Khóa luận Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_nghe_det_may_cua_nguoi_thai_o_noong_bua_voi_phat_t.pdf
Nội dung text: Khóa luận Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Văn hóa du lịch, PGS.TS Trần Bình, cán bộ và bà con người Thái ở Điện Biên. Nhân đây em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do kinh nghiệm thực tế còn ít, hạn chế về thời gian, tài chính, nên khóa luận không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo và mọi người. Em xin chân thành cảm ơn! Hải Phòng,ngày 25 tháng 6 năm 2010 Sinh viên Nguyễn Thị Thảo MỤC LỤC Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 1
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên MỞ ĐẦU 1. Lý do nghiên cứu 3 2. Mục đích nghiên cứu 4 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4 5. Đóng góp của khóa luận 5 6. Nội dung và bố cục của khóa luận 5 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI ĐEN Ở NOONG BUA, ĐIỆN BIÊN 1.1. Đặc điểm tự nhiên ở Noong Bua 6 1.2. Đặc điểm xã hội ở Noong Bua 9 1.3.Khái quát về ngƣời Thái ở phƣờng Noong Bua 9 Chương 2: NGHỀ DỆT MAY CỦA NGƯỜI THÁI ĐEN Ở NOONG BUA 2.1. Nghề dệt may truyền thống 15 2.2. Vai trò của nghề dệt, may trong đời sống ngƣời Thái 45 2.3. Biến đổi của nghề dệt, may ở Noong Bua 49 Chương 3: DỆT MAY Ở NOONG BUA VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở ĐIỆN BIÊN 1. Tiềm năng du lịch ở Noong Bua, Điện Biên 58 2. Tiềm năng du lịch của nghề dệt, may ở Noong Bua – Điện Biên 60 3. Giải pháp để khai thác phục vụ phát triển du lịch 64 4. Các tour du lịch có thể thực hiện 69 KẾT LUẬN PHỤ LỤC Một số hình ảnh về nghề dệt, may của ngƣời Thái MỞ ĐẦU Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 2
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên 1. Lý do chọn đề tài Một trong những nét văn hóa khá độc đáo và đặc sắc của ngƣời Thái đó chính là nghề dệt may truyền thống. Đây là nghề thủ công có từ lâu đời và chiếm một vị trí khá quan trọng trong đời sống kinh tế cũng nhƣ văn hóa của ngƣời Thái ở Noong Bua. Với nghề thủ công này, phụ nữ là những ngƣời quyết định đến sự tồn tại và phát triển của nó. Trong xã hội Thái cổ truyền của ngƣời Thái ở Noong Bua, dệt may là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá phẩm hạnh thiếu nữ và phụ nữ Thái. Dệt may truyền thống thể hiện ở sự cần cù, chịu khó, kỹ thuật tinh sảo, trình độ thẩm mỹ, của ngƣời Thái. Đó là các giá trị đặc biệt, góp phần khẳng định bản sắc văn hóa Thái. Khi còn nhỏ tuổi, đƣợc bà và mẹ địu trên lƣng, các bé gái đã đƣợc xem bà, mẹ, chị kéo sợi, dệt vải, vá may. Khi lên năm, lên sáu, các bé đƣợc địu lên nƣơng rẫy trồng bông, hái bông. Lên bảy, lên tám các em đã đƣợc chỉ bảo, tập kéo sợi, dệt vải, Lớn hơn một chút là các cô bé Thái đã có thể biết dệt vải. Điều đó đã trở thành thành ngữ trong dân gian Thái: Mười một tuổi biết độn tóc/ Mười hai tuổi biết ngồi khung dệt vải. Đến tuổi lấy chồng, thiếu nữ Thái phải tự tay dệt lấy vỏ chăn, làm lấy gối, đệm, may lấy khăn áo cho ngƣời mình thƣơng Úp bàn tay thành vải thành sợi/ Ngửa tay thành lá thành hoa. Mỗi cô gái Thái khi về nhà chồng thƣờng mang theo có tới hàng chục bộ chăn, đệm, gối, và khá nhiều vải, vỏ chăn, cạp váy. Tục lệ này đến nay vẫn duy trì. Bởi thế, có thể nói nghề dệt may của ngƣời Thái ở Noong Bua là một trong những nguồn tiềm năng lớn đối với phát triển du lịch ở Điện Biên. Muốn phát triển du lịch Điện Biên không thể không nghiên cứu, khai thác các giá trị của nghề dệt may của ngƣời Thái ở Noong Bua. Nghiên cứu về vấn đề này đã đƣợc đề cập sơ lƣợc trong một số các bài báo và trên một số các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chƣa có một công trình chuyên luận nào đề cập một cách có hệ thống. Bản thân em là một ngƣời yêu thích du lịch, ƣa sự tìm tòi khám phá, và đặc Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 3
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên biệt quan tâm đến vấn đề này. Với các lý do nêu trên cộng với sự động viên khuyến khích của PGS.TS. Trần Bình, em mạnh dạn chọn đề tài Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Hy vọng đề tài này sẽ đóng góp đƣợc một phần nào đó vào việc: vừa khai thác đƣợc các giá trị của nghề dệt may ở Noong Bua phục vụ phát triển du lịch, vừa bảo tồn đƣợc văn hóa truyền thống Thái. 2. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu về nghề dệt may của ngƣời Thái ở Noong Bua, thành phố Điện Biên. - Tìm hiểu những biến đổi của nghề dệt may của ngƣời Thái ở Noong Bua và những giá trị đích thực của nó đối với phát triển du lịch. - Bƣớc đầu tìm kiếm những biện pháp nhằm khôi phục, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của nghề dệt của ngƣời Thái ở Noong Bua phát triển du lịch. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Nghề dệt may của ngƣời Thái ở Noong Bua, thành phố Điện Biên. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: phƣờng Noong Bua, thành phố Điện Biên Về thời gian: Trƣớc 1986 tới nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Phƣơng pháp điền dã dân tộc học ( nghiên cứu thực địa): Là phƣơng pháp chủ đạo. Phƣơng pháp này đòi hỏi ngƣời nghiên cứu phải có thời gian nghiên cứu tại Noong Bua. Thông qua các đợt cùng sinh sống, làm việc và khảo sát, tại các bản Thái ở Noong Bua, với các công cụ kỹ thuật: tham gia và quan sát các hoạt động của cƣ dân; phỏng vấn, hỏi chuyện; chụp ảnh, quay phim; ghi chép để thu thập tƣ liệu thực địa. Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 4
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Để bố sung tƣ liệu, trong quá trình thực hiện đề tài này, phƣơng pháp nghiên cứu thƣ tịch cũng đƣợc áp dụng. Các tài liệu thƣ tịch đƣợc nghiên cứu gồm: Báo cáo, tổng kết hàng năm của các cấp quản lý, ban ngành Điện Biên và cơ sở; Tài liệu thống kê từ tỉnh, thành phố, phƣờng; Các loại sách có liên quan đến ngƣời Thái và dệt may Thái đã đƣợc xuất bản ở Trung Ƣơng về địa phƣơng; 5. Đóng góp của khóa luận Bài nghiên cứu góp phần bổ sung vào chỗ thiếu của khoa học, làm tài liệu tham khảo. Và mang yếu tố thực tiễn, đóng góp cho phát triển du lịch ở nơi đây. Bài nghiên cứu góp phần bổ sung cho tƣ liệu các tộc ngƣời ở Điện Biên và cho cả nƣớc. 6. Nội dung và bố cục của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, nội dung chính của khóa luận đƣợc trình bày trong 3 chƣơng chính: Chƣơng 1: Khái quát về người Thái Đen ở Noong Bua, Điện Biên Chƣơng 2: Nghề dệt, may của người Thái Đen ở Noong Bua, Điện Biên Chƣơng 3: Dệt may ở Noong Bua với phát triển du lịch ở Điện Biên Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI ĐEN Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 5
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Ở NOONG BUA, ĐIỆN BIÊN 1.1. Đặc điểm tự nhiên ở Noong Bua Phƣờng Noong Bua là một trong 8 đơn vị hành chính thuộc thành phố Điện Biên Phủ ( 7 phƣờng và một xã), đƣợc hình thành từ khi thị xã Điện Biên Phủ ( nay là thành phố Điện Biên Phủ) đƣợc thành lập ngày 18 tháng 4 năm 1992. Phƣờng đƣợc chính thức thành lập ngày 16 tháng 9 năm 2003. Toàn bộ đất đai, dân cƣ của phƣờng trƣớc khi trực thuộc thành phố là một bộ phận của xã Thanh Minh, huỵện Điện Biên, tỉnh Lai Châu trƣớc đây. + Phía Đông: Giáp xã Pu Nhi và xã Mƣờng Phăng (huyện Điện Biên Đông) + Phía Bắc: Giáp phƣờng Him Lam, thành phố Điện Biên + Phía Nam: Giáp phƣờng Nam Thanh, thành phố Điện Biên + Phía Tây: Giáp phƣờng Mƣờng Thanh, thành phố Điện Biên Phƣờng Noong Bua có tổng diện tích đất đai tự nhiên là 1800 ha. Trong đó diện tích đất canh tác nông nghiệp là 443 ha. Trong diện tích đất nông nghiệp thì diện tích trồng lúa nƣớc là 89,4 ha và diện tích trồng lúa nƣơng là 45 ha, còn lại là đất khác và đồi núi tự nhiên. Địa hình phƣờng Noong Bua gồm hai vùng rõ rệt: * Vùng Thấp: là vùng có địa hình tƣơng đối bằng phẳng, ít bị chia cắt, độ dốc nhỏ dƣới 15 độ, độ cao hơn 400m so với mực nƣớc biển, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, du lịch. Đặc biệt, phƣờng Noong Bua là một phần của cánh đồng Mƣờng Thanh với diện tích trên 4000ha, là cánh đồng rộng nhất vùng Tây Bắc (nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc), với khả năng sản xuất lƣơng thực dồi dào cánh đồng Mƣờng Thanh là vựa lúa của tỉnh Điện Biên. Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 6
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên *Vùng núi cao: Gồm có 3 bản:Tà Lènh, Nà Nghè, Kê Nênh, với địa hình chủ yếu là đồi núi cao và đất dốc, thuận lợi cho sản xuất lâm nghiệp, trồng lúa nƣơng, ngô, chăn nuôi đại gia súc. Đất đai ở đây có độ phì khá cao, đƣợc phân bố thành các nhóm: - Nhóm đất mùn: phân bố ở các bản vùng cao và dọc ven chân đồi ở các bản vùng thấp - Nhóm đất phù sa: phân bố dọc theo hai con suối là suối con (huổi nọi) và suối lớn (hong phen). Sự phì nhiêu mầu mỡ của các loại đất này thích hợp cho sự phát triển cây lƣơng thực, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày và phát triển lâm nghiệp: lúa, ngô, khoai, sắn, đậu tƣơng, khoai tây, cây chàm, cây bông Khí hậu: ở Điện Biên nói chung và phƣờng Noong Bua nói riêng đều nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và chia thành hai mùa rõ rệt: Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 và kết thúc vào tháng 5 dƣơng lịch. Đó là mùa bắt đầu những tháng lạnh nhất và kết thúc những ngày nóng nực nhất vào tháng 9 theo lịch Thái. Về mùa khô, trong những thung lũng sáng sớm sƣơng mù bao phủ, ngƣời ta chỉ trông thấy những ngọn núi trƣớc mặt vào buổi trƣa khi mặt trời đã lên cao. Mùa đông tƣơng đối lạnh, ít mƣa, mùa hạ nóng, mƣa nhiều với các đặc tính diễn biến thất thƣờng, phân hóa đa dạng, ít chịu ảnh hƣởng của bão, nhƣng chịu ảnh hƣởng của gió phía Tây Nam (gió lào) khô, nóng. Mùa mƣa bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào tháng 9, tháng 10 dƣơng lịch. Khí hậu ẩm thấp, có nhiều lúc mƣa kéo dài đổ xuống suốt mấy giờ liền, lại nhiều khi mƣa dầm, rả rích lê thê kéo dài hàng tuần. Lũ lụt gây nên tai họa vào tháng 1 lịch Thái (tức tháng 7, tháng 8 dƣơng lịch). Mùa khô lạnh ở Tây Bắc thƣờng kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau (dƣơng lịch). Đặc điểm nổi bật của khí hậu Tây Bắc mùa này là khô và hanh kèm theo lạnh buốt. Có những tháng về mùa này ở Tây Bắc lƣợng mƣa Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 7
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên chỉ đạt tới 5mm - 20mm. Vào những đợt rét nhất nhiều nơi có nhiệt độ trung bình xuống dƣới 4-50C, kèm theo lạnh và sƣơng mù dày đặc, gió bấc và sƣơng muối. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 22,60C, cao nhất 36-37 0C, thấp nhất là 100C, lƣợng mƣa trung bình hàng năm khoảng 1500mm, độ ẩm trung bình 84 - 85%, số giờ nắng 1900-2000 giờ/năm. Vào thời điểm giao mùa, tức từ tháng 2- tháng 4 (dƣơng lịch) ở Tây Bắc trời chuyển từ lạnh sang nóng. Vào thời gian này chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm ở Tây Bắc rất cao, nhiều khi buổi trƣa nhiệt độ lên tới 380C, nhƣng về đêm nhiệt độ lại xuống chỉ còn 18-200C. Chính khoảng cách chênh lệch này Tây Bắc hay có gió khô, nóng từ Lào thổi sang. Đặc điểm thời tiết khí hậu nhƣ trên đã ảnh hƣởng rất lớn đến đời sống cũng nhƣ tập quán của cƣ dân Tây Bắc. Xƣa kia nhiều cộng đồng sống chủ yếu bằng canh tác cây lƣơng thực trên các sƣờn dốc, kỹ thuật và nông cụ đơn giản. Họ phải dựa vào chế độ mƣa nắng của tự nhiên. Vì thế, mùa mƣa là mùa canh tác chính trong năm của họ, mùa khô cạn là mùa nông nhàn, khoảng thời gian dành cho cƣới xin, làm nhà mới, tổ chức lễ hội, thăm hỏi lẫn nhau. Nhƣ vậy, rõ ràng nông lịch của cƣ dân ở đây đều có dấu ấn rất đậm nét của chế độ thời tiết, khí hậu trong vùng. Mặt khác, các loại vật nuôi, cây trồng mà họ tuyển chọn, sử dụng hàng trăm năm qua đều là những giống cây trồng vật nuôi có đặc điểm thích hợp với khí hậu nóng ẩm, rét buốt của thiên nhiên. Hơn thế nữa, đặc điểm này của tự nhiên đã in đậm dấu ấn trong các tập quán sinh hoạt khác (ăn, mặc, ở, lễ tết, hội hè ) của họ. Vùng Điện Biên nói chung đã lắm đất, của lại nhiều. Lê Quý Đôn trong “kiến văn tiểu lục” đã nhận xét rất tinh tƣờng: “Châu này thế núi vòng quanh, nƣớc sông bao bọc, đồn sở ở giữa, ruộng đất bằng phẳng, màu mỡ, bốn bên đều chân núi, đều phải đi một ngày đƣờng, công việc làm ruộng bằng nửa công việc châu khác mà số thu hoạch lại gấp đôi ” Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 8
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Với điều kiện tự nhiên thuận lợi nhƣ trên là điều kiện và cơ sở cho việc phát triển nghề dệt, may của ngƣời Thái ở Noong Bua, thành phố Điện Biên. 1.2. Đặc điểm xã hội ở Noong Bua Nằm trong khu vực hội tụ đông các dân tộc anh em, song cƣ dân của phƣờng Noong Bua chủ yếu là ngƣời Thái. Toàn phƣờng có 734 hộ, dân số 3180 ngƣời, nam là 1589 ngƣời, nữ 1591 ngƣời. Trong đó, ngƣời Thái tập trung nhất là ở 4 bản: Noong Bua, Phiêng Bua, Hồng Lứu, Khe Chít. Ngƣời Thái chiếm 60% dân số toàn phƣờng, còn lại là ngƣời Kinh chiếm 30%, ngƣời Khơ Mú 10%, ngƣời Hmông chiếm 5 %, còn lại 5% là các dân tộc khác nhƣ ngƣời Tày, Nùng, Dao Mật độ dân số là 87ngƣời/km. Đời sống tinh thần của đồng bào Thái ở đây rất phong phú từ nghệ thuật dân gian đến phong tục tập quán, cũng nhƣ trong tín ngƣỡng tôn giáo. Ngƣời Thái theo tín ngƣỡng đa thần, xuất phát từ ngày xƣa khi con ngƣời sống còn phụ thuộc vào tự nhiên nên họ sợ tất cả các hiện tƣợng tự nhiên từ mây, mƣa, sấm, chớp họ nghĩ rằng tất cả đều có thần linh hay đấng siêu nhiên cai quản. Vì vậy họ thờ cúng tất cả mong đƣợc cuộc sống bình yên và đƣợc phù hộ. Là cƣ dân nông nghiệp, nên hàng năm họ tổ chức các lễ hội liên quan đến nông nghiệp nhƣ lễ hội: cầu mùa, mừng cơm mới, để cầu mong cho mƣa thuận gió hòa, mùa màng tốt tƣơi, vạn vật sinh sôi nảy nở. Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, ngƣời Thái nơi đây vẫn giữ đƣợc nhiều lễ hội: xên bản, cầu mùa các lễ hội đƣợc tổ chức hàng năm và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc Thái. 1.3. Khái quát về người Thái ở phường Noong Bua 1.3.1. Tên gọi, dân số, phân bố cư trú Dân tộc Thái ở Việt Nam có 1.328.725 ngƣời (1999), cƣ trú suốt từ miền Tây Bắc, qua Hoà Bình cho đến tận miền tây hai tỉnh Thanh Hoá và Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 9
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Nghệ An. Vài năm gần đây, ngƣời Thái còn có mặt tại một số tỉnh Tây Nguyên. Ngƣời Thái tự gọi mình là Phủ Tay hay Côn Tay đều có nghĩa là ngƣời. Có hai ngành là Tay Đăm (Thái Đen) và Tay Khao hoặc Tay Đón (Thái Trắng). Ngành Thái Đen (Tay Đăm) gồm 3 nhóm: - Nhóm có gốc Mƣờng Lò: Đây là nhóm Thái Đen rất thống nhất về ngôn ngữ và văn tự, phong tục tập quán. Hiện họ cƣ trú ở Mƣờng Lò (Văn Chấn, Yên Bái), Mường Than (Than Uyên, Lào Cai), Mường Chăn (Văn Bàn, Lào Cai), Mường Mụa (Mai Sơn), Mường La (thị xã Sơn La và huyện Mƣờng La), Mường Muổi (Thuận Châu), sông Mã, vùng Mường Dôn (Quỳnh Nhai) thuộc tỉnh Sơn La; Mường Quài (Tuần Giáo), Mường Thanh (Điện Biên Phủ) thuộc tỉnh Lai Châu. - Nhóm Thái có tên gọi là Tay Vạt, cƣ trú ở huyện Yên Châu, Sơn La thuộc Mường Vạt xƣa. - Các bộ phận có tên gọi là Tày Thanh, Man Thanh, Tày Đèng thuộc nhóm Tày Nhại ở miền tây hai tỉnh Thanh Hoá và Nghệ An tự nhận là Thái Đen, trong khi đó, bộ phận Thái cùng nhóm ngôn ngữ và những nét cơ bản về văn hoá cƣ trú ở Mường Xang (Mộc Châu) tỉnh Sơn La; Mường Mùn (huyện Mai Châu), Mường Chiềng Ký (huyện Đà Bắc) của tỉnh Hoà Bình lại tự nhận là Thái Trắng (Tay Khao hoặc Tay Đón). Ở phƣờng Noong Bua (Thành phố Điện Biên), theo số liệu thống kê của phƣờng có 1590 ngƣời Thái, chiếm 50% dân số toàn phƣờng, phân bố cụ thể ở các bản: Noong Bua: 464 chiếm 29,1% Phiêng Bua: 340 chiếm 21,38% Khe Chít: 365 chiếm 22,9% Hồng Lứu: 429 chiếm 26,98% Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 10
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Các nhà ngôn ngữ học xếp ngƣời Thái vào nhóm các dân tộc nói ngôn ngữ Tày- Thái. Tộc danh Thái nay đã đƣợc sử dụng phổ biến và rộng rãi. 1.3.2. Lịch sử cư trú Ngƣời Thái có mặt ở nƣớc ta rất lâu đời và đa số các học giả nghiên cứu về ngƣời Thái đều cho rằng tộc ngƣời này là cƣ dân cổ của vùng Tây Nam Trung Quốc (vương quốc Điền cổ xưa). Từ đó họ thiên di xuống phía Nam tới Myanma, Thái Lan, Lào và miền Tây Bắc Việt Nam. Sử sách cũ của ta cũng ghi khá rõ về sự có mặt của tộc ngƣời Thái ở Việt Nam. Theo các tài liệu này vào thời Lý các tù trƣởng Thía (Ngƣu Hống) đã về kinh đô dâng cống vật cho triều đình nhà Lý. Điều này chứng tỏ khi đó có thể là trƣớc đó nữa các tù trƣởng Thái đã chiếm lĩnh và làm chủ nhiều vùng ở Tây Bắc. Về sự Thiên di của nhóm Tay Đăm, trong đó có ngƣời Thái Đen (Tày Đăm) ở Noong Bua, vào Việt Nam, đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất đƣợc bắt đầu vào khoảng thế kỷ XI – XII. Khi đó, ngƣời Tày Đăm do Tạo Ngần và Tạo Xuông dẫn đầu đã đi từ Mường Ôm, Mường Ai, qua Mường Lò Luông (Mƣờng La, Vân Nam, Trung Quốc) vào Tây Bắc. Đầu tiên họ tới Mường Lò (Nghĩa Lộ) xây dựng vùng này thành trung tâm Thái do Tạo Lò đứng đầu. Đến thời con Tạo Lò là Lạng Chượng đã phát triển thế lực lên vùng Mường Chiến, Mường Trai, Ít Ong (Mƣờng La). Sau đó họ vƣợt Sông Đà vào Mường Bú, Mường La, Mường Muổi, Mường É (Thuận Châu), Mường Quài (Tuần Giáo). Và cuối cùng là Mường Thanh (Điện Biên). 1.3.3 Làng bản và xã hội truyền thống Trong xã hội truyền thống của ngƣời Thái ở Noong Bua, thiết chế xã hội tự quản cơ bản của họ là Bản, Mường. Đứng đầu Bản là Tạo bản, trên bản là “Tạo Lộng” (cai quản một số bản). Bản ngƣời Thái Đen ở Noong Bua là một đơn vị tổ chức có cƣ dân ổn định, có ranh giới đất đai rõ rệt. Cộng đồng lãnh thổ nhƣ thế đã in hằn thành khái niệm trong ý thức hệ truyền thống, nên mới có thuật ngữ biểu thị là “đin bản” (đất bản). Bản Đen ở Noong Bua Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 11
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên thƣờng đƣợc lập ở chân núi, đồi, xung quanh các thung lũng, cánh đồng và phần lớn đều là những điểm tụ cƣ đông đúc, có bản lên tới vài trăm nóc nhà. Trong các bản các ngôi nhà đƣợc bố trí sát cạnh nhau, quay mặt ra ruộng, hoặc sông suối, dựa lƣng vào núi đồi. Tuy hƣớng các ngôi nhà trong bản không giống nhau, nhƣng các ngôi nhà cạnh nhau không bao giờ nhà này đâm thẳng đầu đốc vào mặt tiền của nhà kia. Bản thƣờng gồm vai ba dòng họ cùng cƣ trú. Xƣa kia, “Tạo bản” là trƣởng tộc dòng họ lớn có công dựng và có thế lực trong bản. Trên bản là Lộng do “Tạo lộng” cai quản, và trên cao nhất là mƣờng do “Tạo Mường”đứng đầu. Trong xã hội cũ, mường là một hoặc nhiều thung lũng, các bản trong vùng phải tuân thủ sự quản lý của mường. Cho đến trƣớc 1954, về cơ bản xã hội Thái chịu sự quản lý của “Phìa Tạo”. Chế độ này đã từng đƣợc thực dân Pháp lợi dụng để cai trị Tây Bắc. Sau 1954, chế độ “Phìa Tạo” bị xóa bỏ, thay vào đó là cơ cấu hành chính bản, xã, phƣờng, huyện, tỉnh nhƣ hiện nay. 1.3.4. Đặc điểm kinh tế - xã hội * Về kinh tế Trƣớc 1954, nền kinh tế của ngƣời Thái Đen ở Noong Bua hết sức thấp kém, tự cấp tự túc và khép kín. Họ sinh sống bằng làm ruộng một vụ, làm nƣơng, săn bắt hái lƣợm. Vì thế đời sống của họ rất khó khăn, sản xuất phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Khi đó, công thƣơng nghiệp hầu nhƣ chƣa có gì, trao đổi mua bán chủ yếu bằng hình thức vật đổi lấy vật. Thời gian gần đây, bên cạnh các hoạt động sản xuất truyền thống, ở Noong Bua đã xuất hiện thêm một số hoạt động kinh tế mới: tiểu thủ công nghiệp, thƣơng nghiệp, du lịch và dịch vụ. Ví dụ, năm 2005, trong cơ cấu kinh tế của phƣờng: Nông nghiệp: 45 %; Thƣơng nghiệp: 20%; Dịch vụ và du lịch: 20 %; Các hoạt động khác: 15%; Phƣờng Noong Bua là một phần của cánh đồng Mƣờng Thanh, có ƣu thế về sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi. Tổng sản lƣợng lƣơng thực năm 2005 đạt 8 tấn, năm 2006 tăng lên 10 tấn, chiếm gần Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 12
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên 10% sản lƣợng lƣơng thực toàn tỉnh. Tổng giá trị sản phẩm xã hội năm 2005 đạt 15 tỉ đồng. Thu nhập bình quân đầu ngƣời năm 2005 đạt khoảng 2 triệu VNĐ. * Về văn hóa, xã hội Phƣờng Noong Bua hiện nay gồm 6 khối phố và 7 bản (Noong Bua, Phiêng Bua, Tà Lènh, Kê Nênh, Nà Nghè, Khe Chít, Hồng Lứu). Dân số 3.180 ngƣời, thuộc bốn dân tộc: Kinh, Thái, Hmông và Khơ Mú. Trong đó ngƣời Thái chiếm 50%, ngƣời Kinh 30%, HMông 5%, Khơ Mú 10%, các dân tộc khác 5%. Tuy có những phong tục tập quán khác nhau song các dân tộc ở Noong Bua đều có chung đặc điểm là cần cù, sáng tạo và kiên cƣờng dũng cảm trong đấu tranh cách mạng. Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật của cƣ dân ở Noong Bua, dân tộc Thái có nền văn hóa phát triển sớm và độc đáo. Ngƣời Thái có chữ viết riêng mƣợn từ hệ chữ Phạn (Ấn Độ). Nhờ thế mà họ đã ghi lại nhiều sự kiện chính trị, lịch sử, xã hội và các tác phẩm văn học có giá trị nhƣ: Xống chụ xon xao (Tiễn dặn người yêu), Khun Lú – Nàng Ủa, Ý Đón, Ý Đăm, Ý Nọi Nàng Xưa, trường ca Chương Han, truyện kể bản mường Những câu chuyện, những bài hát ấy đã phản ánh chân thực cuộc sống, tình yêu thiên nhiên, đất nƣớc, con ngƣời xứng đáng là những viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân gian. Mặt khác, Noong Bua cũng có nhiều nét đặc sắc về văn hóa các tộc ngƣời. Múa nón, múa sạp của ngƣời Thái, múa ô, múa khèn của ngƣời Hmông, múa trống, múa tăng bu của ngƣời Khơ Mú đều thể hiện sự duyên dáng, náo nức, rộn ràng trong các lễ hội. Trang phục của các dân tộc với những đƣờng nét thêu hoa văn tinh tế trên váy, áo, piêu góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa dân tộc ở Noong Bua. Trƣớc 1954, cuộc sống nhân dân các dân tộc phƣờng Noong Bua gặp nhiều khó khăn, lạc hậu, trình độ dân trí còn thấp. Trong thời gian thống trị (1890 – 1922) thực dân Pháp đã cho xây dựng một cơ sở y tế, giáo dục với nhỏ tại tỉnh lỵ và một vài huyện, trong đó có phƣờng Noong Bua. Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 13
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Ở Noong Bua xƣa kia, đa số nhân dân các dân tộc đều mù chữ, đặc biệt là vùng cao. Thực dân, phong kiến lợi dụng trình độ nhận thức và văn hóa thấp kém của nhân dân để duy trì, khuyến khích những tập tục lạc hậu. Ngƣời dân khi đó chỉ biết phục tùng sự bóc lột và cai trị của thực dân và bè lũ tay sai. Sau 1954, giáo dục – đào tạo đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm phát triển. Đến tháng 9/1999 Noong Bua đƣợc công nhận là đơn vị đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ. Năm học 2004 – 2005 có 4 trƣờng học với 1.200 học sinh. Phong trào xã hội hóa giáo dục, xây dựng trƣờng chuẩn quốc gia, phổ cập trung học cơ sở đang đƣợc đẩy mạnh. Sau giải phóng Tây Bắc, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân càng đƣợc quan tâm. Các phòng, ban y tế xã đƣợc thành lập, công tác vệ sinh phố, bản, đào giếng nƣớc ăn, vệ sinh gia đình đƣợc đẩy mạnh. Hiện nay bệnh viện đa khoa Điện Biên đƣợc xây dựng tại Noong Bua. Việc khám chữa bệnh, chăm sóc sức khẻo cho dân thực hiện khá tốt. Các chƣơng trình y tế quốc gia nhƣ: tiêu chảy, phòng bệnh, kế hoạch hóa gia đình, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho ngƣời nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, đƣợc thực hiện rất tốt. Chương 2 NGHỀ DỆT, MAY CỦA NGƯỜI THÁI ĐEN Ở NOONG BUA, ĐIỆN BIÊN 2.1. Nghề dệt may truyền thống Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 14
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên 2.1.1. Lịch sử của nghề dệt Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, các nghề thủ công của ngƣời Việt cổ cũng phát triển mạnh. Nó đã ghi dấu ấn trong giai đoạn Phùng Nguyên, đó là những nghề nhƣ: nghề gốm, nghề luyện kim, nghề đan lát, nghề mộc và nghề dệt. Đây là các nghề phát triển nhất đã để lại nhiều chứng tích về sự tồn tại và phát triển trong suốt thời kỳ Hùng Vƣơng. Từ những sợi tìm thấy trong thiên nhiên họ mang về đan lƣới giúp cho việc đánh cá và dệt vải đáp ứng cho nhu cầu mặc trong sinh hoạt đời sống của họ. Trên trống Đồng mới đào đƣợc năm 1987 ở xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, Hoà Bình có khắc hoạ rõ nét hình những ngƣời mặc váy, đóng khố bằng các loại vải thô. Những loại ấy lúc bấy giờ theo thƣ tịch Trung Quốc ghi nhận đã có ở nƣớc ta vào đầu thời Bắc thuộc và dệt bằng sợi bông, gai, tơ tằm. Việc đi tìm ông tổ nghề dệt ở Việt Nam là một việc rất khó và tìm hiểu về lịch sử nghề dệt của ngƣời Thái lại càng khó hơn vì nguồn tài liệu thành văn ghi chép về tổ tiên nghề dệt hầu nhƣ không có, nếu có chỉ là nguồn tƣ liệu truyền miệng trong dân gian đã trở thành những truyền thuyết, huyền thoại đƣợc lƣu truyền từ đời này qua đời khác. Ví dụ nhƣ truyền thuyết công chúa Thiếu Hoa là con gái vua Hùng Đình Vƣơng, thời các vua Hùng. Nàng có thể nghe và hỏi chuyện với chim muông, biết nghe tiếng của các loài bƣớm. Một hôm nàng vào rừng chơi nói chuyện với những con bƣớm và công chúa biết đƣợc có một loài bƣớm đẻ ra trứng, trứng đó nở thành sâu, loài sâu này chỉ biết ăn lá dâu và nhả tơ vàng. Sau đó công chúa theo bƣớm về bãi dâu ven sông và tận mắt chứng kiến cảnh đàn sâu đang làm kén. Nhờ đó nàng học đƣợc nghề trồng dâu, nuôi tằm dệt lụa. Đƣợc vua cha khích lệ, nàng đã tập hợp nhân dân từ vùng kinh đô xuống vùng bãi sông Hồng dạy họ cách trồng bông, nuôi tằm và truyền nghề cho họ. Truyền thuyết về công chúa Thiếu Hoa con gái vua Hùng đã nhắc tới địa danh Bạch Hạc (Việt Trì) ngày nay, đó cũng là một điểm dừng chân của Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 15
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên cuộc thiên di của ngƣời Thái trắng trƣớc khi về định cƣ ở Mƣờng Mùn sau này là Mai Châu bây giờ. Phải chăng truyền thuyết về vị tổ nghề dệt cổ truyền của ngƣời Việt Cổ ở đồng bằng Bắc Bộ có sự liên quan tới nguồn gốc tộc ngƣời Thái. Nó đƣợc thể hiện ở truyền thuyết về sự tích “Nang Mon”, nàng dâu của ngƣời Thái vùng núi rừng Tây Bắc khi nói tới nguồn gốc nghề dệt cổ truyền của họ. Truyện cổ của ngƣời Thái kể rằng: Thủa khai thiên lập địa ngƣời Thái chƣa có quần áo mặc, nàng Dâu xinh đẹp đi vào rừng chơi, thấy con tằm nhả tơ mới đem về dệt nên những tấm lụa thành quần áo để mặc. Để ghi nhớ ơn ngƣời phát hiện ra sợi tơ tằm dệt thành vải lụa giúp con ngƣời có quần áo mặc, ngƣời Thái trân trọng gọi nàng Dâu là “Nang Mon” và gọi con tằm nhả tơ là “ Tô Nang” (Con Nang). Nhƣ vậy có thể nói rằng nghề dệt của ngƣời Việt Cổ và nghề dệt truyền thống của ngƣời Thái đều có chung một nguồn gốc lâu đời. Nó trƣờng tồn theo quá trình phát triển của tộc ngƣời Thái, cùng các dân tộc thiểu số khác sinh sống trên núi rừng Tây Bắc 2.1.2. Nguyên liệu dệt, nhuộm Bên cạnh việc trồng các loại cây lƣơng thực, cây ăn quả, cây hoa màu ngƣời Thái từ lâu đời đã biết sử dụng một số chủng loại cây trồng, vốn là của tự nhiên để thoả mãn nhu cầu mặc và sinh hoạt hàng ngày. Đó là việc thuần dƣỡng các loại cây bông, cây dâu dùng làm nguyên liệu để tạo ra trang phục, hay các đồ dùng sinh hoạt khác. Mọi sản phẩm vải vóc do ngƣời Thái dệt ra từ khung dệt chủ yếu đƣợc tạo ra từ chất liệu vải sợi bông và vải sợi tơ tằm. Muốn có sợi bông, sợi tơ tằm để dệt, thêu ngƣời Thái phải trồng bông và trồng dâu nuôi tằm. * Cây bông Cây bông tiếng Thái gọi là “Co Phải”. Ở đây phổ biến hai loại bông là bông cỏ và bông luồi, đây là loại bông tồn tại lâu đời và phù hợp với đất đai, Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 16
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên khí hậu miền núi Tây Bắc. Tuy nhiên ngƣời Thái ở đây vẫn thích giống bông cỏ hơn vì nó dễ trồng và cho năng suất cao hơn bông luồi. Đối với đồng bào Thái cây bông đã gắn bó từ rất lâu đời. Đồng bào Thái Mƣờng Ca Da huyện Quan Hoá tỉnh Thanh Hoá có câu: “ Nhác làm việc nghĩ đến ngày đói Nhác trồng bông nghĩ đến mùa đông” Theo tập tục trƣớc khi trồng bông, đồng bào tiến hành việc chọn đất. Ngạn ngữ Thái có câu: “Đất đen trồng bông” (đin đăm pú phải). Khí hậu miền núi nƣớc ta, nơi có đồng bào Thái cƣ trú nhìn chung rất phù hợp với sự phát triển của cây bông cỏ. Đồng bào Thái Tây Bắc thích trồng giống bông cỏ. Nếu có vƣờn rộng, các gia đình có thể trồng bông ngay cạnh nhà. Nhƣng chủ yếu đồng bào trồng bông trên nƣơng. Đất trồng bông nhìn chung chiếm tỷ lệ nhất định so với toàn bộ diện tích canh tác. Ví dụ nhƣ ở bản Noong Bua tỷ lệ trồng bông khoảng 12%. Sau khi chọn đƣợc đất thì đồng bào bắt đầu làm lễ “hẹ hay” Lễ “hẹ hay’ đƣợc ngƣời Thái ở đây chọn vào những ngày tốt, cụ thể là ngày mùng 2 và mùng 4 trăng lên. Thủ tục bắt buộc là phải làm 4 cái “ta điêu” làm bằng tre đan hình mắt cáo, vòng tròn đƣờng kính 20-30 cm. Lễ “hẹ hay” gồm các công đoạn nhƣ sau: Trƣớc hết là dùng một cây tre dài 5m, bổ làm 5, chừa lại độ 80 - 1m.Trong đó 4 thanh đƣợc uốn xuống cắm vào đất, lấy 5 cái “ta điêu”(nói ở trên) buộc vào 4 thanh uốn và 1 thanh còn lại giữ nguyên cho thẳng đứng, ở ngọn buộc một bông lau. Cây tre này đƣợc dựng ở giữa nƣơng, nơi gò đất cao càng tốt. Lễ “hẹ hay” với ý nghĩa là đuổi sâu bệnh, cầu cho mƣa thuận gió hoà, nƣơng bông đƣợc tốt tƣơi, nở bông to. Sau lễ “hẹ hay” họ mới bắt đầu gieo những hạt bông đầu tiên. Trồng bông có thể ở trên nƣơng cũng có khi trồng ở đất vƣờn quanh nhà và đồng bào thƣờng chọn loại đất đen, tơi xốp, có độ ẩm cao. Hình thức trồng là chọc lỗ tra hạt. Sau khi chọn ngày tốt cả gia đình sẽ tiến hành lên nƣơng, ngƣời đàn Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 17
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên ông thì cầm một đoạn cây dài tầm 1,2m, đầu vót nhọn và đi trƣớc chọc lỗ, còn những ngƣời phụ nữ và trẻ em đi theo sau bỏ hạt bông vào các lỗ đó, mỗi lỗ họ tra 2-3 hạt bông sau đó lấp một lớp đất mỏng lên để tránh những con vật ăn hạt bông. Họ vừa chọc lỗ vừa cầu mong, vừa khấn mong cho hạt bông nở to, mong cho nƣơng bông tƣơi tốt và đƣợc mùa. Bông đƣợc chăm bón, làm cỏ 2-3 lần, khi cây bông cao ngang ngực thì bắt đầu ra hoa và kết quả. Khi quả bông nở bung là lúc đƣợc thu hoạch, đồng bào thu hoạch bông bằng cách lấy tay hái từng quả. Bông nở thành từng đợt, thƣờng thì đợt đầu là những quả bông to. Lúc hái bông đợt đầu cũng khấn và cầu mong cho bông nở rộ nhƣ sao, quả bông to hơn quả trứng và trắng nhƣ trăng rằm. Theo kinh nghiệm của ngƣời Thái, nếu trồng bông nơi đất tốt mỗi cây có thể cho thu hoạch từ 15-20 quả. Việc hái bông đƣợc tiến hành vào lúc 4-5h chiều. Đối với ngƣời trồng bông, nỗi lo lớn nhất khi gần đến vụ thu hoạch là gió lớn, vì những cơn gió này có thể quấn theo rất nhiều bông. Bông hái về đƣợc để trong những cái nong, ngƣời Thái có kinh nghiệm phơi sƣơng và phơi nắng những nong bông bao giờ bông nở hết mới thôi. Bông có chất lƣợng tốt là loại bông trắng và xốp. Tiếp đó ngƣời ta bỏ lá, rồi phơi bông một ngày, tối ủ lại cho ấm để tách hạt vì chỉ khi nào bông ấm mới tách đƣợc hạt ra. Trƣớc khi tách hạt, họ phải chọn bông. Bông để se sợi phải là bông trắng, số lƣợng bông thu hoạch về không phải tất cả đều đạt tiêu chuẩn. Vì vậy, đồng bào phải phân loại để chọn bông tốt, loại bỏ bông đen hỏng. Nhƣ vậy bông là khâu chuẩn bị nguyên liệu đầu tiên rất cơ bản và quan trọng cho sự ra đời của trang phục, cũng nhƣ các đồ sinh hoạt hàng ngày khác. * Nuôi tằm và chế biến tơ tằm: Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 18
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Cùng với nghề trồng bông, nghề trồng dâu nuôi tằm của ngƣời Thái đã có từ rất lâu đời. Hầu nhƣ gia đình nào cũng có một nƣơng dâu quanh nhà, ven bờ suối và nhà nào cũng có vài nong tằm. Giống tằm đƣợc đồng bào nơi đây nuôi có đặc điểm là không chịu đƣợc nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, nhiệt độ thích hợp cho chúng là 26-270 c. Khi kết thúc một lứa tằm, ngƣời ta thƣờng giữ lại một số kén tằm (bao gồm cả kén tằm cái và kén tằm đực) để gây giống cho lứa sau. Kén tằm hình thoi, có màu vàng và màu trắng. Kén tằm sẽ nở thành ngài và chui ra khỏi kén trong khoảng 7-8 ngày. Gần đến ngày nở, ngƣời ta phải dùng một cái bát úp lên kén để con ngài nở ra không bay đi đƣợc và cho phối giống từng đôi một, tiếp đến họ vẫn phải úp bát để giữ con ngài ở trong đó đẻ trứng. Trong vòng 3 ngày, mỗi con ngài sẽ đẻ đƣợc 2000-3000 trứng, sau đó chết. Chúng sẽ đẻ trứng vào những tờ giấy và đƣợc họ đựng vào những cái rổ, rá và tuyệt đối không để dƣới đất mà treo cao và đậy thật kín, nhằm mục đích không cho những con côn trùng phá hoại. Sau khoảng 7 ngày những quả trứng đó sẽ nở thành tằm. Những con tằm khi mới nở giống nhƣ những con sâu nhỏ và có màu đen. Thức ăn duy nhất của chúng là lá dâu, mỗi ngày ngƣời ta cho chúng ăn chia làm 4 lần: buổi sáng, trƣa, chiều và buổi tối. Lá dâu tằm ăn phải là lá dâu tƣơi và lau thật khô, nếu lá dâu bị ƣớt mà vẫn cho chúng ăn thì tằm sẽ bị chết. Những con tằm nhỏ mới nở thì khi đói chúng có màu trắng, còn khi no chúng chuyển sang màu xanh. Tằm con mỗi ngày ăn hết khoảng7-8 kg lá dâu, còn khi lớn chúng có thể ăn đƣợc rất nhiều và nhanh, mỗi ngày có thể ăn hết khoảng13-15 kg. Lúc tằm mới nở ngƣời ta thái nhỏ cho chúng ăn, còn khi chúng đã lớn thì để nguyên cả lá cho chúng ăn. Nếu tằm đƣợc ăn nhiều và hợp lý thì kén tằm sẽ dày và cho nhiều tơ. Một tháng sau tằm không ăn nữa mà bắt đầu vào làm kén. Tằm làm kén trong 3 ngày, sau đó họ thu gom lại những kén tằm và để trên gác bếp hoặc cất ở những nơi thật khô ráo. Khi đã có kén tằm thì ngƣời ta bắt đầu vào công việc kéo sợi. Ngƣời Thái đun một nồi nƣớc sôi to và luôn để trên bếp để duy Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 19
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên trì nhiệt độ. Kén tằm đƣợc thả vào nồi từng nắm một, ngƣời ta dùng một cái guồng quay tơ và một cái cặp giữ kén, khi quay lấy sợi thì ngƣời Thái dùng một tay để quay guồng kéo tơ, tay kia thì kéo sợi từ cặp giữ kén và cứ nhƣ vậy những ngƣời phụ nữ Thái thoăn thoắt đôi tay chẳng mấy chốc đã đƣợc những sợi tơ tằm màu trắng, màu vàng lấp lánh Hiện nay tại phƣờng Noong Bua đã trồng đƣợc 3 nƣơng bông và 2 nƣơng trồng dâu, 1 nƣơng trồng chàm với diện tích hơn 5 ha. Các nƣơng này do hội phụ nữ của phƣờng đứng ra tổ chức. Nhƣ vậy đã đáp ứng đƣợc những đơn đặt hàng của khách du lịch trong nƣớc và quốc tế trong việc sử dụng nhƣng nguyên liệu truyền thống để dệt vải và thêu khăn piêu. Đồng thời khuyến khích chị em phụ nữ sử dụng lại nguyên liệu truyền thống cùng với những nguyên liệu là sợi mậu dịch sẵn ở các cửa hàng của ngƣời Kinh dƣới xuôi đem lên bán. Nhƣ vậy, việc trồng bông cũng nhƣ trông dâu nuôi tằm đƣợc ngƣời phụ nữ Thái nơi đây rất coi trọng vì đây sẽ là công đoạn đầu tiên và quan trọng quyết định chất lƣợng của các sản phẩm dệt, thêu truyền thống. 2.1.3. Công cụ dệt Sau khi đã chuẩn bị đƣợc những nguyên liệu đầu tiên thì ngƣời Thái bắt đầu vào công việc biến những nguyên liệu đó thành sợi cho vào khung cửi để dệt. Từ bông với kỹ thuật thủ công, qua bàn tay lao động của ngƣời phụ nữ Thái những hiện vật của văn hoá trang phục cũng nhƣ những đồ dùng sinh hoạt khác xuất hiện. Đó thực sự là một chu trình sản xuất với các khâu công việc và tƣơng ứng với các khâu đó là những công cụ đặc trƣng riêng, chúng kế tiếp nhau trong một hệ thống. - Chọn, nhặt bông (lựa phải): Bông để rút sợi phải là bông trắng, xốp. Bông thu hoạch về không phải tất cả đều đạt tiêu chuẩn đó. Mặt khác trong quá trình cất giữ ở nhà, chất lƣợng bông bị ảnh hƣởng so với khi mới thu hoạch về. Bởi vậy trƣớc khi đem cán, đồng bào tiến hành chọn bông tốt, loại bỏ những bông xấu và có màu đen Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 20
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên - Cán bông (ỉu phải): Bông thu hoạch về còn cả hạt nên bƣớc đầu tiên là phải tách hạt ra khỏi quả bông. Bông đƣợc cán qua một dụng cụ thủ công đơn giản, nó gần giống đồ ép mía, gồm hai giá đỡ cao khoảng 1m, đƣợc đóng chắc chắn với một chân gỗ hình chữ T. Giá đỡ là hai trục gỗ xẻ rãnh đƣợc đặt sát nhau và đƣợc nối với tay quay. Khi ta quay hai trục gỗ này sẽ xoắn ngƣợc chiều nhau ép cho hạt bông bật ra, còn lại là bông trắng theo miếng vải đƣợc đính ở dƣới hai trục gỗ rơi xuống rổ. Hạt bông đƣợc tách ra thì họ cất để làm giống cho vụ sau. - Bật bông (tháp phải): Bật bông là công việc làm cho bông tơi xốp, sau khi bông đã đƣợc tách hạt ngƣời ta cho vào xôn (nhƣ sọt), rồi dùng dụng cụ ngƣời Thái gọi là “cồng tháp phải” để bật bông. Dụng cụ để bật bông là một cần, cần bật bông đƣợc cấu tạo bởi một chiếc thân và một chiếc dây. Thân cần là một thanh gỗ vừa chắc vừa dẻo, đoạn giữa hình trụ, hai đầu vót thon để đảm bảo độ bật của dây, dây cần thƣờng làm bằng sợi gai để khi bật không bị đứt dây. Khi bật bông đồng bào cho bông vào một cái sọt to sau đó dùng cần bật cho dây bắn vào các lớp bông. Dây cần bắn vào bông sẽ làm cho bông tơi xốp. - Quấn bông (lọ phải): Sau khi bông bật xong lúc này bông đã tơi xốp, trƣớc khi rút thành sợi phải qua một khâu gọi là quấn bông (lọ phải). Đây là khâu làm cho bông rời thành những cuộn bông nhỏ. Dụng cụ để cuốn bông là một miếng gỗ hình chữ nhật (tỷ lệ trên dƣới 15cm x 20cm) và một chiếc que nhỏ vót tròn nhƣ chiếc đũa. Trƣớc khi quấn đồng bào dải bông lên mặt gỗ, đặt đũa lên trên và lăn cho bông quấn xung quanh. Sau khi quấn xong họ rút que đũa ra quấn lƣợt khác. Các con bông này đƣợc ngƣời Thái cất giữ cẩn thận cho chúng luôn sạch trắng và tránh để gần lửa vì nó rất dễ cháy. - Kéo sợi (pắn phải): Từ những cuộn bông nhỏ đƣợc quấn ở trên họ dùng những cuộn bông này để rút thành sợi. Đây là một trong những công việc khó, mất nhiều thời gian và đòi hỏi một tay nghề khéo léo mới tạo ra đƣợc số lƣợng sợi cần thiết cho việc dệt vải. Ngƣời ta quay xa (la) để kéo và Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 21
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên xe sợi từ các thỏi bông. Xa làm bằng gỗ và có trục quay bằng kim loại. Tay phải quay guồng xa làm cho kim xa có kẹp sẵn thỏi bông quay theo, trong khi tay trái kéo bông ra chầm chậm, nghĩa là kéo đến đâu thì sợi đƣợc xe ngay đến đó. Kỹ thuật biến những lọn bông thành sợi dài, không bị đứt, sợi đều đã trở thành nghệ thuật của ngƣời phụ nữ Thái, đồng bào có câu: “Yêu người nào khen người ấy đẹp Guồng kéo sợi người nào người ấy quen tay” Để tăng thêm độ bền cũng nhƣ độ dai của sợi bông thuận lợi cho việc dệt vải, ngƣời ta phải hồ sợi, ngƣời Thái gọi là “khả phải”. Đồng bào dùng gạo tẻ nấu cháo cho nhuyễn thành bột, sao đó cho sợi vào đan khoảng 2-3h, bắc ra để nguội rồi vớt ra phơi và đập nhiều lần bằng một thanh gỗ nhằm để cho sợi vải thật chắc, rồi sau đó phơi khô. Sau đó sợi đƣợc cuốn vào một khung hình chữ I gọi là “pìa” để tại thành cuộn. Thông thƣờng kết thúc công đoạn này, ngƣời ta tháo cuộn sợi ra cất đi. Tuy nhiên sợi dùng để dệt váy thì đem nhuộm chàm. Tiếp theo là việc ngoắc. Trong tiếng Thái, thao tác này không có tên gọi, bởi chỉ là động tác ngoắc cuộn sợi vào một dụng cụ là “ cồng quang”. Sợi từ “ cồng quang” sẽ đƣợc kéo ra để cuộn vào chiếc suốt nhỏ lắp trên xa quay sợi. Thao tác kéo sợi ra để cuộn vào suốt nhƣ vậy gọi “piến phải”. Các suốt sợi này sẽ đƣợc cài vào lỗ đục của con thoi để dệt. - Dệt vải (tắm húk): Chiếc khung dệt khi chƣa dàn sợi gọi là “ki”, khi đã dàn sợi gọi là “húk’, vì thế thao tác dệt vải gọi là “tắm húk”. Khung cửi của ngƣời Thái là kiểu khung đứng, liên kết cố định nhiều chi tiết (4 cột, 2 thang trên, 2 thang dƣới, thanh ngang, ván ngồi ) làm bằng gỗ hoặc bằng tre, sử dụng lâu năm. Trƣớc khi dệt phải kéo dàn sợi (khền húk) với độ dài 10-15 sải tay, thƣờng thì họ dàn sợi dƣới gầm sàn, xung quanh cột nhà. Sau khi đã dàn xong sợi dọc, ngƣời ta tháo sợi ra và bắt đầu cho vào khung cửi. Họ luồn sợi qua go (hƣn) và bàn dập (phƣm) rồi buộc cố định vào khung cửi. Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 22
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Nhƣ vậy, để có đƣợc một tấm vải để làm trang phục hoặc làm các đồ dùng khác trong gia đình, ngƣời phụ nữ Thái đã phải trải qua rất nhiều công đoạn và đòi hỏi một tay nghề khéo léo, sự cần cù, chịu khó mới có thể làm nên những sản phẩm đẹp và độc đáo đến vậy. Chúng ta đang sống trong thời kỳ công nghiệp với sự phát triển cao của khoa học kỹ thuật, nếu nhìn lại những công cụ sản xuất trang phục và các đồ dùng sinh hoạt khác của ngƣời Thái nhƣ: cán bông, bật bông, xa quay sợi, khung dệt thì thấy thật thô sơ. Nhƣng đặt các công cụ đó trong thời kỳ “tiền công nghiệp” nhằm chế tạo ra vải thoả mãn nhu cầu sinh học thì giá trị đó thật lớn lao và đầy ý nghĩa. Tự tạo ra trang phục và các đồ dùng khác, cộng đồng Thái hoàn toàn tự chủ đƣợc cái mặc và những nhu cầu khác của cuộc sống. 2.1.4. Kỹ thuật dệt, thêu 2.1.4.1. Kỹ thuật nhuộm (nhọm) Nguyên liệu để tạo nên màu sắc trong các sản phẩm của ngƣời Thái đều đƣợc họ lấy từ thiên nhiên, nơi họ sinh sống và gắn bó. Đây không phải là công việc dễ dàng mà ngƣời Thái đã phải trải qua quá trình tìm tòi và thể nghiệm lâu dài mới có thể đúc rút ra đƣợc những kinh nghiệm đáng quý nhƣ vậy. Ngƣời Thái không có công thức nhuộm chung, việc sử dụng các nguyên liệu để nhuộm đều tuỳ thuộc và kinh nghiệm và hiểu biết của từng ngƣời. Có thể nhuộm ngay khi còn là sợi hoặc khi đã dệt thành vải, nhƣng riêng đối với tơ tằm thƣờng chỉ đƣợc nhuộm khi còn là sợi. Đối với sợi bông, trƣớc khi nhuộm chàm bao giờ ngƣời ta cũng hồ sợi bằng cách luộc sôi gạo trắng với con sợi rồi giặt kỹ trong nƣớc lã, để giúp cho sợi vải đƣợc mịn và chắc sợi khi dệt không bị đứt. Nếu muốn dệt vải đen, váy, khăn piêu, sợi trắng đã hồ phải đem nhuộm chàm. Lá chàm hái về, ngâm vào nƣớc trong vại, sau 2-3 ngày (mùa hè) hoặc 5-6 ngày (mùa đông), thì vắt lấy nƣớc, bỏ phần xác lá, bột chàm sẽ lắng đọng thành cao dƣới đáy vại. Trƣớc khi nhuộm, cần hào thêm vào đó một ít nƣớc vôi tôi và nƣớc gio, khuấy đều Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 23
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên lên cho đến khi có cục bọt nổi lên. Việc khuấy đều cũng cho thêm phụ gia nhiều hay ít tuỳ thuộc và kinh nghiệm, kỹ năng và thói quen của từng ngƣời. Khi nhuộm nhúng cả cuộn sợi và vại, dùng tay bóp kỹ và đều, sau đó lấy ra vắt kiệt nƣớc, giặt sạch rồi phơi; nhuộm nhiều lần cho vải bền màu. Để nhuộm chàm đƣợc đẹp và màu sắc nhƣ mong muốn ngƣời nhuộm phải có bí quyết và phải kiêng một số điều nhất định. Ví dụ họ kiêng phụ nữ có chửa vào khuấy chum chàm, hay kiêng ngƣời lạ xem chum chàm của họ. Chính vì vậy, trong bản thƣờng chỉ có một vài ngƣời biết nhuộm đẹp. Ngƣời Thái ƣa thích nhuộm sợi tơ tằm để lấy sợi thêu khăn piêu. Cây phăng đƣợc chặt thành khúc nhỏ đun kỹ, sau đó cho sợi tơ tằm vào ngâm 2-3 tiếng sẽ cho màu đỏ thẫm, còn để tạo tạo màu da cam ngƣời Thái dung rễ cây “xét”, lấy lớp vỏ, giã nhỏ rồi cho sợi tơ vào đun kỹ, sau đó phơi khô. Từ nguyên liệu vải sợi bông hay tơ tằm, để xử lý vào yêu cầu thẩm mỹ của trang phục hay các đồ dùng khác, ngƣời Thái đã tạo ra các màu: chàm, đỏ, vàng, đen, xanh, trắng Họ tạo thành mầu sắc bằng cách nhuộm vải bằng những cây, lá hoặc tự trồng hoặc lấy từ rừng về và tạo theo phƣơng thức truyền thống đó là: - Màu trắng (đón): Là màu để nguyên từ màu sợi bông - Màu chàm (cham): Nhuộm sợi bông trắng với nƣớc lá chàm - Màu đỏ (đanh): Ngâm sợi bông vào nƣớc cây “phăng” (co phang) hoặc cánh kiến, hoặc nƣớc quả cây “xởm pú” - Màu vàng (lƣơng): Nhuộm sợi vào nƣớc cây “hem” (co hem) - Màu đen (đăm): sau khi nhuộm chàm, đồng bào ngâm vào nƣớc củ nâu “mak bau” - Màu tím (pằng): Ngâm sợi vào nƣớc cây “co giọng giảnh” - Màu xanh (kheo): Ngâm sợi vào nƣớc cây “co khẩu cắm” Nếu dệt tấm thổ mặt chăn (nả pha) nền màu trắng và hoa văn màu đen (nả pha lao) thì con sợi để làm hoa văn phải đƣợc nhuộm đen. Sợi ấy đầu tiên phải đƣợc nhuộm chàm (cặn nin), sau đó ngâm qua nƣớc củ nâu (lang bàu) và Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 24
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên nhúng xuống bùn. Phƣơng pháp này cũng đƣợc áp dụng cả trƣờng hợp biến vải trắng thành vải đen. Nếu chỉ ngâm nƣớc cây chàm thì sợi hay tấm vải sẽ không có màu đen mà chỉ có màu xanh lam (xành nin) và không bền màu. Ngày nay, việc sử dụng các sợi mậu dịch về dùng đã khá phổ biến trong các bản ngƣời Thái. Vì vậy cho nên việc nhuộm vải bằng các loại lá, cây tự nhiên hầu nhƣ đã không còn nhƣ trƣớc kia nữa. Ngƣời Thái cũng nhƣ những tộc ngƣời khác, sau khi đã ra đƣợc những màu sắc ƣng ý và đẹp mắt thì họ đã biết cách giữ cho những mầu sắc đó không bị phai mờ theo thời gian. Thật là cảm động và độc đáo, dân ca Thái còn mƣợn cả hình ảnh của công đoạn dệt vải, nhuộm vải để diễn tả nỗi niềm chia ly của mình khi không lấy đƣợc ngƣời mình yêu. Điều đó cũng đủ thấy nghề dệt truyền thống của ngƣời Thái đã gắn bó với đời sống tộc ngƣời nhƣ thế nào: Ta yêu nhau cho kẻ khác lấy Lòng rối nhƣ guồng rối Lòng chát nhƣ nƣớc tro Đau xót nhƣ hoà cánh kiến hoà vôi Tiếc hối nhƣ pha nƣớc chàm quá mặn (dân ca) 2.1.4.2. Kỹ thuật dệt (tắm húk) Để tạo ra một tấm vải đẹp với bàn tay khéo léo của mình ngƣời phụ nữ Thái đã phải trải qua rất nhiều công cụ, đòi hỏi sự khéo léo và kiên nhẫn. Khung cửi của ngƣời Thái là kiểu khung đứng, liên kết cố định nhiều chi tiết (4 cột, 2 thang trên, 2 thang dƣới, thanh ngang, ván ngồi ) làm bằng gỗ hoặc bằng tre, sử dụng lâu năm Trong khung cửi theo kiểu hình khối chữ nhật, sợi đƣợc căng từ ở phía trên rồi kéo chéo xuống phía trƣớc bụng ngƣời ngồi dệt. Ngƣời Thái buộc từng đầu sợi và lõi cuốn vải (xơ pặn). Khung dệt có một số chi tiết quan trọng nhƣ: một go chính, hai go phụ, hai que chia sợi, hai cần đạp chân Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 25
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Hai go phụ (khau) dùng để bắt lóng và chia các sợi dọc. số lƣợng sợi dọc đƣợc chia đôi, đều nhau và đi qua hai “khau” theo nguyên tắc: cứ một sợi đi qua “khau” thứ nhất thì sợi tiếp theo đi qua “khau” thứ hai cho đến hết. Hai cần đạp chân (tin nhăm) dùng để điều khiển hai go lên xuống khi dệt vải. Mỗi cần đạp nối với một go. Go chính (phƣm) hay còn gọi là bàn dập sợi dùng để đẩy các sợi ngang dọc thoi đan qua vào nhau, vuông góc với các sợi dọc đƣợc giăng trên khung dệt để tạo thành vải. Mặt khác, “phƣm” còn có tác dụng cố định khoảng của các sợi trên vải. Hai que chia sợi (láp phải) có tác dụng giữ cho sợi dọc đƣợc căng và luôn ở vị trí cách đều nhau. “Xơ pặn” là bộ phận cuộn vải đƣợc dệt xong và nó có thể di động đƣợc. Khi dệt, ngƣời phụ nữ Thái ngồi vào phía sau khung cửi, hai tay, hai mắt, hai chân thao tác liên tục phối hợp nhịp nhàng. Cứ mỗi lần lao thoi ngang qua hai lớp sợi dọc thì một lần dùng “phƣm” dập sợi về phí mình. Tiếp đó lại dùng chân điều khiển đƣa các go phụ lên xuống theo chiều ngƣợc lại và lao thoi. Ngƣời Thái ở đây có 2 kiểu dệt là dệt trơn và dệt hoa văn: * Dệt trơn: Đây là kiểu dệt đơn giản nhất, có thể gọi là dệt trơn, chỉ là hình thức đan các sợi dọc và ngang theo kỹ thuật lóng mốt. Ngƣời ta thƣờng dùng kỹ thuật này để dệt vải bông thô trắng, vải sọc. Các công đoạn chuẩn bị đã hoàn thành, ngƣời phụ nữ có thể bắt tay vào công việc dệt vải. Họ đạp bàn đạp cho hai luồng sợi so le nhau lên, xuống. Nếu muốn hạ sợi xuống, ngƣời ta đạp xuống, go phụ sẽ kéo một luồng sợi xuống thấp hơn so với vị trí của sợi đƣợc căng trên khung cửi. Khi đã đƣa thoi qua, ngƣời dệt nhấc chân lên, kéo go chính về phía mình ngồi để đập sợi ngang vào khít nhau. Mức độ kéo go chính đập mạnh hay nhẹ là tuỳ thuộc vào ý định dệt vải dày hay thƣa của ngƣời dệt. Khi làn sợi bị kéo xuống đã trở Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 26
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên lại vị trí bình thƣờng, ngƣời dệt đạp vào bàn còn lại để hạ luồng sợi thứ hai xuống, lao thoi qua, kéo go chính đập sợi. Khi dệt đƣợc dài thì ngƣời dệt lại cuốn vải vào lõi “xơ pặn” và cứ tiếp tục dệt nhƣ vậy. * Dệt hoa: Là kiểu dệt phức tạp hơn, nếu muốn dệt hoa thì khung cửi phải có thêm các bộ phận phụ. Các go phụ đóng vai trò rất quan trọng trong việc dệt hoa văn (khau khít). Để dệt những mẫu hoa văn, ngƣời ta cần phải có go hoa (kháu khít) lắp vào khung cửi. Ngƣời Thái thƣờng phải luồn từng sợi của go hoa qua dàn sợi trên khung cửi. Mỗi giá của go hoa đƣợc luồn qua hai sợi dọc rồi buộc vào giá treo phía trên. Sợi go này tiếp sợi go kia cho đến hết chiều rộng của khổ vải. Cách dệt hoa nhƣ sau: ngƣời ta lấy lóng đan líu từ trên dây đựng que đƣa qua go hoa xuống dƣới, cầm lóng đan gạt lên, gạt xuống dọc theo dàn sợi, dệt cho những sợi của go hoa tách đôi làm hai làn sợi ở trên và ở dƣới. Những sợi go hoa phía trên giữ số sợi dệt còn lại ở vị trí bình thƣờng. Ngƣời ta lấy tay đè nhẹ lên làn sợi để tạo ra khoảng cách giữa hai làn sợi, luồn lóng đan qua rồi gạt xuống phía dƣới. Khi dệt, ngƣời ta đƣa “pẻn ngáng” luồn theo lóng đan trên dàn sợi, dựng nó lên, ngáng rộng hai làn sợi dệt và đƣa thoi qua. Cứ nhƣ vậy cho đến khi nào trên dàn sợi hết lóng đan thì ngƣời dệt dệt xong đƣợc một mảng hoa văn. Nếu muốn dệt vải kẻ ô vuông thì khi giăng sợi dọc vào khung cửi đồng bào giăng xen kẽ các sợi màu cần dệt. Tiếp đó khi dệt đồng bào điều chỉnh sọc ngang theo màu sợi mắc vào con thoi. Khi căng sợi dọc vào khung cửi nếu không khéo rất khó dệt. Nếu sợi dọc bị chùng thì dệt chậm, khó, ảnh hƣởng đến năng suất. Khổ vải truyền thống của ngƣời Thái thƣờng là trên dƣới 40cm. Theo cách tính của ngƣời Thái thì: 10 châu đƣợc tính bằng 40 sải tay và làm đƣợc 80 chiếc túi Thái. 10 châu bằng 1 con phải Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 27
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên 1 châu làm đƣợc 2 “nả pha” (mặt phà) Vào những lúc nhàn rỗi chị em phụ nữ dệt khung cửi xong mất 18-20 ngày, còn lúc bận thì dệt mất 30 ngày. Đó là dệt trơn, còn dệt hoa văn thì mất 40 ngày. Dệt vải với kỹ thuật thủ công nhƣ trên tuy không phức tạp nhƣng cũng không phải là công việc giản đơn. Vải đẹp hay xấu, thƣa hay dày, có bị lỗi hay không là những thƣớc đo để đánh giá tay nghề của ngƣời phụ nữ Thái. Với một chiếc khung dệt cơ bản thì một cô gái trẻ có thể học dệt loại vải có những hoa văn đơn giản, đƣa thêm vào chiếc que tạo hoa văn để làm nổi bật những yếu tố cá nhân. Trải qua thời gian, cô biết phát triển khả năng của mình khi đã có thêm kiến thức. Nàng dâu về nhà chồng mà không biết dệt vải thì đó là một điều vô cùng xấu hổ và bị nhà chồng cƣời chê, nên các cô gái Thái từ khi còn tấm bé đã chăm chỉ học dệt, thêu, may vá từ các bà, các mẹ. 2.1.4.3. Kỹ thuật thêu Nếu nhƣ kỹ thuật dệt để tạo hoa văn thƣờng chỉ áp dụng đối với chăn, màn, rèm màn là chính thì kỹ thuật thêu hoa văn lại áp dụng nhiều cho việc thêu mặt gối và đặc biệt là thêu khăn piêu. Nổi bật nhất trong kỹ thuật thêu của ngƣời Thái ở Noong Bua là kỹ thuật thêu khăn piêu (siếu piêu). Trong trang phục phụ nữ Thái chiếc khăn piêu luôn đƣợc mọi ngƣời nhắc đến nhƣ một phần không thể thiếu để làm tăng thêm vẻ đẹp của ngƣời con gái. Khăn piêu là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời do bàn tay khéo léo của ngƣời con gái Thái tạo nên. Piêu là một sản phẩm văn hoá tinh thần in đậm bản sắc dân tộc Thái. Nếu nhƣ hoa văn tạo từ kỹ thuật dệt thƣờng chỉ thể hiện sự mô phỏng tƣợng trƣng thì hoa văn tạo ra từ kỹ thuật thêu chẳng những phong phú, đa dạng về hình dáng, màu sắc, mà còn có thể đáp ứng đƣợc cả hai phong cách thể hiện: mô phỏng, cách điệu và tả thực rõ nét. Rõ ràng, trong kỹ thuật dệt với các thao tác chính là bắt go, đan cài và luồn sợi theo công thức nhất định, Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 28
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên ngƣời ta không thể tạo đƣợc những đƣờng cong tự nhiên, mềm mại hay những nếp uốn theo ý muốn. Trong khi đó, kỹ thuật thêu có thể khắc phục đƣợc hạn chế này và còn có khả năng sáng tạo trong quá trình thể hiện đồ án hoa văn. Đồng bào Thái làm “piêu” tự loại vải bông tự dệt. Trƣớc khi thêu từ miếng vải đã đƣợc nhuộm chàm, họ cắt ra và có chiều dài đƣợc đồng bào đo bằng một sải tay, để làm khăn đội đầu. Chàm là màu nền để trên đó ngƣời phụ nữ Thái thêu các đồ án hoa văn bằng các loại chỉ màu nhƣ đỏ, vàng, tím, da cam ở hai đầu khăn. Khăn piêu đƣợc tạo ra bằng cách thêu chỉ màu đan trên mặt vải. Những sợi chỉ đủ màu sắc đƣợc phối màu với nhau một cách rất hài hoà. Điều đáng nói là tất cả các cô gái Thái không đƣợc học qua một trƣờng lớp nào về tạo hình, phối màu mà những chiếc khăn piêu họ tạo ra đều đƣợc trang trí rất hài hoà, đẹp mắt. “Piêu” Thái không phải trang trí ở toàn bộ diện tích của nó mà đƣợc tập trung đồ án trang trí ở hai đầu của khăn. Trƣớc khi thêu các đồ án trang trí ở hai đầu khăn, phụ nữ Thái ghép vải màu đỏ làm viền. Các viền đỏ bọc cho sợi ở các đàu khăn khỏi bị sổ ra, vừa nhƣ là giới hạn diện tích trang trí ở đầu khăn. Đƣờng viền đỏ bọc ở 3 mép đầu khăn rộng trên dƣới 1cm. Phụ nữ Thái dùng lối khâu luồn rất khéo để hạn chế tới mức tối đa đƣờng chỉ lộ ra ngoài để cho đƣờng viền màu đỏ và nền chàm của khăn liền làm một. Trƣớc khi thêu, chị em làm những chiếc “cút” để đính vào “piêu”. “Cút piêu” đƣợc làm từ một mảnh vải đỏ rộng khoảng 1cm, bên trong bọc lõi chỉ rồi cuộn tròn lại. Theo Cầm Trọng thì “cút piêu” của ngƣời Thái có nguồn gốc sâu xa. Bởi ngƣời Thái có truyền thuyết kể rằng: Ngày xƣa, xƣa lắm có một mƣờng toàn phụ nữ sinh sống với nhau. Bất cứ kẻ khác giới nào lọt vào mƣờng đó đều bị giết chết. Tình cờ có một ngƣời đàn bà đi rừng gặp một ngƣời ở mƣờng đàn ông lạc sang. Hai ngƣời đó đi lại với nhau và sinh đƣợc một ngƣời con trai lớn lên, ngƣời con trai đó thấy sự vô lý trong cách sống của “mƣờng mẹ” nên đã về “mƣờng bố” huy động lực lƣợng sang đánh Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 29
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Mƣờng đàn bà thất bại, xin mƣờng đàn ông tha chết và hứa từ đấy về sau không ở tách riêng mƣờng đàn ông. Họ sẽ mặc váy khâu kín và đội khăn. Để đánh dấu sự thất bại của mƣờng đàn bà, mƣờng đàn ông đã in một “dấu ấn” lên trên chiếc “piêu”, đó là những chiếc “cút” đính trên “piêu”. Đó là những dấu ấn của ngón tay đã điểm chỉ vào đó. Nếu theo truyền thuyết thì khi ngƣời Thái biết làm “piêu” thì đồng thời cũng biết làm “cút”. “Cút piêu” làm rất cầu kỳ, chỉ những ngƣời thành thạo thêu thùa mới biết làm. Các “cút” sau khi làm xong đƣợc ghép rất khéo léo vào đầu “piêu”. Phụ nữ Thái dùng các loại chỉ màu để ghép “cút” vào “piêu”. Nhìn vào chiếc “cút” đƣợc đính vào đầu “piêu” ta rất khó đoán nhận ra mạch chỉ khâu ghép các đƣờng trang trí với nhau. “Cút piêu” thƣờng đƣợc sắp xếp thành từng chùm với số lẻ (3, 5, 7) ở hai đầu khăn. Vậy cho nên “cút” trên “piêu” bao giờ cũng là “cút” chùm trông rất đẹp mắt. Sau khi bọc viền và ghép “cút piêu” xong, phụ nữ Thái bắt đầu công việc thêu “piêu”. Khi thêu những đồ án hoa văn đa dạng, phong phú lên hai đầu khăn, họ nhìn theo mẫu song không rập khuôn một cách máy móc. Trong quá trình thêu họ có thể sáng tạo theo ý muốn chủ quan của mình. Nét đặc biệt là, ngƣời phụ nữ Thái không thêu “piêu” ở mặt phải (nhƣ lối thêu thông thƣờng) mà lại thêu từ mặt trái, các đồ án hoa văn với những màu sắc hài hoà và đẹp mắt lại hiện lên ở mặt phải. Đó là lối thêu truyền thống với trí tƣởng tƣợng của kỹ thuật và mỹ thuật dân gian tài tình. “Piêu” đƣợc thêu theo lối “luồn chỉ” hay “đan chỉ” màu vào vải. Nhƣng cái khó là phải tính toán theo nguyên tắc nhất định để luồn chỉ mặt trái mà hoa văn lại hiện lên chính xác ở mặt phải. Hoa văn “piêu” không giản đơn, điểm xuyến mà là một hệ thống đồ án có bố cục nội dung phức tạp. Rõ ràng nếu ngƣời phụ nữ Thái không có một trình độ thêu nhất định thì sẽ không bao giờ có đƣợc chiếc “piêu” đẹp bằng chị, bằng em. Việc thêu “piêu” thật sự đòi hỏi phụ nữ Thái phải nắm chắc nguyên tắc, kỹ thuật, phải thuộc đồ án hoa văn với hai mặt phải, trái của nó. Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 30
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Nếu nhƣ 6, 7 tuổi con gái Thái phải làm quen với việc nhặt bông, se sợi thì khi lớn lên 10-12 tuổi bắt đầu làm quen với công việc thêu thùa, với việc làm “cút” và thêu “piêu”. Ở độ tuổi đó, thành viên nữ của cộng đồng Thái phải biết nhìn vào mẫu “piêu”, biết nhận ra bố cục của đồ án hoa văn. Học thêu “piêu” với các cô gái Thái là một quá trình nhận thức và rèn luyện đôi bàn tay khéo léo của mình để chuẩn bị bƣớc vào đời. Việc học dệt vải và học thêu khăn là bài học phổ thông, tất yếu của mọi thành viên nữ trong nếp sống của cộng đồng Thái. Bởi vậy “piêu” còn là tiêu chuẩn xã hội để đánh giá một ngƣời phụ nữ. Qua chiếc “piêu” có thể biết chủ nhân của nó là ngƣời tài hoa, siêng năng, chịu khó hay là ngƣời vụng dại, lƣời nhác. Nhƣ vậy để có đƣợc tƣ duy kỹ thuật thủ công nhƣ vậy ngƣời Thái phải trải qua quá trình lao động, sáng tạo và tích lũy lâu dài. Điều đó cho ta thấy một trình độ tƣ duy khá cao của cộng đồng Thái. Đó là nhân tố quan trọng góp phần có tính quyết định sự tồn tại của nghề thủ công tuyền thống này và tạo nên bản sắc văn hoá Thái. 2.1.5. Mô típ hoa văn trên các sản phẩm dệt, thêu Hoa văn Thái bắt nguồn từ chính cuộc sống lao động của đồng bào và gắn bó với họ trong cuộc sống hàng ngày. Thông qua những hoa văn đó, ngƣời Thái phản ánh những tâm tƣ, tình cảm cũng nhƣ ƣớc mơ và khát vọng vƣơn tới cái đẹp. Tục ngữ Thái có câu: Khuổm mư pền bó cai Hài mư pền bó tong khày cai (Úp tay thành hoa Đào nở Mở tay nở bừng hoa gạo) Câu tục ngữ ca ngợi bàn tay khéo léo,sự chăm chỉ, siêng năng của ngƣời phụ nữ. Từ đôi bàn tay khéo léo ấy họ đã tạo ra biết bao sản phẩm quý giá và đáp ứng đƣợc nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của chính tộc ngƣời họ. Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 31
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Hoa văn trên các sản phẩm dệt, thêu rất phong phú và đa dạng và chúng đƣợc thể hiện phổ biến nhất ở các mô típ sau: 2.1.5.1. Mô típ hoa văn hình động vật Hoa văn hình con rồng (lai linh): Là hoa văn đƣợc ngƣời Thái rất ƣa thích trong dệt mặt phà (nả pha). Đó là hình con rồng đầu có bờm rậm, mình dài và nhiều đƣờng gấp khúc, có 4 chân có khi là không có chân, những con rồng thƣờng là màu đỏ nổi bật trên nền trắng của mặt phà trông rất đẹp mắt. Ngày xƣa con rồng là biểu hiện của sự giàu sang, phú quý của gia tộc phìa, tạo bề thế và chỉ con gái của những gia tộc này mới đƣợc sử dụng họa tiết hoa văn hình rồng. Còn ngày nay thì hoa văn này đã đƣợc phổ biến rộng rãi trong từng gia đình ngƣời Thái. Hoa văn hình khỉ (lai linh): Đó là hình những con khỉ nối đuôi nhau vây quanh ô vuông chứa hình sao 8 cánh. Họa tiết hoa văn hinh khỉ xuất hiện ở mặt phà và khăn piêu, đƣợc ngƣời phụ nữ Thái dệt và thêu rất khéo léo. Hoa văn hình con voi (lai trang): Hoa văn hình con voi thì mới xuất hiện trong những năm gần đây và đƣợc ngƣời Thái sử dụng họa tiết này để thêu khăn piêu. Sở dĩ mới có hoa văn này là do ngƣời Thái ở đây đã học đƣợc cách thêu khăn piêu của ngƣời Thái ở Sơn La. Hoa văn hình con voi phổ biến nhất là ở vùng Thái Nghệ An, nổi bật nhất là ở chân váy. Hoa văn hình chim (lai nộc): Đáo là những ô vuông nhỏ đen, trắng xen kẽ nhau tạo thành mảng hoa văn lớn. Hoa văn hình chim có nhiều ở mặt phà, ngoài ra còn có ở khăn piêu, túi Thái và địu. Hoa văn xƣơng cá (lai cảng pa): Những hình xƣơng cá cách điệu xếp đối xứng bốn mặt qua tâm chứa trong các hàng ô vuông xếp chéo. Hoa văn xƣơng cá đƣợc xuất hiện nhiều ở khăn piêu. Hoa văn chân chó (lai tin ma): Đó là những hình ô vuông nhỏ xen kẽ nhau, hoa văn chân chó thƣờng có màu đen, xanh trên nền trắng và đỏ. Nó có nhiều ở túi Thái và mặt phà. Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 32
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Hoa văn hình con rết (lai chắc khếp): Đƣợc trang trí ở các cạnh của khăn piêu, là hình những con rết nhiều chân với các màu đỏ, xanh, trắng kết hợp với nhau rất khéo léo và hài hoà. Hoa văn hình con bƣớm (lai bửa): Hình những con bƣớm cách điệu đƣợc xếp thành từng cặp quay đầu ra hai phía, cũng có khi chụm đầu vào nhau phía trong những ô vuông xếp chéo. Mô típ hoa văn hình con bƣớm ta bắt gặp nhiều ở mặt phà, khăn piêu và mặt gối. 2.1.5.2 .Mô típ hoa văn thực vật Đầu tiên phải kể đến đó là rau dớn (phắc cút): Đây là một loài cây thân mềm, mọc ở ven suối mà ngƣời Thái rất thích ăn. Mô típ hoa văn này nhƣ hình móc câu, nhờ trí tƣởng tƣợng phong phú, kết hợp với đôi bàn tay khéo léo phụ nữ Thái đã biến chúng thành những chiếc cút piêu đính ở viền khăn piêu. Nhờ đó mà những chiếc khăn piêu trở nên đẹp và sặc sỡ hơn. Mô típ hoa văn móc câu còn đƣợc dùng để trang trí trong các “khoang” ô vuông đồng tâm. Nhiều chiếc khăn piêu, cả đồ án hoa văn chỉ đạo chỉ trang trí toàn hình móc câu. Nhƣng với tài năng khéo léo trong việc sắp xếp, tính toán và kết hợp hài hoà, mà các lớp hoa văn đó không gây cho ngƣời xem cảm giác đơn điệu. Với bảng màu sặc sỡ của đồ án hoa văn, tƣởng nhƣ các mô típ đó sẽ lấn át nhau, nhƣng trái lại các mô típ đó vẫn hiện lên rõ rệt, cân đối, hài hoà. Mô típ thứ hai cũng khá phổ biến ở khăn piêu và mặt phà đó là hình chạc cây (nga may). Hình họa chủ yếu của mô típ chạc cây ban gồm một thân cây ở giữa, các cặp cành cây mọc đối xứng hai bên, ở phần ngọn của các cành cây thƣờng là các hình hoa hoặc hình quả đƣợc cấu tạo từ hình quả trám hay ô vuông nhỏ. Mô típ chạc cây cũng đƣợc thể hiện ở nhiều kiểu khác nhau. Nhìn vào đồ án hoa văn chạc cây ta cảm thấy nhẹ nhàng, mặt khác gam màu ở các đồ án này dịu dàng, đơn giản nhƣng rất đẹp và tài tình, ít dùng gam màu chói chang, sặc sỡ. Mô típ chạc cây ta bắt gặp đƣợc ở khăn piêu và khăn mặt truyền thống. Đó là những chiếc khăn mặt màu trắng đƣợc thêu những hình Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 33
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên chạc cây ở hai bên đầu khăn. Nó đƣợc cô dâu biếu kèm với khăn piêu khi về nhà chồng. Bên cạnh đó còn có mô típ hoa xoan và hoa mƣớp trắng. Chúng đƣợc xuất hiện nhiều ở khăn piêu và túi Thái. Hoa xoan (book hiên): Gồm những hình chữ thập thủng giữa nằm trong các ô hình vuông hay hình thoi xếp chéo. Hoa mƣớp trắng (book co dom): là những hình quả trám xếp ché, chứa trong 4 hình chữ thập ở 4 góc. Ngoài ra còn có các mô típ khác nhƣ: Hoa Ban (book ban), hoa bí (book ƣk), hoa phay (book bên) đó là các mô típ hoa phụ đƣợc trang trí trong khoảng cách giữa các cặp “tin xao” ở chiếc khăn piêu và trên mặt gối, nhƣng cũng có khi nó lại là họa tiết chính trong các đồ án hoa văn này. 2.5.1.3 Các mô típ khác Mô típ hình răng cƣa: Thƣờng thƣờng mô típ này đƣợc trang trí đƣờng riềm vành ô vuông ngoài cùng của đồ án hoa văn chủ đạo. Đặc biệt là ở bất cứ vùng nào thì mô típ này cũng chỉ dùng một loại chỉ màu trắng. Mô típ hình răng cƣa đƣợc trang trí ở mặt phà, khăn piêu và các sản phẩm khác nhƣ túi đeo, mặt gối, địu Mô típ hình chữ “V”: Loại mô típ này thƣờng đóng vai trò mô típ chủ đạo trong đồ án hoa văn nhƣ mặt phà, khăn piêu. Có thể chia mô típ chữ “V” thành hai dạng: Dạng chữ “V” rời là những chữ “V” tách riêng và dạng thứ hai là dạng chữ “V” nối liền tạo thành đƣờng hình răng cƣa. Mô típ hình tam giác: Tuỳ từng đồ án hoa văn mà các kiểu dạng tam giác đƣợc bố trí sắp xếp khác nhau. Có khi là các hình tam giác đứng tách riêng, có khi lại là hình tam giác kép hay liền cạnh, hoặc là xếp đối đỉnh nhau, đó là ở mặt phà. Còn ở khăn piêu thì hai hàng tam giác đối đỉnh với nhau tạo thành mô típ hoa văn rau cỏ bợ (phắc ven), có khi là cặp tam giác đối cạnh đáy với nhau tạo nên mô típ hoa văn hình quả trám. Những mô típ này thƣờng Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 34
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên đƣợc trang trí ở các vành ô vuông xen với các mô típ hoa văn khác, cũng có khi những mô típ này lại là mô típ chính cho cả đồ án. Còn riêng với mặt gối thì các hình tam giác lại đo cắt ra từ những miếng vải màu và chắp lại với nhau. Có nhiều kiểu chắp khác nhau tạo cho các hình tam giác phong phú về kiểu dáng và hài hoà về màu sắc. Hoa văn sấp ngửa (lai khuổm hài): Đó là những đƣờng dích dắc tạo thành những hình tam giác đối cạnh đáy với nhau, chia thành hai nửa đen - trắng đối lập. Xung quanh có đƣờng hồi văn gấp khúc chạy làm diềm. Ngoài ra còn có các mô típ hình chữ S và hình sao 6 cánh hay sao 8 cánh, đƣợc bắt gặp nhiều ở những chiếc khăn piêu và các hình thoi đƣợc xếp chồng lên nhau toả ra xung quanh. Hình ảnh sao 8 cánh là hoạ tiết rất phổ biến mà ngƣời Thái sử dụng. Nó xuất hiện hầu hết trên các hoa văn mặt phà và khăn piêu nhƣ một hình ảnh chính. Có lúc, sao 8 cánh chiếm hầu hết diện tích của mảng hoa văn, có lúc nó đƣợc bao bọc bởi hình vuông hay hình thoi. Đôi khi nhiều ngôi sao 8 cánh đƣợc sắp sếp thành đƣờng diềm bao quanh một mẫu hoa văn hoặc một sản phẩm dệt. Nhƣ vậy, đặc điểm chung của mẫu hoa văn Thái là sự kết hợp hài hoà giữa mầu sắc và hoa văn. Mỗi tấm thổ cẩm là một bức tranh sống động phản ánh đời sống, sinh hoạt của dân tộc Thái. Các màu sắc sáng, tối, nóng, lạnh đƣợc bàn tay ngƣời phụ nữ xử lý rất khéo léo và tài tình, khó có thể lẫn lộn với cách trang trí của dân tộc khác. Chúng không chói trang, đậm đặc nhƣ kiểu trang trí trên vải của ngƣời Hmông, ngƣời Dao, nhƣng cũng không quá tối nhƣ các loại vải vủa ngƣời Tày, Nùng. Ngƣời Thái thích dùng hoa văn để trang trí trên nhiều loại sản phẩm khác nhau. Hệ thống hoa văn trên các sản phẩm dệt, thêu rất phong phú và đa dạng. Tuy ở mỗi địa phƣơng, có thể có nhiều cách trang trí khác nhau. Nhƣng vẫn vận dụng chung phong cách trang trí truyền thống tộc ngƣời. Đó là sự hài hoà cân đối về bố cục, sự phong phú nhƣng rõ ràng, rành mạch về mô típ và màu sắc hoa văn. Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 35
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Các mô típ hoa văn Thái đều bắt nguồn từ cuộc sống lao động của họ. Nhờ trí tƣởng tƣợng phong phú, kết hợp với đôi bàn tay khéo léo mà ngƣời phụ nữ Thái đã tạo ra biết bao sản phẩm đẹp mắt và vô cùng quý giá. Trên những tấm thổ cẩm ấy với kỹ thuật dệt, thêu, chắp ghép các mảnh vải màu, phụ nữ Thái đã miêu tả tài tình sự hoà đồng giữa con ngƣời và thiên nhiên. Thông qua đó thể hiện tâm tƣ, tình cảm cũng nhƣ khát vọng của con ngƣời nói chung và ngƣời Thái nói riêng. 2.1.6. Các loại sản phẩm dệt, may, thêu truyền thống 2.1.6.1. Đồ dùng trong sinh hoạt hàng ngày Những sản phẩm dệt của ngƣời Thái gắn bó với họ từ thủa lọt lòng cho tới khi từ giã cuộc đời. Tất cả các đồ dùng bằng vải vóc đƣợc dùng cho mọi thành viên trong gia đình đều do bàn tay của ngƣời phụ nữ làm ra. Đồ dùng trong sinh hoạt hàng ngày phải kể đến nhƣ: váy, áo cóm, khăn piêu, địu, rèm màn, rèm cửa màn, gối đệm. Váy cổ truyền của ngƣời Thái là tấm váy tự dệt bằng vải bông và nhuộm màu chàm tím đen. Tấm váy Thái có độ dài chấm gót chân, đƣợc cắt may theo hình ống từ cạp đến gấu. Hiện nay họ không dùng vải dệt nữa mà mua váy làm sẵn ở trên thị trƣờng bằng lụa hay vải nhung màu tím than, ở chân váy điểm xuyến một vài hoa văn, thƣờng là hoa văn hoa, lá. Mép dƣới ở bên trong lòng váy thì khâu một táp vải, bề rộng 2-3cm, màu phổ biến là màu đỏ. Nhờ đƣờng diềm ấy mà thân váy đứng và chân váy cứng làm tăng thêm sự uyển chuyển và duyên dáng của thân hình. Để tôn thêm vẻ đẹp của tấm váy, chiếc áo ngắn bó sát thân của phụ nữ Thái, “sửa cóm” đã trở thành một nhân tố không thể thiếu của bộ y phục phụ nữ Thái. Trƣớc đây, phụ nữ Thái thƣờng dùng một loại sửa mà nay ít thấy dùng phổ biến, đó là loại “sửa hổm nôm” (yếm). “sửa hổm nôm” đƣợc tạo bởi tấm vải hình chữ nhật gấp đôi lại, khoét một lỗ hình tròn ở chỗ mép gấp. Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 36
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Hiện nay thì loại áo cóm ngắn, có hàng cúc bƣớm giữa ngực rất phổ biến, đƣợc ngƣời phụ nữ Thái mặc hàng ngày cũng nhƣ các dịp hội hè, lễ tết Đi kèm với váy và “áo cóm”, để có đƣợc một bộ trang phục hoàn chỉnh thì không thể thiếu đƣợc chiếc khăn piêu. “Piêu” đƣợc ngƣời phụ nữ Thái sử dụng để che đầu khi đi nắng, gió, làm ấm mái đầu khi mùa đông giá lạnh và khi “piêu” còn đƣợc dùng làm khăn quàng cổ giữ ấm vào mùa đông. Không chỉ có vậy “piêu” còn là vật trang sức quan trọng của các cô gái Thái trong sinh hoạt hàng ngày, nhất là trong lúc đi chơi hay trong hội lễ. Bộ vật dụng cần cho ngủ bao gồm: Đệm nằm (xứa), chăn (pha), gối (mon), rèm màn (dắn) và rèm cửa màn (man). Đây là những sản phẩm không những phục vụ trực tiếp cuộc sống của đồng bào mà còn là sản phẩm tƣợng trƣng cho sự chăm chỉ và giầu có hoặc biếng nhác, nghèo nàn. Đã chăm chỉ, giàu có và khéo léo thì phải có những chồng chăn đệm xếp thành từng tầng ở mé đầu gian ngủ, nhƣ câu tục ngữ: Còng xứa piêng pha Cong pha piêng thản (Đống đệm cao bằng vách Đống chăn cao sát gác quá giang) Từ lâu đệm Thái đã nổi tiếng là bền, ấm và đẹp. Bởi vì thế khi bƣớc vào cơ chế thị trƣờng, sản phẩm này đã nhanh chóng trở thành mặt hàng đƣợc nhiều ngƣời ƣa chuộng. Đệm bông gạo là loại đệm đƣợc sử dụng nhiều nhất và xếp vào loại A bởi chất lƣợng của nó vừa mềm, đẹp lại vừa bền. Chăn Thái cũng mang những sắc thái văn hoá tộc ngƣời. Ruột thì làm bằng bông vải bật phồng và đƣợc can các đƣờng chẻ ngang, dọc, chéo tạo thành tấm. Mặt ngoài chăn (nả pha) là chỗ thể hiện ra bên ngoài những ý niệm thẩm mỹ nên đƣợc khâu phủ bằng tấm thổ cẩm. Gối Thái làm rất khéo, có hình hộp chữ nhật chiều dài 30-50cm, lõi nhồi bằng bông gạo, cỏ ranh, bông lau nhƣ đệm nên rất mềm. Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 37
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Bộ để ngủ còn có rèm màn và rèm cửa màn. Thân rèm xƣa thƣờng làm bằng vải chàm đen hoặc các loại vải dệt hoa kẻ sọc. Một dải vải trang trí chạy viền ở đỉnh mang tên là “đầu rèm” (hua man) làm bằng vải thổ cẩm hoặc bằng vải hoa văn ghép. Đó là cách lấy các miếng vải màu trắng, xanh, đỏ, tím, vàng khâu ghép lại thành từng ô vuông cắt chéo tạo ra các tam giác màu mè xen kẽ, trông sặc sỡ và vui mắt. Đồ dùng trong sinh hoạt hàng ngày không thể không kể đến địu (là). Phụ nữ Thái rất chú ý đến mặt địu. Từ khi còn mang thai, chị em đã chuẩn bị vải làm địu trong đó có phần mặt địu. Mặt địu là một đồ án hoa văn sặc sỡ. Thƣờng thƣờng đồ án hoa văn đƣợc tạo nên bởi cách chắp các mảnh vải hình tam giác lại với nhau trông rất đẹp mắt. 2.1.6.2. Trong cưới xin Đám cƣới là mốc quan trọng trong cuộc đời của mỗi con ngƣời và đánh dấu sự trƣởng thành của ngƣời thanh niên Thái. Những sản phẩm vải vóc rất quan trọng, không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày và trong đám cƣới thì nó lại càng trở nên quan trọng hơn, đã trở thành lệ chung cho tất cả các đám cƣới của ngƣời Thái. Trong ngày cƣới, cô dâu mặc chiếc “xửa cóm” màu chàm mới nhất của mình. Chiếc “xỉn” (váy), “xài èo” (thắt lƣng) mới hôm đó cũng đƣợc đƣa ra sử dụng. Bộ áo, váy mặc trong ngày cƣới là bộ đƣợc cô dâu chuẩn bị từ trƣớc rất cẩn thận. Khác với ngày thƣờng, hôm cƣới cô dâu khoác lên mình một chiếc “xửa chai” (áo dài) hay “xửa luông” (áo lớn). Chiếc áo dài đƣợc cô gái chuẩn bị cho mình sau khi đôi trai gái và hai gia đình chắc chắn ƣng thuận xây dựng hạnh phúc trăm năm cho họ. Việc chuẩn bị áo dài trong ngày cƣới của mình là hạnh phúc của những cô gái đi lấy chồng. Theo quan niệm truyền thống của ngƣời Thái “xửa chai” là áo đại lễ, áo mặc có tính chất sang trọng, thiêng liêng đối với ngƣời con gái. Vì lẽ đó mà việc cắt, may “xửa chai” không phải là việc làm bình thƣờng, ngẫu nhiên, Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 38
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên muốn làm lúc nào cũng đƣợc. Những ngƣời thân thiết trong gia đình (ông bà, bố mẹ ) rất coi trọng ngày “khởi công” cắt may “xửa chai” của ngƣời con gái. Bởi ngƣời Thái quan niệm ngày bắt đầu cắt may “xửa chai” mặc hôm cƣới có ảnh hƣởng đến hạnh phúc sau này của ngƣời con gái. Ngày cắt, may “xửa chai” phải là “ngày tốt” không đƣợc “khởi công” vào “ngày xấu”. “Xửa chai” đƣợc làm bằng vải màu chàm. Về cơ bản giống chiếc áo dài của ngƣời Kinh. Trong ngày cƣới cô dâu dùng chiếc “piêu” mới nhất, đẹp nhất mà mình đã từng chuẩn bị công phu. Hôm ấy cô dâu có thể đội, quấn hoặc quàng “piêu” qua cổ buông xuống trƣớc ngực. Món quà đặc biệt hôm ấy cô dâu tặng bố mẹ chồng là chiếc “xửa hiếu” (áo hiếu). Việc tặng “áo hiếu” là sự bày tỏ lòng hiếu thảo, biết ơn, cầu chúc những điều tốt lành của cô dâu với ngƣời sinh thành, nuôi dƣỡng, giáo dục chồng mình, những ngƣời đã mang lại hạnh phúc cho mình. “Xửa hiếu” đƣợc làm bằng vải đỏ, xẻ ngực, nẹp vào gấu áo viền vải khác màu (xanh, đen .). Trƣớc khi đi làm dâu, các cô gái đều dệt, may “xửa hiếu”. Quà tặng của cô dâu, thứ đến là những chiếc “piêu”. Bởi “piêu” là một trong những “hiện vật” trong “sƣu tập” trang phục do chính bàn tay, khối óc cô dâu làm nên. Việc tặng “piêu” là tiêu chuẩn đánh giá phẩm hạnh của ngƣời con gái trƣớc khi cô về nhà chồng. Nhìn vào “piêu” họ có thể đánh giá đƣợc cô gái đó là ngƣời chăm chỉ, khéo léo hay lƣời biếng, vụng dại Con dâu biếu khăn piêu bố mẹ chồng và họ hàng bên nhà chồng, khăn piêu thêu đẹp đƣợc bên nhà chồng vui vẻ đón nhận và ca ngợi: Bên đì nhọn khòng khan piều siếu Pùn tánh tỏn khòng paự piều siếu, khằn lao Tênh dương khằn đì phải him đành phưm pét Măn men phải lụk lả, pắn vay té mưa nham sào Chương đành đáo khép khèo hưa hướng tà nạ Piều cút hả, cút xí lành đao, po pú ào cánh me da Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 39
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên lua cọ chí hùa nhủng Ằn va đồi khăn lao, siếu sồn mày cáp căm đành đượn Paự chang hưởn chang dượn néo đaư cài cờ Chắng ma chang tìn mứ siếu sồn hún côn, tìn mà Chang siếu giỏi sồn mánh tánh dàm hươn Dịch nghĩa: Chọn ngày lành con biếu quà bố mẹ Bố mẹ sẵn sàng đón nhận khăn piêu chỉ hồng Có cả vải viền đỏ, viền xanh Là của con làm lúc là con gái Piêu chỉ đỏ, lẫn chỉ hồng đẹp lòng cậu dì Khăn cút năm, cút bốn đỏ tươi Bố mẹ chồng ai ai cũng cười tủm Vì đôi khăn đẹp vừa lòng mẹ cha Sao con khéo léo đôi tay thêu thùa Thêu thùa các kiểu hình hoa, hình người “Piêu” để tặng có nhiều loại. Mỗi loại “piêu” đƣợc dùng để tặng cho từng đối tƣợng khác nhau trong mối quan hệ cụ thể với cô dâu. Ngƣời Thái có câu: Cút xam nhương me pả Cút hả nhương me lua Dịch nghĩa: Piêu ba cút để dành tặng bà bác Piêu năm cút để dành tặng thím Việc tặng những chiếc khăn “piêu” đó đều mang ý nghĩa bày tỏ tình cảm hiếu thuận, kính yêu của ngƣời dƣới đối với ngƣời trên, vừa mang ý nghĩa ra mắt của cô dâu mới về xin đƣợc nhận làm con cháu trong gia đình. Qua đó cũng khẳng định đƣợc giá trị của mình đối với nhà trai, sự chăm chỉ, Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 40
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên khéo léo của cô sẽ đƣợc đánh dấu mốc đầu tiên trƣớc khi bƣớc vào nhà chồng. Đồng thời trong ngày cƣới, nhà trai sẽ mang đến nhà gái chăn, đệm, gối và cũng là của hồi môn cho hai vợ chồng trẻ. Số lƣợng chăn, gối, đệm càng nhiều sẽ càng chứng tỏ đƣợc sự giàu có, vị thế của nhà trai trƣớc nhà gái và cộng đồng. Đây là những đồ vật không thể thiếu đƣợc trong ngày trọng đại này. Bộ quần áo cƣới của chú rể không cầu kỳ nhƣ cô dâu. Đó là bộ quần áo màu chàm, đƣợc cắt, khâu cẩn thận, nhuộm đẹp. Áo nhất thiết phải có “quả chỉ” và mặc vừa vặn với ngƣời mình. 2.1.6.3. Trong tang ma Trong quan niệm của ngƣời Thái, chết tức là khi hồn lìa khỏi thể xác và khi chết đi tức là về “mường ma”, là đi lên “mường trời”. Đám ma là lễ đƣa ngƣời chết về các mƣờng đó. Đám tang là biểu hiện của nếp sống văn hoá, biểu hiện của những tập quán truyền thống, của nhận thức về cái chết và các mối quan hệ thân tộc, xã hội của những ngƣời sống đối với ngƣời chết. Qua đám tang, hàng loạt những yếu tố văn hoá đƣợc biểu hiện. Vai trò của nghề dệt, may truyền thống trong đám tang của ngƣời Thái ở Noong Bua đƣợc thể hiện rõ nhất trong trang phục tang lễ của từng thành viên trong gia đình, họ hàng và những vật dụng chẩn bị cho ngƣời chết. Khi trong gia đình không may có ngƣời chết, lúc đó ngƣời phụ nữ Thái sẽ đảm nhiệm việc lo chuẩn bị tang phục cho các thành viên trong gia đình và họ hàng. Bởi tang phục không phải là loại làm sẵn vì đó là điều rất kiêng kị. Vải để may quần áo tang thƣờng có màu chàm, trắng, đỏ Tùy đối tƣợng trong mối quan hệ với ngƣời chết mà có màu áo, kiểu áo tƣơng ứng. Sau khi bắn ba phát súng lên trời báo hiệu nhà có tang, ngƣời chết đƣợc tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới, phủ vải trắng toàn thân. Trƣớc khi đặt thi hài vào áo quan để niệm, ngƣời Thái phủ lên mặt ngƣời chết chiếc khăn piêu gọi là “piêu pốc nả”. Nếu là nam giới thì đậy một chiếc “piêu” và thi hài Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 41
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên đƣợc mặc thêm “xửa hi”, nữ giới thì đậy thêm chiếc thứ hai lên đầu nhƣ khi còn sống vẫn đội và đƣợc mặc thêm áo dài “xửa chai”. Nếu ngƣời phụ nữ là con dâu cả thì khi bố mẹ chồng chết phải mặc áo dài màu chàm đen và đội “piêu” đen nhƣ ngày thƣờng để “hầu” bố mẹ chồng. Chiếc áo dài “xửa hi” là chiếc áo bố chồng mặc lúc chết. Đây là chiếc áo con dâu cả tặng trong ngày cƣới. Trong tang lễ, ngƣời Thái còn sử dụng loại áo “xửa hiếu luông” (áo hiếu). “Xửa hiếu luông” đƣợc làm bằng vải đỏ, xẻ ngực, nẹp vào gấu áo viền vải khác màu. Trƣớc khi đi làm dâu, các cô gái đều dệt, may “xửa hiếu luông”. Nếu nhà chồng cả bố, mẹ còn sống thì con dâu phải may cả hai “xửa hiếu luông” để mặc cúng ma cho bố mẹ chồng khi chết và treo ở nhà mồ với ý nghĩa để cho bố mẹ chồng “mặc” khi lên “Mường Then”. Ngƣời Thái quan niệm ngƣời chết lên mƣờng trời phải có “xửa hiếu luông” mới đƣợc ngƣời mƣờng trời quý trọng. Trang phục của ngƣời Thái có một loại áo đặc biệt là “xửa nhinh”(áo nhỏ). “Xửa nhinh” trƣớc đây nguyên là áo nam, nữ vẫn thƣờng sử dụng khi trời rét. Theo quan niệm truyền thống “xửa nhinh” là nơi trú ngụ hồn ngƣời khi chết nhƣng chƣa kịp lên mƣờng trời. Do vậy“xửa nhinh” phải đƣợc treo ở nhà mồ cho hồn trú ngụ. Đối với nam giới họ thƣờng mặc áo chùng khi trong nhà có tang bố, mẹ. Thực chất đây là những tấm vải đƣợc khâu ghép sƣờn, can tay, áo sổ gấu, cổ khoét sâu, cúc bằng dây vải. Áo này không khâu gấu, trên dƣới rộng bằng nhau. Nam giới để tang quấn khăn trắng quanh đầu. “Nhà mồ” của ngƣời Thái Đen ở Tây Bắc nói chung và ở Noong Bua nói chung thƣờng đƣợc dựng là một ngôi nhà sàn nhỏ, bên trong nhà sàn dải chăn, đệm, vải vóc, khăn piêu và xếp đồ đạc của ngƣời chết nhƣ nơi ở của ngƣời sống. Đặc biệt, ở gần mộ họ dựng “co heo” (cây phƣớn) rất cao, tầm 5- 6m và treo vải đủ các màu (trắng, đỏ, xanh ). Với ý nghĩa làm cầu nối để ngƣời chết về với “Mường Then”(mƣờng trời) Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 42
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên 2.1.6.4. Sản phẩm mới Bên cạnh những sản phẩm truyền thống vẫn đƣợc lƣu giữ và sử dụng hàng ngày thì trên thị trƣờng hay chính trên những ngôi nhà sàn đã xuất hiện những sản phẩm mới không ngừng nâng cao chất lƣợng cuộc sống của đồng bào nơi đây. Đó là các sản phẩm nhƣ ga trải giƣờng, tấm đệm lót ghế hay tấm đệm cao có thể thay thế ghế mây và kèm theo đó là sự ra đời của ví thổ cẩm hay túi thổ cẩm bán trên thị trƣờng và đƣợc khách du lịch rất ƣa thích. Hiện nay thì ngƣời Thái không dệt và tự may váy nữa mà họ ra chợ mua. Cô Lò Thị Ơn (37 tuổi) cho biết: “những chiếc váy mua ngoài chợ vừa đẹp, vừa tiện, nhiều kiểu dáng mà giá cả lại rất phải chăng (giao động từ 50- 120 nghìn), không phải mất nhiều thời gian dệt những chiếc váy nhƣ trƣớc nữa” Nhƣ vậy, các sản phẩm vải vóc là vật không thiếu trong cộng đồng dân tộc Thái, từ lúc họ sinh ra đến khi họ mất đi. Nó cần thiết trong từng hoạt động sinh hoạt của cá nhân và cộng đồng, có mặt trong tất cả những ngày lễ lớn và trọng đại của cộng đồng. Điều đó cho chúng ta thấy vị trí cốt yếu và quan trọng của nghề dệt, may trong đời sống kinh tế - văn hoá đồng bào dân tộc Thái. 2.1.7. Tiêu thụ sản phẩm Nghề dệt thổ cẩm truyền thống vốn có từ lâu đời trong đời sống đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc nói chung và ở Noong Bua nói riêng, nhƣng để các sản phẩm mang tính chất tự sản, tự tiêu chủ yếu phục vụ cho tiêu dùng từ nhà ra thị trƣờng và trở thành hàng hoá thì cũng chỉ bắt đầu từ mấy năm trở lại đây. Trƣớc đây khi kinh tế chƣa phát triển, sản phẩm thổ cẩm đƣợc làm ra chủ yếu để phục vụ nhu cầu trong gia đình, làm của hồi môn khi con gái về nhà chồng và một phần để trao đồi theo phƣơng thức vật đổi vật, phụ thêm cho kinh tế gia đình. Thƣờng thì họ đổi vải vóc và các đồ dùng sinh hoạt khác để đổi lấy ghế mây, bem (hòm), sàng gạo (sầng khẩu) từ các dân tộc nhƣ Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 43
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên ngƣời Lào, ngƣời Khơ Mú trong và ngoài bản khác. Ngày nay, khi kinh tế thị trƣờng đã phát triển, thổ cẩm đã có mặt trên thị trƣờng, thậm chí còn đƣợc ngƣời tiêu dùng ở các thành phố lớn yêu thích. Từ khi kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ thì hoạt động du lịch mới bắt đầu phát triển và trở thành điểm đến của khách du lịch trong nƣớc và quốc tế. Đi đầu trong số này phải kể đến phƣờng Noong Bua, với việc thành lập và duy trì hoạt động tổ hợp tác dệt thổ cẩm do hội phụ nữ đứng ra thành lập, thu hút gần 100 thành viên với 30 khung dệt và tạo ra các sản phẩm nhƣ: Túi thổ cẩm, khăn piêu, ví thổ cẩm, mặt chăn Những sản phẩm này đƣợc bán ra thị trƣờng và trở thành những món quà lƣu niệm đầu ý nghĩa của khách du lịch đến thăm Điện Biên. Điều đáng quý là việc duy trì nghề dệt thổ cẩm truyền thống đƣợc lãnh đạo phƣờng Noong Bua rất quan tâm và coi trọng. Họ xem đây nhƣ một việc làm không chỉ đơn thuần góp phần bảo tồn các giá trị truyền thống của cƣ dân bản địa mà còn là một cách giải quyết công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập và góp phần xoá đói giảm nghèo cho đồng bào trong những lúc nông nhàn. Sản phẩm dệt thổ cẩm của hợp tác xã sản xuất nhiều hay ít phụ thuộc vào đơn đặt hàng ở các cửa hàng và khu tham quan du lịch. Không những thế hợp tác xã còn đến các địa điểm tham quan du lịch nhƣ: Đồi A1, tƣợng đài chiến thắng, bảo tàng thành phố Điện Biên, hầm Đại tƣớng Võ Nguyên Giáp để mở cửa hàng bán đồ thổ cẩm với các mặt hàng rất phong phú và đa dạng: khăn piêu, túi thổ cẩm, túi Thái, ví thổ cẩm nhờ đó mà chị em có thêm thu nhập. Thu nhập bình quân mỗi tháng của mỗi thành viên 400.000 nghìn, còn tuỳ thuộc vào đơn đặt hàng nhiều hay ít, có tháng đặt hàng nhiều thu nhập có thể tăng lên 600.000 nghìn /ngƣời. Cô Lò Thị Hoa, trƣởng nhóm dệt thổ cẩm cho biết: Năm du lịch Điện Biên Phủ, khách đến thăm Điện Biên nhiều, đặc biệt là khách nƣớc ngoài, ngày nào cũng có vài đoàn đến tìm hiểu và mua sản phẩm. Biết thổ cẩm ở đây Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 44
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên họa tiết đẹp, chất lƣợng, nhiều chủ cửa hàng ở chợ trung tâm I, thành phố Điện Biên Phủ vào tận nơi đặt hàng để bán cho khách du lịch. Chị Lƣơng Thị Biên, chủ cửa hàng bán thổ cẩm tại phƣờng Noong bua cho hay: Phần nhiều hàng thổ cẩm ngoài thị trƣờng hiện nay không rõ nguồn gốc nên chất lƣợng vải không tốt, đƣờng may không chắc nhiều khách du lịch do không biết nên mua nhầm. Với thổ cẩm ở Noong Bua có sự độc đáo riêng, đó là họa tiết phong phú, đúng với bản sắc dân tộc. Bởi thế phần lớn quần áo, tấm ga, khăn piêu của cửa hàng chị đều đƣợc nhiều khách hàng đặt mua với số lƣợng lớn. 2.2. Vai trò của nghề dệt may trong đời sống người Thái Hình ảnh những cô gái Thái xinh đẹp “khắp” (hát) rất hay, múa xoè rất giỏi, đồng thời cũng là ngƣời dệt thổ cẩm tài hoa, đang mải mê bên khung cửi, kiên nhẫn dệt từng đƣờng vải, thêu từng hoa văn, khéo léo đẩy con thoi, luồn sợi chỉ đã trở thành biểu tƣợng văn hoá đẹp và sống động của vùng đất du lịch Điện Biên. Từ bao đời nay, thì việc trồng bông, nuôi tằm, dệt vải, thêu thùa đã gắn với vai trò ngƣời phụ nữ. Tuy phần lớn việc trồng bông là của hai vợ chồng, nhƣng sau đó từ chăm sóc, thu hoạch đến chế biến bông đều do những ngƣời phụ nữ đảm nhiệm. Chu trình sản xuất để chế biến bông thành sợi dệt vải bao gồm rất nhiều khâu nhƣ: chọn bông, cán bông, bật bông, quấn bông, xe sợi, dệt vải đòi hỏi ngƣời phụ nữ phải tốn nhiều thời gian và công sức. Vì thế việc trồng bông, dệt vải đƣợc tiến hành hầu nhƣ quanh năm trong những thời gian rảnh rỗi. Ngƣời đàn ông chỉ giúp ngƣời phụ nữ làm khung cửi. Trong xã hội cổ truyền của ngƣời Thái không có thợ cắt may chuyên nghiệp, nhƣng để cắt may các loại trang phục cho các thành viên của gia đình và cộng đồng. Ngƣời cắt may trang phục chính là những phụ nữ của từng gia đình- những ngƣời mẹ, ngƣời chị, nàng dâu, em gái. Từ lâu đời mỗi gia đình đã hình thành sự phân công lao động theo giới tính. Trong các “tế bào” gia đình, nam giới thƣờng làm đồ mộc, đan lát, rèn Phụ nữ là ngƣời lo công Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 45
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên việc canh cửi, cắt may sản xuất trang phục và những đồ dùng bằng vải khác (chăn, màn, rèm, đệm ) Đặc biệt hơn nữa, nghề dệt thổ cẩm không chỉ là sự phân công lao động giản đơn giữa nữ giới và nam giới, mà nó đã trở thành tiêu chuẩn đánh giá phẩm hạnh của ngƣời con gái Thái: Khuổm mư pền bó Cai Hài mư pền bó Tong khày cản Khảu bản chu côn len ma dòm Dịch nghĩa : Úp tay thành cành hoa đào nở Mở bàn tay thành chùm hoa gạo Qua đến bản bao người vui đón Hay: Trang pắn phải saứ lót lót Trang tót saứ điềng điềng Chuông nay cánh khền bơ chán Côn mứn bản co ín sường lường Côn tênh mương co ín sường pom Dịch nghĩa : Em khéo se sợi nhịp nhàng Dồn se sợi luôn tay thoăn thoắt Dân trăm bản cùng khen em khéo léo Trai khắp mường mong được em yêu Đó là sự ca ngợi bàn tay khéo léo của những cô gái Thái khi chƣa lấy chồng. Cô giỏi dệt vải, giỏi thêu khăn thì đi đến đâu cô cũng đƣợc mọi ngƣời yêu quý, bao chàng trai muốn lấy cô làm vợ. Thật đáng tự hào là một trong ba hình ảnh đẹp nhất trên đời theo quan niệm của ngƣời Thái, có hình ảnh ngƣời phụ nữ trong công việc dệt vải, thêu thùa: “Ở đời những gì đẹp nhất Có ba thứ đẹp nhất: Ánh nắng cài vào vách núi đá Cánh đồng to đất tốt vòng quanh chân bản Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 46
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Cô gái khéo dệt vải, thêu khăn” Ngƣời Thái rất coi trọng dƣ luận và khen, chê rất rõ ràng. Họ khen, ca ngợi những cái tốt, cái đẹp và đồng thời cũng chê cái xấu, những ngƣời lƣời biếng, vụng dại. Ngƣời lƣời nhác thì không có gì để mặc đẹp, và nếu có mặc đẹp đi nữa thì cũng không đƣợc cộng đồng Thái coi trọng. Ngƣợc lại những ngƣời siêmg năng, chịu khó, chăm chỉ thì dù có nghèo, có ăn mặc rách thì chẳng ai cƣời chê. Những cô gái đó họ giành hết lời ngợi ca: “Ngón tay thon em hãy đưa kim Ngón tay muốt em hãy đưa thoi dệt cửi Thêu thùa khăn lụa thanh sao tua rua Mặt thắm hoa ké cửi canh nhà chú Mình tươi hoa sen thêu may nhà cô Đội thanh dân quý diện thăm nhà chồng Chẳng ai như gái nõn chẳng biết cắt áo Lượn rong chộch thiên hạ cười chê Mặt trăng đẹp mà đường kim may vụng về Mặc toàn của mua ngoài tưởng báu Nào ai khen đâu lũ nhà giầu khoe Em yêu hãy se sợi nhỏ săn như sợi mưa Hãy thêu khăn đào như rồng bay Cắt nhát kéo cho lụa biến thành phượng múa Cho người xa phương cậy nhờ” Khi đã có gia đình thì công việc dệt vải, lo cái mặc cho cả gia đình là thƣớc đo đạo đức của ngƣời vợ, ngƣời mẹ: Mặc phùa chong dệt phải Hặc lụ chong máy, nhịp Dịch nghĩa: Yêu chồng nămg dệt cửi Thương con chăm vá may Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 47
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Cuộc sống của cộng đồng Thái cho thấy, ngƣời phụ nữ ngoài việc cùng nam giới lo cái ăn cho gia đình thì trong cái mặc họ phải lo một mình. Đó là trách nhiệm cũng nhƣ là niềm hạnh phúc của ngƣời phụ nữ Thái. Đến với Noong bua ta thƣờng bắt gặp hình ảnh các cô gái Thái xinh đẹp dịu dàng đang miệt mài bên khung cửi, lách cách tiếng thoi đƣa rộn rã. Thỏa thích ngắm nhìn và chọn lựa những mặt hàng thổ cẩm mang đậm dấu ấn của văn hóa Thái rực rỡ sắc mầu, đa dạng về mẫu mã, chủng loại nhƣ váy áo, khăn thêu, đệm nằm, chăn, gối ngay dƣới chân cầu thang nhà sàn. Họ đang dệt đất nƣớc, quê hƣơng, bản mƣờng thành bức tranh tuyệt mỹ, điều đó cũng đúng với quan niệm của ngƣời Thái ở Noong bua từ xƣa đến nay cho rằng, cô gái đẹp nhất là cô gái khéo dệt vải, thêu khăn. Ngƣời phụ nữ Thái ngày trƣớc gần nhƣ ai cũng thạo việc thêu thùa. Việc thêu thùa gần nhƣ là lẽ đƣơng nhiên đối với cuộc sống của họ. Nghề dệt may đƣợc lƣu truyền qua nhiều đời và phần nhiều do ngƣời mẹ truyền dạy cho con gái. Trƣớc đây khi kinh tế chƣa phát triển, sản phẩm dệt may đƣợc làm ra chủ yếu để phục vụ nhu cầu trong gia đình, làm của hồi môn cho con gái về nhà chồng, và một phần để trao đổi theo phƣơng thứcvật đổi vật, phụ thêm cho kinh tế gia đình. Ngày nay kinh tế phát triển, ngành công nghiệp dệt may phát triển khiến cho cái mặc hàng ngày của đồng bào có phần sung túc. Các thiếu nữ dân tộc ngày càng đẹp hơn trong những trang phục sản xuất bằng chất liệu công nghiệp, kiểu dáng hiện đại, rẻ và tiện lợi. Thế nhƣng đi cùng với nó là nguy cơ mai một nghề truyền thống dệt may. Nhiều gia đình ngƣời Thái ý thức đƣợc điều này nên đã và đang phục hồi lại nghề dệ may, truyền dạy lại cho con cháu. Họ cho rằng cái nếp của ông bà, ấy là con gái phải biết xe tơ, dệt vải, đi lấy chồng là phải biết lo cái mặc cho gia đình chồng nên không thể để mất. Giữ đƣợc nghề dệt may là giữ đƣợc những nét văn hóa cổ truyền của ngƣời Thái. Nếu biết kết hợp giữa tính dân tộc và tính hiện đại thì nghề dệt Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 48
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên may ở Noong Bua – Điện Biên sẽ tạo đƣợc những mặt hàng kinh tế cao, có giá trị trên thị trƣờng. Ngƣời Thái – Noong Bua tự hào về sản phẩm dệt may của mình. Qua bao đời nay chứng tỏ một điều nghề dệt may là thứ không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời Thái. Nó là biểu tƣợng văn hóa Thái. 2.3. Biến đổi của nghề dệt, may ở Noong Bua 2.3.1. Những biến đổi của nghề dệt Trong nhƣng năm cuối thế kỷ 20, nghề dệt, thêu truyền thống của ngƣời Thái ở Điện Biên nói chung và ở phƣờng Noong Bua nói riêng vẫn còn tồn tại. Hiện nay dƣới sức ép của cơ chế thị trƣờng và sự thay đổi trong nhu cầu ngƣời sử dụng mà nghề dệt cũng có sự biến đổi đáng kể. Trƣớc hết là biến đổi trong nguyên liệu của sợi để dệt vải: Trƣớc đây tất cả các bản trong phƣờng đều có nghề trồng bông, trồng dâu nuôi tằm để ƣơm tơ và hầu nhƣ nhà nào cũng kéo sợi, dệt vải. Tuy nhiên hiện nay nghề trồng bông, trồng dâu nuôi tằm ở các bản đã bắt đầu tàn lụy. Sợi bông, sợi tơ tằm đƣợc thay thế bằng sợi mậu dịch. Xƣa kia, để có đƣợc một tấm vải, ngƣời thợ dệt thƣờng làm từ khâu đầu đến khâu cuối, nghĩa là họ tự cán bông, sau đó kéo sợi, se sợi, hồ sợi và cuối cùng là dệt. Nhƣng từ vài chục năm nay họ đã bỏ dần việc kéo sợi và chủ yếu ra chợ mua sợi công nghiệp về dệt. Qua khảo sát ở các bản: Noong Bua, Phiêng Bua, Khe Chít, Hồng Lứu thì 98% chị em cho rằng sợi công nghiệp dễ dệt mà giá cả cũng chấp nhận đƣợc ( / cân), và không tốn nhiều thời gian, công đoạn nhƣ trƣớc kia. Do vậy cho nên việc dùng sợi công nghiệp đƣợc chị em phụ nữ dễ dàng chấp nhận. Tuy nhiên họ cũng cho rằng sợi công nghiệp dễ đứt và không bền nhƣ sợi tự nhiên. Nhƣng bù lại nó đem đến cho ngƣời thợ dệt sự thuận tiện, giá thành rẻ, lại rút gọn đƣợc nhiều thời gian, ngƣời phụ nữ cũng đỡ vất vả hơn. Trƣớc đây, ngƣời Thái ở đây nhuộm sợi bằng một số loại cây cỏ ứng với màu sắc mà mình cần, còn vải thì đƣợc nhuộm chàm. Từ những năm 90 Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 49
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên trở lại đây ở các chợ đã có bán nhiều loại thuốc nhuộm công nghiệp với đầy đủ các loại màu sắc nên họ đã dần bỏ đi loại thuốc nhuộm có trong tự nhiên. Nghề dệt của ngƣời Thái ở Noong Bua hầu nhƣ không có sự thay đổi nào đáng kể về công cụ cũng nhƣ kỹ thuật. Ngƣời dân địa phƣơng cho biết: Những chiếc khung cửi họ đang dùng có cấu tạo giống hệt loại khung cửi cổ truyền, chỉ khác là nó cao và dài hơn trƣớc một chút. Mặc dù làm hoàn toàn theo lối thủ công nhƣng năng suất dệt không quá thấp. Cô Lò Thị Thoa – một ngƣời dệt giỏi trong bản Noong Bua cho biết: nếu nhàn dỗi thì dệt một khung cửi thì mất 15 ngày, còn nếu bận thì phải đến 1 tháng. Nhƣng nếu dệt trơn thì nhanh hơn, chỉ mất khoảng 7 ngày, còn dệt một cuộn vải có hoa văn thì mất 12 ngày. Trong xã hội truyền thống của ngƣời Thái, biết dệt vải hay không là một tiêu chuẩn rất quan trọng để đánh giả phẩm hạnh của ngƣời phụ nữ. Con gái lớn mà không biết dệt vải sẽ bị mọi ngƣời cƣời chê, cho là lƣời biếng, vụng về và do đó rất khó lấy chồng. Vì thế, có thể nói đã là phụ nữ Thái thì ai cũng biết dệt vải, thêu khăn”piêu”. Ngay từ lúc còn nhỏ từ 5-6 tuổi các bé gái đã bắt đầu làm quen với việc nhặt bông theo mẹ, theo chị và theo “chúng bạn cùng phƣờng” và đến khi 13-14 tuổi đã bắt đầu ngồi vào khung dệt, đến 14-15 tuổi đã dệt, thêu khá thành thạo các đồ án hoa văn từ đơn giản đến phức tạp.Tuy nhiên hiện nay theo ngƣời dân địa phƣơng thì con gái trong các bản biết thêu, dệt còn lại là rất ít. Mỗi bản có hơn 70 nóc nhà nhƣng chỉ có khoảng 4, 5 ngƣời con gái biết dệt, thêu. Một sự biến đổi nữa đó là sự biến đổi trong các sản phẩm dệt: Nghề dệt truyền thống của ngƣời Thái tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau, mỗi sản phẩm đều có những nét độc đáo riêng của nó. Từ những tấm vải dệt trơn, hoa văn họ đã tạo ra các sản phẩm nhƣ mặt chăn, gối, diềm màn, diềm cửa buồng, địu Ngoài ra nghề dệt của ngƣời Thái nơi đây còn có một số sản phẩm mới rất đƣợc ƣa thích nhƣ những chiếc túi thổ cẩm với đầy đủ màu sắc, những chiếc túi Thái dệt có chữ”Kỉ niệm Điện Biên Phủ” đƣợc khách rất ƣa thích. Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 50
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên Ngoài ra còn cónhững miếng đệm dệt để ngồi thay thế cho ghế mây, miếng đệm này cao 40cm, đƣờng kính 30cm với các màu xanh, đỏ kết hợp. Khi hỏi giá thành của những sản phẩm này cô Quàng Thị Lún (40 tuổi), cô là thành viên của nhóm dệt thổ cẩm của hội phụ nữ phƣờng Noong Bua cho biết: Một chiếc túi thổ cẩm có giá-từ 40-50.000 đồng. Một chiếc túi Thái có giá từ 80-90.000 đồng. Một chiếc đệm ngồi có giá 100.000 đồng. Một sự biến đổi nữa đó là hoa văn trên các sản phẩm dệt, thêu: Nghề dệt thêu của ngƣời Thái nơi đây vẫn còn giữ đƣợc nhiều mẫu mã hoa văn truyền thống nhƣ hoa văn hình móc câu( rau rớn), hoa văn hình con chim (tô nộc), con bƣớm (tô cáp bửa), con rết (to chắc khếp), hình ngôi sao 8 cánh, 6 cánh, hinh quả trám Bên cạnh đó xuất hiện các hoa văn mới, đơn giản hơn trƣớc: hoa chùm, móc xích, quả trám, hạt bông. Với các mẫu này ngƣời dệt có thể đạt năng suất và thu nhập cao hơn là dệt, thêu các mẫu hoa văn cũ. Ngoài ra, còn có các mẫu hoa văn mới từ các nơi khác đến đƣợc du nhập vào, làm phong phú thêm chủng loại cũng nhƣ mẫu mã hoa văn cũ. Đây cũng chính là nét biến đổi dễ thích ứng với điều kiện kinh tế thị trƣờng. Một điều lý thú là, trong những năm trở lại đây, ngƣời Thái với nghề dệt thủ công của mình đã tạo ra sự hòa nhập đầy sáng tạo giữa cái riêng của nghề dệt cổ truyền và cái mới của văn minh công nghiệp trên cơ sở bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Đó là việc họ đã biết kết hợp các nguyên liệu dệt công nghiệp và nguyên liệu dệt thủ công vào các bộ phận của trang phục, cũng nhƣ sự lựa chọn những màu sắc phù hợp với quan niệm thẩm mỹ của cộng đồng để cắt may trang phục, cũng nhƣ nguyên liệu công nghiệp để cắt may trang trí theo cách cổ truyền. Trong cuộc phỏng vấn tại 2 bản: Noong Bua và Phiêng Bua thì 98% chị em phụ nữ cho rằng hàng may sẵn bằng vải công nghiệp vừa đẹp vừa tiện lợi và rẻ hơn váy, áo tự dệt may. Vậy nên, những sản phẩm dệt trƣớc kia đƣợc sử Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 51
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên dụng trong đời sống hàng ngày nay bị thay thế bởi những đồ dùng hàng mậu dịch. Ví dụ, nam thanh niên Thái ít thấy mặc quần áo truyền thống mà họ mặc quần âu, áo sơ mi, áo phông nhƣ thanh niên dƣới xuôi. Phụ nữ Thái vẫn mặc váy “xỉn”, nhƣng chất liệu là vải lụa đen, vải nhung đen hay vải xa tanh. Nhiều khi ở nhà ngƣời phụ nữ Thái không mặc “áo cóm” mà thay vào đó là áo phông, áo sơ mi nhƣ phụ nữ ngƣời Kinh. Tuy nhiên, trong ý thức của mỗi ngƣời họ vẫn rất trân trọng hàng dệt truyền thống của mình. Trong các dịp lễ hội, mừng nhà mới, những dịp vui của bản họ đều mang những bộ váy và “áo cóm” đẹp nhất ra mặc. Và những sản phẩm dệt truyền thống vẫn là những thứ không thể thiếu đƣợc trong đám cƣới, đám tang nhƣ khăn “piêu”, chăn, đệm, vải vóc của ngƣời Thái. Những chiếc khăn “piêu” là vật không thể thiếu đƣợc của những cô dâu Thái khi về nhà chồng. Một sự thay đổi nữa đƣợc coi là rất quan trọng và rất phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, đó là các sản phẩm dệt, may, thêu đã có mặt trên thị trƣờng và đem lại giá trị kinh tế không nhỏ cho gia đình và cộng đồng Thái. Nhờ sự phát triển của du lịch mà những sản phẩm dệt, may và thêu đƣợc khách du lịch trong nƣớc, quốc tế biết đến, qua đó quảng bá đƣợc văn hóa Thái đến với bạn bè trong nƣớc và quốc tế. Nhƣ vậy, mặc dù các sản phẩm dệt, may đã có nhiều biến đổi nhƣng những biến đổi này hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế hàng hóa của nƣớc ta hiện nay. Nghề dệt nơi đây sẽ tồn tại cùng với thời gian nhƣ một minh chứng cho nền văn hóa truyền thống độc đáo này. Qua thời gian nó có thể dần thay đổi nhƣng những giá trị mà nó mang lại sẽ tồn tại mãi với ngƣời Thái nơi đây. 2.3.2. Nguyên nhân biến đổi Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội và sự giao lƣu, tiếp xúc giữa các dân tộc, nghề dệt, may của ngƣời Thái đã có sự biến đổi rất lớn, hình thức và Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 52
- Nghề dệt may của người Thái ở Noong Bua với phát triển du lịch văn hóa ở Điện Biên nội dung cũng đƣợc thể hiện rất đa dạng, phong phú. Có 3 nguyên nhân chính gây ra sự biến đổi: Thứ nhất là về vấn đề kinh tế: Nhƣ chúng ta đã biết, trƣớc đây nền kinh tế của ngƣời Thái nói riêng và các dân tộc thiểu số khác ở Tây Bắc nói chung vẫn duy trì nền kinh tế tự cung, tự cấp, sinh hoạt kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp nghề dệt đƣợc coi là nghề phụ trong gia đình và đƣợc ngƣời phụ nữ tranh thủ làm lúc rảnh rỗi. Lúc ấy, nghề dệt chỉ đáp ứng nhu cầu mặc và sinh hoạt hàng ngày. Khi mà nhu cầu kinh tế còn chƣa đáp ứng đƣợc cuộc sống thƣờng nhật của họ thì họ chƣa thể nghĩ tới việc bỏ ra một lao động của gia đình để tập trung vào công việc dệt vải. Cho đến ngày nay, khi kinh tế thị trƣờng phát triển kéo theo các hoạt động du lịch cũng phát triển theo. Từ đó nghề dệt đã có một hƣớng đi mới và đƣợc xem nhƣ là một tiềm năng để phát triển hoạt động du lịch. Nếu nhƣ trƣớc kia các sản phẩm dệt, thêu đƣợc làm ra chủ yếu là thoả mãn nhu cầu sinh hoạt trong gia đình, thì bây giờ nó đã có mặt trên thị trƣờng và trở thành hàng hóa đem lại giá trị kinh tế không nhỏ cho đồng bào Thái. Nhận thấy đƣợc những giá trị to lớn mà nghề dệt đem lại, ngƣời phụ nữ Thái đã từng bƣớc cải tiến mẫu mã, chủng loại để phù hợp với yêu cầu của thị trƣờng. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu của con ngƣời cũng dần tăng lên, kéo theo đó là hàng loạt các sản phẩm mới ra đời, những sản phẩm này đáp ứng đƣợc nhu cầu của đại đa số ngƣời dân. Chính vì vậy mà khi sợi mậu dịch ở dƣới xuôi đem lên bán đã đƣợc đông đảo bà con chấp nhận. Họ đã sử dụng nguyên liệu này để thay thế cho nguyên liệu truyền thống trƣớc đây là sợi bông và sợi tơ tằm. Qua khảo sát ở 2 bản Noong Bua và Phiêng Bua thì 97% chị em phụ nữ cho rằng: mua sợi mậu dịch vừa tiện, vừa rẻ ( ), không tốn thời gian và công sức, mẫu mã và kiểu dáng lại mới lạ. Hơn nữa, họ cảm thấy không ai đánh giá cao những sản phẩm dệt từ những nguyên liệu truyền thống và nhu Sinh viên: Nguyễn Thị Thảo, VH 1001 Trường ĐHDL Hải Phòng 53