Khóa luận Phát triển du lịch bền vững ở Yên Tử-Quảng Ninh - Nguyễn Thị Hà

pdf 97 trang huongle 2870
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Phát triển du lịch bền vững ở Yên Tử-Quảng Ninh - Nguyễn Thị Hà", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_phat_trien_du_lich_ben_vung_o_yen_tu_quang_ninh_ng.pdf

Nội dung text: Khóa luận Phát triển du lịch bền vững ở Yên Tử-Quảng Ninh - Nguyễn Thị Hà

  1. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Du lịch hiện nay được biết đến không chỉ trên khía cạnh văn hóa –xã hội mà trên quan điểm về kinh tế, du lịch đã và đang giữ vai trò kết sức quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế của mỗi quốc gia. Không phải ngẫu nhiên mà trên thế giới hiện nay, du lịch được xem là “ ngành công nghiệp không khói” hay “ngành công nghiệp xanh”. Với lượng đầu tư không nhiều nhưng hiệu quả mang lại đến rất cao, du lịch đang dần chứng tỏ được vị thế của mình khi đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn góp phần vào việc phát triển nền kinh tế quốc gia. Tốc độ tăng trưởng hàng năm cao và liên tục là nguyên nhân chính khiến nhiều nước xem việc phát triển du lịch là một bước đi đúng đắn, là quốc sách trong quá trình thúc đẩy nền kinh tế đi lên. Trong thời kỳ đất nước đang vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc phát triển du lịch ở nước ta được xem là “lực đẩy mới” giúp các ngành kinh tế khác phát triển. Hơn nữa, nước ta lại được thiên nhiên ưu đãi cả về mặt tự nhiên và xã hội nên nhu cầu tìm ra hướng đi đúng đắn cho du lịch để phù hợp với tình hình hiện nay là rất quan trọng và cấp bách. Tuy nhiên, bên cạnh việc mở ra những khu du lịch mới thì vấn đề quan tâm hiện nay là làm sao để có thể tận dụng tối đa và hiệu quả những tiềm năng có của các khu du lịch trên cơ sở đặt được sự cân bằng về mặt sinh thái và con người- du lịch bền vững, nhằm góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân địa phương. Chính vì thế mà trong thời gian gần đây ở nước ta, cụm từ ”du lịch bền vững” đã và đang được nhắc dến rất nhiều. Bên cạnh việc mang đến cho con người một cuộc sống tốt hơn, “du lịch bền vững” còn cam kết sẽ giữ gìn và bảo tồn những tài nguyên sẵn có này đến thế hệ mai sau. Trong điều kiện hiện nay, khi mà các nguồn tài nguyên du lịch đang mai một và biến mất qua từng năm. Thiết nghĩ việc phát triển du lịch bền vững đối với Việt Nam nói riêng và các quốc gia khác trên thế giới nói chung là rất quan trọng và cấp bách. Khu di tích và danh thắng Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -1- Líp: VHL 301
  2. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh là địa điểm đã được khai thác và đưa vào phục vụ cho mục đích du lịch một thời gian trước đây. Với các nguồn tài nguyên có giá trị về mặt tự nhiên (nguồn động, thực vật phong phú) và đặc biệt về mặt nhân văn (Yên Tử là nơi phát tích và cứ địa của Thiền Phái Trúc Lâm, là nơi hội tụ của một số nhân tài kiệt xuất, và là nơi lưu giữ những di tích kiến trúc lâu đời), khu di tích và danh thắng Yên Tử đã và đang được xem như là một “ bảo tàng văn hoá ”, “ bảo tàng thực vật, động vật”, một “báu vật vô giá” của quốc gia. Tuy vậy, trong thời gian gần đây, do công tác bảo tồn và tổ chức du lịch chưa hoàn thiện nên một số tài nguyên du lịch đã có dấu hiệu hư hại, xuống cấp. Do đó, bên cạnh việc tiến hành trùng tu, tôn tạo thì vấn đề quan trọng hiện nay là làm sao tìm được cho Yên Tử một hướng phát triển du lịch bền vững và phù hợp với khu vực. Từ tình hình đó, qua chuyến đi khảo sát, tìm hiểu về khu di tích và danh thắng Yên Tử, em đã lựa chọn đề tài “Phát triển du lịch bền vững ở Yên Tử, Quảng Ninh” để thực hiện. Với hi vọng đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên môi trường nhằm phát triển du lịch bền vững tại khu vực Yên Tử. Do thời gian nghiên cứu có hạn, tài liệu tham khảo còn ít, trình độ còn hạn chế, kinh nghiệm chưa có nhiều nên khóa luận không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự đánh giá và góp ý của thầy cô và bạn bè. 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu của đề tài là dựa vào cơ sở nghiên cứu đánh giá tiềm năng và hiện trạng hoạt động du lịch của khu vực Yên Tử, xác lập cơ sở khoa học cho việc phát triển du lịch bền vững. Để thực hiện được mục tiêu trên, đề tài cần tiến hành: - Tổng quan tài liệu về phát triển du lịch bền vững. - Nghiên cứu đánh giá tiềm năng du lịch (tự nhiên và nhân văn) ở khu vực Yên Tử. - Đánh giá hiện trạng hoạt động du lịch ở khu vực Yên Tử và nhận xét tình hình phát triển du lịch tại Yên Tử theo quan điểm phát triển du lịch bền vững. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -2- Líp: VHL 301
  3. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh - Đề xuất các định hướng và xây dựng các giải pháp cho việc phát triển bền vững tại khu du lịch Yên Tử. 3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vị nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu hoạt động du lịch và ảnh hưởng của hoạt động du lịch đến việc phát triển bền vững tại khu du lịch Yên Tử. - Phạm vi nghiên cứu: Về mặt lãnh thổ, đề tài tập trung nghiên cứu trong khu di tích và danh thắng Yên Tử thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Về mặt nội dung, đề tài tiến hành nghiên cứu các vấn đề tự nhiên và xã hội (tài nguyên tự nhiên, nhân văn, cơ sở hạ tầng, môi trường .) trong nội vùng thành phố Uông Bí phục vụ cho việc phát triển bền vững Yên Tử 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, bổ sung cho nhau nhằm tạo điều kiện để khoá luận đạt hiệu quả một cách khách quan và có cơ sở khoa học. Đó là: Phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp thu thập, phân tích và xử lý số liệu, phương pháp tổng hợp và so sánh 5 Bố cục của khoá luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, khoá luận được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững. Chương 2: Thực trạng hoạt động du lịch ở Yên Tử. Chương 3: Một số giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Yên Tử Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -3- Líp: VHL 301
  4. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 1.1 Khái niệm 1.1.1 Phát triển bền vững Phát triển là xu hướng tự nhiên tất yếu của thế giới vật chất nói chung, của xã hội loài người nói riêng. Phát triển được hiểu là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hoá . Sự chuyển đổi của các hình thái xã hội từ xã hội công xã nguyên thuỷ đến chiếm hữu nô lệ lên phong kiến rồi chế độ tư bản .đó được coi là một quá trình phát triển. Mục tiêu chính của quá trình phát triển là không ngừng nâng cao các điều kiện và chất lượng cuộc sống của con người, làm cho con người ít phụ thuộc vào thiên nhiên đồng thời tạo lập sự công bằng và bình đẳng giữa các tầng lớp trong xã hội. Các mục tiêu của phát triển thường được cụ thể hoá bằng những chỉ tiêu về đời sống vật chất như bình quân đầu người về GDP, lương thực, nhà ở, các điều kiện chăm sóc sức khỏe và đời sống tinh thần như giáo dục, mức hưởng thụ văn hoá nghệ thuật, thể thao, sự bình đẳng xã hội, tự do, chính trị, truyền thống lịch sử của từng quốc gia. Song trong quá trình phát triển, bên cạnh việc mang lại những lợi ích về mặt kinh tế, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất của con người thì quá trình này cũng đã và đang làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ra những tác động tiêu cực tới làm suy thoái môi trường. Trước những thực tế không thể phủ nhận là môi trường ngày càng bị ô nhiễm bởi các chất thải từ hoạt động kinh tế, nhiều hệ sinh thái đã bị diệt vong ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển của toàn xã hội qua nhiều thế hệ, mâu thuẫn giữa sử dụng tài nguyên cho nhu cầu cuộc sống trước mắt với việc dự trữ và nuôi dưỡng tiềm năng tài nguyên cho thế hệ mai sau ngày càng trở nên gay gắt. Từ nhận thức này đã xuất hiện một khái niệm mới của con người về hoạt động phát triển đó là “Phát triển bền vững”. Vào giữa những năm 1980, khái niệm về phát triển bền vững được đề cập Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -4- Líp: VHL 301
  5. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh đến và được chính thức đưa ra tại hội nghị của Uỷ ban thế giới về phát triển môi trường CED (năm 1987 với tên gọi chính thức là Uỷ ban Brundtlant). Theo định nghĩa của Brundtlant thì “ Phát triển bền vững được hiểu là hoạt động phát triển kinh tế nhằm đáp ứng được các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của thế hệ mai sau”. Tuy nhiên nội dung chủ yếu của phát triển bền vững đề cập đến trong định nghĩa này chỉ xoay quanh vấn đề phát triển kinh tế.[13,7] Trong năm 1980, tổ chức bảo tồn Thiên nhiên thế giới (IUCN) đã đưa ra một khái niệm khác về phát triển bền vững. Theo đó “ Phát triển bền vững phải cân nhắc đến hiện trạng khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên có khả năng tái táo và không tái tạo đến các điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức kế hoạch hoạt động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau”. [13,7]. Điều này cho thấy mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của hầu hết các nước trên thế giới phải được xác định trong mối quan hệ bền vững. Mặc dù còn nhiều tranh luận xung quanh khái niệm về phát triển bền vững ở những góc độ khác nhau, tuy nhiên có thể nhận thấy rằng cho đến nay khái niệm mà Uỷ ban Thế giới về phát triển và môi trường WCED đưa ra năm 1987 được sử dụng rộng rãi, làm chuẩn mực để so sánh các hoạt động phát triển có trách nhiệm đối với môi trường. Sau này, quan niệm về phát triển bền vững đã được các nhà khoa học trên thế giới phát triển và bổ sung thêm. Tại Hội nghị về môi trường, toàn cầu RIO_92 và RIO_92+5, khái niệm về phát triển bền vững được thảo luận, bổ sung và mở rộng theo đó “ Phát triển bền vững được hình thành trong sự hài hoà, đan xen va thoả hiệp của 3 hệ thống tương tác là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ văn hoá - xã hội”.[6,60] Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -5- Líp: VHL 301
  6. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh Biểu đồ 1: Quan niệm về phát triển bền vững Hệ xã hội Phát triển bền vững Hệ kinh tế Hệ tự nhiên Dưới quan điểm phát triển bền vững này, Jacobs và Saller (1992) cho rằng phát triển bền vững là kết quả tương tác qua lại và phụ thuộc lẫn nhau của 3 hệ thống nói trên, đồng thời xác định phát triển bền vững không cho phép con người vì sự ưu tiên phát triển của hệ này mà gây ra suy thoái và tàn phá đối với hệ khác, hay nói cách cụ thể thì phát triển bền vững là sự dung hoà các tương tác và sự thoả hiệp giữa 3 hệ thống nói trên nhằm đưa ra các mục tiêu hẹp hơn cho sự phát triển bền vững bao gồm: - Tăng cường sự tham gia có hiệu quả cộng đồng vào những quyết định mang tính chất chính trị trong quá trình phát triển của xã hội. - Tạo ra những khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà không làm suy thoái tài nguyên thông qua áp dụng những thách thức mới về khoa học kỹ thuật. - Giải quyết những xung đột do phát triển không công bằng. Khái niệm “ Phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thâp niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở Việt Nam khá muộn nhưng trong những năm gần đây, lý luận về phát triển bền vững cũng được các nhà khoa học, nhà lý luận quan tâm nghiên cứu trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu về lý luận và kinh nghiệm quốc tế về phát triển bền vững đối với những hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -6- Líp: VHL 301
  7. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng tài nguyên tự nhiên và nhân văn rất phong phú. Tuy nhiên trong quá trình lịch sử, nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường của Việt Nam bị nhiều tác động đặc biệt là hậu quả của 2 cuộc chiến tranh và tiếp đó là việc khai thác thiếu khoa học của con người. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu lý luận làm cơ sở để phân tích, đưa ra các giải pháp đảm bảo sự phát triển bền vững phù hợp với đặc điểm Việt Nam là hết sức cấp bách và cần thiết. Các vấn đề về phát triển bền vững ở nước ta còn được cụ thể hoá trong các văn bản quan trọng. Hơn cả là chỉ thị số 36/TC ngày 25/6/1998 của Bộ Chính Trị BCHTW Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định mục tiêu và các quan điểm cơ bản cho phát triển bền vững chủ yếu dựa vào hoạt động môi trường.[5] Đồng thời trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) cũng đã chính thức đề cập đến khía cạnh bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hợp lý tài nguyên như một cấu thành không thể tách rời của phát triển bền vững.[1] Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định chiến lược phát triển của nước ta trong 20 năm tới là “Phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường” và “sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ cải thiện môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, coi đây là một nội dung chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội”. [13] Qua nội dung các văn bản trên ta thấy nhận thức thực tế về phát triển bền vững trên cả khái cạnh kinh tế, xã hội và môi trường đã được thể hiện một cách đầy đủ rõ ràng trong đường lối của Đảng ta. 1.1.2 Phát triển du lịch bền vững Khái niệm phát triển du lịch bền vững không tách rời khái niệm về phát triển bền vững. Ngay từ những năm 1980 khi các vấn đề về phát triển bền vững được đề cập, tiến hành nghiên cứu thì có nhiều nghiên cứu khoa học được thực Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -7- Líp: VHL 301
  8. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh hiện nhằm đưa ra các khía cạnh ảnh hưởng của du lịch có liên quan đến phát triển du lịch bền vững. Nhiệm vụ trọng tâm của những nghiên cứu này nhằm để giải thích cho sự cần thiết đảm bảo tính toàn vẹn của môi trường sinh thái, các giá trị văn hoá trong khi tiến hành các hoạt động khai thác tài nguyên phục vụ phát triển du lịch, góp phần tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững. Từ đầu thập niên 90, các nhà khoa học trên thế giới đã đề cập nhiều đến việc phát triển du lịch với mục đích đơn thuần về kinh tế đang đe doạ huỷ hoại môi trường sinh thái đến các nền văn hoá bản địa. Hậu quả của các tác động này sẽ làm ảnh hưởng đến bản thân sự phát triển lâu dài của ngành du lịch. Chính vì vậy đã xuất hiện yêu cầu “ Nghiên cứu phát triển du lịch bền vững” nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của hoạt động đảm bảo sự phát triển lâu dài. Một số loại hình du lịch du lịch quan tâm đến khía cạnh môi trường đã bắt đầu xuất hiện như: du lịch sinh thái, du lịch dựa vào thiên nhiên, du lịch khám phá, du lịch mạo hiểm, du lịch xanh đã đóng góp phần nào vào việc nâng cao hình ảnh về một hướng phát triển du lịch có trách nhiệm đảm bảo sự phát triển bền vững. Theo định nghĩa của tổ chức du lịch thế giới (WTO) đưa ra tại hội nghị về môi trường và phát triển của Liên Hiệp Quốc tại Rio de Janerio năm 1992 thì “Du lịch bền vững là sự phát triển của hoạt động du lịch nhằm đắp ứng nhu cầu bảo tồn và tôn tạo các tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, văn hoá, thẩm mỹ của con người trong khi đó vẫn duy trì được sự toàn vẹn về văn hoá, đa dang sinh học, sự phát triển của hệ sinh thái và cả hệ thống hỗ trợ của con người”.[8] Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế (WTTC), 1996 thì “ Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho thế hệ du lịch btrong tương lai ”[7]. Hiện nay đa số cho rằng du lịch bền vững được hiểu là “ Hoạt động khai thác xã hội tự nhiên và văn hoá nhằm thoả mãn các nhu cầu đa dạng của khách Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -8- Líp: VHL 301
  9. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh du lịch, có quan tâm đến lợi ích kinh tế dài hạn, đồng thời tiếp tục duy trì các khoản đóng góp cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sông của cộng đồng địa phương.”[8]. Như vậy với những quan điểm trên đây thì có thể coi du lịch bền vững là một nhánh của phát triển bền vững nói chung đã được Hội nghị Uỷ Ban Thế Giới về phát triển và môi trường (hay Uỷ ban Brundtlant) xây dựng năm 1987. Ở Việt Nam, khái niệm du lịch bền vững còn khá mới. Tuy nhiên thông qua các bài học kinh nghiệm thực tế về phát triển du lịch ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực, nhận thức về một phương thức phát triển du lịch có trách nhiệm với môi trường, có tác dụng nâng cao đời sống cho cộng đồng đã xuất hiện ở Việt Nam dưới hình thức các loại hình du lịch tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu với tên gọi là : “du lịch sinh thái”, “ du lịch thiên nhiên”. Theo Khoản 21, điều 4, chương 1_ Luật Du Lịch Việt Nam (2005): “ Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại của tương lai”[10] Mặc dù vẫn còn có những quan điểm chưa thực sự thống nhất với khái niệm phát triển du lịch bền vững từ các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực du lịch và lĩnh vực khác liên quan, song đến nay đa số các ý kiến cho rằng: “ Phát triển du lịch bền vững là hoạt động khai thác có quản lý các giá trị tài nguyên tự nhiên và nhân văn nhằm thoả mãn các nhu cầu đa dạng của khách du lịch, có quan tâm đến các lợi ích kinh tế dài hạn trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên, duy trì được sự toàn vẹn về văn hoá để phát triển hoạt động du lịch trong tương lai và góp phần nâng cao mức sống của cồng đồng địa phương”. Như vậy, Du lịch bền vững đòi hỏi ta phải chú ý đến cả 3 hệ sinh thái: xã hội, nhân văn và kinh tế. Các lợi ích của 3 hệ này được chú ý và có tầm quan trọng như nhau để từ đó có được một nền du lịch bền vững. 1.1.3 Các tiêu chí cơ bản về phát triển du lịch bền vững Phát triển du lịch bền vững là một phạm trù còn mới trong chiến lược phát triển du lịch ở nước ta. Vì vậy việc nghiên cứu và xây dựng các dấu hiệu này các Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -9- Líp: VHL 301
  10. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh nhà quản lý có thể có những giải pháp phù hợp và kịp thời nhằm đìều chỉnh các hoạt động nhằm đạt tới trạng thái bền vững hơn cho quá trình phát triển. Tuy nhiên không phải vì vậy mà có thể đánh giá phát triển du lịch bền vững một cách tuỳ tiện mà phải dựa vào các tiêu chí cơ bản về phát triển du lịch bền vững bao gồm các tiêu chí sau: 1.1.3.1 Các tiêu chí kinh tế Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo sự tăng trưởng liên tục và ổn định lâu dài của các chỉ tiêu kinh tế du lịch (chỉ tiêu về khách du lịch, thu nhập, GDP, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động ). Theo xu thế phát triển hiện nay ở trong nước và trên thế giới, các chỉ tiêu kinh tế đã phát triển liên tục trong nhiều năm (thường là trên dưới 10 năm) ở mức trung bình khoảng 7-10 % năm thì được coi là phát triển bền vững. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào trình độ phát triển và mức khởi điểm của các chỉ tiêu kinh tế ở mỗi nước, mỗi địa phương mà mức độ tăng trưởng sẽ cao hay thấp khác nhau được lựa chọn để đánh giá tính bền vững. Với tiêu chí này, cần đề cập đến những chỉ tiêu cụ thể sau: a. Chỉ tiêu khách du lịch Đây là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu đối với quá trình phát triển du lịch. Chỉ tiêu khách du lịch quyết định sự thành công hay thất bại, quyết định sự phát triển bền vững hay không bền vững của ngành du lịch. Để đánh giá được tính phát triển bền vững hay không thì tiêu chí khách du lịch phải tăng trưởng liên tục năm này qua năm khác trong thời gian tối thiểu hàng chục năm hoặc lâu hơn. Trong chỉ tiêu khách du lịch, ngoài số lượng tuyệt đối về khách, các chỉ tiêu khác cần phải tính đến quá trình phát triển bền vững đó là số ngày lưu trú trung bình, số khách quay trở lại, khả năng thanh toán, mức độ hài lòng của khách. Các hoạt động phát triển du lịch tự phát thường chỉ quan tâm đến việc thu hút khách đến và thường không chú trọng đến chất lượng nguồn khách (khả năng chi trả, trình độ văn hoá ) đến thời gian dài ngày hay ngắn ngày, đến mức độ hài lòng và mong muốn quay trở lại của họ. Sẽ là tốt hơn và có hiệu quả kinh tế hơn và đảm bảo sự phát triển bền vững hơn trường hợp lượng khách du lịch ít (không gây áp lực đến tài nguyên, môi trường) nhưng thời gian lưu trú dài hơn Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -10- Líp: VHL 301
  11. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh và có khả năng chi trả cao hơn. Thực tế cho thấy ở những nơi được xem là ngành kinh tế mũi nhọn thì trong chiến lược phát triển du lịch thường có xu hướng quan tâm đến các chi tiết về số lượng. Điều này vẫn đảm bảo cho sự tăng trưởng về thu nhập du lịch (một chỉ tiêu quan trọng khác) trong khi đó hạn chế được chi phí cho việc khắc phục được các sự cố về tài nguyên, môi trường do áp lực quá tải về số lượng khách. Sự quay trở lại của khách du lịch cũng là một trong những chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển bền vững của du lịch. Chất lượng sản phẩm du lịch, chất lượng các dịch vụ bổ sung, chất lượng của đội ngũ trong lao động du lịch sẽ đảm bảo đáp ứng mức độ hài lòng của khách du lich làm tăng thêm mong muốn quay trở lại của họ và cũng chính họ sẽ là người quảng cáo tốt nhất cho hoạt động du lịch. Tỷ lệ khách du lịch quay trở lại càng chứng tỏ rằng hoạt động du lịch đang phát triển đúng hướng và có hiệu quả. Điều này càng quan trọng đối với những đối tượng khách du lịch từ những thị trường khách có khả năng chi trả cao, có thời gian lưu trú dài ngày. Như vậy để đảm bảo cho du lịch phát triển bền vững thì ngoài sự phát triển liên tục của chi tiêu về số lượng khách, các chỉ tiêu khác có liên quan đến khách du lịch( ngày lưu trú, mức chi tiêu, mức độ hài lòng ) cũng cần được phát triển liên tục và bền vững. b. Chỉ tiêu thu nhập và tổng sản phẩm quốc nội ngành du lịch (GDP du lịch) Các hoạt động du lịch đều mang ý nghĩa kinh tế và đều hướng tới mục tiêu quan trọng là thu nhập, lợi nhuận và đóng góp cho ngân sách nhà nước. Thu nhập du lịch là một chỉ tiêu quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của du lịch cả nước nói chung và du lịch của địa phương nói riêng, là mức đo mức độ phát triển và cho sự thành công của ngành du lịch. Chỉ tiêu thu nhập du lịch liên quan chặt chẽ đến chỉ tiêu khách du lịch, sự tăng trưởng liên tục của khách du lịch sẽ kéo theo sự tăng trưởng về thu nhập và sẽ đóng góp quan trọng cho sự phát triển bền vững của du lịch. Thu nhập du lịch (của vùng lãnh thổ nào đó) bao gồm tất cả các khoản thu nhập được do khách du lịch chi trả (khi đến lãnh thổ đó) cho dịch vụ lưu trú và Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -11- Líp: VHL 301
  12. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh ăn uống, vận chuyển khách du lịch (không kể vận chuyển quốc tế), các dịch vụ vui choi giải trí, mua sắm hàng lưu niệm và các dịch vụ bổ sung khác. Trên thực tế, tất cả các khoản thu này không phải chi do ngày du lịch trực tiếp thu mà còn do nhiều ngành khác, nhiều thành phần khác tham gia vào hoạt động du lịch thu. Ngoài ra còn một số ngành dịch vụ khác không những chỉ phục vụ người dân địa phương mà còn phục vụ cho cả khách du lịch (dịch vụ y tế, ngân hàng, bưu điện, phim ảnh, giao thông cộng cộng, bảo hiểm ). Trong trường hợp này, một phần chỉ tiêu của khách du lịch do ngành khác thu. Do vậy tất cả các khoản thu từ khách du lịch (cho dù các khoản thu này không phải do ngành du lịch trực tiếp thu) đều được tính vào tổng thu nhập du lịch. Giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu, là thước đo sự phát triển kinh tế nói chung và của từng ngành nói riêng. Sự phát triển và gia tăng liên tục của chỉ tiêu GDP sẽ phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế có bền vững hay không?. Đối với ngành du lịch, việc tăng trưởng thường xuyên, liên tục của chi tiêu GDP không chỉ đảm bảo cho sự phát triển bền vững về mặt kinh tế mà còn cho thấy vị trí của ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Tỷ trọng GDP càng cao, ổn định và tăng trưởng theo thời gian thì ngành du lịch càng phát triển gần với mục tiêu phát triển bền vững. Như vậy, chỉ tiêu thu nhập du lịch và tổng sản phẩm quốc nội là những tiêu chí quan trọng, đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền vững về mặt kinh tế. c. Chỉ tiêu hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch (bao gồm các cơ sở lưu trú ăn uống, vui chơi giải trí, các phương tiện vận chuyển, các khu du lịch, các cơ sở dịch vụ bổ sung khác ) là thước đo phản ánh trình độ phát triển của ngành du lịch. Sự phát triển cả về số lượng, chủng loại và chất lượng của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, một mặt đáp ứng được mọi nhu cầu của mọi đối tượng khách, mặt khác góp phần quan trọng vào việc hấp dẫn, thu hút khách, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngành. Để có một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật có chất lượng cao thì vấn để đầu tư rất quan trọng. Nếu không được đầu tư hoặc đầu tư không đồng bộ thì hệ Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -12- Líp: VHL 301
  13. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch sẽ nghèo nàn, lạc hậu, kém chất lượng và không có khả năng hấp dẫn khách du lịch, không có khả năng lưu giữ khách du lịch dài ngày, làm giảm khả năng chi tiêu của họ, dẫn đến giảm nguồn thu nhập và như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của du lịch. d. Chỉ tiêu nhân lực ngành du lịch Đây là chỉ tiêu quyết định chất lượng và giá cả của sản phẩm dịch vụ, là yếu tố quyết định sự hài lòng của khách. Bởi thế nên sự phát triển về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ lao động du lịch sẽ đảm bảo cho sự phát triển về mặt chất lượng của sản phẩm, chất lượng các dịch vụ du lịch và như vậy sẽ góp phần đáng kể vào quá trình phát triển du lịch bền vững. Du lịch là một ngành có nhu cầu cao đối với đội ngũ lao động. Do vậy trong hoạt động du lịch, chất lượng đội ngũ lao động luôn là yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định. Điều này càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của hoạt động du lịch. Chất lượng đội ngũ lao động sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm dịch vụ, chất lượng dịch vụ và kết quả cuối cùng là ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đến sự tăng trưởng của các chỉ tiêu du lịch khác. Như vậy, chất lượng đội ngũ lao động được đào tạo không chỉ là thu hút yếu tố thu hút khách, nâng cao uy tín của ngành, của đất nước mà còn là yếu tố quan trọng trong việc cạnh tranh thu hút khách đảm bảo sử phát triển du lịch bền vững. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ du lịch theo hướng dẫn bền vững về mặt chuyên môn bên cạnh những kỹ năng nghề nghiệp giỏi, kỹ năng giao tiếp tốt, thông thạo ngoại ngữ, cần được trang bị kiến thức vê tài nguyên, quản lý môi trường, kinh tế môi trường, luật môi trường, và hệ thống kiến thức sâu rộng về mặt xã hội. Về mặt kỹ thuật, đào tạo đội ngũ cán bộ trở thành các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vự khác nhau, hiểu được những mối quan hệ sinh thái mà có thể giúp đỡ moi người dân và khách du lịch trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên tốt hơn. Sự phát triển cả về chất lượng và số lượng, cơ cấu của đội ngũ lao động du lịch sẽ đảm bảo sự phát triển về chất lượng các sản phẩm du lịch, chất lượng Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -13- Líp: VHL 301
  14. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh các dịch vụ du lịch và như vậy sẽ góp phần đáng kể và quá trình phát triển bền vững. e. Tinh thần trách nhiệm trong hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch Hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thu hút khách du lịch. Tính trách nhiệm trong hoạt động tuyên truyền quảng bá thông qua việc cung cấp đầy đủ và trung thực thông tin về tuyến điểm, về sản phẩm du lịch sẽ tạo được lòng tin cho du khách và ảnh hưởng du lịch đồng nghĩa với việc tăng trưởng kinh tế thông qua hoạt động du lịch. 1.1.3.2 Các tiêu chí về tài nguyên, môi trường Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo khai thác và sử dụng một cách hợp lý có hiệu quả các tiềm năng tài nguyên cho phát triển du lịch cần được quản lý và giám sát để một mặt đáp ứng các nhu cầu hiện tại, mặt khác phải đảm bảo cho nhu cầu phát triển du lịch trong tương lai. Với tiêu chí này, trong quá trình phát triển, ngành du lịch cần phải có những đóng góp tích cực cho công tác bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và bảo vệ môi trường để giảm thiểu các tác động của hoạt động du lịch đến nguồn tài nguyên môi trường. Tiêu chí này bao gồm: a. Số lượng (tỷ lệ) các khu, điểm du lịch được đầu tư tôn tạo và bảo tồn. Mục tiêu của phát triển du lịch bền vững là nhằm hạn chế tối đa việc khai thác quá mức và lãng phí các nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên tự nhiên không có khả năng tái tạo. Chính vì vậy, chỉ tiêu về số lượng các khu, điểm du lịch được bảo tồn và tôn tạo được coi là một trong số các tiêu chí cơ bản của sự phát triển bền vững của hoạt động du lịch về mặt tài nguyên môi trường. Nơi nào càng có nhiều khu, điểm du lịch được đầu tư, bảo tồn, tôn tạo thì chứng tỏ hoạt động phát triển du lịch của nơi đó cùng với mục tiêu phát triển bền vững. Việc xây dựng và quy hoạch du lịch làm căn cứ cho việc triển khai thực hiện các kế hoạch, các dự án phát triển cụ thể đóng vai trò quan trọng trong hoạt động phát triển du lịch. Từ đó xác định các phương án phát triển phù hợp, đảm bảo có khai thác hiệu quả tiềm năng tài nguyên du lịch và đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế tác động của du lịch đến tài nguyên, môi trường mang lại hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, hướng tới phát triển một cách bền vững. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -14- Líp: VHL 301
  15. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh b. Áp lực lên tài nguyên, môi trường tại các khu, điểm du lịch Một trong những mục tiêu mà phát triển du lịch bền vững hướng tới là bảo vệ môi trường. Việc phát triển quá nhanh các hoạt động du lịch mà không chú trọng tới công tác đánh giá và quản lý tác động đến môi trường tại các khu vực phát triển du lịch là nguyên nhân chính gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường tại đây và kết quả sẽ là sự phát triển thiếu bền vững của du lịch. Do đó việc đánh giá áp lực các tác động môi trường tại các khu du lịch là một tiêu chí quan trọng đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững. Nếu thiếu hoặc thể hiện không đầy đủ các thủ tục đánh giá tác động môi trường thì quá trình phát triển du lịch sẽ thiếu tính bền vững. Vấn đề quản lý áp lực lên tài nguyên, môi trường tại các khu, điểm du lịch cũng liên quan đến vấn đề sức chứa. Đó là việc quản lý số lượng khách đến hoặc vượt quá khả năng đáp ứng về tài nguyên và không làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển của các hệ sinh thái trong khu vực. c. Cường độ hoạt động tại các khu, điểm du lịch Khách du lịch là đối tượng quan tâm hàng đầu xác định cho sự tồn tại và phát triển của ngành du lịch. Sự gia tăng của số lượng khách đến một điểm du lịch càng tăng sẽ chứng tỏ sự phát triển lớn mạnh của điểm du lịch đó. Tuy nhiên việc gia tăng mạnh mẽ về số lượng khách du lịch sẽ đồng nghĩa với việc các nguồn tài nguyên du lịch bị khai thác quá mức để đáp ứng nhu cầu du lịch của phong kiến. Điều đó dẫn đến tình trạng suy thoái và cạn kiệt các nguồn tài nguyên (một số loài sinh vật đặc hữu được dùng cho các nhu cầu sản xuất hàng lưu niệm, các món ăn đặc sản, các vị thuốc quý ). Sự gia tăng nhanh của du khách còn gây ra hiện tượng quá tải về chất thải tại các điểm du lịch, làm cho môi trường tại nơi đó không đảm bảo và dẫn đến hiện tượng bị suy thoái môi trường. Một trong những vấn đề liên quan đến phát triển du lịch bền vững là việc tiêu thụ và sử dụng các nguồn tài nguyên, năng lượng cơ bản như nước, điện, than, củi phục vụ cho sinh hoạt cộng đồng địa phương và khách du lịch. Các hoạt động du lịch phát triển tất yếu sẽ dẫn đến sự gia tăng trong nghiên cứu sử Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -15- Líp: VHL 301
  16. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh dụng các nguồn năng lượng. điều này dẫn đến sự thiếu hụt các nguồn năng lượng, cạn kiệt nguồn tài nguyên. Từ những mâu thuẫn trên đây, việc phát triển du lịch bền vững một mặt phải đảm bảo được sự gia tăng về du khách nhưng đồng thời phải xác định được cường độ hoạt động của khách tại các điểm du lịch sao cho không vượt quá ngưỡng tiêu chuẩn cho phép của môi trường, tiêu chuẩn về tiêu thụ năng lượng và sức chứa. d. Mức độ đóng góp từ thu nhập du lịch cho công tác bảo tồn tài nguyên và bảo vệ môi trường Việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên không chỉ mang lại nguồn thu cho ngành du lịch mà còn đóng góp một phần vào ngân sách của cộng đồng địa phương_Cơ quan chủ quản của các nguồn tài ngguyên. Nguồn thu này có thể có được từ hoạt động bán vé tham quan di tích, thắng cảnh, vé cho các sản phẩm thủ công truyền thống hay các đặc sản của địa phương được tính vào tổng thu nhập du lịch. Từ nguồn thu này, ngành du lịch sẽ đóng góp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan chủ quản các nguồn tài nguyên du lịch với mục đich tôn tạo, bảo tồn và nâng cấp nguồn tài nguyên trong đó. Mức độ đóng góp của ngành du lịch càng cao thì càng thể hiện bền vững của ngành du lịch và chứng tỏ đây là tiêu chí không thể thiếu trong việc đánh giá sự phát triển về mặt tài nguyên môi trường của dịch vụ du lịch. 1.1.3.3 Các tiêu chí về xã hội Đây là tiêu chí quan trọng thể hiện tính bền vững trong phát triển du lịch. Yếu tố này đòi hỏi ngành du lịch phải có những đóng góp cụ thể cho quá trình phát triển của toàn xã hội như: tạo công ăn việc làm cho người lao động, tham gia xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở những vùng sâu, vùng xa_nơi có tài nguyên du lịch, chia sẻ lợi ích từ các hoạt động du lịch, đảm bảo sự công bằng trong phát triển, góp phần hỗ trợ của các ngành khác cùng phát triển. a. Mức độ phát triển hệ thống các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường luôn có nhiều thay đổi bởi nhiều Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -16- Líp: VHL 301
  17. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh yếu tố khách quan thì việc phát triển hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một điều tất yếu. Việc phát triển hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ không những hạn chế bớt rủi ro trong quá trình hoạt động mà còn tạo ra công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ cư dân địa phương, cải thiện chất lượng cuộc sống, thu hút các nguồn lực phát triển du lịch đảm bảo phát triển bền vững về mặt kinh tế, xã hội. b. Tác động đến xã hội từ các hoạt động du lịch Du lịch là một ngành kinh tế mang tính xã hội cao, vì vậy sự phát triển của nó có những tác động mạnh mẽ đến nhiều mặt của đời sống xã hội bao gồm cả 2 mặt tiêu cực và tích cực. Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững về mặt xã hội, vấn đề đặt ra là cần phát huy hơn nữa nhiều mặt tích cực và kiểm soát, quản lý chặt chẽ nhằm hạn chế những tiêu cực như cần có hệ thống văn bản pháp luật của nhà nước và quyết định của chính quyền địa phương để kịp thời phát hiện xử lý các vi phạm, từng bước khắc phục những hạn chế do tác động của hoạt động du lịch gây ra. c. Mức độ hài lòng và hợp tác của cộng đồng địa phương với các hoạt động du lịch Mức độ hài lòng và hợp tác của cộng đồng địa phương với các hoạt động du lịch đóng vai trò rất lớn trong việc phát triển du lịch bền vững bởi họ chính là chủ nhân của nguồn tài nguyên du lịch. Nếu có được sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng thì chính họ là người bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch và môi trường. Do vậy mức độ hài lòng của cộng đồng dân cư đối với các hoạt động du lịch sẽ phản ánh mức độ bền vững của du lịch trong quá trình phát triển. Để có được sự hài lòng và hợp tác của cư dân địa phương thì vai trò và trách nhiệm của họ phải đựơc quan tâm hàng đầu, cụ thể là: - Phải phát huy được vai trò của cộng đồng địa phương trong việc giám sát, thực hện các dự án quy hoạhc và đầu tư phát triển du lịch. - Tăng cường khả năng tham gia của cộng đồng địa phưong trong công tác tuyên truyền giáo dục ý thức bảo vệ tài nguyên môi trường. - Ưu tiên cho người dân địa phương tham gia vào các hoạt động kinh Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -17- Líp: VHL 301
  18. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh doanh du lịch trên địa bàn, tạo công ăn việc làm, cải thiện chất lượng cuộc sống. - Phúc lợi xã hội chung cho cộng đồng địa phương được nâng cao lên nhờ các hoạt động phát triển du lịch trên địa bàn địa phương 1.1.4 Mục tiêu của phát triển du lịch bền vững Du lịch bền vững đòi hỏi phải chú ý đến sự phát triển của cả 3 hệ: kinh tế, môi trường, xã hội. Các lợi ích của cả 3 hệ này phải được chú ý và được coi là có tầm quan trọng như nhau để từ đó có được một nền du lịch bền vững. - Phát triển bền vững về kinh tế: Du lịch là một ngành kinh tế nên phát triển du lịch bền vững về kinh tế thu nhập phải lớn hơn chi phí, phải đạt được sự tăng trưởng cao, ổn định trong thời gian dài, tối ưu hoá đóng góp cho ngành du lịch vào thu nhập quốc dân, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. - Phát triển bền vững về môi trường: Phải sử dụng bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch theo hướng tiết kiệm bền vững, đảm bảo sự tái tạo và phục hồi của tài nguyên, nâng cao chất lượng của tài nguyên và môi trường, thu hút cộng đồng khách du lịch và các hoạt động bảo tồn vào tôn tạo tài nguyên. - Phát triển bền vững về xã hội: Thu hút cộng đồng tham gia vào các hoạt động du lịch, tạo nhiều việc làm góp phần nâng cao chất lượng du lịch, đáp ứng cao độ nhu cầu của khách du lịch. 1.1.5 Các nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững Là một ngành kinh tế tổng hợp có định hướng rõ rệt, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, vì vậy du lịch muốn phát triển bền vững đòi hỏi sự đồng bộ và nỗ lực chung của toàn xã hội. Do đó, để đảm bảo được sự phát triển du lịch bền vững trong quá trình phát triển du lịch cần phải thực hiện các nguyên tắc nhất định sau: [7] 1.1.5.1 Sử dụng nguồn lực một cách bền vững Mọi hoạt động phát triển kinh tế, du lịch đều liên quan đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên tự nhiện và tài nguyên nhân văn. Nhiều nguồn tài nguyên trong đó không thể tái tạo hay thay thế được thì khả năng tái tạo phải trải qua một thời gian rất dài đến hàng triệu năm. Chính vì vậy việc bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên tự nhiên và nhân văn là rất quan trọng và cần thiết, nó giúp Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -18- Líp: VHL 301
  19. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh cho việc kinh doanh, phát triển lâu dài. Trong quá trình khai thác, việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên là nguyên tắc quan trọng hàng đầu. Nếu các nguồn tài nguyên được khai thác hợp lý, bảo tồn và sử dụng bền vững đảm bảo quá trình tự duy trì và tự bổ sung được diễn ra theo những quy luật tự nhiên hoặc thuận lợi hơn do có sự tác động của con người thông qua việc đầu tư, tôn tạo thì sự tôn tạo đó sẽ đáp ứng lâu dài nhu cầu phát triển của du lịch qua nhiều thế hệ. Ngày nay, trong quá trình quy hoạch các dự án phát triển du lịch cần xây dựng những phương cách, chiến lược bảo tồn, tôn tạo, khai thác tài nguyên du lịch theo hướng tiết kiệm, hợp lý để lưu lại cho thế hệ tương lai một nguồn tài nguyêsn không kém hơn so với những gì thế hệ trước được hưởng. Điều này có nghĩa là trong quá trình khai thác phải tính đến các giải pháp nhằm ngăn chặn sự mất đi của các loài sinh vật, sự suy giảm những chức năng thiết yếu của các hệ sinh thái có giá trị du lịch như các khu rừng nguyên sinh, các vùng ngập nước và khả năng bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. 1.1.5.2 Duy trì tính đa dạng Tính đa dạng về thiên nhiên, văn hóa và xã hội là nhân tố quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của du lịch, làm thoả mãn nhu cầu đa dạng cao, tạo nên khả năng cạnh tranh du lịch và có sức hấp dẫn lớn, đảm bảo cho sự phát triển. Chính vì vậy việc duy trì và tăng cưòng tính đa dạng của thiên nhiên, văn hoá, xã hội là hết sức quan trọng đối với du lịch bền vững lâu dài, là cơ sở cho việc bảo tồn và phát triển của ngành du lịch. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng và thực hiện dự án quy họạch du lịch cũng nhu phát triển du lịch do nhiều nguyên nhân khác nhau nên dễ dàng làm mất đi tính đa dạng của tự nhiên, văn hoá, xã hội. 1.1.5.3 Giảm tiêu thụ quá mức và giảm lượng chất thải Việc khai thác, sử dụng quá mức tài nguyên và không kiểm soát được lượng chất thải du lịch sẽ chỉ dẫn tới sự huỷ hoại môi trường, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên mà không đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của ngành du lịch, đồng thời gây ô nhiểm môi trường, suy thoái tài nguyên, xáo trộn về văn hoá. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -19- Líp: VHL 301
  20. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh Bởi vậy trong việc quy hoạch phát triển du lịch bền vững đúng đắn ngay từ đầu khi lập dự án phải tiến hành đánh giá từ hoạt động du lịch đến tài nguyên môi trường. Từ đó dự kiến những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhằm giảm thiểu tiêu thụ quá mức tài nguyên và giảm lượng chất thải vào môi trường, tránh những chi phí tốn kém cho việc phục hồi tổn hại về môi trường và đóng góp cho chất lượng du lịch. 1.1.5.4 Hợp nhất quy hoạch du lịch và quy trình quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. Du lịch là ngành kinh tế liên ngành, liên vùng, nó có mối quan hệ chặt chẽ với ngành kinh tế, xã hội. Bởi vậy cần hợp nhất quy hoạch phát triển du lịch vào khuôn khổ hoạch định chiến lược của địa phương và quốc gia. Khi sự phát triển là một bộ phận hợp nhất của quy hoạch, kế hoạch phát triển cấp quốc gia hoặc địa phương nếu coi phát triển du lịch là một tổng thể thì sẽ mang lại lợi ích tối đa và dài hạn hơn cho nền kinh tế xã hội của quốc gia, địa phương và cho cả phát triển du lich. Điều này sẽ khuyến khích việc bảo tồn, tôn tạo và khai thác tài nguyên môi trường du lịch hiệu quả hơn, góp phần hấp dẫn du khách và nâng cao đời sống cộng đồng địa phương. Khi hòa nhập phát triển quy hoạch du lịch và quy hoạch kinh tế xã hội , ngành du lịch sẽ được đầu tư, phát triển phù hợp đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. 1.1.5.5 Hỗ trợ kinh tế địa phương và thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương - Hổ trợ kinh tế địa phương: Nguồn tài nguyên mà ngành du lịch sử dụng vốn thuộc quyền sở hữu chung của người dân bản địa như đường giao thông, điện nước, hệ thống xử lý chất thải, thông tin liên lạc .có thể không chỉ phục vụ cho ngành du lịch nhưng vẫn thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Hoạt động du lịch một mặt mang lại hiệu quả tích cực cho kinh tế xã hội của địa phương mặt khác cũng để lại hậu quả tiêu cực cho tài nguyên môi trường và kinh tế địa phương. Trong quá trình hoạch định các giải pháp chính sách khi quy hoạch du lịch cần phải tính đến đóng góp từ thu nhập du lịch cho kinh tế cộng đồng và quốc gia. - Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương: Việc tham gia của cộng Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -20- Líp: VHL 301
  21. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh đồng địa phương là rất cần thiết với ngành du lịch. Điều này có ý nghĩa lớn góp phần quan trọng đến phát triển du lịch bền vững của ngành du lịch. Bởi lẽ theo kinh nghiệm thực tế về phát triển du lịch ở nhiều nước cho thấy, sự tham gia của cộng đồng địa phương có thể làm phong phú thêm kinh nghiệm và sản phẩm du lịch đồng thời có thể giúp họ cải thiện cuôc sống, xoá đói giảm nghèo, góp phần thu lại được nhiều ngoại tệ có lợi cho cả cộng đồng địa phương và khách du lịch đồng thời cũng nâng cao triển vọng phát triển phát triển lâu dài của sản phảm du lịch như chuyên chở, cho thuê nhà, phòng ngủ, sản phẩm đồ thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm . 1.1.5.6 Lấy ý kiến quần chúng và các đối tượng liên quan Trao đổi, tham khảo, lấy ý kiến của quần chúng, các tổ chức và các cơ quan khác nhau, các doanh nghiệp du lịch là việc làm rất cần thiết để đánh giá tính khả thi của một dự án. Đây không chỉ là quá trình nhằm dung hoà phát triển kinh tế với những quan tâm khác của cộng đồng địa phương, với những tác động tiềm ẩn của sự phát triển lên môi trường tự nhiên, văn hoá, xã hội mà còn là một bước nhằm nâng cao nhận thức của bên tham gia với dự án quy hoạch cùng giải quyết những mâu thuẫn tiềm ẩn về quyền lợi, đồng thời có các biện pháp để giảm thiểu các tác động tiêu cực và tối đa hoá sự đóng góp tích cực của quần chúng địa phương. Chính vì vậy trong quá trình triển khai các dự án quy hoạch du lịch còn phải vận dụng nguyên tắc này trong điều tra xã hội, lấy ý kiến của các đối tượng liên quan và cộng đồng địa phương để cùng nhau giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển, giải toả các mâu thuẫn tiềm ẩn, tìm thấy các nguyên nhân bất đồng, những vấn đề cần giải quyết. Điều này sẽ đảm bảo sự gắn kết và có trách nhiệm hơn giữa các thành phần kinh tế với địa phương và các ngành với nhau góp phần tích cực cho sự phát triển bền vững của ngành trong đó có ngành du lịch. 1.1.5.7 Tiến hành nghiên cứu Công tác nghiên cứu là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của bất cứ ngành kinh tế nào đặc biệt là ngành có nhiều mối quan hệ trong phát Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -21- Líp: VHL 301
  22. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh triển và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, văn hoá, xã hội như du lịch. Vì vậy để đảm bảo cho sự phát triển bền vững cần có những căn cứ khoa học vững chắc dựa trên việc tiến hành nghiên cứu các vấn đề liên quan. Hơn thế nữa trong quá trình phát triển nhiều yếu tố chủ quan giúp cho việc nhận thức những sai xót, thiếu xót, hạn chế của dự án để từ đó có những giải pháp điều chỉnh bổ sung kịp thời. 1.1.5.8 Đào tạo nhân lực Con người luôn là yếu tố quan trọng nhất đối với sự phát triển của ngành du lịch_một ngành kinh tế đòi hỏi cao về “ lao động sống”. Vì vậy trong quá trình phát triển du lịch bền vững, ngoài các yếu tố kể trên thì cần phải có một đội ngũ quản lý, đội ngũ lao động trực tiếp được đào tạo cơ bản về mọi mặt, có trình độ chuyên môn cao, đem lại lợi ích kinh tế cho ngành và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch đồng thời góp phần bảo vệ tài nguyên và môi trường. Thật vậy, một lực lượng lao động được đào tạo có trình độ chuyên môn cao, có kiến thức về môi trường văn hoá sẽ làm cho du khách có ý thức trách nhiệm và nhận thức đúng về môi trường và những giá trị văn hoá truyền thống. Điều này sẽ góp phần tích cực vào đảm bảo cho sự phát triển bền vững về du lịch. Trong bối cảnh Việt Nam đang từng bước hội nhập với sự phát triển của du lịch khu vực và thế giới, việc nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch để đảm bảo tính cạnh tranh là hết sức quan trọng. Chính vì vậy việc chú trọng đào tạo phát triển nguồn nhân lực có trình độ là một trong những nguyên tắc then chốt đối với sự phát triển bền vững của du lịch. 1.1.5.9 Nâng cao trách nhiệm trong hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Xúc tiến, quảng cáo luôn là một hoạt động quan trọng đối với phát triển du lịch đảm bảo thu hút khách, tăng cường khả năng cạnh tranh của các sản phẩm du lịch. Chiến lược quảng cáo, tiếp thị đối với du lịch bền vững bao gồm việc xác định, đánh giá và luôn rà xoát để xác định đúng khả năng đáp ứng của các nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn cũng như việc cân đối với các sản phẩm du lịch. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -22- Líp: VHL 301
  23. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh Việc quảng cáo tiếp thị cung cấp cho khách du lịch những thông tin đầy đủ có trách nhiệm sẽ nâng cao sự tôn trọng của du khách đối với môi trường tự nhiên, văn hoá, xã hội và các giá trị nhân văn nơi tham gia, đồng thời sẽ làm giảm những tác động tiêu cực từ hoạt động thu hút khách đảm bảo cho tính bền vững trong phát triển du lịch. Vì vậy khi thực hiện quảng bá, xúc tiến và tiếp thị cần phải đảm bảo tính trung thực, cảm xúc và đầy đủ để đảm bảo tính bền vững trong du lịch. 1.2 Mối quan hệ giữa môi trƣờng và du lịch 1.2.1 Hoạt động du lịch tác động đến môi trường kinh tế-xã hội Trong quá trình phát triển, hoạt động du lịch có tác động nhất định đến môi trường. Các tác động xảy ra không chỉ đối với môi trường tự nhiên mà cả với môi trường xã hội, nhân văn. Các tác động có thể là tích cực làm tăng tính đa dạng sinh học qua việc phát triển cảnh quan cây xanh, công viên, vườn thú phục vụ du lịch hay làm và phát triển các ngành nghề truyền thống. Có thể là tác động tiêu cực đến các công trình tham quan hay sự quá tải tại các điểm du lịch đã tác động đến hệ sinh thái đó là các vườn quốc gia, khu bảo tồn Và cũng có nhiều tác động khác đến môi trường trong quá trình xây dựng như xây dựng mới, cải tạo các cơ sỏ vật chất kỹ thuật cũ để phục vụ du lịch (xây dựng các khu vui chơi giải trí, xây dựng đường xá, cầu cống) hay các hoạt động du lịch tham quan vườn quốc gia, các khu bảo tồn hay các hoạt động thể thao như: bơi lội, tắm biển các dịch vụ như hàng quán, vận chuyển Để đánh giá một cách phù hợp hơn các đối tượng phát triển và dưới góc độ nhìn nhận vào môi trường, các tiềm năng du lịch có thể được thể hiện qua các hoạt động sau: 1.2.1.1 Tác động tích cực Du lịch tích cực sẽ đóng góp cho nền kinh tế xã hội trên 4 lĩnh vực sau: - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập quốc dân: Du lịch là một ngành kinh tế mang tính tổng hợp, liên ngành, liên vùng và xã hội hoá. Do vậy công việc phát triển du lịch góp phần thúc đẩy các nền kinh tế khác phát triển thông qua việc đáp ứng các sản phẩm du lịch phục vụ nhu cầu của khách du lịch Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -23- Líp: VHL 301
  24. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh như: phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc, cấp điện, cấp nước Thu nhập từ du lịch sẽ đóng góp vào việc nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân địa phương thông qua các hoạt động du lịch góp phần đô thị hoá các địa phương có điểm du lịch. - Góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho một cộng đồng địa phương thông qua cung cấp các sản phẩm du lịch phục vụ nhu cầu của khách: Phát triển du lịch từ khâu chuẩn bị đầu tư xây dựng đến khi hoạt động du lịch diễn ra đã tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương như: mở hàng quán phục vụ du lịch, tham gia vào việc xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, tham gia vận chuyển khách Ai cũng thấy được rằng du lịch phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương, khu vực và cả nhà nước. - Góp phần cải thiện cơ sở vật chất hạ tầng và dịch vụ du lịch: Phát triển du lịch kéo theo các dịch vụ đi kèm góp phần cải thiện về cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội cho địa phương như : thông tin liên lạc, y tế, đường giao thông, các khu vui chơi giải trí do có các dự án về du lịch kéo theo các dự án khác đầu tư về cơ sở hạ tầng tới khách du lịch. - Tạo điều kiện giao lưu văn hoá giữa các vùng, các cộng đồng và quốc tế: Việc phát triển du lịch tạo ra cơ hội giao lưu văn hoá của người dân trong vùng và các địa phương trong cả nước với người nước ngoài thông qua giao tiếp với khách du lịch. Phát triển du lịch làm rút ngắn khoảng cách về cơ sở hạ tầng cũng như nhận thức của người dân địa phương. Những tác động về văn hoá của du lịch làm thay đổi cả hệ thống nhận thức đó là tư cách cá nhân, quan hệ gia đình, lối sống tập thể, hành vi đạo đức, nghi lễ truyền thống .qua tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp của người dân địa phương với du khách. 1.2.1.2 Tác động tiêu cực Theo như phân tích trên, có thể thấy những thành tựu mà du lịch mang lại là không nhỏ. Tuy nhiên, cũng như bất kỳ một ngành kinh tế nào nó đều có 2 mặt và du lịch cũng vậy. Nó cũng có nhiều tác động tiêu cực tới môi trường kinh tế và văn hoá xã hội. Những tác động tiêu cực của du lịch tới môi trường kinh tế, Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -24- Líp: VHL 301
  25. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh văn hoá, xã hội thể hiện ở 6 vấn đề sau: - Ảnh hưởng tới kết cấu dân số (số lượng, thành phần) theo ngành nghề do nhu cầu về nhân lực và sức hút thu nhập từ du lịch: Du lịch phát triển sẽ thu hút một lượng lớn lao động từ các ngành nghề khác đặc biệt là ngành nông nghiệp khiến cho lực lượng sản xuất lương thực ngày càng giảm đi đáng kể nhất là khu vực hay vùng có điểm du lịch. Hiện tượng nhập cư của lao động du lịch, các nhà kinh doanh du lịch từ nơi khác đến và vấn đề di cư của người dân địa phương trong khu du lịch nhằm giải phóng mặt bằng để xây dựng cơ sở du lịch đã gây ra nhiều vấn đề khác nhau như: mâu thuẫn giữa người dân địa phương với những nhà đầu tư, mâu thuẫn với dân lao động du lịch nhập cư tìm kiếm việc làm. Chính việc xây dựng các khách sạn, các khu nghỉ dưỡng, các khu vui chơi, giải trí là nguyên nhân việc di chuyển chỗ ở và tái định cư ngoài mong muốn của người dân địa phương do nhu cầu giải phóng mặt bằng. - Gây áp lực lên cơ sở hoạt động du lịch: Do tính mùa vụ của hoạt động du lịch cho nên vào thời kỳ cao điếm số lượng khách đến cũng như nhu cầu sinh hoạt của du khách có thể vượt quá mức khả năng đáp ứng về dịch vụ công cộng và cơ sở hạ tầng của người dân địa phương như còn ùn tắc giao thông, các nhu cầu về cung cấp nước, năng lượng, xử lý chất thải vượt quá khả năng của địa phương nơi diễn ra hoạt động du lịch. - An ninh và trật tự an toàn xã hôi bị đe dọa: Du lịch ngày càng phát triển càng thu hút đông đảo du khách cả nội địa và quốc tế. Nhiều đối tượng khách đến cùng đến một điểm hoặc địa phương nên khó kiểm soát được hết hoạt động của khách. Do vậy các tệ nạn phát sinh do nhu cầu của khách như nạn mại dâm, cờ bạc, ma tuý và tranh dành khách giữa người dân địa phương. Ngoài ra việc phân bổ lợi ích và chi phí du lịch trong nhiều trường hợp chưa thật công bằng gây ra mâu thuẫn giữa người dân địa phương với người làm hoạt động du lịch. - Thay đổi phương thức tiêu dùng: Việc phát triển du lịch đã làm tăng thu nhập cũng như mức sống của người dân địa phương, làm tăng sức mua đồng thời cũng làm tăng giá cả hàng hoá nguyên liệu và thực phẩm. Điều này thể hiện rõ nhất ở sự chi tiêu thoải mái của khách du lịch làm giá cả các mặt hàng trong Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -25- Líp: VHL 301
  26. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh khu vực bị đẩy lên làm ảnh hưởng tới cơ cấu tiêu dùng của nơi có các hoạt động du lịch, đặc biệt là những người có thu nhập thấp. Hơn nữa tỷ trọng du lịch ngày càng tăng cao đòi hỏi người dân phải có những hiểu biết nhất định về cơ chế thị trường. - Chuẩn mực xã hội bị thay đổi trong một số trường hợp làm suy thoái văn hoá truyền thống: Khi du lịch phát triển, người dân trong vùng có điều kiện tiếp xúc với khách du lịch sẽ dẫn tới những quan niệm sống, việc làm bị thay đổi, các hệ thống giá trị nhân cách, quan hệ gia đình, lối sống tập thể, hành vi đạo đức, giá trị truyền thống bị thay đổi. Một số đơn vị kinh doanh du lịch chạy theo lợi nhuận thương mại hoá đã biến lễ hội truyền thống của người dân thành hoạt động trình diễn làm mất đi nghi lễ đối với tôn giáo truyền thống. Các hoạt động du lịch chuyên đề khảo cổ học có thể mâu thuẫn với tín ngưỡng địa phương. - Tăng nguy cơ mắc bệnh lây truyền xã hội: Du lịch gắn liền với việc tiếp xúc giữa người dân địa phương với khách du lịch, do vậy sự thâm nhập của các dòng khách khác về địa lý chủng tộc sẽ kéo theo nguy cơ lan truyền các loại bệnh khác nhau (bệnh đường ruột, bệnh ngoài da, bệnh lây truyền qua đường tình dục ). Ngoài ra ô nhiễm môi trường như rác thải, nước bẩn sẽ làm ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng địa phương. 1.2.2 Tác động của hoạt động du lịch đối với môi trường tự nhiên Du lịch có thể duy trì bảo tồn môi trường tự nhiên nếu hiểu được rằng đó chính là sức hút để phát triển du lịch. Nhưng thật khó có thể tìm được vị trí minh hoạ cho điều này, sau nông nghiệp, lâm nghiệp, du lịch chính là ngành phá hoại nhiều nhất đến sự vật vì du lịch cần rất thứ hỗ trợ để có thể phát triển như giao thông vận tải, năng lượng, các cơ sở hạ tầng đó chính là những thách thức đối với phát triển ngành du lịch. Du lịch cũng chính là đối tượng sử dụng môi trường và khoảng không gian lớn nhất. Ngành du lịch cùng với các dịch vụ kèm theo là những hiểm hoạ đối với môi trường. Một khách du lịch sử dụng khoảng không gian nhiều hơn người dân bản địa gấp 7 lần. Lượng nước một khách du lịch sử dụng một ngày cũng gấp 2 lần người dân địa phương. Ngành du lịch sử dụng không gian gấp Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -26- Líp: VHL 301
  27. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh hơn 100 lần để làm ra lợi nhuận tương tự một doanh nghiệp sản xuất. Sự tiêu thụ năng lượng tiêu thụ của một khách du lịch có thể gấp 100 lần so với người dân bản địa đó chưa kể tới nước ngọt, đồ ăn, giấy vệ sinh và các chất thải khác như giấy gói, xà phòng. Sự tiêu thụ lớn về khoảng không, năng lượng, chất thải và các tác động tiêu cực là yếu tố nội tại không thể bỏ qua. Tiểu kết chƣơng 1: Qua các nội dung đã nghiên cứu ở chương 1, có thể kết luận một số kết luận sau: - Đề tài đã đưa ra được một số vấn đề lý luận về phát triển bền vững, phát triển du lịch bền vững. - Đưa ra được các tiêu chí, mục tiêu, nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch một cách bền vững tạo nên nền tảng để gải quyết các vấn đề cho chương sau. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -27- Líp: VHL 301
  28. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở YÊN TỬ, QUẢNG NINH 2.1 Tài nguyên du lịch 2.1.1 Khái quát về Yên Tử Núi Yên Tử là ngọn núi cao trong dãy núi Đông Triều vùng Đông Bắc Việt Nam. Từ xưa, núi rừng Yên Tử đã nổi tiếng là nơi ngoạn mục và được liệt vào danh sơn đất Việt. Núi thuộc xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vốn là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn núi Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh "đất tổ Phật giáo Việt Nam". Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên gọi là Bạch Vân sơn. Đỉnh núi Yên Tử có chùa Ðồng ở độ cao 1.068m so với mặt nước biển. Tổng chiều dài đường bộ để lên đỉnh Yên Tử (chùa Đồng) là khoảng 6000m với 6 giờ đi bộ liên tục qua hàng ngàn bậc đá, đường rừng núi. Ngay từ thời Lý, Yên Tử đã có chùa thờ Phật gọi là chùa Phù Vân và đạo sỹ Yên Kỳ Sinh đã tu hành đắc đạo ở đây. Nhưng Yên Tử thực sự trở thành trung tâm Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành và thành lập một giáo phái Phật giáo đặc trưng của Việt Nam đó là phái Thiền phái Trúc Lâm và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh: Ðiều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308). Ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo. Sau khi ông qua đời, người kế tục sự nghiệp là Pháp Loa Ðồng Kiên Cương (1284- 1330) vị tổ thứ hai của phái Trúc Lâm. Trong 19 năm tu hành, ông đã soạn ra bộ sách "Thạch thất ngôn ngữ" và cho xây dựng 800 ngôi chùa, am, tháp lớn nhỏ trong nước với hàng nghìn pho tượng có giá trị, trong đó có những chùa nổi tiếng như viện Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên ở Ðông Triều ở trung tâm truyền giáo của Pháp Loa còn có Huyền Quang Lý Ðạo Tái (1254-1334) - vị tổ thứ 3 của phái Trúc Lâm. Sang đến thời Lê, Nguyễn, Yên Tử trở thành trung tâm của Phật giáo Việt Nam và được vua quan các triều đại quan tâm tôn tạo sửa chữa nên khu di tích Yên Tử là kết tinh, sự hội tụ của nền văn hoá dân tộc với dáng dấp kiến trúc, hoa Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -28- Líp: VHL 301
  29. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh văn trang trí và các mảng chạm khắc mang đậm dấu ấn của các thời đại. Vẻ đẹp của Yên Tử là sự kỳ vĩ của núi non hoà với nét cổ kính trầm mặc của hệ thống am, tháp cùng với đường tùng, thông, đại, trúc, mai mọc ở hai bên đường toả bóng mát làm cho du khách thập phương quên nỗi mệt nhọc đường dốc cheo leo. Khu di tích thắng cảnh Yên Tử bao gồm một hệ thống chùa, am, tháp và rừng cây cổ thụ hoà quyện với cảnh vật thiên nhiên, nằm rải rác từ dốc Ðỏ đến núi Yên Tử theo chiều cao dần thuộc xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích danh thắng (số 15VH/QÐ ngày 13/3/1974). Lễ hội chính của Yên Tử diễn ra từ ngày 10 tháng riêng âm lịch và kéo dài trong 3 tháng xuân ấm áp. Hàng chục vạn du khách thập phương kể cả người già, người trẻ, tai, gái đều về trảy hội Yên Tử, cầu được ước thấy biết bao điều tốt đẹp. Với khách thập phương, Yên Tử là đất Phật, là chốn Tổ, cõi Thiêng không nơi nào sánh bằng. Ngày 30/9/1974, khu di tích và danh thắng Yên Tử được Nhà nước xếp hạng là một trong tám mươi di tích đặc biệt quan trọng ở nước ta. 2.1.2 Tài nguyên du lịch tự nhiên 2.1.2.1 Vị trí địa lý Khu di tích và danh thắng Yên Tử nằm ở phía Tây Bắc của thành phố Uông Bí, chạy dài gần 20km từ chùa Bí Thượng (gần quốc lộ 18A) đến đỉnh chùa Đồng (đỉnh Yên Sơn) cao nhất miền Đông Bắc của tổ quốc (1068m) trên địa phận 2 xã Phương Đông và Thượng Yên Công. Yên Tử cách Hà Nội khoảng 150km, cách thành phố Hạ Long 50km quay trở lại, cách trung tâm thành phố Hải Phòng 40km, nằm trên tuyến du lịch quan trọng Hà Nội - Hạ Long, các tuyến du lịch trong nuớc và quốc tế. Đây là vị trí rất thuận lợi cho phát triển du lịch Yên Tử. Ranh giới được xác định như sau: Phía Bắc giáp với tỉnh Bắc Giang (lấy chùa Đồng làm ranh giới), phía Đông giáp với đèo Mật Lợn, phía Tây giáp với huyện Đông Triều lấy suối Vàng Tân làm ranh giới, phía Nam giáp với đường Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -29- Líp: VHL 301
  30. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh 18A và xã Phương Nam của Thành phố Uông Bí (lấy chùa Bí Thượng làm ranh giới). Khu trung tâm Yên Tử được tính từ chùa Lân (Thiền Viện Trúc Lâm) cho tới chùa Đồng được bao quanh bởi khu rừng đặc dụng với diện tích 2686,5ha. Khu ngoại vi của Yên Tử được xác định từ chùa Lân trở ra gồm chùa Cầm Thực, chùa Suối Tắm và chùa Bí Thượng. 2.1.2.2 Địa chất, địa mạo Đây là vùng có kiến tạo địa chất phức tạp và giàu tài nguyên. Biểu hiện đứt gãy đột ngột của dãy núi Yên tử cho thấy có những biến đổi địa chất từ xa xưa đã đưa vùng đất này lên cao. Phần lớn các nhà khoa học đều có ý kiến cho rằng trước đây hàng chục vạn năm dải đất vùng Đông Bắc đã bị nước biển dâng trào và bị tác động bào mòn của nước biển. Dấu vết chứng minh là các dải đồi bề mặt tương đối bằng nhau của bậc thềm biển quá khứ. Yên Tử có độ cao 700m trở lên, chủ yếu phân bố các loại đá tảng chồng xếp, các loại cuội kết, sạn kết. Xuống phía dưới (700m trở xuống) là sa thạch, phấn sa và diệp thạch sét. Lớp đất Feralit nâu vàng phát triển trên sa phiến thạch, vàng hoặc vàng nâu phát triển trên sạn, sỏi kết, sa thạch, có độ dày trung bình 30–60cm, càng lên phía trên càng mỏng. Lớp đất mùn thực vật dày 20- 30cm được phân bố chủ yếu ở phía dưới thấp, phía trên 700m chỉ đọng lại các vùng giữa các phiến đá. Với đặc trưng trên, tình trạng địa chất mỏ kiến tạo của Yên Tử là không ổn định, dễ bị biến dạng, sụt lở do chấn động, đồng thời hiện tượng phong hoá và xói mòn do tác động khí hậu tạo ra hiện tượng trôi trượt lớp đá tảng đức gãy và cuội sỏi kết. Điều này tạo lên tính phiêu lưu mạo hiểm đối với du khách. 2.1.2.3 Địa hình Khu vực núi Yên Tử được tính từ suối Giải Oan (độ cao 125m) lên đỉnh chùa Đồng (cao 1068m). Nhìn từ ảnh, ta có thể thấy rõ đây là vùng địa hình có cùng cấu trúc hình thể bị tác động bởi địa chất. Phía trên chân núi là lớp đồi xếp thoải dần theo triền 3 giông núi dâng dần lên đỉnh là vết đứt gãy đột ngột ở phía Tây và phía Bắc tạo nên đỉnh Yên Tử. Phía Bắc hình thành vách núi dựng đứng Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -30- Líp: VHL 301
  31. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh ngăn cách đất Quảng Ninh và Hà Bắc (cũ). Phía Tây bờ vực xuôi dần hình thành bờ dốc lớn. Các giông của núi Yên Tử đã tạo nên hệ suối Vàng Tân và hệ suối Giải Oan. Dọc theo giông chính của Yên Tử là con đường hành hương xưa lên tới đỉnh cao nhất được chia thành 3 vùng địa hình khác nhau. - Vùng thứ nhất: từ chùa Giải Oan (độ cao 130m) lên đến chùa Hoa Yên (cao độ 500m) có bề mặt tương đối bằng phẳng, độ dốc dọc theo giông trung bình từ 15°C ÷ 30°C. - Vùng thứ hai: từ Hoa Yên lên An Kỳ Sinh (độ cao 900m) có địa hình bề mặt gồ ghề, vách đá và đá sạn kết, nhiều đoạn dốc đột ngột hoặc đứt gãy tạo thành vực dốc và hàm ếch. Độ dốc dọc theo giông trung bình từ 25°C ÷45°C - Vùng thứ 3: từ tượng An Kỳ Sinh lên tới chùa Đồng (độ cao 1068m) có bề mặt gồ ghề nhiều lớp đá tảng nứt gãy chồng xếp nhưng tương đối thoải, độ dốc trung bình dọc theo giông từ 15°C ÷ 20°C. Khu vực các di tích phía ngoài (chùa Bí Thượng, chùa Suối Tắm, chùa Cẩm Thực, chùa Lân ) có địa hình tương đối thoải đặc trưng của hệ thống đồi thấp. 2.1.2.3 Khí hậu, thuỷ văn a. Khí hậu Với vị trí địa lý nằm trong cánh cung Đông Triều – Móng Cái có nhiều dãy núi cao ở phía Bắc và thấp dần xuống phía Nam đã tạo cho Yên Tử một khí hậu đa dạng, phức tạp vừa mang tính chất khí hậu miền núi, vừa mang tính chất khí hậu miền duyên hải. Khu di tích Yên Tử chịu ảnh hưởng của vùng khí hậu Đông Bắc Bộ mang nét đặc trưng nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè, khô hanh kéo dài về mùa đông. Chế độ mưa: Tổng lượng mưa trung bình năm của Yên Tử đạt 1.600mm, năm thấp nhất là 1.200mm, năm cao nhất đạt 2.200 mm. Lượng mưa tập trung nhiều vào các tháng 6,7,8 chiếm khoảng 60% tổng lượng mưa hàng năm. Nhiều nhất vào tháng 7 có lượng mưa lớn nhất 346,3mm và ít nhất vào tháng 11 có lượng mưa là 29,2mm. Lượng mưa trung bình các tháng trong năm là 133,3mm. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -31- Líp: VHL 301
  32. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh Số ngày mưa trung bình năm là 153mm. Với đặc điểm như thế này, mặc dù Yên Tử là khu vực có lượng mưa rất thuận lợi với mức độ thích nghi của con người nhưng trong trường hợp mưa lớn thường có lũ làm ảnh hưởng đến sản xuất và đi lại. Còn vào những tháng mùa khô dễ gây hiện tượng cháy rừng. Chế độ nhiệt: Nhiệt độ trung bình năm là 22.2°C. Mùa hè nhiệt độ trung bình từ 28-30°C, cao nhất 34-36°C. Mùa đông nhiệt độ trung bình từ 17-20°C, thấp nhất từ 10-125°C. Có thể nói đây là yếu tố khá thuận lợi cho việc phát triển du lịch của khu vực. Chế độ gió: có 2 hướng gió thịnh hành là Đông Nam thổi vào mùa hè và Đông Bắc thổi vào mùa đông. Trong các tháng mùa hè, ở đây thường chịu ảnh hưởng của mưa bão. Trung bình mỗi năm có từ 2-3 cơn bão đổ bộ trực tiếp vào thành phố với sức gió và lượng mưa khá lớn. Độ ẩm không khí: Trung bình năm 81%, cao nhất 89,3%, thấp nhất 50,8%. Tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 3, có độ ẩm trung bình là 84,4%, thấp nhất là tháng 11, có độ ẩm trung bình là 76,5%. Nhìn chung, theo đánh giá khách quan thì mặc dù vẫn còn những yếu tố chưa đạt yêu cầu, tuy nhiên với độ ẩm tương đối cao, lượng mưa lại chủ yếu nằm ngoài mùa lễ hội và nhiệt độ trung bình không cao đã tạo điều kiện thời tiết khá thuận lợi cho du khách tới thăm quan và cúng lễ. b. Thuỷ văn Khu di tích Yên Tử có 3 hệ thuỷ chính đều bắt nguồn từ dãy Yên Tử là hệ suối Vàng Tân (tiểu khu 9), hệ suối Giải Oan (tiểu khu 32, 37) và hệ suối Bãi Dâu nằm trong khu di tích nội vụ. Trước đây, các suối này đều có nước quanh năm phục vụ rất tốt cho sản xuất nông nghiệp (cánh đồng Năm Mẫu) và sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Song trong 4 năm gần đây, do khai thác than và tàn phá rừng quá mạnh, đất và đá thải ra đã không được giải quyết hợp lý, trôi xuống lấp dần các suối, làm nước quanh năm đục ngầu và lấp cả lúa và hoa mầu. Với các đặc điểm này, rõ ràng thuỷ văn không phải là yếu tố tự nhiên mang tính thuận lợi cao cho việc phát triển du lịch ở Yên Tử. Tuy nhiên, nếu nhìn tổng thể đặc điểm trên phạm vi cả nước thì có thể nhận thấy những điều Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -32- Líp: VHL 301
  33. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh kiện này của khu vực chưa thể gọi là khó khăn và hoàn toàn mang tính bất lợi. Hơn nữa, bên cạnh những điều kiện không thuận lợi như lượng mưa không cao, nguồn nước khan hiếm thì vẫn còn đó những mặt tích cực như việc mưa lớn nằm ngoài thời gian diễn ra lễ hội hay việc khan hiếm nước chỉ đến từ những tác động tiêu cực của con người. 2.1.2.4 Sinh vật a. Thảm thực vật Yên Tử Từ khu vực suối Giải Oan lên tới chùa Đồng là nơi có rừng và thảm thực vật tiêu biểu. Trong khoảng thời gian 1068m này thảm thực vật chia ra hai loại đều vô cùng phong phú và đa dạng: - Thảm thực vật rừng nhiệt đới nằm trong kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa từ độ cao 700m trở xuống có nhiệt độ trung bình 25°C, lượng mưa 2.000mm, độ ẩm 90%. - Loại thảm thực vật rừng có độ cao 700m trở lên nằm trong kiểu khí hậu á nhiệt đới có nhiệt độ trung bình 15 – 18°C, lượng mưa trên 2.000mm, độ ảm trên 90%. Rừng Yên Tử lá rộng, kín thưòng xanh với hơn 121 họ và 428 loài cho thấy sự phong phú, đa dạng của rừng. Sự có mặt của loại Táu mặt quỷ, Táu muối, Sến mật, Giổi, Vù hương, Lim xanh cho thấy thực vật rừng Yên Tử đặc trưng cho luồng thực vật Miền Bắc Việt Nam (nhất là vùng Đông Bắc). Nhiều loại gỗ quý bắt gặp ở đây như Lim xanh, Táu mối sao Hòn Gai, Hoang đàn, Giổi, Gội, Trầm .và hàng trăm loại cây dược liệu quý giá như Long não, Ba kích, Đăng sâm, Xuyên nhung, Cao lạc tiên, Trầu một lá Bên cạnh đó, rừng ở đây còn có các ưu hợp Sến + Giẻ, Chẹo + Giẻ, Trám + Táu, Trâm, Chẹo mang ý nghĩa quý hiếm, cần được bảo vệ. Ngoài ra cần phải kể đến các loài lan đẹp, lá đẹp của Yên Tử, trong đó nổi bật là Phong Lan, Trà Mi, Đỗ Quyên Đặc biệt trúc các loại ở đây mọc đầy rừng, có những khi chỉ toàn thấy trúc. Những loài hoa ở đây thường nở hoa, thay lá theo mùa, phù hợp với cảnh sắc của nơi tham quan, du lịch, lễ hội truyền thống. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -33- Líp: VHL 301
  34. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh b. Động vật Yên Tử Động vật ở đây cũng có hàng trăm loại. Trước đây như sử sách ghi lại, Yên Tử vốn là một vùng rừng núi trùng điệp từng nổi tiếng về những loài cầm thú lớn như hổ, báo, gấu, lơn rừng và cả voi nữa, còn các loại thú rừng thì không kể xiết. Nhưng đến nay, chủ yếu do tác động của con người, động vật rừng Yên Tử đã thưa vắng nhiều. Hiện nay chỉ còn các loại thú như: gấu, lợn rừng, hươi, nai, tắc kè, chim trĩ, gà lôi, cáo, chồn Tuy vây, được nhìn thấy các loài thú thiên nhỉên hoang dã giữa núi rừng thiên nhiên, ở một mức độ nào đó vẫn có sự thu hút đối với khách du lịch. 2.1.3 Tài nguyên du lịch nhân văn Bên cạnh nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên mang tính đặc sắc cao, Yên Tử vốn được mệnh danh là đất Phật còn có cụm tài nguyên du lịch nhân văn rất phong phú và đa dạng mà trong đó nổi tiếng là hệ thống các ngôi chùa, toà tháp và các am nổi tiếng linh thiêng. Ngoài ra Yên Tử còn nổi tiếng với các lễ hội truyền thống thu hút được sự quan tâm và tham gia của du khách thập phương. 2.1.3.1 Đền, chùa - Chùa Bí Thượng: Theo các nhà khoa học thì chùa Bí Thượng được xây dựng từ sau thời Trần và là cửa ngõ, chốn dừng chân lễ Phật đầu tiên của du khách thập phương hành hương vào đất tổ Thiền Phái Trúc Lâm. Thời Pháp thuộc, chùa bị đốt và xây dựng lại nhiều lần. Đến kháng chiến thì chùa bị Pháp san bằng và nay còn lưu lại nền móng hoang phế cùng một ngôi tháp gạch hai tầng. - Chùa Cầm Thực (Linh Nham Tự): Tương truyền vua Trần Nhân Tông sau khi rời Suối Tắm đến đây định dừng chân ăn cơm mới biết rằng cầm thú đã cướp hết cả. Nhà vua chỉ còn biết uống nước cầm hơi nên sau này khi dựng chùa người ta đã đặt tên là Cầm Thực. Chùa Cầm Thực hiện nay ta thấy còn có kiểu kiến trúc được xác định vào thời nhà Nguyễn, tức là rất gần đây. Chùa dài 30m, chia làm 6 gian. Cạnh chùa có một ngọn tháp chưa rõ xây vào thời đại nào, gồm có hai loại vật liệu chính là gạch và đá. - Chùa Lân (Long Động Tự): Theo các nhà khảo cổ học thì chùa Lân Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -34- Líp: VHL 301
  35. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh được xác định là một công trình kiến trúc khá lớn trước đây nhờ tìm thấy những mô hình nhà bằng đất nung và căn cứ vào mặt bằng khu vực mà trước đây chùa được xây dựng. Chùa có tên Chùa Lân bởi chùa dựa vào vách ngọn núi có hình con Lân và trông như một dòng suối. Hai bên và quanh chùa có tới 25 ngọn tháp gạch và đá. Ngọn tháp đẹp nhất và cổ nhất có tên gọi là Tịnh Quang với văn bia ghi rõ năm xây dựng là Bảo Thái thứ 8 (1727). Tháp chính là mộ của sư tổ chùa này có pháp danh là Tuệ Đăng hoà thượng. - Chùa Giải Oan: Chùa được xây dựng dựa vào sườn núi trông ra suối Giải Oan. Chùa có tên gọi như vậy là để siêu độ cho những cung phi vì đã ngăn vua Trần Nhân Tông đi tu mà gieo mình xuống suối tự vẫn. Hiện nay chùa Giai Oan chỉ còn 3 gian xây dựng hình chuôi vồ (kiến trúc kiểu thời Nguyễn) và có hệ thống tượng Phật. Đồ thờ cũng khá hoàn chỉnh mặc dù phần lớn đều là làm mới cả. Phía trước chùa trên giải đát hẹp còn giữ được 2 ngọn tháp nhỏ đã được sửa chữa nhiều lần bằng gạch. - Cụm Tháp Huệ Quang (Tháp Tổ): đây là cụm tháp lớn nhất Trung tâm Phật Giáo Yên Tử gồm 97 ngọn tháp lớn nhỏ nằm thành hàng lối san sát trên một mặt bằng khá rộng, phía trước mặt chùa chính là Chùa Hoa Yên. Cụm di tích đặc sắc nguyên được xây dựng từ thời Trần, nay được tôn thêm vẻ uy nghi, cổ kính bởi những cây đại thụ tới 700 tuổi. Công trình kiến trúc này đáng chú ý nhất là Tháp Tổ Huệ Quang. Theo nhà nghiên cứu Du Chi thì Tháp Huệ Quang nguyên dạng xây dựng Thời Trần nay chỉ còn lại nền móng. Tháp như hiện nay nhỏ bé hơn nhiều so với tháp cũ và có kích thước cấu trúc khác hẳn. Tháp mới mỗi chiều chỉ dài 2,1m bố trí mặt bằng theo kiểu hình vuông đơn giản và phổ biến. Tháp có 5 tầng đều làm bằng đá. Viền tầng dưới cùng được trang trí hoa văn dây và hình cánh sen. Tầng dưới cùng của tháp được xây dựng cao hơn để đặt tượng đá thờ Trần Nhân Tông. Pho tượng này là một tác phẩm điêu khác có giá trị. Tượng cao 0,62m ở tư thế ngồi hình hoa sen (liên hoa toạ). Cái quý giá nhất của hợp thể tháp Huệ Quang là bức tượng hiện vật hiếm hoi còn lại của kiến trúc thời Lê Sơ. - Chùa Hoa Yên (Vân Yên cũ): Đây là chùa chính của trung tâm Phật giáo Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -35- Líp: VHL 301
  36. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh Yên Tử. Từ tháp Huệ Quang đi lên trên chùa, một con đường lát bằng 84 viên gạch vuông in hoa cúc, điển hình cho gạch thời Trần mách bảo vị trí quan trọng của chùa Yên Tử. Chùa Hoa Yên vốn có tên là Chùa Vân Yên nghĩa là mây khói Từ khi Lê Thánh Tông(1470-1497) lên vãn cảnh thấy sắc hoa tươi đẹp nên cho đổi là chùa Hoa Yên. Chùa hiện nay là chùa mới được xây dựng sau những lần hoả hoạn. Quanh chùa có nhiều bia và chuông. - Chùa Một Mái (Bán Thiên Tự): Chùa này tương truyền là nơi xưa kia Điều Ngự Giác Hoàng thường ngồi để tụng kinh, đọc sách. Chùa nhỏ, chỉ có một mái nằm chênh vênh trên vách núi đá dựng đứng. Chùa hiện nay được xây dựng mới nhưng rất đơn giản. Điều đặc biệt nhất của chùa này là hầu như tượng phật, đồ thờ đều được làm bằng đá trắng có tuổi đời khá cao. Bên cạnh chùa có hai tháp gạch, một là Thanh Long Động, một là Thanh Long Tháp và một gian nhà nhỏ dành cho vãi chùa ở. - Am Dược và Am Hoa: Am Dược là nơi mà các nhà sư luyện thuốc cứu độ chúng sinh. Vào thời nhà Trần, các ngự y thường lên đây để luyện thuốc. Am này hiện nay đã trở thành phế tích, đáng kể chỉ còn lại hai ngọn tháp: một bằng đá và một bằng gạch. Dù là phế tích nhưng ở đây vẫn đủ chứng tích của một công trình kiến trúc của người xưa. Am Hoa ở gần Am Dược cũng có kiến trúc tương tự nhưng ở dạng phế tích trầm trọng hơn. Hiện nay Am này chỉ còn một ngọn tháp nhưng đã sụp đổ từ lâu. Tên Am Hoa đưa ta đến một liên tưởng về việc Lê Thánh Tông cho đổi tên chùa Vân Yên Thành Hoa Yên vì nơi đây vốn là vùng có nhiều hoa thơm cỏ ngọt. - Am Ngọa Vân: Trên đường thượng sơn, cùng với Thác Ngự Dội, Am Ngọa Vân ở phía trái chùa Hoa Yên. Am Ngọa Vân nay đã bị cháy trụi chưa được khôi phục đến. Đến đây du khách chỉ còn thấy mấy bức tường đổ nát vầ hoang phế. Vậy mà xưa kia nơi đây chính là một trong vài di tích vua Trần Nhân Tông hay đến để tụng kinh niệm phật. Năm 1308, Ngài đã viên tịch tại đây. - Tháp Độ Nhân và chùa Phổ Hà: nằm phía sau chùa Hoa Yên, Tháp Độ Nhân được xây dựng từ đời nhà Trần, là một công trình kiến trúc tháp tuyệt mỹ. Nay dẫu đã là phế tích nhưng những viên đá men xanh nổi tiếng thời Trần như Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -36- Líp: VHL 301
  37. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh viên gạch hình đầu kỳ lân còn lại đã giúp người đời sau tự đánh giá về ngọn tháp và tiếc thay cho sự mất đi một kiến trúc Phật Giáo tiêu biểu một thời. Chùa Phổ Đà nay chỉ còn là một phế tích mờ nhạt nằm trong cụm di tích hệ thống tháp Độ Nhân. Tục truyền chùa này là một chùa khá lớn do Pháp Loa đệ nhị tổ Thiền phái Trúc Lâm xây dựng. Đây là một ngôi chùa có vị trí quan trọng trong hệ thống di tích Phật Giáo Yên Tử, nhất là khi được biết rằng nó được xây dựng vào đời Trần_thời kỳ khai sang của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. - Chùa Bảo Sái: Đây là tên gọi một đệ tử của vua Trần Nhân Tông và sau này trở thành tổ sư của chùa này. Bảo Sái nằm trên lưng chừng vách núi, có hai bậc sân phái trước được kè đá chắc chắn. Chùa này hiện nay là công trình kiến trúc mới 5 gian. Ngoài chùa còn có 3 ngọn tháp đều mới được trùng tạm. Bên cạnh chùa, phía trong là căn nhà nhỏ xây dựng cũng sơ sài dành cho tăng ni. Đặc trưng đáng chú ý là chùa có tượng của ba vị Tam tổ Thiền phái Trúc Lâm: Điều Ngự Giác Hoàng tổ đệ nhất, Pháp Loa đệ nhị tổ và Huyền Quang đệ tam tổ. Cả ba pho tượng đều được đúc bằng đồng và sơn son thiếp vàng, bên trong rỗng để đựng bài vị ghi rõ tên tuổi, lai lịch của mỗi vị. Ngoài ra Bảo Sái cũng là một ngôi chùa có nhiều tượng và đồ thờ cúng, chuông đồng có giá trị. - Chùa Vân Tiêu và cụm tháp 9 tầng: Hiện nay mới dựng lại một gian nhỏ bên cạnh mấy bức tường đổ nát của chùa cũ để thờ 3 vị Phật cũng đều là tượng mới cả. Bên cạnh chùa còn giữ cả một văn bia bằng đá nhưng đã long đế chưa được xây cất lại. Trước mặt chùa, trên một ngọn núi thấp hơn là quần thể cụm tháp chín tầng (còn gọi là cụm Tháp Vọng Tiên Cung) gồm có 6 ngọn xây dựng bằng đá và gạch. Đáng chú ý là ngọn tháp Vọng Tiên Cung lớn nhất thuộc kiến trúc thời Nguyễn. Tháp có 9 tầng (nay còn 7 tầng) hình lục năng có bệ đá hình con rùa. Đây là một di tích quý cần được tôn tạo. - Chùa Đồng: Theo các nhà khoa học thì chùa Đồng do một người thuộc dòng họ Trịnh xây dựng vào thời Lê – Trịnh. Đến nay chùa cổ không còn, chỉ còn lưu lại những lỗ chân cột đục sâu xuống nền đá. Người đời nay dựng lên trên đó một am nhỏ để thờ. Mãi gần đây một Chùa Đồng nhỏ mới được dựng cạnh chùa cũ. Trong chùa có đủ tượng, chuông, khánh, bát nhang Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -37- Líp: VHL 301
  38. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh 2.1.3.2 Di tích - Hòn Ngọc (hòn Hạ Kiệu): Cách đây 7 thế kỷ, vua Trần Nhân Tông đã cho hạ kiệu để đi bộ lên vùng núi cao Yên Tử vì đường xá gập ghềnh, vách đá cheo leo không thể dùng phương tiện nào khác ngoài đôi chân. Hòn Ngọc có tên gọi là Hạ Kiệu từ đó. Hòn Ngọc là một cụm di tích gồm 8 ngọn tháp, nay chỉ còn có 3 ngọn tạm thời gọi là nguyên vẹn nhưng cũng đã qua trùng tu nhiều lần. Những ngọn tháp này có 3 tầng và đều là tháp đá được xây dựng có thể là vào thời nhà Lê. Ngọn xưa nhất có niên đại Cảnh Hưng năm thứ 19 (1785). Ngọn thứ hai là tháp Bảo Chân dựng năm 1770. Ngọn thứ ba mang tên Trịnh Trú được xây dựng năm 1963. Những tháp còn lại chỉ còn là những phế tích nhô khỏi mặt đất chút ít, xung quanh xếp vài viên gạch rất sơ sài. - Tượng An Kỳ Sinh: Tượng nằm trên một bãi rộng, cây mọc lúp xúp thuộc một đỉnh núi thường xuyên có mây mù che phủ. Đây là một quần thể gồm di tích chính là tượng đá An Kỳ Sinh, am thờ và mộ một vị sư tương truyền là đệ tử An Kỳ Sinh. Tượng đá có dáng một đạo sĩ đang thuyết pháp giữa lồng lộng mây trời, là một kiệt tác mà cho tới bây giờ vẫn chưa khẳng định đây là tác phẩm của tạo hóa hay của con người. Điều đáng nói ở đây là cảnh quan xung quanh bức tượng đã bị con người làm xấu đi nghiêm trọng. 2.1.3.3 Lễ hội Hàng năm lễ hội Yên Tử được tổ chức từ mùng 10 tháng Giêng kéo dài đến gần như quanh năm nhưng chủ yếu đến 3 tháng. Thời gian này chủ yếu đón tiếp các Phật tử và nhân dân hành hương về Yên Tử. Trong số rất nhiều lễ hội được tổ chức ở Yên Tử thì mỗi lễ hội có nội dung và hình thức riêng biệt rất độc đáo. Các lễ hội chính (7 lễ hội) được quan tâm đặc biệt ở Yên Tử là: - Lễ hội vào mùa trẩy hội Yên tử: Lễ hội này diễn ra tại trảng bằng dưới chân núi Yên Tử, nơi đóng trụ sở của Ban quản lý, vào trung tuần tháng Giêng âm lịch. Lễ hội vào mùa có quy mô hoành tráng và rất tưng bừng. Các trò chơi dân tộc mang tính đại chúng và các tiết mục nghệ thuật được trình diễn tại lễ hội này. - Lễ hội thứ hai kỷ niệm danh nhân đạo sỹ An Kỳ Sinh tu tiên đắc pháp, Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -38- Líp: VHL 301
  39. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh đạt độ trường sinh, hóa đá trên đỉnh núi. Lễ hội này diễn ra vào trung tuần tháng Hai âm lịch. - Lễ hội tưởng niệm Thiền sư Hiền Quang, vào đầu tháng ba âm lịch. - Lệ hội tưởng niệm Đệ Nhị tổ Thiền phái Trúc Lâm Pháp Loa vào ngày 01/3 âm lịch tại chùa Bảo Sái. - Lễ hội tưởng niệm Đệ Tam tổ Thiền phái Trúc Lâm Huyền Quang Lý Đạo Tái vào cuối tháng Năm âm lịch. - Lễ hội tưởng niệm Đệ Nhất tổ Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam Điệu Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông vào ngày 21/10 âm lịch tại chùa Hoa Yên. - Lễ hội giải oan tại chùa Giải Oan vào ngày 20/11 âm lịch. Ngoài 7 lễ hội chính trong năm, ở Yên Tử còn thường xuyên có các hoạt động văn hóa văn nghệ như: tại trảng bằng dưới chân núi Yên Tử, người ta sẽ dựng lên những quán phong nguyệt để thưởng trăng, ngắm hoa, nghe thổi sáo trúc và uống trà ướp hoa cúc vàng, hay tại đây người ta thường xuyên trình diễn những cuộc trình diễn giả trang gọi là những cuộc trình diễn Ngụ Ngôn . Ngoài ra ở đây là có sân để dạy võ và diễn võ Trúc Lâm, còn có hồ nước và nhà thủy đình để diễn ra múa rối cạn. Nơi đây còn có nhà bát giác, tường lửng xung quanh, mái long đình, giữa sân có sân khấu vuông để trình diễn, diễn xướng các loại dân ca, dân vũ, dân nhạc các vùng, miền trong cả nước và diễn các trò hề truyền thống. 2.1.4 Đánh giá chung Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử hội tụ đầy đủ cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Đây là những yếu tố vô cùng quan trọng đối với việc phát triển du lịch và đặc biệt là mục tiêu phát triển du lịch bền vững cho Yên Tử. Về tài nguyên du lịch nhân văn, Yên Tử là trung tâm Phật giáo lớn của Việt Nam, là khu vực có giá trị văn hóa lịch sử, cảnh quan thiên nhiên đẹp, là một điểm nhấn quan trọng trong hệ thống du lịch văn hóa tín ngưỡng, sinh thái của Trung tâm du lịch Bắc Bộ ( Hà Nội- Hải Phòng- Hải Dương) và các khu vực phía Bắc. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -39- Líp: VHL 301
  40. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh Ông cha ta đã để lại những di sản văn hóa gồm chục ngôi chùa, hàng trăm am tháp, hàng ngàn di vật cổ quý giá chứa đựng những giá trị tinh thần, tư tưởng triết lý của Thiền Phái Trúc Lâm và nền văn hóa rực rỡ của Đại Việt cho Yên Tử. Đó chính là những thế mạnh để Yên Tử phát triển loại hình du lịch lễ hội, du lịch tìm hiểu hiểu về văn hóa, lịch sử Hơn nữa Yên Tử có mối quan hệ chặt chẽ, gắn kết lâu dài trong lịch sử với quần thể di tích nhà Trần vùng đất Đông Triều, các di tích nằm trong khu bảo tồn Tây Yên Tử thuộc huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang đã để lại những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô giá tạo nên những giá trị văn hóa hết sức to lớn. Di sản nói trên không chỉ có ý nghĩa trong việc tạo bảo vệ mà còn mở ra những triển vọng cho việc phát triển kinh tế du lịch, chiến lược không gian bền vững cho khu di tích. Về tài nguyên du lịch tự nhiên, do vị trí địa lý giáp quốc lộ 18A, thuận tiện đường giao thông từ các tỉnh phía Bắc tới dễ dàng đã tạo điều kiện liên kết cho Yên Tử với các tỉnh khác trong vùng du lịch Bắc Bộ, nối tour, tuyến du lịch, mở rộng khai thác thị trường du lịch. Toàn bộ hệ thống các chùa, am, tháp và các phế tích hiện nay chủ yếu nằm trong 2.686,5 ha Rừng đặc dụng Yên Tử. Rừng đặc dụng Yên Tử là một danh thắng đẹp, nổi tiếng có hệ sinh thái về thực vật và động vật phong phú đa dạng của khí hậu vùng nhiệt đới và á nhiệt đới với nhiều loại gỗ và thú quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam, đặc biệt có nhiều loại dược liệu phong phú, vô giá. Rừng đặc dụng Yên Tử có giá trị tiềm năng du lịch rất lớn vè cảnh quan thiên nhiên, về môi trường sinh thái, là nơi có điều kiện rất tốt phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, lưu giữ các nguồn gen quý hiếm. Rừng là mái nhà bảo vệ gìn giữ các di tích, các giá trị văn hóa, là tài sản vô giá mà ông cha ta để lại cho Yên Tử. Với những thuận lợi trên, nếu khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên du lịch Yên Tử sẽ có đầy đủ điều kiện để phát triển bền vững. Tuy nhiên bên cạnh những lợi thế trên thì việc phát triển du lịch ở Yên Tử vẫn còn gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển bền vững ở nơi đây: Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -40- Líp: VHL 301
  41. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh - Lịch sử hình thành và phát triển của Yên Tử kéo dài gần 700 năm qua, những biến cố thăng trầm của lịch sử và sự hủy hoại của thiên nhiên đã làm cho các di tích bị xuống cấp một các trầm trọng. - Người dân nơi đây vẫn chưa ý thức được trong việc bảo vệ và khai tác có hiệu quả nguồn tài nguyên tự nhiên, vẫn còn hiện tượng khai thác thú và gỗ quý hiếm làm cho mất cảnh quan của khu du tích. Không nhưng thế đây là tác động trực tiếp gây tới hiện tượng xói mòn tài nguyên thiên nhiên 2.2 Thực trạng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật ở Yên Tử 2.2.1 Cơ sở hạ tầng 2.2.1.1 Hệ thống giao thông Yên Tử nằm trong địa bàn thành phố Uông Bí có đường 18A, đường 10 chạy qua. Khách vào khu di tích và danh thắng Yên Tử có thể đi bằng các đường sau. Gồm 2 loại hình chính: - Tuyến đường Dốc Đỏ- Bến xe Giải Oan mới được nâng cấp, cải tạo hoàn thành năm 2008 bằng nguồn vốn phát triển du lịch. Tổng chiều dài 16km, mặt cắt từ 7-9m, chất lượng tốt. - Tuyến đường nội vi trong di tích: dành cho các phương tiện đi bộ và cáp treo gồm các phân đoạn: + Bến xe- Chùa Giải Oan: dài 330m, chất lượng tốt + Chùa Giải Oan- Tháp Tổ: dải 1602, đã được kè bậc đá, rộng từ 2,5m đến 3m, chất lượng tốt được đầu tư hoàn thiện năm 2010. + Tháp Tổ - Chùa Một Mái: dài 600m, kè bằng đá, hệ thống lan can chất lượng tốt, được đầu tư hoàn thiện năm 2008. + Chùa Một Mái - Chùa Bảo Sái: dài 800m, chất lượng trung bình, đây là tuyến bám theo địa hình tự nhiên, độ dốc lớn (từ 40- 50°), được đầu tư xây dựng bậc đá hoàn thiện năm 2008. + Chùa Một Mái - Tượng đá An Kỳ Sinh: dài 600m, là tuyến đường kè đá cải tạo nâng cấp, chất lượng trung bình được hoàn thiện năm 2009. + Tượng đá An Kỳ Sinh - Chùa Đồng: dài 720m (đường lên) bám theo triền núi tự nhiên, đoạn đường này đã được nâng cấp cải tạo. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -41- Líp: VHL 301
  42. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh + Tượng đá An Kỳ Sinh - Chùa Đồng: dài 800m (đường xuống) bám theo triền núi tự nhiên, chất lượng tốt, được đầu tư cải tạo năm 2009. + Chùa Hoa Yên - Chùa Vân Tiêu - Tượng Am Kỳ Sinh: dài 1.200m, độ dốc lớn, đường hẹp, địa hình hiểm trở cần có thiết kế đầu tư. + Tuyến đường Đông Tây vào các điểm Am Hoa, Am Dược chưa được đầu tư khôi phục cải tạo 2.2.1.2 Hệ thống cáp treo Để tiết kiệm thời gian và sức khỏe cho du khách thì Công ty cổ phần đầu tư và XNK Quảng Ninh đã đầu tư xây dựng hệ thống cáp treo phục vụ khách du lịch tới tham quan Yên Tử. Hệ thống cáp treo ở Yên Tử gồm có 2 tuyến: - Tuyến 1 (Chùa Giải Oan- Hoa Yên): dài 1,2km, công suất 3.000người/h, mới được cải tạo nâng cấp năm 2009. - Tuyến 2 (Chùa Hoa Yên- Tượng An Kỳ Sinh): dài 1km, công suất 1.800người/h, được đầu tư mới năm 2008. 2.2.1.3 Hệ thống bãi đỗ xe Hiện nay ở Yên Tử đã đầu tư xây dựng các bãi đỗ xe cho khách du lịch với quy mô lớn. Gồm có 4 bãi đỗ xe chính: - Điểm đỗ xe Chùa Trình: đang được cải tạo với quy mô 2.000m2. - Điểm đỗ xe chùa Suối Tắm, Cẩm Thực: mới có mặt bằng, quy mô nhỏ. - Bãi đỗ xe Thiền Viện Trúc Lâm - Yên Tử: đã được đầu tư xây dựng với quy mô 5.000m2. - Quy mô bến xe Giải Oan: rộng 6ha, ngày cao điểm lượng xe ôtô vào Yên Tử trên 3000 xe, xe máy là 12.000 xe. 2.2.1.4 Hệ thống cấp thoát nước: - Về cấp nước: chủ yếu dùng nguồn nước tự nhiên. Hiện nay Yên Tử chưa có hệ thống cung cấp nước đồng bộ, nguồn nước chất lượng chưa tốt, đang sử dụng nhiều nguồn nước khác nhau như hệ thống nước do người dân và các hàng quán tự tạo lấy từ Thác Vàng, Thác Bạc. Nguồn này tuy ổn định nhưng dễ bị ô nhiễm. Ngoài ra còn sử dụng nước giếng, nước mưa song nguồn nước này thường cạn kiệt không đủ dùng trong sinh hoạt. Chia ra 2 khu vực: Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -42- Líp: VHL 301
  43. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh + Khu vực ngoại vi: Tại Dốc Đỏ và các khu vực khác sử dụng nước ngầm khoan cục bộ và nước mạch tại các suối. + Khu vực nội vi: Các điểm du lịch, khu kinh doanh và quản lý sử dụng chủ yếu nguồn nước mưa và nước suối. Vào mùa khô, nguồn nước kém. - Về thoát nước: + Hệ thống thoát nước mặt trên tuyến đường từ Dốc Đỏ đến bến xe Giải Oan đã được đầu tư mới theo dự án đường. Trong các bãi đỗ xe chưa có hệ thống thoát nước hoàn chỉnh, làm hư hại kết cấu mặt sân. + Hệ thống thoát nước mặt tại các điểm di tích và tuyến đường hành hương chưa được đầu tư xây dựng. Hệ thống kè taluy ven đường chưa được xây dựng nên thường gây sạt lở. 2.2.1.5 Hệ thống nguồn điện Yên Tử có một trạm phát sóng đặt tại khu vực Hoa Yên. Lưới điện và nguồn cấp điện cơ bản đảm bảo, nhiều tuyến dây đi qua rừng làm ảnh hưởng đến cảnh quan chung. Khu di tích Yên Tử đang sử dụng mạng điện chung của Thành phố Uông Bí qua đưòng dây 372- 35KV cấp từ Vàng Danh sang. Khu vực nội vì khu di tích Yên Tử, nguồn điện cấp qua các trạm 35/0,4KV tại khu vục xã Thượng Yên Công, Bến xe Giải Oan và các nhà ga cáp treo. 2.2.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật 2.2.2.1 Cơ sở dịch vụ Trong khu vực Yên Tử các cơ sở dịch vụ tập trung chủ yếu tại khu vực bến xe Giải Oan có 10 cơ sở phục vụ ăn uống, 7 gian bán hàng lưu, chủ yếu do tư nhân đầu tư. Các điểm dịch vụ được xây dựng từ 1- 2 tầng bằng vật liệu như: Tôn, khung sắt, bê tông cốt thép chất lượng xấu gây ảnh hưỏng đến cảnh quan chung. Ngoài ra còn một số điểm dịch vụ tập trung tại khu vực nhà ga cáp treo, khu vực Chùa Hoa Yên có 7 cơ sở phục vụ dịch vụ ăn uống lưu trú, An Kỳ Sinh, chùa Bảo Sái và một số điểm nhỏ trên tuyến hành hương do tư nhân và một số doanh nghiệp đầu tư, kiến trúc chưa hợp cảnh quan, chất lượng thấp, quy mô nhỏ. Hiện tại trong khu di tích Yên Tử có 3 nhà hàng đáp ứng được nhu cầu của Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -43- Líp: VHL 301
  44. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh du khách là Nhà Sàn Tùng Lâm, Nhà Hàng Hoàng Long và Cơm Chay Nàng Tấm. Bảng 2.1: Bảng tổng hợp cơ sở dịch vụ tại Yên Tử Năm Nhà nghỉ Nhà Nhà vệ sinh Quầy hàng Các điểm hàng lƣu niệm trạm sơ cấp 2005 3 5 2 55 1 2006 7 7 5 68 2 2007 9 11 8 88 2 2008 14 14 10 91 3 2009 17 18 10 104 4 2010 17 19 12 120 4 4/2011 17 20 12 125 5 ( Nguồn “ Ban quản lý Yên Tử”) 2.2.2.2. Nhà ở Nhà ở trong khu vực di tích chủ yếu tập trung thành 2 khu vực: + Khu vực dọc theo đường Dốc Đổ đến Chùa Suối Tắm chủ yếu là nhà kiên cố, một số khu vực đã có nhà cao từ 2-3 tầng, kiến trúc theo kiểu nhà đô thị, xây dựng khá sát đường. + Khu vực ngã tư Nam Mẫu là khu vực chủ yếu là người dân tộc sinh sống, nhà ở tại một số khu vực ven núi vẫn là nhà 1 tầng chất lượng thấp, kết hợp sân vườn tạo nên một bản sắc riêng. 2.2.2.3. Thông tin liên lạc Mạng lưới thông tin liên lạc đã được đầu tư xây dựng, đảm bảo liên lạc thông suốt. Hiện nay trong khu di tích đã dựng được 09 côth thu phát sóng, trong đó: Vinaphone 03 cột, Viettel 04 cột, Mobiphone 02 cột. Ngoài ra vào mùa lễ hội Viettel tăng cường thêm 01 trạm thu phát sóng lưu động đặt tại bến xe Giải Oan để đáp ứng nhu cầu về thông tin liên lạc của đông đảo du khách. 2.3 Thực trạng nguồn nhân lực Khu di tích Yên Tử nằm chủ yếu trên địa bàn xã Thượng Yên Công và xã Phương Đông thuộc Thành Phố Uông Bí. Dân số của xã Thượng Yên Công là Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -44- Líp: VHL 301
  45. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh 5.506 người, trong đó có 6 dân tộc anh em cùng chung sống đó là: Dân tộc Kinh có 2.316 người (chiếm 43,28%), dân tộc Dao có 2820 người (chiếm 51,2%), dân tộc Tày có 239 người (chiếm 5,3%), dân tộc Hoa có 45 người (chiếm 0,13%), dân tộc Nùng có 15 người (chiếm 0,003%), dân tộc Sán Chỉ có 18 người (chiếm 0,01%). Xã Thượng Yên Công có 1130 hộ. Dân số xã phương Đông là 12.857 người, dân số nằm trong khu vực di tích khoảng trên 6.000 người. Ngoài dân địa phương, trong có 4 dân tộc cùng sinh sống trên điạ bàn xã: dân tộc Kinh chiếm 95%, dân tộc Dao chiếm 3%, dân tộc Hoa chiếm 1%, dân tộc Tày chiến 1%. Ban quản lý di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử được thành lập năm 1992, Ban quản lý Yên Tử giữ vai trò quản lý và bảo vệ khu di tích. Cùng với nhiệm vụ quản lý, giữ gìn khu di tích, Ban quản lý cũng tham gia một số lĩnh vực của hoạt động khai thác du lịch như: - Thu vé tham quan vãn cảnh (năm 2008 được gia cho công ty phát triển Tùng Lâm). - Quản lý, thu nhận tiền thuê điểm dịch vụ kinh doanh của các nhà hàng, nhà nghỉ, khu trọ, các điểm bán hàng lưu niệm. - Tuy không trực tiếp kinh doanh nhưng Ban quản lý có vai trò quản lý về giá cả của dịch vụ hàng hoá đảm bảo về an ninh và môi trường. - Ngoài ra Ban quản lý còn quản lý việc thu nhận tiền công đức và thu phí đường. Số lượng lao động theo cơ cấu lao động của Ban quản lý Yên Tử gồm 60 cán bộ công nhân viên (năm 2005) trong đó có 48 nam và 12 nữ. Có trên 60% lao động có trình độ đại học, cao đẳng, trên 20% trình độ trung cấp, còn lại chưa qua lớp đào tạo nghiệp vụ. Khu vực di tích Yên Tử còn có các lực lượng lao động: Đại đội 6 Thông tin Yên Tử, Trung Tâm quản lý Yên Tử, Công ty cổ phần phát triển Tùng Lâm, Ban quản lý dự án tôn tạo Yên Tử với số lượng lao động thường xuyên trên 300 người vào các thời điểm Hội xuân lực lượng lao động trên 1.000 người. Vì hai xã miền núi có nhiều dân tộc thiểu số cùng cư trú và sinh sống do Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -45- Líp: VHL 301
  46. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh đó nền kinh tế phát triển thấp với cơ cấu còn đơn giản, chủ yếu dựa vào nông nghiệp, lâm nghiệp và một số hoạt động khác. Đất canh tác chiếm khoảng 4% tổng diện tích đất đai của 2 xã, trong đó khoảng 39% diện tích là trồng lúa nước, 45% là trồng cây hoa màu. Ngoài nguồn sống chính là lúa nước, ở đây chăn nuôi gia súc, gia cầm chỉ đủ sức kéo, phân bón và cung cấp thưc phẩm tại chỗ, chưa có sản phẩm hàng hoá. Các hoạt động kinh tế khác còn manh mún, tự phát, chưa trở thành phong trào và mô hình cơ bản. Do đó lương thực chỉ cung cấp đủ trong khoảng 7-8 tháng trong năm. Những tháng còn lại người dân sống phụ thuộc vào hoạt động khai thác lâm thổ sản như: gỗ, nấm, măng, cây thuốc Hiện nay nguồn tài nguyên rừng ngày càng được quản lý chặt chẽ, nên đời sống của nông dân cũng gặp rất nhiều khó khăn. Nhà nước và chính quyền địa phương cũng như Trung tâm quản lý di tích và danh thắng Yên Tử đã cố gắng tìm nhiều biện pháp giúp nhân dân xoá đói giảm nghèo qua các công việc du lịch, thương mại trong khu di tích, chính việc tạo điều kiện cho người dân trong khu vực tăng thêm nguồn thu nhập, giảm áp lực lên tài nguyên thiên nhiên của khu di tích. 2.4 Thực trạng hoạt động và đầu tƣ Trong những năm qua, vấn đề đầu tư phát triển du lịch ở Yên Tử đã và đang rất đươc chú trọng cụ thể như sau: 2.4.1 Về đầu tư nước ngoài Thời kỳ từ 1999 đến 2010, Yên Tử đã thu hút được rất nhiều dự án nước ngoài trong đó lớn nhất là đầu tư của Hiệp Hội UNESCO trùng tu tôn tạo Chùa Vân Tiêu với số vốn 100.000.000.000 đồng. 2.4.2 Về đầu tư trong nước Đầu tư trong nước giai đoạn 1999- 2010 chủ yếu tập trung vào việc trùng tu, tôn tạo các am, tháp, chùa và xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà hàng, bổ sung các dịch vụ du lịch và các phương tiện vận chuyển Hiện nay công việc đầu tư vẫn đang được hoàn thiện đồng thời tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, chú trọng đến chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm, chú trọng đến quy hoạch bảo tồn và tôn tạo các giá trị tài nguyên du lịch Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -46- Líp: VHL 301
  47. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh 2.4.3 Về đầu tư khai thác tài nguyên Tài nguyên của Yên Tử khá phong phú và đa dạng, được phân bố rộng rãi nhưng giá trị để phục vụ du lịch chủ yếu tập trung vào việc khai thác nguồn tài nguyên du lịch nhân văn, khai thác các giá trị văn hoá lịch sử tiềm ẩn trong hệ thống am, chùa, tháp, trong các lễ hội được tổ chức tại nơi đây. Hiện nay Ban quản lý dự án tôn tạo Yên Tử đang phối hợp với công ty cổ phần phát triển Tùng Lâm trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống cáp treo nhưng không làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái của rừng đặc dụng Yên Tử. Đồng thời kết hợp với Uỷ ban nhân dân 2 xã Phương Đông và Thượng Yên Công trong việc bảo tồn và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên, nghiêm cấm các hành động khai thác thú và các lâm sản quý hiếm bán trong dịp lễ hội, giáo dục cho người dân ý thức bảo vệ tài nguyên du lịch. 2.5 Kết quả hoạt động du lịch 2.5.1 Khách du lịch 2.5.1.1 Số lượng Lượng khách đến thăm quan tại Yên Tử tăng khá nhanh qua từng năm từ 2000 đến tháng 4 năm 2011. Theo số lượng thống kê, năm 2000 lượng khách (quốc tế và nội địa) đến Yên Tử chỉ đạt 180.820 lượt thì tới các năm tiếp theo số lượng khách ngày càng tăng nhanh. Năm 2007 đạt 902.600 lượt, năm 2008 đạt 1.803.900 lượt, năm 2009 có khoảng 2.104.700 lượt tăng 99,8% so với năm 2008. Hơn nữa theo số liệu thống kê thì tháng 4/2011 lượng khách tới Yên Tử tăng khá nhanh đạt 1.503.000 lượt b năm trước . Đặc biệt, lượng khách đến Yên Tử trong mùa lễ hội tăng đột biến vào những năm gần đây, khách tập trung cao điểm vào mùa lễ hội từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch (chiếm 80- 90% lượng khách của cả năm). Theo số liệu thống kê, lượng khách du lịch đến Yên Tử trong cả giai đoạn từ năm 2005 đến 2010 có tốc độ tăng trưởng bình quân là 15% năm. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -47- Líp: VHL 301
  48. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh Bảng 2.2: Lƣợng khách du lịch từ năm 2000- 2010 STT Năm Số lƣợng khách Khách nội Khách nƣớc Mức độ tăng địa ngoài trƣởng (%) 1 2000 180.000 820 22,3 2 2001 220.000 1.200 49,7 3 2002 330.000 1.240 9,06 4 2003 360.000 1.280 9,06 5 2004 365.000 1.340 1,4 6 2005 370.000 1.500 1,4 7 2006 380.000 1.700 2,74 8 2007 900.000 2.600 136,4 9 2008 1.800.000 3.900 99,8 10 2009 2.100.000 4.700 1,67 11 2010 2.100.000 5.600 0,04 ( Nguồn: “Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2000-2010 của BQL Yên Tử”) Thời gian đầu, theo số lượng thống kê lượng khách đến Yên Tử chủ yếu là khách nội địa, khách du lịch nước ngoài chỉ chiếm một lượng ít. Tuy nhiên hiện nay con số này đã tăng đáng kể, lượng khách nước ngoài đến với Yên Tử tăng nhanh, năm 2010 là 5.600 lượt tăng 19,1% so với năm 2009 là 4700 lượt. Đây là một tín hiệu vui cho du lịch Yên Tử nói riêng và du lịch Quảng Ninh nói chung. 2.5.1.2 Cơ cấu khách và tính mùa vụ Trong một vài năm gần đây, lượng khách đến Yên Tử là tương đối lớn, tuy nhiên lượng khách này lại phân bổ không đồng đều vào các tháng trong năm. Lượng khách tập trung chủ yếu vào dịp lễ hội đầu năm kéo dài 3 tháng từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch. Chính vì vậy gây lên tình trạng quá tải cho khu di tích. Theo số liệu thống kê 2 năm gần đây, lượng khách đến Yên Tử vào 3 tháng hội xuân chiếm đến gần 85% lượng khách că năm. Điều đó làm cho du lịch Yên Tử có tính mùa vụ rõ rệt. Không chỉ mang tính mùa vụ, lượng khách du lịch đến Yên Tử còn có đặc Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -48- Líp: VHL 301
  49. Ph¸t triÓn du lÞch bÒn v÷ng ë Yªn Tö, Qu¶ng Ninh điểm là phân bố không đều theo các ngày trong tuần hay có thể tạm gọi là “hiệu ứng cuối tuần”. Lượng khách đến Yên Tử vào các ngày cuối tuần gấp khoảng 1,7 lần so với các ngày thường, nghĩa là trung bình cứ có 3 khách du lịch đến vào ngày thường thì sẽ có 5 khách du lịch đến vào cuối tuần. Sở dĩ Yên Tử xảy ra “ Hiệu ứng cuối tuần” vì ngoài việc chịu sự chi phối sâu săc của thời gian lễ hội được diễn ra, Yên Tử còn chịu ảnh hưởng lớn từ loại hình du lịch đặc trưng (du lịch tín ngưỡng) và vị trí địa lý của khu vực. Loại hình du lịch đặc trưng của khu du lịch Yên Tử là du lịch tín ngưỡng- tâm linh. Chính vì vậy, thời gian cho chuyến di không nhất thiết phải kéo dài (thường chỉ khoảng 1 ngày), hơn nữa Yên Tử lại có vị trí khá thuận lợi khi gần nguồn cung cấp khách du lịch lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương do đó càng thuận tiện cho việc khách du lịch thực hiện những chuyến du lịch ngắn ngày về với đất phật. Chính vì lẽ đó cho nên những chuyến du lịch này thường chỉ kéo dài từ 1- 2 ngày mà chủ yếu là 2 ngày cuối tuần và điều này đã gây lên tình trạng quá tải vào cuối tuần tại Yên Tử. Theo các số liệu và toán toán ở trên thì trung bình lượng khách tiếp đón vào ngày thường (trong mùa lễ hội) cũng đã vượt quá ngưỡng cho phép (sức chứa cho phép) của khu di tích (3.124khách/ngày) là 1,5 lần chứ chưa nói tới ngầy cuối tuần (2,6 lần) hay những ngày đặc biệt (6,5 lần). Điều này rõ ràng là có tác động không tốt đến cảnh quan và môi trường tại khu du lịch Yên Tử. Bên cạnh đó, việc đón tiếp một lượng lớn khách du lịch lại chỉ tập trung vào 3 tháng lễ hội làm cho các phương tiện du lịch không đảm bảo duy trì khả năng phục vụ tốt nhất cho du khách đến đây tham quan. Chẳng hạn: vào những ngày hội xuân thì hệ thống các nhà vệ sinh ở khu vự Yên Tử đều chưa thể đáp ứng được nhu cầu của khách, hay việc khách du lịch phải chờ đến hàng giờ (theo ý kiến của khách). Mặc dù vẫn biết du lịch Yên Tử là du lịch lễ hội và sẽ không còn du lịch lễ hội nếu lượng khách đến đây lại không phân bố đều trong năm. Hơn nữa khách du lịch đến đây đa phần là vì mục đích tâm linh nên môi trường đông người sẽ thu hút lớn đối với họ. Tuy nhiên, hãy thử hình dung với các tuyến du lịch có chiều dài khoảng 6000m, chiều rộng trung bình của tuyến là 2,5m thì diện tích của tuyến du lịch là 15.000m2, cộng với các khoảng trống của điểm Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Hµ -49- Líp: VHL 301