƣ ở phố cổ là dân bản địa và dân di cƣ từ các làng quanh đồng bằng Bắc Bộ tụ tập về khu vực này sinh sống. Khi di cƣ ra Kinh thành lập nghiệp, ngƣời dân đã mang theo nghề nghiệp và bản sắc văn hóa của làng xã mình. Bằng chứng là một số ngôi đền, miếu còn thờ phụng các vị tổ nghề còn tồn tại nhƣ: "Châu Khê vọng từ" - ngôi đền của những ngƣời dân Châu Khê làm nghề kim hoàn và vàng bạc, đình Phả Trúc Lâm (số 40 Hàng Hành), đình Hài Tƣợng (số 16 ngõ Hài Tƣợng) thờ Tiến sĩ Nguyễn Thời Trung - tổ nghề da, đóng hia hài Thế kỷ XV – cuối thế kỷ XIX Thời kì này, phố cổ Hà Nội đã có sự phát triển nhanh với sự xuất hiện ngày càng nhiều các phố xá có cửa hàng, cửa hiệu với những ngôi nhà ống. Lúc này cũng xuất hiện những ngôi đình, chùa của cƣ dân. Ở khu phố cổ Hà Nội cũng đang dần dần hình thành một lối sống thị dân và một khiếu thẩm mỹ đô thị. Những ngƣời dân phố phƣờng Kẻ Chợ qua vài ba thế hệ, đã khẳng định đƣợc một bản sắc đô thị của mình. Đó là một nếp sống thanh lịch, tao nhã. Các phố hàng đã đƣợc hình thành chuyên sản xuất hoặc bán một loại hàng hóa nào đó. Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỳ XX Sau khi bị thực dân Pháp đánh chiếm, thành cổ bị phá, khu phố Tây đƣợc hình thành, khu phố cổ có nhiều biến đổi mạnh mẽ. Đƣờng phố đƣợc nắn lại, có hệ thống thoát nƣớc, có hè phố, đƣờng đƣợc lát trải nhựa và đƣợc chiếu sáng. Nhà cửa hai bên đƣờng phố đƣợc xây gạch lợp ngói để đề phòng hoả hoạn. Bên cạnh những nhà cổ mái ngói với các gờ đấu, bờ nóc giật tam cấp, xuất hiện các ngôi nhà có mặt tiền đƣợc làm theo kiểu cách Châu Âu với các loại cột, vòm cuốn, ban công, lôgia và các hoa văn trang trí v.v Cho tới 1954 các ô phố cổ đã đƣợc phủ kín các lô nhà; mỗi lô nhà là một gia đình. Mỗi lô nhà tuỳ theo sâu nông mà có một hay vài ba sân nhỏ bên trong để lấy ánh sáng và thông thoáng. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 5
  6. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch Khu phố cổ dƣới thời Pháp thuộc vẫn là khu vực buôn bán sầm uất trong cả nƣớc. Hàng ngày từng đoàn tầu hoả từ hƣớng bắc của Hà Nội dừng lại phía ga đầu cầu bờ nam sông Hồng để dân buôn bán đổ xuống chợ Bắc Qua, Đồng Xuân với biết bao sản vật cung cấp cho Hà Nội và cho các địa phƣơng khác ở phía nam Hà Nội, đồng thời cũng lại chở đi các hàng hoá từ Hà Nội cung cấp cho các tỉnh phía Bắc. Phƣơng tiện giao thông trên phố cổ có xích lô, ngƣời đi xe đạp, đi bộ. đặc biệt là tầu điện đi từ ga ở phố Thuỵ Khuê qua phố Quán Thánh qua phố Hàng Giấy, chợ Đồng Xuân, Hàng Đƣờng, Hàng Ngang, Hàng Đào qua phố Đinh Ttiên Hoàng, đƣờng Hàng Bài, Phố Huế, Bạch Mai. Từ năm 1986 đến nay Khu phố cổ từ 1986 đến nay với đƣờng lối chính sách mới từ nền kinh tế bao cấp chuyển sang kinh tế thị trƣờng; mở rộng sự giao lƣu kinh tế và quan hệ với quốc tế; mở rộng các thành phần kinh tế trong nƣớc, kích lệ mọi tầng lớp nhân dân xây dựng mở mang phát triển kinh tế văn hoá xã hội, buôn bán ở khu Phố Cổ dần dần đƣợc phục hồi, phát triển và sầm uất hơn xƣa. Các mặt tiền nhà đƣợc cải tạo đổi mới - nhiều nhà xuống cấp, bị hỏng đã đƣợc xây dựng lại với nhiều kiểu cách. Nhiều đình đền chùa đƣợc tu sửa, không khí tâm linh đã trở lại với khu Phố Cổ. Góp phần vào không khí hoạt động của khu phố cổ trong hơn thập kỷ nay là sự qua lại tấp nập của dòng ngƣời du lịch đến từ các nƣớc Âu, Á và từ các địa phƣơng khác trong nƣớc. Du lịch phát triển là nhân tố tích cực thúc đẩy hoạt động thƣơng mại, dịch vụ, văn hoá ở nơi đây. Do vậy, một số nhà ở trong khu phố cổ đƣợc cải tạo thành khách sạn mini; thành các quán ăn đặc sản; các cửa hàng ở tầng 1 đƣợc trang trí nội thất khang trang hấp dẫn Tuy nhiên, nhìn chung khu phố cổ từ tầng 2 trở lên và nhất là các nếp nhà phía bên trong các cửa hàng đa số là xuống cấp, ô nhiễm môi trƣờng, đe doạ tới an toàn cuộc sống của dân cƣ. Cùng với sự phát triển chung của phố cổ Hà Nội, kiến trúc nhà cũng có nhiều thay đổi. - Nhà xây trƣớc năm 1890 : Là loại nhà hình ống - nhà ở cổ truyền thống Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 6
  7. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch của khu Phố cổ Hà Nội với các đặc điểm chung sau: nhà phát triển theo chiều sâu, tƣờng nhà nọ liền kề với tƣờng nhà kia. Mặt tiền hƣớng ra phố bề ngang chỉ khoảng 2 mét đến 5 mét và sâu từ 20 mét đến 60 mét. Bên trong nhà có các sân trong để lấy ánh sáng thông thoáng. Số sân phục thuộc vào chiều sâu nhà thƣờng có phổ biến từ 1 đến 2 sân trong. Hình dáng kiến trúc phổ biến là nhà lợp mái. Hai đầu đỉnh mái ngói của ngôi nhà là hai khối nhô lên hình chữ nhật, xây bằng gạch gọi là trụ đấu mái. Tƣờng giữa mái nhà nọ với nhà kia xây gạch cao lên 1, 0 mét đến 1, 5 mét hình tam cấp để chống cháy lan, chống thấm cho tƣờng, nhà loại cổ nhất đa phần có 1 tầng, hoặc 1 tầng có gác xép nhỏ ở trên để làm kho chứa hàng. Tƣờng ngoài gác xép thƣờng bịt đặc hoặc có lỗ hoa để thông thoáng lấy ánh sáng. - Nhà xây từ 1890 - 1930 : Đến cuối thế kỷ 19, nhà cửa vẫn còn đủ sức tồn tại, thƣờng của những thƣơng nhân. Nhìn chung những ngôi nhà này đƣợc xây dựng vuông góc với đƣờng phố. Thời kỳ thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta và Hà Nội đƣợc chọn là trung tâm kinh tế chính trị cho toàn bộ Đông Nam Á. Phố cổ Hà Nội đƣợc mở rộng nhƣ một trung tâm buôn bán, do vậy loại nhà có cửa hàng đƣợc phổ biến rộng rãi, phần lớn là nhà 2 tầng (trong đó 1 tầng dành riêng cho cửa hàng). Trong nhóm này, một đặc điểm đặc trƣng nhất là các cầu thang bằng gỗ hay gạch cổ thay cho những thang gỗ di động trƣớc kia. Một số ngôi nhà sử dụng gạch đúc sẵn. Đôi khi bê tông đƣợc dùng cho mái chảy, không gian cổ truyền là nhƣ trƣớc nhƣng kỹ thuật xây dựng tiên tiến hơn. - Nhà xây từ 1931 - 1954 : Những phƣơng thức xây dựng nhà truyền thống vẫn tƣơng tự nhƣ trƣớc. - Nhà xây từ 1955 - 1975 : Do ảnh hƣởng của chiến tranh, nhà cửa thời gian này không đƣợc phát triển. Vật liệu vẫn là vật liệu cổ truyền nhƣ trƣớc. - Nhà xây từ sau năm 1975 : Là những nhà có hình thức kiến trúc cổ truyền đƣợc xây dựng, cải tạo theo hình thức kiến trúc hiện đại trung bình là 2 tầng với sàn bê tông và bất cứ nơi nào có thể với những góc mái đua thêm để tăng diện tích ở. Những cửa ván gỗ thay bằng cửa sắt kéo. Kỹ thuật đá rửa, gạch ốp lát và Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 7
  8. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch kính đƣợc sử dụng rộng rãi. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, những ngôi nhà truyền thống trong khu phố cổ Hà Nội đã bị biến đổi nên số lƣợng còn lại không nhiều, nhiều nhà đã thay đổi hình thức mặt tiền tuy nhiên kết cấu mặt bằng và công năng các nếp nhà vẫn cơ bản đƣợc gìn giữ. Một số nhà ở trong khu phố cổ đƣợc cải tạo thành khách sạn mi ni; thành các quán ăn đặc sản; các cửa hàng ở tầng 1 đƣợc trang trí nội thất khang trang hấp dẫn. Ngày nay, khu Phố cổ chứa đựng một di sản đô thị phồn thịnh nhƣng từ 15 năm nay nó chịu sự ảnh hƣởng của nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và kiểu xây dày đặc không theo một phong cách nào. Vóc dáng đô thị của khu phố cổ ngày xƣa đồng đều và đƣợc xây dựng thấp (kiểu nhà một tầng hoặc hai tầng) còn ngày nay là kiểu xây dựng hỗn tạp, phát triển không theo một lối thống nhất. Theo một số tài liệu nghiên cứu của nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, con số “ 36 phố phƣờng” có thể xem nhƣ là một cấu trúc của kinh thành Thăng Long vào đời Lê và không đồng nhất với khái niệm 36 phố phƣờng của Hà Nội nhƣ chúng ta thƣờng nhắc tới ngày nay. Điều này đƣợc thể hiện rõpp qua chi tiết: “ Ngay từ đầu tại các phƣờng này, yếu tố chuyên nghề đã kết hợp với yếu tố chuyên mặt hàng, ở một gian nhà mặt phố vừa để ở, vừa để làm cửa hiệu cửa hàng, nguời ta vừa sản xuất vừa buôn bán”. Nhƣ vậy, phố chỉ là nơi bán hàng, cong phƣờng để chỉ tổ chức những ngƣời cùng làm một nghề và cũng để chỉ đơn vị hành chính cấp cơ sở của kinh thành. Trong nhiều thế kỷ sau, số phƣờng có thể thêm bớt, địa giới và tên gọi có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, trong ký ức dân gian đã xuất hiện và lƣu truyền biểu tƣợng “ Thăng Long 36 phố phƣờng” rồi “ Hà Nội 36 phố phƣờng”- khu phố Cổ Thăng Long – Hà Nội. Năm 1527, triều Mạc lên ngôi thay thế nhà Lê trị vì 63 năm( 1527 – 1592), mở đầu cho những cuộc nội chiến dai dẳng chia cắt đất nƣớc, Lê – Mạc và Trịnh – Nguyễn. Đông Kinh lúc này lại đƣợc trở lại tên gọi Thăng Long, đô thành của triều Mạc rồi của chính quyền vua Lê chúa Trịnh. Mọi công việc thời này đều Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 8
  9. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch nhằm nhu cầu phục vụ nhu cầu chính trị, quân sự của nhà nƣớc phong kiến. Nhà Mạc đã cho xây dựng 3 lần lũy thành ngoài Đại La nhƣng sau đó lại bị nhà Trịnh phá hủy. Và đến thế kỷ XVII – XVIII ( thời hậu Lê ), việc buôn bán với nƣớc ngoài ở khu phố chợ Thăng Long – Kẻ Chợ đã đạt tới giai đoạn hoàng kim hƣng thịnh của sự phát triển. “ Từ đầu thế kỷ XII, ở kinh thành Thăng Long bắt đầu có ngƣời phƣơng Tây tới buôn bán, đông nhất là ngƣời Hà Lan, ngƣời Bồ Đào Nha, ngƣời Pháp. Những công ty thƣơng mại của ngƣời Hà Lan, và ngƣời Anh đã lập cửa hậu ở Thăng Long và các thƣơng điếm ở bờ sông Hồng”. Các khu buôn bán này nằm ở ngã ba sông Tô Lịch và sông Hồng – nơi có hình thành hệ thống gồm 16 cửa ô có điếm tuần gác – mà cho đến nay còn lại duy nhất cửa Ô Quan Chƣởng( nguyên là cửa “ Ô Thanh Hà” hay “ Đông Hà Môn”), đƣợc xây dựng npăm 1479 và đƣợc xây lại kiên cố và mở rộng vào năm 1817 đời Vua Gia Long).(7,279),(2,6) Trải qua hai thập kỷ cuối XVIII đầy những biến động chính trị - xã hội, khu phố phƣờng dân cƣ Thăng Long – Kẻ Chợ dần dần phục hồi đi vào thế ổn định cho tới khi nhà Nguyễn coi kinh đô chỉ là thành phủ của 11 trấn Bắc thành(1802). Đến năm 1831, Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội gồm Thăng Long và một số vùng lân cận. Và từ đây cái tên Hà Nội “ Thành phố nằm phía trong lòng sông” ra đời. Lúc này thế lực chính trị của Hà Nội đã giảm hẳn nhƣng bù lại là thế lực kinh tế ngày càng tăng trƣởng và phồn thịnh, trở thành nhân lõi của đô thị với tên gọi dân gian phổ biến “ Hà Nội 36 phố phƣờng”. Năm 1858, triều Nguyễn bán nƣớcp, dâng Hà Nội cho Pháp. Tất cả các thành phố đều đƣợc tiến hành xây dựng lại theo kiểu Châu Âu, các cổng lang trong khu vực 36 phố phƣờng đều bị dỡ bỏ. Thời kỳ này thƣơng nghiệp phát triển nhanh chóng kéo theo sự lấp vùi đoạn sông Tô Lịch chảy qua các phố Cổ (1888) và nhiều ao hồ chảy rải rác trong thành phố, nhƣờng chỗ cho sự xây dựng của một số khu vực thƣơng nghiệp, trong đó có chợ Đồng Xuân (1889). Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc lần thứ Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 9
  10. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch hai (1945 – 1954) quy hoạch Hà Nội bắt đầu có sự thay đổi. Khu phố Cổ có sự quy hoạch mạnh mẽ: đƣờng phố đƣợc nắn lại, có hệ thống thoát nƣớc, có hè phố, có đƣờng lát, trải nhựa và hệ thống chiếu sáng. Nhà cửa hai bên đƣợc xây gạch, lợp ngói, xuất hiện những ngôi nhà đƣợc làm theo phong cách kiểu Châu Âu. Khu phố Cổ Hà Nội từ 1954 – 1985, trong buổi quá độ dân cƣ ở khu phố Cổ có sự thay đổi. Nhiều gia đình từ chiến khu trở về đƣợc bố trí vào ở khu phố Cổ. Kể từ đó số hộ ở trong mỗi nhà cứ tăng dần lên một đến hai, ba hộ, rồi mỗi hộ gia đình lại phát triển thêm theo kiểu tam tứ đại đông đƣờng Từ 1954 trở đi, do chính sách cải tạo công thƣơng nghiệp tƣ bản tƣ nhân, chính sách phát triển sản xuất, chính sách kinh tế của thời bao cấp. Toàn bộ khu phố Cổ nơi buôn bán sằm uất đã trở thành nơi đơn thuần để ở(1960 – 1983) dân cƣ trở thành cán bộ, công nhân viên, phục vụ cho xí nghiệp, hợp tác xã, các cơ quan thành phố mặt tiền của nhiều nhà cửa đƣợc sửa sang lại thành mặt tiền nhà ở có cửa đi và cửa sổ - phố xá yên tĩnh hơn; sự nhộn nhịp của phố xá tùy từng nơi, từng lúc theo giờ ca kíp đi làm vào buổi sáng, trƣa, chiều, tối; sự nhộn nhịp còn ở các khu chợ, các cửa hàng bách hóa, cửa hàng chuyên doanh của nhà nƣớc, của hợp tác xã ( nhƣ chợ Đồng Xuân, chọe Hàng Da ). Dân cƣ ở khu phố Cổ cứ tăng dần lên, lấn chiếm các không gian trống của các sân trong từng nhà, các gác xép chất đầy trong không gian nhà, một số đình, chùa biến thành nơi ở, nơi làm việc. Một số cửa hàng thủ công truyền thống bị mai một, văn hóa lễ hội tâm linh bị lắng xuống. Khu phố Cổ từ 1986 đến nay: với đƣờng lối chính sách mới từ nền kinh tế bao cấp chuyển sang kinh tế thị trƣờng, mở rộng giao lƣu kinh tế và quan hệ quốc tế, mở rộng các thành phần kinh tế trong nƣớc, khích lệ mọi tầng lớp nhân dân xây dựng mở mang phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, buôn bán ở khu phố Cổ dần dần đƣợc phục hồi lại, phát triển và sầm uất hơn xƣa. Các mặt tiền nhà đƣợc cải tạo đổi mới – nhiều nhà xuống cấp, bị hỏng đã đƣợc xây dựng lại với nhiều kiểu cách. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 10
  11. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch Sau bao biến động thăng trầm của lịch sử, với sự mở rộng không ngừng của thành phố, Hà Nội 36 phố phƣờng đã đƣợc thay thế với cái tên “ phố Cổ Hà Nội” với vị thế của một trung tâm thƣơng mại – văn hóa và du lịch nhộn nhịp của Thủ đô. 1.3.2. Tiềm năng du lịch nhân văn phố Cổ Hà Nội 1.3.2.1. Kiến trúc phố Cổ Hà Nội. Khu phố Cổ Hà Nội đƣợc hình thành và phát triển theo sự phát triển của Kinh Kỳ Thăng Long xƣa và Thủ đô Hà Nội ngày nay. Khu phố Cổ Hà Nội là một quần thể kiến trúc độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam nói chung và mang tính đặc trƣng cho riêng Hà Nội. Hà Nội với khu phố Cổ “ tuyệt mỹ trong mọi thời gian” – đại diện cho một phong cách kiến trúc, văn hóa kết hợp Đông Tây giữa truyền thống và hiện đại xứng đáng là một đô thị điển hình cho khu vực Đông Nam Á – một điểm đến giàu tài nguyên du lịch quý giá. “ Những giá trị về lịch sử tinh tế của phố Cổ, chúng ta phải đi sâu nghiên cứu mới nhận biết đƣợc. Bất cứ ai bƣớc chân vào dãy phố đều có thể thốt lên thán phục một trong những tổng thể kiến trúc đẹp đẽ, độc đáo có một không hai”. Điểm độc đáo của kiến trúc cổ Hà Nội thể hiện ngay trong từng con đƣờng, hè phố, nhà ở Những dãy phố một nửa không cây – Tràng Tiền, hay Hàng Khay một dãy lệch bên duyên dáng bên Hồ Gƣơm soi bóng, những góc phố cong cong, những con đƣờng rợp bóng mát, những ngôi nhà mái ngói đã bạc màu thời gian rồi mái đình rêu phông phủ kín Tất cả tạo nên một bản sắc riêng vừa gần gũi mà bí ẩn, tinh tế mà hòa đồng của phố Cổ Hà Nội. Nét đặc Trƣng của nhà ở trong khu vực 36 phố phƣờng chính là kiến trúc “ nhà hình ống” chung tƣờng. Nhà ở đây có một mặt tiền hẹp và chiều sâu rất dài. Những khu nhà này còn có một tên gọi “ nhà ở hàng phố truyền thống” nhƣ ở một số nƣớc Châu Á “ nhà hình ống” thƣờng có mặt tiền trung bình có 1 – 2 tầng, thƣờng thì ở phòng phía trƣớc có gác lửng lên xuống bằng thang và đƣợc dùng làm kho hay làm phòng ngủ. Nhà có nhiều lớp và cách nhau bằng những Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 11
  12. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch sân trong ( thƣờng từ 1-3 sân ). Cách bố trí cấu trúc không gian chật hẹp của Hà Nội xƣa để ở, không gian sản xuất, buôn bán thờ phụng, nghỉ ngơi thật hết sức tinh tế và sáng tạo. Nhà càng dài thì càng nhiều săn vƣờn phân cách các khối nhà. Sân vƣờn chính đƣa thiên nhiên luồn lách vào sâu từng công trình – là một điểm đặc biệt quan tâm trong lối kiến trúc nhà cổ. Ngoài tác dụng ngôi nhà đƣợc thông thoáng, tiếp cận với gió và ánh sáng tự nhiên, sân vƣờn còn là nơi thƣ giãn tĩnh tại giúp con ngƣời hồi phục sức khỏe, bắt đầu một ngày làm việc mới. Khoảng trời nơi sân vƣờn là nơi bố trí các cây cau, giàn trầu, bể nƣớc, hòn non bộ làm dịu đi cái nắng oi ả của mùa hè, làm cho khí hậu trong nhà đƣợc cải thiện rõ rệt, loại nhà ở này lợp mái dốc, mặt mái song song với phố, đôi khi mặt ngoài đƣợc kéo dài thành hiên che trên vỉa hè. Hai mái dốc đặt sát nhau tạo thành lớp, có khi ở phần sâu trong chỉ có một mái dốc nhƣng cũng có khi các mái dốc đặt cách xa nhau 3 – 4 m để tạo thành sân trong. Ở hai đầu đỉnh mái của những phần nhà phía ngoài, giáp với những đƣờng phố nhất có hai khối nhô lên hình chữ nhật xây bằng gạch gọi là trụ mái. Bờ tƣờng hồi giật cấp( 1,5 – 2cm ) giữa các mái nhà theo bờ xiên mái có các chức năng chống hỏa hoạn, chống thấm tƣờng nhà đồng thời đem lại vẻ thẩm mỹ cho sống của mái. Một kiểu nhà phổ biến nữa của khu buôn bán Thăng Long – Hà Nội là kiểu nhà “ chồng diêm” mà hiện nay chỉ còn lại ở một số phố nhƣ Mã Mây, Hàng Buồm, Hàng Bạc và Hàng Bè. Những ngôi nhà này thƣờng có từ 1 -2 tầng, hay một tầng trệt và gác xép có cửa câm – cửa giả hoặc có cửa ti hí cỡ 40*40 cm/ 40*60 cm – cửa tròn nhỏ mở ra phía phố. Còn các ván cửa sổ và cửa đi ở tầng một dùng loại cửa “ thƣợng song hạ bản” ( trên song dƣới ván) hoặc cửa lùa bằng gỗ ván rất chắc chắn. Đôi khi cũng có những trƣờng hợp dùng cửa chống lên hạ xuống đƣợc bằng tre đan. Nhìn chung, ngoài mái ngói rất dốc nhô ra khá xa xuống mặt phố còn có mái tranh vẩy thêm ra hè. Mái dựa vào hai bức tƣờng bên, vƣợt cao lên khỏi mái, mỗi bên ít nhất đến 2m và kết thúc bằng những bậc thang. Bức tƣờng này có thể là bảo vệ cho Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 12
  13. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch mái nhà trong những trận bão rất hay xảy ra ở Bắc Kỳ vào những lúc gió chuyển mùa. Thông thƣờng với kiểu kiến trúc chồng diêm, nhà mặt phố thƣờng dùng cửa lùa còn các nhà phía trong dùng của bức bàn.[ 10]. Sở dĩ “ nhà ống” có hình dáng nhƣ ngày nay là do loại nhà này đƣợc phát triển theo kiến trúc nhà ở nông thôn và các quầy hàng chợ. Về sau này, do nhu cầu cần có thêm diện tích để sản xuất, làm kho hàng và chỗ ở nên ngôi nhà mới giãn dần ra. Chính vì lý do này mà “ nhà ống” còn đƣợc gọi là “ nhà hang phố”. Còn về kích thƣớc của mặt tiền: do đây là khu vực làm ăn buôn bán nên dân kinh doanh trong khu phố Cổ thƣờng cố giảm thiểu tiền thuế cửa hàng bằng cách thu hẹp diện tích kinh doanh. Cũng do những quy định trong thời kỳ về xây dựng, kiến trúc nhà ở thời phong kiến thƣờng có độ cao thấp khác nhau – chỉ cần “ cửa không cao hơn vai kiệu “ của vua quan. Thực dân Pháp xâm chiếm Hà Nội kéo theo sựu xuất hiện của một kiểu nhà đƣợc xây mới bằng gạch kiên cố, cao 2 – 3 tầng, đƣợc biến đổi trên nền cũ của những ngôi “ nhà hàng phố” hình ống quen thuộc của phố Cổ. Với diềm mái, song cửa đƣợc trạm trổ, của sổ rộng có hình chóp. Loại nhà này khá phổ biến mà ngày nay vẫn còn khá nhiều ở các phố Hàng Bông, Hàng Buồm, Hàng Cót. Nhƣ vậy, bên cạnh những đặc điểm của “ nhà hàng phố”, những ngôi nhà cổ sau này đã có sự xen kẽ của các chi tiết, yếu tố trang trí mang kiến trúc phƣơng Tây.[ 12 ] , [ 17 ]. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, khéo léo giữa lối kiến trúc mới và một phong cách cổ - mang đậm tính truyền thống Á Đông – đã tạo nên tổng thể độc đáo, một bức tranh sống động về một khu phố Cổ “ rêu phong cổ kính”, có sức hấp dẫn đặc biệt trong tâm khảm của mỗi ngƣời Hà Nội cũng nhƣ sự quyến luyến không quên của du khách phƣơng xa. Tiêu biểu cho lối kiến trúc nhà cổ: ngôi nhà 87 Mã Mây – là nơi tham quan giới thiệu kiến trúc truyền thống phố Cổ Hà Nội. Ngôi nhà 87 Mã Mây nằm trên địa bàn phƣờng Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ngôi nhà đƣợc xây dựng vào đầu thế kỷ XIX theo kiểu kiến trúc truyền Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 13
  14. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch thống Việt Nam với chức năng sử dụng để ở và bán hàng. Gia chủ nhà trƣớc năm 1945 ở đây và bán gạo, sau năm 1945 đã bán lại cho một gia đình ngƣời Hoa ở và bán thuốc Bắc. Năm 1954, gia đình ngƣời Hoa di cƣ vào Nam để lại ngôi nhà dƣới sự quản lý của Nhà nƣớc. Năm 1954, sở nhà đất bố trí cho 5 gia đình đến sống tại đây, trong quá trình sử dụng các gia đình đã tự ý xây dựng, lấn chiếm phần chung cƣ nhƣ các sân trời xây bể nƣớc, bếp, vệ sinh Sàn nhà thì đổ bê tông cốt thép lên dầm gỗ, biến dạng và hƣ hỏng nhiều, không an toàn trong sử dụng. Năm 1999 ngôi nhà đã đƣợc cải tạo lấy lại kiến trúc ban đầu với sự hợp tác giữa thành phố Hà Nội và thành phố Toulouse trong dự án “ Bảo tồn, tôn tạo phố Cổ Hà Nội”. Hiện nay, thuộc sự quản lý của UBND thành phố Hà Nội. Ngôi nhà có diện tích là 157,6 m2, đƣợc xây dựng vuông góc với đƣờng phố, có chiều dài là 28m, chiều rộng mặt tiền 5m, và chiều rộng mặt hậu là 6m. Vì vậy hình thức của miếng đất là nở hậu, mảnh đất nở hậu nhƣ vậy sẽ mang lại phúc lộc. Mặt bằng cơ cấu không gian kiến trúc kiểu nhà truyền thống phố Cổ Hà Nội, đó là : Nhà 1 – sân 1 – Nhà 2 – sân 2 – Bếp – Nhà 3 ( vệ sinh kho ). Nhƣ vậy không gian kiến trúc của ngôi nhà đƣợc phân chia bởi từng lớp nhà và sân: - Lớp nhà ngoài ( lớp nhà 1): tầng 1 để bán hàng, tầng 2 gian tiếp khách và thờ. - Lớp nhà trong ( lớp nhà 2): tầng 1 gồm nơi cất giữ hàng hóa và dành cho ngƣời giúp việc, tầng 2 là phòng ngủ của chủ nhà với hiên trƣớc có mái là nơi ngồi uống trà hay chơi cờ tƣớng của gia chủ và hiên sau là sân phơi thuốc bắc. Hai lớp nhà này cách nhau bằng sân rộng để lấy ánh sáng và thông thoáng cho toàn bộ ngôi nhà. Sân thứ nhất gia chủ trang trí bằng các chậu cây cảnh để mang thêm nét thiên nhiên vào không gian nhà. Sân thứ 2, một phần có mái che là nơi nấu nƣớng, phần còn lại của sân là bể chứa nƣớc mƣa và sân để giặt giũ. - Lớp nhà trong cùng là khu phụ gồm vệ sinh và kho. Với cách bài trí Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 14
  15. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch không gian nhƣ vật ngôi nhà hình ống này có điều kiện tiện nghi rất tốt về thông gió và lấy ánh sáng. Đây là một tiện nghi lớn trong bố cục không gian nhà ở truyền thống Việt Nam nói chung và của phố Cổ Hà Nội nói riêng trong việc thích nghi và phù hợp với khí hậu địa phƣơng. Kết cấu chịu lực chính là gỗ, gồm hệ thống cội gỗ và dầm gỗ, vì kèo gỗ. Tuờng bao là tƣờng gạch với kỹ thuật xây dựng truyền thống. Hệ thống kết cầu mái là hệ thống vì kèo gỗ theo kiểu nhà dana gian truyền thống. Mái dốc 2 phía đƣợc lợp bằng ngói ta, 2 lớp ngói: lớp ngói lót plà ngói chiếu và lớp ngói trên là ngói mũi hài. Các chi tiết kiến trúc của ngôi nhà rất đặc trƣng của kiến trúc nhà truyền thống phố Cổ Hà Nội đƣợc chú ý đầu tiên là mặt đứng chính với hình thức đối xứng, cửa đi chính ở giữa và 2 bên là cửa sổ rộng làm nơi bán hàng. Cửa rộng giáp mặt phố là cửa lùa bằng gỗ ván hoặc theo chiều đứng tháo ra đƣợc, còn các cửa đi là cửa bức bàn có ngõ cửa có then cài. Cửa đi tầng 2, lớp nhà 2 đƣợc thiết kế theo kiểu của thƣợng song hạ bản,có trang trí hình khắc gỗ tứ quý. Phía trên cửa đi và cửa bán hàng là phần ô cửa thông thoáng trang trí bằng các con tiện gỗ chạy suốt mặt tiền. Vì vậy khi phần cửa dƣới đƣợc đóng toàn bộ thì phần cửa trên chính là để lấy ánh sáng và thông gió cho tòa nhà. Trên tầng 2 có 2 cửa sổ nhỏ đối xứng. Lan can cầu thang cũng đƣợc trang trí bằng con tiện gỗ hình thức giống nhƣ con tiện ở ô thoáng mặt tiền. Các lan can ngoài trời đƣợc xây bằng trụ gạch và trang trí bằng gạch men hình hoa chanh trạm thủy. Mái hiên trƣớc phòng ngủ tầng 2 có kết cấu vì mái là vì vỏ cua theo kiến trúc của Trung Quốc. Ở 2 đầu đỉnh mái ngói có hai khối nhô lên hình chữ nhật xây bằng gạch là trụ đấu mái. Tƣờng hồi giáp với 2 nhà liền kề xây cao 1m giật tam cấp để trang trí giảm chiều cao cũng nhƣ là để chống cháy lan và chống thấm. Từ bờ nóc mái đến trụ đấu mái, tƣờng giật cấp đều trang trí gờ chỉ. * Phần nội thất của ngôi nhà đƣợc bài trí bởi đồ gỗ đặc biệt là phòng khách và phòng ngủ với ý nghĩa phòng khách là nơi trang trí trang trọng nên gia Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 15
  16. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch chủ đã đặt bàn thờ tổ tiên với hoành phi câu đối và bộ truờng kỷ tiếp khách, trên tƣờng treo bộ tứ quý khắc gỗ. Phòng ngủ cũng đƣợc trang trí một cách cẩn thận, gọn gàng để tiết kiện diện tích với bộ sập gụ tủ chè và một bộ bàn ghế để gia chủ uống nƣớc, ăn và tiếp khách thân thiết. Phía trƣớc vàp phía sau phòng ngủ có hiên và sân trời là nơi gia chủ ngồi uống trà hay chơi cờ tƣớng. Về trang trí nghệ thuật kiến trúc: Trang trí nghệ thuật kiến trúc nhà 87 Mã Mây tập trung chính trên vì vỏ cua hiên khối nhà 2 tầng. Đề tài trang trí là các văn thực vật đƣợc chạm nổi khối mềm mại, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX. Ngoài ra nghệ thuật trang trí còn đƣợc thể hiện trên diềm mái và hệ thống cửa bức bàn. 1.3.2.2. Các công trình kiến trúc tôn giáo tín ngƣỡng: Không chỉ cống hiến cho du khách những giá trị về kiến trúc xây dựng đô thị cổ, “ Hà Nội 36 phố phƣờng” còn là nơi lƣu giữ khá nhiều công trình kiến trúc tôn giáo có giá trị, tiêu biểu cho những năm tháng và thời kỳ phát triển của Hà Nội. Trƣớc hết phải kể đến là văn hóa tín ngƣỡng – đạo Phật. Đạo Phật đƣợc truyền bá vào nƣớc ta từ rất lâu đời , phát triển song song với đạo Khổng, đạo Lão cùng với tục thờ cúng tổ tiên. Sự tồn tại của đạo Phật đã làm hình thành nên các loại hình kiến trúc nhƣu đình, chùa, đền sử dụng làm nơi thờ cúng tổ tiên, nhắc nhở con cháu về cội nguồn, về gốc rễ nối nghiệp trong dòng họ. a. Đình ở khu phố Cổ. Một trong những loại di sản kiến trúc có giá trị hpải kể đến đó là đình. Vào thế kỷ XV, công trình kiến trúc mang đậm nét tín ngƣỡng tôn giáo – Đình của làng xã Việt Nam đã xuất hiện. Những ngôi đình trong khu vực 36 phố phƣờng giúp mọi ngƣời, trong đó có cả du khách phần nào thấy rõ về quá trình phát triển đô thị từ sự chuyển hóa dần dần do các xóm làng mà thành. Đình đƣợc sử dụng vào nhiều mục đích. Đây là nơi thờ Thành Hoàng Làng – che chở cho cuộc sống muôn dân trong thôn; hoặc ngƣời ta có công sáng Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 16
  17. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch lập ra phƣờng, làng đó; hay một ngƣời trong truyền thuyế hoặc vị anh hùng có thực. Cƣ dân phố cổ chủ yếu là dân từ những làng nghề thủ công tới làm ăn sinh sống. Họ đóng góp xây những ngôi đình chủ yếu để thờ “ các ông tổ làng nghề” và dùng làm nơi sinh hoạt tụ họp của những ngƣời cùng nghề với nhau. Tại đây thƣờng diễn ra lễ tế rƣớc các vị thần với các phần hội gồm các trò chơi và bài hát dân gian thể hiện sức mạnh, tài nằn trí tuệ. Ngôi đình đƣợc dành riêng cho những ngƣời cùng một làng nghề buôn bán do đó việc chọn hƣớng đình sẽ dựa vào thuật phong thủy, xây trên một khu đất rộng rãi, quay về phía Nam để mọi ngƣời nhìn thấy. Tuy chỉ là một thực thể bé nhỏ trong lòng phố Cổ nhƣng sự tinh tế trong kiến trúc của những ngôi đình lại mang một giá trị rất lớn – giúp du khách phần nào hình dung đời sống sinh hoạt, lễ hội của dân làng cũng nhƣ những bàn tay khéo léo của những ngƣời thợ. Về kiến trúc, mái đình thƣờng chiếm 2/3 chiều cao của đình với các góc mái cao vút hƣớng lên trời. Phần giữa các đỉnh mái là các hình điêu khắc các loài chim, thú thần thoại nhƣ “ lƣỡng long chầu nguyệt” Kết cấu đình bao gồm một hệ thống vì kèo, cột trạm trổ tinh vi, xà dầm liên kết với nhau bằng mộng. Do kết cấu mộng khớp nên đình có thể tháo dỡ, di chuyển địa điểm khi cần hoặc thay thế các bộ phận khi tu sửa và xây dựng lại. Trong đình, các chủ đề trang trí thƣờng là rồng, phƣợng, hoa lá cách điệu. Ngoài ra, còn thấy cảnh sinh hoạt hàng ngày nhƣ cảnh làm việc, hội hè và các hoạt động khác của dân làng Hiện nay, khu phố Cổ còn tập trung tất cả 21 ngôi đình. Một trong những ngôi đình cổ và tiêu biểu nhất là đình Thanh Hà số 1 ngõ Gạch, đình Tân Khai – 44 Hàng Vải, đình Trƣơng Thị thờ thần Hiên viên Hoàng Đế cũng là ông tổ bách nghệ, đƣợc xây dựng từ năm Gia Long thứ 13(1815) do 3 họ Đỗ - Hoàng – Phạm xây đặt tại 42 Hàng Bạc, đình Hƣơng Tự nay thuộc 64 Mã Mây với hai mái nhà theo kiểu chữ nhị. Có thể nói, do tính chất hình thành đặc trƣng của công trình kiến trúc, những ngôi đình chiếm số lƣợng lớn nhất trong di tích lịch Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 17
  18. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch sử phố Cổ, hơn cả đền và chùa. b. Đền ở khu phố Cổ. Trong tiếng Việt chữ đền xuất phát từ chữ điện, có nghĩa là nơi thờ cúng tôn nghiêm – một công trình thờ cúng của đạo Lão. Lão giáo xâm nhập vào Việt Nam từ lần đầu đô hộ Bắc thuộc thứ nhất, kết hợp với một số tín ngƣỡng của cộng đồng dân tộc tạo điều kiện cho kiến trúc “ đền” bắt đầu phát triển. Nếu nhƣ đình là nơi thờ cúng những vị thành hoàng thì đền là nơi thờ cúng những vị anh hùng xuất hiện trong truyền thuyết, lịch sử, hay các vị thần sông núi, nƣớc Hình dáng kiến trúc và cách sắp xếp của các ngôi đền trong khu vực phố Cổ cũng tƣơng tự nhƣ đình, nhƣng diện tích đền thì nhỏ hơn. Đền thƣờng đƣợc chia làm 2 phần chính: nàh đại bái và hậu cung với cửa tam quan và sân phía trƣớc. Sự khác biệt chủ yếu của đình ở nơi thờ là các chi tiết điêu khắc trang trí. Trong đền có các hƣơng án và bài vị thờ thần và các vị anh hùng với tƣợng cá nhân đƣợc đặt ở chính tâm. Nhƣng hƣơng án và đồ thờ đƣợc sơn son thiếp vàng hay trạm khắc tinh vi theo nghệ thuật truyền thống. Một trong những ngôi đền tiêu biểu tƣợng trƣng cho khí thiên sông núi ở kinh thành Thăng Long, một trong Thăng Long tứ trấn, trấn giữ phía Tây là đền Bạch Mã ở 76 Hàng Buồm. Ngôi đền này là ngôi đền cổ nhất của khu 36 phố phƣờng đã có từ thế kỷ XI, thờ thần Bạch Mã tức thần Long Đỗ, hiện nay đã đƣợc tu bổ và sơn son phục hồi lại. Ngoài ra còn kể đến ngôi đền đƣợc xây dựng vào thế kỷ XIX, với nghệ thuật kiến trúc độc đáo có một không hai – đền Vọng Tiên ở 120 Hàng Bông. c. Chùa ở khu phố Cổ. Công trình kiến trúc tín ngƣỡng tôn giáo đƣợc xây dựng rất ít hay nói đúng hơn là ít nhất trong khu vực phố Cổ đó là chùa. Chàu là nơi để thờ Phật, vì vậy phải đƣợc đặt ở nơi yên tĩnh, có cảnh quan đẹp và nhiều cây cối. Bố cục mặt bằng, kết cấu chùa ở đây cũng nhƣ đình và đền. Kiến trúc của chùa đồng thời vừa “ đóng” lại vừa “ mở” – đóng ở nơi thờ cúng nhƣng cũng có mối quan hệ bên trong và bên ngoài qua hàng hiên mà tạo nên khu đệmp. Nói Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 18
  19. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch chung, bố cục của chùa bao gồm một nếp nhà chính 5 hay 7 gian, sana và tam quan, đôi khi trên tam quan còn có gác chuông,ở sân thƣờng có bia khắc tên những ngƣời đã đóng góp vào việc xây dựng hay tu bổ chàu và một số thông tin có liên quan tới chùa. Phía trong chùa có 3 không gian chính: từ đƣờng, hậu đƣờng, chính điện. Phía sau chùa có bàn thờ các vị sƣ đã mất và những gian nhà ở của các vị sƣ đang tu hành tại chùa. Đanừg sau chùa là khu mộ tháp cung vƣờn tƣợc đƣợc chăm sóc thờ phụng bởi những vị sƣ sống tại đây. Hai ngôi chùa điển hình, đại diện cho phong cách kiến trúc tín ngƣỡng thời Nguyễn – thế kỷ X là chùa Cầu Đông(38b Hàng Đƣờng) và chùa Thái Cam thế kỷ XIX (1882). Cả 2 ngôi chùa này đều thờ Phật Thích Ca và Chƣ Phật, là những ngôi chùa có giá trị kiến trúc lớn đối với tuyến du lịch nhân văn khu phố Cổ. 1.3.2.3. Các di tích lịch sử văn hóa. Cùng với các đƣờng nét kiến trúc tinh tế nơi đô thành sầm uất, Hà Nội còn là một địa danh sáng chói trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập thống nhất đất nƣớc. Tên tuổi của những gƣơng sáng chói gan dạ, quả cảm chống giặc giữ thành, gìn giữ độc lập cho nƣớc nhà vẫn còn truyền mãi trong “ Hà Thành chính khí cao” bất hủ cho tới tận ngày nay. Ngƣời dân xứ Tràng An hào hoa là thế, thanh tao là thế bỗng trở nên quả cảm, anh hùng khi có giặc ngoại xâm tới chiếm đóng. Họ yêu nƣớc yêu Thủ đô và quyết tâm giữ vững từng mái nhà, từng phố phƣờng Hà Nội. Những phu sĩ Hà Nội đã phát lên phong trào yêu nƣớc đầu tiên – Đông Kinh Nghĩa Thục( trụ sở chính: 10 Hàng Đào), những vụ ném bom đánh phá khách sạn Gà Vàng chống thực dân Pháp ( 20 Cửa Nam) Và cho đến ngày nay, một số di tích thời kỳ Cách Mạng vẫn còn tồn tại nhƣ những minh chứng hữu hiệu nhất về quá trình đấu tranh gian khổ của quân và dân Hà Nội nhƣ “ nhà tù Hỏa Lò” số 90 phố Thợ Nhuộm – nơi đồng chí Trần Phú đã tạm trú để viết bản luận cƣơng đầu tiên của Đảng Cộng Sản Đông Dƣơng. Số nhà 48 Hàng Ngang – nơi Bác Hồ Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 19
  20. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch viết bản Tuyên ngôn độc lập Tiêu biểu là cột cờ Hà Nội dựng năm 1812, và đặc biệt là sự hồi sinh cuả khu thành cổ với điểm di tích Bắc Môn lịch sử nơi có vết đạn của Thực dân Pháp bắn phá ngày 25/04/1882 – đã chính thức mở cửa đón khách tham quan năm 2000 nhân dịp chào mừng thành phố 990 năm là dấu ấn ngàn năm lịch sử của Hoàng Thành Hà Nội. Những di tích giúp cho ngƣời xem có thể tái hiện lại một quá khứ oanh liệt hào hùng của con ngƣời Việt Nam, của những chiến sĩ nhân dana Hà Nội, những trang sửu đầy hào khí cách mạng. Do đó, trong du lịch văn hóa, tiếp cận di tích cách mạng là phƣơng thức không thể thiếu đối với du khách, đặc biệt khi đó lại là Hà Nội – cái nôi của truyền thống Cách mạng anh hùng. Bên cạnh đó, phải kể đến một điểm di tích văn hóa lịch sử đặc trƣng, có giá trị và ý nghĩa quan trọng nhất trong quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, cái nôi đào tạo nhana tài cho đất nƣớc, đó là khu Thái học, đƣợc chính thức đƣa vào sử dụng ngày 08/10/2000. Thái học viện sẽ là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa, khoa học nhƣ tổ chức các hội thảo khoa học, trao học hàm, học vị, những danh hiệu cao quý cho các nhà khoa học, nhà văn hóa để tiếp nối truyền thống hiếu học, trọng nhân tài của dân tộc, đồng thời trình bày có tính chất bảo tàng các hiện vật nhằm tái hiện lịch sử hình thành của Văn Miếu và các khoa cử của Việt Nam. Di tích còn là nơi thờ các vị danh nhân của dân tộc nhằm giới thiệu với bạn bè thế giới về truyền thống tôn sƣ trọng đạo vốn có của dân tộc ta. 1.3.2.4.Văn hóa làng nghề, phố nghề: Một trong những điểm nhấn độc đáo thu hút khách du lịch đến với phố Cổ chính là ở sự tụ hội, chuyên doanh ngành nghề của các dãy phố, tên nhà đều gắn liền với một ngành nghề kinh doanh, những phƣờng thợ làm ăn tấp nập, nhƣ gợi nhắc về bóng dáng của kinh thành xƣa. Đầu tiên phải điểm qua phố làng nghề truyền thống mà đến nay vẫn còn đƣợc duy trì đó là phố Hàng Bạc. Đây là “một trong những phố tƣơng đối cổ Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 20
  21. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch nhất của khu thƣơng mại thành Thăng Long cũ”. Phố này chuyên nghề đúc bạc thoi và đổi tiền kẽm, bạc vụn – do ngƣời ở Châu Khê ( Hải Dƣơng ) ra dựng nghiệp. Ngoài ra còn có sự xuất hiện của những ngƣời thợ làm vàng Định Công đã đƣợc nhắn đến trong Bách khoa toàn thƣ Hà Nội: “ Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng Thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xá”. Về nguồn gốc, thực ra những ngƣời đúc đông NGũ Xá( nay thuộc phạm vi bán đảo hồ Trúc Bạch) xƣa chính là dân gốc Hè Nôm( Văn Lâm, Hải Hƣng). Họ đến ngụ ở thôn Yên Phú chuyên bán các đồ đồng nhƣ đỉnh, chuông, mâm, nồi, cây nến, đèn và lập thành phố Hàng Đồng bây giờ. Rồi đến phố Hàng Đào, dân cƣ ở đây chủ yếu có quê gốc ở xã Đan Loan, tỉnh Hải Dƣơng. Họ ra đây mở hiệu chuyên nhuộm các thứ liễu, lụa màu đào. Chính vì vậy mà tên phố này đƣợc hình thành từ thế kỷ XV. Tiếp đến là phố Hnàg Ngang hay còn gọi là Hàng Lam. Sở dĩ có tên gọi nhƣ vậy là vì trƣớc đây, phố này chuyên nghề nhuộm lam. Nhƣng đến trƣớc thời Pháp thuộc, do tính chất buôn bán phức tạp của đoạn giao nhau giữa phố Hàng Buồm và Lãn Ông với con phố này, ngƣời ta đã cho dựng một cổng chắn ngang đƣờng nên dân chúng mới gọi là Hàng Ngang, và đƣợc chính thức hóa tên gọi sau Cách Mạng. Rồi phố Hàng Vải hội tụ: “ Ai về Đông Tính Huê Cầu Đông Tính bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm”. Và cả phố Lò Rèn gốc Canh Diễn, phố Hàng Sơn( ngày nay là Chả Cá) với chả cá Lã Vọng gốc Hải Dƣơng, phố Hàng Mành gốc “ rừng mành Tam Đảo”( Hà Bắc), hay nghề làm đồ gỗ sơn của huyện Thƣờng Tín – Hà Đông ở phố Hàng Hòm, nghề làm trống – tranh ở phố Hàng Trống Bên cạnh đó phải nhắc đến sự góp mặt của phố Hàng Quạt. Ở đây có bán đủ các loại quạt của rừ khắp nơi đem tới: quạt Lử, quạt Hới nan bằng trúc, quạt Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 21
  22. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch Vác( Thanh Oai) hay quạt nan – quạt thóc làng Vo ( Gia Lâm), quạt Làng Vẽ ( Từ Liêm) nhƣng nhiều nhất vẫn là quạt giấy làng Đào Xá( Ân Thi, Hƣng Yên). Sẽ không thể quên đƣợc nghề đồ giấy Hàng Mã – một trong những phố nghề còn duy trì và phát triển cho đến ngày nay. Đến với Hàng Mã, du khách đƣợc chiêm ngƣỡng cả một thế giới đồ cúng đồ thờ bằng giấy nhƣ quần áo, tiền hàng, vật dụng và những đèn lồng, hoa giấy, đồ trang trí hay cƣới hỏi. Có lẽ trong 36 phố phƣờng Hà Nội, Hàng Gai là phố có nền nếp văn nhã nhất kinh kỳ trƣớc kia. Phố này hồi xƣa một thời chuyên bán gai để bện võng, dây thừng, gia dụng võng quan và một số khắc bản gỗ in các thứ đóng sách truyện và đóng sách vở. Ngày nay Hàng Gai đƣợc du khách trong nƣớc, đặc biệt là khách nƣớc ngoài biết đến nhƣ một trung tâm cửa hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, các sản phẩm tơ lụa và đồ lƣu niệm có giá trị(18,53). Có thể nói rằng phố nghề là một trong những đặc trƣng rất riêng không chỉ của phố Cổ. Phố nghề Hà Nội giúp du khách có thể hình dung đƣợc phần nào diện mạo to lớn và sầm uất của kinh thành Thăng Long xƣa, mang một ý nghĩa không chỉ về mặt kinh tế - văn hóa, mà còn có một ý nghĩa lịch sử to lớn, tạo tiền đề cho lịch sử Việt Nam nói chung, du lịch Hà Nội nói riêng phát triển. Do đó chúng ta cần phải nhận thức đƣợc tầm quan trọng của khu phố, trân trọng giữ gìn những cái đã có và phát huy cho xứng đáng với bề dày lịch sử vốn có của những ngành nghề truyền thống. 1.3.2.5. Chợ ở Phố Cổ: Có đƣờng phố ắt hẳn có chợ búa hay ngày xƣa gọi là “thị”. Chợ búa xƣa kia của chốn Kinh kỳ, hẳn ai cũng biết đến: “ Vui nhất là chợ Đồng Xuân Bắc Qua cũng gần nhƣng kém vui xa Chợ Đuổi họp lúc chiều tà Chợ Hôm họp sáng, chợ Hàng Da họp ngày”. Hà Nội tuy không có nhiều chợ nhƣ Sài Gòn nhƣng cũng có đử chợ cho ngƣời dân tới mua bán. Chợ Hôm, chợ 19/5, chợ Xanh, chợ Hàng Bè nhƣng chợ Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 22
  23. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch Đồng Xuân là “ cái bụng của thành phố”- theo nhà văn Thạch Lam vẫn là chợ lớn nhất, sầm uất nhất của Hà Thành xƣa cũng nhƣ hiện nay. Khách tham quan có thể đến đây chiêm ngƣỡng và mua bán đủ loại đồ ăn, thức uống, đặc sản từ trên trời xuống biển, không thiếu thứ gì. Kế đó là chợ Bắc Qua - ở sau lƣng chợ Đồng Xuân và chợ Hàng Da chuyên họp ngày trên con phố cùng tên. Đến với chợ Hàng Bè du khách có dịp thƣởng thức những đồ ăn chín vừa ngon, vừa đẹp mắt. Nhƣng có lẽ điều thú vị hấp dẫn du khách nhất vẫn là không khí vui xuân, đón tết truyền thống của ngƣời dân Hà Nội – đƣợc họp ở chợ Hoa Hà Nội pkhu vực phố Cầu Đông, Hàng Đậu và đoạn cuối phố Hàng Lƣợc ngày nay. Tóm lại Hà Nội với trung tâm là phố Cổ - với những tiềm năng vốn có mang trong mình đã và đang và sẽ mãi mãi là mảnh đất “ ngàn năm văn vật”, xứng đáng là cái nôi của nền văn hóa của thủ đô, một trung tâm du lịch lớn của cả nƣớc. Phố cổ đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển du lịch, đặc biệt là những phố cổ nằm ở trung tâm các thành phố lớn. Phố cổ không chỉ là bằng chứng lịch sử mà nó còn thể hiện sâu sắc các hình thái xã hội, lối sống, văn hóa của một cộng đồng dân cƣ theo thời gian bới phố cổ không ngừng tồn tại và phát triển cùng với cuộc sống của ngƣời dân nơi đây. Các phố cổ không chỉ hấp dẫn du khách bởi vẻ đẹp của kiến trúc, của các phong tục tập quán xƣa mà nó còn hấp dẫn du khách bởi sự sinh động của phố cổ hay sự đan xen giữa các giá trị văn hóa, truyền thống của quá khứ và hiện tại, phản ánh những màu sắc khác nhau trong sinh họat, văn hóa của từng vùng mìên, khu vực khác nhau trên đất nƣớc Việt Nam nói riêng và của mỗi đất nƣớc trên Thế giới nói chung. Chẳng hạn nhƣ, ở phố cổ Hà Nội và phố cổ Hội An để nổi tiếng với kiến trúc nhà hình ống. Nhƣng nhà cổ Hội An là loại nhà hình ống xuyên suốt từ phố nọ sang phố kia. Trong đó có một dãy phố nằm sát ngay bờ sông Hội An. Nhà ở đây toàn bằng gỗ quý, trong nhà treo hoành phi, câu đối, cột nhà trạm trổ hoa văn rất cầu kỳ. Còn nhà cổ Hà Nội chủ yếu là nhà ống, mái Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 23
  24. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch ngói nghiêng, mặt tiền là cửa hàng buôn bán thò thụt không đều. Ở nhiều khu phố cổ trên thế giới, đặc biệt là các nƣớc phƣơng Tây, mọi ngƣời sống ở ngoại ô, trung tâm thành phố chỉ dành cho buôn bán. Còn ở các khu phố cổ ở Việt Nam đặc biệt là phố cổ Hà Nội, ngƣời dân vừa sinh sống vừa buôn bán, nên việc đi thăm quan trong khu phố cổ đem lại cho du khách cảm giá nhƣ hòa vào cuộc sống đời thƣờng. Đặc biệt, trong sự phát triển ngày càng nhanh của xã hội, nhu cầu đi du lịch của con ngƣời ngày càng tăng. Họ đi du lịch với nhiều mục đích khác nhau nhƣ thăm quan, nghỉ dƣỡng, tìm hiểu, khám phá điểm tới thì một điểm đến tập trung nhiều tài nguyên du lịch sẽ trở thành lựa chọn số 1 cho nhiều du khách. Chính vì vậy, phố cổ sẽ là điểm đến yêu thích của du khách, đặc biệt là các du khách nƣớc ngòai bởi sự khác biệt về nền văn hóa, lối sống của ngƣời dân phố cổ và của du khách. Với những phố cổ nằm ở khu vực quan trọng của đất nƣớc - nơi thƣờng xuyên diễn ra các hội nghị, các sự kiện quan trọng hoặc những phố cổ từng đƣợc UNESCO cộng nhận là di sản thì khả năng đƣợc du khách biết đến và thu hút du khách sẽ cao hơn nữa vì nó đƣợc quảng bá thông qua những tin tức về các sự kiện, hội nghị nhƣ phố cổ Hội An ở Việt Nam đã từng đón tiếp hoàng thái tử Nhật Bản Naruhito và thái tử đã rất thích thú khi thăm phố cổ Hội An. Một yếu tố nữa khẳng định vai trò quan trọng của phố cổ trong phát triển du lịch đó là khi cuộc sống vật chất đã no đủ, con ngƣời sẽ có nhu cầu thỏa mãn các giá trị tinh thần – tức là nhu cầu đi du lịch càng tăng cao. Và du khách không chỉ chọn những điểm đến quanh nơi họ ở mà với sự phát triển của phuơng tiện giao thông, họ muốn đi đến những nơi xa, nhữg nơi khác biệt hẳn về phong tục tập quán sinh sống của họ. Khi đó, phố cổ sẽ là nơi đáp ứng đƣợc nhu cầu của du khách vì phố cổ vừa thỏa mãn nhu cầu thăm quan của du khách, vừa đáp ứng nhu cầu muốn sống trong một không gian văn hóa khác nơi sinh sống của du khách. Du lịch tại phố cổ sẽ làm du khách có những trải nghiệm thú vị trong chuyến đi, đặc biệt tại những phố cổ nằm ở trung tâm thành phố phát triển, du khách không phải lo lắng về chất lƣợng cơ sở vật chất nhƣ nhà ở, đƣờng xá và Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 24
  25. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch các yếu tố khác nhƣ chất lƣợng dịch vụ, ngôn ngữ Nói đến phố cổ là nói đến một hệ thống những giá trị nhƣ giá trị lịch sử, giá trị văn hóa hay giá trị kiến trúc, không gian Chính bởi yếu tố đặc biệt trong việc hình thành, phát triển và tồn tại của các phố cổ ở Việt Nam nói riêng nhƣ phố cổ Hà Nội, phố cổ Hội An (Quảng Nam), phố cổ Đồng Văn (Hà Giang) hay các phố cổ trên thế giới nói chung nhƣ cố cung (Bắc Kinh),cố đô Kyodo (Nhật Bản) đã tạo nên sự hấp dẫn của các phố cổ đối với du khách. Bới du khách khi đến thăm quan phố cổ, họ không chỉ đƣợc chiêm ngƣỡng, khám phá, thƣởng thức những giá trị mang tính chuyên biệt nhƣ giá trị lịch sử khi đến thăm quan các công trình kiến trúc lịch sử, giá trị cảnh quan khi đến thăm quan các cảnh quan thiên nhiên mà họ đƣợc thƣởng thức một sự tổng hòa của nhiều giá trị khác nhau ngay tại phố cổ. Ở mỗi phố cổ, tuy cùng là những giá trị lích sử, văn hóa nhƣng những giá trị ấy ở mỗi nơi lại mang nét đặc trƣng riêng tại khu vực phố cổ. Chẳng hạn nhƣ cùng là về kiến trúc nhà ở, nhƣng ở phố cổ Hà Nội hay phố cổ Hội An, du khách sẽ thấy đặc trƣng nhà cổ ở đây là nhà hình ống có thiết kế đằng trƣớc quay mặt ra mặt phố, trong nhà có nhiều lớp và cách nhau bằng những sân trong, các sân trong thông thoáng để lấy ánh sáng tự nhiên. Nhƣng khi đến thăm quan phố cổ Đồng Văn (Hà Giang), thì kiến trúc ở đây phổ biến là nhà hai tầng trình tƣờng, lợp ngói âm dƣơng. Hay nhƣ khi thăm quan phố cổ Hà Nội, du khách đƣợc hòa mình vào sinh họat của ngƣời dân Hà thành nơi đây nhƣng lên đến Hà Giang, thăm quan quần thể phố cổ Đồng Văn, du khách lại đƣợc sống trong không khí sinh hoạt của những ngƣời dân tộc Tày, Mông, Hoa .Chính điều này đã phần nào tạo nên những đặc điểm riêng cho tài nguyên du lịch ở mỗi phố cổ. Hơn thế nữa, với đặc trƣng của các phố cổ là một bảo tàng sống ngòai trời, có sự tồn tại của những sinh họat, sản xuất, buôn bán của ngƣời dân tại đây xen lẫn với các công trình kiến trúc cổ xƣa, khi khách du lịch đến thăm quan phố cổ, họ sẽ đƣợc trải nghiệm nhiều cảm xúc khác nhau tùy theo từng không gian phố cổ, từng khoảng thời gian khác nhau. Vào ban ngày, phố cổ sống động với các Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 25
  26. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch hoạt động buôn bán, sản xuất của ngƣời dân. Còn khi đêm xuống, phố cổ chìm trong không gian yên tĩnh, thanh bình và lúc này là lúc mà phố cổ thể hiện rõ nhất vẻ đẹp cổ kính của mình. Đặc biệt hơn, khi mùa lễ hội đến, phố cổ trở nên đẹp hơn, nhộn nhịp hơn bởi các hoạt động vui chơi, giả trí đƣợc diễn ra ngay tại không gian phố cổ. Nhƣ vậy, với những giá trị to lớn của mình trên nhiều mặt nhƣ văn hóa, kiến trúc các phố cổ thực sự là một nguồn tài nguyên du lịch quý giá Và nhờ sự phong phú, đa dạng của tài nguyên du lịch phố cổ, các công ty du lịch có thể khai thác tài nguyên phố cổ ở nhiều khía cạnh khác nhau, xây dựng nên nhiều sản phẩm du lịch phong phú và da dạng từ nguồn tài nguyên này, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách thăm quan. 1.4. Vấn đề bảo tồn và phát triển hiện đại tại phố cổ Từ trƣớc đến nay, vấn đề bảo tồn phố cổ nói chung và các công trình kiến trúc, di tích nói riêng ở phố cổ luôn đƣợc chính quyền, Nhà nƣớc quan tâm. Trên thế giới, nhiều nƣớc đã có những thành công trong việc bảo tồn phố cổ nhƣ: - - . Kyoto đƣợc bảo tồn bằ . - ). Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 26
  27. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch Việc bảo tồn các di sản, đặc biệt là phố cổ không chỉ là để lƣu giữ lại những bằng chứng về sự hình thành, phát triển của một dân tộc, là sự tri ân với tổ tiên mà nó còn là niềm tự hào của nhân dân, dân tộc, đất nƣớc đó trƣớc bạn bè quốc tế và du khách thăm quan. Bởi vì, khi nói đến phố cổ là nói đến nguồn tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng trên nhiều mặt nhƣ các công trình kiến trúc, nhà ở hay các lế hội, văn hóa nơi đây. Nhƣng một vấn đề thƣờng xuyên xảy ra tại các phố cổ là sự xuống cấp, bị biến mất hoặc bị thay đổi của các tài nguyên ở phố cổ do nhiều lí do khác nhau nhƣ lí do khách quan là thiên tai, chiến tranh hay lí do chủ quan là nhu cầu sinh hoạt của những ngƣời dân nơi đây. Chẳng hạn nhƣ ở phố cổ Đồng Văn (Hà Giang), hầu hết các ngôi nhà cổ ở Đồng Văn đều đang ở trong tình trạng cũ nát và xuống cấp nghiêm trọng. Tiếp xúc với các hộ dân đang sống ở phố cổ Đồng Văn, đồng bào nói chung đang rất muốn có sự hỗ trợ về kinh phí để tôn tạo các ngôi nhà của họ. Hay nhƣ Phố Hiến (Hƣng Yên), ngày nay cũng không còn giữ đƣợc dáng vẻ từng một thời là thƣơng cảng nổi tiếng, là chốn phồn hoa đô hội - một tiểu Tràng An của Đàng Ngoài nức danh với câu: "Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến" (thế kỷ 16-17 thời vua Lê, chúa Trịnh). Nếu các phố cổ không đƣợc bảo tồn thì lẽ tất nhiên, với sự phát triển nhanh chóng hiện nay của xã hội cùng các tác nhân môi trƣờng thì không bao lâu, các phố cổ sẽ bị biến mất và thay vào đó là các đô thị, thành phố hiện đại. Nói về vấn đề bảo tồn các di tích ở phố cổ, GS.TSKH. Lƣu Trần Tiêu cho rằng: Khi tiến hành công tác bảo tồn di sản văn hóa ở các khu đô thị cổ, không nƣớc nảo không gặp những khó khăn trở ngại: khó khăn về quy mô, số lƣợng và độ phức tạp của di sản, khó khăn về nguồn tƣ liệu làm sơ sở khoa học cho việc trùng tu, tôn tạo, về trình độ tay nghề của những ngƣời làm công tác bảo tồn di sản, đặc biệt không dễ dàng tạo đƣợc sự đồng thuận giữa các nhà quản lý, nhà chuyên môn trên các lĩnh vực khác nhau và dân chúng gắn với quyền lợi khi đi vào giải quyết những vấn đề cụ thể. Rõ ràng bảo tồn phố cổ là một việc làm khó, nhất là trong nhu cầu phát Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 27
  28. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch triển hiện đại bởi để thực hiện đƣợc việc làm này cần phải giải quyết một cách hài hòa giữa bảo tồn di sản với phát triển kinh tế. Theo GS Fukukawa (Nhật Bản): việc bảo tồn phố cổ ở các đô thị lớn ở Nhật Bản thƣờng thất bại. Họ chỉ thành công ở những khu phố cổ ở các thành phố xa trung tâm. Giải thích về sự thất bại này, GS Fukukawa cho biết, một nguyên nhân khách quan là nhiều phố cổ Nhật Bản bị tàn phá trong chiến tranh. Một nguyên nhân khác là tốc độ đô thị hóa quá nhanh khiến cho các khu phố cổ khó mà tồn tại đƣợc bên cạnh những tòa cao ốc chọc trời. Khó nhƣng không có nghĩa là không làm đƣợc, đặc biệt trong thời buổi hiện nay, với sự giúp đỡ của khoa học tiên tiến và các chuyên gia nƣớc ngòai. Bởi thực tế, đã có nhiếu phố cổ đƣợc bảo tồn nhƣ Bảo tồn phố cổ trong nhu cầu hiện đại không chỉ chú trọng bảo tồn các di tích, công trình kiến trúc mà còn phải quan tâm đến việc bảo tồn và khôi phục bản sắc văn hóa ở đó. Nói tới những giá trị văn hóa ở phố cổ, theo TS. Vi Văn An: Quá trình toàn cầu hoá đã và đang làm thay đổi sâu sắc cuộc sống của ngƣời dân trong khi đó, cuộc sống của ngƣời dân ở phố cổ cũng chính là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên những giá trị văn hóa cho phố cổ. Chính vì vậy, sự ảnh hƣởng của quá trình tòan cầu hóa cũng đã tác động lên khu phố cổ Hà Nội. Nhƣng điều này không có nghĩa là nó làm mất đi hòan tòan giá trị văn hóa của khu phố. Các giá trị văn hoá truyền thống có cái bị mai một, nhƣng cũng có những cái vẫn tồn tại, nhƣng đã đƣợc hoà quyện vào với cuộc sống đƣơng đại, mang nội dung khác và biểu hiện bằng các hình thức mới. Bên cạnh đó, các giá trị văn hoá mới cũng luôn phát sinh và đƣợc xác lập, tạo nên các truyền thống mới. Một ví dụ nhỏ nhƣ: Trong khu phố cổ Hà Nội trƣớc đây, yếu tố cộng đồng đƣợc xác lập dựa trên các quan hệ gia tộc, quê gốc, tuyến phố, nghề nghiệp Sự thay đổi thành phần dân cƣ khiến cho cơ sở duy trì tính cộng đồng cũ bị mất, nhƣng không có nghĩa là không có văn hoá cộng đồng. Thực tế nghiên cứu cho thấy, văn hoá cộng đồng của khu phố cổ vẫn thể hiện rất rõ qua sự chia sẻ không gian sống và mƣu sinh, sự liên kết giữa những ngƣời bạn hàng, sự cảm thông trong cuộc sống gia đình Cơ sở chính của mối quan hệ cộng đồng ngày nay Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 28
  29. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch chính là các số nhà, các tổ dân phố, ngõ phố, các tổ chức đoàn thể quần chúng 1.5. Những điều kiện và yêu cầu chủ yếu trong tổ chức phát triển du lịch tại phố Cô. 1.5.1. Các điều kiện đối với tài nguyên 1.5.1.1 Tài nguyên phải phong phú và có giá trị xác thực Tài nguyên du lịch sẽ góp phần quan trọng trong việc thu hút khách du lịch đến thăm quan phố cổ. Rõ ràng, bản chất của phố cổ là chứa đựng nhiều tài nguyên du lịch nên về mặt lý thuyết phố cổ có khả năng làm phát huy tính tò mò và nhu cầu muốn đến thăm quan của du khách bởi du khách bị thôi thúc muốn tìm hiểu, khám phá sự phong phú của tài nguyên du lịch nơi đây, đặc biệt đối với những du khách chƣa đến thăm quan khu vực, đất nƣớc có phố cổ hoặc chỉ đƣợc tìm hiểu thông tin qua bạn bè, ngƣời thân, các tờ quảng cáo của các công ty du lịch Nhƣng trên thực tế, rất nhiều phố cổ không còn giữ đƣợc các giá trị tài nguyên du lịch vốn có của mình nhƣ phố Hiến (Hƣng Yên), hoặc nếu còn có thì mức độ nguyên trạng của các công trình kiến trúc, nhà ở cũng không còn nhiều, nhiều di tích đƣợc tu sửa, bao tồn nhƣng do thiếu kinh nghiệm và kinh phí nên đã làm mất đi cái hồn của các di tích, kiến trúc ở phố cổ nói riêng và cái hồn của toàn bộ khu phố nói chung. Chính vì các lý do trên đã ảnh hƣởng nhiều tới số lƣợng các tài nguyên phố cổ. Số lƣợng tài nguyên phố cố bị suy giảm không chỉ làm mất đi cái hồn của phố cổ mà thậm chí, nó còn ảnh hƣởng đến việc khai thác phố cổ phục vụ du lịch. Cụ thể hơn là nó ảnh hƣởng tới việc tạo ra các sản phẩm du lịch cho du khách, ảnh hƣởng tới việc khai thác phố cổ với nhiều hình thức khác nhau cũng nhƣ việc hấp dẫn du khách bởi chả du khách nào muốn đến thăm quan một phố cổ mà chả “ cổ” tí nào. Bởi vậy, phố cổ nào càng có nguồn tài nguyên du lịch phong phú thì khả năng phát triển du lịch ở những phố cổ này càng đƣợc tăng cao Mặt khác, tài nguyên du lịch phố cổ phải có giá trị xác thực. Nghĩa là các tài nguyên phải là bằng chứng xác thực cho cả một giai đoạn tồn tại và phát triển Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 29
  30. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch của phố cổ. Trong thực tế, vì nhiều lí do khác nhau mà nhiều di tích trong phố cổ bị biến mất hoặc xuống cấp, biến dạng và chỉ còn đƣợc nhắc đến trong các văn bản lịch sử hoặc bị chồng lấn bởi các công trình kiến trúc hiện đại khác. Mặc dù vậy những phế tích trên vẫn bảo lƣu đƣợc những giá trị xác thực nguyên bản của các công trình trên. Dựa trên các phế tích đó, các nhà bảo tồn đã nghiên cứu công phu nhằm khôi phục đƣợc những giá trị nguyên gốc của di tích. Ngƣợc lại, có những phố cổ vì lý do khác nhau mà đã biến mất, thay vào đó ngƣời ta đã xây những công trình đƣơng đại, thì mặc dù trong lịch sử, các vị trí trên đã từng đƣợc ghi nhận là những phố cổ, vẫn không thể khai thác với danh nghĩa là phố cổ để phục vụ du lịch. 1.5.1.2. Tài nguyên phải có sức hấp dẫn Sức hấp dẫn của tài nguyên đƣợc quy định bởi chính giá trị của tài nguyên. Sức hấp dẫn của phố cổ nằm trong các giá trị lịch sử, văn hóa, lối sống, kiến trúc của nó. Nếu một phố cổ không mang lại cho du khách những cảm nhận trên, nó sẽ khó hấp dẫn. Sức hấp dẫn ở đây còn thể hiện ở khả năng làm cho du khách cảm thấy thích thú và hứa hẹn sẽ trở lại. Có nhiều nguyên nhân để làm cho điểm đến trở nên hấp dẫn du khách nhƣ cách thức quảng cáo, tuyên truyền về tài nguyên, các dịch vụ tại điểm du lịch Nhƣng quan trọng hơn hết là sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch sẽ tạo nên những nét khách biệt giữa các điểm đến thăm quan và cũng chính tài nguyên du lịch sẽ là một trong những nguyên nhân quan trọng tạo cho du khách những ấn tƣợng đặc sắc về chuyến thăm quan. Nhờ đó, khả năng quay trở lại điếm đến đó sẽ tăng cao hơn. Trong khi đó, mức độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch tại phố cổ lại đƣợc đánh giá rất cao. Khu phố cổ Hà Nội đƣợc khách nƣớc ngoài ƣa thích bởi kiến trúc, cung cách việc sản xuất và buôn bán hàng hóa, lối sinh hoạt, ẩm thực của ngƣời dân sở tại. 1.5.2. Điều kiện về môi trƣờng Không gian môi trƣờng du lịch là một yếu tố cần thiết để phát triển du lịch ở bất kì điểm du lịch nào muốn thu hút đƣợc khách. Ví dụ nhƣ quốc đảo Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 30
  31. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch Singapore, một trong những yếu tố hấp dẫn du khách đến thăm quan hiện nay là vì Singapore đƣợc coi là Quốc đảo xanh, là quốc gia sạch đẹp nhất thế giới với môi trƣờng trong lành và thảm thực vật phong phú. Môi trƣờng du lịch sạch đẹp sẽ tạo ra một bầu không khí trong lành, mát mẻ, làm cho du khách cảm thấy thỏai mái khi đến thăm quan và họ cũng sẽ. Có thể nói, môi trƣờng sạch đẹp là một trong những điều kiện sống còn của ngành du lịch. Hiện nay, vấn đề môi trƣờng du lịch là mối quan tâm của hầu nhƣ tất cả các điểm du lịch ỏ Việt Nam. Trƣớc đây, chúng ta chỉ quan tâm đên việc khai thác tài nguyên du lịch tại điểm đến để phục vụ du lịch và chỉ quan tâm đến những lợi nhuận mà kinh doanh du lịch tại đó mang lại. Chính do thiếu sự quan tâm và đầu tƣ nên môi trƣờng du lịch ngày càng trở nên ô nhiễm bởi sự xuất hiện nhiều hơn các quán ăn, nhà hàng, khách sạn tại phố cổ, bởi sự thiếu ý thức của các công ty, các nhân, tổ chức họat động và kinh doanh trong lĩnh vực du lịch cũng nhƣ của khách thăm quan. Đối với các phố cổ, tình trạng môi trƣờng du lịch không sạch càng trở nên đáng ngại hơn. Phố cổ là một khu du lịch mở, ngoài trời, các hoạt động diễn ra trên phố cổ không chỉ có mỗi hoạt động du lịch mà còn có các họat động sinh họat hàng ngày của ngƣời dân nơi đây, hoạt động giao thông nên môi trƣờng phố cổ dễ trở nên ô nhiễm hơn. Môi trƣờng ô nhiễm đã ảnh hƣởng không ít đến việc phát triển du lịch phố cổ, thậm chí còn ảnh hƣởng đến cả các tài nguyên du lịch nơi đây. Do đó, để xây dựng một môi trƣờng du lịch sạch đẹp nhất thiết phải đòi hỏi đến sự quan tâm của các chính quyền cũng nhƣ ý thức bảo vệ môi trƣờng của ngƣời dân địa phƣơng. Môi trƣờng xanh, sạch, đẹp sẽ tạo nhiều thuận lợi cho cộng đồng dân cƣ tại đây cũng nhƣ chính bản thân phố cổ, nhất là trong điều kiện phát triển du lịch, khi yêu cầu của du khách ngày càng cao. Bởi môi trƣờng sạch đẹp không chi có khả năng tạo một môi trƣờng du lịch thỏai mái cho du khách mà nó còn góp phàn quan trọng trong việc bảo tồn các công trình của phố cổ. Với xu hƣớng hiện nay, các phố cổ thƣờng đƣợc quan tâm để bảo tồn và khai thác phục vụ du lịch thì nhu cầu phải có môi trƣờng sạch đẹp trong tổ chức phát Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 31
  32. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch triển du lịch càng trở nên cần thiết hơn. 1.5.3. Phải có quy hoạch phù hợp, đảm bảo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động du lịch Du lịch phố cổ muốn phát triển tốt thì nhất thiết phải cần đến vai trò của quy hoạch vì phố cổ là một khu vực dân sinh phức tạp, với nhiều các hoạt động khác nhau. Trong đó vấn đề lƣu thông rất khó khăn. Vấn đề đặt ra là làm sao đảm bảo hoạt động du lịch diễn ra thông suốt, đảm bảo không cản trở các hoạt động khác, nhƣng lại đáp ứng sự thỏa mãn của du khách. Vấn đề tiếp cận ra sao, nội dung và lộ trình tham quan thế nào, tham quan cái gì Tất cả phải đƣợc tính toán, quy hoạch cụ thể. Nếu nhƣ không có quy hoạch hợp lí thì các hoạt động này sẽ chồng chéo, ảnh hƣởng tiêu cực đến nhau, đặc biệt là ở những phố cổ có diện tích nhỏ, mật độ dân cƣ đông nhƣ các phố cổ ở Việt Nam. Đặc biệt trong điều kiện phát triển hiện nay, xu hƣớng hiện đại hóa đang ảnh hƣởng tới mọi mặt đời sống. Tốc độ đô thị hóa gia tăng chóng mặt. Nhu cầu của con ngƣời (trong đó có dân cƣ phố cổ) ngày càng hƣớng đến những tiện nghi mới trong sinh hoạt. Bài toán của sự bảo tồn và phát triển đặt ra rất bức xúc. Làm sao để đảm bảo đƣợc sự hài hòa giữa các lợi ích của thành phố và của cộng đồng dân cƣ, giữa bảo tồn truyền thống và phát triển hiện đại. Đó chính là nhiệm vụ của quy hoạch. Không thể để những tòa nhà cao ốc bao vây Hồ Gƣơm và biến nó thành ao làng giữa rừng tháp bê tông đƣợc. Hoặc phố cổ ngộp thở bởi những tòa nhà đồ sộ. Điều này sẽ ảnh hƣởng lớn đến giá trị cũng nhƣ không gian phố cổ. 1.6. Những nguyên tắc trong tổ chức phát triển du lịch tại các phố cổ 1.6.1 Phát triển du lịch tại các phố cổ phải phù hợp với quy hoạch chung trên địa bàn Quy hoạch chung của một đô thị là văn bản luật cao nhất về tổ chức không gian phát triển của thành phố mà mọi tổ chức, cá nhân buộc phải tuân thủ. Vì vậy việc tổ chức phát triển du lịch tai các phố cổ (tức là một khu vực lãnh thổ của thành phố), nhất thiết không đƣợc vi phạm quy hoạch chung. Các công ty du Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 32
  33. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch lịch phải tạo ra các sản phẩm du lịch không chỉ phù hợp với các tài nguyên vốn có ở đây mà họ còn phải chú trọng đến nhiều vấn đề khác nhƣ giao thông, sinh hoạt hiện tại của ngƣời dân nơi đây những vấn đề mà quy hoạch thành phố đã hoạch định. Tất nhiên trong quá trình xây dựng một quy hoạch chung, bao giờ thành phố cũng tính đến các nguồn lực (trong đó có tài nguyên du lịch) và có sự tham gia của các ban ngành để đảm bảo sự phát triển hài hòa của thành phố. Song trong thực tế không ít trƣờng hợp khi quy hoạch cụ thể phát triển các ngành, các lĩnh vực khác nhau đã nảy sinh mâu thuẫn, xung đột lợi ích vì đã không tuân thủ quy hoạch chung. Do đó, khi xác định định hƣớng, hay tổ chức quy hoạch phát triển du lịch tại phố cổ, nguyên tắc đầu tiên là phải tuân thủ quy hoạch phát triển chung. 1.6.1. Phát triển du lịch phải nhằm mục tiêu bảo tồn các giá trị tài nguyên, môi trƣờng Trong bài viết: “Cần một cơ chế mới cho phố cổ” đăng trên web site tuoitre.vn, KTS Lê Thành Vinh – Viện trƣởng viện Bảo tồn di tích nói: Có xác định chính xác đƣợc giá trị của di sản, thì mới tựa vào đó để xác định đƣợc cách ứng xử với nó. Ông cho rằng: Bàn đến đô thị cổ và khu phố cổ, có nghĩa là bàn đến hai giá trị (về mặt vật thể): 1. Hình thái, cấu trúc tuyến phố. 2. Các công trình kiến trúc trên khu phố đó [ 5 ] Nhìn chung, hầu hết các phố cổ đều chứa đựng các giá trị vật thể và phi vật thể bởi nó hình thành và tồn tại từ xa xƣa và đặc trƣng cho đời sống, sinh hoạt, con ngƣời tại đó. Tài nguyên du lịch phố cổ là nền tảng của các hình thành các hình thức, hoạt động du lịch tại phố cổ, là điều kiện quan trọng để du lịch phát triển. Kéo theo đó là tình trạng nhiều công ty du lịch, nhà hàng, khách sạn tập trung tại phố cổ hoặc cách phố cổ không xa, đúng theo xu hƣớng chung của các điểm du lịch có sức thu hút du khách: du lịch phát triển gắn liền với các dịch vụ phụ nhƣ cơ sở lƣu trú, ăn uống, vui choi đi kèm theo. Và số lƣợng các dịch vụ này tăng lên tỷ lệ thuận với mức độ phát triển du lịch tại nơi đó. Hơn nữa, khi đi Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 33
  34. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch du lịch, đặc biệt là du khách đến từ những quốc gia phát triển, họ thƣờng có xu hƣớng chọn những khách sạn, nhà nghỉ tại hoặc quanh khu phố cổ để vừa tiện cho việc đi lại, thăm quan phố cổ, vừa dễ dàng tìm hiểu cuộc sống nơi đây, và hơn hết, họ muốn trải nghiệm cảm giác sống trong một không gian phố cổ là nhƣ thế nào. Đáp ứng nhu cầu này, việc phát triển các dịch vụ phụ tại phố cổ càng lớn. Lí do cho điều này cũng vì những ngôi nhà tại phố cổ là sở hữu riêng của ngƣời dân. Nhƣ vậy, các giá trị tài nguyên phố cổ vốn đã bị giảm do những điều kiện khách quan nay càng bị mất đi nhiều hơn. Nếu tính trạng này tiếp diễn thì các giá trị tài nguyên phố cổ sẽ bị mai một và du lịch cũng không phát triển đƣợc. Nên nhu cầu cấp thiết đề phát triển du lịch tại phố cổ là vấn đề bảo tồn các tài nguyên nơi đây. 1.6.2. Phát triển du lịch phải đảm bảo lợi ích của cộng đồng Hoạt động du lịch trên phố cổ đƣợc hình thành nên không chỉ nhờ có các tài nguyên du lịch nơi đây mà một phần không nhỏ còn có sự đóng góp của ngƣời dân. Chính những ngƣời dân nơi đây và những hoạt động sinh hoạt, buôn bán của họ đã phần nào tạo nên nét hấp dẫn, sống động cho phố cổ. Có thể nói, những ngƣời dân phố cổ từ lâu đã trở thành một phần hồn của phố cổ. Họ giúp cho phố cổ đƣợc “sống” theo thời gian, và đồng thời, chính những ngƣời dân nơi đây cũng phần nào góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa lịch sử của phố cổ. Nhờ có họ mà du khách có đƣợc cái nhìn chân thực, rõ nét hơn về sinh hoạt hằng ngày trên phố cổ, hiểu hơn về phố cổ thông qua các câu chuyện của những ngƣời dân sống nơi đây. Bên cạnh đó, những ngƣời dân nơi đây cũng chính là những ngƣời tiếp xúc trực tiếp và nhiều nhất với khách du lịch, đặc biệt là khách ba – lô thông qua các hoạt động du lịch diễn ra trên phố cổ nhƣ khách du lịch mua bán hàng lƣu niệm, đến thăm nhà dân và tìm hiểu về cuộc sống của ngƣời dân. Do đó, cộng đồng dân cƣ tại phố cổ có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến cảm nhận của du khách khi du khách thăm quan phố cổ, và qua đó ngƣời dân phố cổ đã góp phần Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 34
  35. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch tạo nên hình ảnh tốt hay không tốt của du khách về phố cổ. Nhƣ vậy, rõ ràng vai trò của cộng đồng dân cƣ tại phố cổ rất quan trọng trong việc phát triển du lịch, đặc biệt trong xu hƣớng hiện nay, du khách rất quan tâm tới chất lƣợng phục vụ và dịch vụ điểm đến. Họ thích lựa chọn các điểm đến an tòan và văn minh thì việc làm cho ngƣời dân đồng lòng chung sức phát triển du lịch tại phố cổ là rất cần thiết. Đề thực hiện đƣợc điều này, trƣớc hết, ngƣời dân phải nhận thấy những lợi ích của họ khi họ tham gia phát triển du lịch tại phố cổ cùng với các ban, ngành tổ chức có liên quan. Đảm bảo lợi ích của cộng đồng trong phát triển du lịch là một bƣớc quan trọng để đạt tới thành còng trong phát triển du lịch tại điểm đó. Minh chứng cho quan điểm này đƣợc thể hiện trong thành công của Hội An trong phát triển du lịch. Trong hội thảo “Vai trò cộng đồng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích – nhìn từ Hội An và Mỹ Sơn” đã diễn ra tại Hà Nội trong khuôn khổ Tuần văn hóa du lịch Quảng Nam hƣớng tới 1000 năm Thăng Long vào sáng 22/11/2009, ông Trƣơng Văn Bay, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hội An chia sẻ, nhƣ việc thành phố tổ chức lấy ý dân trƣớc khi ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ, sử dụng khu phố cổ Hội An, Quy chế kinh doanh du lịch; thành phố huy động sự tham gia của các tổ chức ban ngành, đoàn thể cùng tham gia quản lý bảo tồn di sản, để ngƣời dân cùng tham gia giám sát các hoạt động trong khu phố cổ, nhất là hoạt động tu bổ, kinh doanh du lịch. Các chủ di tích cũng nhiều lần tham gia các cuộc mạn đàm, trao đổi với cơ quan quản lý, cơ quan chuyên môn để cùng tìm ra phƣơng thức bảo tồn, phát huy di tích hiệu quả nhất. Các hoạt động nhƣ xây dựng bảo tàng gia đình, tham gia tái hiện “Đêm phố cổ”, các lễ hội truyền thống của địa phƣơng đƣợc trên 85% các chủ di tích trong khu phố cổ sẵn sàng tham gia. Ngay cả việc tu bổ di tích cũng đƣợc thực hiện theo phƣơng thức xã hội hóa, nhà nƣớc sẽ hỗ trợ từ 40 đến 75% kinh phí tu bổ di tích, phần còn lại sẽ do các chủ di tích đóng góp [6]. Đặc biệt, khi hƣớng tới phát triển du lịch phố cổ theo hƣớng phát triển du lịch bền vững thì việc tham gia của ngƣời dân bản địa hết sức quan trọng. Có sự Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 35
  36. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch tham gia của ngƣời dân bản địa sẽ tạo nên nét đặc trƣng, sự khác biệt và sống động cho những sản phẩm, chƣơng trình du lịch. Để làm đƣợc điều này, cần sự phối hợp các ban, ngành trong công tác tuyên truyền tại địa phƣơng làm du lịch, tăng cƣờng gặp gỡ và trao đổi giữa các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành với ngƣời dân tại khu vực để ngƣời dân thấy đƣợc quyền lợi và trách nhiệm của mình, để việc kinh doanh du lịch nhận đƣợc sự giúp đỡ và hợp tác của ngƣời dân bản địa. Với vai trò đó, du lịch trên phố cổ muốn phát triển thì phải chú ý đến lợi ích của những ngƣời dân, phải đảm bảo lợi ích của cộng đồng. Vì khi ngƣời dân nhận thấy những lợi ích họ có đƣợc do du lịch mang lại, họ không những không làm ảnh hƣởng đến sự phát triển của du lịch mà ngƣợc lại, họ có thể hợp tác với các công ty du lịch, tổ chức du lịch để làm cho các hạot động và hình thức du lịch trên phố cổ Hà Nội phong phú và hấp dẫn hơn. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 36
  37. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch Kết luận chƣơng 1 Với những giá trị to lớn của các phố cổ ở Việt Nam nói riêng và các phố cổ ở trên Thế giới nói riêng, khả năng phát triển du lịch tại phố cổ là rất lớn. Và nhu cầu cần bảo tồn phố cổ cũng nhƣ khai thác phố cổ trong phát triển du lịch trở thành một việc làm cần thiết và đòi hỏi nhiều thời gian, công sức. Và để thực hiện đƣợc việc làm này, cần phải có một cơ sở lý luận làm nền tảng vững chắc và hƣớng đi đúng. Nhƣ vậy, việc xác định những giá trị của tài nguyên phố cổ cũng nhƣ các yêu cầu, nguyên tắc trong tổ chức để phát triển du lịch tại các phố cổ tại chƣơng 1 sẽ là cơ sở cho việc xác định và đánh giá những giá trị tài nguyên của phố cổ Hà Nội nói chung trong phát triển du lịch. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 37
  38. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI PHỐ CỔ HÀ NỘI 2.1. Thực trạng công tác quy hoạch, bảo tồn các giá trị văn hóa lịch sử tại Hà Nội. 2.1.1. Thực trạng cảnh quan kiến trúc khu phố Cổ Hà Nội: Hiện nay, khu phố Cổ Hà Nội đang bị đe dọa hết sức nguy cấp. Các khu nhà xuống cấp nghiêm trọng, những ngôi nhà cổ với kiến trúc độc đáo đang bị phá hoại một cách vô thức bởi bàn tay con ngƣời. Họ đang dần đánh mất đi cái bản sắc của những di sản kiến trúc quý giá mà họ đã đƣợc thừa hƣởng. Những ngôi nhà mới với kính sáng loáng, gạch lát nền mới, cao vút đã mọc lên, xâm lấn vào sự bình yên của những cảnh quan độc đáo cổ xƣa. Sự đan xen không cân xứng giữa tỉ lệ nhà và kiến trúc nhà đang làm biến dạng đi cái vẻ đẹp vốn có của khu phố Cổ. Những kiến trúc mới này đã phần nào khiến cho không gian của khu phố Cổ bị phá vỡ, đồng thời xuất hiện những nguy cơ làm cho những kiến trúc cổ, những dáng nét cổ kính truyền thống ở đây ngày càng mờ nhạt đi và có thể dẫn đến xóa sổ. Gói gọn trong một hình tam giác thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, khu phố Cổ Hà Nội có diện tích khoảng 100 ha với các đƣơng bao quanh là Trần Nhật Duật, Đƣờng Thành, Hàng Bông, Hàng Gai và Cầu Gỗ. Hiện nay dân cƣ khu phố Cổ sống tập trung trong 10 phƣờng với khoảng 21911 hộ dân, tƣơng đƣơng với 84.608 nhân khẩu. Thành phần chính của cộng đồng nơi đây là ngƣời buôn bán, thợ thủ công và công nhân viên chức nhà nƣớc. Đại đa số nhà trong khu vực phố Cổ có niên đại khoảng 200-300 năm, hệ thống đƣờng phố rất nhỏ hẹp. Theo số liệu của Ban quản lý phố Cổ Hà Nội thì thực trạng các công trình nhà ở và hạ tầng kỹ thuật trong khu phố Cổ nhƣ sau: 63% công trình nhà ở xuống cấp, 12% nhà nguy hiểm, 5% nhà ở nguy hiểm nghiêm trọng có nguy cơ sụp đổ, 60% số gia đình ở rất chật hẹp. Mật độ phân bố nhà cổ khu vực này không đồng đều. Trong số 169 ngôi nhà cổ thì tập trung nhiều nhất ở phố Hàng Buồm (14), Hàng Đào (13), Hàng Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 38
  39. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch Bạc( 11 ). Có những phố chỉ còn lại 1 hoặc 2 ngôi nhà cổ nhƣ Hàng Tre, Hàng Hòm, Hàng Lƣợc nhƣung lại có tới 20 phố có dƣới 5 đơn vị nhà. Và nhƣ vậy chỉ còn 5 phố giữ lại đƣợc từ 10 đơn vị trở lên. Mật độ dân cƣ trong khu vực phố Cổ cao: khoảng trên 5 vạn ngƣời/km2. Sự quá tải về dân số, sự xuống cấp của môi trƣờng sống cùng những tác động của nền kinh tế thị trƣờng đã đẩy mạnh tốc độ xây dựng làm phá hủy nghiêm trọng cảnh quan kiến trúc phố Cổ. Các hộ đua nhau cơi nới mặt tiền ra sát lề đƣờng, các hàng quán bán rải rác làm mất hết vẻ đẹp mĩ quan của khu phố. Việc ban bố cấp giấy phép xây dựng khách sạn, văn phòng, nhà hàng đã xóa sổ vĩnh viễn những ngôi nhà có giá trị lịch sử, kiến trúc nhà hiện đại không mấy hòa nhịp với phong cách trƣớc đây. Một thực tế đáng ngại nữa hiện nay ở khu phố Cổ là sự quá tải về giao thông. Chỉ với diện tích 100ha nhƣng khu vực này đƣợc chia thành 76 tuyến phố với 17 tuyến phố lõi I( trong phạm vi bảo vệ tôn tạo cấp I) và 59 tuyến phố lõi II. Tốc độ phát triển kinh tế cùng với sự chuyển biến vƣợt bậc của khoa học kỹ thuật đã dẫn đến sự bùng nổ về phƣơng tiện cơ giới. Vào những giờ cao điểm, tình trạng tắc nghẽn diễn ra hàng ngày. Mâu thuẫn giữa ngƣời đi bộ, phƣơng tiện thô sơ và cơ giới thƣờng xuyên xảy ra tại các điểm giao nhau giữa các tuyến phố Hàng Bông, Hàng Bạc, Hàng Buồm Một số phố còn xuất hiện những bãi gửi xe công cộng( Cầu Gỗ, góc hồ Hoàn Kiếm) khiến vẻ hấp dẫn của tổng thể khu phố Cổ bị giảm. Cảnh quan thơ mộng và êm đềm xung quanh hồ Gƣơm đang đứng trƣớc nguy cơ bị “ phá hủy vô hình”. Chẳng bao lâu nữa nếu chúng ta không có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn thì sự lôi cuốn hấp dẫn đối với du khách và niềm tự hào yêu mến của ngƣời dân Hà Nội về một thủ đô “ rêu phong cổ kính” sẽ bị lùi dần vào quá khứ. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 39
  40. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch 2.1.2. Thực trạng quy hoạch và bảo tồn phố Cổ Hà Nội. 2.1.2.1. Khái quát chung: Trong thời gian qua,khu phố Cổ Hà Nội luôn nhận đƣợc sự quan tâm của các cấp chính quyền,sự hỗ trợ của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc,sự ủng hộ của ngƣời dân trong khu phố Cổ Hà Nôi.Giai đoạn 2009-2010 kinh tế quận Hoàn Kiếm có tốc độ tăng trƣởng nhanh và ổn định.Đây là điều kiện và cơ hội thuận lợi để Quận đầu tƣ bảo tồn,tôn tạo và phát huy giá trị lịch sử,văn hóa khu phố Cổ.Quận Hoàn Kiếm đƣợc thành phố giao quản lý trực tiếp Ban quản lý phố Cổ Hà Nội.Đây vừa là vinh dự đồng thời là trách nhiệm lớn đối với Đảng bộ,chính quyền quận Hoàn Kiếm. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Phạm Quang Nghị,Ủy viên Bộ Chính trị.Bí thƣ Thành ủy Hà Nội tại buổi làm việc với quận Hoàn Kiếm ngày 28/2/2009 ,trong thời gian qua,Quận đã triển khai thực hiện một số công tác trọng tâm sau: 1.Tập trung nghiên cứu,điều chỉnh quy hoạch chi tiết khu phố Cổ,quy hoạch chi tiết khu đô thị giãn dân Việt Hƣng,lập đề án giãn dân khu phố Cổ. 2.Tập trung đầu tƣ cải tạo đồng bộ hạ tầng kỹ thuật trong khu phố Cổ. 3.Tích cực triển khai giải phóng mặt bằng,di chuyển các hộ dân để trùng tu,tôn tạo các công trình di tích trong khu phố Cổ bằng ngân sách Quận và nguồn xã hội hóa. 4.Tập trung nghiên cứu bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể trong khu phố Cổ.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,quảng bá,giới thiệu về khu phố Cổ để nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân trong công tác bảo tồn gìn giữ các giá trị văn hóa,lịch sử khu phố Cổ. 5.Tăng cƣờng công tác quản lý trật tự đô thị,trật tự xây dựng trong khu phố Cổ. 6.Kêu gọi nguồn vốn xã hội hóa để cải tạo các công trình công cộng phục vụ lợi ích dân sinh trong khu phố Cổ;gắn việc bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử văn hóa khu phố Cổ với phát triển thƣơng mại-dịch vụ-du lịch. 7.Kiện toàn và nâng cao chất lƣợng bộ máy Ban Quản Lý phố Cổ Hà Nội,đá ứng Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 40
  41. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch yêu cầu nhiệm vụ đƣợc giao. 2.1.2.2. Kết quả thực hiện: 1/Công tác quy hoạch và xây dựng dự án giãn dân: - Quy hoạch khu phố Cổ: Ngày 22/01/2010,UBND thành phố Hà Nội có quyết định số 367/QĐ-UBND phê duyệt nhiệm vụ điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng bảo tồn,tôn tạo,phát huy giá trị lịch sử khu phố Cổ Hà Nội.Sau khi thống nhất với Sở Quy Hoạch Kiến trúc quận đã giao ban quản lý phố Cổ Hà Nội ký hợp đồng với trung tâm phát triển vung SENA để lập điều chỉnh quy hoạch khu phố Cổ Hà Nội nhƣng công ty SENA chƣa triển khai đƣợc nhiệm vụ này,tiến độ chậm và còn nhiều lúng túng.Quận đang điều chỉnh đơn vị tƣ vấn sang Viện Quy Hoạch Kiến trúc Đô thị và Nông thôn-Bộ Xây dựng.[ 2 ] Ban quản lý phố Cổ đã ký hợp đồng với Viện Bảo tồn Di tích-Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch và tiến hành khảo sát,đánh giá hiện trạng 121 công trình di tích 793/1081 công trình nhà ở có giá trị cần phải bảo tồn theo quyết định số 45/QĐ-UB ngày 04/6/1999 của UBND thành phố.Lập bản121 công trình di tích đình,đền,chùa,di tích Cách Mạng,nhà liền kề hiện đang chờ ý kiến đánh giá của hội đồng tƣ vấn.Việc đánh giá này sẽ là cơ sở để lậ quy hoạch bảo tồn các di sản trong khu phố Cổ . - Xây dựng đề án giãn dân khu phố Cổ:Từ năm 2009,Ban quản lý phố Cổ đã ký hợp đồng với công ty cổ phần tƣ vấn đầu tƣ và xây dựng CDCC-Sở xây dựng Hà Nội tổ chức khảo sát điều tra xã hội học và xây dựng đề án giãn dân phố Cổ với những nội dung chính nhƣ sau: + Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp cơ bản để giảm mật độ dân cƣ khu vực phố Cổ(từ mật độ 823 ngƣời/ha năm 2009 xuống còn 500 ngƣời/ha là mật độ khống chế theo quy hoạch đến năm 2020 tƣơng ứng phải di chuyển khoảng 6.550 hộ dân với khoảng 26.200 ngƣời dân).Cụ thể giãn dân phố Cổ giai đoạn 1 sang khu đất tại khu đô thị mới Việt Hƣng sẽ di chuyển đƣợc 1.800 hộ dân với khoảng 7.200 ngƣời dân đang sống trong các di tích,trƣờng học,công sở,số nhà đông hộ,nhà nguy hiểm và các hộ dân trong khu phố Cổ có nguyện vọng di Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 41
  42. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch dời,đồng thời đề xuất các biện pháp để không tăng dân số trở lại. + Nghiên cứu,đề xuất giải pháp thực hiện giãn dân phố Cổ. + Nghiên cứu đề xuất một số cơ chế chính sách đặc thù phục vụ dự án giãn dân phố Cổ. Hiện nay UBND Quận cùng công ty cố phần tƣ vấn đầu tƣ và xây dựng CDCC đã hoàn chỉnh đề án giãn dân khu phố Cổ sau khi tổ chức các cuộc họp,nghiên cứu tiếp thu,bổ xung ý kiến đóng góp của các Sở ban ngành thành phố,chuẩn bị báo cáo UBND thành phố phê duyệt. - Điều chỉnh cục bộ Quy hoạch khu nhà ở phục vụ giãn dân phố Cổ trong khu đô thị mới Việt Hƣng: Ngày 03/11/2009 UBND thành phố Hà Nội có Quyết định số 5687/QĐ- UBND “về việc thu hồi 111.212 mét vuông đất tại khu đô thị mới Việt Hƣng do Tổng công ty đầu tƣ phát triển nhà và đô thị đang quản lý giao cho UBND quận Hoàn Kiếm quản lý để chuẩn bị thực hiện dự án giãn dân phố Cổ”. UBND quận đã đề xuất trình thành phố xin điều chỉnh cục bộ quy hoạch tỷ lệ 1/500 khu đất phục vụ giãn dân phố Cổ . 2/ Giải phóng mặt bằng trùng tu tôn tạo các di tích trong khu phố Cổ và khu vực hồ Hoàn Kiếm: Từ năm 2004,Quận đã xây dựng kế hoạch số 71/KH-Ub để giải phóng mặt bằng trùng tu các công trình di tích trên địa bàn với nỗ lực và quyết tâm cao của Đảng bộ,chính quyền và nhân dân trong quận.Giai đoạn 2009-2010 quận đã giải phóng mặt bằng và trùng tu 11 công trình với tổng chi phí 68.118 triệu đồng trong đó di chuyển 86 hộ dân,đầu tƣ,tôn tạo tƣợng đài vua Lê và đình Nam Hƣơng giai đoạn 2,đền Bạch Mã,đền Quán Đế-Trung tâm thông tin phố Cổ 28 Hàng Buồm, đình Kim Ngân-42 Hàng Bạc,đình Yên Thái,đình chùa Thái Cam,chùa Cầu Đông. Việc giải phóng mặt bằng,trùng tu các di tích đã bảo tồn đƣợc các di sản vật thể,đá ứng nhu cầu tín ngƣỡng của nhân dân thu hút khách du lịch,đồng thời còn xây dựng đƣợc các thiết chế văn hóa tại cơ sở,trở thành điểm sinh hoạt văn Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 42
  43. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch hóa,tổ chức lễ hội của cộng đồng dân cƣ và cũng là giảm số dân sống trong khu phố Cổ,Hiện nay quận tiếp tục giải phóng mặt bằng,trùng tu các di tích đình Phả Trúc Lâm,đình Đông Thành,đình Tân Khai,quán Chùa Huyền Thiên,chùa Kim Cổ,đình đền Thiên Tiên,đền Vũ Thạch bảo tồn nhà vƣờn số 6 Đinh Liệt. 3/ Tập trung xây dựng môi trƣờng văn hóa và bảo tồn văn hóa phi vật thể khu phố Cổ: Trong những năm qua,quận đã phối hợp với Hội di sản Văn hóa Thăng Long Hà Nội xây dựng đề án “ nghiên cứu tổ chức lễ hội truyền thống trong khu phố Cổ và khu vực hồ Hoàn Kiếm” đã phê duyệt đề án bảo tồn 14 lễ hội.Quận đã nghiên cứu đề án “ Một số nét văn hóa ứng xử của ngƣời dân trong khu phố Cổ”.Đề án đƣợc triển khai bài bản,công phu lấy ý kiến tham gia của nhiều nhà khoa học và nhân dân từ tổ dân phố,hàng năm đƣợc đánh giá tại hội nghị tổ dân phố cùng với đánh giá việc thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa nên thu hút đƣợc sự tham gia của các tầng lớp nhân dân.Đề án đã giúp cải thiện môi trƣờng văn hóa lành mạnh,phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống của ngƣời dân phố Cổ. Hàng năm,quận đã tổ chức các hoạt động triển lãm giới thiệu về văn hóa phi vật thể nhƣ:Tết trung thu trong khu phố Cổ,ngày văn hóa trà Việt,trình diễn 3 dòng tranh dân gian,nghề gốm,nghề lụa,giới thiệu âm nhạc truyền thống nhƣ ca trù,hát xẩm,hát trống quân,hát văn đƣợc tổ chức thƣờng xuyên tại các ngôi nhà di sản 87 Mã Mây,38 Hàng Đào,28 Hàng Buồm trong các dịp lễ hội và Tết,góp phần bảo tồn giá trị văn hóa,nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho ngƣời dân khu phố Cổ. Tiếp tục phối hợp với chuyên gia Toulouse-Pháp để nghiên cứu các giá trị văn hóa phi vật thể trong khu phố Cổ,về nghề và phố nghề truyền thống.Dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long,quận đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa,văn nghệ có ý nghĩa thu hút đông đảo ngƣời dân tham gia:biểu diễn âm nhạc truyền thống cùng với sự góp mặt của đoàn nghệ sĩ thành phố Toulouse(đoàn múa rối,nhạc Jazz,nhạc trữ tình)sang biểu diễn xung quanh Hồ Hoàn Kiếm và khu phố Cổ. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 43
  44. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch Tổ chức kiểm tra và hƣớng dẫn UBND các phƣờng,các tiểu ban quản lý di tích đảm bảo tốt công tác quản lý di tích, tổ chức các lễ hội theo đúng quy định của Bộ Văn hóa,quy chế về việc tổ chức lế hội,không để xảy ra các hiện tƣợng mê tín dị đoan và truyền bá ấn phẩm phi văn hóa. 4/ Công tác quản lý trật tự đô thị: Công tác quản lý trật tự đô thị đƣợc tăng cƣờng.Công tác kiểm tra xử lý các vi phạm trật tự an toàn giao thông,vệ sinh môi trƣờng đƣợc chỉ đạo quyết liệt.Một số tồn tại về trật tự đô thị,lấn chiếm vỉa hè,lòng đƣờng,xây dựng bục bệ,ki ốt,hoạt động kinh doanh buôn bán,các điểm giao thông trái phép đƣợc xử lý kiên quyết.Trật tự hè đƣờng,vệ sinh môi trƣờng trong khu phố Cổ có nhiều chuyển biến tích cực.Quận đã triển khai một số biện pháp nhƣ: triển khai mô hình “khoán quản” thực hiện xã hội hóa công tác quản lý trật tự đô thị.Xây dựng mô hình tự quản khu dân cƣ phát huy vai trò của quần chúng,nhân dân trong công tác giữ gín trật tự đô thị,vệ sinh môi trƣờng. Triển khai xây dựng các tuyến phố hoa,trang trí cờ đèn trong các ngày lễ lớn với sự tham gia của các tầng lớp nhân dân tạo đƣợc không khí vui tƣơi phấn khởi Đƣợc sự đồng ý của thành phố và chính phủ,quận đã chỉ đạo việc đƣa phƣơng tiện giao thông sạch( xe ô tô điện ) vào phục vụ du khách trong và ngoài nƣớc tham quan khu phố cổ.Qua gần 1 năm hoạt động,phƣơng tiện giao thông này đã phát huy hiệu quả về kinh tế và xã hội. Chuyển đổi mô hình quản lý lao động,tuyến phố đi bộ Hàng Đào-Hàng Ngang-Hàng Đƣờng-Đồng Xuân,kết nối với chợ đêm Đồng Xuân,nâng cao hiệu quả tạo thành một không gian đi bộ,tạo ra 1 điểm du lịch hấp dẫn thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nƣớc. Quận đã xây dựng và triển khai “Đề án tăng cƣờng quản lý trật tự xây dựng gắn với phát huy giá trị lịch sử,văn hóa khu phố Cổ Hà Nội trên địa bàn quận Hoàn Kiếm”.Tăng cƣờng công tác tuyên truyền,vận động nhân dân,cải cách thủ tục cấp phép,xây dựng tăng cƣờng công tác quản lý trật tự xây dựng Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 44
  45. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch trong khu phố Cổ ngăn chặn các công trình xây dựng trái phép,giải quyết xử lý vi phạm.Năm 2009 đầu năm 2010,đã xử lý kiên quyết,yêu cầu chủ đầu tƣ tháo dỡ phần vi phạm của 9 công trình sai phép trong phố Cổ.Về cơ bản công tác quản lý trật tự xây dựng có chuyển biến tích cực.Năm 2010,vi phạm trật tự giảm 34%,công trình xây dựng có phép đạt 95%. 5/ Kêu gọi đầu tƣ nguồn vốn xã hội hóa và hợ tác quốc tế: Quận đã kêu gọi các doanh nghiệp,các tổ chức và các cá nhân đầu tƣ xây dựng các công trình công cộng trong khu phố Cổ:Xây dựng chợ cửa Nam 280 tỷ đồng,chợ Hàng Da 240 tỷ đồng.Bảo tồn trùng tu 5 di tích đình ,chua với tổng kinh phí 72,83 tỷ đồng. Quận tiếp tục hợp tác với các tổ chức quốc tế bảo tông khu phố Cổ: với cục địc chính Bỉ về ứng dụng công nghệ GIS trong quản lý địa chính; hợp tác với các trƣờng đại học Nhật Bản,Hàn Quôc,Hội kiến trúc sƣ Genova-Ý trong nghiên cứu bảo tồn khu phố Cổ.Năm 2009,thành phố Toulouse hỗ trợ 40000 Euro cho dự án cải tạo mặt đứng một đoạn phố Tạ Hiện và năm 2010 hỗ trợ 40000 Euro để phục vụ tuyên truyền và lắp đặt trang thiết bị của Trung tâm thông tin phố Cổ II. Những vấn đề tồn tại: Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc trong quá trình triển khai thực hiện vẫn còn một số tồn tại và hạn chế: Việc điều chỉnh quy hoạch chi tiết bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử khu phố Cổ,việc xây dựng đề án giãn dân khu phố Cổ và điều chỉnh quy hoạch khu nhà ở phục vụ giãn dân tại Việt Hƣng còn chậm. Việc giải phóng các hộ dân sống trong di tích gặp nhiều khó khăn khi áp dụng các quy định chung của thành phố cho giải phóng mặt bằng ở khu vực phố Cổ. Trật tự đô thị,trật tự giao thông trong khu phố Cổ còn nhiều tồn tại:nhiều phƣơng tiện cung tham gia giao thông gây ách tắc ô nhiễm môi trƣờng.Ô tô con,ô tô khách thƣờng xuyên đỗ sai quy định,đỗ trên vỉa hè,phát sinh các điểm Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 45
  46. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch giao thông tĩnh trái phép.Ý thức chấp hành của ngƣời dân chƣa cao. Nhận thức của cán bộ và các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm bảo tồn.gìn giữ di sản văn hóa còn hạn chế. Các công trình nhà ở có giá trị thuộc sở hữu nhà nƣớc hiện đang cho thuê hoặc giao cho các doanh nghiệp sau khi cổ phần quản lý còn nhiều,nhƣng chƣa đƣợc quan tâm trùng tu,chƣa sử dụng có hiệu quả. Việc bảo tồn,tôn tạo khu phố Cổ chủ yếu vẫn bằng ngân sách,chƣa huy động đƣợc nguồn xã hội hóa.Hoạt động dịch vụ-thƣơng mại-du lịch trong khu phố Cổ chƣa có sự kết nối giữa các đơn vị.Việc bảo tồn các phố nghề,cửa hàng chuyên kinh doanh đồ thủ công truyền thống còn hạn chế. Việc quảng bá hình ảnh khu phố Cổ và phát huy giá trị lịch sử văn hóa của các công trình di tích đã đƣợc triển khai nhƣng còn yếu,hiệu quả chƣa cao 2.1.2.3 Phƣơng hƣớng nhiệm vụ: 1/ Công tác quản lý đô thị: Về quản lý trật tự vỉa hè,giao thông,vệ sinh môi trƣờng đô thị. Tậ trung làm tốt công tác trật tự đô thị,nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình “khoán quản”.lực lƣợng tự quản khu dân cƣ ,lực lƣợng tự quản giữ gìn trật tự đô thị,trật tự hè phố,vệ sinh môi trƣờng tại địa bàn các phƣờng. Tiếp tục mở rộng không gian đi bộ trên địa bàn Quận tại khu vực bảo tồn cấp 1(Hàng Buồm,Tạ Hiện,Hàng Giầy,Mã Mây,Lƣơng Ngọc Quyến ).Hiện nay, công ty cổ phần Đồng Xuân đang hoàn chỉnh phƣơng án tổ chức,dự kiến sẽ triển khai trong quý II/2011.Sơ kết hoạt động phƣơng tiện xe ô tô điện để mở rộng phạm vi hoạt động trên phạm vi quận. Về đầu tƣ hạ tầng kỹ thuật đô thị: Giai đoạn 2011-2015,quận sẽ tổ chức sắp xếp lại 100% hệ thống đƣờng dây đi nổi trong khu phố Cổ và cải tạo hạ tầng kỹ thuật nối 4 tuyến phố trong khu phố Cổ đạt tỷ lệ 100% tuyến phố đƣợc cải tạo. Về quản lý trật tự xây dựng: Tăng cƣờng công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của ngƣời dân thực hiện đúng các quy định về quản lý trật tự xây Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 46
  47. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch dựng,xây dựng đúng giấy phép đƣợc cấp,đồng thời nâng cao trách nhiệm của lực lƣợng thanh tra xây dựng quận,phƣờng trong công tác hậu kiểm sau phép,kiểm soát 100% các công trình xây dựng,đảm bảo tỷ lệ có phép đạt trên 95%. 2/ Hoàn thành điều chỉnh quy hoạch chi tiết khu phố Cổ: Quận sẽ đẩy nhanh việc xây dựng quy hoạch điều chỉnh,bảo tồn khu phố Cổ,phát huy những mặt đã làm tốt,khắc phục những tồn tại của quy hoạch bảo tồn,tôn tạo khu phố Cổ theo quyết định 70/QĐ-BXD tiến tới hoàn chỉnh điều lệ quản lý khu phố Cổ Hà Nội thay thế quyết định 45/QĐ-UB. Theo các bƣớc: - Đánh giá hiện trạng 76 tuyến phố trong khu phố Cổ đƣa ra giải pháp bảo tồn và phát triển cho từng tuyến phố,ô phố. Giữ nguyên phạm vi khu phố Cổ,bỏ phân khu bảo tồn cấp 1,cấp 2. Đề xuất phƣơng án cải tạo các điểm phục vụ công cộng,các điểm nhấn kiến trúc trong khu phố Cổ. - Về quản lý quy hoạch kiến trúc khu phố Cổ: Xác định các di tích,các ngôi nhà có giá trị cần bảo tồn nguyên trạng. Các khu vực khác thì xác định các chỉ tiêu về quy hoạch và xây dựng,hài hòa giữa bảo tồn và phát triển,việc giới hạn khống chế chiều cao,số tầng của các công trình xây mới phụ thuộc vào công trình liền kề,trong từng ô phố và tuyến phố theo nguyên tắc bảo tồn tuyến phố giữ kiến trúc mặt đứng,cải tạo bên trong các ô phố,các khu nhà theo hƣớng hiện đại.Đảm bảo mật độ xây dựng của ô phố và các biển số nhà với kiến trúc nhà truyền thống. 3/ Bảo tồn di sản trong khu phố Cổ: Di sản vật thể: Tập trung giải phóng các hộ dân hiện đang sống trong các di tích đặc biệt là các công trình di tích đã xuống cấp nguy hiểm,các công trình đình,đền trong khu phố Cổ. Bảo tồn các công trình nhà ở có giá trị thuộc sở hữu nhà nƣớc,đầu tƣ bảo tồn mặt đứng các tuyến phố. Kiến nghị cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích ngƣời dân bảo tồn công trình nhà ở có giá trị và đầu tƣ cải tạo khu phố Cổ bằng nguồn lực từ xã hội. Di sản phi vật thể: Bảo tồn và xây dựng nếp sống văn hóa của ngƣời dân Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 47
  48. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch phố Cổ,phát huy giá trị lich sử văn hóa khu phố Cổ gắn với việc phát triển dịch vụ-thƣơng mại-du lịch,tổ chức tốt các lễ hội truyền thống,bảo tồn một số nghề truyền thống gắn với phố nghề. Nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc gìn giữ di sản phố Cổ. 4/ Công tác phục vụ giãn dân khu phố Cổ: - Hoàn thành việc trình UBND thành phố phê duyệt đề án giãn dân phố Cổ và phƣơng án điều chỉnh cục bộ quy hoạch tỷ lệ 1/500 khu nhà ở phục vụ giãn dân phố Cổ tại Việt Hƣng. - Tiến hành lập và trình duyệt dự án giãn dân phố Cổ gồm hai dự án thành phần: dự án “ Tổ chức di dời các hộ dân khỏi khu vực phố Cổ” và dự án “ Đầu tƣ xây dựng khu nhà ở và trung tâm thƣơng mại phục vụ giãn dân phố Cổ tại khu đô thị mới Việt Hƣng”. - Phấn đấu đến năm 2012 khởi công xây dựng khu nhà ở giãn dân phố Cổ tại Việt Hƣng theo quy hoạch đƣợc thành phố phê duyệt.Năm 2016:hoàn thành 1.800 căn hộ phục vụ giải phóng đợt 1 cho các đối tƣợng là hộ dân đang sống trong các khu di tích,trƣờng học,công sở,các số nhà đông hộ và các hộ dân tự nguyện di chuyển [ 2 ]. 2.2 Thực trạng hoạt động du lịch tại phố Cổ Hà Nội. 2.2.1. Lƣợng khách du lịch đến Hà Nội. Song song với chính sách mở cửa nền kinh tế Việt Nam là lƣợng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam có xu hƣớng đông dần và Hà Nội là cửa ngõ để đón đủ các loại khách du lịch từ các nƣớc trên thế giới. Số lƣợng khách nội địa cũng tăng cao. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 48
  49. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch Bảng 1: Tƣơng quan về số lƣợng khách 10 thị trƣờng hàng đầu đến Hà Nội năm 2010. Năm Năm Ƣớc tính Tỷ lệ (%). 2009(lƣợt 2010 khách). Tổng số 1.013.334 1.200.000 118,42 Trung Quốc 122.972 163.849 133,34 Pháp 99.320 116.034 116,83 Australia 88.005 92.939 105,61 Hàn Quốc 49.945 48.832 97,77 Nhật Bản 94.907 117.475 123,78 Mỹ 67.834 68.358 100,77 Thái Lan 36.997 34.648 93,65 Đức 50.233 132.010 262,79 Malaysia 37.124 37.250 100,34 Anh 58.648 68.540 116,87 ( theo Tạp chí du lịch Việt Nam, số 4/2010) Bảng 2: Khách du lịch quốc tế, nội địa dến Hà Nội năm 2010. Chỉ tiêu Thực hiện 2009 Uớc tính 2010 Tỷ lệ (%) Tổng khách du lịch 10.213.334 12.300.000 21 Khách quốc tế 1.013.334 1.7000.000 62 Khách nội địa 9.200.000 10.600.000 15.22 ( theo Tạp chí du lịch Việt Nam số 4/ 2010) 10 thị trƣờng khách hàng đầu đến Hà Nội là: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật, Pháp, Úc , Mỹ, Anh, Đức, Đài Loan, Thái Lan. Lƣu lƣợng khách đến từ các thị trƣờng này ngày một lớn hơn. Ngoài các thị trƣờng truyền thống của chúng ta nhƣ thị trƣờng Châu Âu ( Pháp, Đức, Anh ) khách du lịch đến thị trƣờng Pháp hay Đức hầu nhƣ đến Việt Nam là vào thăm Hà Nội.[ 6 ]. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 49
  50. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch Lƣợng khách đến Hà Nội tăng mạnh. Theo Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội Trƣơng Minh Tiến, cho biết, trong dịp Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội vừa qua, Hà Nội là điểm đến của khoảng 1,2 triệu lƣợt khách nội địa và hơn 30 nghìn lƣợt khách quốc tế Nhƣ vậy, trong hơn 9 tháng năm 2010, Hà Nội đã đón khoảng 9 triệu lƣợt khách nội địa (tăng khoảng 40% so với cùng kỳ năm trƣớc) và 960 nghìn lƣợt khách quốc tế (tăng 15%). Cũng theo ông Trƣơng Minh Tiến, những thành công rực rỡ trong việc tổ chức Đại lễ đã góp phần thiết thực trong việc quảng bá hình ảnh Thủ đô 1000 năm tuổi ra thế giới. Dự báo, sau Đại lễ, lƣợng khách quốc tế đến Hà Nội sẽ ngày một đông hơn. Từ nay đến khi kết thúc Năm Du lịch quốc gia 2010, ngành du lịch Thủ đô sẽ tiếp tục nâng cấp chất lƣợng cơ sở lƣu trú, dịch vụ du lịch, xây dựng thêm nhiều tour đặc sắc, triển khai phong trào "Ngƣời Hà Nội đón bạn thăm nhà" Dự kiến, trong năm 2010, Hà Nội sẽ đón 1,4 triệu lƣợt khách quốc tế và 11 triệu lƣợt khách nội địa. Sau sự kiện Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, lƣợng khách quốc tế đến Hà Nội tăng mạnh. Thống kê của Sở Văn hóa Thể Thao và Du lịch Hà Nội cho thấy 5 tháng đầu năm 2011, lƣợng khách du lịch đến Hà Nội đạt gần 5,7 triệu lƣợt ngƣời, tăng 23% so với cùng kỳ năm trƣớc; trong đó khách quốc tế đạt 552.000 lƣợt khách, tăng 20%. Một số thị trƣờng khách trọng điểm đến Hà Nội tăng đáng kể nhƣ khách Trung Quốc ƣớc đạt gần 82.000 lƣợt ngƣời, tăng 32% so với cùng kỳ; khách Australia đạt gần 50.000 lƣợt, tăng 28%; khách Nhật Bản đạt trên 48.000 lƣợt, tăng 14%. Lƣợng khách quốc tế có sự tăng mạnh do hình ảnh du lịch Hà Nội đƣợc quảng bá mạnh mẽ tại thị trƣờng các quốc gia trọng điểm; cùng với các biện pháp thu hút khách hấp dẫn của ngành du lịch Thủ đô. Sản phẩm du lịch Hà Nội trong thời gian qua có sự đầu tƣ theo hƣớng đa dạng, chất lƣợng; hạ tầng du lịch cơ Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 50
  51. Khai th¸c tuyÕn phè cæ Hµ Néi phôc vô ph¸t triÓn du lÞch bản đã thay đổi; nhân lực đang đƣợc chuẩn hóa. 2.2.2.Dịch vụ du lịch tại phố Cổ Hà Nội. a. Cơ sở lƣu trú: * Ƣu điểm: - Khách sạn, nhà nghỉ ở đây rất đa dạng về phong cách, mẫu mã nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch nội địa và quốc tế đến du lịch phố Cổ. * Nhƣợc điểm: - Thái độ phục vụ của các khách sạn cao cấp vẫn chƣa đƣợc hoàn thiện. Tuy có qua đào tạo nhƣng vẫn còn mắc một số sai sót trong khâu tổ chức và tiếp đón khách. - Ở một số khách sạn cao cấp trong khu vực phố Cổ vẫn chƣa đa dạng hóa các loại phòng cho thuê hoặc số lƣợng phòng chƣa đủ đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Các khách sạn cao cấp thƣờng ít có chiến dịch quảng cáo trên truyền hình hay truyền thông mà hầu nhƣ chỉ quảng cáo trên website của mình. Chính vì thế mà các khách sạn trong khu vực phố Cổ ít có khả năng cạnh tranh đƣợc với các khách sạn có tầm cỡ quốc tế nhƣ : Melia, Metropole và hầu nhƣ chỉ biết đến bằng cách truyền miệng. Một số khách sạn trong khu phố Cổ Hà Nội: - Khách sạn RainBow Ha Noi + Add: 20 Hàng Cân, Hoàn Kiếm, Hà Nội. + Email: info@rainbow.com + Website: www.rainbowhanoihotel.com; Tel: 0948454523. - Sunrise Hotel Ha Noi + Add: 9A Hàng Mắm, Hoàn Kiếm, Hà Nội. + Email: SunrisehotelHanoi@gmail.com + Tel: 0957118099 / 0988099093 - Ha Noi Luxor Hotel. + Add: 59 Hàng Cót, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sinh viªn: §ång ThÞ Thùc - Líp: VHL 301 51