Khóa luận Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_nghien_cuu_suc_hap_dan_cua_di_tich_lich_su_van_hoa.pdf
Nội dung text: Khóa luận Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Du lịch đã và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. Năm 1990 nước ta đã đón 250.000 lượt khách quốc tế và 1 triệu lượt khách nội địa,và đến năm 2008 đã tăng lên 4,254 triệu lượt khách quốc tế và hơn 18,5 triệu lượt khách nội địa cho thấy điều đó. Du lịch không chỉ có những đóng góp đáng kể vào tổng doanh thu quốc dân mà còn góp phần to lớn vào quá trình “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”, vào chiến lược bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc. Việt Nam đang được coi là “điểm đến của thiên niên kỉ mới”, “một vẻ đẹp tiềm ẩn” và “điểm đến an toàn” với du khách quốc tế. Ngày nay, cuộc sống của con người ngày càng được hiện đại hóa hơn thì nhu cầu trở về cội nguồn tìm hiểu những văn hóa truyền thống là một nhu cầu thiết yếu, lượng khách du lịch đến với các di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội truyền thống ở các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng. Đến với các điểm du lịch các di tích lịch sử văn hóa du khách được nâng cao hiểu biết những giá trị văn hóa, lịch sử, những danh nhân văn hóa của mọi thời đại, của mỗi quốc gia, dân tộc. Từ năm 1962 đến năm 2006, Nhà nước đã xếp hạng được 2.888 di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh cấp quốc gia. Hải Phòng là mảnh đất phát triển lâu đời, có di chỉ khảo cổ Cái Bèo (Cát Bà) cách đây 6000 năm, các di chỉ khảo cổ: vùng Thủy Nguyên cách đây 2000 năm. Hải Phòng có trại An Biên quê hương của nữ tướng Lê Chân. Hiện nay, Hải Phòng còn giữ được nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị với 90 di tích lịch sử đã đựợc Nhà nước xếp hạng trong đó có những di tích lịch sử tiêu biểu như: chùa Dư Hàng, chùa Vẽ, đình Hàng Kênh, đền Nghè, Nhà hát lớn, Bảo tàng thành phố Hải Phòng đã và đang phát triển 3 điểm du lịch quốc gia là: trung tâm thành phố; bãi biển Đồ Sơn; và quần đảo Cát Bà, ngoài ra Hải Phòng cũng đang Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 1
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. phát triển điểm du lịch ngoại thành như khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (huyện Vĩnh Bảo), suối nước khoáng nóng Tiên Lãng, và hiện nay điểm du lịch văn hoá tại huyện Kiến Thụy cũng đang được đưa vào khai thác. Hình ảnh của thành phố hoa phượng đỏ, đặc biệt là các di tích lịch sử văn hóa chưa thực sự tạo được ấn tượng đậm nét cũng như sự quan tâm trong lòng khách du lịch. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải làm sao giúp cho du khách trong nước cũng như du khách nước ngoài có được sự hiểu biết rõ ràng hơn về các di tích lịch sử văn hóa ở Hải Phòng nói chung và khu nội thành nói riêng. Để khi du khách đặt chân đến Hải Phòng không thể không đến tham quan hệ thống các di tích lịch sử văn hóa ở đây. Hơn nữa, là một người con của Hải Phòng, em mong muốn đóng góp một phần công sức của mình vào công cuộc phát triển ngành du lịch thành phố, đồng thời làm cho du khách khi đến với các di tích lịch sử văn hóa của thành phố ngày càng cảm thấy sự hấp dẫn của các di tích lịch sử đó. Với những lý do trên em lựa chọn đề tài “Nghiên cứu sức hấp dẫn của các di tích lịch sử văn hóa tại nội thành Hải Phòng với du khách”. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Là cơ sở lí luận về đánh giá sức hấp dẫn của các di tích lịch sử văn hóa, và các di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu của khu nội thành Hải Phòng 2.2. Phạm vi nghiên cứu: Do đối tượng nghiên cứu đã được xác định rõ nên không gian trong phạm vi nghiên cứu chủ yếu của bài khóa luận là điểm du lịch trong nội thành Hải Phòng. Để hoàn thành bài khóa luận này, với yêu cầu đặt ra, tác giả đã nghiên cứu, tìm tòi các nguồn tài liệu, tư liệu, thông tin của Sở du lịch văn hóa thể thao Hải Phòng, Ban Quản lí các di tích lịch sử văn hóa tại nội thành Hải Phòng, trên các tạp chí du lịch Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 2
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục đích: Thực hiện bài khóa luận về đề tài “Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hóa ở nội thành Hải Phòng với du lịch” nhằm mục đích nâng cao những hiểu biết, những nhận thức về sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch đó và hoạt động kinh doanh du lịch tại đó. Đồng thời nâng cao nhận thức về lịch sử hình thành, tài nguyên du lịch và thực trạng du lịch tại các di tích lịch sử văn hóa của nội thành Hải Phòng. Nhằm cung cấp nguồn tư liệu, hiểu biết về thực tiễn và lí luận, góp phần tìm hiểu, tôn vinh giá trị du lịch tại di tích lịch sử văn hóa trong nội thành Hải Phòng để phục vụ phát triển du lịch bền vững tại đây. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu tài nguyên du lịch và thực trạng phát triển du lịch ở Hải Phòng, và hệ thống các di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu tại khu vực nội thành Hải Phòng. Đánh giá sức hấp dẫn, thực trạng và khả năng khai thác du lịch của các di tích đó. Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao sức hấp dẫn của các di tích lịch sử văn hóa tại điểm du lịch nội thành thành phố Hải Phòng. 4 .Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài việc nghiên cứu tài liệu, tác giả kết hợp phỏng vấn các khách du lịch, những người phụ trách tại điểm thăm quan, nhân dân địa phương, cùng với quan sát trên thực tế. Như vậy để hoàn thành bài khóa luận này tác giả đã sử dụng những phương pháp sau: 4.1. Phƣơng pháp khảo sát thực địa và thu thập tài liệu: Đây là phương pháp nghiên cứu địa lý truyền thống để khảo sát thực tế, áp dụng nghiên cứu lý luận gắn với thực tế để bổ sung cho lý luận ngày càng hoàn chỉnh hơn. Để có được đầy đủ các thông tin thì việc khảo sát thực địa, điều tra trực tiếp tại các di tích lịch sử văn hóa là phương pháp hữu hiệu nhất nhằm làm Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 3
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. bổ sung cho khóa luận thêm phong phú và đa dạng hơn, có độ chính xác cao hơn. 4.2. Phƣơng pháp thống kê, phân tích, đánh giá, tổng hợp: Phương pháp này nhằm định hướng thống kê các đối tượng cần nghiên cứu, từ đây có thể phân tích để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến những đối tượng này. Khóa luận đã áp dụng thống kê, phân tích, đánh giá, tổng hợp các thông tin và số liệu theo cách đi từ định lượng đến định tính. Kết quả của phương pháp này là cơ sở khoa học cho việc xây dựng, đề xuất các phương hướng, giải pháp chiến lược phát triển đạt hiệu quả cao. Ngoài những phương pháp trên trong quá trình thực hiện đề tài, khóa luận còn sử dụng một số phương pháp như: phương pháp dân tộc học, phản vấn, điều tra xã hội học đặc biệt khóa luận còn có sự kết hợp hài hòa các phương pháp với nhau tạo hiệu quả cao trong quá trình nghiên cứu. 5. Bố cục khóa luận: * Chƣơng 1: Tài nguyên du lịch và thực trạng phát triển du lịch ở Hải Phòng. * Chƣơng 2: Điều tra và đánh giá sức hấp dẫn của các di tích lịch sử văn hóa trong nội thành Hải Phòng và hiện trạng hoạt động du lịch tại đây. * Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao sức hấp dẫn của hoạt động du lịch của các di tích lịch sử văn hóa trong nội thành Hải Phòng. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 4
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Chƣơng 1: TÀI NGUYÊN DU LỊCH VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở HẢI PHÒNG 1.1. Vị trí địa lý - tài nguyên du lịch – dân cư và xã hội: 1.1.1. Vị trí địa lý - Lịch sử hình thành: Hải Phòng là thành phố cận đại của Việt Nam, tuy nhiên dân cư lại sinh sống từ rất sớm, theo kết quả nghiên cứu tại di chỉ khảo cổ Cái Bèo (Cát Bà), khu vực Tràng Kênh và một số thư tịch cổ khác thì dân cư sinh sống ở mảnh đất này cách đây khoảng 5000 – 6000 năm. Hải Phòng mang dấu ấn của nền văn hóa Đông Sơn, thời đại kim khí đồng thau của dân tộc. Qua hàng nghìn năm hình thành và phát triển, cộng đồng dân cư Hải Phòng không ngừng lớn mạnh và phát triển cả về số lượng và chất lượng. Thời Bắc thuộc, Hải Phòng thuộc huyện Chu Diên, quận Giao Chỉ nằm dưới ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Trong những cuộc khởi nghĩa lớn chống ách đô hộ của kẻ thù giành độc lập dân tộc, nhân dân Hải Phòng đều tham gia rất tích cực. Tiêu biểu là khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 có nữ tướng Lê Chân và nhiều thủ lĩnh nghĩa quân là người Hải Phòng. Ngoài ra còn có một số cuộc khởi nghĩa như Mai Thúc Loan năm 722, Phùng Hưng năm 766, và đặc biệt là chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng năm 938 đánh tan quân Nam Hán đều có sự góp mặt của nhân dân Hải Phòng. Từ thời Lê Thánh Tông (giữa thế kỉ XV) vùng đất này đổi tên là Thừa Nguyên – Hải Phòng. Khoảng những năm 20 của thế kỉ XIX ở đây đã có bến Ninh Hải và trong suốt những thập kỉ sau đó đã có nhiều tàu ngoại quốc đến đây buôn bán. Cuối năm 1874 Hải Phòng đã tồn tại như một tụ điểm quần cư, chính nơi đây một đô thị mới bắt đầu hình thành và phát triển, trong đó vùng trung tâm là 2 xã An Biên và Gia Viễn. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 5
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Đến tháng 10 năm 1888, vua Đồng khánh ký dụ chuyển hẳn Hải Phòng thành đất nhượng địa, đặt dưới quyền quản trực tiếp của thực dân Pháp, sau khi thống sứ Bắc kì kí Nghị định thành lập tỉnh Hải Phòng – Hải Phòng được xếp vào loại thành phố cấp 1 như Sài Gòn – Hà Nội. Chính lúc này, nội thành Hải Phòng mới chính thức trở thành địa danh, một đơn vị hành chính và có nhiều điều kiện để phát triển. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Hải Phòng trở thành một trong ba thành phố lớn trực thuộc Trung ương của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa mà nay là Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) cùng với nhân dân cả nước quân và dân Hải Phòng chiến đấu anh dũng giành được nhiều chiến công vang dội. Ngày 13/05/1955 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hải Phòng, thành phố và cả miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Chỉ trong một thời gian ngắn sau quân và dân Hải Phòng lại bước vào một cuộc chiến mới cam go, quyết liệt hơn chống lại kẻ thù sừng sỏ nhất – Đế quốc Mĩ. Vừa tăng gia sản xuất chi viện cho miền Nam ruột thịt, vừa chiến đấu chống lại âm mưu phá hoại của kẻ thù. Hải Phòng là đầu cầu xuất phát của đường Hồ Chí Minh trên biển, nơi những con tàu không số huyền thoại trở vũ khí và lương thực đến những chiến trường miền Nam, góp phần vào thắng lợi to lớn của nhân dân miền Nam, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hải Phòng cùng với cả nước bắt tay vào xây dựng lại đất nước, tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, bước vào thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước mục tiêu xây dựng thành phố Hải Phòng thành thành phố hiện đại. 1.1.2. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, tài nguyên du lịch tự nhiên: 1.1.2.1. Vị trí địa lí: Hải Phòng là thành phố ven biển nằm trên bờ biển Đông vùng duyên hải Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội 102 km, nằm giữa 20o30’39’’ đến 21o01’15’’ vĩ độ Bắc Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 6
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. và trải rộng từ 106o23’03’’ đến 107o08’39’’ kinh độ Đông với tổng diện tích là 1507,6 km2. Cơ cấu hành chính: gồm 7 quận nội thành là: Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Hải An, Đồ Sơn, Dưong Kinh, Kiến An. Và 8 huyện: An Dương, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Thủy Nguyên, Cát Hải, Bạch Long Vĩ, An Lão (2008). Ranh giới hành chính: Phía Bắc và Đông Bắc giáp Quảng Ninh Phía Tây Bắc giáp Hải Dương Phía Tây Nam giáp Thái Bình Phía Đông giáp biển Đông Hải Phòng có bờ biển dài, quanh co, khúc khuỷu tạo thành nhiều đảo và bãi tắm đẹp rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch tự nhiên và du lịch sinh thái. Mặt khác Hải Phòng nằm ở vị trí giao thông thuận lợi, là một cạnh trong tam giác kinh tế trọng điểm: Hà Nội – Hải Phòng – Qảng Ninh. Việc giao lưu, thiết lập quan hệ kinh tế với các tỉnh trong nước và quốc tế rất thuận lợi, với mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không và cảng biển. Đặc biệt, việc nâng cấp quốc lộ 5, xây mới đường ngã 5, sân bay Cát Bi được nâng cấp và mở nhiều tuyến bay mới. Đã làm cho nền kinh tế Hải phòng thực sự khởi sắc, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch của thành phố phát triển. 1.1.2.2. Địa hình địa chất, đất đai: Địa hình Hải Phòng thay đổi rất đa dạng, phản ánh một quá trình phức tạp. Khu vực Bắc Hải Phòng có dáng dấp vùng trung du với những đồng bằng ven đồi, trong khi phần đất phía Nam lại có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng bằng thuần túy nghiêng ra biển. Địa hình đồi núi chiếm 15% diện tích của cả thành phố nhưng lại phân tán hơn nửa, phần Bắc thành phố tạo thành dải liên tục chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Đồi núi của Hải Phòng hiện nay là các dải núi còn sót lại, di tích của nền móng uốn nếp cổ bên dưới, trước đây nơi này đã trải qua quá trình sụt võng Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 7
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. với cường độ nhỏ. Cấu tạo địa chất gồm các loại đá cát kết sét, đá vôi có độ tuổi khác nhau, phân bố thành từng dải liên tục từ đất liền ra biển. Xen kẽ với đồi núi là những đồng bằng nhỏ phân tán rải rác các vùng trong thành phố. Hải Phòng còn có 62.127 ha đất canh tác hình thành phần lớn từ phù sa của hệ thống sông Thái Bình, và vùng đất bồi ven biển nên chủ yếu mang tính chất đất phèn và phèn mặn, đại hình đá xen kẽ cao thấp. Đất nông nghiệp bình quân theo đầu người là 360m2/người. 1.1.2.3. Khí hậu: Do nằm ở vành đai nhiệt đới gió mùa châu Á sát biển Đông nên Hải Phòng chịu ảnh hưởng của gió mùa. Thời tiết của Hải Phòng cũng giống như nhiều tỉnh khác trong khu vực có 2 mùa rõ rệt: mùa đông lạnh và mùa hè nóng. Mùa đông lạnh kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau; mùa hè mát mẻ và nhiều mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Nhìn chung khí hậu tương đối ôn hòa, do nằm ven biển, về mùa đông Hải Phòng ấm hơn 1oC so với Hà Nội. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 23 – 26oC, tháng nóng nhất trong năm là tháng 6 và tháng 7, nhiệt độ có thể lên tới 40oC và tháng lạnh nhất là tháng 1 và tháng 2, nhiệt độ có thể xuống đến 5oC. Lượng mưa trung bình hàng năm 1600mm – 1800mm và thường hay có bão vào tháng 6 và tháng 9. Độ ẩm trung bình vào khoảng 80% - 85%, độ ẩm cao nhất vào tháng 7, tháng 8 và tháng 9, và thấp nhất là tháng 1 và tháng 12. Trong năm có khoảng 1692h nắng trong đó tháng 10 có tới 194h nắng, đây cũng là tháng có nhiều giờ nắng nhất trong năm. Bức xạ mặt đất trung bình là 117kcakcm/phút. Với điều kiện khí hậu như trên, Hải Phòng rất thuận lợi cho việc phát triển các loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch nghỉ dưỡng và du lịch tắm biển. Tuy nhiên xét về góc độ đặc điểm khí hậu ảnh hưởng đến sức khỏe con người cũng như các điều kiện thời tiết bất lợi thì hoạt động du lịch ở Hải Phòng sẽ kém thuận lợi hơn vào các tháng từ tháng 10 đến tháng 12 và từ tháng 3 đến thánh 5 [12 ]. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 8
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. 1.1.2.4. Tài nguyên nƣớc: Hải Phòng có mạng lưới sông ngòi dày đặc, mật độ trung bình từ 0,6 – 0,8 km/km2. Sông ngòi của Hải Phòng đều là các chi lưu của sông Thái Bình đổ ra Vịnh Bắc Bộ. Nếu ngược dòng ta sẽ thấy: Sông Cấm bắt nguồn từ núi Văn Ôn ở độ cao 1170m thuộc Bắc Kạn, về đến Phả Lại thì hợp với sông Thương và sông Lục Nam là nguồn của sông Thái Bình chảy vào đồng bằng trước khi đổ ra biển với độ dài 97km. Từ nơi hợp lưu đó các dòng sông chảy trên độ dốc ngày càng nhỏ, sông Thái Bình đã tạo ra mạng lưới chi lưu cao cấp như một số sông: Kinh Môn, Kinh Thầy, Lạch Tray ,Đa Độ đổ ra biển Đông bằng 5 cửa chính . Hải Phòng có 16 sông chính với hơn 300km tỏa rộng khắp thành phố bao gồm một số sông chính: Sông Thái Bình dài trên 30km chảy vào địa phận Hải Phòng từ Quý Cao ngăn cách 2 huyện Vĩnh Bảo và Tiên Lãng . Sông Lạch Tray dài 45km qua địa phận Kiến An, An Dương và vùng nội thành . Sông Cấm dài hơn 30km ngăn cách giữa hai huyện Thủy Nguyên và An Dương . Sông Bạch Đằng dài trên 32km là ranh giới phía Bắc và phía Đông Bắc của Hải Phòng và Quảng Ninh . Ngoài ra còn có mạng lưới sông ngòi chằng chịt chia cắt thành phố : Sông Gáy, Sông Tam Bạc Bên cạnh nguồn nước mặt dồi dào, Hải Phòng còn có nguồn nước ngầm tương đối phong phú. Kết quả thăm dò về nước ngầm ở Hải Phòng vùng Kiến An và phía Bắc Thủy Nguyên là nơi có nguồn nước ngầm phong phú, trữ lượng khá, với lưu lượng khoảng 10.000m3/ ngày đêm, chất lượng đảm bảo có thể dùng cho sinh hoạt và sản xuất. Vùng biển Hải Phòng là nơi có chế độ nhật triều điển hình, trong nửa tháng có tới 11 ngày nhật triều (mỗi ngày có một lần nước lớn, một lần nước ròng) và 27 ngày bán nhật triều (hàng ngày có 2 lần nước lớn, 2 lần nước ròng) với mức Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 9
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. nước triều lớn nhất ở Hòn Dáu, Bến Vạn Hoa là 4,0m, ở cảng Hải Phòng và Cát Bà là 4,3m, ở Bạch Long Vĩ là 3,9m. 1.1.2.5. Tài nguyên sinh vật: Tài nguyên sinh vật của Hải Phòng tương đối đa dạng và phong phú mà tập trung có giá trị nhất đối với hoạt động du lịch là vườn quốc gia Cát Bà với 745 loại thực vật bậc cao thuộc 495 chi và 149 họ thực vật, trong đó có nhiều loài quý hiếm ở Việt Nam như: lát hoa, kim giao, đinh Hệ động vật ở vườn quốc gia Cát Bà cũng rất đa dạng với 20 loài thú, 69 loài chim, 15 loài bò sát, 11 loài ếch, 105 loài cá, 100 loài thân mềm, 60 loài giáp xác. Đặc biệt là ở khu vực phía Đông Nam đảo Cát Bà và vùng đảo Bạch Long Vĩ còn nhiều loài san hô có giá trị phục vụ du lịch. 1.1.2.6. Các điểm phong cảnh: Hiện nay khi du khách đến Hải Phòng thì thường ghé thăm những điểm phong cảnh đẹp và hấp dẫn của Hải Phòng như: - Khu du lịch đảo Cát Bà có bãi Cát Cò, Cát Dứa, tại đây du khách có thể tăm biển và thưởng thức hải sản, ngoài còn có thể đến thăm vườn quốc gia Cát Bà, thăm đảo Khỉ, hay đi thuyền dạo chơi trên biển Khu du lịch đảo Cát Bà được đánh giá là điểm du lịch hấp dẫn của Hải Phòng. - Khu du lịch Đồ Sơn, đây là điểm du lịch khá hấp dẫn của Hải Phòng, đến đây du khách có thế tắm biển tại bãi tắm 1, 2, 3 và thưởng thức hải sản. Ngoài ra tì còn có thể ghé thăm Biệt thự Bảo Đại, di tích Bến Nghiêng và ra thăm đảo Hòn Dáu. - Điểm du lịch trong nội thành Hải Phòng, đây là điểm du lịch văn hóa, có đền Nghè, chuà Dư Hàng, Đình Hàng Kênh, Nhà hát thành phố và Quán hoa, Bảo tàng thành phố , đây là điểm du lịch hấp dẫn của thành phố Hải Phòng. - Ngoài những điểm du lịch kể trên du khách cũng có thể đến thăm đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (huyện Vĩnh Bảo), khu du lịch suối khoáng nóng Tiên lãng, hay khu di tích thắng cảnh Núi Voi (huyện An Lão) Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 10
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. 1.1.3. Dân cƣ – xã hội: Thành phố Hải Phòng được thành lập năm 1988, là thành phố cận hiện đại ở Việt Nam. Tuy nhiên dân cư sinh sống ở đây từ rất sớm, theo kết quả nghiên cứu khảo cổ tại di chỉ Cái Bèo, khu vực Tràng Kênh và một số thư tịch cổ thì dân cư sinh sống ở đây cách đây khoảng 6000 – 7000 năm. Hải Phòng còn là nhưng địa điểm mang dấu ấn của nền văn hóa Đông Sơn, một nền văn hóa của thời đại kim khí đồng thau, nền văn hóa đặc sắc trong lịch sử dân tộc. Qua hàng nghìn năm và phát triển, cộng đồng dân cư Hải Phòng không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Dân số của Hải Phòng hiện nay là 1827,7 nghìn người (năm 2007) chiếm 2,5% dân số cả nước (dân số cả nước là 85154,9 nghìn người (2008)) ,mật độ dân số là 1202người/km2, đứng thứ 4 sau các tỉnh: Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên . Cơ cấu dân cư: Là mảnh đất hình thành từ dân sớm nên Hải Phòng có nhiều tầng lớp dân cư sinh sống, trong đó bao gồm các tộc người: Việt (Kinh), Hoa, Tày, Nùng người Việt chủ yếu đến từ các tỉnh lân cận. Sự đa dạng về tầng lớp dân cư đã tạo cho Hải Phòng nhiều nét văn hóa đặc sắc. Tuy nhiên trong quá trình giao lưu và hòa nhập thì đa số đều có chung một cội nguồn văn hóa và cốt cách xã hội mạnh mẽ, táo bạo của người khai hoang lấn biển . Hải Phòng có khoảng 760 nghìn người ở độ tuổi lao động tập trung ở nội thành với khoảng 500 nghìn người có tay nghề bậc 3 trở lên, 400 nghìn kĩ thuật viên có trình độ chuyên nghiệp, 27 nghìn cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học. 1.1.2.6 Đánh giá chung về tài nguyên thiên nhiên: Hải Phòng có vị trí địa lí thuận lợi, tài nguyên tự nhiên vô cùng quan trọng cho phát triển du lịch, Hải Phòng có biển và được bao bọc bởi các con sông, có các cửa sông lớn trực tiếp đổ ra biển và nối liền với các địa phương trong nội địa của vùng Bắc Bộ. Hải Phòng nằm ở trung tâm của vùng duyên hải Bắc Bộ, cửa ngõ chính ra biển của Hà Nội, của cả vùng Bắc Bộ. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 11
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Tài nguyên quan trọng thứ 2 là địa hình cảnh quan của Hải Phòng với địa hình đồi núi, địa hình đồng bằng, biển, bờ biển và hải đảo. Sự phân bố tài nguyên du lịch tự nhiên có giá trị du lịch tương đối tập trung ở vùng đảo Cát Bà, nơi đã được công nhận là Vườn quốc gia và Khu vực dự trữ sinh quyển thế giới (12/2004). Đây là việc thuận lợi đối với việc khai thác và bảo vệ những tài nguyên du lịch vô giá của Hải Phòng phục vụ sự phát triển du lịch không chỉ của Hải Phòng mà còn của cả vùng duyên hải Bắc Bộ. Nguồn nước phân bố không đều, chất lượng không cao do đó chi phí cấp nước lớn, làm tăng giá trị hàng hóa và dịch vụ. Cấp nước ở Hải Phòng là nhiệm vụ quan trọng của thành phố trong 10 – 15 năm tới. Khí hậu Hải Phòng nhìn chung thuận lợi cho phát triển du lịch so với các vùng khác ở đồng bằng Bắc Bộ bởi mang những nét chung của vùng đồng bằng miền Bắc, đồng thời lại mang những nét riêng của thành phố ven biển có nhiều đảo. Tuy nhiên khí hậu 2 mùa rõ rệt với mùa đông lạnh, đôi khi có sương muối; mùa hè mưa bão gây úng lụt, xói lở cục cũng tạo nên sự bất lợi cho hoạt động du lịch, đặc biệt là du lịch biển, du lịch ngoài trời. Tài nguyên du lịch tự nhiên du lịch của Hải Phòng là khá đa dạng và phong phú được hình thành bởi đặc điểm tổng hợp của các yếu tố địa chất , địa hình, nước, lớp phủ thực vật và thế giới động vật. Với nguồn tài nguyên này, Hải Phòng có khả năng phát triển nhiều loại hình du lịch sinh thái, thể thao, nghỉ dưỡng, tham quan thắng cảnh. 1.1.3. Tài nguyên nhân văn: Là vùng đất có lịch sử hình thành từ rất sớm, vì vậy thành phố Hải Phòng còn bảo tồn nhiều di sản văn hóa của dân tộc, bao gồm các di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội truyền thống, phong tục tập quán, cách thức sinh hoạt mang đậm nét truyền thống. Hiện nay ở Hải Phòng còn lưu giữ nhiều lịch sử văn hóa, các công trình kiến trúc và phân tán ở hầu khắp các địa phương trên địa bàn thành phố. Theo thống kê của Sở văn hóa thông tin thì hiện tại toàn thành phố Hải Phòng có 96 di tích Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 12
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. được công nhận là di tích cấp quốc gia, 126 di tích cấp thành phố và nhiều di tích chưa được xếp hạng. Kho tàng di sản quý báu này là những giá trị to lớn mà các thế hệ trước đây đã dày công tạo lập và giữ gìn, phản ánh đới sống tâm linh, tín ngưỡng của người Việt Nam nói chung và người dân biển Hải Phòng nói riêng. Trong đó có nhiều di tích có giá trị về mặt kiến trúc, tư tưởng, nghệ thuật và đưa vào khai thác phục vụ cho hoạt động du lịch như: chùa Dư Hàng (Phúc Lâm Tự) được xây dựng vào thời Tiền Lê (980 – 1009), trong chùa còn lưu giữ nhiều hiẹn vật quý giá: hệ thống tượng, chuông, khánh, bộ sách kinh Tràng A Hàm là tài liệu cổ về giáo lý nhà Phật; đình Hàng Kênh được xây dựng vào năm 1856, đình có giá trị to lớn về mặt kiến trúc và điêu khắc với gần 308 hình rồng to nhỏ, quấn quýt tạo thành một mảng kiến trúc kì lạ và đẹp mắt; đó là đền Nghè hay chùa Phổ Chiếu, các công trình kiến trúc hiện đại được xây dựng từ thời Pháp thuộc: Nhà hát lớn, Quán Hoa Ngoài ra ở các huyện và ngoại vi thành phố còn nhiều Di tích lịch sử văn hóa và công trình kiến trúc có giá trị: khu di tích đền thờ trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, chùa và miếu Bảo Hà, đình Nhân Mục (Vĩnh Bảo) Gắn liền với các di tích lịch sử văn hóa là các lễ hội truyền thống mang đậm nét văn hóa dân tộc: lễ hội chùa Dư Hàng, lễ hội đền Nghè, lễ hội đền Phò Mã, lễ hội đền An Lư đặc biệt là những lễ hội phản ánh tín ngưỡng, đời sống sinh hoạt và những ước mơ, khát vọng chinh phục thiên nhiên của vùng biển: lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, lễ hội đua thuyền rồng trên biển (Cát Hải), lễ hội đu xuân ở huyện Thủy Nguyên Bên cạnh đó là di sản văn hóa dân gian phi vật thể với sự đa dạng của các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống: ca dao, hò, vè, hát văn, hát Đúm, ca trù các loại hình nghệ thuật sân khấu: chèo, cải lương, nghệ thuật múa rối nước, trong đó nhiều loại hình tiêu biểu có giá trị về nghệ thuật và thẩm mỹ được khai thác phụcn vụ cho du lịch. Ngoài ra, phải kể đến các làng nghề truyền thống tồn tại lâu đời, trên mảnh đất giàu có này sớm nảy sinh và tiếp nhận nhiều ngành nghề có giá trị kinh tế - xã Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 13
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. hội, hình thành những làng nghề chuyên sâu từng nghề, tạo ra những mặt hàng độc đáo và nổi tiếng, đạt năng suất cao, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của địa phương và đất nước: nghề tạc tượng, sơn mài Bảo Hà, nghề đúc kim loại ở Mỹ Đồng (Thủy Nguyên), nghề ươm tơ dệt lụa ở Lương Quy (An Dương), nghề dệt thảm len ở Dư Hàng Kênh Nguồn tài nguyên nhân văn phong phú trên đây đã tạo nên những đặc tính văn hóa xã hội riêng biệt của con người Hải Phòng, chính sự khác biệt này đã gợi sự tò mò, ham hiểu biết của du khách đến từ nhiều vùng, nhiều quốc gia khác nhau. Nguồn tài nguyên to lớn này thực sự là một tiềm năng để Hải Phòng khai thác phục vụ cho hoạt động du lịch mà không phải địa phương nào cũng có được. Vấn đề đặt ra cho ngành du lịch Hải Phòng hiện nay là khai thác các nguồn tài nguyên đấy như thế nào để vừa có thể bảo lưu, giữ gìn những giá trị đích thực, không làm tổn hại đến các nguồn tài nguyên lại vừa mang lại hiệu quả to lớn trong kinh doanh du lịch, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu của du khách, phù hợp với túi tiền mà họ đã bỏ ra. Việc khai thác hợp lí các nguồn tài nguyên không dễ nhưng cũng không quá khó nếu như biết được giá trị đích thực của chúng và có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp liên quan và sự tham gia của cộng đồng dân cư. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 14
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Bảng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia (2005) Mật độ (di Quận/Huyện Diện tích (km2) Số lượng (DT) tích lịch sử /km2) Hồng Bàng 7,68 2 0,26 Hải An 10,49 12 1,14 Ngô Quyền 11,77 3 0,26 Lê Chân 4,42 7 1,85 Kiến An 38,05 2 0,05 Đồ Sơn 13,34 - - An Lão 105,07 5 0,05 An Dương 157,74 10 0,06 Cát Hải 258,38 - - Kiến Thụy 158,48 10 0,06 Tiên Lãng 176,74 4 0,02 Thủy Nguyên 249,21 23 0,09 Vĩnh Bảo 189,41 18 0,09 Bạch Long Vĩ 3,2 - - Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 15
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Bảng di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố (2005) Quận/Huyện Diện tích (km2) Số lượng (DT) Mật độ (di tích lịch sử /km2) Hồng Bàng 7,68 7 0,9 Hải An 10,49 2 0,19 Ngô Quyền 11,77 6 0,53 Lê Chân 4,42 3 0.67 Kiến An 38,05 7 0,18 Đồ Sơn 13,34 6 0,5 An Lão 105,07 21 0,19 An Dương 157,74 6 0,03 Cát Hải 258,38 6 0,02 Kiến Thụy 158,48 16 0,01 Tiên Lãng 176,74 12 0,06 Thủy Nguyên 249,21 18 0,07 Vĩnh Bảo 189,41 16 0,08 (Nguồn : Bảo tàng Hải Phòng) 1.2. Thực trạng hoạt động du lịch tại Hải Phòng: 1.2.1. Công tác quản lí: Sở du lịch Hải Phòng được thành lập ngày 03/06/1994 theo quyết định số 40/QĐ – TCCQ của Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố thực hiện chức năng quản lí nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố. Với nhận thức “ tổ chức mạnh, sản phẩm tốt” sở du lịch không ngừng củng cố, hoàn thiện cơ quan văn phòng sở. Năm 2001, sở thành lập phòng quảng bá, xúc tiến du lịch, ban quản lí các dự án, hạ tầng du lịch. Đồng thời sở luôn thực Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 16
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. hiện luân chuyển, bổ sung cán bộ có phẩm chất, năng lực đảm nhận những vị trí then chốt trong cơ quan, thực hiện giao việc đúng người, xếp người đúng việc; coi công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên chức được tiếp xúc sâu rộng với khoa học kĩ thuật tiên tiến hiện đại, các phòng chuyên môn hoạt động đều tay, phối kết hợp chặt chẽ tạo hiệu quả cao trong công việc. 1.2.3. Hiện trạng về cơ sở kinh doanh lƣu trú và ăn uống: * Cơ sở kinh doanh lƣu trú: Thời gian qua, với vị thế đã có và khai thác có hiệu quả tiềm năng phong phú về tài nguyên phục vụ phát triển du lịch, thành phố Hải Phòng đã dần dần khẳng định là một trong những trung tâm du lịch lớn của cả nước với nhiều công trình, cơ sở hạ tầng đựợc xây dựng, tu bổ, tôn tạo, phục vụ phát triển du lịch và quốc kế dân sinh. Hạ tầng đô thị Hải Phòng thay đổi nhanh chóng, mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội và đặc biệt là hoạt động du lịch. Cùng với xu hướng của cả nước hiện nay, do lượng khách quốc tế ngày càng tăng, khách nội địa có nhu cầu đi nghỉ ngày càng nhiều hơn nên các khách sạn, nhà hàng được xây dựng thêm để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách du lịch. Ngành du lịch Hải Phòng cũng không ngừng nâng cấp, xây mới khách sạn, nhà nghỉ của các thành phần kinh tế tăng nhanh cả về số lượng, quy mô và phương thức hoạt động. Bảng: Hệ thống cơ sở lưu trú tại Hải Phòng (2002 – 2008) Các tiêu chí 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 CSLT(Khách 133 141 189 193 197 206 285 sạn) Số phòng 3906 4271 4972 5117 5337 5578 7975 (Nguồn: Sở du lịch Hải Phòng) Như vậy trong giai đoạn (2002 – 2008), số cơ sở lưu trú phục vụ du lịch của Hải Phòng tăng 1,55 lần (từ 113 đến 206). Trong đó cơ sở hạ tầng được xếp hạng sao (từ 1 đến 4 sao): năm 2002 là 49 khách sạn, năm 2003 là 58 khách sạn, Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 17
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. năm 2004 là 72 khách sạn, năm 2005 là 77 khách sạn, năm 2006 là 81 khách sạn, năm 2007 là 102 khách sạn, và năm 2008 là 120 khách sạn tức là từ năm 2002 đến năm 2008 số khách sạn được xếp hạng sao tăng 70 khách sạn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. * Cơ sở ăn uống: Hệ thống cơ sở ăn uống đa dạng và phong phú. Hầu hết các khách sạn, nhà nghỉ, nhà khách đều có cơ sở ăn uống phục vụ khách du lịch cũng như nhu cầu sinh hoạt của người dân địa phương. Các quán ăn đặc sản của Hải Phòng tập trung chủ yếu ở nội thành, khu du lịch Đồ Sơn và Cát Bà. Là thành phố biển, Hải Phòng có nhiều loại hải sản, vì thế ẩm thực nơi đây cũng mang đậm phong vị biển. Từ canh bánh đa cua dân dã đến món đặc sản tu hài nướng đều mang đến cho khách du lịch một ấn tượng khó quên về đặc trưng ẩm thực của người dân địa phương Hải Phòng hòa quyện sự bình dị - chất lượng cao. Hải sản ở Hải Phòng đa dạng về chủng loại như: tu hài, hải sâm, ốc biển, tôm he, tôm vằn, cá ngừ, cá giò do đó du khách có thể tùy thích thưởng thức và làm quà sau mỗi chuyến tham quan. 1.2.3. Cơ sở vui chơi giải trí: Trong phạm vi cả nước nói chung và ở Hải Phòng nói riêng, các cơ sở vui chơi giải trí, thể thao cũng rất nghèo nàn. Đó là nguyên nhân chính không giữ được khách du lịch lưu trú lại dài ngày. Khách du lịch đến Hải Phòng ngoài tắm biển thăm quan còn khá nhiều thời gian rỗi. Ngoại trừ một cơ sở duy nhất là Casino Đồ Sơn, nhưng đây chỉ dành cho khách nước ngoài Hiện nay địa bàn trên thành phố có gần 50 cơ sở vui chơi giải trí lớn và hàng chục những cơ sở vừa và nhỏ, các cơ sở vui chơi giải trí đang được khách du lịch quan tâm là: khu công viên dải rung tâm thành phố, khu giải trí Casino Đồ Sơn, CLB đất Cảng, CLB vui chơi giải trí khách sạn Hữu Nghị Bên cạnh đó chất lựợng môi trường tại các điểm du lịch ngày nay đã được cải thiện hơn, môi trường trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, chất lượng các dịch Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 18
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. vụ khách ngày nay đã được nâng cao hơn so với các năm trước, trong đó các yếu tố văn hoá được chú trọng hơn trong cơ cấu sản phẩm du lịch tạo ra sức hấp dẫn lớn đối với du khách. 1.2.4. Phƣơng tiện vận chuyển: Phương tiện vận chuyển khách du lịch còn hạn chế về cả số lượng và chất lượng. So với trước kia chất lượng và hình thức của các phương tiện vận chuyển đã được cải thiện đáng kể, với các trang thiết bị tương đối hiện đại, đồng bộ đảm bảo được yêu cầu phục vụ khách du lịch quốc tế và trong nước. Trên điạ bàn thành phố hiện nay có gần 30 hãng xe taxi với hàng trăm đầu xe được đánh giá là có chất lượng tốt. Đội ngũ lái xe đã được đào tạo có tác phong phục vụ khá chuyên nghiệp, tuy nhiên vẫn còn hạn chế về nghiệp vụ du lịch và ngoại ngữ. Hiện nay số lượng tàu thuyền, ô tô đã tạm thời đáp ứng được nhu cầu của người dân và khách du lịch. Tuy nhiên các phương tiện hiện nay đang xuống cấp, không đảm bảo chất lượng dịch vụ, đội ngũ nhân viên phục vụ chưa được đào tạo nghiệp vụ cơ bản phục vụ khách du lich. Nhìn chung, trong những năm qua, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch của Hải Phòng đã được đầu tư để phát triển mạnh, là động năng quan trọng thu hút dầu tư du lịch của các thành phần kinh tế, đa dạng hoá các sản phẩm du lịch, khai thác tối đa mức chi tiêu của khách quốc tế và khách nội địa. . 1.2.5. Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch: Trước năm 2000, công tác quảng bá du lịch chưa được chú trọng, nội dung quảng bá nghèo nàn, thời lượng quảng bá ít. Hình ảnh du lịch Hải Phòng ít được xuất hiện trong các phương tiện thông tin đại chúng mà chỉ dừng lại ở việc biên soạn sách, tập gấp giới thiệu về du lịch Hải Phòng, tham gia một số hội chợ du lịch, du lịch Hải Phòng chưa chủ động tham mưu đề xuất tổ chức các sự kiện du lịch lớn, các doanh nghiệp giới thiệu về hoạt động của mình chưa có sự chỉ đạo thống nhất, tập trung quảng bá cho du lịch, do vậy công tác quảng bá, xúc tiến Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 19
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. du lịch giai đoạn này không mang lại hiệu quả cao. Để khắc phục tình trạng này, phòng quảng bá xúc tiến du lịch được thành lập. Công tác quảng bá được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu để phát triển du lịch. Những sự kiện, hoạt động xúc tiên – quảng bá du lịch Hải Phòng được ghi nhận là có hiệu quả có thể kể đến như: Sở du lịch đang tích cực triển khai các đề án quy định về điều kiện tiêu chuẩn của phương tiện thủy hoạt động du lịch trên địa bàn toàn thành phố; xây dựng tuyến đường bộ từ Thái Lan – Lào – Nghệ An – Hà Nội – Hải Phòng; thành lập khu du lịch quốc gia Đồ Sơn – lưu vực sông Đa Độ (Kiến Thụy); đề xuất xây dựng mẫu biểu tượng (logo) khu dự trữ sinh quyển thế giới quần đảo Cát Bà. Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch đó được thực hiện dưới nhiều hình thức: Thường xuyên phối hợp với Đài phát thanh và truyền hình Hải Phòng, Đài truyền hình Việt Nam (VTV1 và VTV4) làm tin, phóng sự tuyên truyền về du lịch Hải Phòng; giới thiệu với phóng viên 50 cơ quan báo, Đài TW, địa phương tại cuộc họp báo về liên hoan du lịch Hải Phòng 2007; duy trì các webside về du lịch Hải Phòng; xuất bản Bản tin du lịch Hải Phòng 1 lần/tháng; xây dựng các loại đĩa CD giới thiệu hình ảnh và các ca khúc về Hải Phòng; phối hợp với các địa phương trong thành phố (Vĩnh Bảo, Kiến An, An Lão, Cát Hải, Đồ Sơn) tổ chức các sự kiện tại nhiều điểm du lịch – văn hóa nhằm thu hút và phục vụ du khách; phối hợp với các tỉnh thành phố bạn trong nước và nước ngoài tổ chức hội chợ ẩm thực du lịch ; tham gia các đại hội, sự kiện, theo sát đón đoàn Famtip và quảng bá du lịch như: Thái Nguyên, Hà Giang, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Huế, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh; các trung tâm du lịch lớn của Trung Quốc: Bắc Hải, Nam Ninh (Quảng Tây ), Hàng Châu (Quảng Đông) . 1.2.6. Tổ chức hoạt động kinh doanh du lịch: Trong lịch sử phát triển của ngành, du lịch Hải Phòng ra đời khá muộn cho đến nay, mặc dù được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn song du lịch Hải Phòng vẫn là ngành kinh còn khá trẻ. Được manh nha phát triển từ những thập Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 20
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. niên 60 – 70 của thế kỉ 20, nhưng hoạt động của ngành khá yếu ớt do tác động của những yếu tố khách quan và chủ quan mang lại. Tháng 6/1994, Sở du lịch Hải Phòng chính thức đựợc thành lập là cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch cao nhất ở Hải Phòng, du lịch thành phố mới dần được quy hoạch và đi vào phát triển một cách quy củ. Trên cơ sở thực hiện Nghị quyết số 32/NQ – TW của BCT, UBND thành phố và sở du lịch Hải Phòng đã ra các văn bản quy định tạo thành hành lang pháp lí cho hoạt động. Nhận thấy du lịch là ngành kinh tế có triển vọng, nhiều tổ chức và cá nhân đã được lựa chọn du lịch để đầu tư kinh doanh. Cho đến nay, toàn thành phố Hải Phòng có trên 50 doanh nghiệp đăng kí kinh doanh lữ hành nội địa. Song thực tế, trên địa bần chỉ có 12 doanh nghiệp lữ hành hoạt động, còn lại các doanh nghiệp khác chưa hoạt động vì nhiều lí do khác nhau. Một thực tế cho thấy rằng, rất nhiều người nhìn thấy lợi nhuận có thể thu được từ hoạt động kinh doanh lã hành khá cao. Nhưng làm thế nào để thu được nguồn lợi nhuận ấy thì không phải ai cũng làm được. Từ việc tìm kiếm thị trường khách, khai thác nguồn tài nguyên du lịch để phục vụ khách một cách hiệu quả, xây dựng các sản phẩm du lịch như thế nào để khách du lịch có thể chấp nhận và sẵn sàng tiêu dùng sản phẩm của đơn vị mình mà không cảm thấy nhàm chán tất cả những công việc này đều không đơn giản chút nào. Hải Phòng có tài nguyên du lịch phong phú hấp dẫn nhưng việc biến nguồn tài nguyên du lịch ấy thành những sản phẩm du lịch hấp dẫn và độc đáo thì du lịch Hải Phòng vẫn còn yếu. Khách du lịch đến Hải Phòng ngoài Đồ Sơn và Cát Bà và một vài điểm du lịch khác khi rơi vào tình trạng “không biết đi đâu chơi và mua sắm gì”. Chính vì thế, du lịch Hải Phòng chưa tận dụng hết khả năng chi tiêu trong túi tiền của khách. Hải Phòng là thành phố nhiều thuận thuận lợi về hệ thống giao thông đường bộ, đường không, đường thủy lại là thành phố gần thủ đô với những điểm du lịch khá hấp dẫn nên càng có nhiều lợi thế để phát triển hơn. Vì vậy, có nhiều doanh nghiệp đăng kí kinh doanh lữ hành nội địa ra đời. Nhưng hiện nay các doanh nghiệp nữ hành nội địa hoạt động chưa mạnh, lượng Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 21
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. khách du lịch nội địa mà các doanh nghiệp này khai thác chưa nhiều, phần lớn các khách du lịch nội địa của thành phố là do các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế. Năm 2001, Hải Phòng có 5 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế và 2 chi nhánh của Hà Nội, đến nay con số đó là 8 doanh nghiệp và 2 chi nhánh. Việc tăng số lượng các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này cho thấy ngành có chiều hướng phát triển khả quan. Tuy nhiên sức vươn của các doanh nghiệp này chủ yếu khai thác nguồn khách du lịch nội địa, sức vươn ra thị trường khách du lịch quốc tế của các doanh nghiệp này chưa cao. Nguồn khách quốc tế chủ yếu của các doanh nghiệp này khai thác là khách Trung Quốc, khách du lịch Việt Nam ra nước ngoài và phần nhỏ khách du lịch Thái Lan, khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng có khả năng thanh toán cao chỉ chiếm khoảng 15 – 20%. Đối với các thị trường khách quốc tế khác, các doanh nghiệp này chưa tự tổ chức được mà chủ yếu nối tour từ các trung tâm du lịch Hà Nội, TP.HCM (đối với quốc tế đến) hoặc bán lại tour cho các trung tâm này (với khách quốc tế đi). Việc vươn ra trực tiếp khai thác các nguồn khách từ các hãng du lịch nước ngoài vẫn nằm trong dự định của các doanh nghiệp. Do đó hoạt động của các doanh nghiệp lữ hành quốc tế ở các trung tâm du lịch lớn nhhư Hà Nội, TP.HCM, Quảng Ninh và chưa kịp hội nhập với nền kinh tế quốc tế. 1.2.7. Hiện trạng khai thác hoạt động du lịch: Hoạt động du lịch dịch vụ không ngừng được mở rộng và đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của cả nước cũng như cũng như của thành phố Hải Phòng. Năng lực, cơ sở vật chất kĩ thuật của ngành có bước phát triển đáng kể. Đội ngũ hướng dẫn viên ngày càng đông đảo, theo thông kê của Sở du lịch Hải Phòng thì số lượng hướng dẫn viên được cấp thẻ này càng tăng, vì thế mà đã có một lực lượng lớn các hướng dẫn viên tham gia vào quá trình tổ chức hoạt động du lịch tại Hải Phòng. Hàng năm, Hải Phòng cũng tổ chức hội nghị, hội thảo, hay các cuộc thi để đẩy mạnh hơn nữa cho hoạt động du lịch tại Hải Phòng, như việc liên kết với Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 22
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Quảng Ninh và Hà Nội để phát triển tam giác kinh tế của miền Bắc, hay cùng với Quảng Ninh bảo vệ và phát triển môi trường biển. Đặc biệt có lợi thế là thành phố biển vì vậy thường tổ chức các cuộc thi hoa hậu, người mẫu biển. Hàng năm đến mùa du lịch biển, Hải Phòng lại tổ chức khai mạc liên hoan du lịch biển, và nhiều hoạt động vui chơi giải trí khác. 1.2.8. Hiện trạng về tình hình lao động: Theo báo cáo của Sở du lịch (trước đây) những năm qua số lượng lao động trong ngành du lịch của Hải Phòng tăng liên tục, năm 2000 là 16.500 nguời, đến năm 2004 là 27.000 người (chiếm 10,19 % tổng số lao động trong công nghiệp – thương mại – dịch vụ), và đến năm 2008 thì tổng số lao động làm trong ngành du lịch là 30 nghìn người. Trước đây lao động du lịch chủ yếu làm trong các doanh nghiệp Nhà nước, nay có thêm lao động làm việc trong các doamh nghiệp liên doanh và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nguyên nhân chủ yếu là do chính sách mở cửa khuyến khích nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh du lịch. Chất lượng của đội ngũ lao động du lịch đã được nâng cao. Tỷ lệ lao động được dào tạo bước đầu đã được nâng cao, tỷ lệ lao động đào tạo nghề, nghiệp vụ du lịch, nghiệp vụ bàn, bar, lễ tân chiếm tỷ trọng cao trên 60% tổng số lao động ngành, có số lao động có trình độ đại học và cao đẳng cũng chiếm 25 % bước đầu đáp ứng yêu cầu phát triển. Theo cách tính của tổ chức du lịch quốc tế (UNWTO) cứ một lao động du lịch trực tiếp sẽ kéo theo 2 – 2,2 lao động gián tiếp phục vụ du lịch, năm 2005, Hải Phòng có 59,4 nghìn lao động gián tiếp phục vị du lịch. Nhưng lao động này chỉ có tay nghề trong lĩnh vực của họ nhưng chưa được trang bị hiểu biết nhất định về du lịch. 1.2.9. Hiện trạng về doanh thu: Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) đã áp dụng hệ thống thống kê cho các nước thành viên về thu nhập du lịch được tính bằng toàn bộ số tiền mà khách du lịch phải chi trả khi thăm quan một nước khác (trừ chi phí cho việc vận chuyển hàng không quốc tế) Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 23
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Bảng thu nhập ngành du lịch của Hải Phòng thời kì 2000 – 2008 (không kể thu nhập ngoài xã hội) Đơn vị tính: Tỷ Đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng doanh 231,0 283,0 363,0 404,0 470,0 552,0 722,0 987,0 1.100 thu % tăng tưởng so với 26,5 22,5 28,5 11,3 16,3 17,4 31,1 35,6 37,8 năm trước (Nguồn: Sở du lịch Hải Phòng) Tổng thu nhập của ngành du lịch thành phố Hải Phòng trong những năm qua có sự tăng trưởng đáng kể. Nếu như năm 2000 tổng thu nhập của toàn ngành du lịch là 231 tỉ đồng, thì đến năm 2005 thu nhập du lịch đạt mức 552 tỉ đồng, tăng gấp 2,4 lần so với năm 2000 và giai đoạn 2000 – 2005 đạt 10,77 %. Năm 2006 tổng thu nhập của ngành du lịch là 722 tỉ đồng, tăng 31,1% so với năm 2005. Năm 2007 tổng thu nhập của toàn ngành du lịch đã đạt 987 tỉ đồng tăng 35,6 % so với năm 2006. Đến năm 2008 tổng thu nhập của nhành du lịch là 1.100 tỉ đồng, tăng 37,8 %. Như vậy từ những hoạt động tuyên truyền quảng bá, nâng cao chất lượng dịch vụ, xúc tiến dầu tư nhằm thu hút khách du lịch, năm 2007, riêng khách quốc tế đạt 92,91% kế hoạch năm, do khách du lịch đường biển thấp và tuyến bay Hồng Kông/Ma Cao – Hải Phòng đã tạm dừng hoạt động từ tháng 6 năm 2007. Song vẫn tăng 20% do khách du lịch Trung Quốc đi theo quy chế 849 đang tăng dần và tuyến bay Hồng Kông/Ma Cao – Hải Phòng của những tháng đầu năm (1 đến 31/05/2007). Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 24
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Doanh thu từ khách du lịch gia tăng nhanh chóng là tiền đề nâng cao đóng góp GDP của du lịch Hải Phòng nói chung vào tổng GDP của thành phố. Bên cạnh đó ngành mũi nhọn của Hải Phòng như: công nghiệp, chế biến thủy sản, may mặc vẫn duy trì ở mức độ cao, qua đó nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, tạo môi trường đầu tư sản xuất kinh doanh thông thoáng hơn và các dịch vụ kinh doanh trong đó có hoạt động du lịch phát triển nhanh và bền vững. Điều này phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước là chuyển dịch nền kinh tế theo hướng tăng dần tỉ trọng của khu vực kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. 1.2.10. Hiện trạng về khách du lịch: Hải Phòng là thành phố có điều kiện và tài nguyên du lịch thuận lợi. Trong những năm qua, cùng với đà phát triển của ngành du lịch Việt Nam, du lịch Hải Phòng cũng không ngừng lớn mạnh đã thu hút được một số lượng khách quốc tế cũng như khách nội địa. Bảng: Lượng khách du lịch đến Hải Phòng (2003 – 2008) Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng lượt Nghìn 1680 2100 2393 2963 3620 3484 khách lượt Quốc tế Nghìn 350 440 558 606 719 818 lượt Nội địa Nghìn 1330 1660 1834 2357 2901 2666 lượt (Nguồn: Báo cáo của Sở Du lịch Hải Phòng) Trước đây khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng chủ yếu là khách đến thăm quan, nghỉ dưỡng kí kết theo các hiệp định hợp tác trao đổi giữa Việt Nam với các nước, đặc biệt là các nước Đông Âu. Vì vậy lượng khách hết sức hạn Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 25
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. chế, không tương xứng với tiềm năng du lịch mà Hải Phòng có. Trong những năm gần đây được sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước về xây dựng cơ sở hạ tầng cùng với việc ngành du lịch Hải Phòng chú trọng nhiều hơn cho công tác tuyên truyền quảng bá nên lượng khách du lịch đến Hải Phòng ngày càng tăng cả về khách quốc tế và khách nội địa. Khách quốc tế đến Hải Phòng có tốc độ tăng trưởng trng bình hàng năm 2003 - 2008 đạt 19%. Khách nội địa chiếm tỉ trọng 80% so với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm giai đoạn 2003 – 2008 đạt 18,25%. 1.2.11. Phƣơng hƣớng phát triển du lịch Hải Phòng trong thời gian tới: Hải Phòng xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển du lịch là hướng để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu thành phố, thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển. Phương hướng phát triển du lịch Hải Phòng trong những năm tới là khai thác tối đa các tiềm năng, lợi thế của thành phố về cảnh quan tự nhiên, tài nguyên nhân văn, đảm bảo môi trường sinh thái, đa dạng các loại sản phẩm du lịch trong GDP của thành phố, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao dân trí, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và đặc thù văn hóa địa phương, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, ngành và toàn dân để phát triển du lịch góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 26
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Bảng: chỉ tiêu phát triển du lịch Hải Phòng giai đoạn 2010 – 2020 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2010 2015 2020 1.Tổng LK 1000LK 4.250 4.600 6.000 - Quốc tế 1000LK 1.120 1.700 2.400 - Nội địa 1000LK 3.130 2.900 3.600 2.Tổng DT Triệu USD 527,5 1.186,5 2.364,0 3.LĐ trực tiếp Người 21,76 33,60 52,90 4.Vốn đầu tư Triệu USD 976,5 1.552,9 2.801,6 5.GDP ngành/GDP % 9,2 12,8 17,9 thành phố (Nguồn: viện nghiên cứu phát triển du lịch) 1.3. Đánh giá thực trạng kinh doanh du lịch ở Hải Phòng: Nhìn chung hoạt động du lịch tại Hải Phòng từ năm 1995 trở lại đây đã có những bước phát triển đáng mừng. Những con số về doanh thu du lịch và số lượng khách du lịch đến Hải Phòng ngày càng, điều đó chứng tỏ Hải Phòng ngày càng trở thành điểm du lịch thu hút sự quan tâm của khách du lịch. Để có được những thành quả đó, trước hết phải nói đến công tác quản lý về du lịch của thành phố Hải Phòng, mà Sở du lịch là nơi quản lý Nhà nước về du lịch trên địa bàn thành phố, đã thực hiện tốt chức năng quản lý của mình. Ngoài việc quản lý, quy hoạch khu du lịch, điểm du lịch, Sở du lịch Hải Phòng đưa ra những chính sách xúc tiến và quảng bá du lịch có hiệu quả, và đã thu hút được số lượng khách du lịch lớn đến với thành phố Hải Phòng. Hải Phòng cũng có những chính sách đầu tư, nâng cấp sửa chữa và xây mới nhiều nhà hàng và khách sạn, nhiều khu vui chơi giải trí phục vụ cho du lịch cũng được đầu tư phát triển. Bên cạnh đó phương tiện vận chuyển như: taxi, xe khách, tàu thuyền phục vụ du lịch cũng đang dần đáp ứng được nhu cầu của du khách. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 27
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Đội ngũ hướng dẫn viên và các nhân viên phục vụ du lịch cũng được nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ Các doanh nghiệp hoạt động lữ hành nội địa và quốc tế trên địa bàn thành phố cũng đón và gửi nhiều khách du lịch đến và đi, các cơ sở kinh doanh lữ hành này cũng ngày càng được đầu tư về cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật. Tuy nhiên bên cạnh những phát triển đó thì du lịch Hải Phòng cũng có những bất cập. Việc quản lý khu du lịch, điểm du lịch còn thiếu thống nhất, chưa tập trung. Các cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật tuy được đầu tư nhưng vẫn chưa ở mức độ cao, vì thế vẫn còn nhiều dở dang và chư được quy hoạch cụ thể, điều này làm giảm mỹ quan của điểm đến du lịch, đồng thời ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên. Các phương tiện vận chuyển tuy được nâng cấp nhưng so với các trung tâm du lịch lớn như: Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh vẫn chưa cao, các bến tàu thuyền vẫn chưa được quy hoạch cụ thể, nhiều tàu du lịch đến Hải Phòng vẫn chưa có bến đỗ. Đội ngũ hướng dẫn viên quốc tế chưa nhiều, các hướng dẫn viên nội địa vẫn còn hạn chế về mặt ngoại ngữ Như vậy, để cho hoạt động du lịch tại Hải Phòng ngày càng phát triển, đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch thì thành phố Hải Phòng, Sở du lịch Hải Phòng cần phảicó nhiều biện pháp quy hoạch và phát triển du lịch nhiều hơn nữa. Tiểu kết chương 1 Thông qua việc phân tích, đánh gía tiềm năng du lịch, thực trạnh hoạt động du lịch và phương hướng, chiến lược du lịch của Hải Phòng chúng ta thấy được vai trò của hoạt động du lịch tại Hải Phòng là rất quan trọng trong sự phát triển của thành phố. Nhìn chung, Hải Phòng là thành phố có vị trí địa lí, tài nguyên du lịch cả tự nhiên và nhân văn, điều kiện kinh tế - xã hội khá thuận lợi cho phát triển du lịch. Nhưng dung lượng khóa luận có hạn nên tập trung vào một số di tích, và công trình kiến trúc đặc sắc, ấn tượng, có tính giáo dục và tính thẩm mĩ cao nhằm đưa đến cho khách du lịch một cái nhìn tổng quan và sâu sắc cho bức tranh du lịch của Hải Phòng. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 28
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Chƣơng 2: ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ SỨC HẤP DẪN CỦA CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA TRONG NỘI THÀNH HẢI PHÒNG VÀ HIỆN TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI ĐÂY 2.1. Sức hấp dẫn của các di tích lịch sử văn hóa trong nội thành Hải Phòng: 2.2.1. Quan niệm về sức hấp dẫn: Sức hấp dẫn trong du lịch là vấn đề mới, cho đến nay chưa có một khái niệm cụ thể, rất khó xác định và còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên chúng ta có thể hiểu về sức hấp dẫn trong du lịch như sau: Sức hấp dẫn trong du lịch là các nguồn lực có sức hút du khách của điểm tham quan du lịch, khu du lịch và vùng du lịch Nó có tính tổng hợp và thường được xác định bằng giá trị của các nguồn lực du lịch, cách thức tổ chức quản lí các hoạt động bảo tồn, tôn tạo, khai thác tài nguyên, nguồn nhân lực; cơ sở vật chất, phục vụ du lịch và các yếu tố khác. 2.1.1.1. Vai trò của sức hấp dẫn: Sức hấp dẫn, đặc biệt là sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch có vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch, là mục đích chính trong chuyến đi của du khách. Điểm du lịch, khu du lịch và vùng du lịch có sức hấp dẫn sẽ giữ chân của du khách lâu hơn, kéo dài thời gian lưu trú, kích thích họ tiêu dùng các sản phẩm du lịch nhiều hơn, cũng như làm cho họ quay trở lại. 2.1.1.2. Đặc điểm và điều kiện tạo ra sức hấp dẫn: * Đặc điểm: - Sức hấp dẫn là yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu trong phát triển du lịch, bởi du khách chỉ đến những điểm du lịch, khu du lịch, vùng du lịch nào mà họ thấy có các nguồn lực phát triển du lịch hấp dẫn họ, mà thực chất của hoạt động du lịch là “bán” sự hài lòng cho khách. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 29
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. - Sức hấp dẫn có tính tổng hợp cao, vì nó được tạo nên bởi nhiều yếu tố: yếu tố tự nhiên của tài nguyên du lịch (các giá trị mà tài nguyên đó mang lại), yếu tố thực trạng kinh doanh, môi trường du lịch (bộ máy và cách thức quản lí, bảo tồn tôn tạo, khai thác tài nguyên, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất phục vụ du lịch ), yếu tố khách (độ tuổi, trình độ, nghề nghiệp, sở thích, thành phần dân tộc, truyền thống văn hóa ). - Sức hấp dẫn không thể đo đếm một cách định lượng. Nó chỉ được xác định một cách định tính thông qua việc nghiên cứu sở thích của du khách. - Việc xác định sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch nhân văn phức tạp hơn so với tài nguyên du lịch tự nhiên. Bởi tiêu chuẩn đánh giá chủ yếu dựa vào cơ sở định tính xúc cảm và trực cảm. - Sức hấp dẫn trong phát triển du lịch không cố định mà bất biến. Nó rất dễ mất đi nếu không có sự đầu tư một cách khoa học, đúng đắn thường xuyên. * Điều kiện để tạo ra sức hấp dẫn: - Điều kiện chủ quan: chính là những giá trị tự thân của tài nguyên du lịch. + Đối với tài nguyên du lịch tự nhiên, sức hấp dẫn được tạo ra bởi vẻ đẹp của phong cảnh, sự da dạng của địa hình, sự thích hợp của khí hậu, sự đặc sắc và độc đáo của các hiện tượng và di tích tự nhiên Sức hấp dẫn của một điểm, một vùng, một khu vực có thể được đánh giá theo các mức độ sau: 1. Rất hấp dẫn: có 4 hiện tượng tự nhiên trên 5 phong cảnh, đa dạng (ở trên đỉnh núi, các độ cao trên núi, thác nước, hang động, hồ nước, bãi biển ) 2. Khá hấp dẫn: có 3 đến 5 phong cảnh đẹp đa dạng, có một hiện tượng, di tích tự nhiên đặc sắc, đáp ứng 3 đến 5 loại hình du lịch. 3. Trung bình: có từ 1 đến 2 phong cảnh đẹp, đáp ứng 1 đến 2 loại hình du lịch. 4. Kém hấp dẫn: Phong cảnh đơn điệu, đáp ứng một loại hình du lịch. Và cũng giống như tài nguyên du lịch nhân văn thì tài nguyên du lịch tự nhiên cũng có thể đánh giá bằng cách cho điểm: Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 30
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. 1. Có vị trí thuận lợi: 4 x 2 = 8 điểm. 2. Có lịch sử kiến tạo địa chất, cấu tạo địa hình: 4 x 2 = 8 điểm. 3. Có phong cảnh đẹp, quy mô lớn kết hợp với nhiều tài nguyên có giá trị: 4 x 2 = 8 điểm. 4. Có tài nguyên nước và sinh vật phong phú: 4 x 2 = 8 điểm. 5. Môi trường tự nhiên tốt và vẫn giữ nguyên được những giá trị nguyên sinh: 4 x 2 = 8 điểm. 6. Việc tuyên truyền quảng cáo được tiến hành tốt: 4 x 2 = 8 điểm. 7. Khu du lịch tự nhiên được đánh giá là điểm du lịch quốc tế: 4 x 2 = 8 điểm. + Đối với tài nguyên du lịch nhân văn, sức hấp dẫn được tạo ra bởi các giá trị có thể cảm nhận được khi nhìn thấy (giá trị thẩm mĩ, giá trị kiến trúc nghệ thuật ) hoặc sau khi nghe thấy (giá trị lịch sử, giá trị văn hóa ) Việc đánh giá các Di tích lịch sử văn hóa có thể được tiến hành bằng cách cho điểm: Mật độ di tích/tỉnh Số di Số di tích xếp Ý nghĩa tích/100km2 hạng Đặc điểm Bậc Đặc Bậc Đặc Bậc Đặc Bậc đánh điểm đánh điểm đánh điểm đánh giá giá giá giá Dưới 400 4 >10 4 >40 4 Quốc tế 4 301 – 400 3 5 – 10 3 21 – 40 3 Quốc tế 3 150 – 300 2 1 – 4 2 5 – 25 2 Vùng 2 <150 1 <1 1 <5 1 Nội địa 1 (Nguồn: Phạm Trung Lương, Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, NXBGD, 2000) Trong đó: loại tốt (4 điểm), loại khá (3 điểm), loại trung bình (2 điểm), loại yếu (1 điểm). Và theo hệ số trên có thể đánh giá như sau: Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 31
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. 1. Vị trí rất thuận lợi: 4 x 2 = 8 điểm 2. Lịch sử hình thành và phát triển trên 500 năm : 4 x2 = 8 điểm 3. Có phong cảnh đẹp, quy mô lớn kết hợp nhiều tài nguyên có giá trị: 4 x 3 = 12 điểm 4. Nội thất các hạng mục công trình được giữ gìn tôn tạo, bảo vệ tốt: 4 x 3 = 12 điểm 5. Có vị trí kiến trúc độc đáo: 4 x 3 = 12 điểm 6. Việc tổ chức tôn tạo bảo vệ khai thác được tiến hành tốt, đúng nguyên tắc: 4 x 3 = 12 điểm 7. Gắn tiền với những giá trị văn hóa đặc sắc (tôn vinh những người có công với nước hoặc các thánh thần gắn liền với sự hình thành của một truyền thuyết, một tôn giáo), nơi diễn ra lễ hội lớn : 4 x 2 = 8 điểm 8. Môi trường tự nhiên và nhân văn có chất lượng tốt, không bị xâm hại: 4 x 2 = 8 điểm 9. Việc nghiên cứu tuyên truyền, quảng cáo đựoc tiến hành tốt: 4 x 2 = 8 điểm 10. Di tích được xếp hạng loại quốc tế: 4 x 3 = 12 điểm - Điều kiện khách quan: là những yếu tố bên ngoài tài nguyên du lịch nhưng góp phần hình thành, bảo tồn, phát huy sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch. + Đường lối chính sách: Đường lối chính sách đúng đắn, phù hợp cũng là một nhân tố quan trọng tăng thêm sức hấp dẫn đối với du khách, vì nó là tiền đề cho phát triển du lịch. + Điều kiện kinh tế xã hội: Kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ du lịch. Môi tường chính trị, xã hội ổn định cũng là một yếu tố hấp dẫn du khách, đặc biệt trong tình hình chính trị xã hội thiếu ổn định đang diễn ra hiện nay. + Bộ máy, cách thức tổ chức quản lí, bảo tồn, tôn tạo và khai thác tài nguyên: các giá trị của tài nguyên du lịch chỉ thực sự trở nên hấp dẫn du khách Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 32
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. khi nó được tổ chức quản lí, bảo tồn tôn tạo tốt, khai thác cho hoạt động du lịch một cách hợp lí và bền vững. Nếu ngược lại, chúng ta sẽ làm mất dần các giá trị và cạn kiệt nguồn tài nguyên du lịch, hoạt động du lịch đi vào giai đoạn khủng hoảng. + Chất lượng nguồn nhân lực: Chất lượng đội ngũ lao động đặc biệt là hướng dẫn viên có ảnh hưởng lớn tới sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch. Bởi vì họ là người tiếp xúc trực tiếp với du khách. Họ chính là người tác động xấu hoặc tốt tới tâm lí khách, là người giúp khách cảm nhận một cách trọn vẹn nhất những giá trị ủa tài nguyên.Vì thế, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là hết sức cần thiết cho việc tăng sức hấp dẫn trong du lịch nói riêng và hoạt động du lịch nói chung. +Cơ sở phục vụ khách: đây là điều kiện hỗ trợ, giúp cho khách du lịch dễ dàng tiếp cận, sử dụng hợp lí hơn tài nguyên du lịch, tạo ra những tiện nghi khi họ đi lại và lưu trú tại điểm du lịch. + Những điều kiện ảnh hưởng tới tâm lí và sở thích của du khách: văn hóa, trình độ học vấn, nghề nghiệp, độ tuổi là những yếu tố quan trọng hình thành nên thị hiếu và sở thích của du khách. Nó gián tiếp tác động lên sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch. Những du khách khác nhau, có những thị hiếu và sở thích khác nhau sẽ lựa chọn những diểm đến khác nhau: về với thiên nhiên, tìm hiểu văn hóa lịch sử Do đó sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch đối với mỗi loại khách cũng không giống nhau. Khi đó việc nghiên cứu của yếu tố khách sẽ đến là rất quan trọng trong khai thác, phát huy sức hấp dẫn của mỗi điểm du lịch. 2.1.2. Sức hấp dẫn tự thân của các di tích lịch sử văn hóa ở Hải Phòng: 2.1.2.1. Chùa Dƣ Hàng (Phúc Lâm Tự): Chùa Dư Hàng có tên chữ là Phúc Lâm Tự, trước kia thuộc xã Dư Hàng Kênh (huyện An Dương) nay thuộc địa phận phường Hồ Nam, quận Lê Chân, cách trung tâm thành phố 2 km về phía Tây Nam. Từ trung tâm thành phố - Nhà hát lớn – có thể theo đường Nguyễn Đức Cảnh rồi rẽ trái vào đường Cát Cụt, đi Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 33
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. thẳng qua con phố này là đến phố chùa Hàng, đi khoảng 800 m nữa là ta đứng trước cổng chùa Hàng. Nếu căn cứ vào văn bia ghi chép thì cảnh chùa có từ thời Tiền Lê (980 – 1009) nhưng chỉ là một thảo am [56, 13]. Đến đời vua Lê Gia Tông (1672) chùa đựợc làm to rộng, có đủ gác chuông, nhà thờ tổ, nhà tăng, mái lợp ngói, lát gạch Bát Tràng khắp đường thi lối lại, có nghĩa trang tín đồ an táng. Năm 1917, chùa được trùng tu, mở rộng và có quy mô như hiện nay. Nếu xét đúng theo đặc điếm kiến trúc chùa của người Việt thì chùa Dư Hàng mang đầy đủ những đặc trưng ấy. Thứ nhất, chùa của người Việt bao giờ cũng có xu hướng gần dân, ngoài một số chùa được xây dựng ở những địa điểm có thắng cảnh thiên nhiên thì hầu như chùa nào cũng gắn với làng xóm. Chùa là trung tâm làng xóm của làng, chùa Hàng cũng xây dựng trên mảnh đất trù phú có dân cư đông đúc. Mặt chùa Dư Hàng quay về hướng Nam, vì theo đạo Phật thì là hướng “Bát Nhã” (hướng trí tuệ), có trí tuệ thì mới diệt trừ được ngu dốt, mê muội, tránh được dục vọng, tội ác mà từ đó phát triển thiện tâm. Bước qua Tam Quan (cổng chùa), du khách sẽ bắt gặp một kiến trúc bề thế uy nghi với ba tầng mười hai mái, đó chính là tòa gác chuông của chùa. Chính giữa tòa kiến trúc treo quà chuông đồng cỡ lớn, đề chữ “Phúc Lâm Tự Chung” nghĩa là chuông chùa Phúc Lâm. Một nét kiến trúc đặc biệt là trên mái đao của tòa gác chuông có chạm khắc tinh xảo đúng cả bộ tứ linh: Long, Ly, Quy, Phượng, thể hiện rất nhiều ước muốn của người xưa cầu cho mưa thuận, gió hòa, cây cỏ tốt tươi, đất nước thanh bình và no ấm. Sau tòa gác chuông là gian Phật Điện gồm 7 gian. Dọc hành lang có 7 gian Phật điện có tổng cộng có 6 cái khánh lớn nhỏ bằng đồng mun được đúc từ thời Trần, một cái trống đường kính 1,5 m được đánh vào những ngày lễ trọng, cầu phúc, cầu may. Bước qua ngưỡng cửa Phật điện, một quang cảnh thật nguy nga, tráng lệ trước mặt chúng ta có 6 tấm hoành phi lớn được chạm khắc tinh xảo, hoa văn mềm mại. Đặc biệt trong tòa Phật điện này có tới 15 chiếc cửa võng, Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 34
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. một chi tiết kiến trúc có một không hai. Trên cửa võng lớn nhất gian chính được trang trí hết sức công phu, tỉ mỉ, tất cả đều toát lên một vẻ uy linh, trầm mặc với màu sơn son nền nã, không lòe loẹt, sặc sỡ như các chùa khác ở việt Nam và Thái Lan. Xung quanh các cột gỗ lim lớn có chạm khắc hình ảnh rồng và phượng với nhiều nét biến thể tạo nên một phong cách mỹ thuật riêng và hết sức phong phú, độc đáo, chùa còn lưu giữ hiện vật cổ: lư hương có từ thời Bảo Đại, đỉnh đồng khánh đồng, đồ trang trí mỹ thuật bằng gốm sứ, đá xanh, và đặc biệt là bộ kinh “A Hàm” cổ có một không hai viết về giáo lí nhà Phật. Bước ra khỏi điện Phật, phía bên phải tiền Dường là 5 gian nhà thờ tổ, một ngôi nhà cổ kính trầm mặc, khói hương nghi ngút. Ở đây có thờ bộ tượng Trúc Lâm Tam Tổ, là một trong những bộ tượng quý của Phật giáo Việt Nam. Tất cả những xà, kèo, cột đều được chạm rất nhièu chữ Hán thuộc loại chữ thảo và chữ triện. Hầu như bất cứ một ngôi chùa Việt Nam nào khi xây dựng cũng có một gian thờ Mẫu và chùa Dư Hàng cũng không nằm ngoài quy luật đó, mặc dù đạo thờ mẫu là một tín ngưỡng tôn giáo khác, không nằm trong Phật giáo. Phật giáo là tôn giáo du nhập còn đạo thờ mẫu là tín ngưỡng của người Việt từ xa xưa, gắn với ước vọng cầu được no đủ, hạnh phúc. Xây nhà thờ mẫu trong chùa là một sự hòa nhập tôn giáo riêng của người Việt Nam ta mà không ở đâu có được. Từ nhà thờ Mẫu bước ra, qua một khoảng sân nữa là đến vườn tượng, bên cạnh là thư viện nơi để những kinh sách và bảo vật quý. Đối diện với khu vườn tượng là khu mộ tổ. Đây là khu vườn tĩnh mịch rợp mát bóng cây xanh. Ngoài những mộ tháp của các vị sư tổ cồn có hai tấm bia ghi lại lịch sử của chùa. Đến với chùa Hàng, du khách không chỉ được thắp hương, cung kính lễ Phật, tịnh tâm mà còn được chiêm ngưỡng một kiến trúc độc đáo với quy mô bề thế, với nghệ thuật điêu khắc mĩ thuật hết sức đặc biệt. Đây là một danh lam thắng cảnh nằm trong lòng thành phố, là cảnh đẹp không chỉ của Hải Phòng mà còn là của cả nước. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 35
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Chùa được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1986. Và dựa theo cách đánh giá sức hấp dẫn các di tích lịch sử văn hóa bằng cách cho điểm thì chùa Dư Hàng được 85 điểm, và là điểm du lịch hấp dẫn được du khách đến thăm. Khách du lịch đến đây chủ yếu là khách nội địa, người dân địa phương đến dâng hưong, lễ Phật và vãn cảnh chùa. Số khách quốc tế đến đây là khách theo đoàn city tour (khách Anh và Pháp), và một số các nhà nghiên cứu muốn đền tìm hiểu giá tri kiến trúc của chùa. Và qua việc tiến hành điều tra xã hội học, thăm dò ý kiến của các du khách tới đây (với 20 phiếu thăm dò), thì 80% du khách nội địa cho là hấp dẫn, 10% cho là hấp dẫn và 10% còn lại là bình thường. Với khách quốc tế thì 50% cho là hấp dẫn, 20% cho là rất hấp dẫn, 20% là bình thường và 10% là không hấp dẫn. Như vậy chùa Dư Hàng là điểm du lịch hấp dẫn được cả du khách trong và ngoài nước đến tham quan và vãn cảnh chùa. 2.1.2.2. Đền Nghè: Đền Nghè tức An Biên cổ miếu (ngôi miếu cổ của làng An Biên) tọa lạc tại ngã ba phố Mê Linh và phố Lê Chân, nằm trong nội thành Hải Phòng, cách Nhà hát lớn khoảng trên 500 về phía Tây Nam. Đây là một quần thể kiến trúc dân tộc mang phong cách thời Nguyễn thờ Bà Nữ tướng Lê Chân. Thăm đền Nghè, khi bước qua cổng chính, nhìn sang bên hữu, du khách sẽ bắt gặp một kiến trúc đẹp, đó là nhà bia được trang trí theo kiểu dáng của long đình, chính giữa dựng tấm bia đá. Nội dung minh văn khắc ghi về tiểu sử, sự nghiệp của bà Lê Chân bằng chữ Hán, nói rõ nữ tướng quê ở làng An Biên, huyện Đông triều, nay thuộc tỉnh Qảng Ninh [96,120]. Cha là Lê Đạo, một thầy thuốc nổi tiếngtài năng đức độ. Mẹ là Trần Thị Châu, một phụ nữ đảm đang phúc hậu. Từ tuổi hoa niên, Lê Chân nức tiếng đẹp người, đẹp nết, có chí khí hơn người. Viên quan cai trị nhà Hán đòi lấy làm tỳ thiếp. Ông bà Lê Đạo kiên quyết khước từ, cho con lánh về vùng ven biển huyện An Dương. Tên quan dâm tặc đã giết hại cha nàng, thù nhà nợ nước, Lê Chân quyết chí phục thù, ngầm chiêu mộ lực lượng, vừa chiêu mộ lực lượng, vừa rèn luyện binh sĩ chờ thời cơ. Khi Trưng Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 36
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Trắc dựng cờ khởi nghĩa ở Mê Linh, Lê Chân cùng nghĩa quân trại An Biên kịp thời hưởng ứng. Cuộc khởi nghĩa thành công, Trưng Trắc lên làm vua, xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Lê Chân được giao chức Chưng quản binh quyền nội bộ kiêm trấn thủ Hải Tần. Năm 43, Vua Hán sai tướng Mã Viện đem thủy bộ theo đường đông Bắc sang đánh, do tương quan lực lượng không đều, Nữ tướng phải rút quân về Lạt Sơn (thuộc Hà Nam nay) thế cùng lực tận, bà phải tự vẫn để bảo toàn chinh tiết. Được tin Nữ tướng Lê Chân hi sinh dân trang An Biên lập đền thờ bà, tức Đền Nghè – An Biên cổ miếu. Chữ “Nghè” ở đây có nghĩa là đền. Tuy nhiên “Nghè” không phải là đền như mọi loại đền khác. “Nghè” chỉ dùng khi trong đó thờ vị thần (thiên thần hoặc nhân thần) đồng thời được coi như Thành Hoàng hay chỉ thần có công khai khẩn, lập ấp và trợ giúp dân chúng trong sinh sống, làm ăn. Khi mới được xây dựng, đền chỉ là nghè nhỏ bằng tranh tre trên khu gò của cánh đồng làng An Biên. Quần thể kiến trúc ngày nay được xây dựng vào những thập kỉ đầu thế kỉ XX. Trước đây, Đền Nghè có diện tích tương đối rộng nhưng trải qua những biến cố lịch sử và quá trình đô thị hóa nên diện tích của đền bị thu hẹp nhiều hơn so với trước đây. Toàn bộ kiến trúc của ngôi đền bao gồm hai khu nhà chính là tòa Tiền Bái và khu Hậu Cung. Tòa Tiền Bái được xây dựng năm 1926 (được xây sau tòa hậu cung của đền). Cũng giống như nhiều đền chùa khác tòa Đại Bái cũng được trang trí theo lối kiến trúc cổ. Những đầu đao, nóc mái đắp nổi hình rồng bay phượng múa, tượng tưng cho sự linh thiêng, cho sức mạnh của dân tộc. Chính giữa trung tâm của tòa tiền bái là gian thờ nữ tướng Lê Chân, hai bên có đặt võng và kiệu rồng. Ngoài ra còn có các câu đối, hoành phi sơn son thiếp vàng hay khảm xà cừ ca ngợi phẩm hạnh, tài năng của nữ tướng. Tòa Hậu Cung nằm sát bên cạnh tòa Tiền Bái. Phía ngoài của di tích là cổng Tam Quan được trang trí bằng những hình tượng rồng với những họa tiết hoa văn đặc sắc. Đây là một mô típ tứ linh: Long - Ly - Quy – Phụng, rất quen thuộc Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 37
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. trong lối kiến trúc cổ của các đền, đình Việt Nam. Ngoài đền thờ chính, di tích đền Nghè còn có Điện tứ phủ. Điện nhìn ra phố Lê Chân thông qua cổng chính. Về mặt tín ngưỡng, đền Nghè là nơi thờ chính của nữ tướng Lê Chân ở trong thành phố Hải Phòng. Đây là tín ngưỡng thờ cúng những người có công với đất nước, một trong những tín ngưỡng căn bản của người Việt, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc, sự tưởng nhớ về công lao của người nữ tướng với nhân dân thành phố Hải Phòng. Di tích đền Nghè, là một di sản văn hóa “Viên khung” của thành phố, của đất nước, nơi bảo tồn nhiều nếp sinh hoạt cổ phong lành mạnh góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể của người Hải Phòng. Đền Nghè được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 21/12/1975. Cũng giống như chùa Dư Hàng, dựa trên tiêu chí đánh giá sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hóa qua việc cho điểm thì đền Nghè đạt 80 điểm. Ở đây tác giả cũng tiến hành điều tra xã hội học và thăm dò ý kiến của du khách đến đây thì 80% khách nội địa cho là hấp dẫn, 10% rất hấp dẫn, 10% bình thường. Đối với khách quốc tế (hầu như là khách theo chươngh trình city tour) thì du khách quốc tế cũng có nhận xét như chùa Dư Hàng. Vậy, điểm du lịch văn hóa tâm linh đền Nghè là điểm du lịch hấp dẫn. 2.1.2.3. Đình Hàng Kênh: Đình Hàng Kênh có tên chữ là đình Nhân Thọ nằm ở phố Nguyễn Công Trứ, phường Hàng Kênh, quận Lê Chân thành phố Hải Phòng. Tại thềm hiên mé tả đình vẫn còn một số tấm bia đá ghi nhận công đức của những người đóng góp tiền của xây dựng, tu tạo đình. Trên tấm bai có khắc “Khởi công năm Tự Đức Tân Hợi (1851)” [56,76]. Tuy vậy, theo lời kể của các cụ già địa phương thì đình làng Hàng Kênh đã có từ thời Lê Vĩnh Thịnh thứ 11 (1718). Năm 1851, đời vua Tự Đức, ngôi đình đã bị hư hỏng nặng, cụ Nguyễn Danh Dương đã đứng lên kêu gọi dân làng đóng góp tiền của, lương thực, gỗ lim dựng lại đình tại địa điểm hiện nay. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 38
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Mặc dù phạm vi đất đai đã bị thu hẹp so với lúc đình xây dựng, chỉ còn 3600m2 (trước đây là 7000m2) nhưng đình Hàng Kênh vẫn có bề thế và là một công trình kiến trúc, điêu khắc đẹp của Hải Phòng và của nước ta. Đình Hàng Kênh được làm theo kiểu chữ Công (I) gồm 2 phần: Đại Đình ở phía trước, Hậu Cung ở phía sau, ngoài ra còn Nghi Môn, Tả Vu, Hữu Vu, nhà bia và hồ bán nguyệt . Từ ngoài nhìn qua hồ bán nguyệt, ta thấy có 3 lối vào đình: cổng chính giữa và hai cổng hai bên. Trên mặt chính của hai cột trụ cao to, phía trên cùng làm theo kiểu đèn lồng bốn mặt, có câu đối bằng chữ Hán: “Thực thực kì đình tây vọng tượng sơn tác đối; Hoàng hoàng uy liệt đông lưu đằng thủy câu tuyên”. Nghĩa: “Lộng lẫy miếu đình hướng Tây nhìn về phía núi Voi; Oai nghiêm sông nước hướng Đông vang tiếng sóng Bạch Đằng”. Đôi câu đối như muốn khẳng định đây là một công trình gắn liền với lịch sử [16, 31 ]. Đình Hàng Kênh là ngôi đình tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc độc đáo với mái đình cong như hình chiếc thuyền. Nhìn từ ngoài vào, ta có cảm giác như mái đình rất thấp nhưng khi vào đến bên trong thì trần đình lại rất cao. Mái đình lợp ngói mũi hài, bờ nóc đắp nổi hình lưỡng long chầu nguyệt, đao đình cong vút với hình ảnh rồng chầu phượng mớm. Đây đều là những mảng trang trí tiêu biểu cho kiến trúc của ngôi đình cổ. Những tinh hoa, giá trị nghệ thuật kiến trúc chủ yếu tập trung ở tòa đại đình, bao gồm 5 gian 2 chái, bộ vì nóc kết cấu theo kiểu biến thể “Chồng rường – giá chiêng”. Nguyên liệu chính là gỗ lim to, cao, tạo bộ khung chịu lực. Đình Hàng Kênh là một trong số rất ít ngôi đình cổ còn giữ được ván sàn lát gỗ kiểu nhà sàn cổ truyền thống, theo thức ván thuyền, gian giữa là lòng thuyền không lát, hai bên lát ván sàn. Người ta đã phải sử dụng 20m3 gỗ lim to để lát sàn cho đình. Cho đến nay chỉ có đình hàng kênh và đình Đình Bảng (Bắc Ninh) còn giữ được kiểu kiến trúc ván sàn cổ này. Ngoài vẻ đẹp kiến trúc ra, đình Hàng Kênh còn có giá trị to lớn về nghệ thuật điêu khắc gỗ, đá. Chỉ riêng tòa Đại Đình cũng có hơn 400 con rồng được chạm Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 39
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. khắc nổi trên gỗ, không con nào giống con nào. Chỉ tính riêng lối vào gian giữa và mặt tiền hậu cung đã có tới 186 con rồng quấn quýt với mây, hoa lá cách điệu sinh động. Ngay từ ngoài hiên đã có tới 112 con rồng được chạm nổi trên các tấm ván dưới chân những chấn song đình. Đấy là chưa kể đến các đầu bảy đều có chạm khắc những con rồng sinh động khác nhau. Đi trong lòng đình như đi vào một thế giới rồng mây, hoa lá hết sức sôi động và kì thú, tạo nên đặc trưng riêng của ngôi đình Hàng Kênh. Đình Hàng Kênh thờ đức Ngô Quyền, người đã làm nên trận thắng trên sông Bạch Đằng lịch sử giành lại độc lập tự do cho nước nhà năm 938, và được nhân dân tôn thành Thành Hoàng làng. Đình vẫn còn lưu giữ được một số đồ thờ tự cổ như: Bức cuốn thư treo ngay trên cửa võng của gian thờ tự có nội dung: “Đằng ba tẩy nhung” (nghĩa là: Sóng Bạch Đằng quét sạch giặc ngoại xâm), có niên đại cùng với thời gian xây dựng chùa. Ngoài ra còn có các câu đối, bức cuốn thư với nội dung ca ngợi và tự hào với chiến thắng của Ngô Quyền. Trong tòa Đại Đình còn có chiếc kiệu bát cống, có niên đại từ thế kỉ 19, được sử dụng trong những dịp lễ hội. Sở dĩ được gọi là kiệu bát cống vì có 8 người khiêng, 8 người này phải là 8 thanh niên lực lưỡng, chưa lập gia đình mới được khiêng kiệu. Gian hậu cung là gian thờ đức Ngô Quyền, có tượng thờ và hai khúc gỗ trầm hương quý. Gian hậu cung chỉ được mở vào những dịp lễ hội và khi có những nhân vật quan trọng đến thắp hương. Ngoài chức năng thờ cúng và giữ gìn đạo lí trong sáng của người Việt trong cộng đồng làng xã, người dân Hàng Kênh, Dư Hàng mỗi độ xuân về đều tưng bừng mở hội kỉ niệm ngày sinh Ngô Quyền từ 17 tháng Giêng. Theo lệ cổ truyền trước đây tại đình Kênh, dân làng vào hội xuân có tế lễ, hát ả đào, chèo sân đình, múa hạc gỗ, kì lân tú cầu thật nhộn nhịp. Đình Hàng Kênh được Bộ văn hóa ra quyết định công nhận xếp hạng là một công trình kiến trúc nghệ thuật thế kỉ XVIII và là di tích lịch sử thời Ngô Quyền,vào ngày 28/04/1962. Ngày nay, đình đã được tôn tạo, tu bổ ngày càng Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 40
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. đẹp. Đình Hàng Kênh là niềm tự hào của người dân thành phố Cảng là điểm du lịch văn hóa hấp dẫn khách du lịch đến Hải Phòng. Dựa trên việc đánh giá sức hấp dẫn của các di tích lịch sử văn hóa bằng cách cho điểm thì đình Hàng Kênh đạt 88 điểm. Du khách khi đến thăm quan đình cũng giống như đền Nghe và chùa Dư hàng, nhưng tại đình có thêm số đông các nhà nghiên cứu đến nghiên cứu tìm hiểu giá trị kiên trúc đình. Du khách cũng có chung nhận xét vễ sức hấp dẫn của đình giống như đền Nghè và chùa Dư Hàng khi tác giả tiến hành thăm dò ý kiến của họ về mức độ hấp dẫn của đình. 2.1.2.4. Nhà hát thành phố: Nhà hát thành phố hay còn gọi là Nhà hát lớn và đây là nhà hát có quy mô bề thế nhất Hải Phòng, tọa lạc ở khu chính trung tâm nội thành, tiếp điểm của khu người Âu, khu người Hoa, khu người Việt theo quy hoạch đô thị của chính quyền đô hộ. Ngoài mục đích là nơi sinh hoạt văn hóa, truyền bá văn hóa cho người Pháp, quan lại và nhà giàu bản xứ có thế lực ở Hải Phòng. Nhà hát còn có vai trò phô trương thanh thế của nền kiến trúc Châu Âu. Diện tích xây dựng và khuôn viên Nhà hát lớn vốn là nền chợ của làng An Biên ra ngoài Liêm Khê. Năm 1900 chính quyền Pháp bắt chuyển chợ đi nơi khác, khu nền chợ cao ráo rộng rãi đã được chọn làm địa điểm xây nhà hát “Tây” theo cách gọi dân gian lúc ấy. Nhà hát lớn đã được thiết kế bởi một kiến trúc sư người Pháp nổi tiếng, người đã thiết kế nhà hát Hà Nội, có kiểu cách theo mẫu của các nhà nước chính quốc thời trung cổ, toàn bộ số ghế dành cho quan đầu tỉnh, cho khách danh dự bên phải, bên trái sân khấu là phòng trang điểm; phòng nghỉ của diễn viên nhạc công, phía sau có phòng khách lịch sự. Tiền sảnh rộng để đón khách có thể trưng bày tranh ảnh, triển lãm nhỏ, hai bên tiền sảnh là hai phòng dùng làm nơi bán vé và căngtin. Hành lang rộng và chạy suốt nhà hát cả hai tầng trên dưới. Ngoài cửa sổ kính chớp phía trong hành lang có cửa đệm bọc da để cách âm. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 41
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Trần Nhà hát hình vòm tạo tiếng vang và làm tôn chiều cáo của nhà hát, vòm trần vẽ những lẵng hoa trang trí, có ghi tên các nhác sĩ, kịch sĩ Châu Âu lừng danh như: Mozand, Befthoven, Moliete, Cotrelle Nhà hát được khởi công xây dựng từ năm 1904 đến năm 1912 mới hoàn thành vì phải xử lí nền móng và toàn bộ nguyên vật liệu phải chuyển từ Pháp sang, chỉ đạo, kiểm tra, thi công xây dựng do kĩ sư, kiến trúc sư người Pháp, còn thợ thầu khoán người Việt tuyển chọn. Nhà hát được xây dựng cho các đoàn kịch, nhạc công Pháp và Châu Âu đến lưu diễn. Nhà hát cũng được dùng làm nơi tổ chức những ngày lễ quan trọng của Pháp. Trước Nhà hát có sân và vườn rộng 5400m được gọi chung là quảng trường nhà hát thành phố, thời ấy có tên là “Place theatr maniciplace”. Trên sàn phía trong có 2 cột đèn quay theo kiểu cổ Tây Âu, trên đỉnh cột đèn được làm bằng hợp kim có họa tiết hoa văn trang trí xung quanh. Đến năm 1985 mới dỡ bỏ 2 cột đèn cũ thay bằng cột xi măng và đặt đèn ống huỳnh quang như hiện nay. Năm 2005 Nhà hát được tu sửa lại nhưng vẫn giữ nguyên kiến trúc cũ. Nhà hát cao tầng có 100 cửa ra vào và cửa sổ, có hành lang, tiền sảnh có sân khấu với khán trường 400 ghế. Quảng trường Nhà hát là nơi dân chúng hội họp nhân dịp lễ Tết. Nét đẹp bên trong Nhà hát được tôn lên nhờ phong cách kiến trúc của nền văn minh Pháp thế kỉ XIX. Nét đẹp bên ngoài nhà hát thể hiện sự phát triển của một xã hội hiện đại. Có quảng trường rộng, trước mặt là vườn hoa, có đài phun nước màu nghệ thuật, những đèn hoa lung linh sắc màu dải trên những nhành phượng vĩ. Sự kết hợp hài hòa giữa hiện đại và cổ kính tạo nên một Nhà hát đẹp, ấn tượng, quyến rũ với khách tham quan. Dải công viên trung tâm thành phố là đại điểm du lịch hấp dẫn. Nơi đây có thể chiêm ngưỡng nét cổ kính của nhà hát thành phố, sự thanh lịch, tươi trẻ của quán hoa, ngắm những đường vòng uốn lượn của vòi phun nước nghệ thuật, thả bộ cùng sự tĩnh lặng của sông Tam Bạc. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 42
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Tất cả những điều đó đã tạo cho Hải Phòng một nét đẹp riêng mà không thành phố nào có được. Như có người đã từng nói đến thành phố hoa phượng đỏ là để tìm cho mình một khoảng trời riêng bình yên của tâm hồn. Với nét kiến trúc kiểu Pháp thời trung cổ Nhà hát thành phố đạt 89 điểm trong thang điểm đánh giá sức hấp dẫn của các di tích lịch sử văn hóa, và là điểm du lịch khá hấp dẫn du khách tới tham quan. Khách nội địa đến tham quan Nhà hát lón thành phố chủ yếu là học sinh, sinh viên, hay là khách theo tour với mục đích tìm hiểu hay là các chuyến đi thực tế do nhà trường tổ chức. Khách quốc tế đến đây nhiều nhất trong các điểm du lịch tại nội thành Hải Phòng, và chủ yếu là khách Anh và Pháp. 60% khách quốc tế nhận xét Nhà hát thành phố là điểm du lịch hấp dẫn, 10 % là rất hấp dẫn, 30% là bình thường. Khách nội địa thì 50% là hấp dẫn, 20% rất hấp dẫn, và 20% là bình thường, còn lại là không hấp dẫn. Như vậy, Nhà hát thành phố có sức hấp du khách quốc tế nhiều hơn khách nội địa. 2.1.2.5. Quán hoa: Quán hoa được xây dựng vào cuối năm 1944 dùng để bán hoa. Quán hoa đẹp không chỉ bởi ở đây bày bán những bông hoa rực rỡ đủ sức màu mà còn đẹp bởi một công trình kiến trúc mang đậm tính Á Đông. Nằm ngay cạnh quảng trường Nhà hát thành phố có một quán hoa xinh xắn, gồm 5 quán hoa nhỏ, mái cong, ngói vẩy được chống bởi 4 cột trần màu đỏ mang đậm nét kiến trúc phương Đông. Quán hoa ẩn mình dưới tán lá xanh, màu hoa phượng đỏ của hàng cây phượng vĩ mang vẻ đẹp dịu dàng như chính vẻ đẹp truyền thống của Hải Phòng. Lịch sử ghi lại rằng: tại cuộc thi thiết kế mẫu do quan đốc người Pháp khởi xướng để chọn xây dựng một quán hoa của Hải Phòng, có rất nhiều mẫu dự thi, với nhiều trường phái kiến trúc khác nhau, nhưng mẫu được chọn là do một người Á Đông thiết kế. Dựa trên bản vẽ thi công xây dựng quán hoa trong bối cảnh rất đặc biệt: kết hợp phương pháp truyền thống cung đình các bộ phận được làm ở các nơi khác nhau Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 43
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. rồi đem về Hải Phòng lắp ráp, sau một đêm công trình đã hoàn tất đem lại sự ngỡ ngàng cho viên đốc lý và cho nhân dân Hải Phòng. Quán hoa nằm ngay cạnh Nhà hát lớn nên những du khách đến thăm Nhà hát thường ghé thăm Quán hoa, chính vì vậy mà khi tác giả tiến hành điều tra xã hội học thì cũng thu được những kết quả giống như Nhà hát thành phố. Và số điểm mà Quán hoa đạt được trong việc đánh giá dựa trên thang điểm là 80 điểm. 2.1.2.6. Bảo tàng thành phố Hải Phòng: Bảo tàng thành phố Hải Phòng từ khi xây dựng và phát triển đã từng là một trong những trung tâm văn hóa hấp dẫn nhiều đối tượng đến tham quan, học tập, nghiên cứu, vui chơi, Bảo tàng Hải Phòng là bảo tàng mang tính thành phố ra đời sớm nhất nước ta. Năm 1919, Bảo tàng Hải Phòng được xây dựng, đây là một công trình kiến trúc đẹp thiết kế theo kiểu gô – tích. Du khách đến tham quan Bảo tàng Hải Phòng được thưởng thức không chỉ vẻ đẹp bên ngoài với những vòm mái khung nhà mà còn được chiêm ngưỡng phòng trưng bày giới thiệu về thành phố Hải Phòng theo từng chủ đề: Thiên nhiên và tài nguyên tự nhiên của Hải Phòng; Hải Phòng từ thời tiền sử đến chiến thắng Bạch Đằng năm 938; Hải Phòng từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV; Hải Phòng đô thị cảng biển của cả nước (1874, 1888, 1930) phong trào yêu nước và cách mạng Hải Phòng từ cuối thế kỉ XIX – Cách mạng tháng Tám năm 1945; Hải Phòng 30 năm kháng chiến chông ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1945 – 1975), thành phố Hải Phòng trong thời kì thống nhất đất nước và đổi mới (1975 đến nay), bản sắc văn hóa truyền thống Hải Phòng; Hải Phòng trong lòng bạn bè năm châu. Bảo tàng Hải Phòng còn là nơi trưng bày các đồ gốm, sứ cổ và hiện đại cùng với tranh, tượng cổ hoặc mới sáng tác có nhiều giá trị thẩm mĩ, trong khuôn viên Bảo tàng còn trưng bày súng thần công, bia kí máy bay MIC 17 và chiếc tàu phá lôi của hải quân nhân dân Việt Nam. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 44
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Trong Bảo tàng có 17 phòng trưng bày cố định nhưng đã giới thiệu một cách khái quát về thiên nhiên, lịch sử văn hóa xã hội của thành phố Hải Phòng. Bên cạnh đó, Bảo tàng Hải Phòng còn có nhiều phần trưng bày chuyên đề nhằm giới thiệu với nhân dân thành phố một số đề tài của TW và tỉnh bạn, giúp người xem hiểu rõ hơn về truyền thống lịch sử văn hóa, truyền thống cách mạng của dân tộc Việt Nam. Trong những năm gần đây Bảo tàng Hải Phòng phối kết hợp với các bảo tàng TW và địa phương: Bảo tàng cách mạng Việt Nam, Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Bảo tàng quân đội, Bảo tàng lịch sử Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh trưng bày một số chuyên đề với các bộ sưu tập độc đáo, đặc sắc đã thu hút nhiều nhà khoa học, đông đảo quần chúng nhân dân và các em học sinh đến tham quan, nghiên cứu, học tập, đem lại cho người xem những kiến thức bổ ích lí thú . Bảo tàng thành phố được thành phố Hải Phòng xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố, và trở thành biểu tượnng cho thành phố Hải Phòng. Dựa trên việc đánh giá bằng cách cho điểm thì Bảo tàng thành phố đạt 85 điểm và là điểm du lịch hấp dẫn. Khi tác giả tiến hành thăm dò ý kiến của du khách dựa trên việc xây dựng bảng hỏi thì thu được những kết quả như sau: Khách quốc tế 50% cho là hấp dẫn, 10% là rất hấp dẫn, 30% là bình thưòng và 10% cho là không hấp dẫn. Khách nội địa thì 60% hấp dẫn, 10% rấy hấp dẫn, 30% cho là bình thường. Như vậy, dựa trên việc cho điểm và qua cảm nhận của du khách thì Bảo tàng Hải Phòng đã thu hút được khách du lịch nội địa và cả quốc tế. 2.2. Đánh giá sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch tại các di tích lịch sử văn hóa ở nội thành Hải Phòng: 2.2.1. Đánh giá sức hấp dẫn của các di tích lịch sử văn hóa ở nội thành Hải Phòng ở vị trí trung tâm: Một nhà thơ Hà Nội có những năm tháng gắn bó sâu sắc với đất Cảng đã viết về 1 công trình kiến trúc: “Làn mi cong ẩm ướt đón tôi về ” Đọc câu thơ tình Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 45
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. cảm đầy quyến rũ này dành tặng cho Quán Hoa Hải Phòng, lòng tôi trào lên cảm xúc bồi hồi như vừa ở xa về. Khi ghé thăm Hải Phòng, bạn sẽ được biết đến Hải Phòng với nhiều tên gọi khác nhau, nhưng nếu bạn đến thăm Hải Phòng vào những ngày hè, bạn sẽ nhớ đến cái tên – thành phố hoa phượng đỏ. Và khi đi dưới những con đường rợp mát bóng cây với những tán phương rực rỡ, nghe giai điệu của bài hát về sắc hoa rực rỡ này: “tháng 5 rợp trời hoa phượng đỏ, ôi Hải Phòng thành phố quê hương ” ghé thăm những di tích lịch sử trong nội thành, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc cổ, những di tích lịch sử của thành phố Cảng này. Do nằm ngay tại trung tâm thành phố, nên việc đi lại, thăm quan các di tích lịch sử văn hóa và các công trình kiến trúc ở đây rất thuân lợi, ta có thể đi bằng xe ô tô, xe xích lô, hay thậm chí là đi bộ. Trung tâm thành phố Hải Phòng là trung tâm về kinh tế - văn hóa - chính trị - xã hội của người dân Hải Phòng chính vì thế mà được thành phố đầu tư rất nhiều để xây dựng các cơ sở vật chất kĩ thuật, các nhà hàng, khách sạn, giao thông. Đặc biệt nơi đây có rất nhiều khu chợ lớn của Hải Phòng như chợ Tam Bạc (chợ Đổ), chợ Sắt, chợ Ga, bày bán rất nhiều sản phẩm đặc trưng của Hải Phòng, cũng như những đồ gia dụng, du khách đến Hải Phòng có thể đến dây mua sắm và mang về làm quà cho gia đình và người thân. Các nhà hàng lớn, các khách sạn, hầu như cũng đều tập trung ở đây. Vì thế mà việc phục vụ cho du khách về nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ là rất dễ dàng. Bên cạnh đó, khu vui chơi giải trí trong thành phố cũng tương đối nhiều, có gần 50 cơ sở vui chơi giải trí lớn và hàng chục những cơ sở vừa và nhỏ, các cơ sở vui chơi giải trí đang được khách du lịch quan tâm là khu công viên dải trung tâm thành phố, CLB Đất Cảng, CLB vui chơi giải trí khách sạn Hữu Nghị Không những thế chất lượng dịch vụ môi trường tại các khu điểm du lịch ngày nay đã được cải thiện hơn, môi trường trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, chất lượng dịch vụ khách ngày nay đã được nâng cao hơn so với các năm trước, trong đó Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 46
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. yếu tố văn hóa được chú trọng hơn trong cơ cấu các sản phẩm du lịch tạo ra sức hấp dẫn đối với du khách. Đến thăm các di tích lịch sử văn hóa ở nội thành Hải Phòng, ngoài những điểm tham quan chính (Chùa Dư Hàng, đình Hàng Kênh, đền Nghè, Nhà hát lớn, Quán Hoa) du khách cũng có thể ghé thăm những điểm du lịch khác của thành phố nằm ngay tai trong nội thành Hải Phòng như: Bảo tàng thành phố - là công trình kiến trúc kiểu gô – tích, một trong những công trình kiến trúc của thời pháp và là biểu tượng của thành phố Hải Phòng. Hay nghé thăm dải công viên thành phố, nơi có những đài phun nước màu nghệ thuật và tượng đài nữ tướng Lê Chân (là một trong hai bức tượng bằng đồng lớn nhất Việt Nam), dạo chơi trong vườn hoa Nguyễn Văn Trỗi, và thả bộ trên phố Quang Trung ngắm nhìn dòng sông Tam Bạc. Du khách đến với Hải Phòng sẽ không cảm thấy nhàm chán khi ghé thăm thành phố bởi chúng ta có thể kết hợp việc thăm quan, chiêm ngưỡng nhữnh giá trị văn hóa lịch sử tại các công trình kiến trúc với thăm quan nghỉ mát vì trung tâm thành phố cách khu du lịch Đồ Sơn có hơn 20 km, với phương tiện ô tô, du khách có thể dễ dàng đến tắm biển và thưởng thức hải sản tại khu du lịch Đồ Sơn, hay từ đó có thể lên tàu đi thăm quan đảo Hòn Dáu và khu dự trữ sinh quyển Cát Bà. Như vậy với vị trí trung tâm, có rất nhiều thuận lợi cho việc phát triển du lịch như: hệ thống giao thông cơ sở lưu trí, nhà hàng, khu vui chơi giải trí chính vì thế mà các di tích lịch sử ở Hải Phòng được đưa vào khai thác, phục vụ cho phát triển du lịch thì sức hấp dẫn nổi trội của các di tích nay so với các di tích khác trong cả thành phố nói chung là ở vị trí trung tâm của nó. 2.2.2. Đánh giá sức hấp dẫn về cảnh quan của các di tích lịch sử văn hóa tại nội thành Hải Phòng với khách du lịch: Tuy nằm gọn trong trung tâm thành phố nhưng các di tích lịch sử văn hóa vẫn mang nét đẹp riêng của nó, mỗi công trình mang một nét đẹp độc đáo, có những giá trị nổi bật riêng mà không công trình nào giống công trình nào. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 47
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Đến thăm các di tích lịch sử văn hóa này, ngoài việc nghiên cứu tìm hiểu giá trị lịch sử, văn hóa của chúng, du khách cũng được thưởng thức những sinh hoạt văn hóa tinh thần, trong sinh hoạt hàng ngày của người dân Hải Phòng. Nếu điểm thăm quan đầu tiên của du khách là Bảo tàng lịch sử Hải Phòng, Bảo tàng lịch sử Hải Phòng nằm ngay tại trung tâm thành phố. Đây là một tòa nhà có kiến trúc go – tich được xây dựng năm 1919 trên diện tích gần một ha. Bao quanh nơi đây là hàng rào mô phỏng một loai vũ khí của các hiệp sĩ thời trung cổ. Bảo tàng Hải Phòng như một cuốn sách lịch sử lớn, với những mô hình, hiện vật trưng bày khái quát lịch sử hình thành, phát triển về vùng đất, con người và văn hóa Hải Phòng. Gần ngay Bảo tàng thành phố là Nhà hát lớn, tại đây du khách sẽ được chiêm ngưỡng một công trình kiến trúc nghệ thuật, với bản vẽ, thiết kế, nguyên vât liệu xây dựng đều mang từ Pháp sang. Kiến trúc của Nhà hát là kiến túc mô phỏng theo các nhà hát Opera ở Pháp thời trung cổ. Nhà hát thành phố ngoài giá trị là nơi diễn ra các sinh hoạt văn hóa nhân dịp kỉ niệm sự kiện lớn của thành phố, của đất nước. Cùng với Bảo tàng thành phố Nhà hát lớn là một trong hai kiến trúc cổ của thành phố, là biểu tựơng cho Hải Phòng, biểu tượng cho sự lớn mạnh, phát triển, của thành phố, đồng thời là biểu tượng cho trung tâm chính trị lớn nhất của thành phố. Du khách không chỉ thấy được giá trị nghệ thuật của nhà hát thành phố, mà tại đây du khách còn du khách còn được chiêm ngưỡng đài phun nước nghệ thuật – công trình nghệ thuật xây dựng ba đài phun nước nghệ nghuật tại dải công viên trung tâm thành phố là công trình chào mừng kỉ niệm 50 năm giải phóng Hải Phòng (13/05/1955 – 13/05/2005). Đặc biệt khi du khách đến thăm quan nơi này vào buổi tối thì du khách sẽ được thưởng thức những vũ điệu nghệ thuật của 3 đài phun nước này. Nhờ có hệ thống đài phun nước màu nghệ thuật được nằm ngay tại trung tâm văn hóa của thành phố đã làm tôn lên vẻ đẹp của một thành phố đang trên đà phát triển. Nằm ngay cạnh đài phun nước nghệ thuật, đó là 5 Quán Hoa xây dựng liền nhau mang phong cách kiến trúc của mái đình Việt, 5 quán hoa nhỏ mang phong cách phương Đông lại rất hòa hợp về mặt mỹ quan Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 48
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. với quần thể kiến trúc đô thị phương Tây do người Pháp quy hoạch cũ và cột cờ, bể phun nước do nhân dân Hải Phòng mới xây dựng càng làm tăng thêm giá trị độc đáo đặc sắc của công trình này. Bởi vậy mà ngay từ khi xây dựng đến nay Quán Hoa luôn trở thành biểu tượng kiến trúc của thành phố, cuốn hút, hấp dẫn du lịch đến thăm quan. Bên cạnh đó dải công viên trung tâm thành phố là địa điểm du lịch hấp dẫn. Tại đây, du khách có thể vừa dạo chơi vừa chiêm ngưỡng nết cổ kính của nhà hát thành phố, sự thanh lịch tươi trẻ của Quán Hoa, ngắm những đường vòng uốn lượn của đài phun nước nghệ thuật, thả bộ cùng sự tĩnh lặng của hồ Tam Bạc. Trong dải công viên thành phố, tượng nữ tướng Lê Chân đặt uy nghi trước cửa triển lãm. Tượng được đúc bằng đồng cao 7,4 m, cả bệ cao 10,09 m, riêng lông chim trên đầu cao 0.7 m, nặng 19 tấn, là một trong những bức tượng nặng nhất Việt Nam. Tượng nữ tướng Lê Chân, là vóc dáng của của một nữ tướng có công lớn trong việc khai lập làng An Biên xưa và cùng với Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Với khuôn mặt đôn hậu, trẻ trung đứng nhìn ra biển Đông, dáng hiên ngang vững trãi tay cầm đôi kiếm như đang quan sát để chuẩn bị kế hoạch chống giặc, dựng ấp. Từ tượng đài đó qua đường Nguyễn Đức Cảnh, ngược đường Mê Linh khoảng 100m là đền thờ nữ tướng Lê Chân, với tên gọi đền Nghè tức Am Biên Cổ Miếu, và trong tâm thức của mọi người thì bà là “Tiền tổ khai canh” và “Thánh mẫu”, đồng thời là Thành Hoàng của đất Cảng thân yêu. Ghé thăm đền Nghè ngoài việc chiêm ngưỡng những giá trị kiến trúc của ngôi đền, du khách còn được lôi cuốn vào một nếp sống sinh hoạt cổ phong lành mạnh của người dân Hải Phòng. Vì hệ thống thờ tự đền Nghè được xếp vào hàng chuẩn mực trong nghi thức tín ngưỡng. Điều đặc biệt mà chỉ riêng đền Nghè mới có là lệ đi hái lộc đầu năm của người Hải Phòng vào đêm giao thừa, với mong muốn được may mắn quanh năm. Khi du khách tới thăm đền Nghè du khách sẽ được chiêm ngưỡng một công trình kiến trúc cổ, thưởng thức một không gian thanh tịnh và hiểu rõ hơn về nữ tướng Lê Chân. Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 49
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Một trong những điểm du lịch không thể thiếu được trong chuyến thăm quan các di tích lịch sử ở nội thành Hải Phòng đó chính là chùa Dư Hàng, một ngôi chùa cổ có từ thời Tiền Lê. Đến với chùa Dư Hàng, du khách không chỉ được thắp hương cung kính lễ phật, tịnh tâm, mà còn được chiêm ngưỡng một kiến trúc độc đáo với quy mô bề thế, với nghệ thuật điêu khắc, mỹ thuật hết sức đặc biệt. Đây là một danh lam thắng cảnh nằm giữa lòng thành phố, là cảnh đẹp không chỉ là của Hải Phòng mà còn là của cả nước. Quả thực nếu đã thăm quan những di tích lịch sử văn hóa của nội thành Hải Phòng mà bỏ qua đình Hàng Kênh thì du khách sẽ ra về với sự tiếc nuối vì đã bỏ qua một ngôi đình tiêu biểu của cho nghệ thuật kiến trúc độc đóa với mái đình cong như hình chiếc thuyền và kiểu ván sàn lát gõ cổ truyền thống, theo thức ván thuyền cũng như các ngôi đình chùa khác của Hải Phòng nói riêng và của Việt Nam nói chung, khi du khách đến đây sẽ được hòa mình vào không gian tĩnh mịch của ngôi đình để quên đi mọi mệt mỏi ưu phiền. Quang cảnh xung quanh của những công trình kiến trúc, di tích lịch sử văn hóa của nội thành Hải Phòng, kết hợp với những nét độc đáo, giá trị lịch sử của chúng đã tạo ra cho các di tích lịch sử văn hóa đó sự hấp dẫn, thu hút được một số lượng không nhỏ các du khách đến thăm quan và tìm hiểu, đồng thời nhiều du khách coi đó là nơi thư giãn, trở về với cội nguồn văn hóa của nguời Việt Nam. Du khách đến thăm quan các di tích lịch sử văn hóa đó vào bất cứ thời điểm nào quanh năm cũng được vì nơi đây luôn sẵn sàng chào đón khách du lịch tới thăm quan và lễ chùa. 2.2.3. Đánh giá sức hấp dẫn của di tích lịch văn hoá nội thành Hải Phòng về giá trị văn hoá lịch sử, cách mạng truyền thống: Theo luật di sản văn hóa thi di tích lịch sử văn hóa được hiểu là “ công trình xây dựng, địa điểm và các di vật quốc gia thuộc công trình địa điểm có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học” (luật di sản văn hoá năm 2001). Các di tích lịch sử văn hoá bao gồm các đình làng, chùa làng, đền, am, miếu, bảo tàng, di tích cáh mạng kháng chiến, nhà thờ Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 50
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. Và theo luật đó thì các di tích lịch sử ở Hải Phòng nói chung và các di tích lịch sử trong nội thành nói riêng cũng mang đầy đủ những giá trị đó. Chùa Dư Hàng là ngôi chùa được xây dựng từ thời Lê, và đến đời Trần các vị sư Tổ trong Thiền phái Trúc Lâm đã sớm có mối quan hệ với chùa, và từ đó đến nay chùa đã có lệ kỉ niệm sinh nhật của các vị sư tổ đó. Chùa còn lưu giữ được những hiện vật cổ có giá trị lịch sử như: quả chuông đồng cỡ lớn, những pho tượng cổ như: bộ tượng Tam thế - toà cửu long – thích ca sơ sinh; hộ thiện trừ ác, bộ tượng “thập điện Minh Vương” ngoài ra còn có các di vật quý giá như chuông khánh, đỉnh đồng, đồ trang trí mĩ thuật bằng gốm, sứ đá xanh, đặc biệt đó là bộ kim sách “ A Hàm”. Bên cạnh những giá trị lịch sử đó chùa còn là điểm sinh hoạt văn hoá tâm linh của nhân dân quận Lê Chân và của cả thành phố Hải Phòng. Lễ hội chùa thường được diễn ra vào dịp đầu xuân hay vào dịp kỉ niệm ngày sinh của vị sư tổ Đệ nhất vào ngày 2/11 âm lịch và vị sư tổ thứ 3 vào này 3/11 âm lịch hàng năm. Trong những năm kháng kiến cứu quốc, chùa là địa điểm nuôi dấu cán bộ, và ủng hộ rất nhiều cho phong trào kháng chiêns cứư quốc. Năm 1962 tại chùa diễn ra sự kiện quan trọng gắn liền với phong trào đấu tranh yêu nước đòi quyền dân sinh dân chủ của tăng ni phật tử cùng đông đảo học sinh, sinh viên, thầy giáo, thợ thuyền lao động, họ đã tập trung tại chùa để làm lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh khi cụ mất tai Sài Gòn. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 hội tăng già cứu quốc của Hải Phòng đã làm lễ ra mắt tại chùa để tổ chức tuần lễ vàng, đồng thời các đoàn thể quần chúng Cách mạng họp bàn việc đốn tiếp chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường từ Pháp trở về Việt Nam. Có nhiều vị tu hành ở chùa đã hăng hái tòng quân cứu nước trong đó có hòa thượng Đinh Quang Lạc đã được chính phủ trao tặng huân chương kháng chiến hạng 3, và chùa được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1986. Ngày nay ngoài việc là một di tích, kiến trúc phật giáo cổ kính, một danh thắng, một di tích cách mạng yêu nước của người Hải Phòng mà chùa còn thường xuyên toả hương sắc trong việc làm từ thiện cứu trợ nhân đạo cho người già, trẻ mồ côi, khám chữa Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 51
- Nghiên cứu sức hấp dẫn của di tích lịch sử văn hoá tại nội thành Hải Phòng với du khách. bệnh không lấy tiền, ủng hộ tiền cho vùng thiên tai lũ lụt, góp phần xoá đói giảm nghèo. Cũng giống như chùa Dư Hàng, đình Hàng Kênh cũnh là ngôi đình cổ, nếu chùa Dư Hàng là tiêu biểu cho chùa làng ở Việt Nam thì đình Dư Hàng là ngôi đình tiêu biểu cho đình làng của người Việt. Ngoài nghệ thuật kiến trúc cổ (sự kết hợp hài hoà giữa kiến trúc thời Kê và thời Nguyễn với bố cục không gian kiểu chữ “công”) và lưu giữ được nhiều di vật cổ: chuông hạc đỉnh đồng, bát hương bằng đồ sứ cổ thì một điểm thu hút nữa của đình với du khách đó là kiểu ván sàn lòng thuyền hiếm có, điều đó đã đưa đình Hàng Kênh trở thành một di sản văn hoá đặc sắc trong các ngôi đình Việt Nam. Những giá trị đó rất thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như khách du lịch khi đặt chân đến đây. Đình Hàng Kênh là nơi ẩn chứa của những giá trị văn hoá của thời Hậu Lê, điều đó được thể hiện qua nghệ thuật điêu khắc và tạo dựng lên đình. Đây là nơi duy nhất của Sở văn hoá - Thể thao đặt phòng nghiệp vụ di tích nhằm phát huy tác dụng bảo tồn. Nơi đây cũng là cơ sở văn hoá vui chơi của nhân dân quanh vùng thể hiện bản sắc văn hoá của người Việt và ý thức cộng đồng trong xã hội. Họ đến để tìm thú vui sau những ngày lao động vất vả, hoà chung với niềm vui của mọi người, để quên đi nỗi buồn của riêng mình, giao lưu với các làng nghề bên để tiếp thu học hỏi những cái tích cực, loại bỏ các tiêu cực theo đúng nghĩa “gạn đục khơi trong” của cha ông để lại. Cứ vào ngày 16 đến ngày 18/2 âm lịch hàng năm đình tổ chức lễ hội, có tế lễ, diễn chèo tuồng, ca trù, chầu văn, cờ tướng, vật,chọi gà rất đông vui và cuốn hút du khách, đăc biệt là khách nước ngoài. Đình được Bộ văn hoá - Thông tin công nhận là di tích lịch sử ngày 28/04/1962. Đến thăm đền Nghè, du khách sẽ nhận thấy đây là một quần thể kiến trúc dân tộc mang phong cách thời Nguyễn, được xây dựng vào những thập kỉ đầu của thế kỉ XX. Đền Nghè thờ nữ tướng Lê Chân - một vị nữ tướng có công khai phá ra làng An Biên và có công trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Về mặt tín ngưỡng thì đây là nơi thờ chính của nữ tướng Lê chân tại Hải Phòng. Đây là tín Sinh viên: Phạm Thị Vân Anh – VH 901 52