Khóa luận Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam-Ảnh hưởng đối với du lịch - Đào Thị Thu Huyền
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam-Ảnh hưởng đối với du lịch - Đào Thị Thu Huyền", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_nhung_tin_nguong_trong_tet_co_truyen_viet_nam_anh.pdf
Nội dung text: Khóa luận Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam-Ảnh hưởng đối với du lịch - Đào Thị Thu Huyền
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tết cổ truyền Việt Nam - Tết Nguyên Đán luôn ở trong tâm thức và theo suốt cuộc đời mỗi con người, từ lúc còn thơ bé háo hức chờ manh áo mới, chờ mừng tuổi ngày tết, đến khi trưởng thành lo thực hiện trọn vẹn nghi lễ tết, và khi về già được an nhàn hưởng tết Tết cổ truyền đã trở thành một mỹ tục của Việt Nam, nó không đơn thuần là thời điểm chuyển giao giữa năm cũ và năm mới hay đơn giản là sự chuyển mùa, hơn thế, Tết mang ý nghĩa tâm linh và nguồn cội, khiến ta sống sâu sắc hơn, gắn bó hơn với quê hương, tiên tổ ; chan hòa hơn trong tình thương mến gia đình, đồng loại; dạt dào hơn trong niềm tin yêu và hy vọng Tuy nhiên, trong thời đại hội nhập và giao lưu văn hóa toàn cầu, nhiều nét đẹp văn hóa của nước ngoài đã được tiếp thu nhanh chóng và dễ dàng trong khi không ít vẻ đẹp văn hóa Việt có nguy cơ bị rơi vào quên lãng hoặc không được hiểu theo một cách đúng nghĩa của nó chẳng hạn như một số tín ngưỡng của Tết cổ truyền dân tộc Trong khi đó, Tết cổ truyền (Tết Nguyên Đán) lại là một thuần phong mỹ tục mang đầy nét văn hóa Việt , đặc trưng riêng của người Việt Nam. Có thể nói rằng Tết cổ truyền đã trở thành nhân tố văn hóa mở trong mỗi con người và để lại biết bao sâu sắc của kỷ niệm. Điều đó mà những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền đã tạo ra những nét mới lạ, độc đáo cho các vị khách trong và ngoài nước. Đây là một sự ảnh hưởng lớn lao đến hoạt động du lịch của Việt Nam, nó tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực trong cuộc sống đặc biệt trong những ngày tết. Cơ hội để thách thức cũng như tự hào cho ngành du lịch Việt Nam, có đầy tiềm năng khi khai thác du lịch. Do vây, tác giả đã chọn đề tài “Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Viêt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch ” với mục đích hệ thống một cách căn bản, đồng thời lưu giữ và truyền bá giá trị văn hóa Tết của dân tộc Việt Nam Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 1
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Trong quá trình viết bài , do còn hạn chế về kiến thức khiến cho bài viết còn mang tích chất sơ lược người viết mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp để khóa luận sẽ hoàn chỉnh hơn. 2. Mục tiêu nghiên cứu. Trình bày những nội dung cơ bản và những đặc điểm quá trình diễn biến của tín ngưỡng trong tết cổ truyền của Việt Nam hiện nay, ảnh hưởng của nó đối với du lịch, đề ra một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của Việt Nam và để nâng cao hiệu quả khai thác du lịch trong Tết cổ truyền Việt Nam. 3. Ý nghĩa của đề tài. Hệ thống kiến thức một cách căn bản, lưu giữ và truyền bá giá trị văn hóa Tết của dân tộc Việt Nam qua đó đưa ra những biện pháp mang hiệu quả cao góp phần vào sự phát triển của ngành du lịch Viêt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. - Điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu: Đây là phương pháp nghiên cứu địa lý truyền thống để khảo sát thực tế, trên cơ sở đó áp dụng việc nghiên cứu lý luận gắn liền với thực tiễn để bổ sung cho lý luận ngày càng hoàn chỉnh. Qua khảo sát còn cho phép thu thập được nguồn tài liệu quý giá phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Từ đó có những nhận xét, đánh giá ban đầu để đưa ra một số đề xuất nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, nhằm bảo tồn và phát huy bán sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của Việt Nam. - Phương pháp thống kê và phân tích - Phương pháp so sánh đối chiếu 5. Đối tƣợng nghiên cứu - Những tín ngưỡng đặc trưng trong dịp Tết Nguyên Đán của Việt Nam - Ảnh hưởng của những tín ngưỡng đó đối với khách du lịch 6. Phạm vi nghiên cứu. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 2
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch - Thống kê những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền ở Việt Nam. - Các nhân tố của tín ngưỡng ảnh hưởng đến du lịch trong dịp Tết cổ truyền ở Việt Nam 7. Dự kiến những kết quả nghiên cứu của đề tài - Đóng góp về mặt khoa hoc, phục vụ công tác đào tạo: Có giá trị như một tài liệu tham khảo dành cho sinh viên và những người yêu thích có mong muốn tìm hiểu sâu thêm về Tết cổ truyền của người Việt. - Những đóng góp liên quan đến phát triển kinh tế: Thông qua những nhận xét về ảnh hưởng của tín ngưỡng đối với du lịch trong dịp Tết Nguyên Đán, người viết mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm hạn chế và phát huy những ảnh hưởng đó nhằm góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển. - Những đóng góp về mặt xã hội: Góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của Việt Nam. 8. Bố cục của khóa luận. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của tiểu luận được kết cấu làm ba chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận về tín ngưỡng - Chương 2: Những tín ngưỡng trong tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch. - Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác du lịch trong Tết cổ truyền Việt Nam . Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 3
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƢỠNG 1.1. Tín ngƣỡng là gi? Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng chỉ là một trạng thái tâm lý, đó là lòng tin, sự ngưỡng mộ vào một lực lượng siêu nhiên thần bí, lực lượng siêu nhiên đó có thể mang hình thức biểu tượng : Trời, Phật, thần thánh hay một sức mạnh hư ảo, huyền bí, vô hình tác động đến đời sống tâm linh con người được người ta tin là có thật và tôn thờ. Tín ngưỡng chỉ là một bộ phận của tôn giáo. Tín ngưỡng Việt Nam còn gọi là tín ngưỡng truyền thống hay tín ngưỡng dân gian, là tín ngưỡng của các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, khái niệm tín ngưỡng được hiểu theo các hướng khác nhau nhưng đều thống nhất rằng, tín ngưỡng là sự ngưỡng mộ, tin tưởng của con người vào các lực lượng siêu nhiên, hư ảo, có tính chất thiêng liêng huyền bí. Trong tác phẩm “Văn hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt”, Nguyễn Đăng Duy viết: “ Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào lực lượng siêu nhiên, thần bí hoặc do con người tưởng tượng ra những vị thần linh đến mức họ cho rằng những lực lượng ấy có ảnh hưởng, chi phối đời sống, số phận của con người và gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng ấy” Tác giả Đặng Nghiêm Vạn cho rằng : “ Trong tín ngưỡng phải có yếu tố thiêng liêng liên quân đến một thế giới vô hình, đến những siêu linh mà chính con người tưởng tượng và sáng tạo ra nó” ( Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam) Tác giả M.Scott viết: “ Chúng ta dường như có xu hướng định nghĩa hai chữ tín ngưỡng một cách quá hạn hẹp. Ta thường chỉ coi rằng tín ngưỡng phải gắn liền với một niềm tin nào đó vào Thượng đế, hoặc phải gắn liền với một số Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 4
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch thực hành nghi lễ, hoặc phải là thành viên trong một cộng đồng phụng sự” ( Con đường chẳng mấy ai đi, tập 2). Theo ông, tín ngưỡng chính là sự cảm nhận của con người về thế giới mà họ đang sống, về cuộc sống xung quanh họ và về vị trí của bản thân họ trong thế giới đó. Trong đời sống thường ngày, khi đề cập đến tín ngưỡng người ta thường liên tưởng đến những hiện tượng xã hội có tính chất linh thiêng, thần bí, thể hiện niềm tin về một thế giới vô hình, về cuộc sống sau khi chết, về sự tồn tại của linh hồn người chết và sự tác động của lực lượng này đối với cuộc sống hiện tại của con người. Hiện tượng này gắn liền với các phong tục, thói quen, truyền thống của một cộng đồng người hay một dân tộc, nó phản ánh nếp sống, cung cách ứng xử của con người cũng như phản ánh lịch sử phát triển văn hóa của cộng đồng dân tộc đó. Dưới góc độ tâm lý học, tín ngưỡng là một hiện tượng tâm lý – xã hội biểu hiện niềm tin của một cộng đồng người nhất định về thế giới vô hình, về lực lượng siêu nhiên và năng lực chi phối của lực lượng này đối với cuộc sống của con người thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng; quá trình hình thành và phát triển tín ngưỡng gắn liền với lịch sử phát triển của cộng đồng nên nó phản ánh cuộc sống thực tế của cộng đồng người đó. 1.2. Đặc điểm của tín ngƣỡng Tín ngưỡng Việt Nam giống như các bộ phận khác của văn hóa Việt Nam đề mang những đặc trưng của văn hóa nông nghiệp đó là: - Tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên: Thể hiện ở tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. - Hài hòa âm dương: thể hiện ở các đối tượng thờ cúng: Trời – Đất, Tiên – Rồng, ông đồng – bà đồng - Đề cao phụ nữ: Thể hiện ở rất nhiều nữ thần như các Mẫu Tam phủ ( Bà Trời – Đất – Nước), Mẫu Tứ phủ (Bà Mây – Mưa – Sấm – Chớp) Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 5
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch - Tính tổng hợp và linh hoạt và hệ quả là tôn giáo đa thần chứ không phải độc thần như trong nhiều tôn giáo khác. 1.3. Điểm khác biệt giữa tôn giáo và tín ngƣỡng. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian nhiều hơn tôn giáo, tín ngưỡng có tổ chức không chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm chung còn tôn giáo thì thường là không mang tính dân gian. Tín ngưỡng không có một hệ thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo. Cơ sở của mọi tôn giáo, tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào những cái "siêu nhiên" (hay nói gọn lại là "cái thiêng") - cái đối lập với cái "trần tục", cái hiện hữu mà con người có thể sờ mó, quan sát được. Niềm tin vào "cái thiêng" thuộc về bản chất con người, nó ra đời và tồn tại, phát triển cùng với con người và loài người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống như đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm Tùy theo hoàn cảnh, trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi dân tộc, địa phương, quốc gia mà niềm tin vào "cái thiêng" thể hiện ra các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng cụ thể khác nhau. Chẳng hạn như niềm tin vào Đức Chúa, Đức Mẹ Đồng Trinh của Kito giáo, niềm tin vào Đức Phật của Phật giáo, niềm tin vào Thánh, Thần của tín ngưỡng Thành Hoàng, Đạo thờ Mẫu Các hình thức tôn giáo tín ngưỡng này dù rộng hẹp khác nhau, dù phổ quát toàn thế giới hay là đặc thù cho mỗi dân tộc thì cũng đều là một thực thể biểu hiện niềm tin vào cái thiêng chung của con người mà thôi. Hiện tại, có nhiều ý kiến khác nhau khi sử dụng khái niệm "tôn giáo" và "tín ngưỡng". Theo quan điểm truyền thống, người ta có ý thức phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng, thường coi tín ngưỡng ở trình độ phát triển thấp hơn so với tôn giáo. Loại quan điểm thứ hai là đồng nhất giữa tôn giáo và tín ngưỡng và Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 6
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch đều gọi chung là tôn giáo, tuy có phân biệt tôn giáo dân tộc, tôn giáo nguyên thủy, tôn giáo địa phương, tôn giáo thế giới (phổ quát). Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng thể hiện ở một số điểm như: Tôn giáo có hệ thống giáo lý, kinh điển được truyền thụ qua giảng dạy và học tập ở các tu viện, thánh đường, học viện có hệ thống thần điện, có tổ chức giáo hội, hội đoàn chặt chẽ, có nơi thờ cúng riêng như nhà thờ, chùa, thánh đường , nghi lễ thờ cúng chặt chẽ, có sự tách biệt giữa thế giới thần linh và con người. Còn tín ngưỡng thì chưa có hệ thống giáo lý mà chỉ có các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết. Tín ngưỡng mang tính chất dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thế giới thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, chưa thành quy ước chặt chẽ 1.4. Phân loại tín ngƣỡng Việt Nam 1.4.1. Tín ngƣỡng phồn thực Sự tin tưởng, ngưỡng mộ và sùng bái sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người. Tín ngưỡng phồn thực hình thành từ xa xưa trong lịch sử, trên cơ sở tư duy trực quan, cảm tính của cư dân nông nghiệp trước sự sinh sôi để duy trì sự sống của con người, sự sống của cây trồng, vật nuôi. Họ nhìn thấy ở thực tiễn đó một sức mạnh siêu nhiên và sùng bái các hiện vật, các hiện thực đó như thần thánh. Như vậy, bản chất của tín ngưỡng phồn thực là tín ngưỡng cầu sự sinh sôi nảy nở và sự no đủ. Tín ngưỡng phồn thực đã từng tồn tại suốt chiều dài của lịch sử, dưới hai dạng biểu hiện là thờ cơ quan sinh dục nam, nữ được coi là thờ sinh thực khí (sinh là đẻ, thực là nảy nở, khí là công cụ). Đây là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực, nó rất phổ biến ở các nền văn hóa nông nghiệp trên thế giới. Ở Việt Nam việc thờ sinh thực khí được gọi là thờ cúng Nõ Nường (Nõ – tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam, Nường – tượng trưng cho bộ phận sinh dục nữ). Ngoài ra, nó còn có các biến thể của việc thờ cơ quan sinh dục nam và Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 7
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch nữ như: Thờ cột đá tự nhiên, thờ các kẽ đá nứt tự nhiên hoặc tạo các bộ phận của các công trình kiến trúc có hình dáng như bộ phận sinh dục nam, nữ. Ví dụ: Cột đá ở chùa Giạm. Linga và Yony trong các đền tháp Chăm Thờ hành vi giao phối – một dạng tín ngưỡng phồn thực độc đáo. Ở Việt Nam cũng có những biểu tượng của tín ngưỡng này đó là: Tượng bốn đôi nam nữ đang giao hợp được đúc bằng đồng gắn trên nắp thạp đồng Đào Thịnh ( Yên Bái có niên đại 500 năm TCN), tượng cóc giao phối, điệu múa “Tùng – dí” trong các lễ hội làng vùng Trung Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ Vai trò của tín ngưỡng phồn thực lớn tới mức ngay cả chiếc trống đồng, một biểu tượng sức mạnh của quyền lực, cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực - Hình dáng của trống đồng phát triển từ cối giã gạo. - Cách đánh trống theo lối cầm chày dài mà đâm lên mặt trống mô phỏng động tác giã gạo. - Tâm mặt trống là hình mặt trời biểu tượng cho sinh thực khí nam, xung quanh là hình lá có khe rãnh ở giữa biểu trưng cho sinh thực khí nữ. - Xung quanh mặt trống có gắn tượng cóc, một biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực. 1.4.2. Tín ngƣỡng sùng bái tự nhiên Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người. Với người Việt có gốc sống bằng nghề trồng lúa nước thì sự gắn bó với tự nhiên lại càng dài lâu và bền chặt, việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên đã dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực nhận thức là lối tư duy tổng hợp và trong lĩnh vực tín ngưỡng đó là tín ngưỡng đa thần. Chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hậu quả trong quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm trọng nữ, và trong tín ngưỡng là tình trạng nữ thần chiếm ưu thế. Vì vậy tục thờ Mẫu đã trở thành một tín ngưỡng Việt Nam điển hình. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 8
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch 1.4.2.1. Thờ Tam phủ, Tứ phủ Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thánh thần: Bà Trời (hay Mẫu Thượng Thiên), Bà Chúa Thượng (hay Mẫu Thượng Ngàn), Bà Nước (hay Mẫu Thoải). Tứ phủ gồm ba vị Mẫu trên cộng thêm Mẫu Địa phủ. Các Mẫu cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp. Về sau do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công và Hà Bá. Thần Mặt Trời là vị thần quan trọng nhất, có mặt trên tất cả các trống đồng. Việc thờ trời ở Việt Nam có trước ở Trung Quốc. 1.4.2.2. Thờ tứ pháp Tam phủ là danh từ để chỉ các bà thần Mây – Mưa – Sấm – Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp. Sau này khi Phật giáo vào Việt Nam thì nhóm các nữ thần này được biến thành Tứ pháp với truyền thuyết về Man Nương Phật Mẫu. Tứ pháp gồm: - Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu. - Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu. - Pháp Lôi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng. - Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn Ảnh hưởng của Tứ pháp ở Việt Nam rất lớn, nhiều lần triều đình nhà Lý phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long để cầu mưa. *Truyền thuyết về Man Nương: Thuở ấy, trong vùng có một người con gái tên gọi Man Nương, cha mẹ mất sớm, lại nhà rất nghèo, cũng tìm đến chùa để theo học. Man Nương tính tình thật thà, chất phát, lại siêng năng chăm chỉ, nhưng vì có tật nói lắp không tụng kinh được, nên sư Đà La giao cho việc nấu nướng để tiếp đãi các tăng ni đến chùa. Một đêm vào giữa tháng năm, trời khi ấy đã khuya, Man Nương nấu chín nồi cháo đã lâu mà nhà sư và các tăng ni vẫn còn mải mê tụng kinh niệm Phật. Ngồi tựa ở cửa bếp để chờ, vô tình Man Nương ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 9
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Khi tụng kinh xong không thấy Man Nương bưng cháo lên như mọi lần, sư Đà La bèn xuống bếp để xem sự thể thế nào. Thấy Man Nương đã ngủ say, không tiện đánh thức dậy, nhà sư liền né người bước qua để vào lấy cháo. Không ngờ chỉ như vậy thôi, mà Man Nương đã mang thai. Có thai được ba tháng thì Man Nương cảm thấy xấu hổ quá, bèn bỏ chùa ra về. Sư Đà La, sau đó cũng rời đi nơi khác. Mấy tháng sau Man Nương sinh hạ được một mụn con gái, bèn tìm đến nơi nhà sư đang tu hành để trả con lại. Sư Đà La ôm đứa trẻ, cùng Man Nương đi tới cây phù dung ở một ngã ba đường. Đó là một cây cổ thụ, cành lá sum xuê xanh tốt, lại có cái hốc rất to ở phía gần gốc. Đặt đứa trẻ vào trong hốc cây, nhà sư nói: "Này cây, ta gửi con Phật. Ngươi hãy giữ lấy, sau này sẽ được thành Phật". Nhà sư nói xong, thấy miệng hốc cây tự nhiên khép kín ngay lại. Trước khi từ giã Man Nương, sư Đà La bảo nàng hãy tiếp tục đi tu, rồi giao cho một cây trượng mà bảo: "Ta cho nàng vật này. Khi nào trời hạn, đem cắm xuống đất, tự nhiên sẽ có mưa lớn". Man Nương cung kính nhận lời. Từ đó, mỗi khi trời làm hạn hán, Man Nương lại cắm trượng xuống đất, thế là trời lại đổ mưa to. Dân chúng trong vùng thấy vậy, đều rất đỗi vui mừng và cảm phục. Một năm, trời đổ mưa to lại thêm bão lớn, làm cho cây phù dung có đứa bé ở trong, bị đổ. Cây trôi đến bến sông mà phía trên có ngôi chùa sư cụ Man Nương đang trụ trì thì dừng lại, dập dềnh ở bên mép nước. Dân trong làng thấy vậy, bèn cùng nhau mang thừng chão ra buộc vào để kéo cây lên. Nhưng lạ thay, mấy chục người, rồi sau đó mấy trăm người, cùng xúm vào, mà cây vẫn không nhúc nhích. Giữa lúc ấy, sư cụ Man Nương chống gậy từ trong chùa bước ra bến rửa tay. Thấy sự lạ, sư cụ bèn cầm vào một đầu dây kéo thử. Nhưng thật chẳng ngờ, khi sư cụ vừa khẽ chạm tay vào thì cây cũng lập tức chuyển động. Mọi người Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 10
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch vui mừng, nhờ sư cụ kéo hẳn cây lên bờ, trong lòng ai ấy cũng đều thấy vừa ngạc nhiên vừa vô cùng cảm phục. Cho rằng cây phù dung này linh thiêng nên dân làng bàn nhau sẽ cưa ra, để tạc thành tượng thờ.Nhưng khi những người thợ mang dao, cưa đến để phát cành xẻ gỗ, thì dao và cưa đều bị quằn, mẻ, không thể làm gì được. Dân làng lại phải nhờ đến sư cụ Man Nương. Chỉ sau khi sư cụ thắp hương đặt lễ vật, khấn vái, rồi đứng ở đấy chứng kiến, thì tốp thợ mới phát cành và xẻ cây được. Họ cưa thân cây làm bốn khúc, dự định sẽ tạc bốn pho tượng thờ. Nhưng đến đoạn gốc nơi có cái hốc đặt đứa trẻ ngày trước, thì tự nhiên một tảng đá lăn ra. Vì thấy tảng đá làm cho các mũi cưa bị gãy, nên tốp thợ tức quá, hè nhau lấy gáy rìu đập lấy đập để vào, cho hả giận. Lạ thật, tảng đá vẫn trơ ra, còn các gáy rìu, tất cả đều bị quăn queo, méo mó. Biết không thể làm gì được, nhưng vẫn tức, tốp thợ lạ hò nhau bê tảng đá ném xuống sông. Nhưng thật bất ngờ, chỉ vừa chạm mặt nước, thì tảng đá lóe sáng, rồi vừa phát sáng vừa chìm xuống dưới đáy, làm cho cả một khúc sông sáng bừng lên, cùng với những quầng sáng rộng. Tất cả tốp thợ kinh hoàng, thế rồi tự nhiên, không ai bảo ai, cùng lảo đảo, loạng choạng, rồi nhất loạt ngã vật ra đất, bất tỉnh nhân sự. Tình thế thật vô cùng khẩn cấp. Những người được chứng kiến vội vã đi tìm lễ vật, hương đăng, rồi mời sư cụ Man Nương xuống tận nơi khấn vái. Lại thuê cả thợ lặn đến để vớt tảng đá lên. Chỉ đến khi các việc thật xong xuôi, mới thấy tốp thợ dần dần hồi tỉnh lại. Bốn khúc gỗ cắt ở cây phù dung ra, sau đó được tạc thành bốn pho tượng thờ. Lúc ấy nhà sư Đà La hay tin, cũng trở về chứng kiến. Ngài đặt pháp hiệu cho bốn pho tượng là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, ý là để cầu mong cho dân làng yên vui và quanh năm mưa gió thuận hòa, không bị mưa, bão, sấm, sét làm cho thiệt hại. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 11
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Ngài lại bảo đem tảng đá vào đặt bên cạnh các pho tượng đã tạc. Thế rồi,mọi người nhìn thấy, các pho tượng tự nhiên đều sáng bừng lên, hệt như đã được dát bên ngoài bằng vàng, bằng bạc. Sau đó, theo lời dạy của nhà sư Đà La, bốn pho tượng được đưa về bốn ngôi chùa lớn trong vùng, và các ngôi chùa này, từ đấy được mang tên như của bốn pho tượng đã tạc. Riêng tảng đá, được đặt ở chính ngôi chùa có sư cụ Man Nương đang trụ trì, tức là ngôi chùa có bến sông đã vớt được cây phù dung dạo trước. Sư cụ Man Nương còn trụ trì tại ngôi chùa này mấy chục năm nữa rồi mới viên tịch, lúc ở tuổi gần một trăm. Ngày viên tịch là ngày mồng bốn tháng tư (âm lịch), đúng bốn ngày trước lễ Phật đản. Dân chúng trong vùng vừa thương tiếc nhưng cũng vừa kính cẩn, tôn xưng sư cụ là Phật mẫu Man Nương. Danh hiệu "Phật mẫu" này để chỉ, khi sinh thời cụ đã sinh ra đứa trẻ (tảng đá), sau trở thành tiền thân của bốn ngôi chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện trong vùng. Lại nói về bốn ngôi chùa này, từ khi có bốn pho tượng thờ mới, thì càng ngày càng trở nên linh ứng đặc biệt. Những năm lụt lội hay hạn hán kéo dài, dân chúng đến đây kêu cầu, đều thấy luôn luôn ứng nghiệm. Từ đấy, thiện nam tín nữ tìm về ngày mỗi thêm đông. Để tưởng nhớ Phật mẫu Man Nương, nên dân chúng trong vùng lấy ngày mồng bốn tháng tư, ngày sư cụ viên tịch, làm ngày lễ hội của cả bốn ngôi chùa. Hàng năm, cứ đến ngày này, ở các nơi dân chúng lại nô nức tìm về trảy hội, và dùng nước sạch để tắm rửa cho các pho tượng Phật trong chùa. Lâu dần, trở thành phong tục, gọi là hội tắm Phật. 1.4.2.3. Thờ động vật thực vật. Do xuất phát từ nước có gốc nông nghiệp trồng lúa nước nên tín ngưỡng sùng bái giới tự nhiên thể hiện ở việc thờ động vật, thực vật. Khác với văn hóa phương Tây là thờ các con vật có sức mạnh như hổ, sư tử, chim ưng, tín ngưỡng Việt Nam thờ các con vật hiền lành hơn như trâu, Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 12
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch cóc, chim, rắn, cá sấu, các con vật đó gần gũi với cuộc sống của người dân của một xã hội nông nghiệp. Người dân còn đẩy các con vật lên thành mức biểu trưng như Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt thuộc "họ Hồng Bàng" (có nghĩa là một loài chim nước lớn), thuộc giống "Rồng Tiên". Con rồng lần đầu tiên xuất hiện ở vùng Nam Á, sau đó mới được phổ biến ở Trung Quốc rồi đến các nước phương Tây. Con rồng có đầy đủ đặc tính của lối tư duy nông nghiệp: Tổng hợp của cá sấu, rắn; sinh ra ở dưới nước nhưng lại có thể bay lên trời mà không cần cánh; có thể vừa phun nước vừa phun lửa. Có rất nhiều địa danh Việt Nam có tên liên quan đến rồng như Thăng Long, Hàm Rồng, Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa, đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây Đa, Cây Cau, 1.4.3. Tín ngƣỡng sùng bái con ngƣời 1.4.3.1. Hồn và vía Người Việt xưa cho rằng con người gồm phần thể xác và phần linh hồn. Một số dân tộc Đông Nam Á coi linh hồn gồm "hồn" và "vía". Vía được hình dung như phần trung gian giữa thể xác và hồn. Người Việt cho rằng người có ba hồn, nam có bảy vía và nữ có chín vía. Ba hồn gồm: Tinh (sự tinh anh trong nhận thức), Khí (năng lượng làm cho cơ thể hoạt động) và Thần (thần thái của sự sống). Bảy vía ở đàn ông cai quản hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi và miệng. Chín vía ở nữ giới cai quản bảy thứ như ở nam giới cộng thêm hai vía nữa. Hai vía này có nhiều cách giải thích. Chúng có thể là núm vú có vai trò quan trọng trong nuôi con. Tuy nhiên có cách giải thích khác (xem thêm chín vía). Người Việt thường có câu nói nam có "ba hồn bảy vía" còn nữ có "ba hồn chín vía", cũng là từ các quan niệm trên mà ra. Hồn và vía dùng thể xác làm nơi trú ngụ, trường hợp hôn mê ở các mức độ khác nhau được giả thích là vía và hồn rời bỏ thể xác ở các mức độ khác nhau. Nếu phần thần của hồn mà rời khỏi thể xác thì người đó chết. Khi người chết, hồn nhẹ hơn sẽ bay sang kiếp khác còn vía nặng hơn sẽ bay là là mặt đất rồi tiêu Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 13
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch tan. Thế nên mới có những câu ngạn ngữ như: "hồn xiêu phách lạc" (phách tức là vía; ở đây muốn nói trạng thái run sợ, mất chủ động), "sợ đến mức hồn vía lên mây" Khi chết là hồn đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưởng tượng có nhiều sông nước như ở cõi dương gian nên cần phải đi bằng thuyền nên nhiều nơi chôn người chết trong những chiếc thuyền. 1.4.3.2. Tổ tiên Cho đến nay, hiện tượng thờ cúng tổ tiên còn tồn tại ở nhiều quốc gia, dân tộc. Tuy vậy, vị trí và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của con người ở mỗi nơi mỗi khác. Người Việt là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm và sớm nhất, nó gần như trở thành một tôn giáo: Đạo Ông bà. Thà đui mà giữ đạo nhà Còn hơn sáng mắt cha ông không thờ. (Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên) Người phương Tây coi trọng ngày sinh thì người Việt coi trọng ngày mất. Họ cho rằng người đã mất đi về nơi chín suối. Bàn thờ tổ bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng nhất. Ngày xưa khi cúng lễ bao giờ cũng có nước (hoặc rượu) cùng với những đồ tế lễ khác như vàng mã. Sau khi cúng xong thì đem đốt vàng mã rồi đổ rượu hoặc nước lên đống tro tàn - khói bay lên trời, nước hòa với lửa thấm xuống đất - theo họ như thế tổ tiên mới nhận được. Hành động đó được cho là sự hòa quyện Nước - Lửa (âm dương) và Trời - Đất - Nước (tam tài) mang tính triết lý sâu sắc. Ở Việt Nam, đối tượng của thờ cúng tổ tiên được thể hiện ở 3 cấp: Gia đình, làng xã, đất nước. + Ở cấp độ gia đình, người Việt Nam thờ cúng ông bà, cha mẹ, là những người cùng huyết thống đã chết. Đã là người Việt Nam, dù sang hèn, giàu nghèo khác nhau ai cũng thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên của mình. Đây không chỉ là vấn đề tín ngưỡng mà còn là vấn đề đạo lý, phản ánh lòng biết ơn của con cháu Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 14
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch đối với công sinh thành, dưỡng dục của cha me, tổ tiên. Nơi thờ cúng là ở gia đình và nhà thờ họ. + Ở cấp độ làng xã, người Việt còn thờ cúng những người có công với làng xã và được tôn vinh là Thành Hoàng và nơi thờ cúng ở đình làng. + Ở cấp độ nhà nước, người Việt thờ cúng những người có công đối với đất nước, tổ quốc như các Vua Hùng, thánh Gióng, Trần Hưng Đạo, Hồ Chủ Tịch Ở Việt Nam có 3 cộng đồng vốn từ xa xưa đã có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau đó là: gia đình, làng xã và quốc gia. Vì vây, tổ tiên gia đình, lãng xã và đất nước không tác rời nhau. Từ thực tế đó, chúng ta có thể hiểu tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng tâm lý xã hội thể hiện sự biết ơn của người còn sống đối với người đã chết có công lao với cá nhân, gia đình, dòng tộc, làng xã, đất nước, thể hiện niềm tin rằng, tổ tiên có khả năng tác động tới đời sống, số phận của con cháu thông qua các nghi lễ thờ cúng. 1.4.3.3. Thành Hoàng làng “Thành hoàng” là vị thần cai quản, che chở, định đoạt phúc họa cho một cộng đồng người sống trong một đơn vị hành chính. “Thành hoàng” là một từ Hán Việt vốn là một từ chỉ vị thần bảo hộ thành trì của Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam từ thời nhà Đường rồi tiếp tục phát triển trong các triều đại của Việt Nam. Thành hoàng thường được thờ trong Đình, Miếu. Thần điện Thành hoàng trong miếu chỉ là một bệ thờ trên đặt lư hương, đèn, lọ hoa. Còn thần điện bài trí trong đình có phần phức tạp hơn có khám thờ, bên trong đặt bài vị, tượng nhưng đa số chỉ là ngai và áo mũ. Thờ phụng Thành Hoàng tượng trưng cho sự bảo vệ làng xã và mong muốn sự trường tồn của các thôn ấp. Thờ cúng Thành hoàng là biểu hiện của lịch sử, phong tục, đạo đức, pháp luật, đồng thời nó là một thứ quyền uy siêu việt một mối liên lạc vô hình khiến cho làng xóm trở thành một cộng đồng có tổ chức chặt chẽ. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 15
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Trong tâm thức dân gian, đây chính là biểu tượng của sự trường tồn, bất diệt của dân tộc ta, của đất nước ta. Từ thủa xa xưa cho tới ngày nay việc thờ phụng này đã có từ lâu và phổ biến trong ca nước. 1.4.3.4. Vua tổ Đây là một trong những tín ngưỡng thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam. Vua Hùng là vị vua tổ của người Việt, người có công sáng lập nước Văn Lang và mở ra thời đại Hùng Vương trong lịch sử Việt Nam (Từ khoảng thế kỷ thứ VII đến thế kỷ III TCN). Tương truyền vua Hùng (Hùng Vương thứ nhất) là con trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ, cháu đời thứ sáu của Thần Nông. Theo thần thoại, Âu Cơ lấy Lạc Long Quân, sinh ra bọc có trăm trứng, nở thành một trăm con trai. Một nửa theo cha xuống biển, nửa kia theo mẹ lên rừng đến đất Phong Châu (Vùng đất Việt Trì – Phú Thọ ngày nay), mẹ Âu Cơ cùng các con tôn người con trưởng làm vua nước Văn Lang. Mảnh đất Phong Châu – nơi đóng đô của các vua Hùng trở thành vùng đất Tổ và ngày 10 tháng 03 âm lịch hàng năm được lấy làm ngày giỗ Tổ. Để tưởng nhớ công ơn nhân dân ta đã xây đền thờ các vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh (hay còn gọi là núi Hy Cương, núi Hùng Lĩnh, Hùng Sơn) thuộc thôn Cổ Tích – xã Hy Cương – huyện Lâm Thao – tỉnh Phú Thọ. Trên núi Nghĩa LĨnh ngoài đền Hùng, đền Thượng nằm trên đỉnh núi còn có đền Trung nằm ở lưng chừng núi, đền Hạ nằm dưới chân núi. Việc thờ cúng vua Hùng còn mang ý nghĩa thiêng liêng cao cả, hướng về cội nguồn, tưởng nhớ những người có công trong việc tạo lập non sông đất nước, xây dượng cuộc sống ngày nay và để cầu mong tổ tiên phù hộ cho cuộc sống của con cháu. 1.4.3.5. Tứ bất tử Người Việt còn thờ bốn vị thánh bất tử, đó là Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh: Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 16
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch - Tản Viên biểu hiện cho ước vọng chiến thắng thiên tai, lụt lội. - Thánh Gióng biểu hiện cho tinh thần chống giặc ngoại xâm. - Chử Đồng Tử biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về vật chất. - Liễu Hạnh biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về tinh thần của người dân Việt Nam. 1.4.4. Tín ngƣỡng sùng bái thần linh 1.4.4.1. Thổ công Thổ Công là một vị thần được thờ trong gia đình, một dạng của Mẹ Đất, là vị thần trông coi nhà cửa, định đoạt họa phúc cho một gia đình. Sống ở đâu thì có Thổ Công ở đó: "Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá". Một số giả thuyết cho rằng Thổ Công là một trong ba vị Táo Quân xuất hiện trong truyện Sự tích Táo quân (hay Sự tích ba ông đầu rau). Người chồng thứ hai là Thổ Công (trông coi việc bếp núc, còn gọi là vua bếp), người chồng thứ nhất là Thổ Địa (trông coi việc nhà cửa), người vợ là Thổ Kỳ (trông coi việc mua bán, chợ búa cho phụ nữ trong nhà và sản sinh vật ngoài vườn). Tuy nhiên, một số người cho rằng Thổ Công là vị thần cai quản vùng đất còn Táo Quân chỉ coi việc bếp núc trong nhà. Thổ Công được nhiều người tin là vị thần quan trọng nhất trong gia đình. Tổ tiên có công sinh thành dưỡng dục nên được tôn vinh nhất. Bàn thờ tổ tiên ở giữa, vị trí quan trọng nhất, bàn thờ Thổ Công ở bên trái, quan trọng thứ hai. Nhưng khi cúng lễ tổ tiên, người ta đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên về. Ở Nam bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất (đất phải về với đất), nhiều nơi còn gọi Ông Địa là Thần Tài (mọi thứ đều từ đất mà ra). 1.4.4.2. Thần tài. Thần Tài là một vị thần trong tín ngưỡng Việt Nam và một số nước phương Đông. Theo truyền thuyết, thần tài chính là Triệu Công Minh, người đời nhà Tần. Ông lánh đời đi tu tại núi Chung Nam. Về sau đắc đạo, ông được phong làm Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 17
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên Soái, coi việc đuổi trừ ôn dịch, cứu bệnh trừ tà. Hơn nữa, ai bị oan ức đến cầu cứu ông thì được giúp đỡ. Người buôn bán thì cúng cầu ông để được phát đạt may mắn. Người ta thường vẽ ông hình một người mặt đen, râu rậm, tay cầm roi, cưỡi cọp đen. Dân gian còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hay Triệu Công Nguyên Soái. Người đời vẽ ông trên một cái đĩa làm bằng kim loại trên bàn thờ để thờ cúng. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 18
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch CHƢƠNG 2. NHỮNG TÍN NGƢỠNG TRONG TẾT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - ẢNH HƢỞNG ĐỐI VỚI DU LỊCH 2.1. Tổng quan về Tết cổ truyền Việt Nam (Tết Nguyên Đán) 2.1.1. Định nghĩa Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam. Nguyên nghĩa của Tết chính là "tiết". Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao thời") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán Hai chữ "Nguyên Đán" có gốc chữ Hán; "Nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "Đán" là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là "Tiết Nguyên Đán”. Vì Trung Quốc và một số nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc dùng lịch pháp theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên Đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên Đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng). Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 19
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Theo văn hóa học và lễ hội học, Tết Nguyên Đán là một lễ lạt, sinh hoạt văn hóa theo mùa. Vậy Tết Nguyên Đán là một hội lễ nông nghiệp, một nghi thức nông nghiệp. 2.1.2. Nguồn gốc Không gian văn hóa- xã hội của Tết Nguyên Đán là Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản. Cả Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật bản đã có những thời kỳ dài tuyên bố chính thức bỏ cái tết này vì đều sinh hoạt theo lịch mới Âu Tây- gọi là Dương lịch. Ở Việt Nam lẻ tẻ có ý kiến bỏ lịch cổ truyền và bỏ tết nhưng chủ tich Hồ Chí Minh không đồng ý và nhân dân cũng phản ứng dữ dội. Dù đã chính thức dung Dương lịch trong các công sở, cơ quan Nhà nước từ nhiều năm nay nhưng Việt Nam chưa bao giờ bỏ tết. Nhiều nơi ở nước ta, nhất là trong nhân dân đô thị, nhiều nhà đã quên dần tết Hàn thực, tết Cơm mới, tết Đoan ngọ nhưng Tết Nguyên Đán thì không thể quên. Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam là những vùng “ngoại biên” của nền văn minh Trung Hoa và chịu ảnh hưởng đậm đà theo những khía cạnh khác nhau. Một cái tết chung cho cả bốn nước trên đã cho ta cảm nhân rằng tết đó vốn có cội nguồn Trung Hoa. Trong các tộc người của cộng đồng quốc gia Việt Nam, tộc Việt chịu ảnh hưởng Trung Hoa sớm nhất và mạnh nhất và cũng “văn hiến” nhất. Có sự giao thoa văn hóa Việt Hoa - cả cưỡng bức và tự nguyện - qua hơn ngàn năm Băc thuộc, bắt đầu từ hàng thế kỷ trước công nguyên, rõ rệt nhất là từ thời Hán Vũ Đế (111 tr CN). Cái tết như hiện nay bắt đầu khoảng trước công nguyên hơn một trăm năm, từ đời Hán và có cội nguồn đan xen văn hóa Viêt-Hoa. Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 20
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa. Trước năm 1967, Việt Nam lấy giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi lịch dùng múi giờ GMT +7 làm chuẩn. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền bắc ngày 29 tháng 1 trong khi miền nam thì ngày 30 tháng 1) 2.1.3. Những tục lệ chung của ngƣời Việt Nam trong ngày tết. a/ Sửa soạn Trong tuần lễ trước Tết nhiều gia đình đi viếng mộ của người thân, đắp thêm đất, dọn cỏ, thắp nhang khấn mời hương linh người thân về vui tết với gia đình. Ngày 23 tháng 12 âm lịch nhiều nhà làm cơm cúng tạ ơn và tiễn đưa ông Táo về trời. Ông Táo theo truyền thống được ví như là một ông thần ở trong bếp nhà mình suốt năm. Ông nhìn thấy tất cả nết na của mọi người trong gia đình mình và mỗi năm tới ngày này ông bay về trời để tâu trình với Thượng Đế về nết ăn nết ở của gia đình này. Sau khi tiễn ông Táo về trời, là lúc mọi nơi làm tiệc tất niên mừng năm cũ đã qua. Phố phường đã nhộn nhịp với tiếng kèn tiếng trống ca hát mừng xuân. Người đi kẻ chạy, nhộn nhịp mua bán sắm sửa để dành ăn tết vì ba ngày tết tất cả hàng quán chợ búa đều đóng cửa. Từ ngày 25 trở đi nhiều nhà đã bắt đầu gói bánh chưng để cúng tết, đem biếu và để dành ăn mấy ngày đầu năm. Bánh chưng ở ngoài Bắc gói hình vuông thường vào khoảng 17cm mỗi cạnh và dầy 6cm, ở trong Nam gói bánh hình ống. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 21
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Bánh gói bằng lá dong hoặc lá chuối, ở bên trong có lớp gạo nếp bọc lớp đậu xanh nghiền nhuyễn và lớp nhân thịt heo đã ướp hành mắm muối tiêu thơm phức. Bánh chưng thường được ăn chung với dưa hành muối. Vì thế mỗi khi tết đến nhà ai cũng có một lọ dưa hành muối sẵn, ngày nay thì có thể đi mua ngoài chợ. Tết còn không thể thiếu mâm ngũ quả bầy trên bàn thờ. Gọi là mâm ngũ quả nhưng thực chất không có ai quy định phải là các loại quả gì. Mỗi loại quả có màu sắc, hương vị và hình dạng đặc trưng đều có một ý nghĩa nhất định. Mâm ngũ quả dâng cúng tổ tiên thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu và ước mong những điều tốt lành trong gia sự. Người ta thường dùng: chuối (hình nải như bàn tay ngửa thể hiện sự che chở, bao bọc); Phật thủ (giống như bàn tay Phật che chở cho mọi người); Hồng, Quýt (màu sắc sặc sỡ biểu hiện cho sự thành đạt); Bưởi, Dưa hấu (căng tròn thể hiện sự mát lành, tươi tốt); Thanh long (rồng mây gặp hội) b/ Giao thừa Giao thừa là gì? Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới tiếp lấy. Giao thừa là giây phút thiêng liêng nhất, là đúng 12 giờ đêm của ngày cuối cùng trong năm. Khi màn đêm buông xuống, mọi con mắt đều chốc chốc lại hướng nhìn về phía đồng hồ để chờ đợi giao thừa. Chuông nhà thờ đổ dồn dã, tiếng chuông đại hồng bên chùa ngân vang, tiếng trống đình làng vang vọng, tất cả nhộn nhịp báo tin năm mới vừa đến.“Giao” có nghĩa là “cho”, “Thừa” có nghĩa là “nhận”. Giây phút này năm cũ trao ủy nhiệm cuộc sống qua năm mới. Tặng phẩm đất trời được trao truyền sang thế hệ mới. Trước khi trời tối, bàn thờ cúng trời đất để sẵn ngoài lộ thiên và bàn thờ cúng tổ tiên ở trong nhà đã được bầy biện sẵn. Phút giao thừa, người gia chủ mặc quần áo tề chỉnh, thắp hương, hai tay chắp trước ngực khấn lễ mời hương Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 22
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch linh ông bà, tổ tiên về ăn tết với gia đình và phù hộ cho gia đình con cháu gặp mọi điều tốt đẹp, may mắn trong năm mới. Tiếng pháo giao thừa nổ ran mọi nơi, trẻ con reo hò, tiếng nhạc mừng xuân vang lừng báo hiệu phút giây thiêng liêng mầu nhiệm đã đến với tràn trề niềm vui thịnh vượng (mặc dù ngày nay pháo đã bị cấm nhưng vào dịp Tết và giao thừa đây đó vẫn có tiếng pháo nổ). Nhiều gia đình đi chùa lễ Phật đêm giao thừa, theo truyền thống họ thường hái lộc, mang về nhà những nhánh cây có lá non nụ mới, như xin Phật được sự tươi mát cùng phước lành mang về nhà. - Cúng Giao thừa ngoài trời: Theo tục lệ cổ truyền thì Giao thừa được tổ chức nhằm đón các Thiên binh (12 vị Hành khiển). Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành khiển cũ đã cai quản Hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống sẽ cai quản Hạ giới trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau 12 năm thì các vị Hành khiển sẽ luân phiên trở lại. Mâm lễ được sắp bày với lòng thành kính tiễn đưa người Nhà Trời đã cai quản mình năm cũ lên Thiên đình và đón người mới xuống sẽ làm nhiệm vụ cai quản Hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà]. Trên chiếc hương án có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: Chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã. Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa. - Cúng Giao thừa trong nhà: Cúng Giao thừa trong nhà là lễ cúng tổ tiên vào chính thời khắc giao thừa vừa tới, nhằm cầu xin Tổ tiên phù hộ độ trì cho gia đình mình gặp những điều Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 23
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch tốt lành trong năm mới sắp đến. Mâm lễ bao gồm các món ăn mặn ngày Tết được chế biến tinh khiết, trang nghiêm, bao gồm: + Cỗ mặn: Bánh chưng; Giò - chả; Xôi gấc; Thịt gà; Xôi đậu xanh; Các món ăn mặn khác tùy theo nhu cầu của gia đình. + Cỗ ngọt và chay: Hương, hoa, đèn nến; Bánh kẹo; Mứt Tết; Rượu/bia và các loại đồ uống khác. Khi cúng Giao thừa trong nhà, tất cả các thành viên trong gia đình đứng trang nghiêm trước bàn thờ, khấn tổ tiên để xin được các cụ phù hộ độ trì trong nhà mới, cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn Tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái) để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. 2.2. Những tín ngƣỡng trong tết cổ truyền Việt Nam 2.2.1. Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên 2.2.1.1. Những điều kiện hình thành tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam. a/ Điều kiện kinh tế - xã hội: Có thể nói rằng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cùng huyết thống chỉ thực sự ra đời và phát triển trong thời kỳ thị tộc phụ hệ. Sự ra đời của thị tộc phụ hệ là kết quả của sự phân công lao động lần thứ hai giữa trồng trọt, chăn nuôi và thủ công. Trong chế độ phụ quyền, địa vị của người đàn ông được đặt lên hàng đầu, quyền thừa kế tài sản theo dòng họ cha và tiếp nối đến thế hệ sau đã củng cố vững chắc vị trí của người đàn ông trong xã hội. Điều này đúng như đánh giá của Trịnh Đình Bảy: “Những người này, bằng uy tín của mình đã củng cố và thiêng liêng hoá sự thờ cúng tổ tiên đã có manh nha trong thời kỳ thị tộc mẫu quyền” (Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa học, tr. 42). Khi trình độ sản xuất phát triển, của cải xã hội làm ra ngày càng nhiều làm xuất hiện một lớp tích luỹ được nhiều của cải và dẫn tới có quyền uy chi phối người khác và là mầm mống Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 24
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch cho sự phân chia xã hội thành giai cấp. Trong xã hội có gia cấp, vị trí của người đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội ngày càng được củng cố - cơ sở đích thực trong quá trình chuyển đổi từ việc thờ cúng tổ tiên tô tem sang việc thờ cúng tổ tiên là con người thực cùng chung dòng máu. Nền kinh tế tiểu nông theo kiểu tự cung tự cấp đã tồn tại lâu dài trong xã hội Việt Nam cũng là một cơ sở cho sự hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Mỗi một gia đình là một cơ sở kinh tế độc lập, sản xuất và tiêu thụ. Các thành viên trong gia đình gắn bó chặt chẽ với nhau trong lao động sản xuất và trong đời sống lấy gia đình là trung tâm. b/ Điều kiện nhận thức và các yếu tố tâm lý khác: Về nhận thức: Trong nhận thức dân gian, người Việt quan niệm rằng, con người có 2 phần: phần xác và phần hồn. Hai phần này vừa gắn bó, vừa tách biệt, chúng gắn bó với nhau. Khi con người còn sống, hồn nhập vào xác điều khiển hành vi của con người. Khi con người chết, phần hồn rời khỏi xác, thể xác của họ hoà vào cát bụi, phần hồn vần tồn tại và chuyển sang sống ở một thế giới khác (cõi âm). Ở Cõi Âm (được mô phỏng từ Cõi Dương) mọi linh hồn đều có các nhu cầu như cuộc sống nơi trần thế. Các yếu tố tâm lý khác - Sự sợ hãi: + Trong cuộc sống con người còn gặp nhiều khó khăn, rủi ro, bất hạnh, sa cơ, lỡ vận, bệnh tật hiểm nghèo luôn đe doạ sự bình an của con người. Con người còn thiếu tự tin vào chính bản thân khi phải đối mặt giải quyết với các vấn đề trên trong cuộc sống của chính bản thân họ. Họ luôn mong muốn có sự giúp đỡ của các thế lực khác nhau, trong đó họ cần đến sức mạnh của ông bà tổ tiên ở “thế giới bên kia” che chở, nâng đỡ. Từ quan niệm dân gian về linh hồn, người ta cho rằng, nếu không cúng tế linh hồn ông bà tổ tiên đầy đủ thì những linh hồn này trở thành ma đói và sẽ mang lại rủi ro, quấy nhiễu cuộc sống của những người đang sống. Đồng thời, ở chế độ phụ hệ quyền lực của người đàn ông, nhất là gia trưởng, tộc trưởng đã làm nảy sinh ở phụ nữ, con cháu sự quy thuận lẫn Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 25
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch cảm giác sợ hãi. Tâm trạng này không phải chỉ tồn tại ở vợ và con cháu khi họ đang sống mà cả khi họ đã chết. + Trong cuộc sống của mỗi con người, càng về già, cái chết luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với mỗi người, con người không muốn nó diễn ra, ngay cả khi họ có cuộc sống nơi dương thế luôn gặp khó khăn và trắc trở, nhưng họ lại luôn phải đối mặt với nó. Thực hiện các lễ nghi thờ cúng tổ tiên trong không gian thiêng đó, mỗi người được trải nghiệm và cũng như một lần được chuẩn bị tâm thế chấp nhận cái chết một cách thanh thản, bình tĩnh và nhẹ nhàng hơn. - Sự kính trọng, biết ơn: Nỗi lo sợ bị trừng phạt của con người không phải là yếu tố duy nhất và chủ yếu dẫn đến sự hình thành và phát triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Nếu chỉ vì sợ hãi mà con người phải thờ cúng thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã không thể tồn tại lâu bền và đầy giá trị nhân văn như vậy. Yếu tố tâm lý có vai trò quyết định trong việc duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là sự tôn kính, biết ơn đối với các thế hệ trước, là tình yêu và lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ. 2.2.1.2. Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên trong dịp Tết Nguyên Đán Trong dịp Tết Nguyên Đán, mọi người đều tranh thủ để đi chơi, thưởng thức những món ăn ngon. Tuy nhiên, trong không khí vui vẻ ấy, không ai quên làm những mâm cơm chu đáo để cúng tổ tiên, rước ông bà về ngày 30 Tết và ngày mùng 3 đưa ông bà đi. Điều đó đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Hàng năm, cứ vào khoảng ngày 24, 25 tháng Chạp là nhiều gia đình người Việt đi tảo mộ. Người ta đi thăm viếng, vun lại những nấm mồ, phát cỏ dại, chặt cây cối quanh mộ, sửa sang, tu bổ mộ phần những người quá cố trong gia đình, và cả những phần mộ của các vị tổ tiên nhiều đời trước đó. Truyền thống tâm linh người Việt tin rằng, khi năm mới đến tất cả mọi thứ đều phải được chuẩn bị. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 26
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Tục ngữ Việt Nam có câu “cao nấm ấm mồ”. Vì vậy, sửa sang nấm mồ cũng là một trong những việc hiếu đạo của con cái, thể hiện lòng kính trọng đối với đấng sinh thành, và các bậc tổ tiên đã khuất. Tục tảo mộ cuối năm, ngoài là một phong tục phổ biến của người dân Việt khắp mọi miền đất nước, còn là một hoạt động mang tính dòng tộc rõ nét. Đặc biệt, những dòng tộc lớn thường có những ngày tảo mộ được quy định rất cụ thể, thường ghi trong gia phả như một truyền thống của dòng tộc để con cháu ở các thế hệ sau tiếp tục thực hiện, cũng để thắt chặt tình yêu thương, đoàn kết đồng thời cũng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Về quê tảo mộ mỗi dịp xuân về đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đó cũng là thể hiện của tình cảm hướng về với nguồn cội. Người ta ví: “Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu” là vậy. Ca dao xưa cũng có câu: “Con người có tổ có tông Như cây có cội, như sông có nguồn” Đối với cư dân thành thị, những người đã khuất được mai táng trong các nghĩa trang ở thành phố, do vậy thường khó duy trì việc những người trong gia đình, dòng họ khi khuất núi được chôn cất gần gũi, đầm ấm với nhau như ở thôn quê. Nhưng cứ mỗi dịp cuối năm, khi sắp đến Tết Nguyên Đán, người thành thị cũng luôn sắp xếp thời gian để đi thăm viếng, chăm sóc phần mộ ông bà, cha mẹ, người thân của mình để tỏ lòng hiếu thuận. Thăm viếng phần mộ tổ tiên cũng là nét đặc trưng của văn hóa cổ truyền, một tục lệ trong “đạo thờ ông bà” của dân tộc ta vốn từ lâu đã trở thành truyền thống. Dù tất bật thế nào đi chăng nữa trong cuộc mưu sinh, dù cả năm bôn ba làm ăn ở nơi xa, nhưng chốn quay về vẫn là gia đình. Nhiều gia đình cho rằng mỗi dịp tảo mộ cũng là một dịp giãi bày với ông bà, tổ tiên những chuyện đã xảy Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 27
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch đến trong năm với cả gia đình, dòng họ; cũng là để thành tâm mời ông bà tổ tiên chuẩn bị cùng về ăn Tết với gia đình. Do đó, theo sau phong tục này ta có tục rước ông bà vào trưa ngày 30 âm lịch, và đưa ông bà, thường là vào trưa mùng 3 hoặc mùng 4, tùy theo tập quán ở mỗi địa phương, và nếp sống của mỗi gia đình. Thường thì ngày tiễn đưa ông bà cũng là ngày cuối cùng của những ngày nghỉ ngơi vui Tết, mọi người trong gia đình lại quay trở về với cuộc sống thường nhật, với những công việc phải làm, cùng với lòng tin là sẽ được tổ tiên phù hộ cho những ngày, sửa sang cho mới mẻ, kể cả nơi an nghỉ của ông bà, người thân. Sắp dọn bàn thờ: Trong mỗi gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải). Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm “cành vàng lá ngọc” (một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5, gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục “vũ trụ” là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới Trước bàn thờ nghi lễ truyền thống, ăn mặc lễ phục chỉnh tề, cử chỉ nghiêm trang, dọn lòng trong sạch hướng tâm linh cúng lạy, nguyện sống xứng đáng với ”bề trên”. Sự tín ngưỡng ấy đã góp phần tạo thêm giá trị nhân văn, đạo đức truyền thống, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Sự thờ cúng tổ tiên mách Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 28
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch bảo con cháu giữ gìn đạo lý, nề nếp gia phong, sống tình nghĩa thủy chung, tu thân, hướng thiện. Thực tâm cầu thị, yêu đồng loại, sâu nặng cội nguồn Dọn cúng mâm cao cỗ đầy. Tề tựu đông đủ. Với các món nấu nướng gia truyền, dâng cúng là những sản phẩm nông nghiệp. Hoa tươi, rượu nếp gạo nấu tinh khiết. Bánh trái, ngũ cốc, thịt gà, heo Nấu nướng thơm ngon đặt lên cúng trên bàn thờ. Để ông bà yên lòng nhìn thấy các cháu con biết giữ gìn truyền thống ”dĩ nông vi bản” và đem sức lao động cần cù làm ra thành quả từ lòng đất quê hương của ông cha để lại. Đây chính là nét văn hóa truyền thống góp phần bảo tồn di sản tinh thần và đạo đức trong đời sống con người lưu truyền tự ngàn xưa. 2.2.2. Tín ngƣỡng sùng bái thần linh 2.2.2.1. Thờ ông Công, ông Táo a/ Thổ Công là một vị thần được thờ trong gia đình, một dạng của Mẹ Đất, là vị thần trông coi nhà cửa, định đoạt họa phúc cho một gia đình. Sống ở đâu thì có Thổ Công ở đó: "Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá". Một số giả thuyết cho rằng Thổ Công là một trong ba vị Táo Quân xuất hiện trong truyện Sự tích Táo quân (hay Sự tích ba ông đầu rau). Người chồng thứ hai là Thổ Công (trông coi việc bếp núc, còn gọi là vua bếp), người chồng thứ nhất là Thổ Địa (trông coi việc nhà cửa), người vợ là Thổ Kỳ (trông coi việc mua bán, chợ búa cho phụ nữ trong nhà và sản sinh vật ngoài vườn). Tuy nhiên, một số người cho rằng Thổ Công là vị thần cai quản vùng đất còn Táo Quân chỉ coi việc bếp núc trong nhà. Thổ Công được nhiều người tin là vị thần quan trọng nhất trong gia đình. Tổ tiên có công sinh thành dưỡng dục nên được tôn vinh nhất. Bàn thờ tổ tiên ở giữa, vị trí quan trọng nhất, bàn thờ Thổ Công ở bên trái, quan trọng thứ hai. Nhưng khi cúng lễ tổ tiên, người ta đều phải khấn Thổ Công trước để xin phép cho tổ tiên về. Ở Nam bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất (đất phải về với đất), nhiều nơi còn gọi Ông Địa là Thần Tài (mọi thứ đều từ đất mà ra). Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 29
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch b/ Táo Quân, Táo Vương hay Ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam được xem là vị thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà và thường được thờ ở nơi nhà bếp. Táo Quân có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được Việt hóa thành huyền tích "2 ông 1 bà" - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc. Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo do kết quả của thuyết tam vị nhất thể (thuyết Ba ngôi) khá phổ biến trong các tín ngưỡng, tôn giáo. Bếp là bản nguyên của nhà khi người nguyên thủy có lửa và đều dựa trên nền móng là đất. Ở Việt Nam, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, do đó có những sự khác nhau về tình tiết, nội dung chính được tóm tắt như sau: Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin. Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng. Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo. Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ. Linh hồn của ba vị được đưa lên Thượng Đế. Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho làm Táo Quân, gọi chung là: Định Phúc Táo Quân nhưng mỗi người giữ một việc: Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 30
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch - Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Danh hiệu: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân - Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa. Danh hiệu: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần - Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa. Danh hiệu: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần Người Việt quan niệm ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp, trên có bài vị thờ viết bằng chữ Hán. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo Công lên chầu trời nên có nơi gọi ngày này là "Tết ông Công", lễ cúng có cá chép vì người Việt cho rằng, ông Táo cưỡi cá chép lên trời Thời điểm đưa ông Táo về trời có lẽ là cái mốc cụ thể nhất báo hiệu thời gian của năm cũ đã sắp hết. Tục đưa ông Táo về trời được thực hiện vào ngày 23 tháng Chạp. Theo truyền thuyết, vào ngày này, ông Táo (Táo Công - Thần Bếp) sẽ về trời, trình báo với Ngọc Hoàng các hoạt động trong suốt một năm của gia chủ, cả mặt được lẫn chưa được, và thỉnh cầu thật nhiều may mắn về cho gia chủ Vào ngày đưa ông Táo về trời, người ta thường bày biện rất nhiều thức ăn trong nhà bếp, như hoa quả, bánh ngọt, mỳ sợi , và đặc biệt phải có thật nhiều đồ ngọt vì người ta tin rằng như thế thì ông Táo sẽ chỉ bẩm báo những điều tốt đẹp cho gia đình mình. Lễ cúng Táo Quân ngày 23 tháng Chạp được coi là mang tính cách chuyển giao năm cũ, đón chào năm mới. người ta chuẩn bị chu đáo cho chiều 30 là thời điểm đón ông Công ông Táo trở về trần gian làm nhiệm vụ năm mới. lễ vật cúng Táo Quân gồm có : Mũ ông công ba cỗ hay ba chiếc (hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà). Mũ đành cho các ông Táo thì có hhai cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Nhưng mũ này được trang sức sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây kim tuyết màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 31
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấỵ Màu sắc của mũ, áo hay hia ông công thay đổi hàng năm theo ngũ hành: + Năm hành kim thì dùng màu vàng + Năm hành mộc thì dùng màu trắng + Năm hành thủy thì dùng màu xanh + Năm hành hỏa thì dùng màu đỏ + Năm hành thổ thì dùng màu đen. Những đồ "vàng mã" này (mũ, áo, hia, và một số vàng thoi bằng giấy) sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó người ta lập bài vị mới cho Táo Quân. Bài vị ở bàn thờ thổ Công thường ghi: “Đông trù tư mệnh, Táo phủ thần quân, Thổ Địa long mạch tôn thần, Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần”. Khi sửa lễ cúng ông Công, người ta đều đốt bài vị cũ, thay bài vị mới. Sau khi lễ xong thì hoá vàng, hoá luôn cả cỗ mũ năm trước và thả một con cá chép còn sống xuống ao, cá sẽ hoá rồng để ông công cưỡi lên chầu trời. Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng Táo Quân một con gà luộc nữa. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy! Ngoài ra, để các ông và các bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc Việt Nam người ta còn cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý "cá hóa long" nghĩa là cá sẽ biến thành Rồng đưa ông táo về trời. Con cá chép này sẽ sau đó được "phóng sinh" (thả ra ao, hồ hay sông). Tại miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. Ở miền Nam thì giản dị hơn, người ta chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 32
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng v v) hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc v v ) để tiễn Táo Quân. Dù phong tục và cách thức tiễn đưa ông Táo ở các vúng miền có phần khác nhau, nhưng có thể nói tục cúng Ông Táo đã trở nên rất quen thuộc và phổ biến, là một phong tục của truyền thống văn hóa Việt Nam, cũng là một nghi lễ chính thức để bắt đầu cho những ngày tết cổ truyền của người Việt Nam. Từ đó, cũng thấy được sự trân trọng của nhân dân ta đối với đời sống gia đình, công việc bếp núc, việc chăm sóc dinh dưỡng cho mọi người, cũng như ý thức lối sống nề nếp, cách ứng xử đúng mực của người Việt mỗi khi Tết đến xuân về. 2.2.2.2. Thờ mƣời hai vị quan hành khiển và Phán quan Theo tục lệ cổ truyền thì Giao thừa được tổ chức nhằm đón các Thiên binh (12 vị Hành khiển). Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành khiển cũ đã cai quản Hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống sẽ cai quản Hạ giới trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau 12 năm thì các vị Hành khiển sẽ luân phiên trở lại. (Tính theo thập nhị chi, bắt đầu từ năm Tý, cuối cùng là năm Hợi. hết năm Hợi lại quay trở lại năm Tý với Đại vương hành khiển cuẩ mười hai năm trước). Các vị đại vương nầy còn ược gọi là đương nhiên chi thần, mỗi vị có trách nhiệm cai trị thế gian trong một năm, xem xét mọi việc hay dỏ của từng người, từng gia đình, từng thôn xã cho đến từng quốc gia để định công luận tội, tâu lên thượng đế. Mỗi vị đại vương hành khiển có một vị phán quan giúp việc. Vị đại vương hành khiển lo việc thi hành những mện lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế và trình lên những việc xảy ra. Còn vị phán quan thì lo việc ghi chép công tội. Trong khi làm lễ cúng Đức dương niên đại vương hành khiển người ta khấn theo đức Thổ thần và Thành Hoàng vì đức đại vương hành khiển đã giáng lâm Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 33
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch thì Thổ thần và Thành Hoàng có nhiệm vụ nghênh tiếp do đó cũng được phối hưởng lễ vật. Mười hai vị hành khiển và phán quan bao gồm: 1. Năm Tý: Chu Vương Hành Khiển, Thiên Ôn Hành Binh chi Thần, Lý Tào Phán quan 2. Năm Sửu: Triệu Vương Hành Khiển, Tam thập lục phương hành Binh chi Thần, Khúc Tào phán quan. 3. Năm Dần: Ngụy Vương Hành Khiển, Mộc Tinh chi Thần, Tiêu Tào Phán quan. 4. Năm Mão: Trịnh Vương Hành Khiển, Thạch Tinh chi Thần, Liêu Tào Phán quan. 5. Năm Thìn: Sở Vương Hành Khiển, Hỏa Tinh chi Thần, Biểu Tào Phán quan. 6. Năm Tỵ: Ngô Vương Hành Khiển, Thiên Hải chi Thần, Hứa Tào Phán quan. 7. Năm Ngọ: Tấn Vương Hành Khiển, Thiên Hao chi Thần, Nhân Tào Phán quan. 8. Năm Mùi: Tống Vương Hành Khiển, Ngũ Đạo chi Thần, Lâm Tào Phán quan. 9. Năm Thân: Tề Vương Hành Khiển, Ngũ Miếu chi Thần, Tống Tào Phán quan. 10. Năm Dậu: Lỗ Vương Hành Khiển, Ngũ Nhạc chi Thần, Cự Tào Phán quan. 11. Năm Tuất: Việt Vương Hành Khiển, Thiên Bá chi Thần, Thành Tào Phán quan. 12. Năm Hợi: Lưu Vương Hành Khiển, Ngũ Ôn chi Thần, Nguyễn Tào Phán quan. Như vậy, giao thừa năm Tân Mão nầy là khấn “Trịnh Vương Hành Khiển, Thạch Tinh chi Thần, Liêu Tào Phán quan” 2.2.3. Tín ngƣỡng thờ nhiên thần Cây nêu là một thân cây được người dân Việt Nam nói chung, bao gồm cả một số dân tộc thiểu số và người Kinh, đem trồng trước sân nhà mỗi dịp tết Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 34
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Nguyên Đán, trên ngọn cây đeo một vòng tròn nhỏ và treo nhiều vật dụng có tính chất biểu tượng tùy theo địa phương, phong tục, dân tộc. Cây nêu được dựng với mục đích ban đầu, theo truyền thuyết, nhằm ngăn ngừa không cho quỷ từ biển Đông vào đất liền và bén mảng đến nơi người cư ngụ. Tuy nhiên, theo thời gian, theo địa phương, theo dân tộc và tập quán của cộng đồng, ý nghĩa của việc trồng cây nêu ngày Tết đã trải rộng hơn. * Sự tích: Theo Nguyễn Đổng Chi trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, sự tích cây nêu được tóm tắt như sau: Ngày xưa Quỷ chiếm toàn bộ đất nước và con người chỉ làm thuê, phải nộp hoa màu cho Quỷ. Quỷ ngày càng bóc lột Người quá tay. Người quá khổ cực nên cầu cứu Đức Phật giúp đỡ. Sau vài lần Người (được Phật chỉ dẫn) đánh lừa Quỷ khi trồng khoai, lúa, ngô để lấy phần thu hoạch về mình, Quỷ đòi lại đất, không cho Người làm thuê nữa. Phật bàn với Người điều đình với Quỷ, xin miếng đất bằng bóng chiếc áo cà sa treo trên ngọn cây tre. Quỷ thấy không thiệt hại gì nên đồng ý. Khi đó Phật dùng phép thuật để bóng chiếc áo cà sa đó che phủ toàn bộ đất đai khiến Quỷ mất đất phải chạy ra biển Đông. Do mất đất sống nên Quỷ huy động quân vào cướp lại. Trận đánh này bên Quỷ bị thua sau khi bị bên Người tấn công bằng máu chó, lá dứa, tỏi, vôi bột và Quỷ lại bị Phật đày ra biển Đông. Trước khi đi, Quỷ xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất liền viếng thăm phần mộ của tổ tiên cha ông. Phật thương hại nên hứa cho. Do đó, hàng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên đán là những ngày Quỷ vào thăm đất liền thì người ta theo tục cũ trồng cây nêu để Quỷ không bén mảng đến chỗ Người cư ngụ. Trên nêu có treo khánh đất, có tiếng động phát ra khi gió rung để nhắc nhở bọn Quỷ nghe mà tránh. Trên ngọn cây nêu còn buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 35
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch hướng mũi nhọn về phía đông và rắc vôi bột xuống đất trước cửa ra vào trong những ngày Tết để cấm cửa Quỷ. Như vậy, trong truyền thuyết, cổ tích dân gian Việt Nam đã lý giải tại sao ngày tết phải cắm nêu, phải treo cành trúc trước nhà và sự lý giải đó không đi ngoài triết thuyết Phật giáo và Lão giáo. Cây nêu trở thành biểu tượng của sự đấu tranh giữa thiện và ác, giữa thiên thần và quỷ dữ nhằm bảo vệ cuộc sống bình yên cho con người. Ngày tết thần linh về trời, tất nhiên con người cần có những "bảo bối" của thần nhằm đề phòng cảnh giác, chống lại sự xâm nhập của ác quỷ lúc con người vui chơi. *Đặc điểm: Cây nêu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam có đặc điểm khá đa dạng tùy thuộc địa phương, phong tục, dân tộc, giai tầng xã hội của chủ nhân v.v. Có loại cây nêu mang tính nguyên sơ, không gắn liền với lễ hội mà hình thức cổ xưa nhất còn thấy ở cộng đồng người Kinh, với tục dùng cành tre dài cắm trên ruộng sau khi gặt. Khi thấy dấu hiệu này, người ta biết là chủ ruộng giữ lại mầm lúa cho mùa năm sau, không thể tuỳ tiện thả trâu bò vào ăn. Riêng đối với dân tộc thiểu số, cây nêu loại này xuất hiện ở những vùng rẫy thuộc sở hữu cá nhân chưa khai hoang. Người chủ rẫy tìm bốn cây cao to, chặt đứt ngang thân, dựng ở bốn góc rẫy như bốn cái trụ và gọi đó là cây nêu (Kành Dar). Những cây nêu gắn liền với các lễ hội như ngày tết, hội làng, lễ hội đâm trâu có hình thức cầu kỳ hơn. Cây nêu của người Kinh thường sử dụng một số loại cây họ tre như tre, bương, lồ ô, có độ cao khoảng 5-6 mét, tỉa sạch các nhánh và lá tre, trong khi đó với các dân tộc thiểu số, là loại cây gỗ chắc chắn được vẽ quanh thân, có tua đại. Trên ngọn cây treo một vòng tròn nhỏ và tùy theo địa phương, vòng tròn này buộc nhiều thứ khác nhau như vàng mã, các lá bùa hình bát quái để trừ tà, nhánh xương rồng, cành lá dứa, bầu rượu bện bằng rơm, giỏ tre đựng vôi và trầu cau, cá chép bằng giấy, giải cờ vải và nhiều khi là những chiếc khánh đất nung tương tự tác dụng của chuông gió bây giờ để những Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 36
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch khánh đó va đập nhau kêu leng keng trong gió. Với các dân tộc thiểu số cây nêu thường trang trí theo hình thức tô tem giáo trên ngọn, chẳng hạn người Kor trang trí trên đỉnh vật tô tem là con chim chèo bẻo. Những vật treo trên cây nêu đều có tác dụng nhất định, như cá chép để Táo quân dùng làm phương tiện về trời nếu cây nêu được dựng lên từ 23 tháng chạp, bùa ngải trừ tà, tiếng động của khánh đất để báo hiệu cho ma quỷ biết nhà có chủ không được vào quấy nhiễu v.v. Người Gia rai trong lễ bỏ mả dựng cây nêu làm bằng cây gạo, trên ngọn treo nhiều lá bùa xanh đỏ bay phất phới theo gió. Dân tộc Mường trồng nhiều loại cây nêu. Ngoài nêu chính (nêu lớn) được trồng ở giữa sân nhà còn có nhiều cây nêu khác nhỏ hơn, được cắm ở bếp, ngoài vườn, chuồng trâu, chuồng lợn, chuồng gà, độn thóc. Trên cây nêu, người Mường không treo khánh nhà Phật như người Việt mà treo nhiều công cụ sản xuất như cày, bừa, cuốc v.v. đan bằng tre nứa. Cây nêu của người Hmông làm bằng hai thân cây mai (một loại tre) to, già, thẳng, còn ngọn, có lá xanh, không bị sâu, với những nghi thức phức tạp khi chặt cây làm nêu, trồng nêu và bày đồ lễ khấn trước cây. Cả hai cây được chằng buộc để ngọn cây vút cong hướng về phía Tây, phía mặt trời lặn. Cây mai nhỏ hơn (gọi là cây chồng) được buộc sát, chắc chắn vào cây mai to (cây vợ). Trên ngọn cây nêu của người Hmông treo 3 đến 5 sải vải lanh đen (tuỳ cây nêu cao hay thấp) nẹp cành trúc, buộc thành cờ; và phía dưới sải vải lanh đen còn buộc 2 túm bắp ngô, 1 cụm lúa, 1 quả bầu nậm đựng rượu, ngoài ra còn có khèn, gậy. Trong những ngày tết cổ truyền, vào buổi tối trên cây nêu có nơi còn treo một đèn lồng nhằm chỉ đường cho tổ tiên biết đường về ăn tết với con cháu. Trong đêm trừ tịch cũng như ngày mồng một Tết người dân còn treo bánh pháo tại cây nêu đốt đón mừng năm mới, mừng tổ tiên về với con cháu, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều bất hạnh của năm cũ, cầu mong một năm mới tốt lành. Tại miền Bắc Việt Nam cây nêu thường được người Kinh dựng vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, là ngày Táo quân về trời, với quan niệm rằng chính từ Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 37
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch chính vì từ ngày này cho tới đêm giao thừa, vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu. Ngày dựng cây nêu gọi là lên nêu, và ngày 7 tháng giêng âm lịch, ngày làm lễ dỡ cây nêu xuống, gọi là ngày hạ nêu. Người Mường trồng cây nêu vào ngày 28 tháng Chạp âm lịch, trong khi đó cây nêu của người Hmông vùng Tây Bắc Việt Nam được dựng trong lễ hội Gầu tào (cầu phúc hoặc cầu mệnh) tổ chức từ ngày 3 đến ngày 5 tháng giêng âm lịch. Nguyên khởi cây nêu được dựng với ý nghĩa trừ ma quỷ, nhưng ý nghĩa thực của cây nêu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam dần trải rộng hơn thế. Theo thời gian, cùng với sự phong phú của các đồ lễ treo trên ngọn cây, cây nêu được coi là cây vũ trụ nối liền đất với trời, do tín ngưỡng thờ thần mặt trời của các dân tộc cổ sơ, hàm chứa ý thức về lãnh thổ của người Việt. Dựng nêu ngày tết bao gồm trong nó cả các dụng ý để trừ ma, quỷ, thờ phụng thần linh và vong hồn tổ tiên, tảo trừ những điều xấu xa của năm cũ. Trong xã hội thị tộc, chiếm hữu nô lệ thì cây nêu biểu trưng cho một cộng đồng tộc người, khẳng định địa vực cư trú của cộng đồng đó. Trong các lễ hội, cây nêu là tiêu điểm tập trung, cố kết của tâm thức cộng đồng. Ðối với cư dân nông nghiệp, nông lịch luôn gắn bó với cuộc sống, định hình thời vụ sản xuất và sinh hoạt, lễ hội. Thời điểm cuối năm là thời điểm nông nhàn, chuẩn bị bước vào các hoạt động vui chơi. Khi cây nêu được dựng lên, tất cả mọi hoạt động khác đều dừng lại. Nó tạo nên thế cân bình tuyệt đối trong sự vận hành thay đổi giữa năm cũ và năm mới. Con người yên tâm vui chơi, cả cộng đồng sinh hoạt vui vẻ, quên đi những ưu phiền của năm cũ. Cây nêu của người dân tộc thiểu số được dựng lên để cáo tế thần linh dự lễ hội đâm trâu, cầu mong mùa màng tươi tốt. Với con trâu cột chặt buộc phải chạy vòng quanh cây nêu và mọi thành viên trong cộng đồng hòa nhập vào lễ tế linh thiêng khi nhảy múa xung quanh, phản ánh một triết lý về sự vận hành âm dương. Cây nêu của người Kinh cũng mang triết lý âm dương thông qua những con số Lạc thư và các quẻ Kinh dịch được thể hiện qua các biểu tượng treo trên ngọn cây. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 38
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Ngày xưa, cây nêu là biểu tượng cho sự uy quyền, nhà nào có quyền thế nhất là nhà đó có cây nêu cao nhất. Hiện nay, phong tục trồng cây nêu ngày tết đã dần mất đi trong cộng đồng người Việt thời hiện đại, và được thay thế với tục chơi cành hoa đào, hoa mai ngày tết, bày trong nhà. Cây nêu chỉ còn bắt gặp lác đác tại một số vùng quê, trong cộng đồng các dân tộc thiểu số vùng thượng du Bắc Bộ hay Tây Nguyên 2.2.4. Tín ngƣỡng cầu may 2.2.4.1. Xuất hành và hái lộc Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần Tại miền Bắc, nếu xuất hành ra chùa hay đền. Sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một cành lộc để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục hái lộc. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân. Trong nhiều nhà thờ Công giáo, từ khoảng đầu thập niên 80, sau thánh lễ Minh niên Mồng một Tết Nguyên Đán, tại gian cung Thánh có tổ chức hái lộc Lời Chúa như một kiểu hội nhập văn hóa. Những câu Lời Chúa trích từ Kinh Thánh, đa số từ Tân Ước, mỗi câu được viết trên miếng giấy, kích cỡ không nhất định, cuộn tròn lại treo trên một cành cây, thường là cành mai hay cành đào. Liền sau khi hát bài kết thúc thánh lễ Minh niên, mỗi người lên tự tay hái lấy một cuộn, như kiểu hái lộc cây, mở ra đọc Lời Chúa ghi trong đó, trong lòng thầm cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình và cho những người thân, rồi đem về dán lên bàn thờ hay một nơi trang Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 39
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch trọng trong gia đình. Để rồi cả năm mỗi người trong gia đình sẽ cố gắng sống theo điều răn dạy của câu Lời Chúa đó. 2.2.4.2. Xông nhà (xông đất) Lệ xông đất đã có từ lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người quan niệm ngày Mồng một “ Khai trương” một năm mới. Với ngày đầu tiên trong năm này có một ý nghĩa đặc biệt trang nghiêm. Vì ngày đó bắt đầu một năm nên mọi công việc làm trong khoảng 24 tiếng đồng hồ đều có ảnh hưởng trọn năm. Sự xông đất, xuất hành những cử chỉ đầu tiên, những lời nói đầu năm là điều mà ai cũng phải cẩn ngôn cẩn trọng. Trong tất cả mọi việc có tục xông đất được coi là quan trọng hơn hết. Ngay từ nửa đêm sau lễ giao thừa đánh dấu một năm đã qua, nhường cho một năm mới tốt đẹp đến, nhà ở được coi như hoàn toàn đổi mới, người bước chân tới xông đất sẽ là sứ giả do sự may mắn đưa đến! Do đó, mọi người đã cân nhắc kỹ về nhân phẩm, chức phận, sự giàu sang, cũng như về tính tình, hạn vận khi mong cầu người đến xông nhà ngày đầu năm là hệ trọng hơn cả. Chính vì nghĩ đến ảnh hưởng của việc xông đất đên việc làm ăn cho cả năm, nên các bậc cao niên rất thận trọng đối với người đến đầu tiên trong ngày Nguyên Đán để long trọng mang lại giúp họ sự tốt lành suốt năm mới. Mặc dù đã tính toán như vậy, vẫn có người khách bất ngờ độc xuất đến xông đất trước sự ngạc nhiên của cả gia đình và làm xáo trộn những toan tính không thể thực hiện được một cách chính xác như ý mong muốn. Tuy nhiên để đề phòng những sự kiện này xảy đến, trong buổi sáng tinh mơ các cửa ngõ đều đóng chặt và chỉ mở khi nào người được chọn tới xông đất mà thôi. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng năm mười phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt. Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới. Theo nhà nghiên cứu văn hoá Thái Kim Đỉnh: “thời Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 40
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch xưa chỉ có 2 cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuổi hợp tuổi với chủ nhà và phải là đàn ông trụ cột trong gia đình. Đối với người dân lao động thì đơn giản hơn nhiều. Người được chọn xông đất phải khoẻ mạnh, tốt tính và gia cảnh khấm khá, hoà thuận. Chính vì nghĩ đến ảnh hưởng của việc xông đất liên quan đến mọi sự may mắn trong cuộc sống cho cả năm nên nhiều người rất thận trọng khi chọn người xông đất với mong muốn họ sẽ mang lại sự tốt lành trong suốt cả năm mới.” Dù tâm niệm mỗi nơi, mỗi gia đình, mỗi người đều khác nhau nhưng tục xông đất hầu như ở đâu cũng đang được coi trọng. Như thế đủ chứng tỏ rằng cổ lệ xông đất ngày Tết được mọi người coi là quan trọng nhất trong một năm. . Nên xem bảng tính sẵn sau đây : Tuổi Giáp hạp với Kỷ mà kỵ với Canh – Mậu. Tuổi Ất hạp với Canh mà kỵ với Tân – Kỷ. Tuổi Bính hạp với Tân mà kỵ với Nhâm – Canh. Tuổi Đinh hạp với Nhâm mà kỵ với Quý – Tân. Tuổi Mậu hạp với Quý mà kỵ với Giám – Nhâm. Tuổi Kỷ hạp với Giáp mà kỵ với Ất – Quý. Tuổi Canh hạp với Ất mà kỵ với Bính – Giáp. Tuổi Tân hạp với Bính mà kỵ với Đinh – Ất. Tuổi Nhâm hạp với Đinh mà kỵ với Mậu – Bính. Tuổi Quý hạp với Mậu mà kỵ với Kỷ – Đinh . Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 41
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch 2.2.4.3. Chúc tết Để gắn kết tình cảm gia đình, họ hàng , làng xóm những lời chúc tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công ; những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau “tai qua nạn khỏi” hay “của đi thay người” nghĩa là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổị, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là thêm 1 tuổi). 2.2.4.4. Lì xì Lì xì ngày Tết (phát âm theo người Quảng Đông: lishi): người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay “hồng bao”, gọi là “lì xì” với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong “hồng bao” có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hoá thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu. Vào những ngày Tết người lớn thường tặng cho trẻ con một khoản tiền nho nhỏ, bỏ trong phong bao màu đỏ in hoa văn rất đẹp thường có ý nghĩa tượng trưng cho may mắn và tài lộc, gọi là tiền mừng tuổi. Truyện dân gian Trung Quốc kể lại, ngày xưa ở Đông Hải có một cây đào to, có rất nhiều yêu quái sống trong bộng cây, nào là hồ ly tinh, chuột tinh, sói già Chúng luôn muốn ra ngoài để gây hại, nhưng bình thường luôn có các thần tiên ở hạ giới canh giữ chúng nên không con nào thoát ra ngoài được. Nhưng hễ tới đêm giao thừa, tất cả thần tiên đều phải về trời để phân công lại nhiệm vụ, thế là lũ yêu tinh có cơ hội tự do nhân lúc chuyển giao nhiệm vụ của các vị thần. Nhân cơ hội đó, có một loại yêu quái gọi là con Tuy thường xuất hiện vào đêm giao thừa để xoa đầu trẻ con đang ngủ khiến lũ trẻ giật mình, Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 42
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch khóc thét lên và sẽ bị bệnh sốt cao hoặc ngớ ngẩn. Vì thế những gia đình có con nhỏ phải thức cả đêm để canh không cho con Tuy hại con mình. Một lần, có mấy vị tiên đi ngang nhà kia, hóa thành những đồng tiền nằm bên chỗ đứa trẻ. Cha mẹ chúng đem gói những đồng tiền ấy vào vải đỏ. Khi con Tuy đến, những đồng tiền lóe sáng, nó sợ hãi bỏ chạy. Phép lạ này lan truyền ra, rồi cứ Tết đến, người ta lại bỏ tiền vào trong những chiếc túi màu đỏ tặng cho trẻ con. Tiền đó được gọi là tiền mừng tuổi. Một truyền thuyết khác kể rằng, tục tặng tiền mừng tuổi bắt nguồn từ hoàng cung nhà Đường (Trung Quốc). Năm đó, Dương Quý Phi sinh hạ hoàng tử, được tin mừng vua Đường Huyền Tôn đích thân đến thăm và ban cho Dương Quý Phi một số vàng bạc gói trong giấy đỏ. Dương Quý Phi coi đó vừa là tiền mừng, vừa là chiếc bùa Hoàng đế ban tặng con trẻ để trừ tà. Việc này được đồn đại ra ngoài, từ cung đình lan rộng ra dân gian, nhiều người bắt chước tặng tiền mừng và cũng bắt đầu coi như tặng món lộc trừ tai họa, mang lại nhiều điều may mắn cho trẻ con. Theo những nghiên cứu khác, tục mừng tuổi ở Trung Quốc đã có từ đời Tần. Vào thời gian đó, người ta dùng một sợi chỉ đỏ để xâu tiền thành một xâu theo hình con rồng hoặc thanh kiếm để ở chân giường hoặc cạnh gối trẻ em. Xâu tiền đó gọi là tiền Áp Tuế giống như cách gọi của người Trung Quốc ngày nay, có nghĩa là món tiền mừng cho đứa trẻ, với mong ước đứa trẻ được tiền, được lộc có thể vượt qua tuổi đó với những điều tốt lành và may mắn. Xưa kia, ở Trung Quốc, tiền mừng tuổi thường là một vòng đỏ xâu 100 cắc tiền đồng, biểu hiện cho lời chúc sống lâu trăm tuổi. Ngày nay, tiền mừng tuổi đầu năm, còn có ý nghĩa tượng trưng cho sức khỏe, may mắn, thành đạt được cho vào phong bao bằng giấy đỏ hoặc vải nhung đỏ, có những trang trí mang nghĩa cát tường, hạnh phúc và những câu chúc, an lành, phát đạt như “Hòa gia bình an”, “Kim ngọc mãn đường”, “Vạn sự như ý” Vì vậy, tặng tiền Áp Tuế còn được gọi là tặng Hồng Bao. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 43
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Ở Việt Nam, lì xì vốn chỉ là những đồng tiền xu bỏ trong phong bao giấy hồng điều, hoặc trang trí vàng son bắt mắt mà người lớn tặng cho trẻ con để chúng có cái rủng rẻng trong những ngày Tết vì tiếng cười của trẻ con có thể xua đuổi điều xấu. Vì vậy lì xì cũng có ý nghĩa cầu may, cầu phúc trong năm mới. Theo tục lệ ở một số địa phương thì người nhỏ tuổi không lì xì người lớn hơn, vì vừa không đúng ý nghĩa, vừa bị cho là “hỗn”. Tuy nhiên, ngày nay, tục lì xì đã cởi mở hơn, đặc biệt những người nhỏ tuổi nhưng đã lập gia đình, đã có thu nhập thì có thể mừng tuổi cho những bậc cao niên như cha mẹ, ông bà, để chúc tụng may mắn, sức khỏe, bình an. 2.2.4.5. Đi lễ chùa và xin xăm (Miền Bắc gọi là xin thẻ) Trong những ngày đầu năm âm lịch rất nhiều người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm nhất là vào buổi sáng mồng một, phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành và hái lộc. Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm. Ở miễn Bắc có tục "bốc quẻ thẻ" giống như tục "xin xăm" ở phía Nam. Người xin thẻ dâng một lễ mọn rồi chọn lấy một quẻ thẻ bằng tre viết chữ Hán. Trên quẻ thẻ thường ghi một câu văn ngắn gọn rút từ điển tích Trung Hoa cổ. Căn cứ câu văn ấy, người xin thẻ có thể luận ra "tiền định" cuộc đời mình trong năm đó. Nếu không thông thạo Hán Văn, có thể thuê thầy đồ luận giải giúp. Ngày nay, người ta thường bỏ thẻ tre và thay vào đó bằng những tờ bướm in chữ quốc ngữ với lời giải được soạn sẵn. Dưới con mắt tự nhiên, xin xăm chỉ là một trò chơi may rủi, nhưng dưới con mắt tín ngưỡng, xin xăm là một cách thỉnh thần ý. Đa số người dân, khi xin xăm là nhắm vào ý nghĩa thứ hai này. Họ muốn biết thần ý về đời sống, gia đình, công việc làm ăn, tương lai hậu vận Xăm là quẻ thẻ xin ở đền chùa để đoán tương lai ( theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học - Hà Nội 1994) Tục lệ xin xâm, xin keo tại Lãng Ông Bà Chiếu: Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 44
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Xin xâm và xin keo là tục lệ phổ biến rộng rãi ở Miền Nam. Tại đình Phú Nhuận, đình Phong Phú, Thủ Đức có tục xin xâm trong dịp lễ Kì Yên. Tại chùa Mari Yammane (Bà Thâm) ở số 45 đường Trương Công Định, Sài Gòn và chùa núi Bửu Long, Biên Hòa, có tục xin xâm, ở đây còn có một số vị sư cụ chuyên bàn xâm. Riêng tại Lăng Ông Bà Chiểu, đã từ rất lâu, tục xin xâm và xin keo rất thịnh hành. a/ Xin Xâm Xâm ở đây gọi là Tướng Quân Linh Sám ( xâm thường) và Tả tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương ( xâm thuốc). Với con mắt tự nhiên, xin xâm chỉ là một trò chơi may rủi, nhưng dưới con mắt tín ngưỡng, xin xâm là thỉnh Thần ý. Chính vì ý nghĩa thứ hai này mà hằng ngày đã thu hút khách thập phương tới lễ bái và xin xăm để thỉnh Thần ý tại Lăng Ông Bà Chiểu. *Phân loại: Có 2 loại : Xâm thường và xâm thuốc - Xâm thường: + Gọi là tướng Quân Linh Sám, gồm có 100 lá xâm, đánh số từ 1 tới 100. XÂm thường cho biết Thần ý về bổn mạng, gia đạo, mưu sự, cưới gả, bệnh tật, cầu tài, cầu quan, xuất hành, kiện cáo và mất trộm. + Xâm thường cũng có thể phân chia theo mức độ tốt xấu khác nhau: Theo bà Lư Thị Muội, thư kí lâu năm của Hội Thượng Công Quý Tế, thì 100 lá xâm trong tướng Quân Linh Sám được chia ra 3 loại: Xâm thượng, màu đỏ, lầ loại xâm tốt nhất. Xâm trung, màu cam, là loại tốt trung bình Xâm hạ, màu vàng tươi, là loại không tốt Trên thực tế, nếu chỉ quan sát theo màu sắc, người ta không biết chính xác trong 100 lá xâm ở đây, có bao nhiêu lá xâm tốt và bao nhiêu lá xâm xấu. Lí do là ngoài 3 màu đỏ, cam, vàng tươi, còn lẫn vào đó những lá xâm màu hồng, màu vàng đậm. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 45
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Khác với lối phân chia trên đây, thầy bàn xân Lương Siêu cư sĩ cho rẳng chỉ những nhà chuyên môn mới có thẩm quyền quyết định về mức độ tốt xấu của lá xâm. Theo ông, màu sắc của lá xâm không đáng kể, chỉ có Thần ý ghi trên lá xâm thích hợp cho từng trường hợp mới đáng kể mà thôi. Lương Siêu cư sĩ phân chia 100 lá xâm trong Tướng Quân Linh Sám ra như sau: Xâm thượng 38 lá (1,2,8,9,10,11,9,21,22,24,30,32,40,45,50,54,55,57,58) xâm trung 50 lá (3, 5,12, 13, 16, 18,20 ,23, 26, 27, 28, 29, 31, 33, 34, 35, 36, 37, 39, 41, 42, 43, 44, 46, 51, 52, 53, 56, 61, 62, 63, 67, 71, 72, 73, 76, 77, 81, 82, 83,84,85,86,88,90,91,94,95) , Xâm hạ 12 lá (4,6,14,15,17,25,38,47,49,59,70,96) - Xâm thuốc: Còn gọi là Tả tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương, cũng gồm 100 lá chỉ một màu vàng, không phân biệt tốt xấu, đánh số từ 1 tới 100. Xâm thuốc cho biết Thần ý về mọi thứ bệnh tật. *Cách xin Xâm: Tại Lăng Ông, khách thập phương có thể xin xâm tại Nhà Hương, Trung Điện hoặc Tây Điện. Tuy nhiên vẫn có nhiều khách thiện tín có lên gần Chánh Điện để xin xâm, chừng như càng tới gần Chánh Điện thì càng gần thần linh và càng có nhiều hi vọng được Thần Linh cảm ứng vào lá xâm. Dọc theo hai bên tường nhà hương gắn 50 khoen sắt tròn làm giá đựng 50 ống xâm. Ống xâm màu bạc, dài 0m50. Trong mỗi ống đựng 100 thẻ xâm bằng tre vót mỏng tanh, đánh số từ 1 tới 100. Mỗi thẻ dài 0m20, ngang 0m01, trên đầu cùng đề số thẻ bằng chữ nho, kế bên dưới là số thường, dưới cùng mỗi thẻ là số của ống xâm. Việc xin xâm có thể chia ra 2 giai đoạn: Xin quẻ và bàn xâm: - Xin quẻ thẻ: Thông thường, trước khi xin qur thẻ, khách xin xâm lễ Thần 4 lậy, 3 vái, rồi quỳ hoặc ngồi bệt xuống chiếu, hai tay đưa cao ống xâm lên mà lắc một cách kính cẩn. Tiếng các thẻ chạm vào thành phía trong của ống xâm kêu lách cách. Khi một quẻ thẻ rớt ra ngoài, khahcs xá nhẹ vài xá hoặc lậy tạ Thần 4 lậy và nhớ kĩ số cái thẻ xâm đã rớt ra ngoài ấy, nếu không biết chữ phải Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 46
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch nhờ người khác đọc giùm. Trường hợp có từ hai thẻ trở lên rớt ra ngoài, khách xã nhẹ để xin Thần cho phép bắt đầu lại. Khi đã được Thần ban cho 1 quẻ thẻ,thông thường khách tiếp tục xin keo ( sẽ nói tới sau) để biết chắc Thần ý hơn nữa. nếu xin keo mà đượcmột Âm, một Dương, khách sẽ vui mừng lạy tạ thần rồi đi xin tờ giấy bàn xâm. Thỉnh thoảng có vị khách xin một lúc nhiều quẻ thẻ, một cho minh, còn những thẻ khác là xin giùm cho bà con. Riêng loại xâm thuốc, người lớn phải xin 3 quẻ thr, thiếu niên 2 quẻ thẻ, trẻ em 1 quẻ thẻ. - Bàn xâm thường: +Sau khi xin được quẻ thẻ, khách đi sang Tây Lang để xin giấy bàn xâm. Trên tường Tây Lang có treo 10 kệ dựng xâm, đánh số tù 0 tới 9. Mỗi kệ có 10 hộc đựng lá xâm, xếp thứ tự hàng chục. Trường hợp khách không biết chữ thì tới quầy ở góc phòng xin người phát xâm giúp đỡ. Riêng về loại xâm thuốc, các lá xâm được xếp thứ tự trong một cái tủ có 100 hộc, kê phía trong quầy. Khhachs không được tự tiên tới lấy, phải xin người phụ trách lấy cho. Tuy nhiên, tất cả các thứ xâm đều phát miễn phí. + Để phục vụ bá tánh , Hội Thượng Công Quý Tế đã phát hành 2 cuốn sách bàn xâm vào năm 1949 : một cuốn viết bằng chữ Việt, một bằng chữ Hán. Thực ra cuốn sách bàn xâm 216 trang nầy là tổng hợp nguyên văn tất cả 100 lá xâm đựng trong các kệ ở Tây Lang Khách căn cứ vào lời bàn trên lá xâm mà lãnh hội Thần ý. + Nội dung các lá xâm được trình bầy bằng một hình thức duy nhất như sau: Mỗi lá xâm viết 2 mặt: Mặt trước viết: Tướng Quân Linh Sám, số thứ tự quẻ xâm, một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt diễn tả Thần ý gồm 3 phần: Nguyên văn bằng chữ Hán, phần phiên âm và phần dịch nghĩa. Mặt sau: Là lời bàn xâm viết theo thứ tự như sau: bổn mạng, gia đạo, mưu sự, cưới gả, bệnh tật, cầu tài, cầu quan, xuất hành, kiện cáo, mất trộm. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 47
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch Tất cả những lời bàn có tính chung là vắn tắt, mơ hồ, nặng về phương diện luân lí, đạo đức. Vì vậy, nhiều người muốn biết rõ lá số của mình hơn nên đã thuê các thầy bàn xâm giảng giải thêm cho. *Bàn xâm thuốc: - Xâm thuốc viết bằng chữ Hán trên một mặt giấy, hầu hết người Việt không đọc được, phải nhờ hoặc thuê mướn người đọc giúp. - Lá xâm thuốc nhỏ hơn lá xâm thường, nội dung gồm một bài thuốc, một lời khuyên về luân lí đạo đức hoặc lời khuyên về việc tính dưỡng. Hầu hết khách khi được hỏi đều tỏ ra tin tưởng sâu xa Đức Thượng Công linh hiển sẽ ban cho mỗi người một bài thuốc đúng bệnh tật của mình. Tả Tướng Quân Hoàng Tiên Lương Phương gồm 100 lá xâm với 100 bài thuốc, kèm theo những lời khuyên cho bách bệnh ở đủ mọi tình trạng nặng nhẹ khác nhau. Người lớn phải xin 3 lá xâm, thanh thiếu niên 2 lá và con nít 1 lá. b/ Xin keo: Sau khi xin xâm, nhiều vị khách xin keo để biết chắc Thần ý hơn nữa. Tuy nhiên có những vị khách không muốn xin keo vì cho rằng như thế tỏ ra cong hồ ngghi linh xâm của thần. Xin keo cũng phải theo thủ tục giống như xin xâm. Trước hết, đương sự phải quỳ hoặc ngồi bệt xuống chiếu xã vài cái, rồi lấy 2 miếng gỗ hình bán nguyệt, mỗi miếng có một mặt phẳng và một mặt vòng, đưa lên ngang trán, miệng lâm râm cầu khấn. Khấn xong, người xin keo buông 2 miếng gỗ ra để cho rơi xuống mặt chiếu. Nếu được 1 mặt bằng và một mặt vòng., tức 1 Âm (ngửa), 1 Dương (xấp), có nghĩa là Thần đã xác nhận quẻ xâm đương sự đã xin. Được Thần ý xác nhận như vậy, đương sự hết sức vui mừng sẽ quỳ hoặc đúng mà lậy tạ 4 lậy. nếu mà keo lên cả hai mặt bằng, tức 2 Âm hoặc 2 Dương nghĩa là Thần chưa xác nhận cho nên phải xin keo lại lần nữa. Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 48
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch 2.2.3.6. Xin chữ đầu xuân. Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bầy mực tầu giấy đỏ Bên phố đông người qua (Vũ Đình Liên) Đầu năm thường gắn với việc cầu xin những điềm lành, việc lành trong ao ước của con người qua những cuộc hành hương về nơi linh thiêng nhất. Xin chữ là một trong những hoạt động tâm linh ấy. Việc mang ý nghĩa này có ở nhiều nơi trên khắp mọi miền đất nước. Từ Bắc chí Nam, từ xuôi lên ngược, chẳng phân biệt giàu nghèo, sang hèn ta thường bắt gặp những gương mặt giống nhau ở sự thành tâm của người xin chữ trước người cho chữ. Ngày xưa là chữ Nho, ngày nay vẫn là chữ Nho, lại có thêm cả chữ Ta nữa. Các thầy đồ Hán học và Quốc ngữ học tha hồ thả hồn theo nét bút mà tặng lại cho người xin cái tâm, cái tài của mình được gửi qua nét chữ và nội dung của chữ theo ước nguyện của người xin. Chưa có ai bán chữ, chỉ có người mua giấy để xin chữ. Người cho chữ vẫn có lộc nhưng tinh tế hơn. Việc tưởng như không bình thường nhưng lại thể hiện được nét thanh tao của công việc. Các thầy đồ không phải bận bịu và hệ lụy vào chuyện giá cả, tiền nong để đủ thanh thản và toàn tâm trong công việc cho chữ mang vẻ thánh thiện này. Việc xin chữ đầu năm lâu nay đã có và ngày một thịnh hành, nó đang trở thành phong tục đẹp của người Việt Nam mỗi độ xuân về Tết đến. Tại Hà Nội, việc này diễn ra ở nhiều nơi: trong nhà riêng của một số thầy đồ có tiếng văn hay chữ tốt, trên đường phố nơi có khoảng hè rộng rãi và nhiều người qua lại. Chỗ có vẻ ấn tượng nhất là trước sân Miếu Văn, khoảng hè phố đường Bà Triệu, đoạn giao cắt với đường Trần Hưng Đạo Xin chữ là một nét đẹp văn hóa cần phát huy. .Chỉ một chữ treo trước mặt mà có ý nghĩa về đạo đức và đời Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 49
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch sống đối với những con người cụ thể sẽ giá trị hơn nhiều những lời nói sáo rỗng. 2.3. Đánh giá chung về tín ngƣỡng trong Tết cổ truyền Tết đối với người Việt không chỉ mang tính chất lễ hội đơn thuần mà đây chính là dịp để ôn lại cội nguồn, để lưu giữ lại những dấu ấn văn hóa riêng mang phong vị riêng biệt. Đối với mỗi người dân đất Việt, Tết vừa thiêng liêng, vừa gần gũi với tình cảm quê hương gia đình. Tết không chỉ là hoạt động văn hóa thông thường mà còn là cả một hệ thống những lễ nghi bị chi phối bởi những phong tục, tập quán cũng như tín ngưỡng. Tín ngưỡng trong Tết cổ truyền của người Việt có ảnh hưởng sâu rộng đến tiềm thức cũng như nhận thức của mọi thế hệ Việt. Sự ảnh hưởng ấy đã chi phối mọi hoạt động của con người và để lại những hệ quả tốt đẹp. 2.3.1. Ƣu điểm: Điều dễ nhận thấy ở đây chính là những tín ngưỡng trong tết của người Việt không chỉ mang giá trị văn hóa, giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mà còn mang cả giá trị thẩm mỹ. a/ Giá trị văn hóa. Tết là một sinh hoạt văn hóa cổ truyền quan trọng. Trong một năm mọi công cuộc làm ăn, sản xuất đều đổ dồn cho việc sửa soạn cái Tết, chơi trong không khí tết và hưởng thụ tết. Người Việt Nam hàng năm mỗi khi tết đến dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả những người xa xứ vẫn mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày tết, được khấn vái trước bàn thờ tiên tổ, nhìn lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà nơi mình cất tiếng chào đời. “Về quê ăn tết” đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn, mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Nếu như trên thế giới hiện nay hiện tượng “Tết đóng cửa” đã dần trở nên phổ biến thì ở Việt Nam tết của đoàn viên, tết của sum họp là điều đã ăn sâu vào Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 50
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch trong nếp sống, nếp nghĩ của mỗi con người. Đó là giá trị văn hóa truyền thống “không thể chối từ” của người Việt. Đối với người Việt Nam, lễ hội vốn là nét văn hóa đặc sắc, thể hiện khát vọng về một cuộc sống hạnh phúc và trường tồn. Thế nhưng, cứ mỗi độ xuân về, dù có hòa mình vào không khí lễ Tết thì nhiều người Việt vẫn không quên lên chùa thắp nhang, cầu cho mình sức khỏe bình an, may mắn và hạnh phúc. Chính vì thế, tục lễ chùa đầu năm đã trở thành nét đẹp văn hóa trong mọi giai tầng của xã hội. Khách nước ngoài đến với Việt Nam rất dễ nhầm lẫn và đánh đồng Tết âm lịch của Việt Nam mới một số nước Phương Đông khác, đặc biệt là tết của người Hoa. Nhắc đến những nguồn gốc sâu xa xét trên góc độ sử học, trên thực tế, có rất nhiều sự khác biệt mang tính chất nổi trội về văn hóa đó. - Điều khác biệt đầu tiên phải nói đến ở đây đó là chiếc bánh chưng (bánh tét), bánh dầy. Khác với nhiều bộ phận người Hoa chỉ thích ăn đặc sản vào ngày tất niên và ngày Tết ví dụ như vi cá mập thì người Việt ăn bánh chưng, giò, canh măng trong dịp Tết. Bánh chưng, bánh dầy còn thể hiện cho truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam mang ý nghĩa nguồn cội nó gắn liền với sự tích các Vua Hùng. - Điểm khác biệt thứ hai là thời điểm bắt đầu Tết. Nếu như ở Trung Hoa, thời điểm Tết không cố định, liên tục thay đổi theo quan niệm của từng triều đại (Điều này chứng tỏ Tết Nguyên Đán ở Trung Hoa không hoàn toàn phụ thuộc vào tính thời vụ mà phụ thuộc vào ý thức chủ quan của từng triều đại), thì ở Việt Nam, thời điểm bắt đầu Tết Nguyên Đán luôn là mùa xuân, mùa khởi đầu của sự tái sinh, mùa khởi điểm của mùa vụ, của chu kỳ sinh trưởng của cây cối (Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thu, Đông tàng) - Điểm khác biệt thứ ba là ngày 23 tháng Chạp. Chính mang ý nghĩa “Đông tàng” có nghĩa là vũ trụ đang tạm ngưng đọng trong thời điểm từ ngày 23 tháng Chạp âm lịch. Tính từ ngày này đến thời điểm giao thừa là tròn 7 ngày, 1 con số Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 51
- Tên đề tài: Những tín ngưỡng trong Tết cổ truyền Việt Nam - Ảnh hưởng đối với du lịch thiêng, con số biểu trưng khái quát về vũ trụ luận (Đức Phật sinh ra bước đi 7 bước, có nghĩa là đã đi khắp thế giới). Và người Việt Nam nhận thức sâu sắc thời điểm “Đông tàng” ấy, nên mới có tục mua cá Chép về thả, ngoài ý nghĩa thông dụng là giúp ông Táo về trời còn có ý nghĩa khác là thể hiện nhu cầu tái sinh thông qua hành động phóng sinh. Và phương tiện vận chuyển của ông Táo là cá Chép chứ không phải ngựa, điều này làm ta liên tưởng đến con thuyền, phương tiện di chuyển đặ trưng của cư dân Đông Nam Á cổ (Bắc đi mã, Nam đi chu). - Điểm khác biệt thứ tư là cây Nêu. Cây Nêu hoàn toàn là sản phẩm của cư dân phương Nam. Nó là biến thể từ cây bất tử (nó được thu nhỏ lại và biến thành cây mía thờ, dựng cạnh bàn thờ tổ tiên, đồng bào Mường và Thái vẫn xem mía là cây bất tử) và cây mặt trời. - Điểm khác biệt thứ năm là ông Táo. Ở Trung Quốc, thần bếp chỉ có một người, là nam thần, gọi là Táo quân. Ở Việt Nam có cả gia đình nhà Táo, ba vị ấy được nhân dân khái quát thành “Tam vị nhất thể”. Và chức năng của ông Táo không dừng lại ở việc bảo trợ bếp núc mà còn bảo trợ, theo doic và báo cáo mọi mặt đời sống của gia chủ. Ông Táo chính là bằng chứng thể hiện tư duy tổng hợp thiên về nữ tính trong lĩnh vực nhận thức ở người Viêt Nam. - Điểm khác biệt thứ sáu là màu sắc trong ngày Tết. Màu của ngày Tết chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, màu chủ lực là màu đỏ nên ngày Tết ở Việt Nam ngập tràn màu đỏ. Tuy nhiên bên cạnh tông màu đỏ chủ lực ấy lại là màu vàng của hoa mai (một loại hoa mà người miền Nam Việt Nam rất ưa chuộng), của cây quất. Qua đó chỉ có thể nói đặc trưng về màu sắc chỉ là sự giao thoa văn hóa tết giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc mà thôi. - Một sự khác biệt nữa dễ nhận thấy giữ Tết của Việt Nam và Trung Quốc đó là người Việt có năm con Mèo còn người Trung Quốc lại thay vào đó là năm con Thỏ. Đây chính là sự khác biệt giữa hai nền văn hóa Sinh viên: Đào Thị Thu Huyền – Lớp VHL 301 52