Khóa luận Nghiên cứu hoạt động du lịch cộng đồng tại Hoa Lư-Ninh Bình - Lê Ngọc Hinh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu hoạt động du lịch cộng đồng tại Hoa Lư-Ninh Bình - Lê Ngọc Hinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_nghien_cuu_hoat_dong_du_lich_cong_dong_tai_hoa_lu.pdf
Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu hoạt động du lịch cộng đồng tại Hoa Lư-Ninh Bình - Lê Ngọc Hinh
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH Sinh viên: Lê Ngọc Hinh Người hướng dẫn: Th.s Bùi Thị Hải Yến Hải Phòng – 2009
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG “Nghiên cứu hoạt động du lịch cộng đồng tại Hoa Lư - Ninh Bình” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP HỆ ĐẠI HỌC CHÍNH QUY Ngành: Văn hóa du lịch Sinh viên: Lê Ngọc Hinh Người hướng dẫn: Th.s Bùi Thị Hải Yến Hải Phòng – 2009
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Lời cảm ơn Thực hiện khóa luận tốt nghiệp vừa là một nhiệm vụ, vừa là một niềm vinh dự lớn đối với sinh viên, nó đánh dấu 4 năm học của bản thân. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài em đã nhận được sự hướng dẫn trực tiếp, tận tâm, thiết thực và bổ ích của cô Bùi Thị Hải Yến cùng sự giúp đỡ của các cơ quan, phòng ban trực thuộc Sở du lịch Ninh Bình, sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô, bạn bè, người thân. Qua đây, em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới cô Bùi Thị Hải Yến, cùng các thầy cô, bạn bè, các cán bộ ở Sở du lịch Ninh Bình, phòng Văn hóa huyện Hoa Lư và gia đình đã tạo mọi diều kiện thuận lợi để em có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình ! Sinh viên Lê Ngọc Hinh Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài - Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa - xã hội của các nước. Về mặt kinh tế, du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng và mũi nhọn của nhiều nước công nghiệp phát triển. Hiện nay, ngành “công nghiệp” du lịch chỉ đứng sau công nghiệp dầu khí và ô tô. Đối với các nước đang phát triển, du lịch được coi là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế của quốc gia. - Mặt khác, du lịch là ngành tổng hợp, có mối quan hệ với nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế - xã hội, trong đó có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời với cộng đồng địa phương (những người dân – chủ nhân của những vùng đất có tài nguyên mà ngành du lịch đang khai thác và sử dụng). Đặc biệt là những nơi có loại hình du lịch sinh thái và văn hóa phát triển, sự thành công hay thất bại trong quá trình hoạt động du lịch khai thác tài nguyên, phụ thuộc rất nhiều vào việc phối hợp, điều hòa lợi ích, chia sẻ nghĩa vụ, quyền lợi giữa các bên tham gia. Du khách Chính quyền Dân cư Địa phương Cơ quan cung ứng Do đó, du lịch đã đem lại rất nhiều lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp cho cộng đồng địa phương như: tạo việc làm, tăng thu nhập, giúp xây dựng và tu bổ cơ sở Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật tốt hơn, đem đến sự hiểu biết, giao lưu văn hóa, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của người dân, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế của vùng, của đất nước Điều đó mang ý nghĩa nhân văn rất lớn, thể hiện đường lối chiến lược, chính sách phát triển kinh tế xã hội đúng đắn, phù hợp của mỗi nước, của mỗi quốc gia. - Đối với Ninh Bình, du lịch mà tiêu biểu du lịch cộng đồng là một trong những giải pháp, phương hướng để phát triển kinh tế của tỉnh, đặc biệt là đối với huyện Hoa Lư. Hoa Lư – Ninh Bình là một vùng đất rất giàu tiềm năng du lịch, cả về tài nguyên thiên nhiên lẫn tài nguyên nhân văn. Các tài nguyên đó hầu hết đều quy tụ gần các trục đường giao thông, đi lại thuận tiện và không cách xa thủ đô Hà Nội về mặt địa lý. - Sự tham gia của cộng đồng địa phương trong các hoạt động du lịch “theo đúng nghĩa’’ (cùng tham gia quản lý, cùng chịu trách nhiệm, cùng chia sẻ quyền lợi ) ở Hoa Lư mới bước đầu phát triển và vẫn còn ở mức thấp, người dân chỉ chủ yếu tham gia vào một số khâu không quan trọng, lợi ích kinh tế không thường xuyên và bấp bênh. Các hình thức tham gia hầu như mang tính chất tự phát, xuất phát từ quy luật cung – cầu của kinh tế thị trường (người dân thấy có lợi, có thu nhập thì họ làm) trong khi đó đất canh tác để làm nông nghiệp thì ngày càng bị thu hẹp để sử dụng cho mục đích du lịch. Do đó, vấn đề việc làm của người dân lại trở nên bức thiết hơn. Sự bất cập trong quản lý, sự điều hòa lợi ích giữa các bên tham gia chưa tốt dẫn đến chất lượng cuộc sống của người dân chưa thực sự được đảm bảo. Vấn đề đặt ra đối với du lịch Hoa Lư là cần giúp người dân địa phương tham gia hoạt động du lịch, cùng vì lợi ích, mục đích chung. Phát triển du lịch cộng đồng giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao nhận thức về du lịch, về ý nghĩa bảo vệ tài nguyên môi trường, ý nghĩa của việc tạo ra môi trường nhân văn hấp dẫn du khách. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh - Từ trước tới nay đã có rất nhiều sách báo, tài liệu, các tác giả viết – nói về Hoa Lư (Lê Văn, Nguyễn Thế Giang: Kinh đô Hoa Lư; Lã Đăng Bật: Về với vịnh Hạ Long cạn; Cố đô Hoa Lư ) nhưng chủ yếu là ca ngợi về cảnh đẹp của thiên nhiên, tìm hiểu về văn hóa, lịch sử phục vụ mục đích quảng bá du lịch mà ít ai tìm hiểu về người dân địa phương - chủ nhân của những tài nguyên đó làm du lịch như thế nào, tác động của du lịch tới đời sống của họ ra sao Chính vì thế, tác giả đã quyết định chọn đề tài: “Nghiên cứu hoạt động du lịch cộng đồng tại Hoa Lư - Ninh Bình” với mong muốn bằng những kiến thức đã học và tình yêu quê hương, sẽ góp một phần nhỏ bé của mình cho sự phát triển du lịch nói riêng và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung của quê nhà. 2. Phạm vi, đối tượng của đề tài: a. Phạm vi - Không gian nghiên cứu: Đề tài khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu trên đìa bàn 2 xã Ninh Hải và Trường Yên – là nơi có 2 điểm du lịch mang tính quốc gia, quốc tế: Tam Cốc - Bích Động và cố đô Hoa Lư – Ninh Bình. - Thời gian nghiên cứu: Số liệu nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2008. b. Đối tượng nghiên cứu: - Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và tài nguyên du lịch (tự nhiên và nhân văn) để phát triển du lịch cộng đồng của khu du lịch Hoa Lư – Ninh Bình. - Cộng đồng địa phương chủ yếu ở địa bàn 2 xã Ninh Hải - Trường Yên và một số xã lân cận tham gia vào hoạt động du lịch. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài a. Mục đích: - Nâng cao nhận thức của bản thân cả về mặt lí luận cũng như thực tiễn về Du lịch cộng đồng và tài nguyên du lịch tại Hoa Lư. Mặt khác, “Dân ta phải biết sử ta”, là một người con của quê hương, bản thân em rất muốn tìm hiểu sâu, đúng Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh những giá trị của địa phương mình. Muốn vậy, cần phải tổ chức nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề một cách nghiêm túc, toàn diện. - Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu sẽ cung cấp nguồn tư liệu nhỏ cho những ai quan tâm tới nội dung của đề tài. - Góp phần đưa ra giải pháp phát triển du lịch ở Hoa Lư – Ninh Bình (có thể chỉ là tham khảo, hoặc ứng dụng. Hiểu quê hương để yêu quê hương hơn. b. Nhiệm vụ: - Tổng quan về cơ sở lí luận, tìm hiểu những nghiên cứu để áp dụng vào thực tiễn sự phát triển du lịch cộng đồng tại Hoa Lư - Ninh Bình. - Nghiên cứu những nguồn lực để phát triển du lịch cộng đồng tại đây. - Đánh giá khả năng phát triển du lịch cộng đồng ở Hoa Lư - Ninh Bình và đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch, khôi phục, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, phát triển du lịch một cách bền vững. 4. Quan điểm, phương pháp nghiên cứu a. Quan điểm - Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Nghiên cứu tất cả thực trạng các nguồn lực phát triển du lịch cũng như lí luận trong sự vận động phát triển của chính ngành du lịch, các ngành kinh tế - xã hội cũng như các ngành khoa học du lịch và các ngành khoa học nói chung trong mối quan hệ biện chứng và theo các quy luật khách quan. - Phát triển du lịch bền vững Nghiên cứu phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch cộng đồng cần đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai, đảm bảo được các mục tiêu, nguyên tắc phát triển bền vững. Vận dụng cơ sơ lý luận phát triển du lịch bền vững trong quá trình nghiên cứu đề tài Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh - Lãnh thổ tổng hợp + chuyên môn hóa Mỗi lãnh thổ du lịch thường có nhiều nguồn lực để phát triền du lịch. Nhưng đồng thời mỗi địa phương, hoặc mỗi hệ thống lãnh thổ du lịch cũng có những nguồn lực phong phú, đặc sắc là thế mạnh để phát triển du lịch riêng. Vì vậy cần phải nghiên cứu để có được các dự án, giải pháp, chiến lược, vừa phát huy được những thế mạnh tổng hợp các nguồn lực để tạo ra nhiều sản phẩm du lịch, nhưng đồng thời cũng cần ưu tiên đầu tư, phát triển những loại hình du lịch mang tính chuyên biệt, mũi nhọn của mỗi hệ thống lãnh thổ du lịch cũng như mỗi địa phương để tạo ra sức cạnh tranh. - Quan điểm kế thừa: Du lịch là một ngành tổng hợp có quan hệ với nhiều ngành khác như: kinh tê – xã hội, địa lý, môi trường, kinh tế Vì vậy, trong quá trình phát triển du lịch, để tiết kiệm thời gian, công sức và tài chính, cần kế thừa các công trình nghiên cứu, các dự án quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch, các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã có và các công trình khoa học liên quan. b. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp khảo sát thực địa và thu thập tài liệu: Để hoàn thành khóa luận này, sinh viên đã thực hiện các cuộc khảo sát, thu thập tài liệu, đi theo tour từ Tam Cốc – Bích Động đến cố đô Hoa Lư; khảo sát tại làng nghề của xã Ninh Hải và Ninh Vân. - Phương pháp điều tra Xã hội học Trong quá trình nghiên cứu, sinh viên đã sử dụng các phương pháp điều tra qua: + Phỏng vấn trực tiếp các cơ quan có thẩm quyền, các công ty du lịch, UBND xã cùng một số hộ dân. + Phỏng vấn bằng bảng hỏi - Phương pháp thống kê, lập bảng, xử lý tổng hợp các thông tin, số liệu: Tìm các thông tin, số liệu tại các cơ sở như Sở du lịch, Sở văn hóa, công ty du Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh lịch, UBND huyện, xã sau đó tiến hành chọn lọc, sắp xếp thứ tự, sử dụng các thông tin cần thiết có liên quan đến đề tài. - Phương pháp bản đồ, ảnh minh họa: Thể hiện một cách trực quan những đặc điểm và sự phân bố không gian theo lãnh thổ của tài nguyên được nghiên cứu, xác định được tour, tuyến. 5. Kết cấu đề tài: Gồm có 3 chương chính: Chương 1: Cơ sở lí luận về du lịch cộng đồng. Chương 2: Nguồn lực và thực trạng hoạt động du lịch cộng đồng tại Tam Cốc – Bích Động và cố đô Hoa Lư. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị phát triển du lịch cộng đồng tại khu du lịch Tam Cốc – Bích Động và cố đô Hoa Lư. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Chương 1 Cơ sở lí luận về du lịch cộng đồng 1.1 Cộng đồng địa phương: 1.1.1 Cộng đồng Cộng đồng là một khái niệm về tổ chức xã hội đã được nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm với nhiều ngữ nghĩa khác nhau: - Theo từ điển Tiếng Việt, cộng đồng có nghĩa là “cùng đều nhau, đồng đều’’. - Theo Keith và Any (1998): “Cộng đồng trước hết là một nhóm người, thường sinh sống trên một khu vực địa lý, tự xác định mình thuộc về một nhóm. Những người trong cùng một cộng đồng thường có quan hệ huyết thống hay hôn nhân, và có thể thuộc cùng một tôn giáo, tầng lớp chính trị’’. - Theo J. H Fichter: Cộng đồng là một tập thể người nhất định trên một lãnh thổ kinh tế, văn hóa bao gồm 4 yếu tố: + Tương quan cá nhân mật thiết với những người khác, tương quan này đôi khi được gọi là tương quan đối mặt, tương quan thân mật. + Có sự liên hệ về tình cảm và cảm xúc. + Có sự tự nguyện hy sinh đối với những giá trị được tập thể coi là cao cả và có ý nghĩa. + Có ý thức với mọi thành viên trong tập thể. - Theo Schmink (1999), cộng đồng được hiểu là “tập thể các nhóm người có chung địa bàn cư trú và có quền sử dụng các tài nguyên ở địa phương’’. 1.1.2 Cộng đồng địa phương: - Theo Nguyễn Hữu Nhân: Cộng đồng địa phương là những cộng đồng được gọi tên như đơn vị làng, bản, xã, huyện những người chung về lí tưởng xã hội, lứa tuổi, giới tính, thân phận xã hội. Khái niệm cộng đồng có 2 nghĩa: + Là một nhóm dân cư cùng sinh sống trong một địa cực nhất định, có cùng giá trị và tổ chức xã hội cơ bản. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh + Là một nhóm dân cư có cùng mối quan tâm. Như vậy, Cộng đồng địa phương được hiểu là một nhóm dân cư cùng sinh sống trên một lãnh thổ nhất định qua nhiều thế hệ và có những đặc điểm chung về sinh hoạt văn hóa truyền thống, sử dụng các nguồn tài nguyên và môi trường, cùng các mối quan tâm kinh tế xã hội, có sự gắn kết về huyết thống và tình cảm có sự chia sẻ về nguồn lợi và trách nhiệm trong cộng đồng. - Cộng đồng địa phương tại các khu du lịch là đối tượng nghiên cứu và tham gia hoạt động du lịch và bảo tồn có những đặc điểm: + Cộng đồng địa phương là những nhóm người định cư trên cùng lãnh thổ nhất định. Mỗi vùng lãnh thổ nhất định sẽ có những điều kiện tài nguyên môi trường tự nhiên khác nhau, là yếu tố quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và phát triển những giá trị văn hóa và kinh tế Vì vậy, mỗi cộng đồng thường có những giá trị văn hóa và hoạt động kinh tế khác nhau. + Có quan hệ gắn kết về tình cảm, mang tính huyết thống, thân thiện, giúp đỡ, chia sẻ. + Có quyền lợi và trách nhiệm, có đặc điểm chung về sở hữu và sử dụng, bảo vệ tài nguyên môi trường. + Tính cộng đồng bền vững được khẳng định qua thời gian, chính thời gian là yếu tố gắn kết các thành viên cộng đồng để cùng nhau tạo ra các giá trị văn hóa đặc sắc cho cộng đồng. + Những đặc điểm chung về hoạt động văn hóa truyền thống, có những giá trị được tập thể coi là khuôn mẫu văn hóa sinh hoạt cộng đồng. + Mỗi cộng đồng có những tổ chức quy ước xã hội, “phép vua thua lệ làng’’. 1.2 Mối quan hệ giữa cộng đồng địa phương với hoạt động du lịch - Điểm du lịch là cấp thấp nhất trong hệ thống phân vị về mặt lãnh thổ, là nơi tập trung tài nguyên du lịch hay cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch hoặc kết hợp cả hai ở quy mô nhỏ. Tài nguyên, môi trường du lịch cùng công trình kỹ thuật, bộ máy tổ chức quản lý - cán bộ nhân viên, các khách du lịch có mối quan Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh hệ chặt chẽ, qua lại và mối quan hệ với môi trường kinh tế - xã hội nuôi dưỡng nó. - Theo khoản 6, điều 1 – Luật du lịch Inđônêxia đã xác định điểm du lịch như sau: Trước hết đó là vị trí có tài nguyên du lịch và có sức hấp dẫn, sức hút đối với con người. Tất cả những điều này đều thuộc chính phủ xác định và quản lý. Việc xây dựng các điểm này phục vụ cho du lịch phải được đảm bảo 4 yêu cầu: Thứ nhất, có khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội tại địa phương; thứ hai, đảm bảo giữ gìn được những giá trị văn hóa, tín ngưỡng và phong tục tập quán đang tồn tại ở địa phương; thứ ba, bảo vệ được môi trường sinh thái; thứ tư, đảm bảo sự phát triển du lịch lâu dài. Về mặt không gian: Những hoạt động kinh tế xã hội của dân cư có trước và tồn tại phát triển đồng thời với hoạt động du lịch. Không gian du lịch và không gian kinh tế - văn hóa - xã hội của cộng đồng địa phương không tách biệt mà có mối quan hệ tác động qua lại. Nếu biết vận dụng, khai thác, quản lý tốt, hợp lý sẽ là những nguồn lực quan trọng có tác động tích cực không chỉ giúp phát triển du lịch mà còn là động lực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo, bằng cách tổ chức cho cộng đồng địa phương tham gia vào hoạt động du lịch. Hơn nữa, du lịch cũng như nhiều ngành kinh tế khác có sự thay đổi theo thời gian, luôn hướng tới mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế, môi trường sinh thái, văn hóa, xã hội. Từ nửa cuối thế kỷ 19, các nhà quy hoạch du lịch khuyến nghị nên quy hoạch phát triển các điểm du lịch như là phần kéo dài của điểm dân cư có trước. Bởi các cộng đồng địa phương vừa là nguồn lực vừa là xung lực cho các hoạt động du lịch phát triển có hiệu quả. Về mặt tài nguyên: Du lịch là một trong những ngành có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ của ngành du lịch, đến cấu trúc và chuyên môn hóa của vùng du lịch. Quy mô hoạt động du lịch của Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh điểm, khu, vùng được xác định trên cơ sở khối lượng nguồn tài nguyên du lịch, quyết định tính mùa vụ, tính nhịp điệu của dòng khách du lịch. Sức hấp dẫn của vùng du lịch phụ thuộc nhiều vào tài nguyên du lịch. Nguồn tài nguyên mà ngành du lịch sử dụng vốn thuộc quyền sở hữu của người dân bản địa và giữa hai đối tượng này có mối quan hệ gắn bó được thiết lập lâu đời. Người dân đã sử dụng tài nguyên như một công cụ sinh nhai và kiếm sống của mình qua cách quản lý cục bộ và họ biết cách làm thế nào để bảo vệ, kiểm soát việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên để tránh đi những tình trạng tàn phá tài nguyên. Do đó, một trong những nguyên tắc quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển du lịch bền vững là hỗ trợ kinh tế địa phương, chia sẻ các quyền lợi nhằm thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương. Có thể nói cộng đồng địa phương là người sáng tạo, nuôi dưỡng và bảo tồn các loại tài nguyên du lịch nhân văn, là chủ sở hữu bảo tồn các loại tài nguyên du lịch tự nhiên. Hoạt động du lịch diễn ra tại khu dân cư góp phần cải thiện, mang lại phúc lợi cho nhân dân địa phương, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo. Ngược lại, cộng đồng địa phương khi tham gia một cách tích cực, đa dạng vào các công việc nhằm phục vụ cho hoạt đồng du lịch sẽ giúp cho họ có thái độ thân thiện với môi trường tự nhiên, có ý thức bảo vệ, giữ gìn các giá trị làm lợi cho họ. 1.3 Du lịch cộng đồng 1.3.1 Khái niệm Du lịch cộng đồng hay du lịch dựa vào cộng đồng đang được biết đến như các nguyên tắc, giải pháp phát triển bền vững. Ngày nay, du lịch cộng đồng được hiểu là một cộng đồng địa phương tham gia vào các hoạt động kinh doanh du lịch. Ban đầu mang tính tự phát tại những nơi có tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn hấp dẫn các tuyến, điểm du lịch được tổ chức chủ yếu nhằm vào mục đích khai thác tài nguyên du lịch sẵn có của địa phương chứ chưa chú trọng quyền lợi của cộng đồng địa phương và thu hút họ tham gia vào các hoạt động du lịch. Trong một số trường hợp, do không thống Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh nhất được quyền lợi của các bên tham gia đã có những tác động không tốt tới môi trường du lịch và giảm sức hấp dẫn đối với du khách. Những khái niệm về Du lịch cộng đồng: - Theo Rest - Thailand (1997): Du lịch cộng đồng là phương thức tổ chức du lịch đề cao sự bền vững về môi trường, văn hóa xã hội. Du lịch cộng đồng do cộng đồng sở hữu và quản lý, vì cộng đồng và cho phép du khách nâng cao nhận thức và học hỏi về cộng đồng, về cuộc sống đời thường của họ. - Theo quỹ bảo tồn thiên nhiên thế giới WNF: Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch mà ở đó cộng đồng địa phương có sự kiểm soát và tham gia chủ yếu vào sự phát triển và quản lý hoạt động du lịch và phần lớn lợi nhuận thu được từ hoạt động du lịch được hoạt động du lịch giữ cho cộng đồng. 1.3.2 Đặc điểm và nguyên tắc của du lịch cộng đồng 1.3.2.1 Đặc điểm của du lịch cộng đồng - Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch mà cộng đồng dân cư là những người được tham gia ngay từ đầu và trong suốt quá trình phát triển du lịch: từ khâu nghiên cứu, lập dự án quy hoạch phát triển du lịch, tham gia với vai trò quản lý và quyết định các vấn đề phát triển du lịch, triển khai các hoạt động kinh doanh, cung cấp các sản phẩm du lịch phục vụ du khách. Họ giữ vai trò chủ đạo phát triển và duy trì các dịch vụ. Hoạt động này có tính đến hiệu quả và chịu sự điều tiết của các quy luật kinh tế thị trường. - Địa điểm tổ chức phát triển du lịch dựa vào cộng đồng diễn ra tại nơi cư trú hoặc gần nơi cư trú của cộng đồng địa phương. Đây là những khu vực có tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn phong phú, hấp dẫn, có độ nhạy cảm cao về đa dạng sinh học, chính trị, văn hóa xã hội và hiện đang bị tác động bởi con người. - Cộng đồng dân cư phải là người dân sinh sống làm ăn trong hoặc liền kề các điểm tài nguyên du lịch, đồng thời cộng đồng phải có trách nhiệm tham gia bảo vệ tài nguyên môi trường nhằm hạn chế, giảm tác động tiêu cực từ chính việc khai thác tài nguyên của cộng đồng và hoạt động của khách du lịch. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh - Du lịch cộng đồng có nghĩa là giao quyền cho cộng đồng, cộng đồng được khuyến khích tham gia và đảm nhiệm các hoạt động du lịch và bảo tồn tài nguyên. - Phát triển du lịch cộng đồng, phải đảm bảo sự công bằng trong việc chia sẻ nguồn lợi từ thu nhập du lịch cho cộng đồng và các bên tham gia. - Phát triển du lịch cộng đồng, góp phần làm đa dạng hóa các ngành kinh tế trong khi vẫn duy trì và phát triển các ngành kinh tế truyền thống. - Du lịch cộng đồng còn bao gồm các yếu tố trợ giúp, tạo điều kiện của các bên tham gia trong đó vai trò của các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các cấp quản lý Nhà nước, Ban quản lý 1.3.2.2 Các nguyên tắc phát triển du lịch cộng đồng Các loại hình du lịch dựa vào cộng đồng thực chất là các loại hình phát triển du lịch bền vững, có trách nhiệm với tài nguyên môi trường cũng như sự phát triển của cộng đồng – chủ thể của các hoạt động du lịch và nguồn lợi từ các hoạt động này là hướng vào cộng đồng. Vì thế, khi phát triển du lịch cộng đồng cần thực hiện các nguyên tắc sau: - Thừa nhận, ủng hộ và thúc đẩy mối quan hệ sở hữu của cộng đồng về du lịch. - Lấy ý kiến của các bên tham gia, tôn trọng ý kiến của cộng đồng, bảo đảm những kiến nghị của cộng đồng được chuyển đến những người có trách nhiệm xem xét và giải quyết. - Ngay từ đầu thu hút, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào tất cả các lĩnh vực hoạt động du lịch và bảo tồn. - Phát triển du lịch như một công cụ giúp cộng đồng sử dụng để phát triển trong khi vẫn duy trì sự đa dạng kinh tế không làm giảm các ngành nghề truyền thống. - Tăng cường giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực địa phương. - Hỗ trợ địa phương trong hoạt động du lịch và phát triển kinh tế - xã hội. - Cải thiện chất lượng cuộc sống của của cộng đồng. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh - Thúc đẩy niềm tự hào của cộng đồng bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa. - Tăng cường giao lưu văn hóa truyền thống. - Khai thác, bảo tồn các nguồn lực theo hướng thận trọng, tiết kiệm, bền vững. - Giảm tiêu thụ và giảm xả thải. - Tôn trọng những giá trị văn hóa và phương cách sống của con người. - Phân chia lợi nhuận một cách công bằng giữa các thành viên của cộng đồng. Phần lớn nguồn thu từ du lịch dành cho phát triển cộng đồng. - Hòa nhập quy hoạch phát triển du lịch vào phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch môi trường. - Tiếp thị trung thực và có trách nhiệm. - Tăng cường nghiên cứu thống kê, hợp tác phát triển du lịch. 1.3.3 Các bên tham gia du lịch cộng đồng - Cộng đồng địa phương: Hoạt động du lịch cộng đồng hướng tới nhấn mạnh yếu tố cộng đồng và vì mục tiêu phát triển cộng đồng và bảo tồn, do vậy cộng đồng địa phương là yếu tố hàng đầu. Cộng đồng địa phương là nhân tố hình thành, nuôi dưỡng, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa bản địa: nghệ thuật kiến trúc trang trí nhà, nghệ thuật sản xuất hàng thủ công mỹ thuật truyền thống, nghệ thuật ẩm thực, văn hóa ứng xử, lễ hội, văn hóa dân gian, văn hóa nghệ thuật truyền thống, tôn giáo tín ngưỡng Đây là nguồn tài nguyên có sức hấp dẫn đặc biệt đối với khách du lịch. Bên cạnh đó cộng đồng địa phương còn là người sản xuất các nông phẩm cung cấp cho khách du lịch, đồng thời họ tham gia các hoạt động du lịch, tạo ra các sản phẩm du lịch phục vụ du khách trong quá trình du lịch tại điểm đến. Đây là chủ thể của mọi hoạt động du lịch và bảo tồn ở địa phương và thu lợi từ hoạt động du lịch tại địa phương. Du khách có thực hiện được mục đích chuyến đi của Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh mình hay không, có được đáp ứng những nhu cầu du lịch hay không phụ thuộc chủ yếu vào cộng đồng địa phương và môi trường sống của họ. Thực tế, cộng đồng địa phương làm du lịch thường sống tại các làng bản có địa hình cách trở, xa trung tâm văn hóa kinh tế chính. Các tài nguyên như khí hậu, đất đai, nguồn nước khó khăn, giao thông kém phát triển, trình độ kinh tế - văn hóa còn lạc hậu. Do vậy, trình độ văn hóa nhận thức của cộng đồng nói chung, đặc biệt nhận thức về du lịch, môi trường còn thấp, dễ bị suy thoái về văn hóa, chất lượng cuộc sống thấp. Đây là những khó khăn, hạn chế lớn đối với cộng đồng địa phương khi tham gia vào hoạt động du lịch. Vì vậy, các hoạt động du lịch cần được quy hoạch, quản lý tổ chức hợp lý, đúng đắn theo hướng bền vững ngay từ đầu và trong quá trình phát triển. Đặc điểm các cộng đồng địa phương đó là sự gắn kết tình cảm lâu đời, có quan hệ huyết thống, vì thế quan hệ ứng xử của cộng đồng thường theo thứ bậc, tôn kính trưởng họ, già làng, trưởng bản. Những người này có uy tín và được tôn kính đối với cộng đồng và am hiểu về văn hóa cũng như phương cách sống của cộng đồng, có vai trò dẫn dắt cộng đồng. Họ thường là những người đại diện cho cộng đồng, tham gia vào các dự án, các quyết định phát triển du lịch, các vị trí trưởng nhóm kinh doanh, trưởng ban du lịch của các bản. - Chính quyền địa phương : Là người dược cộng đồng địa phương tín nhiệm, bầu ra và đại diện cho cộng đồng. Họ là những người lãnh đạo, có vai trò tổ chức và quản lý, tăng cường sức mạnh đoàn kết tập thể của cộng đồng, đặc biệt phát huy tiềm năng, thế mạnh của cộng đồng trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng theo các chủ trương, đường lối của nhà nước và pháp luật, là cầu nối giữa cộng đồng với thế giới bên ngoài. - Các tổ chức, các nhà tài trợ, các tổ chức thuộc chính phủ và phi chính phủ, các nhà khoa học Là nhân tố hỗ trợ cộng đồng về việc lập dự án quy hoạch, phát triển du lịch, tài chính, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm và cơ chế chính sách để phát triển du lịch Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh cộng đồng. Các tổ chức này có vai trò là những người chỉ lối dẫn đường, giúp cộng đồng thực hiện các mục tiêu phát triển du lịch trong giai đoạn đầu, đưa ra các phương pháp làm du lịch. Sau một thời gian du lịch hoạt động, họ sẽ trao quyền quản lý cho cộng đồng và chính quyền địa phương. - Các doanh nghiệp lữ hành và dịch vụ du lịch: Là cầu nối giữa khách du lịch với cộng đồng, giữ vai trò môi giới trung gian để bán sản phẩm du lịch cho cộng đồng và cung cấp một phần sản phẩm du lịch mà cộng đồng chưa cung ứng đủ, đảm bảo cho sự đa dạng và chất lượng cho sản phẩm du lịch. Họ có thể sử dụng lao động là người địa phương, góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người dân bản địa. Bên cạnh đó, họ góp phần vào việc chia sẻ lợi ích từ du lịch cho cộng đồng bằng việc đóng thuế, phí môi trường, mua vé thắng cảnh cho cộng đồng. - Khách du lịch: Là yếu tố cầu du lịch. Thực tế tại nhiều mô hình phát triển du lịch cộng đồng, phần lớn khách du lịch đến từ các nước phát triển. Do vậy, họ có thói quen ăn ở vệ sinh và sống tiện nghi. Đây chính là những khó khăn trong việc đảm bảo sự hài lòng của khách du lịch đối với sản phẩm du lịch cộng đồng. 1.3.4 Vai trò của cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch - Góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị của tài nguyên du lịch, hoạt động du lịch. + Bản thân các phong tục tập quán, lễ hội, lối sống, kiến trúc nhà ở, môi trường sống của cộng đồng dân cư là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn cho hoạt động du lịch. Do vậy, có thể nói cộng đồng là một thành tố của tài nguyên du lịch, tạo nên hoạt động du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói riêng. + Khi người dân tham gia vào hoạt động du lịch sẽ tạo cho họ nghề nghiệp mới, phương thức sống mới, có thêm nguồn thu nhập mới sẽ giảm sức ép của họ đối với việc khai thác tự nhiên một cách bừa bãi. + Nhận thức của cộng đồng thông qua giáo dục, tập huấn về du lịch, môi trường sẽ giúp kỹ năng tổ chức cuộc sống, lao động sản xuất, chất lượng cuộc Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh sống được cải thiện, qua đó sẽ giảm đi lối sống dựa vào tự nhiên Bảo tồn được tài nguyên du lịch. - Góp phần đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch và hạ giá thành sản phẩm du lịch. + Dân số đông, tăng nhanh, nguồn lao động trẻ khi tham gia hoạt động du lịch sẽ tạo ra sản phẩm du lịch có giá thành hợp lý. + Cộng đồng dân cư cùng mang tới cho du khách những yếu tố mới lạ, đặc sắc làm phong phú thêm các sản phẩm du lịch. Tạo ra được môi trường du lịch hấp dẫn du khách (cả về tự nhiên và văn hóa). 1.3.5 Những tác động của hoạt động du lịch cộng đồng - Tác động tích cực: + Đến kinh tế: Tạo ra thu nhập cho cộng đồng từ sự chi trả của khách qua việc xuất khẩu tại chỗ; tạo thị trường đầu ra cho sản phẩm, kích thích, thúc đẩy các ngành kinh tế truyền thống phát triển. Phát triển kết cấu hạ tầng, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách địa phương qua việc sử dụng vốn đầu tư, viện trợ, sự giúp đỡ về công nghệ và kinh nghiệm cho phát triển kinh tế. + Đến chính trị: Qua việc người dân tham gia vào các hoạt động du lịch cũng như các hoạt động chung khác sẽ nâng cao quyền dân chủ, tăng quyền lực quyết định cho cộng đồng. Đảm bảo quyền làm chủ trong quản lý tài nguyên và hưởng các nguồn thu nhập từ hoạt động du lịch. + Văn hóa – xã hội: Tăng cường giao lưu văn hóa, nâng cao nhận thức, tạo ra sự bình đẳng giới, khuyến khích việc thực hiện quyền trẻ em, giảm được những hủ tục. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Tạo ra sự tôn trọng, tự hào, yêu quý văn hóa bản địa. Nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng dịch vụ, kết cấu hạ tầng. + Tài nguyên, môi trường: Khuyến khích bảo tồn, tôn tạo các nguồn tài nguyên môi trường, tài nguyên văn hóa – lịch sử và tự nhiên. Khai thác tài nguyên có hiệu quả, hợp lý hơn. Tôn vinh các giá trị tài nguyên (qua quá trình thống kê, nghiên cứu lập hồ sơ quyết định xếp hạng, tuyên truyền quảng bá tài nguyên du lịch). - Tác động tiêu cực: + Kinh tế: Đòi hỏi vai trò lãnh đạo, quản lý đối với chi phí vận hành cao hơn. Lợi nhuận thu được chỉ có thể làm lợi cho một số người hoặc chảy máu các nguồn lực và thu nhập cho nhiều công ty du lịch. Gia tăng tình trạng lạm phát giá cả đất đai nhà ở, dịch vụ hàng hóa. Cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn lao động có thể ảnh hưởng bởi tính mùa du lịch ngoài tầm kiểm soát của địa phương. Suy giảm ngành nghề truyền thống. + Văn hóa – xã hội: Thu hút khách du lịch – những người có lối sống và quan niệm khác lạ, làm thay đổi các giá trị truyền thống, xung đột với truyền thống văn hóa bản địa. Cư dân địa phương phải chia sẻ nguồn tài nguyên với người ngoài địa phương. Gia tăng mối bất hòa giữa những người được hưởng lợi từ du lịch và không được hưởng lợi, trong nhiều trường hợp người dân chỉ được tham gia những công việc vất vả, có thu nhập thấp, trở thành người làm thuê, bị bóc lột, sự ràng buộc họ hàng bị rạn nứt. Làm gia tăng tệ nạn xã hội, tăng khoảng cách giàu nghèo. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Sự thay đổi thái độ của người dân với khách du lịch Sự hào hứng Du khách và các nhà đầu tư được chào đón nồng nhiệt, du lịch ít có quy hoạch hoặc điều khiển về cơ chế. Du khách được tiếp nhận như một thông lệ do có đầu tư, Sự lãnh đạm quan hệ giữa người dân địa phương và khách du lịch trở thờ ơ nên hình thức hơn (mang tính thương mại). Quy hoạch chủ yếu quan tâm đến thị trường du lịch. Sự khó chịu Du lịch dần đến sự bão hòa, dân địa phương có những mối nghi ngại về du lịch,các nhà chính sách cố gắng tạo giải pháp bằng việc tăng cường cơ sở hạ tầng nhiều hơn là sự hạn chế phát triển. Sự đối kháng Những bực bội, khó chịu được bộc lộ ra ngoài, du khách bị xem là nguyên nhân của mọi vấn đề. Quy hoạch lúc này có tính cứu chữa, song lại kích thích sự gia tăng du lịch để bù lại tình trạng xấu đi về danh tiếng của địa phương. Việc dung hòa những mâu thuẫn đó là một vấn đề nan giải, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động du lịch. Do đó, để người dân có trách nhiệm trong việc quản lý, bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch thì cần phải mang lại lợi ích cho họ một cách rõ ràng, thực chất và công bằng, đặc biệt phải tạo cho họ một vị thế làm chủ thực sự. + Về môi trường: Việc phát triển du lịch thiếu quy hoạch sẽ làm thay đổi, giảm thiểu chất lượng tài nguyên, môi trường tự nhiên – văn hóa. Kết cấu hạ tầng nhanh chóng xuống cấp. 1.3.6 Các loại hình du lịch có nhiều sự tham gia của cộng đồng 1.3.6.1 Du lịch sinh thái Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh - Bao gồm: + Du lịch tham quan nghỉ dưỡng; + Du lịch đi bộ (checkingtour); + Du lịch leo núi; + Du lịch làng bản; + Du lịch tham quan hồ và biển; + Du lịch sông nước; + Du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh. Ngày nay, những ứng xử của con người với tự nhiên đang được thay đổi với ý thức quan tâm hơn tới tự nhiên và có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ chúng. Bởi vậy, đảm bảo du lịch hòa nhập với môi trường là cần thiết và nên được quan tâm đầy đủ. Nghĩa là, du lịch sẽ rất nhạy cảm với môi trường – cơ sở cho chính sự tồn tại và phát triển của ngành này, đó chính là du lịch sinh thái. Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch mới, đang ngày càng có sức hấp dẫn mạnh đối với du khách và dần dần thay thế các loại hình du lịch trước đây. Ngay tại phiên họp Đại hội đồng Tổ chức du lịch thế giới lần thứ 14 đã quyết định chủ đề ngày Du lịch thế giới năm 2002 là: Du lịch sinh thái – bí quyết để phát triển bền vững. + Du lịch sinh thái đã được Hector Ceballos – Lascurain, một nhà nghiên cứu tiên phong về du lịch sinh thái, định nghĩa về du lịch sinh thái lần đầu tiên vào năm 1987 như sau: “Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với những mục tiêu đặc biệt: nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh và thế giới động - thực vật hoang dã cũng như những biểu thị văn hóa (cả quá khứ và hiện tại) được khám phá trong những khu vực này’’. + Định nghĩa của Wood (1991) về du lịch sinh thái như sau: “Du lịch sinh thái là du lịch có mục đích đến các khu tự nhiên nhằm hiểu biết về lịch sử môi trường tự nhiên và văn hóa; quan tâm đến việc không làm thay đổi sự toàn vẹn Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh của hệ sinh thái. Đồng thời tạo những cơ hội về kinh tế ủng hộ bảo tồn các nguồn tài nguyên tự nhiên và mang lại lợi ích về tài chính cho dân địa phương’’. + Theo Luật du lịch, 2005: Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương, với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững. Có thể nói, du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương, có sự tham gia của cộng đồng địa phương. Du lịch sinh thái thường được diễn ra ở những khu, điểm du lịch có tài nguyên hoang sơ, nhạy cảm, có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như: tại các vườn quốc gia - nơi có những cảnh đẹp, khí hậu mát mẻ, trong lành, có sự đa dạng sinh học cao, giàu tài nguyên du lịch tự nhiên, có dân cư sinh sống, vẫn bảo tồn được nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc; các vùng núi và cao nguyên có độ cao trung bình trở lên, có nhiều phong cảnh đẹp, có các cộng đồng ít người sinh sống với những giá trị văn hóa đặc sắc; các vùng hồ biển có phong cảnh đẹp, giàu tài nguyên thủy sản, người dân địa phương có thể tham gia vào các hoạt động du lịch; ở những vùng có nhiều sông ngòi, thác nước, có phong cảnh đẹp kết hợp với tài nguyên du lịch nhân văn hấp dẫn khách du lịch; các vùng có nguồn nước nóng hoặc nước khoáng. Hiện tại, xu hướng du lịch thế giới là con người muốn trở về thiên nhiên, được hòa mình vào thiên nhiên, tìm hiểu bản sắc văn hóa của cộng đồng và bảo tồn thiên nhiên, du lịch sinh thái là loai hình du lịch đáp ứng được mong muốn của du khách. Do đó nó trở thành một loại hình du lịch được phổ biến nhanh chóng trong ngành du lịch. Hai trong số các nguyên tắc của du lịch sinh thái đã nhấn mạnh đến vai trò của cộng đồng: + Lấy cộng đồng là trung tâm Cộng đồng địa phương đóng vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định về các hoạt động du lịch tại địa bàn mà họ sinh sống thông qua cơ cấu tổ Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh chức riêng của họ. Phải đảm bảo lợi ích của cộng đồng sẽ được bảo vệ, cộng đồng được ra quyết định và được chia sẻ lợi ích từ du lịch. Tập trung vào sáng kiến của cộng đồng và lôi kéo sự tham gia tích cực của cộng đồng. Cộng đồng là chủ nhân thực sự của các vùng đất, là người hiểu về vùng đất của mình hơn ai hết và có đủ niềm tự hào cùng tình yêu để bảo vệ, phát triển nó. Hỗ trợ nâng cao năng lực nhận thức cho cộng đồng trong quá trình quản lý, phát triển du lịch. + Phát triển kinh tế địa phương: Đảm bảo nguồn thu từ du lịch được sử dụng để nâng cao đời sống cho cộng đồng địa phương, y tế, giáo dục và văn hóa. Hỗ trợ phát triển cộng đồng với sự quản lý của các doanh nghiệp và các quỹ phát triển. Thúc đẩy mở rộng các hoạt động kinh tế khác như nông nghiệp và sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Như vậy, du lịch sinh thái không chỉ được hình thành và phát triển trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên được bảo vệ mà nó còn có mối quan hệ với các cộng đồng địa phương trong phạm vi và các khu lân cận. Du lịch sinh thái có khả năng tăng cường trong việc bảo vệ các di sản văn hóa tốt hơn và làm tăng niềm tự hào của người dân địa phương. Những yếu tố thu hút sự quan tâm của khách du lịch với cộng đồng địa phương rất đa dạng: truyền thống địa phương, các tập quán sinh hoạt, tôn giáo Vì vậy, khách du lịch sinh thái dù chỉ đi tham quan, khám phá thiên nhiên thì vẫn không tránh khỏi những mối quan hệ qua lại với cư dân địa phương. Bởi vậy, điều quan trọng trong phát triển du lịch là đồng thời với việc tạo cho du khách những chuyến đi thú vị thì phải tạo được mối quan hệ hòa hợp với cộng đồng đón khách, cải thiện mức sống cho đa số người dân địa phương, không để lại những ảnh hưởng xấu về văn hóa – xã hội, đảm bảo sự phát triển bền vững. 1.3.6.2 Du lịch văn hóa Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh - Bao gồm: + Du lịch tham quan các di tích lịch sử văn hóa + Du lịch làng bản + Du lịch lễ hội + Du lịch làng nghề + Du lịch chữa bệnh nghỉ dưỡng + Du lịch tâm linh + Du lịch sinh thái nhân văn + Du lịch nghiên cứu - Theo khoản 1, điều 4, chương I - Luật du lịch Việt Nam năm 2005, du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống. - Trong du lịch, yếu tố “lạ’’ là tài nguyên hết sức quý giá. Bản sắc văn hóa của cộng đồng địa phương chính là “cực hút’’ du khách, đặc biệt là khách quốc tế. Các hoạt đồng du lịch này thường được tổ chức ở: những địa bàn nông thôn đồng bằng, các khu phố cổ, các vùng ngoại ô, nơi tập trung nhiều di tích lịch sử, văn hóa có giá trị cao và giàu tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể, những cộng đồng địa phương miền núi – nơi bảo tồn được nhiều giá trị văn hóa truyền thống vật thể và phi vật thể đặc sắc, giao thông không quá cách trở. 1.3.6.3 Du lịch Homestay - Trong từ điển tiếng Anh (Oxford), “homestay’’ chỉ người từ nơi khác, vùng khác đến ở tại nhà người dân nơi mình đến, học tập, tìm hiểu văn hóa, lối sống của vùng đất mới. Thuật ngữ này xuất hiện lần đầu tiên trong lĩnh vực giáo dục khi việc hợp tác quốc tế về giáo dục trở nên cấp thiết và vấn đề du học trở nên phổ biến. Năm 1980, đã xuất hiện những slogan ấn tượng như: “Open your home to the world and the world become your home - Hãy mở cánh cửa nhà bạn ra với thế giới và thế giới sẽ trở thành ngôi nhà của bạn’’ Hoặc “Become part of my family’’ - Hãy là thành viên của gia đình chúng tôi nhé. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh - Khái niệm du lịch homestay là một khái niệm mới. Không chỉ tại Việt Nam mà trên thế giới, khái niệm này vẫn đang trong quá trình tranh luận để đi đến thống nhất vì nó đã và đang được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau và nghiên cứu với nhiều tên gọi khác nhau như “du lịch nghỉ tại gia” hay “du lịch ở nhà dân”. Trong lĩnh vực du lịch, homestay không chỉ là một phương thức lưu trú mà đã phát triển thành một loại hình du lịch. Loại hình du lịch homestay nghĩa là mục đích chính trong chuyến đi của khách du lịch là được ở nhà người dân bản địa để thông qua đó tìm hiểu, khám phá những nét văn hóa độc đáo, đặc sắc của địa phương. Nhà dân không chỉ là cơ sở lưu trú mà trở thành một tài nguyên du lịch nhân văn hấp dẫn và độc đáo. Ở một số nước mà loại hình này tương đối phát triển như Ailen hay Thái lan, khái niệm du lịch homestay được hiểu: “Là một loại hình du lịch cộng đồng, dành cho các đối tượng khách thích được trải nghiệm cuộc sống cùng với các hộ gia đình tại nhà của họ, nhằm tìm hiểu về cộng đồng và phong cách sống của người dân địa phương cũng như nâng cao hiểu biết về điều kiện tự nhiên và những nét văn hóa đặc sắc thông qua các hộ gia đình đó”. Các đặc trưng chủ yếu của du lịch Homestay: + Du lịch homestay phát triển dựa trên những giá trị hấp dẫn của thiên nhiên và đặc biệt văn hóa bản địa. Tạp chí Người đưa tin Unesco (12/1989) đã viết: “Cuộc phiêu lưu giờ đây không còn chân trời địa lý, không còn những lục địa trinh bạch ( ) Vậy mà, về nhiều mặt, các dân tộc vẫn còn xa lạ với nhau và những phong tục, những niềm hi vọng ẩn giấu, những xác tin sâu kín của mỗi dân tộc vẫn tiếp tục là những thứ mà các dân tộc khác chẳng mấy biết đến”. Như vậy, bản sắc văn hóa của mỗi vùng đất luôn là những ẩn số hấp dẫn, trở thành động cơ để khách du lịch đến tìm hiểu, khám phá. + Du lịch homestay chia sẻ lợi ích từ du lịch với cộng đồng địa phương đảm bảo sự phân chia công bằng cho các bên tham gia, đóng góp cho những nỗ lực bảo tồn các giá trị tài nguyên và phát triển cộng đồng. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh + Du lịch Homestay được tổ chức theo phương thức: “ba cùng”: Cùng ăn - cùng ở - cùng sinh hoạt. Đây là đặc trưng nổi bật nhất của loại hình du lịch này. Khách du lịch đến sinh sống tạm thời, được coi như một thành viên chính thức và tham gia trực tiếp vào một số hoạt động hàng ngày của gia đình người dân bản địa. Mối quan hệ giữa du lịch cộng đồng và du lịch homestay được thể hiện qua bảng so sánh sau: Tiêu chí Du lịch Homestay Du lịch cộng đồng Chủ yếu dựa vào tài nguyên du Dựa vào tài nguyên du lịch tự nhiên Tài nguyên lịch văn hóa và tài nguyên du lịch văn hóa Nhấn mạnh khai thác và bảo Khai thác và bảo tồn các giá trị tự Mục tiêu tồn các giá trị văn hóa bản địa nhiên và văn hóa bản địa Nhà dân và một phần tài Đối tượng Tài nguyên du lịch tự nhiên và văn nguyên du lịch tự nhiên và văn tham quan hóa của điểm đến hóa của điểm đến Lưu trú Ở nhà dân Ở nhà dân hoặc không Hướng dẫn Chủ nhà có vai trò như một Vai trò của hướng dẫn viên và người viên hướng dẫn viên không chuyên dân rất quan trọng Chủ nhà và một phần lợi ích Lợi ích Lợi ích toàn bộ cộng đồng cộng đồng Xét trên phương diện loại hình, mục tiêu, đối tượng tham quan hay lợi ích thì du lịch Homestay là bộ phận của du lịch cộng đồng. Nếu như du lịch cộng đồng là loại hình du lịch khai thác và đảm bảo lợi ích cho cả cộng đồng thì du lịch Homestay là loại hình khai thác một phần giá trị của cộng đồng nhưng đảm bảo lợi ích cho một bộ phận cộng đồng về mặt kinh tế và đảm bảo lợi ích cho cả cộng đồng về mặt môi trường, văn hóa, xã hội. Như vậy, du lịch Homestay là một bộ phận của du lịch cộng đồng. 1.3.6.4 Du lịch bền vững Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của toàn nhân loại trong thế kỷ XXI. Phát triển du lịch bền vững trở thành xu hướng và mục tiêu phát triển ngành kinh tế du lịch của nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Theo Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (WCED) “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng nhu cầu của họ”. Theo khoản 21, điều 4, chương I – Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của các thế hệ tương lai”. Trong các nguyên tắc phát triển bền vững, có 2 nguyên tắc đề cập đến cộng đồng địa phương: + Hỗ trợ kinh tế địa phương: Nguồn tài nguyên mà ngành du lịch đang sử dụng vốn thuộc quyền sở hữu của người dân bản địa. Hoạt động du lịch một mặt mang lại hiệu quả tích cực cho kinh tế - xã hội địa phương, mặt khác cũng để lại nhiều hậu quả tiêu cực cho tài nguyên môi trường và kinh tế của địa phương. Do vậy, ngành du lịch có trách nhiệm đóng góp một phần thu nhập cho phát triển kinh tế địa phương. + Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương: Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi trường mà còn góp phần duy trì, phát triển du lịch, đa dạng hóa nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, tạo ra sự hấp dẫn với du khách. 1.4 Một số bài học kinh nghiệm về phát triển du lịch cộng đồng 1.4.1 Vườn quốc gia Cúc Phương VQG Cúc Phương có nhiều nguồn lực cho phát triển du lịch sinh thái. Dân cư sống đông đúc trong và xung quanh VQG là một trong những đặc điểm nổi bật của phần lớn các VQG tại Việt Nam Phần lớn họ là dân nghèo, sinh sống chủ yếu Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh dựa vào phát nương làm rẫy và thu lượm, săn bắt động thực vật hoang dã và các sản phẩm rừng khác. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến nạn mất rừng và suy giảm số lượng các loài động thực vật sống trong VQG. Để khắc phục tình trạng trên cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, song điểm mấu chốt vẫn là làm sao nâng cao được mức sống của người dân địa phương. Kinh nghiệm của VQG Cúc Phương cho thấy nếu biết tổ chức du lịch một cách hợp lý thì có thể thu hút một bộ phận dân cư địa phương tham gia làm du lịch và qua đó tăng thêm thu nhập. Hiện tại Cúc Phương cùng hợp tác với chính quyền và nhân dân địa phương xây dựng được 3 làng du lịch tại làng Khanh, La, Biên Động. Các làng du lịch này đều nằm trong vùng đệm của vườn do đó giảm thiểu được những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch lên hệ sinh thái của vườn. Làng du lịch kể trên được nối với tuyến du lịch xuất phát từ vườn do cán bộ nhân viên của vườn thực hiện. Bằng nguồn thu nhập từ du lịch, VQG Cúc Phương đã hỗ trợ dân địa phương trong việc cải tạo nâng cao giá trị mảnh vườn gia đình, làm thủy điện nhỏ, đường xá nông thôn Tất cả những việc làm trên đều có tác động tích cực đến việc quản lý, bảo vệ vườn. 1.4.2 Vườn quốc gia Xuân Thủy VQG Xuân Thủy nằm ở huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, có điều kiện tự nhiên lý tưởng cho việc nuôi trồng và khai thác nguồn lợi thủy hải sản và phát triển du lịch. Theo ông Nguyễn Viết Cách - Giám đốc VQG Xuân Thủy, việc đầu tiên là cần bảo vệ tốt môi trường, việc này với vùng đất ngập nước bao giờ cũng đem lại kết quả thực hiện việc bảo vệ các giá trị thiên nhiên lâu dài. Ngay trong điều kiện thực tiễn ở đây đã đáp ứng cho đời sống chính của cộng đồng địa phương. Vùng dự trữ thiên nhiên này mang nguốn sống, dự trữ thức ăn và môi sinh cho các mô hình khai thác, nuôi trồng thủy sản ở vùng đệm cùng một phần trong vùng lõi. Từ đó đóng góp cho sự phát triển môi sinh, kinh tế xã hội địa phương, trở thành nền cơ bản cho việc cung cấp phát triển mô hình sinh thái độc đáo của vùng đất mới, đem lại nhiều tiềm năng cho đích phát triển. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Chức năng du lịch của VQG phải được phát huy để tạo phúc lợi chung cho cộng đồng và tại đây đã từng bước làm được điều này. Ngoài việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, chất lượng dịch vụ, VQG có một dự án du lịch cộng đồng để phát huy tất cả các tiềm năng có thể, đáp ứng cho du khách thăm thú thiên nhiên, có được ngày nghỉ cuối tuần thật thoải mái. 1.4.3 Sapa Sapa là một huyện nhỏ phía bắc tỉnh Lào Cai, là “thành phố trong sương” đẹp huyền ảo. Theo thống kê của Tổng cục du lịch, nếu năm 1995 có 9300 lượt khách (2300 khách nước ngoài) tới Sapa thì chỉ trong 6 tháng đầu năm 1996 đã có 7282 lượt khách, trong đó có 3282 khách nước ngoài. Có thể thấy hoạt động du lịch đã thực sự mang lại những hiệu quả kinh tế cho huyện này, tạo điều kiện cho sự phát triển đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây. Mặt khác, sự phát triển du lịch cũng có những tác động tiêu cực tới hệ sinh thái tự nhiên và đời sống xã hội. Hệ sinh thái tự nhiên của Sapa đã bị biến đổi nhanh chóng, đặc biệt là đời sống xã hội văn hóa. Sự tấn công mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa - nền kinh tế du lịch đã gây những tác động không nhỏ tới các sản phẩm văn hóa đồng thời làm biến đổi cả phương thức hoạt động kinh tế của người dân thiểu số vùng cao. Ví dụ: Đối với các sản phẩm thêu tay, để tăng cường số lượng hàng hóa bán ra, giảm bớt công sức, người dân tộc đã giảm bớt những đường nét hoa văn truyền thống. Sự phức tạp và tinh tế của đường nét và màu sắc không còn nhiều. Cả vùng du lịch Sapa đang từng bước bị thương mại hóa (cả về tâm lý, nếp sống). Do đó, cần bảo vệ chất văn hóa của hoạt động du lịch. Điều kiện quan trọng nhất đảm bảo sự bền vững của hoạt động du lịch là độ bền vững của các sản phẩm du lịch. Song một vấn đề đặt ra là: trong quá trình giao lưu văn hóa thông qua hoạt động du lịch, giữa các vùng miền, giữa các quốc gia thường hay diễn ra sự đánh giá nơi này, nơi kia “tiến bộ” hay “lạc hậu”. Các nước có nền kinh tế phát triển, các vùng có mức sống cao thường tự nhận là “tiến bộ”. Các nước có nền kinh tế chậm phát triển, các vùng có mức sống thấp thường bị đánh giá là “lạc Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh hậu”. Vì thế, thường có khẩu hiệu: “Việt Nam đuổi kịp các nước tiên tiến”, “miền núi đuổi kịp miền xuôi” Người ở vùng “tiến bộ” thường có mong muốn khá chân thành là cải hóa vùng “lạc hậu”. Người ở vùng “lạc hậu” thường mang nhiều mặc cảm và cố gắng tự loại bỏ những cái mà họ tự cho là thấp kém hơn để vươn tới cái tiến bộ. Nếu xét ở khía cạnh kinh tế, về mức sống, về tiện nghi vật chất thì không có gì phải bàn cãi, nhưng nếu điều này xảy ra trong lĩnh vực văn hóa truyền thống thì lại là một “thảm hại to lớn” đối với du lịch: Khi các dân tộc, các tộc người thiểu số cố gắng vứt bỏ bản sắc văn hóa của mình, tìm cách hòa trộn trong văn hóa của tộc người đa số, có nghĩa là môi trường văn hóa – sản phẩm của du lịch đã mất đi yếu tố “lạ”, “độc đáo”, mất đi sức hấp dẫn của nó. Do vậy, chúng ta cần khẳng định và bảo vệ chất văn hóa trong du lịch – du lịch sinh thái nhân văn.Trong quá trình du lịch, sự giao lưu văn hóa giữa các vùng miền trong một quốc gia cũng như sự giao lưu văn hóa giữa các nền văn hóa của đa quốc gia, sự ảnh hưởng qua lại là điều khó tránh, nhưng nếu để mất đi cái “lạ”, cái độc đáo của sắc thái văn hóa tộc người, có nghĩa chúng ta đã làm mất đi độ bền vững của sản phẩm du lịch, và cũng chính là mất đi mục tiêu du lịch bền vững. Có thể nói, trong lĩnh vực văn hóa, nhất là văn hóa tinh thần, chỉ có sự khác biệt giữa các nền văn hóa, chứ không có nền văn hóa cao, nền văn hóa thấp. “Khoan dung là một thái độ ứng xử tích cực, không hàm ý ban ơn hay hạ mình chiếu cố đối với người khác. Khoan dung là tôn trọng sự đa dạng của các nền văn hóa. Khoan dung là sự thừa nhận không có một nền văn hóa, một quốc gia hay một tôn giáo nào là độc tôn về tri thức và chân lý ” (Tuyên bố của Unesco khi chọn năm 1995 là năm Quốc tế về sự khoan dung khi bàn về sự tiếp xúc văn hóa trong hoạt động du lịch). 1.4.4 Nepal và khu vực Annapurna: Du lịch là một trong những nguồn thu nhập ngoại tệ chính của Nepal. Mỗi năm, có hơn 36.000 du khách ưa hiểm trở và hơn 36.000 người khuân vác đi kèm đã tới thăm quan vùng Annapurna, tạo nguồn thu nhập cho hơn 40.000 người dân Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh địa phương. Khoảng 60% những du khách theo kiểu này đến trong vòng 4 tháng trong năm. Họ tập trung chỉ tại một vài điểm, do vậy gây nên những ảnh hưởng mang tính phá hủy nghiêm trọng lên cả môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa địa phương. Mỗi năm rừng bị chặt đi để xây dựng khách sạn, nhà nghỉ và tiện nghi nhà, để cung cấp củi đốt cho việc nấu thức ăn, tắm nước nóng, lửa trại Hàng năm, 400.000ha rừng bị cắt. Tỉ lệ chặt phá rừng là 3%/năm. Cũng hàng năm, cứ 1ha rừng bị cắt, mất đi 30 - 70 tấn đất. Điều này đã dẫn đến những vụ lở đất và lụt lội nghiêm trọng. 86% năng lượng của Nepal lấy từ rừng. Ở Annapurna, mọi người dân đều dùng củi để nấu ăn bởi không còn nguồn năng lượng nào khác. Tổng lượng gỗ tiêu thụ hàng ngày do một người khách du lịch tương đương với lượng gỗ một gia đình Nepal dùng trong khoảng 5 ngày hoặc 1 tuần Do vậy, Nepal đã phấn đấu đảm bảo rằng bên có lợi từ các hoạt đồng bảo tồn và du lịch đường bộ sẽ là những người dân địa phương; đồng thời biến người dân địa phương thành những người bảo vệ nguồn tài nguyên của họ. Phương thức thực hiện là lấy kinh nghiệm của người dân chứ không sử dụng những triết lý sách vở. Kết quả là các hoạt động truyền thống ghép vào một hệ thống quản lý tài nguyên quan trọng được trợ giúp bởi các dự án quy mô nhỏ về năng lượng và bảo tồn nhằm giảm đến mức tối thiểu tác động của khách du lịch và nâng cao mức sống của người dân địa phương. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Tiểu kết chương 1 Chương 1 là cơ sở lí luận, tóm tắt các khái niệm mang tính khái quát những vấn đề liên quan đến du lịch cộng đồng: - Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch mà ở đó cộng đồng địa phương có sự kiểm soát và tham gia chủ yếu vào các lĩnh vực phát triển và quản lý hoạt động du lịch, phần lớn lợi nhuận từ hoạt động du lịch được giữ cho cộng đồng. - Du lịch cộng đồng với các đặc điểm cộng đồng là chủ thể của việc sở hữu bảo vệ, khai thác tài nguyên, tham gia vào các hoạt động du lịch và được hưởng những nguồn thu từ du lịch. - Các nguyên tắc phát triển du lịch đảm bảo cho sự bền vững tài nguyên môi trường du lịch và nâng cao chất lượng cuộc sống và hướng nhiều vào phát triển cộng đồng. - Các thành viên tham gia hoạt động du lịch gồm: Cộng đồng địa phương, chính quyền địa phương, các tổ chức, cá nhân tài trợ, các tổ chức phi chính phủ và chính phủ, các công ty kinh doanh lữ hành và dịch vụ; khách du lịch. - Du lịch cộng đồng tác động tới các mặt: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. - Các loại hình du lịch cộng đồng thực chất là loại hình du lịch sinh thái và văn hóa bền vững, song những người tham gia vào hoạt động du lịch là những người dân sinh sống định cư tại các điểm du lịch hoặc gần kề các điểm du lịch. Là loại hình du lịch tăng cường vai trò của cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch và bảo tồn để đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng và bảo tồn. - Một số những bài học kinh nghiệm phát triển du lịch cộng đồng tại: VQG Cúc Phương, Xuân Thủy, tại Sapa, Nepal với vùng Annapurna. Như vậy, chương 1 sẽ là cơ sở, tiền đề quan trọng để tiếp cận với du lịch cộng đồng, trên cơ sở đó tiến hành nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tại Tam Cốc - Bích Động và cố đô Hoa Lư. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Chương 2 Nguồn lực và thực trạng hoạt động du lịch cộng đồng tại Tam Cốc - Bích Động và cố đô Hoa Lư. 2.1 Các nguồn lực phát triển du lịch ở Hoa Lư 2.1.1 Vị trí địa lý và tài nguyên du lịch tự nhiên. 2.1.1.1 Vị trí địa lý: - Hoa Lư là mảnh đất nằm ở phía Nam của tỉnh Ninh Bình với diện tích 139,7km2, có hai danh thắng nổi tiếng là Tam Cốc - Bích Động và cố đô Hoa Lư. Phạm vi địa giới khu du lịch Tam Cốc - Bích Động được xác định trong quy hoạch khoảng 400ha, thuộc địa phận xã Ninh Hải huyện Hoa Lư, một phần thuộc xã Sơn Hà huyện Nho Quan, xã Yên Sơn thị xã Tam Điệp tỉnh Ninh Bình. Tam Cốc cách Hà Nội - trung tâm kinh tế, văn hóa du lịch của cả nước khoảng 100km; cách thành phố Ninh Bình 7km, lại gần quốc lộ 1A - trục đường giao thông đường bộ, đường sắt của cả nước, có đường quốc lộ 10, đường 21, lại rất gần với các khu du lịch như: Quảng Ninh, Hải Phòng Đây là vị trí rất thuận lợi cho phát triển du lịch nói chung và du lịch cộng đồng nói riêng, giúp người dân có thể tham gia vào hoạt động vận chuyển. Cố đô Hoa Lư trước đây rộng khoảng 300ha, được bao bọc quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ. Sử cũ cũng miêu tả chấm phá tự nhiên của kinh đô Hoa Lư như sau: “Hoa Lư là nơi núi non trùng điệp. Núi trong sông, sông trong núi. Căn cứ thủy bộ rất thuận tiện. Sau lưng là rừng, trước mặt là đồng bằng, xa nữa là biển cả Nơi đây non sông tráng lệ, phong thủy hài hòa, xứng đáng chọn để dựng đô được”. 2.1.1.2 Địa hình, địa chất: Hoa Lư: Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Hoa Lư có núi, sông kỳ vĩ, thơ mộng nổi tiếng, với nhiều hang động. Cái tên Hoa Lư đầu tiên cũng là tên: động Hoa Lư. Theo sách Đại Nam thống chí ghi: “Động Hoa Lư ở phía Tây bắc huyện Gia Viễn, phủ Ninh Bình, cách 33 dặm thuộc các xã Đại Tế, Đại Viễn, Đại Hữu. Bốn mặt là núi đá la liệt, ở giữa có độ 2 mẫu đất bằng, có khe nhỏ từ trong hang động chảy ra đến địa phận thôn Trì Hối và Sào Lọng, cũng gọi là khe Sào Lọng chảy về hạ lưu sông Hoàng Long, tức là chỗ ẩn trú của Đinh Tiên Hoàng vậy. Nay trong hang động có miếu xưa”. Theo thống kê, Hoa Lư có khoảng 18 hang động đẹp, điển hình là hang động Thiên Tôn, động Am Tiêm, Liên Hoa Tam Cốc - Bích Động: Cấu trúc địa chất của khu vực Tam Cốc – Bích Động được xem như là khối đá vôi tách ra từ dải đá vôi Lai Châu – Thanh Hóa. Nó có quy mô phân bố rộng dạng vòng cung, được hình thành do quá trình kiến tạo của đới sông Đà. Trên mặt cắt địa chất cấu tạo của khối đá vôi Ninh Bình, đá vôi Tam Cốc - Bích Động là một nếp lõm. Do vậy, cảnh quan ở đây được kết hợp thi vị giữa núi, sông, rừng cùng nhiều hang động. Đặc biệt, địa hình Tam Cốc – Bích Động còn nổi bật với các thung, nơi có sự đa dạng sinh học nằm xen lẫn với các dãy núi rất thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch sinh thái như: Thung Nắng, thung Hải Nham, thung Một, thung Ao Mép, thung Thầy, thung Hang Vạng Kiểu địa hình độc đáo của Tam Cốc - Bích Động là kiểu địa hình kars, mệnh danh là “Vịnh Hạ Long cạn”. Hiện tượng nổi tiếng này được tác giả H.Wissan và J. Silar trình bày một cách khoa học bằng các bản ảnh về Hạ Long, liên tưởng đến toàn bộ khối đá vôi Hoa Lư, Ninh Bình và các vùng phụ cận trước đây triệu 400 năm – trước thời kỳ biển thoái, là một Hạ Long “cạn” ngày nay. Các hang động ở Tam Cốc - Bích Động rất phong phú về hình thái và chủng loại. Mỗi hang đều có những sắc thái riêng. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Bảng hệ thống hang động tại khu du lịch Tam Cốc - Bích Động Trắc lượng hình Loại hình Đặc điểm sinh thái Giá trị Tên thái TT hang với du hang Dài Rộng Cao động Ánh sáng Nước lịch (m) (m) (m) 1 Động Hang 83 6 7 Hơi tối Khô Rất đẹp Tiên thông 2 Hang Cả Xuyên 127 20 3 Hơi tối Nước Đẹp thủy 3 Hang Xuyên 60 18 3 Hơi tối Nước Đẹp Hai thủy 4 Hang Ba Xuyên 45 18 3 Hơi tối Nước Đẹp thủy 5 Hang Xuyên 135 7 3 Hơi tối Nước Rất đẹp Chùa thủy 6 Hang Xuyên 50 5 3,5 Hơi tối Nước Đẹp Ghé thủy 7 Hang Xuyên 380 20 7 Tối Nước Rất đẹp Bụt thủy 8 Hang Cụt 70 5 3,5 Tối Khô Đẹp Hiểu 9 Hang Cụt 100 6 10 Hơi tối Khô Đẹp Thần 10 Hang Cá Thông 150 4 3 Tối Khô Rất đẹp 11 Hang Xuyên 50 15 5 Tối Nước Đẹp Thung thủy 12 Hang Xuyên Thong 350 6 3 Tối Nước Rất đẹp thủy thày 13 Động Xuyên Thiên 40 20 60 Hơi tối Khô Rất đẹp thủy Hương 14 Hang Xuyên 25 5,5 4 Hơi tối Nước Rất đẹp Dình thủy 15 Động Thông 50 15 Tối Khô Rất đẹp Tối Nguồn: Sở du lịch Ninh Bình Với hệ thống hang động phong phú như trên, rất thuận lợi cho phát triển du lịch. Hiện nay mới chỉ có hang Cả, hang Hai, hang Ba, động Thiên Hương, động Tối, động Tiên, hang Thung Nắng là đưa vào khai thác phục vụ du lịch. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh 2.1.1.3 Khí hậu Khu vực này có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, có mùa đông lạnh, phù hợp với chế độ hoàn lưu chung của khu vực. Ở vùng này, gió thổi theo hai hướng chủ yếu của 2 mùa: Đông và Hè. Trong mùa đông (9 – 2), hướng gió thịnh hành ở đây là bắc với tần suất giao động từ 26% - 42 %, sau đó là hướng tây bắc trong nửa đầu mùa đông với tần suất 10% - 11% và hướng đông nam với tần suất 10 %- 16% trong nửa cuối mùa đông. Vào mùa hè, hướng gió chính là hướng đông nam và nam với tấn suất mỗi hướng giao động khoảng 10% - 30%. Tốc độ gió trung bình năm giao động khoảng 1,8 – 2,0 m/s. Nhìn chung là ít thay đổi trong năm. Số liệu thống kê của UBND xã Ninh Hải nhiều năm cho thấy lượng mưa trung bình khoảng 140 – 150 ngày mưa/năm. Các tháng ít mưa nhất là từ tháng 11 tới tháng 04 năm sau. Số ngày mưa khoảng 4 – 6 ngày/tháng. Các tháng còn lại mưa trên 10 ngày/tháng. Tháng mưa nhiều nhất là tháng 8, số ngày mưa gấp ba lần số ngày mưa của tháng ít mưa. Ở đây vào mùa mưa, mực nước lớn không gây lụt lội mà ngược lại, tạo điều kiện tốt hơn cho chuyên chở khách đi thưởng ngoạn cảnh “sơn thủy hữu tình’’. Các hiện tượng thời tiết đặc biệt: Ngoại trừ mưa phùn và mưa bão, trong các tháng còn lại của năm, cơ chế mưa tại đây chủ yếu là mưa rào và mưa giông. Các kiểu mưa này rất mau tạnh, ít gây trở ngại cho hoạt động du lịch. Các kiểu mưa này cũng đóng vai trò tích cực trong việc làm sạch không khí. Với khí hậu trên, hoạt động du lịch nói chung và hoạt động chở đò của người dân nơi đây được diễn ra liên tục trong năm, không bị gián đoạn do tác động của thời tiết. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho hoạt động du lịch. 2.1.1.4 Thủy văn Khu vực này được điều tiết bởi các con sông trong vùng như sông Ngô Đồng, sông Sào Khê, sông Vân nên chế độ thủy triều có nhiều lúc biến động. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng không nhiều do cấu trúc địa hình các dãy núi đá, Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh các thung và hang động xen kẽ nên tác động của thủy triều đối với việc đi lại của du khách trên các con sông, lạch là không lớn vào mùa lũ. Nhưng, hiện tượng bồi lắng của các hệ thống sông ở khu vực này là rất lớn. Vì vậy, cần phải thường xuyên nạo vét luồng lạch mới đảm bảo thuận lợi cho hoạt động vận chuyển khách du lịch đi tham quan được nhiều điểm trong khu vực. 2.1.1.5 Sinh vật Thảm thực vật ở Tam Cốc - Bích Động khá đơn giản, chủ yếu là các kiểu thảm thực vật bị tác động mạnh mẽ của con người như trảng cây bụi trên đá vôi, trảng cỏ chịu ngập, các quần xã thủy sinh. Ngoài ra còn có một bộ phận thảm cây trồng như cây trồng ở các quần cư lúa nước. Các thảm thực vật trên kết hợp với địa hình, thủy văn tạo nên một phong cảnh đẹp, góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu của du khách, cung cấp nông sản, cây cảnh, tạo môi trường du lịch xanh, sạch. Vài năm trở lại đây, tại khu vực Thung Nham, công ty TNHH Thương mại dịch vụ Doanh Sinh đã tiến hành ngăn đập nước, phục vụ chăn nuôi và trồng trọt, đã xuất hiện hàng ngàn con chim kéo về cư trú, hình thành nên vườn chim tự nhiên. Một số động vật đã xuất hiện ngay trong khu vực như khỉ đuôi dài, sóc, cá chầu vua Nhiều loại thực vật quý như: cây Bo, cây dương xỉ Đỏ, cây Vạc Nước, cây Lộc Vừng, cây Vàng Anh Đây là tiềm năng cần được khai thác và sử dụng hợp lý để phục vụ cho nhu cầu phát triển du lịch và tham quan của du khách. Hoa Lư có phông môi trường sinh thái đa dạng, là tiền đề cho một thế giới sinh vật phong phú. Trong số 577 loài thực vật thống kê được, có 311 loài có thể dùng làm thuốc. Tài nguyên cây cảnh ghi nhận được 76 loài. Giá trị lớn nhất là loài Tuế và các loài thuộc họ Lan. Động vật thủy sinh trong vùng ngập nước Hoa Lư hiện còn tồn tại tương đối phong phú, bao gồm 30 loài động vật nổi, 47 loài động vật đáy. Đặc biệt là loài Rùa cổ sọc (Ocadia sinesis) được coi là loài quý hiếm. Đánh giá: Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Hoa Lư - một vùng du lịch văn hóa lịch sử và thiên nhiên hấp dẫn. Đó là điểm dừng chân của học sinh, sinh viên, nhiều nhà khoa học Đây cũng là điểm dừng chân để nghỉ ngơi, thư giãn, ngắm những nhũ đá với vẻ trinh nguyên của nó hoặc đi bộ qua các khu rừng trên núi đá vôi, leo núi, chèo thuyền, hít thở không khí trong lành. 2.1.1.6 Các điểm phong cảnh tự nhiên - Tam Cốc: Theo nghĩa Hán Việt, Tam Cốc có nghĩa là ba hang, gồm hang Cả, hang Hai, hang Ba thuộc thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Du khách đi tham quan Tam Cốc chỉ có một con đường duy nhất vào – ra khoảng 3 giờ đi bằng thuyền chèo tay từ bến Văn Lâm (Đình Các). Thuyền đưa du khách đi khoảng 2 km là tới hang Cả. Hang Cả dài 127 m, rộng 20 m nằm dưới một quả núi lớn vắt ngang qua hai dãy núi bên sông Ngô Đồng. Trên vách đá bên tay phải sát cửa hang có khắc bài thơ chữ Hán và bản dịch của Bố chính Nam Định là cử nhân Đỗ Kiêm Thiện. Thuyền trôi 1 km nữa là tới hang Hai. Hang Hai cũng nằm dưới quả núi vắt ngang sông Ngô Đồng, dài 60 m, rộng 18 m. Trần hang có nhiều nhũ đá rủ xuống. Đi khoảng 100 m nữa là tới hang Ba. Hang Ba dài 45 m, rộng 18 m. Đây là hang mát nhất vào mùa hè vì hang thấp hơn. Trần hang có ít nhũ đá, chủ yếu là những vòm đá nhẵn tạo thành như bị bào mòn đến trơ trụi. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Bến thuyền Tam Cốc Bến thuyền và sông Ngô Đồng - Bích Động: Từ bến Đình Các đi tiếp đường bộ khoảng 3 km nữa là tới Bích Động. Động nằm trong dãy núi “Ngũ Nhạc sơn’’, thuộc địa phận thôn Đàm Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Trong động có thờ Phật. Trên cửa động có treo một quả chuông đồng rất lớn, đúc năm 1707. Cảnh quan trong động rất hoành tráng, đồ sộ, Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh kỳ diệu với những hình ông tiên, cô tiên, tiểu đồng, rồng lượn, rùa bơi, voi chầu, hổ phục, chim đại bàng, kho tiền Năm 1773, cụ Nguyễn Nghiễm - thân sinh ra đại thi hào Nguyễn Du đã tới thăm động, nhìn toàn cảnh núi, động, sông nước, đồng ruộng, bầu trời ở đây như phủ một màu xanh nên cụ đã đặt cho động một cái tên rất đẹp và thơ mộng là “Bích Động’’ - động xanh. Động được vua Tự Đức ban danh là “Nam thiên đệ nhị động”. Đường vào chùa Bích Động - Suối Tiên: Đi qua Tam Cốc khoảng 3 km nữa là tới Suối Tiên. Đường sông Ngô Đồng tới Suối Tiên uốn lượn rất ngoằn ngoèo, lách vào các dãy núi đá. Nhìn trước mặt thấy núi chắn, quay lại nhìn phía sau cũng thấy núi chắn, hai bên dòng sông đều là các dãy núi trùng điệp khiến ta có cảm giác như không có đường vào cũng chẳng có đường ra, xung quanh là đường vòng tròn núi vây hãm. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Trên đường đi suối Tiên, du khách còn được chiêm ngưỡng một ngọn núi cao ngất, đứng độc lập giữa hai dãy núi bên sông Ngô Đồng, đó là núi Bậc Bài. Đi tiếp qua các cánh đồng, thuyền cập bến, du khách đi bộ khoảng vài chục mét nữa là tới Suối Tiên. Suối Tiên thực chất là một hang nước hẹp, rộng khoảng 10m2. Nước từ trong núi chảy ra, hang nhỏ này có độ sâu trung bình 1 m, nước lúc nào cũng trong vắt. Dưới Suối Tiên là một phiến đá to, bằng phẳng rộng 01m2, có thể đứng tắm. Tương truyền, đây là chỗ tắm của Tiên nên gọi là Suối Tiên. - Động Tiên: Động Tiên ở thôn Đàm Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư và còn có một tên khác là động Móc. Động nằm cách Bích Động 1 km, đến động bằng thuyền hoặc đi bộ. Động gồm 3 hang lớn, rộng cao vời vợi, đường vào động phải đi qua một khe hang nhỏ, mấp mô. Trần hang là những vân đá nhũ rỏ xuống lấp lánh nhiều màu sắc. Nhiều khối nhũ đá từ trần động rú xuống nền, cao hơn chục mét tựa như những rễ cây đa cổ thụ với các tên gọi: cây tiền, cây thóc, ông tiên, cô tiên, con voi, con hổ Xung quanh vách động và trên nền động có nhiều măng đá, nhũ đá. Những nhũ đá này được thiên nhiên trạm trổ, vừa phóng khoáng, vừa tinh tế mà rất sống động. - Hang Thung Thày (Xuyên thủy động): Xuyên thủy động nằm dọc theo chiều dài của núi Bích Động. Núi Bích Động có 3 ngôi chùa: Hạ, Trung, Thượng bên sườn núi, lại có Xuyên thủy động như một đường ống nước đá khổng lồ uốn lượn từ phía đông sang phía tây, tạo ra thế tụ thủy âm dương đối đãi tuyệt vời, làm cho chùa Bích Động thêm linh thiêng hơn. Hang này dài 350m, vào ra khoảng 40 phút, bình quân bề rộng của Xuyên thủy động là 6 m, chỗ rộng nhất là 15 m, chiều cao tính từ mặt nước tới trần hang là 2 m. Trần và vách hang thường phẳng, nhũ đá trong hang ít nhưng nếu chỗ nào đã có nhũ đá thì đều mang dáng hình rất giống: ông tiên, cô tiên, bầu sữa me, kho Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh kim cương, dơi, cá sấu Thuyến đưa du khách ra khỏi hang, phía trước mặt là cánh đồng Thong Thày ngập nước, xung quanh núi bao bọc, du khách có thể leo qua chèn để sang chùa Hạ hoặc du khách ngồi thuyền quay trở ra. - Động Thiên Hương: Động nằm ở chân núi Đồng Võ, cạnh bến Thánh. Để lên thăm động, du khách phải bước lên 30 bậc đá. Đến cửa động lại bước lên cao 1 m nữa mới tới nền động. Không gian trong động rộng lớn, cao thăm thẳm như hình rỗng bên trong của một quả chuông đá khổng lồ úp lên. Nhìn động bằng phẳng, rộng 800m2, dài 40 m, cao 60 m. Đứng trên nền động nhìn thấy một khoảng trời Có lẽ vì vậy mà động có tên là động trời. Trên đỉnh núi có một phiến đá rộng 10 m, tương truyền đây là nơi các vị tiên chơi cờ. Nằm trong động là miếu thờ bà Trần Thị Dung – vợ của vua Lý Huệ Tông dưới triều nhà Lý và sang thời Trần, bà là vợ của Thái sư Trần Thủ Độ. Tương truyền, khi cùng triều đình nhà Trần vào Vũ Lâm lập hành cung, bà đã truyền dạy cho dân cư thôn Văn Lâm nghề thêu ren. Bà được nhân dân ở đây suy tôn là Bà tổ nghề thêu ren. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Động Thiên Hương Hang động Tam Cốc Thung Nham Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Đánh giá chung: Huyện Hoa Lư – Ninh Bình là địa phương có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, hoang sơ, có sự kết hợp giữa cảnh quan tự nhiên và các di tích lịch sử văn hóa. Đặc biệt, có hệ thống hang động phong phú về hình thái, núi non trùng điệp xen kẽ với các thung ngập nước, các dòng chảy, thảm thực vật với những cây thấp và cao trung bình phủ kín chân núi, sườn núi. Tại khu thung Hải Nham, công ty TNHH Doanh Sinh đã tiến hành khai thác mang lại nhiều hiệu quả cả về kinh tế và môi trường. Do đó tại đây có thể phát triển nhiều loại hình du lịch dựa vào cộng đồng: du lịch tham quan, du lịch sinh thái, du lịch leo núi, du lịch văn hóa, thiết kế được nhiều tour tuyến du khảo đồng quê. 2.1.2 Tài nguyên du lịch nhân văn và điều kiện kinh tế - xã hội: 2.1.2.1 Tài nguyên du lịch nhân văn Bao gồm hệ thống các đình, chùa, đền, làng nghề, lễ hội, phong tục tập quán, ẩm thực Các di tích lịch sử, văn hóa: + Chùa Bích Động: Chùa Bích Động được xây dựng bên sườn núi Bích Động, thuộc địa phận thôn Đàm Khê, xã Ninh Hải. Tương truyền, dưới thời vua Lê Lợi có hai vị hòa thượng pháp danh là Chí Kiên và Chí Thể, một người quê ở Vọng Doanh, một người quê ở Đông Xuyên, hai người kết nghĩa làm anh em, cùng nhau đi khắp nơi trong nước để truyền bá đạo. Khi tới đây thấy phong cảnh đẹp, họ tiến hành sửa sang động phủ, quyên giáo làm chùa để tu hành. Lúc đầu chùa xây dựng còn sơ sài, nương dựa chính vào hang động nên gọi là chùa Động. Về sau chùa được tu bổ mở mang thêm mới thành như hiện nay. Chùa Bích Động là một công trình kiến trúc cổ, xây dựng bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài, các góc mái đầu đao đều cong vút, chùa được xây dựng theo kiểu chữ “Tam”, ba tòa không liền nhau, tam cấp dọc theo sườn núi Bích Động tạo thành ba ngôi chùa: chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Chùa Hạ được xây dựng theo kiểu chữ “Đinh ”. Mái chùa gồm 2 tầng, 8 mái. Ở gian giữa Tiền đường có treo bức đại tự bằng chữ Hán “Mạo cổ thần thánh”, có nghĩa là dáng dấp ngôi chùa xưa nay thiêng lắm. Chùa Trung có kiến trúc bán mái phía ngoài; một nửa nằm trong hang; một nửa lộ thiên. Chùa Trung có kiến trúc kiểu chữ “Đinh”, hai tầng mái. Từ gian bên phải trong Tiền đường chùa Trung theo cửa hậu, leo 21 bậc đá là tới động Tối (Bích Động). Ngay cửa động có treo một quả chuông lớn đúc năm 1707 niên hiệu Vĩnh Thụy thứ hai triều vua Lê Dụ Tông. Chùa Thượng còn gọi là chùa Đông (vì chùa quay hướng đông). Chùa có hai gian được xây theo kiểu nhà dọc bằng đá phiến, phía trong tựa vào núi đá. Từ trên chùa Thượng, du khách có thể ngắm nhìn một phần quang cảnh của Hoa Lư, đó là núi Chồng Sách, núi Voi, năm ngọn núi bao quanh chùa Bích Động là “Ngũ nhạc sơn”. + Đền Thái Vi: Chức năng chính của đền là để tưởng nhớ các vua Trần đã lập hành cung Vũ Lâm và sau khi các ông băng hà, nhân dân thôn Văn Lâm đã xây dựng đền Thái Vi trên nền đất cũ trước đây vua Trần Nhân Tông đã xây dựng am Thái Vi. Gọi là am Thái Vi vì đó là nơi Hoàng đế nhà Trần xuất gia. Đền Thái Vi được xây dựng theo kiểu “Nội công ngoại quốc”; phía ngoài nghi môn có đặt một đôi ngựa bằng đá xanh nguyên khối; trước đền có giếng ngọc xây bằng đá xanh. Qua nghi môn phía bên phải là gác chuông hai tầng mái song song đăng đối xây theo kiểu “chồng Diềm”. Gác chuông có treo một quả chuông đúc từ năm 1689. Từ sân Rồng bước qua theo bậc đá có độ cao 1,2 m là tới Ngũ Đại Môn (5 cửa lớn), có 6 hàng cột đá tròn đều được trạm khắc nổi Long Phượng chầu vào chính điện. Qua năm cửa lớn là tới 5 gian Bái đường, cũng có 6 cột đá vuông trạm khắc nổi Long, ly, quy phượng, cá chép hóa rồng. Gian giữa bái đường có treo bức hoành phi lớn, sơn son thiếp vàng có bốn chữ Hán: “Long đức chính cung”. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Trung đường với 5 gian chính điện cũng có 8 cột đá tròn được trạm khắc nổi chủ đề: Cầm, kỳ, thi, họa. Trong cung Khám của chính điện, ở giữa là tượng Trần Thánh Tông, bên phải là hoàng hậu Thuận Thiên - vợ của vua Trần Thái Tông. Tại đây còn thờ bài vị của vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông. Như vậy, đền Thái Vi là nơi thờ 4 đời vua Trần. Đền Thái Vi + Chùa Linh Cốc: Chùa Linh Cốc thuộc địa phận thôn Côi Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, cách chùa Bích Động khoảng 500m về phía Đông Nam, nằm gần núi chùa Móc. Hai bên sân chùa là nhà thờ tổ, ba gian đặt tượng thánh tăng là đức A Nam Đà và đức tổ Tây người Ấn Độ. Nhà trai có 5 gian quay hướng Đông Nam. Điện mẫu quay lưng vào sườn núi hướng Tây Nam. Hậu cung là một gian thờ Tam tòa Thánh mẫu. Thiêu hương có 5 gian thờ Công đồng thánh mẫu. Lên chùa Linh Cốc, du khách qua hồi hướng Nam của điện mẫu leo lên 83 bậc đá mới tới, chùa ở lưng chừng núi, có độ cao khoảng 30 m so với sân. Đây là một chùa động. Buồng ngoài của động cao hơn 20 m, nền phẳng rộng, dùng làm tiền đường của chùa, đặt 2 tượng hộ pháp. Buồng trong của động là một nhỏ ôm Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh trọn lấy Thượng điện của chùa. Trước Thượng điện ở trên cao có 3 chữ Hán lớn “Cốc linh tự’’ – chùa Linh Cốc. Trong thượng điện của chùa có đặt nhiều tượng Phật. + Đền Nội Lâm Đền nằm trong khu vực Suối Tiên, thuộc thôn Văn Lâm xã Ninh Hải. Sau khi tham quan Tam Cốc xong, du khách tiếp tục chèo thuyền vào sâu bên trong khoảng 3 km nữa, sau đó đi qua “Tòa xi bảy mẫu” là tới đền Nội Lâm. Đền nằm gọn trong một hang núi gồm một gian chính và hai gian nhỏ hai bên. Trước đền dưới chân núi là một đầm nước trong xanh rất sâu. Đền thờ thần Quý Minh - theo truyền thuyết là một vị tướng của vua Hùng. Các xà ngang, bậc cửa và 12 cột đều được làm bằng đá. Các cột đá đều được làm vuông có kích thước 15cm – 15 cm, cao gần 2m, đều được trạm khắc nổi tứ linh, rồng, hoa sen. Đường nét trạm khắc rất tinh tế, uyển chuyển, mềm mại sống động. Hàng năm, cứ đến ngày mồng 7 tháng giêng, người dân ở đây lại vào đền thắp hương lễ thần để cầu mong cho năm đi đánh bắt cá, trồng cây trong núi được bình an, may mắn gọi là lễ Phát Lát. Ngày lễ giỗ thần hàng năm vào ngày 18 – 3 âm lịch. + Cố đô Hoa Lư: Theo như “Nguyễn Trãi toàn tập” thì trước đây Hoa Lư có tên là Đại Hoàng, rồi sau là phủ Trường Yên, sau này là Hoa Lư. Hoa Lư là vùng “quá độ” giữa Giao Châu (đồng bằng Bắc Bộ) và Ái Châu (đồng bằng Thanh Hóa). Đất Thanh Hoa ngoại (Ninh Bình ngày nay) là vùng trung gian giữa lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Mã. Từ văn minh Đông Sơn đến văn minh Đại Việt. Theo quyết định số 82/2003/QĐ - Ttg của thủ tướng Chính phủ Việt Nam, hiện tại khu di tích lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư gồm các di tích sau: + Vùng bảo vệ đặc biệt có diện tích gần 300 ha gồm: Toàn bộ khu vực thành Hoa Lư gồm Nội thành và Ngoại thành. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Các di tích lịch sử: đền vua Đinh, đền vua Lê, lăng vua Đinh, lăng vua Lê, đền thờ công chúa Phất Kim, chùa Nhất Trụ, bia cầu Dền, chùa Ngần, hang Bim, các đoạn tường thành, nền cung điện nằm dưới lòng đất, núi Mã Yên, núi Phi Vân, núi Cột Cờ, sông Sào Khê, khu hang động Tràng An. + Vùng đệm có diện tích 1087 ha, bao gồm: Động Am Tiêm, hang Quàn, hang Muối, hang Luồn, động Liên Hoa, chùa Bàn Long, toàn thể cảnh quan hai bên sông Sào Khê, khu dân cư các thôn: Yên Hạ, Vàng Ngọc, các di tích có liên quan trực tiếp đã được xếp hạng. Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam. Kinh đô này tồn tại 42 năm (968 - 1010) là nơi phát tích ba triều đại liên tiếp là nhà Đinh, nhà Tiền Lê, và khởi đầu nhà Lý. Hoa Lư gắn với tên tuổi 3 vị vua khai sáng 3 triều đại với những bước chuyển biến trọng đại của dân tộc Việt Nam: thống nhất đất nước, chống ngoại xâm và dời đô đến kinh đô mới. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Cổng vào đền vua Đinh Toàn cảnh cố đô Hoa Lư Hình ảnh về cố đô Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Giá trị lịch sử: Kinh đô Hoa Lư có một vai trò lịch sử vô cùng đặc biệt dù chỉ tồn tại trong nửa non thế kỷ. Vị hoàng đế đầu tiên của nước Việt thống nhất “nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Đại Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ phục hết _ Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà sinh bậc Thánh triết” (nhà sử học Lê Văn Hưu). Hoa Lư thực sự là một kinh thành Tràng An trên đất Việt mà ở đó “mọi thứ đều thuần Việt”. Cũng từ Hoa Lư độc lập, thống nhất, Lý Công Uẩn đã phóng tầm mắt ra bốn phương để tìm ra vị trí thành Thăng Long rộng rãi, bằng phẳng, tạo ưu thế nhiều hơn trong việc ổn định chính trị, phát huy văn hiến, mở mang kinh tế. Từ Hoa Lư đến Thăng Long là sự chuyển dời tất yếu của lịch sử. Những giá trị ở Hoa Lư đều được kế thừa và phát triển rực rỡ tới Thăng Long. Đây không chỉ đơn giản là một chuyện “bàn giao chính quyền”, mà thực sự là bước quá độ không thể thiếu được trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Từ thế kỷ IX qua thế kỷ X phải về Hoa Lư mới sang được thế kỷ XI, để mở ra thời kỳ phát triển rực rỡ sự nghiệp dựng nước, giữ nước của quốc gia dân tộc Đại Việt tiếp theo đó. Giá trị kiến trúc: Sau chương trình điền dã của dự án Hợp tác văn hóa Việt Nam - Phần Lan, tiến hành khảo sát, vết tích nền móng cung điện thế kỷ X đã được phát hiện bởi đợt khai quật của Viện khảo cổ học. Trong số hàng trăm hiện vật cổ tìm thấy tại đây, có những viên gạch lát nền trang trí hình hoa sen tinh xảo Có những viên gạch còn dòng chữ “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch chuyên xây dựng thành nước Đại Việt). Có những ngói ống có phủ riềm, nằm sâu dưới đất ruộng, khai quật lên còn lành nguyên và cả những chì, lưới làm bằng đất nung. Kết quả đợt khai quật tại khu vực đền Lê Hoàn năm 1997 cũng đã hé mở phần nào diện mạo của kinh đô Hoa Lư: thành quách kiên cố, nhiều kiến trúc lớn Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh và trang trí cầu kỳ, mang đậm phong cách nghệ thuật riêng thời Đinh - Lê: đơn giản, khỏe khoắn. Tuy chưa thể khẳng định về quy mô và công năng của tất cả công trình, nhưng rõ ràng các di chỉ này cho thấy một quần thể kiến trúc tòa ngang dãy dọc khá phong phú. Dung mạo của một bộ phận Hoa Lư xưa đó thể hiện qua dấu vết vật chất chứ không chỉ là hình ảnh của sách vở, chữ nghĩa. Vì vậy, quần thể di tích này cần được bảo tồn tại chỗ. Đông đảo nhà khoa học Việt Nam, Hà Lan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Bỉ, Italia, Đài Loan đã tham gia nhận diện giá trị khu di tích cố đô Hoa Lư. Giá trị văn hóa: Nhờ vị trí của Kinh thành không thay đổi qua các triều đại Đinh - Lê - Lý, nhờ công tác thi công xây dựng xưa chủ yếu là san nền rồi xây lên, có đào móng trụ cũng chỉ trên dưới 1 m cho các chân cột nên các nền kiến trúc cũ được lấp đi. Vì thế, dù là “phế tích” nhưng giá trị của Hoa Lư còn được phản ánh rất rõ: Cố đô Hoa Lư đã thể hiện nét đặc sắc của bề dày văn hóa, biểu thị trong các kiến trúc, di vật, cách xử lý xây dựng cấu trúc đô thành, cách ứng xử - quan hệ với thiên nhiên. Hay từ câu chuyện những viên gạch có tên địa phương, phiên hiệu quân đội mà cảm phục tính tổ chức và trách nhiệm cao của các thế hệ cha ông. Qua các dấu tích và di vật, ta có thể tìm hiểu về cuộc sống cung đình, thấy sự hội tụ của kiến thức tiêu biểu nhất, di vật tiêu biểu nhất của bề dày văn hóa Việt Nam. Đó không chỉ là việc của thế hệ này mà của cả thế hệ mai sau. Các “phế tích” trên còn cung cấp những hiểu biết mới, có tính chất lý thuyết về việc gia cố chân tảng, về cách thức xác định kích thước – quy mô của một kiến trúc qua các dấu vết của di tích, kỹ thuật này là dạng đặc trưng của cố đô Hoa Lư thời Đinh – Lê. Hoa Lư là một thành trì quân sự, một trung tâm văn hóa lớn, là nơi sản sinh ra nghệ thuật sân khấu chèo. Cố đô Hoa Lư có cả một kho tàng Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh văn hóa, truyền thuyết, huyền thoại dân gian đồ sộ đang được phát huy, giữ gìn. Tiêu biểu như sự kiện xung quanh cậu bé chăn trâu Đinh Bộ Lĩnh từ đấu trận cờ lau đến ngai hoàng đế, mở đầu thời kỳ độc lập, thống nhất của nước Việt. Sự kiện thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi làm nên chiến thắng giặc Tống lẫy lừng, trở thành ông vua đi cày đầu tiên trong lịch sử. Thái hậu Dương Vân Nga – người đàn bà quyền lực của hai triều Đinh – Lê, người biết hy sinh lợi ích của dòng tộc để giữ bền xã tắc. Cố đô Hoa Lư hiện là khu di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của quốc gia và là điểm du lịch văn hóa lớn ở Việt Nam. Từ những nghiên cứu khảo cổ, hình hài một Hoa Lư xưa dần lộ rõ. Đây là minh chứng sống động về nền văn hóa Việt Nam phong phú. Cố đô Hoa Lư là một trong những đại diện đầu tiên của Việt Nam được chọn để ứng cử di sản Văn hóa thế giới. Năm 1991, bốn di sản được lập hồ sơ đề nghị là Cố đô Hoa Lư, Vườn quốc gia Cúc Phương, Vịnh Hạ Long và chùa Hương. Cùng với việc phát hiện và khai quật hệ thống hang động Tràng An, năm 2003 khu di tích này đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký quyết định bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị lịch sử để xứng tầm là di sản thế giới trong tương lai. Ngày 17/10/2008, Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND tỉnh Ninh Bình, Hội Di sản văn hóa Việt Nam đã tổ chức hội thảo khoa học về “Giá trị văn hóa cố đô Hoa Lư và khu du lịch Tràng An” nhằm tiến tới đề nghị Unesco công nhận Cố đô Hoa Lư là di sản văn hóa thế giới. Các lễ hội: + Lễ hội đền Thái Vi: Từ xa xưa, cứ đến ngày 14 – 3 âm lịch, lễ hội đền Thái Vi lại được tổ chức. Đây được liệt vào hàng “quốc gia tế lễ”. Lúc đó nhà vua lệnh cho các quan trong triều từ Kinh đô về đền Thái Vi tế lễ. Ban tế là các quan trong triều, chủ tế là một vị hoàng thân trong triều do vua chỉ định. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Ngày nay, lễ hội đền Thái Vi trở thành hội làng được mở từ ngày 14 – 3 đến 17 - 3 âm lịch. Hình thức tổ chức lễ hội đền Thái Vi cũng như các lễ hội truyền thống khác gồm 2 phần chính: phần Lễ và phần Hội. Phần lễ được tiến hành dưới hai hình thức: Rước kiệu và tế. Rước kiệu ở đền Thái Vi không chỉ có một đoàn mà nhiều đoàn từ các xã trong huyện Hoa Lư và trong tỉnh. Ban tế gồm 15 – 20 người, gồm một ông chủ tế (thường là người cao tuổi và có uy tín trong làng). Ông chủ tế đọc văn tế ca ngợi công đức của vua Trần. Phần hội là các trò chơi: Múa lân, múa rồng, đánh cờ người, đấu vật, bơi thuyền ngoạn mục Đây là lễ hội truyền thống đặc sắc, quy mô lớn. Tuy nhiên, lễ hội đền Thái Vi hiện nay quy mô không được như xưa Việc khai thác những giá trị của lễ hội vào hoạt động du lịch hầu như là chưa có. Việc kết hợp tham quan phong cảnh tự nhiên với tham dự lễ hội văn hóa truyền thống sẽ tạo ra một sản phẩm du lịch hấp dẫn được du khách. + Lễ hội Trường Yên: Lễ hội Trường Yên được diễn ra vào 8 – 3 đến 10 – 3 âm lịch. Đặc biệt từ năm 1993 trở lại đây, lễ hội Trường Yên – Hoa Lư đã được nhân dân địa phương khôi phục hoành tráng và hấp dẫn du khách khắp miền đất nước. Hội diễn lại tích “Cờ lau tập trận” và vì vậy hội Hoa Lư còn được gọi là hội Cờ lau. Tham gia cuộc rước trong hội cờ lau gồm khoảng 100 em trai 14 – 16 tuổi, mạnh khỏe, chia hai phe, trong đó chọn một em đóng vai Đinh Bộ Lĩnh. Tất cả ăn mặc giả mục đồng, đầu chít khăn đỏ, khăn xanh, chân quấn xà cạp nâu, tay cầm cờ lau. Thoạt đầu tất cả tập trung tại Trường Yên, rước Đinh Bộ Lĩnh bằng kiệu tay qua sông Hoàng Long đến làng Uy Viễn. Hội làng Uy Viễn khá nhộn nhịp. Theo tiếng trống, đoàn cờ lau múa quanh kiệu của Đinh Bộ Lĩnh những động tác dàn quân tập trận, khi đội này tiến, khi cơ khác lui, khi sang ngang, khi dừng Đinh Bộ Lĩnh mặc áo hoàng bào có 3 con trâu đan bằng khung tre dán giấy to bằng trâu thật trình diễn lại nhiều chi tiết trong truyền thuyết. Hiện nay, trong hội còn có cuộc thi giọng hát Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh chèo hay, thi đấu vật, bóng chuyền, cờ tướng, trưng bày sinh vật cảnh, trưng bày giới thiệu di tích lịch sử, khảo cổ học kinh đô Hoa Lư, tổ chức cuộc thi “Người đẹp cố đô”. Con người: Hoa Lư trước là khu vực cư trú của đồng bào Mường. Theo năm tháng, sự hòa huyết, sinh sống giữa người Kinh và người Mường đã tạo nênn con người Hoa Lư hiện nay. Vốn là những con người thuần nông, hiền lành, chất phác, hiếu khách, giàu truyền thống cách mạng, lại khéo tay hay làm, đã được ví von: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Ẩm thực: + Tái dê: Tái dê đã trở thành món ăn đặc sản ở nơi đây. Huyện Hoa Lư có nhiều dãy núi đá vôi nên dê thường sống tập trung ở đó rất nhiều. Người ta bắt dê về làm lông thui vàng, mổ ra ướp với lá hương nhu hoặc lá cúc tần khoảng hơn chục phút, rồi lọc lấy thịt (để cả da) đem nhúng vào nước sôi cho chín tái, sau đó thái mỏng đều. Lấy vừng đã rang giã dập, sả thái nhỏ, lá chanh gừng, ớt tươi thái nhỏ, nước chanh, bột ngọt đổ vào thịt dê đã thái sẵn, tất cả trộn đều, tạo nên một hương vị quyến rũ – đó chính là món tái dê. Ngoài ra còn rất nhiều món được chế biến từ thịt dê như: Dê áp chảo, dê nướng, dê quay, dê hấp, tiết canh dê, rượu Ngọc dương. Thịt dê phải ăn kèm với lá sung, quả chuối xanh, khế, lá mơ và điều quan trọng là phải có tương gừng để chấm. Thịt dê ăn rất mát, lành, bổ. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Người ơi, người ở đừng về Ngày mai ta lại tái dê tương gừng Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh + Nem dê: Quy trình chế biến nem phải tuân thủ chặt chẽ, nghiêm ngặt. Nem làm ra phải đảm bảo sạch, thơm, màu hồng tươi, để hàng tuần vẫn dùng được. Nem dê ăn cùng với lá sung, lá ổi, khế, quả chuối xanh, lá mơ, rau thơm, chấm với tương gừng. Khi ăn, người ăn sẽ cảm nhận được vị ngọt cay, thơm lan tỏa. Nem dê + Cơm cháy: Cơm cháy được làm từ cơm đã nấu chín, dàn mỏng phơi khô, sau đó cho vào chảo dầu rán cho đến khi vàng giòn lấy ra bẻ thành từng mảng cho vào bát. Thịt bò thăn thái lát, tim cật lợn thái mỏng, ướp gia vị cùng với cà chua, cà rốt, hành tây, nấm hương trộn đều, xào cho chín, tạo thành nước sốt. Sau đó đổ vào bát cơm vừa rán giòn tạo thành hương vị quyến rũ. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Món cơm cháy (Nhất hưởng thiên kim) + Cá chầu: Cá chầu hay còn gọi là cá Tiến vua, là một đặc sản vủa vùng du lịch sinh thái Tam Cốc – Bích Động. Môi trường sống của cá Chầu là ở rầm cỏ, cây và hang hốc đá. Người ta bắt cá về làm sạch, cạo vẩy, sau đó để nguyên con đem tẩm ướp với gia vị, mắm muối, bột ngọt, nước tương, gừng, sả, ớt giã nhỏ xoa đều thân cá rồi đem nướng trên than hồng. Trong khi nướng phải đảm bảo lửa đều để cá chín có màu vàng, thịt cá màu trắng, hương vị của cá chầu cũng rất đặc biệt, có hương thơm như thịt gà. Khi ăn, chấm cá với nước mắm gừng. + Rượu Đam Khê: Êm dịu mà nồng nàn, luôn tạo nên những hương vị ngọt ngào, những cảm xúc khó quên khi thưởng thức rượu Đam Khê trong. Một loại rượu ngon mà khó lẫn với các loại rượu khác mà tên gọi của nó chính là tên của ngôi làng nhỏ, bình dị nằm trong quần thể khu du lịch Tam Cốc – Bích Động. Đam Khê theo nghĩa tiếng Hán có nghĩa là rất nhiều dòng sông, dòng suối trong xanh uốn lượn dưới các dãy núi cao, đan xen là những thung lũng nhỏ. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Những thung lũng đó luôn lắng đọng sự màu mỡ của đất, của nước tạo nên những mảnh ruộng phì nhiêu. Người dân đã trồng trên đó một loại lúa nếp Hương là loại lúa luôn cho những hạt gạo, to,tròn, trắng đục và hương thơm dịu ngọt rất đặc trưng. Khi lúa đã vào mẩy, đỏ đuôi (chưa chín hẳn) họ thu hoạch phơi mỏng nhẹ tơi khô, cất kỹ vào chum vại dùng để chưng cất rượu. Men rượu được người Đam Khê làm theo phương thức gia truyền, chủ yếu làm bằng bột gạo và các cây thuốc mọc trên các sườn núi cao, gọi là men lá hay men thuốc bắc. Nước nấu rượu được người Đam Khê lấy từ các giêng nước trong các mạch nước từ ruột núi chảy ra không bao giờ cạn, trong vắt cùng nhiều khoáng chất có lợi cho sức khỏe. Từ phương thức nấu rượu gia truyền, bất kể các điều kiện về thời tiết, người Đam Khê quanh năm nấu rượu và càng để lâu, rượu lại càng thơm. Làng nghề truyền thống: Hoa Lư có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng nổi bật nhất, có ý nghĩa nhất với việc phát triển du lịch là nghề thêu ở thôn Văn Lâm xã Ninh Hải. Tương truyền, nghề thêu ren truyền thống ở thôn Văn Lâm do Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung khi cùng triều đình nhà Trần vào Vũ Lâm xây dựng hành cung Vũ Lâm năm 1258 đã truyền dạy cho nhân dân của thôn. Bà được nhân dân ở đây tôn là bà tổ của nghề thêu ren. Bà được thờ ở động Thiên Hương. Các sản phẩm thêu ren rất phong phú: Ga trải giường, rèm cửa, gối, khăn bàn, khăn ăn, tay áo, tranh ảnh Các mặt hàng này đã có mặt tại các thị trường Nga, Đức, Thụy Sĩ và rất được ưa chuộng. Đây cũng là những mặt hàng phục vụ cho du khách tham quan du lịch tại các danh lam thắng cảnh của huyện, làm cho các sản phẩm du lịch thêm hấp dẫn. Văn Lâm có hơn 1200 hộ và 3000 nhân khẩu, hiện Văn Lâm có tới 100% số hộ và nhân khẩu làm nghề thêu. Từ các cháu nhỏ 7 – 8 tuổi đến các cụ già 70 – 80 tuổi đều có thể cầm kim thêu được. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Theo ông Lê Văn Thiêm – trưởng thôn Văn Lâm: Các sản phẩm của nghề thêu ở thôn có tới hàng nghìn mẫu mã các loại. Đối với các hộ gia đình làm nghề đơn lẻ, họ làm ra sản phẩm đem bán cho du khách hoặc mở ki ốt bày bán. Đối với các doanh nghiệp, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu thông qua các hợp đồng đã ký kết với các đối tác nước ngoài. Hiện tại, thôn có 7 doanh nghiệp hoạt động nghề thêu. Các doanh nghiệp không chỉ mở xưởng sản xuất tại địa phương mà còn thông qua các hình thức hợp tác: gia công, tổ chức nhiều điểm sản xuất ở địa phương trong và ngoài huyện. Hướng đi này không chỉ nhằm đảm bảo tiến độ, thời gian, số lượng hàng cho khách mà còn giải quyết việc làm cho nhân dân các địa phương trong thời điểm nông nhàn. Trong năm 2007, nhiều doanh nghiệp thêu ăn nên làm ra, đạt doanh thu cao như doanh nghiệp Pataco đạt trên 3 tỷ đồng Với các gia đình làm hàng đơn lẻ thu từ nghề thêu cũng đạt 15 – 20000 đồng/người/ngày. Tổng giá trị từ nghề thêu ước tính đạt trên 10 tỷ đồng. Làng nghề thêu truyền thống Văn Lâm được tỉnh công nhận năm 2006. Tháng 11 năm 2007, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cũng đã công nhận Văn Lâm là một trong 12 làng nghề tiêu biểu của cả nước. Thôn cũng đã tổ chức đón rước danh hiệu cao quý này từ Hà Nội về và làm lễ công nhận nghệ nhân cho cụ Chu Văn Lượng 84 tuổi và cụ Đinh Văn Uynh 78 tuổi, đồng thời tuyên dương 3 doanh nghiệp hoạt động tiêu biểu trong nghề thêu: Minh Trang, Pataco, An Lộc. Văn Lâm hiện đang thực hiện phương châm: “ly nông bất ly hương”. Người dân ở đây đã phát triển nghề thêu kết hợp với phục vụ du lịch ngay trên quê hương mình. Nằm ngay trong khu du lịch nổi tiếng với hàng vạn lượt khách đến tham quan, Văn Lâm có thể phát triển thành một làng nghề du lịch, tạo ra một loại hình du lịch làng nghề lý tưởng với các khu sản xuất, bán hàng có quy mô lớn. Bên cạnh đó, việc tổ chức các ngày giỗ tổ, lễ hội đình làng, tôn vinh các nghệ nhân, doanh nghiệp hoạt động nghề thêu cũng là một trong nhiều hoạt động để duy trì và phát triển nghề, thu hút khách du lịch. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Biểu tượng của doanh nghiệp thêu ren Minh Trang Khẩu hiệu phát triển du lịch cộng đồng địa phương Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Sản phẩm du lịch làm từ cói (vùng Kim Sơn) Làng nghề thêu Văn Lâm Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Đánh giá chung: Qua việc kiểm kê, đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn ở Tam Cốc – Bích Động, cố đô Hoa Lư có thể thấy: Tam Cốc – Bích Động: Tài nguyên du lịch nhân văn chủ yếu là đền chùa, chỉ có một lễ hội và một làng nghề Các tài nguyên này có giá trị độc đáo về kiến trúc, lịch sử có khả năng khai thác kết hợp với cảnh quan tự nhiên tạo thành những sản phẩm du lịch hấp dẫn. Khả năng khai thác các tài nguyên này là khá thuận lợi vì chúng nằm trên tuyến tham quan những phong cảnh tự nhiên của khu vực, đi lại dễ dàng. Cố đô Hoa Lư: Tài nguyên chủ yếu là các đền, chùa, lễ hội có giá trị về mặt lịch sử, kiến trúc, văn hóa Với các nguồn tài nguyên trên, dân cư địa phương tại hai khu du lịch Tam Cốc – Bích Động có rất nhiều điều kiện để tham gia vào hoạt động du lịch, từ việc tham gia vận chuyền tới cung ứng các sản phẩm du lịch cũng như tạo ra các dịch vụ phục vụ khách du lịch. Và hoạt động du lịch này diễn ra liên tục, quanh năm. 2.1.2.2 Điều kiện kinh tế - xã hội: Đặc điểm về kinh tế: Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chính của xã Ninh Hải và Trường Yên. Diện tích gieo cấy toàn xã Ninh Hải năm 2006 là 494,36 ha. Tổng sản lượng lương thực cả năm đạt 2529,2 tấn, tăng so với năm 2005 là 315,3 tấn. Năng suất lúa đạt 61 tạ/ha. Năm 2006, cả xã có 10 doanh nghiệp đóng trên địa bàn. Trong đó có 6 doanh nghiệp thêu ren xuất khẩu, 3 doanh nghiệp dịch vụ du lịch, một ban quản lý du lịch và trên 20 hộ làm nghề thêu ren vừa và nhỏ, cùng các hộ làm dịch vụ chở đò, bán hàng ăn, đồ lưu niệm Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Ngoài nghề thêu ren, ở đây là vùng núi đá vôi nên nghề làm đá, chế biến đá, làm gạch tuy – nen rất phổ biến. Do đó, thu hút được một lực lượng lao động của toàn huyện làm việc trong các nhà máy chế biến đá như: nhà máy phân lân cầu Yên, nhà máy xi măng Hệ Dưỡng Bên cạnh đó, có làng nghề tác đá nghệ thuật ở xã Ninh Vân, phục vụ chủ yếu cho các công trình xây dựng như: Đình, chùa, miếu mạo cùng các sản phẩm đáp ứng cho nhu cầu thú vui chơi non bộ với các chậu cảnh, bể cá cảnh. Như vậy, nguồn thu nhập chủ yếu của huyện hiện nay là từ nông nghiệp và các nghề phụ. Hoạt động du lịch ở đây tuy phát triển, đóng ngân sách lớn cho huyện, cho tỉnh nhưng mới chỉ hoạt động sôi động ở hai khu vực Tam Cốc – Bích Động và Hoa Lư, giúp người dân 2 xã có thêm công ăn việc làm, thu nhập, nâng cao đời sống Còn lại cuộc sống của những người dân ở các làng xã khác vẫn còn nghèo khó, lam lũ. Văn hóa xã hội: Các hoạt động văn hóa tuyên truyền đã tới tận thôn, xóm. Sinh hoạt văn hóa cộng đồng thường xuyên được duy trì. Trật tự an toàn xã hội được giữ vững và tăng cường, các tệ nạn xã hội giảm, công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo các gia đình nghèo, gia đình chính sách luôn được chính quyền địa phương quan tâm, chỉ đạo. Dân cư – lao động: Theo điều tra năm 1993 thì: 87% dân số toàn huyện được phổ cập cấp I 56% phổ cập cấp II 18,5 % phổ cập cấp III Toàn huyện chỉ có 0,35 % dân số có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học. Đến 2003, toàn huyện phổ cập hết trung học cơ sở. Riêng xã Ninh Hải, dân số trong khu khoảng 3400 người, đông nhất là thôn Đam Khê và Hải Nham. Tỷ lệ tăng dân số là 0,84 % Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh Số người trong độ tuổi lao động khoảng 1300 người 30 % có trình độ văn hóa tốt nghiệp PTTH 90% sống bằng nghề nông Tổng thu nhập 4,7 triệu đồng/người/năm. Đời sống còn gặp nhiều khó khăn 2.2 Thực trạng khai thác và phát triển du lịch cộng đồng ở Hoa Lư 2.2.1 Tổ chức quản lý Nhà nước về du lịch - Trước đây, hai địa danh nổi tiếng của huyện Hoa Lư là Tam Cốc – Bích Động và cố đô Hoa Lư là do 2 cơ quan quản của tỉnh Ninh Bình đảm nhiệm: Cố đô Hoa Lư thuộc Sở văn hóa Ninh Bình, còn khu du lịch Tam Cốc – Bích Động thuộc sở Du lịch Ninh Bình.Giữa hai bên có sự phối hợp với nhau vì những mục đích chung: khai thác, bảo vệ tài nguyên, tăng doanh thu cho Tỉnh, Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho khách tham quan trong đó không thể tách rời UBND xã, huyện là hai cơ quan chức năng trực tiếp quản lý người dân địa phương. Hiện nay, cả hai điểm trên đều thuộc Sở Văn hóa–Thể thao–Du lịch quản lý - Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động được ngành du lịch quản lý khai thác từ năm 1992 và giao cho công ty Du lịch Ninh Bình quản lý. Từ năm 2004, nhiều đơn vị cùng tham gia quản lý du lịch như: + Công ty cổ phần du lịch Ninh Bình khai thác tuyến du lịch Tam Cốc, đền Thái Vi, chùa Bích Động. + Công ty TNHH dịch vụ Bích Động quản lý khai thác tuyến du lịch Thạch Bích, Thung Nắng, Linh Cốc – Hải Nham. + UBND xã Ninh Hải phụ trách công tác vệ sinh môi trường, an ninh, trật tự và chở đò. Bên cạnh đó là sự tham gia của nhiều doanh nghiệp khác trong lĩnh vực kinh doanh lưu trú, ăn uống Tuy có sự tham gia quản lý, khai thác kinh doanh của nhiều đơn vị nhưng trong giai đoạn này, khu du lịch không có một doanh nghiệp nào nắm vai trò chỉ Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902
- Du lÞch céng ®ång t¹i Hoa L• – Ninh B×nh đạo điều hành. Điều này, đem đến cho khu du lịch tình hình kinh doanh phức tạp, mạnh ai người nấy làm, còn nhiều hạn chế và tồn tại trong công tác phục vụ khách du lịch. Trước tình hình đó, để phát triển du lịch một cách bền vững, UBND tỉnh đã quyết định thành lập Ban quản lý (BQL) khu du lịch Tam Cốc – Bích Động thuộc Sở du lịch theo quyết định 1961/2006/QĐ ngày 19/9/2006. Ban quản lý chính thức đi vào hoạt động 13/10/2006. Ban quản lý khu du lịch Tam Cốc – Bích Động Sở du lịch Trưởng ban quản lý Phó ban quản lý Trạm bến xe Đồng Gừng Trạm Tam Cốc Trạm Bích Động Bộ phận bán vé Bộ phận hướng dẫn Bộ phận an ninh - Chức năng: Là đơn vị thuộc Sở du lịch Ninh Bình giúp Giám đốc sở thực hiện công tác quy hoạch và đầu tư phát triển du lịch, quản lý các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, bảo vệ môi trường, trật tự an toàn xã hội và trực tiếp thực hiện việc bán vé danh lam, vé đò tại khu du lịch Tam Cốc – Bích Động. Sinh viên: Lê Ngọc Hinh – Vh 902