Khóa luận Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch - Lê Thị Oanh

pdf 112 trang huongle 2810
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch - Lê Thị Oanh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_thuc_trang_va_giai_phap_khai_thac_nghe_thuat_cheo.pdf

Nội dung text: Khóa luận Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch - Lê Thị Oanh

  1. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch LỜI CẢM ƠN Là sinh viên năm cuối, em thật sự rất vinh dự khi được làm luận văn tốt nghiệp. Để có thể hoàn thành bài luận văn này em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường các thầy cô giáo trong khoa Văn hóa Du lịch trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện về thời gian, tinh thần cho em trong quá trình học tập và thực hiện đề tài. Đặc biệt em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Ngọc Khánh - Người thầy đã hướng dẫn tận tình, và đóng góp nhiều ý kiến quí báu, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành tốt luận văn này. Em cũng xin cảm ơn tới các cán bộ, nghệ sĩ trong Nhà hát chèo Hải Dương đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, cung cấp tài liệu quí báu để em có thể hoàn thành luận văn này. Dù đã có rất nhiều cố gắng song luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu xót và hạn chế. Kính mong nhận được sự chia sẻ và những ý kiến đóng góp quí báu của các thầy cô giáo và các bạn Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Lê Thị Oanh Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 1
  2. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam, sân khấu là loại hình nghệ thuật vô cùng đặc sắc. Đây được coi là loại hình nghệ thuật thứ 6 của nhân loại. Được hình thành và phát triển rất sớm.Trải qua bao trầm của lịch sử ngày nay nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn và trở thành những món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Việt Nam. Khi nói tới loại hình nghệ thuật sân khấu Việt Nam thì không thể không nhắc đến nghệ thuật sân khấu chèo. chèo là một bộ môn nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc và có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Nghệ thuật sân khấu chèo ở Việt Nam ra đời trong những chiếc nôi chèo đầu tiên của vùng đồng bằng Bắc Bộ tiêu biểu: Chiếng chèo Nam (Nam Định - Thái Bình), chiếng chèo Đoài (Hà Tây), chiếng chèo Bắc (Bắc Ninh - Bắc Giang), chiếng chèo Đông (Hải Dương - Hưng Yên). Ngày nay loại hình nghệ thuật sân khấu này phát triển rộng rãi trong cả nước và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của nhân dân. Sân khấu chèo không chỉ trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam mà còn gây tiếng vang tại nước ngoài. Hải Dương cũng là một trong những nơi có nghệ thuật hát Chèo từ lâu đời. Hiện nay nghệ thuật Sân khấu chèo ở Hải Dương thực sự có sức hấp dẫn và để laị nhiều ấn tượng cho người xem. Nhưng việc khai thác nghệ thuật chèo vào phát triển du lịch thì vẫn còn chưa được khai thác triệt để. Chính vì vậy để góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào phát triển du lịch của quê hương người viết đã lựa chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch” Việc khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương hiệu quả trong du lịch chính là một cách góp phần vào việc bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật độc đáo này, đồng thời cũng là một cách giới thiệu với bạn bè gần xa về kiệt tác phi vật thể này của Hải Dương nói riêng và của Việt Nam nói chung, đóng góp vào ngân sách chung của ngành du lịch cả nước. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 2
  3. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch 2. Mục đích chọn đề tài. Chèo là loại hình nghệ thuật có từ xa xưa trong nền văn hoá Việt Nam. Đây cũng là một nét tiêu biểu trong văn hoá ứng xử của dân tộc.Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu chèo cho chúng ta hiểu về một góc của nền văn hoá dân tộc đồng thời từ đó tìm hướng đi để gìn giữ, bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước ta hiện nay và mãi về sau. 3. Nhiệm vụ Tìm hiểu nghệ thuật chèo nói chung và những nét đặc sắc của nghệ thuật chèo ở Hải Dương nói riêng từ đó có một số biện pháp để gìn giữ, bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống, kết hợp với tài nguyên du lịch để phục vụ cho phát triển du lịch tại Hải Dương. 4. Phạm vi nghiên cứu Tìm hiểu nghệ thuật chèo tại nhà hát chèo Hải Dương 5. Phƣơng pháp nghiên cứu. Trong đề tài đã sử dụng các phương pháp sau: phương pháp thu thập và xử lí số liệu; phương pháp thực địa; phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp. Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Là phương pháp chính được sử dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập thông tin tư liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau có liên quan tới đề tài nghiên cứu, người viết sẽ xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần thiết, có được tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp thực địa: Quá trình thực địa giúp sưu tầm thu thập tài liệu, nhằm nhận được thông tin xác thực cần thiết để thành lập ngân hàng số liệu cho việc hoàn thiện đề tài . Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 3
  4. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp: Phương pháp này giúp định hướng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan, phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh hưởng của yếu tố tới hoạt động du lịch trong đề tài nghiên cứu; việc phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở trong việc thực hiện các mục tiêu dự báo, các chương trình phát triển, các định hướng, các chiến lược và giải pháp phát triển du lịch trong phạm vi nghiên cứu 6.Kết cấu của đề tài. Ngoài phần, lời cảm ơn- mở đầu - kết luận - tài liệu tham khảo - mục lục, đề tài được chia làm 3 chương: Chương 1. Khái quát chung về nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống. Chương 2.Tìm hiểu nghệ thuật chèo Hải Dương. Chương 3. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và khai thác hiệu quả nghệ thuật chèo Hải Dương nhằm phát triển du lịch. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 4
  5. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU CHÈO TRUYỀN THỐNG. 1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Chèo. 1.1.1 Câu truyện truyền thuyết về bà tổ nghề hát chèo. Bà tổ của nghề hát chèo là bà Phạm Thị Trân, sinh năm 926, mất năm 976, quê ở Hồng Châu (ngày nay gọi là tỉnh Hải Dương và Hưng Yên), được quan cai hạt tiến vào cung. Hải Dương và Hưng Yên nằm giữa vùng châu thổ sông Hồng, đông dân, giàu của, phát triển sớm từ thời bình minh dựng nước, xóm làng trù phú, đồng ruộng thẳng cánh cò bay Sử sách Việt Nam còn ghi chép, bà Phạm Thị Trân sống vào thời Đinh Tiên Hoàng và Tiền Lê (Lê Hoàn). Là người phụ nữ nhan sắc, lại có tài múa, và làm trò nổi tiếng một thời ở Hồng Châu. Hồng Châu thời Đinh đã từng có tập tục xem ca hát, múa, và làm trò đã có nhiều đào kép như bà Phạm Thị Trân nhưng không giỏi bằng bà, không nổi tiếng như bà. Bà luôn giữ vai trò chủ chốt trong các nhóm, các đoàn đi múa hát và làm trò thời đó. Lời ca tiếng hát của bà được các quan khách và người dân lao động hết lời ca ngợi, người xem bà múa hát đã thốt thành thơ: Múa hát như muốn hát bàn đào Hát giục mây bay, giục gió ào Tiếng hát kinh hồn quân bạc ác Lời than làm nhỏ lệ đồng bào Vua Đinh Tiên Hoàng đã cho mời bà về Hoa Lư (kinh đô của Việt Nam lúc đó) và phong cho bà chức ưu Bà. Khi vào cung, nhà vua không lưu bà ở lại trong cung múa hát mà lại giao cho bà chịu trách nhiệm dạy quân lính múa hát, đánh trống, gẩy đàn, diễn các tích trò, lúc đó gọi là hát trò nhời hay gọi là hát chèo. Lời ca của bà mang tinh thần thượng võ yêu nước: Chinh tòng chinh, chinh tòng chinh Bất diệt thù hề, bất nguyện sinh. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 5
  6. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Trong sách “Đả cố lục” còn ghi lại: cách rước trống chèo nhà Đinh của bà Phạm Thị Trân đã có sức cổ vũ lớn đối với tinh thần chiến đấu của quân sĩ. Nghệ thuật hát chèo manh nha từ thời đó. Cả vùng quê rộng lớn Hải Dương, Hưng Yên phát triển hát chèo. Cũng chính nơi đây sau này đã cung cấp cho ngành hát chèo Việt Nam những nghệ nhân ưu tú, tài ba và góp phần truyền thụ cho thế hệ sau thừa kế một nền nghệ thuật dân tộc độc đáo đã đi vào đời sống của nhân dân Việt Nam hàng ngàn năm nay. Ngày nay vào dịp tháng giêng, tháng hai sau vụ gặt lúa, nhân dân vùng Hải Dương, Hưng Yên lại tổ chức hội làng, trong đó hát chèo giữ một vai trò quan trọng, là linh hồn không thể thiếu của ngày hội. Khi bà mất, nhân dân Hải Dương và Hưng Yên đã tôn bà là Bà tổ của nghề hát chèo. Trong các nhà thờ, chùa của các làng bài vị thờ bà thường đặt chính giữa. Hàng năm cứ đến ngày 18/2 âm lịch, nhân dân Hải Dương và Hưng Yên lại tổ chức giỗ bà Phạm Thị Trân - bà tổ của nghề hát chèo. Tại đền thờ vua Đinh ở cố đô Hoa Lư, Ninh Bình, bà Phạm Thị Trân được phối thờ như một vị tổ nhân thần trong đền thiêng dưới bệ rồng của Thánh minh Hoàng đế nhà Đinh. Sở văn hóa thông tin Ninh Bình dưới sự chỉ đạo của ông Nguyễn Đăng Thanh, giám đốc Sở, đã xin chân nhang và lập bàn thờ vị tổ Chèo Phạm Thị Trân tại một ngôi miếu nhỏ cạnh nhà văn hóa trung tâm của tỉnh Ninh Bình, quanh năm hương khói. Các đoàn nghệ thuật về biểu diễn tại nhà văn hóa trung tâm Ninh Binh không quên tới thắp hương, bái lễ vị tổ thứ nhất của nghệ thuật sân khấu Chèo. 1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của chèo Cho đến nay, việc xác định thời điểm ra đời của sân khấu chèo vẫn chưa thật sự thống nhất. Có nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà nghiên về nguồn gốc và sự hình thành của chèo, tuy nhiên có thể tổng hợp lại thành hai nhóm, hai quan niệm chính khác nhau. Một số người cho rằng: Nói chèo ra đời nghĩa là một loại hình sân khấu ra đời thì khi đó Chèo đã đạt tới mức hoàn chỉnh một loại hình nghệ thuật sân khấu, phải có đủ các thành phần trong nghệ thuật tổng hợp này là kịch bản + âm nhạc + diễn xuất + mỹ thuật. Vở diễn đã hoàn chỉnh có tích trò, có văn, có Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 6
  7. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch nghệ. Với quan niệm đó người ta cho rằng Chèo ra đời từ thời Trần thế kỉ XIII, sau sự kiện Lý Nguyên Cát truyền cho đào kép Đại Việt Vở diễn " Tây vương mẫu hiến bàn đào" của tạp kịch đời Nguyên ( theo chính sử ghi ). Một số nhà nghiên cứu khác lại quan niệm rằng có thể xem như Chèo ra đời khi những trò diễn đầu tiên được trình diễn theo đặc trưng ngôn ngữ của chèo về làn điệu, lối diễn cho dù còn ở mức sơ khai chưa hoàn chỉnh. Với quan niệm đó, người ta cho rằng chèo ra đời từ thời Đinh mà hình thức sơ khai ban đầu là những trò diễn kết hợp trò nhại và múa hát dân gian được Chèo hóa còn dấu tích là khổ trống lưu không trong quân ngũ thời Đinh được nghi bằng phép hài thanh ở sách "Đả cổ lục" và đoạn nghi về huyền nữ Phạm Thị Trân trong "Hý phường phả lục." Và tiếp nữa là văn bia tháp “Sùng thiện diên linh”. Đa số các nhà nghiên cứu chèo tán thành quan niệm của nhóm thứ hai mà người thủ xướng là phó giáo sư Hà Văn Cầu từ năm 1964 khi ông còn là một cán bộ của Ban nghiên cứu Chèo Trung ương. Vì tán đồng ý kiến cho rằng chèo ra đời từ thời Đinh cho nên các nhà nghiên cứu mới cho rằng chèo đã có một nghìn năm lịch sử. Suốt từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX sử sách ghi chép vô cùng ít ỏi về sân khấu dân tộc. Bởi vì các sử gia, học giả, phải quan tâm đến những sự kiện trọng đại của quốc gia qua bao biến thiên thăng trầm của lịch sử, bao sự đổi thay chế độ chính trị xã hội, bao chuyện tày đình tác động đến chuyện sống còn của dân tộc, số phận của trăm họ, muôn dân. Mặt khác trong quan niệm chính thống của người xưa, nghề xướng ca, kẻ làm nghề xướng ca còn bị coi khinh, không được xếp hạng vào thang thứ bậc trong các đẳng cấp trong xã hội phong kiến, cho nên các học giả, sử gia càng ít lưu tâm. Có thể xem như suốt từ thời Đinh cho đến cuối đời Trần ( khoảng 300 năm) Chèo mới ở thời kì sơ khai, chưa có vở diễn dài hoàn chỉnh. Hình thức phôi thai của Chèo là những trò diễn được các nhà nghiên cứu gọi chung là "trò nhại". Trò nhại tức là những trò diễn bắt chước cử chỉ hành vi thể hiện những đức tính tốt đẹp, công lao của các vị thần( trong dịp tế lễ, hội làng) hay Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 7
  8. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch của một vị hào phú( trong dịp giỗ tết, khao vọng do con cháu họ thuê đào kép sắm vai). Các "trò nhại" này có sử dụng các làn điệu hát, khuôn múa mà sau này dần dần phát triển thành các điệu Chèo. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì khoảng cuối thế kỉ XIV mà hình thức "Chèo thuyền bản" hay "Chèo thuyền bát nhã" rồi tiến tới một vở diễn đầu tiên tương đối hoàn chỉnh của Chèo cả về tích chuyện, nhân vật, trò diễn, và hát múa dù là còn ở mức giản đơn đã ra đời đó là trò diễn " Mục Liên báo ân" còn gọi là "Huyết hồ trò" hay " Mục Liên địa tạng". Nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất nhận định chèo phát triển tới mức hoàn chỉnh một loại hình sân khấu vào thời Hồng Đức nhà Lê, và phát triển tới đỉnh cao, có nhiều tinh hoa độc đáo vào khoảng Lê Mạt- Nguyễn sơ rồi tiếp tục bổ xung vào thành tựu của chèo bằng sự bồi đắp thêm cho các tác phẩm tiêu biểu như Trương Viên, Lưu Bình Dương Lễ, Từ Thức, Tôn Mạnh - Tôn Trọng vào cuối thế kỉ XIX Cho đến đầu thế kỉ XX Chèo đã để lại một di sản khá đồ sộ về số lượng vở diễn làn điệu Chèo với những tinh hoa độc đáo như các mảnh trò Thị Màu lên chùa, Mẹ Đốp - Xã Trưởng, Súy Vân dở dại Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai. Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo. 1.2 Đặc trƣng nghệ thuật của Chèo 1.2.1 Về tên gọi của Chèo và nội dung của chèo. 1.2.1.1 Tên gọi của chèo. Chèo là biến âm của trào sau gọi chệch đi là chèo.Chèo gắn với động tác chèo thuyền tồn tại trong đời sống và trong tín ngưỡng phong tục lâu đời Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 8
  9. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch của người việt. Chèo đi ra từ nghi lễ tôn giáo cổ xưa. Chèo là loại hình sân khấu nảy sinh phát triển từ nền ca vũ nhạc dân tộc và những sinh hoạt văn hóa dân tộc. 1.2.1.2 Nội Dung Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo còn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên. Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương. 1.2.2 Nhân vật trong Chèo Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Nhân vật trong chèo bao gồm những vai Đào chín, Đào thương, Đào lệch, các vai sinh, lão, mụ Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng. Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp nhau trong những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường trò Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 9
  10. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Đặc điểm nổi bật của Chèo là sự xuất hiện của yếu tố hài qua nhân vật hề tạo nên giá trị thẩm mĩ độc đáo. "Hề" là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm: hề áo dài và hề áo ngắn Hề áo ngắn ( hề tích cực) đại diện cho những người lao động tích cực nghèo khổ, địa vị thấp kém nhưng thông minh đứng lên trên quan điểm của nhân dân để phê phán giai cấp thống trị tiêu iểu như hề Mồi, hề Gậy, Mẹ mõ, Lính canh Hề áo dài đại diện cho tầng lớp trên quan lại, hào lý, thầy đồ, thầy bói họ thường tự bộc lộ bản chất tham lam ngu ngốc giả dối. 1.2.3 Kĩ thuật kịch Chèo là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ. 1.2.4 Âm nhạc trong chèo. Nói tới đặc trưng của nghệ thuật Chèo người ta thường nghĩ ngay tới tính chất cách điệu của nó. Dĩ nhiên còn nhiều yếu tố khác nữa, nhưng tính chất cách điệu theo lối Chèo được xem như yếu tố bao trùm và nổi bật để nhận diện và phân biệt Chèo với các môn nghệ thuật khác. Chính từ ý nghĩa đó danh xưng Chèo có lúc biến thành tính từ để chỉ tính chất một cử chỉ, một giọng nói, một cách ứng xử có phần khác thường với đời sống thường nhật, mang một vẻ rất riêng như: “Cô ấy đi đứng nói năng rất chèo!”. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 10
  11. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Chèo – suy cho cùng là một dạng ca kịch đặc thù Việt Nam lấy âm nhạc làm phương tiện chủ yếu. Tuy vậy vẫn còn quan niệm đơn giản cho rằng phần âm nhạc của nó chỉ biểu hiện qua các làn điệu hát (bao gồm cả các làn điệu hát – nói như lối nói sử, nói chênh, nói lệch, nói lối, nói đếm, kể hạnh ) mà không chú tâm tới tính âm nhạc của lối nói thường chiếm lĩnh một thời lượng lớn trong tiến trình Chèo. Âm nhạc trong Chèo biểu thị qua ba hình thức: hát, hát – nói và nói. Ngoài ra còn ở những trạng thái không lời khác. Về Hát, được biểu hiện qua các điệu như Sa lệch, Đường trường, Vãn, Sắp với những giai điệu và tiết tấu được định hình thành những bài bản cố định nhằm mô tả một trạng thái tâm lý, một tình huống nào đó mang những sắc thái riêng biệt. Về loại Hát – nói, biểu hiện qua các làn như vỉa, ngâm, nói sử, nói chênh, nói lệch, nói lối là những phương tiện tạo nên hơi Chèo. Loại này thường không định hình nghiêm ngặt như các điệu hát, mà tiến hành giai điệu một cách tự do về tiết tấu dựa trên sự dẫn dắt của lời thơ, thường dùng trong những trường hợp: đối cảnh sinh tình, suy tư, gợi cảm hoặc bắc cầu nối vào những điệu hát mang tính chất riêng biệt. Hình thức biểu hiện thứ ba của âm nhạc Chèo là Nói. Nói trong Chèo là một phương tiện biểu hiện rất phong phú và đa dạng, bao gồm cách nói của người trung, kẻ nịnh, của vai chín, vai hề, của lão say, tiên ông, của mục đồng, tiểu tốt Lại có cả cái trang trọng của vua, cái thâm trầm hiền sĩ, cái yểu điệu thục nữ, cái dân dã thôn làng, cái oai phong tướng sĩ Tất cả được phủ lên một sắc thái âm nhạc rất tinh tế, hình thành nên lối nói Chèo – một trong những nét đặc trưng quan trọng nhất của ngôn ngữ, thi pháp thể loại. Với một cách nhìn thấu đáo thì nghệ thuật nói trong Chèo hàm chứa đủ cả những thành tố của ngôn ngữ âm nhạc như độ cao thấp (cao độ), độ dài ngắn (trường độ), độ mạnh nhẹ (cường độ) và độ tối sáng, thuận nghịch mang tính kịch rõ nét. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 11
  12. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Thanh điệu tiếng Việt được tạo thành bởi các cung bậc: thanh huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng mang tính âm nhạc cao. Văn trong Chèo lại là văn biền ngẫu có cấu trúc vần điệu cân đối cùng với văn vần, lục bát và các biến thể thơ khác đã tạo nên một sự cách điệu mang tính âm nhạc trong sự diễn đạt lời nói thông thường trong quá trình kể chuyện của Chèo. Đó là điểm khác biệt lớn giữa Chèo với thể loại kịch nói. Cách nói của kịch gần với lối nói thông thường trong đời sống. Còn cách nói Chèo lại như được phủ lên một tấm màn nhung mượt mà thấm đậm chất nhạc, chất thơ. Yếu tố cao độ của âm nhạc được chỉ định bởi dấu giọng của lời thơ, lại được phát ra trong một giọng (ton) nhạc ở độ cao nhất định đã tạo nên cái “hơi nhạc” của tiến trình Chèo. Nếu người diễn không “bám” được vào cái hơi giọng đó thì rất khó bắt vào các làn hát và sẽ có hiện tượng lạc giọng, ngang cung. 1.2.5 Tƣ duy trong chèo. Là tư duy thơ, tư duy huyền thoại, tư duy ước lệ thẫm đượm trong ngôn ngữ đặc thù, trong những luật lệ phép tắc sáng tạo đặc thù của một hình thức sân khấu gọi là Chèo. Thành quả cụ thể của tư duy chèo là những mô hình (mẫu hình) nghệ thuật: Mô hình hát múa, mô hình các loại nhân vật, mô hình các loại lớp trò 1.2.5.1 Tƣ duy thơ Người làm chèo (tác giả, đạo diễn, diễn viên) là những nhà thơ tự sự, nhà thơ kể chuyện bằng nghệ thuật chèo. Với tư duy thơ người nghệ sĩ chèo miêu tả cuộc sống không ở dạng thái tự nhiên như ngoài đời. Cuộc sống vào chèo được khái quát hoá lên, tinh chọn những nét thiết yếu mang ý thơ. Và ý thơ ấy lại được thể hiện thông qua ngôn ngữ nghệ thuật đa dạng của chèo, thông qua những thủ đoạn nghệ thuật giàu tính biểu hiện như ước lệ, ẩn dụ, tượng trưng Văn học chèo là văn học thơ. Người ta thấy ở chèo hầu như tất cả các thể loại thơ phú Việt Nam. Dùng phổ biến là thể ngũ ngôn, thất ngôn, thể lục bát, các thể biến của nó và thơ văn biền ngẫu. Ca dao tục ngữ lai láng trong Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 12
  13. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch chèo toả ra vị hương thanh khiết ngọt ngào của hồn quê Việt Nam. Ngôn từ thơ trong chèo giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Vì lời thơ ở đây gắn chặt với các lối nói (nói sử, nói lửng, nói chênh, nói lệch ) với ngâm, vịnh, vỉa, với các giai điệu hát. Lời thơ không những là linh hồn của giai điệu mà còn là yếu tố góp phần cho giai điệu đẹp thêm lên. Trái trở lại, giai điệu (gồm cả hát, các lối nói và ngâm vịnh) nâng niu, nhấn nhá từng từ trong lời thơ khiến cho ý của từ, vẻ đẹp âm thanh của từ như được tôn lên một sắc độ mới. Văn học kịch bản là khâu đầu trong quá trình sáng tạo một trò diễn. Nó phải là nguồn cảm hứng, là cơ sở để người đạo diễn cùng bộ sậu những diễn viên, nhạc công, nhạc sĩ sáng tạo lên một trò diễn mang đậm đà chất thơ của chèo. Động tác trong diễn xuất chèo là động tác thơ. Chèo xử dụng chủ yếu những động tác đã được chọn lọc, những động tác có ý nghĩa. Những động tác này lại được làm đẹp hoặc tô điểm thêm bằng động tác trang sức mà nhà nghề gọi đó là động tác cách điệu, động tác múa. Và từ chất liệu này người nghệ sĩ biểu diễn tạo nên những bài thơ động tác thực sự. Bản chất của âm nhạc là thơ. Âm nhạc có phần đóng góp lớn trong nghệ thuật chèo. Nhiều hệ thống làn điệu với hơn hai trăm ca khúc. Lại còn những hình thức nói lối, ngâm, vịnh, vỉa Âm nhạc chèo bắt nguồn từ nền văn hóa cổ hàng ngàn năm của người Việt châu thổ sông Hồng đã tạo cho phong cách nghệ thuật này một sắc thái dân tộc đặc thù. Những trò diễn chèo đẹp đẽ, sang trọng được sáng tạo một cách công phu như thế chúng ta thấy nhiều ở những năm tháng thịnh vượng của nghệ thuật chèo. Hồn thơ trong chèo: Từ xa xưa, người diễn chèo cùng người xem chèo sống thân thiết với nhau sau luỹ tre làng. Họ là những người nông dân làm ăn vất vả hai sương một nắng, phải chống chọi liên miên với thiên tai địch hoạ, với những thế lực đen tối trong xã hội. Dẫu rằng vậy, trong tâm hồn họ vẫn sáng toả ra một niềm lạc quan yêu đời. Họ cười vui giễu cợt ngay cả trong đau khổ. Và cũng ngay từ những nỗi khổ đau của kiếp người ấy cháy rực lên ở họ những khát vọng tâm linh. Họ khát vọng một cuộc sống yên vui. Họ khát Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 13
  14. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch vọng được sống trong lòng vị tha, trong tình yêu thương nồng nàn của cộng đồng. Từ khát vọng ấy họ làm ra những ca dao, những điệu dân ca, dân vũ, những truyện tiếu lâm, những thần tích, những trò vui tưng bừng trong các lễ hội. Và chính do tiếp nối được cái hồn thơ mãnh liệt của ông cha ta mà những nghệ nhân chèo vô danh đã sáng tạo nên những tích chèo cổ mà lưu truyền tới ngày hôm nay. Ý nghĩa đạo đức trong chèo thường được lãng mạn hoá, nâng lên tới mức tuyệt đối, siêu phàm mang cái chất huyền bí của đạo giáo phương Đông. 1.2.5.2 Tƣ duy huyền thoại . Từ thời cổ xưa, thơ luôn gắn bó với huyền thoại. Trong quá trình lịch sử huyền thoại có xu hướng đi gần lại cuộc sống trần tục, biến hoá thành ba dạng thái khác nhau. Ba dạng thái này đều thấy rõ trong các tích chèo cổ. Một là những tích huyền thoại đích thực có thần tiên, bụt thánh, quỷ thần tham gia, kể về những sự việc siêu phàm như lấy vợ tiên, hoá Phật, tắm nước thần hoá đẹp, đôi ngọc lưu ly nhẩy vào làm lành đôi mắt Thuộc vào dạng này có thể kể đến những tích chèo cổ như: Trương Viên, Từ Thức, Quan Âm Thị Kính Dạng thứ hai là những tích nói về những mối quan hệ giữa những con người trong đời thường, song những sự việc, những tính cách trong tích lại mang tính siêu phàm. Như tích cổ Lưu Bình Dương Lễ. Ở dạng thứ ba, những tích chèo chỉ còn giữ lại hai tố chất cơ bản của huyền thoại là tính kỳ và tính lãng mạn. Hai yếu tố này từ tưởng tượng tạo nên chính chất thơ của trò diễn. Nhiều tích chèo cổ thuộc dạng này như trò Kiều, Suý Vân, Tống Chân Cúc Hoa Trong định nghĩa của các từ điển thì cả ba dạng trên đều nằm trong phạm trù huyền thoại (myth). Huyền thoại là nói về những tích truyện, những nhân vật không có thật, chỉ do tưởng tượng bày đặt ra. Mà nếu có thật thì ít nhiều cũng phải mang tính siêu phàm. Tư duy huyền thoại trong chèo biểu hiện theo cách riêng của nó. Siêu phàm xen lẫn với phàm tục. Cao cả thần tiên xen lẫn với dung tục. Người nông dân nghèo như muốn níu kéo cảnh giới huyền thoại xuống với đời sống Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 14
  15. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch thực tế đầy nước mắt và tiếng cười của họ. Chèo đã tạo nên một thế giới cho riêng mình, một thế giới vừa thực lại vừa huyền ảo. Thế kỷ XX, chuyển sang thời kỳ chèo hiện đại, tư duy chèo gặp sự đối nghịch của tư duy tả thực đến từ nghệ thuật phương Tây. Sân khấu chèo cải lương tuyên ngôn theo khuynh hướng tả thực của kịch "Thái Tây". Vào giữa thế kỷ, tả thực vẫn là khuynh hướng chủ đạo trong nền văn học nghệ thuật cách mạng. Năm 1957, Nhà hát Chèo xây dựng tích “Lọ nước thần” lẩn đi các yếu tố huyền thoại để làm nổi bật nên ý thức đấu tranh của người nông dân chống cường quyền. Phải tới lần dựng lại thứ ba (1972) trò diễn mới trở về là một tích chèo huyền thoại thực sự. Đối với những vở về đề tài hiện đại thì tư duy tả thực kịch nói đã lấn át, hầu như thay thế tư duy huyền thoại của chèo. Đây là giai đoạn xuất hiện những vở "kịch chèo" còn gọi là "kịch pha ca". Nhìn chung, nếu quan sát tường tận các tích chèo cổ và tích chèo về đề tài hiện đại chúng ta có thể đi đến nhận xét rằng: Tính lãng mạn, tính kỳ là hai yếu tố cơ bản, hai yếu tố "cốt tuỷ" không thể sao nhãng được trong tư duy huyền thoại. 1.2.5.3 Tƣ duy chèo là tƣ duy ƣớc lệ. Tư duy của đạo giáo phương Đông là tư duy hướng nội. Văn học nghệ thuật phương Đông với chức năng "tải Đạo" đã từ tư duy ấy hướng sự miêu tả của mình vào nhiệm vụ nói lên bằng hình tượng nghệ thuật cái "ý", cái "thần" bên trong của sự vật. Phương pháp miêu tả ấy là phương pháp ước lệ. Cho nên, còn có thể gọi tư duy hướng nội của chèo là tư duy ước lệ. Phương pháp ước lệ sử dụng các phương tiện nghệ thuật như tượng trưng, biểu trưng, ẩn dụ, ngụ ý, liên tưởng để diễn tả. Ước lệ hoá (conventionalize) thường đi với cách điệu hoá (Stylization). Cách điệu hoá là một biện pháp khái quát hoá thực hiện. Cách điệu hoá là quá trình đi tìm cái thiết yếu mang bản chất của sự vật và khuếch đại nó, làm đẹp nó lên. Trong sân khấu truyền thống Chèo, Tuồng, phương pháp ước lệ, cách điệu hoá là luật lệ, là phép tắc cơ bản chi phối toàn thể kịch bản cho đến diễn xuất của trò diễn. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 15
  16. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Tư duy thơ, Tư duy huyền thoại, Tư duy ước lệ, Ba yếu tố thơ, huyền thoại, ước lệ liên hệ chằng chịt với nhau, tạo điều kiện cho nhau tồn tại, hợp thành một tổng thể thống nhất hữu cơ. Đến đây một vấn đề lớn đặt ra: Chúng ta đang bước vào thế kỷ XXI, liệu tư duy chèo này còn phù hợp với thời đại không? Tư duy nghệ thuật bao giờ cũng bắt nguồn từ tư duy triết học, tư duy khoa học của thời đại. Nền khoa học cơ giới cổ điền khởi đầu từ Niutơn đã chế ngự phương Tây từ thế kỷ XVII và đến thế kỷ XIX theo chủ nghĩa đế quốc tràn sang phương Đông. Cùng với sự ra đời của khoa học cổ điển là chủ nghĩa duy lý của Descartes và chủ nghĩa tả thực trong văn học nghệ thuật. Nền khoa học cổ điển tạo nên sự phát triển mạnh mẽ về kỹ thuật công nghệ làm thay đổi rất lớn đời sống vật chất của loài người. Đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX Einstein với thuyết tương đối, Bohr và Heisenberg với giải thích về cơ học lượng tử đã mang những thay đổi làm đảo lộn tận nền tảng khoa học cơ giới cổ điển. "Nền vật lý hiện đại vừa thống nhất và lý giải nhiều khái niệm cơ bản của triết học, vừa đề ra những câu hỏi lớn của loài người mà các nhà đạo học từ xưa đã tổng kết, và kỳ lạ thay, những phát hiện này của nền vật lý hiện đại không khác bao nhiêu với những kết luận của các thánh nhân ngày xưa" Thực vậy, vật lý hiện đại trong khí phủ định thuyết "Hạt cơ bản" của vật lý cổ điển lại đồng nhất với vũ trụ quan "Vạn vật vi nhất thể" - cái chân lý mà các nhà Đạo học phương Đông đã phát hiện ra bằng trực giác. Sự xuất hiện của khoa học lượng tử đã làm lung lay thực sự chủ nghĩa duy lý trong triết học và tư duy tả thực trong văn học nghệ thuật. Trong hoạt động văn học nghệ thuật phương Tây vào những năm 30 của thế kỷ XX nổi lên trào lưu "hướng về phương Đông" đặc biệt ở ba lĩnh vực thơ, hội hoạ và sân khấu. Hay chỉ nói về nghệ thuật sân khấu. Ở Pháp, từ sự gợi ý của sân khấu Bali, Antonin Artaud đề xuất ra "sân khấu thuần tuý" J.L.Barrault "sân khấu tổng thể" và ông tự thí nghiệm nó trên sân khấu. Lấy cảm hứng từ sân khấu Nhật Bản và Trung Quốc, Meyrhold lập "sân khấu hiện thực ước lệ tại nhà hát "Tháng Mười" ở Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 16
  17. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Nga; và vào giữa thế kỷ B.Brecht ở Đức lẫy lừng với "sân khấu tự sự" của mình. Đấy là không kể một số loại sân khấu khác trong đó đặc biệt là "sân khấu phi lý" cùng thời xuất hiện ở phương Tây. Khuynh hướng nói chung: Tư duy hướng nội, lấy ước lệ làm phương pháp, dùng các phương tiện tượng trưng, ẩn dụ, liên tưởng để diễn tả như ở sân khấu phương Đông. Xuất phát từ tình hình trên mà nhiều chuyên gia sân khấu phương Tây sang thăm nước ta vào nửa cuối thế kỷ XX có nhận xét rằng sân khấu truyền thống Chèo Tuồng mang nhiều yếu tố hiện đại. Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền khoa học hiện đại. Tư duy nghệ thuật sân khấu phương Đông phù hợp với những mẫu hình tư duy của khoa học hiện đại lẽ nào lại lac hậu. Có điều là, trung thành với tư duy nghệ thuật của mình, mỗi chủng loại sân khấu cổ truyền phương Đông cần giải quyết những vấn đề nghệ thuật riêng của mình để đáp ứng với yêu cầu thẩm mỹ luôn luôn đổi mới của thời đại. 1.2.6 Nhạc cụ Dàn nhạc chèo đóng vai trò quan trọng cho biểu diễn và ca hát của diễn viên. Vì vậy thành phần các nhạc cụ dàn nhạc tương đối phong phú. Dàn nhạc chèo gồm có các nhạc cụ gõ và các nhạc cụ ti, trúc như sau: Nhạc gõ có trống đế, trống cơm, trống ban, trống bộc, trống cái, mõ, thanh la, chuông, tiu, cảnh, não bạt, sinh tiền. Nhạc ti trúc có: Nhị, hồ, nguyệt, tam, bầu, tam thập lục, tiêu, sáo. Tuỳ vào các tình huống của câu chuyện kịch mà người ta sử dụng nhạc cụ khác nhau cho phù hợp.Nhưng hầu như trong một vở chèo bao gồm những nhạc khí chủ yếu là Trống,bộ gõ đầy đủ có trống cái,trống con,trống cơm,sênh, thanh la,mõ.và hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị, sáo. 1.2.6.1 Trống Cái Trống cái là nhạc cụ không định âm, to lớn, xuất hiện ở khắp nước Việt Nam từ hàng ngàn năm nay. Dù ở đồng bằng hay miền núi người ta đều nhận ra sự có mặt của trống cái. Loại trống này có hình trụ khum với hai mặt trống bịt da trâu bò có đường kính từ 50, 60 cm trở lên. Tang trống bằng gỗ, Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 17
  18. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch thân trống có một quai xách để treo trống. Nếu không sử dụng quai này người ta có thể đặt trống trên giá gỗ hay kim loại. Âm thanh trống trầm và vang xa. Người ta có thể dùng một hoặc hai dùi gỗ để đánh trống (tùy theo tính chất của công việc). Cách đánh trống có nhiều cách : đánh giữa mặt trống, rìa mặt trống, tang trống hay đáng bạt dùi Mỗi cách đều tạo âm sắc riêng. Có thể đánh nhanh hoặc chậm tùy trường hợp. Trong Chèo Trống cái dùng đánh điểm để thông tin, đánh điểm gây không khí,tạo cao trào.Ngoài ra được sử dụng trong những dàn nhạc. Vào thế kỷ 15 và 16 trống cái đã xuất hiện trong các dàn nhạc như Đường thượng chi nhạc và Nhã nhạc. Đến thế kỷ 18 người ta nhận thấy sự có mặt của nó trong dàn nhạc lễ và trong các ban nhạc sân khấu như tuồng, chèo để tạo không khí kịch tính. Ở Tây Nguyên trống cái tham gia hòa tấu với dàn nhạc cồng chiêng, xuất hiện trong đám múa sư tử, điệu xòe (của người Thái). 1.2.6.2 Trống cơm Từ thế kỷ 10, trống cơm đã xuất hiện ở Việt Nam (đời nhà Lý). Đây là nhạc cụ gõ, định âm, còn có tên gọi khác là phạn cổ (phạn là cơm, cổ là trống). Trong các ban nhạc tuồng, chèo và ban nhạc tang lễ ngày xưa có loại trống này. Nhiều ban nhạc ngày nay cũng sử dụng trống cơm. Trước khi đánh trống người ta thường lấy cơm nghiền nát, trét vào giữa mặt trống để định âm, do đó trống này gọi là "trống cơm". Trống cơm có 2 mặt trống hình tròn bằng nhau, đường kính khoảng 15cm. Mặt trống bịt da, đường viền buộc bằng sợi mây hay da (dây xạ) kéo từ đầu trống này sang đầu trống kia để chỉnh độ căng giữa 2 mặt trống. Tang trống bằng gỗ hình ống tròn, hai đầu hơi khum lại, đường kính ở tang trống đoạn giữa lớn hơn đường kính mặt trống. Tang trống để mộc hoặc sơn đỏ. Có loại trống cơm đường viền đóng bằng đinh tre vào tang trống. Người ta trét cơm (thường là cơm nóng) vào giữa để định âm. Nếu trét nhiều cơm thì âm thanh phát ra trầm, ít cơm thì âm thanh sẽ cao hơn.Hai mặt trống cách nhau một quãng năm đúng. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 18
  19. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Trống cơm có âm thanh vang nhưng mờ đục, diễn tả tốt tình cảm buồn, sâu sắc. Tiếng trống cơm nghe gần giống tiếng đàn hồ lớn bật dây nên đôi lúc người ta sử dụng nó thay âm thanh đàn hồ lớn trong những âm trầm nhất định nào đó. Tùy theo chất cơm trét mặt trống âm thanh phát ra sẽ có chất lượng tốt hay xấu tương ứng. Để diễn trống này người ta đeo trống bằng 1 dây da quàng qua cổ, đặt trống ngang trước bụng rồi dùng 2 tay vỗ vào 2 mặt trống. Tay trái vỗ vào mặt thổ phát ra âm trầm, tay phải vỗ vào mặt kim phát ra âm cao. Trống cơm có kỹ thuật diễn chính như đánh chập (tay trái vỗ mặt thổ, tay phải bịt mặt kim), ngón vê (dùng ngón tay hoặc bàn tay chạm liên tục thật nhanh trên mặt trống 1.2.6.3 Trống Đế Trống đế là nhạc cụ gõ, xuất hiện ở Việt Nam từ khá lâu đời. Trong Chèo người ta gọi nó là trống đế, còn trong Ca trù gọi là trống chầu. Nhìn chung nó chỉ xuất hiện trong Chèo và Ca trù. Trống Đế có hai mặt trống hình tròn, đường kính bằng nhau khoảng 15 cm. Mặt trống thường là da nách trâu nạo mỏng (rất dai và bền). Đường viền da bịt mặt trống trùm xuống thân trống khoảng 3cm, được đóng bằng đinh tre. Da trống căng nhưng phải định âm tương ứng giọng hát của diễn viên. Tang trống cao khoảng 18 cm, bằng gỗ mít nguyên khúc gọi là tang liền, song có khi bằng những mảnh gỗ mít chắp lại, sơn phết bên ngoài. Hai dùi trống dài khoảng 25cm, bằng gỗ cứng. Phía đầu tay cầm to hơn phía đầu gõ vào mặt trống. Trống chầu có âm sắc đanh gọn, thể hiện tốt tình cảm trong sáng, vui tươi. Tuy nhiên tùy thuộc vào kĩ thuật đánh nó có thể diễn tả nhiều sắc thái tình cảm khác nhau (ngón vê, ngón bịt, đánh trên tang trống hay mặt trống ). 1.2.6.4 Mõ Mõ thuộc bộ gõ, không định âm, tham gia hòa tấu trong các dàn nhạc sân khấu và nhiều loại hình ca hát khác. Cấu tạo của mõ loại này thường làm bằng tre già, hình trǎng khuyết như mõ làng, ở một số dàn nhạc tuồng, chèo Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 19
  20. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch còn dùng mõ gỗ như mõ chùa, kích cơ vừa phải, đường kính từ 10 - 25 cm. Ngày nay mõ còn được dùng trong các tốp nhạc dân tộc mới và trong dàn nhạc dân tộc tồng hợp. Đặc biệt tham gia vào dàn Đại nhạc Huế hiện nay có loại mõ làm bằng sừng trâu. Mõ này làm từ sừng trâu cong, cắt bỏ phần đầu nhọn, lấy phần gốc dài chừng 10 - 15 cm. Âm thanh của mõ sừng trâu vang, khoẻ.Trong chèo Mõ Công dụng chính là cầm nhịp cho điệu hát và cho toàn ban phụ họa 1.2.6.5 Sênh Sênh tiền là nhạc khí tự thân vang của Dân tộc Việt. Sênh là phách, tiền là đồng tiền chính, do đó còn gọi là Phách sâu tiền (Quán tiền phách) Sênh tiền là nhạc khí tự thân vang gõ, quẹt, lắc do người Việt Nam sáng tạo. Sênh tiền làm bằng ba thanh gỗ tốt, thường là gỗ trắc hay gỗ cẩm lai, chiều dài khoảng 25cm, chiều ngang khoảng 3cm và dày khoảng 0,6cm. Thanh gỗ thứ nhất và thanh gỗ thứ hai được nối liền bằng một sợi dây da ngắn, trên mặt gỗ trừ đoạn tay cầm, đều có khứa những đường rãnh ngang. Ở cuối có đóng một hoặc hai cái đinh có xâu một số đồng tiền. Thanh thứ ba ngắn hơn một ít, có khứa răng cưa bên cạnh, cạnh trái khứa từ đầu đến giữa, cạnh phải từ đầu đến cuối. Âm thanh Sênh tiền vui, rộn ràng, khoẻ, phong phú. Khi biểu diễn, nghệ nhân cầm hai thanh một và hai, chồng so le nhau, để các cọc tiền liền nhau, ngón cái ở bên trên. Với những động tác điêu luyện của các ngón tay, hai thanh một và hai được mở ra, kẹp vào tạo nên tiếng phách gỗ chắc nịch (giống như tiếng Song lang hoặc phách Huế) hòa lẫn tiếng rung của kim khí rộn ràng của đồng tiền (do đồng tiền nhảy lên). Có lúc tay trái đưa lên cao lắc nhanh liên tục, các đồng tiền va chạm vào nhau, reo lên một cách rộn rã, tạo âm thanh vòng lắc. Tay phải cầm ở giữa thanh thứ ba, sấp bàn tay xuống quẹt răng cưa ở cạnh trái, ngửa bàn tay lên quẹt răng cưa ở cạnh phải vào những cạnh của hai thanh kia tạo nên chuỗi âm thanh lắc cắc của nhạc khí quẹt. Có lúc luồn thanh này vào giữa hai thanh kia, dùng cổ tay lắc đều nhanh tạo âm thanh vê dòn. Sênh tiền là nhạc khí rất độc đáo của Việt Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 20
  21. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Nam được sử dụng để đệm đàn hay ca, từng tiết tấu có thể kết hợp một lúc 3 nhạc khí gõ: phách, quẹt và vòng lắc, cuối một bản nhạc hay cuối một nửa đoạn thường sử dụng kỹ thuật lắc giữa hai thanh phách tiền. Sênh Tiền được sử dụng trong Dàn nhạc Ðại nhạc, Dàn Bát âm, trong Hát Cửa Ðình, Dàn nhạc Sân khấu Chèo và đệm cho Hát Sắc Bùa 1.2.6.6 Thanh La Thanh la là tên gọi một nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, chi gõ của dân tộc Việt. ở miền Nam gọi là Đẩu, miền Trung gọi là Tang. Được làm bằng đồng kim hợp thiếc có pha chì, hình tròn. Thanh la có nhiều cỡ to, nhỏ khác nhau, đường kính 15 - 25 cm, mặt hơi phồng, xung quoanh có thành cao 4 cm, ở cạnh thanh la người ta dùi hai lỗ thủng để xỏ một sợi dây quai. Khi diễn tấu nhạc công cầm dây quai dơ lên, còn một tay cầm dùi gõ vào mặt thau tạo ra tiếng vang, trong trẻo. Thanh la được sử dụng trong dàn đại nhạc, dàn nhạc lễ miền nam, trong ban nhạc chèo, chầu vǎn và dàn nhạc dân tộc tổng hợp 1.2.6.7 Đàn Nguyệt Đàn nguyệt tức nguyệt cầm, trong Nam còn gọi là đàn kìm. Loại đàn này có hộp đàn hình tròn như Mặt Trăng nên mới có tên là "đàn nguyệt". Theo sách xưa thì đàn nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại còn 2 dây. Sách của Phạm Đình Hổ thì ghi rằng đàn nguyệt xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 18. Đàn nguyệt có những bộ phận chính như sau: - Bầu vang : Bộ phận hình tròn ống dẹt, đường kính mặt bầu 30cm, thành bầu 6cm. Nền mặt bầu vang có bộ phận nằm phía dưới gọi là ngựa đàn (cái thú) dùng để mắc dây. Bầu vang không có lỗ thoát âm. - Cần đàn (hay dọc đàn) : làm bằng gỗ cứng, dài thon mảnh, bên trên gắn 10 phím đàn, trước đây chỉ có 8 phím. Những phím này khá cao, nằm xa nhau với khoảng cách không đều nhau. - Đầu đàn : hình lá đề, gắn phía trên cần đàn, nó có 4 hóc luồn dây và 4 trục dây, mỗi bên hai trục. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 21
  22. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch - Dây đàn : có 2 dây, trước đây làm bằng dây tơ, ngày nay thường làm bằng dây nilon. Tuy có 4 trục đàn nhưng người ta chỉ mắc 2 dây (một dây to một dây nhỏ). Cách chỉnh dây thay đổi tùy theo người sử dụng. Có khi 2 dây cách nhau quãng 4 đúng, có khi cách quãng năm đúng hoặc quãng bảy hay quãng tám đúng. Song cách thông dụng nhất vẫn là lên dây theo quãng năm đúng. Đàn nguyệt là nhạc cụ khảy dây, được dùng thường xuyên trong ban nhạc chầu văn, tài tử, phường bát âm và trong nhiều dàn nhạc dân tộc khác. Nhìn chung dàn nguyệt có âm sắc trong sáng, ở khoảng âm thấp thì hơi đục. Nó có thể diễn đạt nhiều sắc thái tình cảm khác nhau, từ dịu dàng, mềm mại đến rắn rỏi, rộn ràng. Ngày xưa người biểu diễn nuôi móng tay dài để khảy đàn nguyệt, ngày nay miếng khảy đàn đã giữ nhiệm vụ này. Một số kỹ thuật sử dụng tay phải trong đàn nguyệt như sau: - Ngón phi: lối đánh cổ truyền, không dùng miếng khảy mà sử dụng những ngón tay vẩy liên tiếp nhanh trên dây đàn, hiện quả âm thanh gần giống như ngón vê. Ngón phi có hai cách diễn: + Phi lên : thường sử dụng trên một dây đàn, bắt đầu từ ngón út rồi lần lượt những ngón khác hất vào dây đàn. + Phi xuống: sử dụng trên cả 1 dây đàn hoặc trên cả 2 dây. Phi xuống là vẫy nhanh các ngón tay vào dây đàn, bắt đầu từ ngón út (có khi bắt đầu từ ngón trỏ) rồi lần lượt những ngón khác khảy dây đàn. Khi biểu diễn ngón phi người ta dùng 4 ngón tay (không sử dụng ngón tay cái). Nếu đánh bằng miếng khảy đàn họ chỉ sử dụng 3 ngón vì ngón cái và ngón trỏ phải giữ miếng khảy. - Ngón vê : khảy liên tiếp trên dây đàn. Kỹ thuật này thường dùng trong nhạc hát văn. Cách vê có thể bằng móng tay hay miếng khảy, vê 1 dây hoặc 2 dây đều được. - Ngón gõ: dùng những ngón tay phải gõ vào mặt đàn, mục đích để báo hiệu cho hát, cho các nhạc khí khác hòa tấu hoặc điểm giữa những nhạc cụ, Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 22
  23. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch đoạn nhạc hay những lúc các nhạc cụ khác ngưng hoạt động. - Bịt : làm âm thanh vừa vang lên liền tắt đột ngột. Kỹ thuật sử dụng tay trái trong đàn nguyệt gồm có 12 cách: ngón rung, ngón nhấn, ngón nhấn luyến, nhấn luyến, ngón láy, ngón láy rền và ngón láy giật. Trước đây người ta ít sử dụng ngón vuốt, nhưng ngày nay có thể xem nó là kỹ thuật số 9 của tay trái. Kế tiếp là ngón bật dây, âm bội và đánh chồng âm ( hợp âm). 1.2.6.8 Đàn Nhị Đàn nhị là nhạc cụ thuộc bộ dây có cung vĩ, do đàn có 2 dây nên gọi là đàn nhị (二). Đàn xuất hiện ở Việt Nam khoảng thế kỷ 10. Ngoài người Kinh, nhiều người dân tộc thiểu số Việt Nam cũng sử dụng rộng rãi nhạc cụ này (Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Giấy, H’Mông v.v.) Tuy phổ biến tên gọi "đàn nhị", nhiều dân tộc tại Việt Nam còn gọi đàn bằng tên khác nhau. Người Kinh gọi là "líu" (hay "nhị líu" để phân biệt với "nhị chính"), người Mường gọi là "Cò ke", người Nam Bộ gọi là "Đờn cò". Hình dáng, kích cỡ và nguyên liệu làm đàn nhị cũng khác nhau đôi chút tùy theo tộc người sử dụng nó Loại đàn nhị thông dụng hiện nay có những bộ phận chính như sau: Bát nhị (còn gọi là ống nhị): là bộ phận tăng âm (bầu vang) rỗng ruột, hình hoa muống, làm bằng gỗ cứng. Bát nhị có 2 đầu, đầu này bịt da rắn hay kỳ đà, còn đầu kia xòe ra không bịt gì cả. Ngựa đàn nằm ở khoảng giữa mặt da. Dọc nhị (còn gọi là cần nhị, cán nhị): dáng thẳng đứng, đầu hơi ngả về phía sau, gốc cắm xuyên qua lưng bát nhị, gần phía mặt da. Trục dây : trục trên và trục dưới đều gắn xuyên qua đầu dọc nhị nằm cùng hướng với bát nhị. Dây nhị : Trước đây dây đàn được làm bằng sợi tơ se, ngày nay làm bằng nilon hoặc kim loại. Dây kim loại cho âm thanh chuẩn hơn nhưng không ngọt ngào bằng dây tơ hay dây nilon. Dây đàn chỉnh theo quãng 4 đúng, quãng 5 đúng, quãng 7 thứ nhưng phổ biến nhất là quãng 5 đúng. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 23
  24. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Cử nhị (hay khuyết nhị): là một sợi dây tơ se neo 2 dây đàn vào gần sát dọc nhị, nơi dưới hai trục dây. Có khi cử nhị là một khung áo buộc gần sát dọc nhị, hai dây đàn xỏ qua hai lỗ khung này. Cử nhị là bộ phận để điều chỉnh cao độ âm thanh. Nếu bạn kéo cử nhị xuống, 2 dây đàn sẽ ngắt quãng hơn, tạo ra âm thanh cao hơn. nếu bạn đẩy cử nhị lên khi đàn 2 dây sẽ phát ra âm thanh trầm hơn vì quãng dây dài hơn. Tuy nhiên để lên dây đàn người ta còn vặn trục dây nữa. Cung vĩ: làm bằng cành tre, cành lớp hay gỗ có mắc lông đuôi ngựa. Những lông đuôi ngựa nằm giữa hai dây đàn để kéo đẩy, cọ xát vào dây đàn tạo ra âm thanh. Do những lông đuôi ngựa kẹt hai dây đàn nên ta không thể tách rời cung vĩ khỏi thân đàn. Đàn nhị có âm vực rộng hơn 2 quãng tám, âm thanh trong sáng, rõ ràng, mềm mại gần với giọng hát cao (giọng kim). Muốn thay đổi âm sắc hoặc giảm độ vang người ta dùng đầu gối trái bịt một phần miệng loa xòe của bát nhị (khi ngồi trên ghế kéo đàn) hay dùng ngón chân cái chạm vào da của bát nhị (khi ngồi trên phản kéo đàn, trên chiếu). Nhờ những cách này âm thanh sẽ xa vẳng, mơ hồ, tối tăm và lạnh lẽo diễn tả tâm trạng thầm kín, buồn phiền Đàn nhị là thành viên trong nhạc phường bát âm, dàn nhã nhạc, ban nhạc chầu văn, tài tử và dàn nhạc tổng hợp. Ngày nay thỉnh thoảng nó xuất hiện cả trong dàn nhạc pop, rock hiện đại để tăng màu sắc trong cách phối âm. Bạn dùng tay trái giữ dọc nhị và bấm dây đàn bằng lòng ngón tay hoặc đầu ngón tay, tay phải cầm cung vĩ để kéo đẩy tạo ra âm thanh. Kỹ thuật đàn khá phong phú, bao gồm từ ngón vuốt, ngón nhấn, ngón láy, ngón chuyền đến cung võ liền, cung vĩ ngắt, cung vĩ rời và cung vĩ rung 1.2.6.9 Sáo. Sáo là nhạc cụ thổi hơi có từ thời kỳ cổ đại, rất nhiều nước trên thế giới sử dụng sáo với nhiều hình dáng và cấu tạo có thể khác nhau. Ở Việt Nam sáo ngang rất thông dụng và có nhiều loại. Sáo ngang ngày xưa có 6 lỗ bấm cách đều nhau nhưng không còn được sử dụng. Loại sáo ngang ngày nay có các lỗ Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 24
  25. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch bấm theo hệ thống thất cung với tên gọi khác nhau căn cứ vào âm trầm nhất, thí dụ như sáo đô, sáo rê, sáo mi giáng và sáo sol Mỗi loại sáo có giọng riêng nên người diễn thường chọn loại sáo làm sao để phù hợp với bài bản. Gần đây một số nghệ nhân đã khoét thêm một số lỗ bấm phụ trên thân sáo, giúp việc diễn tấu dễ dàng. Nhìn chung sáo ngang thường làm bằng ống trúc, ống nứa hoặc ống rùng, thỉnh thoảng người ta tạo ra loại sáo bằng kim loại hoặc bằng gỗ đều sử dụng tốt. Về cơ bản, sáo ngang có 1 lỗ thổi nằm cùng hàng với 6 lỗ bấm. Ngoài ra còn 1 lỗ dán màng (sáo Trung Quốc), lỗ âm cơ bản và những lỗ để buộc dây treo hay tua trang trí. Lỗ âm cơ bản là lỗ khoét cuối ống, quyết định âm trầm nhất khi ta bịt kín tất cả những lỗ bấm. Âm trầm này dùng để xác định tên gọi của loại sáo. Tuy nhiên, có những cây sáo không có lỗ âm cơ bản nếu chúng bị cắt cụt ngay chỗ đó. Để xác định tên gọi người ta căn cứ vào đầu lỗ của ống sáo và cho đó là lỗ âm cơ bản. Lỗ dán màng nằm giữa lỗ thổi và những lỗ bấm. Lỗ này dán 1 màng mỏng bằng ruột cây tre hoặc bằng giấy bóng mỏng, tuy nhiên một số cây sáo không có lỗ này. Thông thường sáo ngang có âm vực rộng 2 quãng tám. Dù sáo âm thấp hay cao đều có âm sắc trong sáng, tươi tắn, gợi nhớ khung cảnh đồng quê. Tuy nhiên người ta có thể sử dụng chúng để diễn tả những giai điệu buồn man mác. Về cách thổi nghệ sĩ thường sử dụng kỹ thuật rung, đánh lưỡi (đơn, kép và tam) hoặc phi (một cách rung lưỡi cổ truyền). Ngoài ra còn cách nhấn hơi, luyến hơi, vuốt hơi, âm bội và ngón vỗ 1.2.7 Sân khấu chèo. Trước đây Sân khấu chèo đơn giản tất cả việc đời diễn ra trên chiếc chiếu trải giữa sân đình.Sân khấu chống bốn mặt,khán giả quây quần bốn phía xem chèo. Có khi thì hậu trường phân biệt với sân khấu được đặt vào một cổng làng hay dưới mái tam quan và như vậy thì hậu trường là sau cánh cửa, và sân Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 25
  26. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch khấu chỉ có một mặt quay ra khán giả. Phông cảnh không hề có. Vài chiếc hòm đựng đồ trong khi di chuyển, thì lúc diễn được đem dùng để bố trí khung cảnh, khi là ngai vàng nhà vua khi là quả núi có khi người ta dàn cảnh một cách rất kì lạ.ví dụ tượng phật trong vở Quan Âm Thị Kính thì lấy người đóng giả. Khi hết màn thì tượng cứ việc đứng dậy mà đi vào.Trong quá trình phát triển và cách tân ngày nay chèo được biểu diễn trên sân khấu chuyên nghiệp. 1.2.8 Múa trong Chèo Ngoài âm nhạc, nghệ thuật cơ bản trong các vai của diễn viên chèo còn là múa. Những nghệ nhân lớp trước thường nói rằng: “Múa là hình tượng đẹp đẽ của nội tâm”. Điệu múa trong chèo không hoàn toàn mang tính trừu tượng và tượng trưng, ước lệ như một số loại hình nghệ thuật thông thường khác bởi lẽ nguồn gốc của nó là những hình ảnh sinh hoạt, lao động ở nông thôn. Những điệu múa trong chèo là những điệu múa dân tộc. Nguồn gốc của các điệu múa trong chèo là múa dân gian ngày xưa, múa rước kiệu, múa cô đào ở cửa đình và nhất là các điệu múa trực tiếp xuất phát từ sinh hoạt lao động. Các động tác cơ bản của các điệu múa trong chèo bắt nguồn từ các động tác lao động như cấy lúa, quay tơ, dệt vải, chèo đò, khâu áo Khi sân khấu Chèo có nhân vật vua quan thì múa Chèo vay mượn một số yếu tố múa tuồng để thể hiện những nhân vật vua quan văn võ, những cuộc đao binh. Tuy trong chèo các điệu múa đã được cách điệu hóa nhiều nhưng chúng vẫn mang phong thái dân tộc ở những bước đi, ở bàn tay múa, ở chiếc quạt trên tay diễn viên khi mở khi khép uyển chuyển linh hoạt. 1.2.9 Phân loại Chèo. Hiện nay loại hình nghệ thuật sân khấu chèo có khoảng trên 200 làn điệu.Các điệu ca khúc chính trong chèo là những làn điệu dân tộc như: Nói sử, hát cách, hát vãn, hát làn thảm Và trong số làn điệu dần dần được đưa thêm vào chèo thì các làn dân ca được “chèo hóa”chiếm đại đa số. Các điệu ca khúc của chèo cũng như các làn dân ca “ chèo hóa” đều là những điệu nhạc Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 26
  27. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch vang lên từ đồng ruộng, xóm làng.Trong đó chia ra thành 4 loại chính: Chèo sân đình, chèo cải lương, chèo chải hê, chèo hiện đại. 1.2.9.1 Chèo sân đình: Chèo sân đình chính là chèo dân gian truyền thống, chỉ biểu diễn trong các dịp hội làng, lễ tết ở sân đình. Sân khấu của chèo là sân đình rộng lớn, phường chèo biểu diễn ngay trước tiền đình. Xưa kia phường chèo do một ông trùm cầm đầu đi diễn ở các thôn, xã. Mỗi phường chèo chỉ khoảng mươi mười lăm người kể cả nhạc công mà bộ gõ chiếm vị trí quan trọng. Người đóng trò gồm đào, kép, lão, mụ, hề. Có khi chỉ cần một đào, một kép, một hề xuất sắc là nổi đình nổi đám. Tính chất ước lệ của sân khấu chèo không chỉ thể hiện ở diễn xuất mà cả về trang trí. Chẳng có phông màn chỉ có một tấm vải nhuộm màu ngăn đôi buồng trò và sàn diễn. Hai chiếc chiếu trải ở giữa, khán giả ngồi vây ba mặt. buổi diễn thường mở đầu bằng điệu hát vỡ nước, một hồi trống dung lên, một người ra giáo đầu, buổi diễn kết thúc có hát vãn trò và trống dã đám. Chèo cổ còn có tên gọi khác là "trò nhời". Ngoài việc biểu diễn ở sân đình lúc hội hè, đình đám, các gánh chèo còn được mời hát ở các đám cưới, đám khao. Mặc dù vậy, phường chèo vẫn là một gánh hát không chuyên. ở đó, người nghệ sĩ không lấy hát chèo làm nguồn sống chính. Diễn viên chèo vẫn là nhà nông và chỉ đi hát theo mùa hay khi có dịp. Nguồn sống chính của họ vẫn trông vào lao động sản xuất nông nghiệp ở thôn quê. Một số người khác là thợ mộc, hay người buôn bán cũng có thể tham gia phường chèo. Vùng đất tổ xưa, cũng có lúc đã hình thành phường chèo chuyên nghiệp như các phường Bồ Điền, Bàn Mạch, Tuân Chỉnh (ở Vĩnh Lạc), Cao Phong (ở Lập Thạch) nhưng rồi các phường ấy cũng chẳng tồn tại được lâu bởi chỉ dựa vào lệ đánh bạc gây quỹ. Các phường chèo ở vùng đất tổ Vĩnh Phú đều thờ ông tổ sư chèo Đông Phương Sóc. Mỗi phường có một tượng nhỏ Đông Phương Sóc bằng gổ để mộc, không tô vẽ, đặt trong một hộp gỗ nhỏ, do trùm phường cất giữ rất cẩn thận. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 27
  28. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Phường chèo gồm một số người cùng thôn hay cùng một làng xã. Phần nhiều có họ hàng với nhau. Vào mùa diễn, các phường lên đường rất đơn giản, nhẹ nhàng. Toàn bộ y phục, trang trí, đạo cụ để gọn vào một đôi hòm do một người gánh bởi hát chèo cổ không cần phông màn Chèo sân đình diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn ngữ, động tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng là chiếc quạt. Trên đường xâm nhập ngày càng sâu vào mọi mặt sinh hoạt đời thường của bà con thôn xóm, những người làm chèo đã nhanh chóng kịp thời chuyển địa điểm diễn qua sân đình, từ lòng đình hoặc thềm đình quay ra ba phương sáu hướng, lấy đấy làm khán trường ngoài trời rộng rãi phóng khoáng; Cứ thế, dần hình thành cả loạt nguyên tắc kịch thuật linh hoạt độc đáo, mà nhiều nhà chuyên môn gọi là sân khấu ba mặt. Trong chèo cổ, cái cười chiếm thời gian dài, chú ý phản ánh những thói hư tật xấu của đời thường. Ðiều đó, làm cho tính xã hội của chèo ngày mỗi nổi đậm về sau. Nổi bật hơn cả là lớp việc làng chỉ bằng nói thường, nói lối, nói rao, "ngâm thơ", với đủ thành phần nhân sự của bộ máy chính quyền cơ sở đại diện cho pháp luật, tập tục, đạo lý, tôn giáo, bị vạch mặt thật ê chề. Chèo sân đình quá trình thu hút hòa nhập số loại hình dân ca, dân vũ, diễn xướng và trò diễn dân gian làm thành bản thân nghệ thuật chèo, mà thực tế diễn xuất của số vở truyền thống còn hằn rõ dấu vết.chèo từ loại Giáo phát triển thành có tích, có nhân vật, từ đấy du nhập, chuyển biến các loại hát bỏ bộ (trong sinh hoạt hát Xoan, hát Dậm, hát Dô, ), các loại hát nói(trong hát ả đào, hát văn, hát xẩm, ), kết hợp với số động tác trong múa(hát) chèo đò, múa (hát) cửa đình(các khuôn múa bàn tay, múa lượn ngón, múa cánh tay), múa mâm đên, múa qnạt, múa cờ, ; với cả những trò nói mặt, trò trình nghề vốn rất phổ biến trong những hội làng, đánh dấu từng mức trình độ sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ thuật của đồng bào từng vùng.Quá trình tìm cách thể hiện các tích mới, nhân vật mới, tình huống mới, nghệ nhân đã vay mượn các Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 28
  29. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch loại dân ca, dân vũ trò diễn dân gian và "chèo hoá" chúng dần cho tới khi thành thủ pháp của vốn nghề nhà. Như vậy, chèo sân đình hình thành ngôn ngữ nghệ thuật ngay khi thành hình và phát triển kịch chủng, là đã lưu ý nhiều đến số lớp trò chuyên dùng, xếp cạnh số lớp trò đa dùng, trong đó, âm nhạc giữ vai trò rất quan trọng. Nói cách khác, những gì làm người xem phân biệt chèo với các kịch chủng cùng nằm trong loại hình kịch hát dân tộc (Việt) như tuồng, kể thêm cải lương, chưa nói ôpêra, ôpêrét hay kịch nói, những cái lọt vào tai, hiện ra trước mắt người xem (dù là tâm tư tình cảm nhân vật hay không gian thời gian xẩy ra sự biến) chính là âm nhạc, gồm cả nhạc gõ, nhạc khí, và làn điệu qua nghệ thuật biểu diễn của nhà nghề. Do phải phụ thuộc hoặc chịu ảnh hưởng nhiều ít của những biến thiên văn hóa xã hội mỗi thời kỳ lịch sử mà từ Lý Trần về trước, nhạc dân gian và nhạc cung đình, hòa hợp gần như là một; sang đời Hậu Lê có lúc nhạc cung đình hướng ngoại cố giữ vị trí chủ lưu, song không bao lâu cũng chịu bất lực để "tục nhạc" (trong đó có nhạc chèo) bùng lên, ùa tràn vào các lễ nghi triều miếu, bất chấp mấy lần vua Lê chúa Trịnh ra sắc chỉ cấm đoán ngăn chặn, như từng chép ở Ðại Việt sử ký, Vũ trung tuỳ bút. Tới thế kỷ XIX, nhà Nguyễn có lúc muốn thâu tóm tất cả những gì thuộc lễ nhạc về một mối, lập hẳn một Thự, rồi một ban Hiệu Thư chuyên lo mà cũng chỉ cản trở chuyện đó phần nào. Bởi chèo sân đìnhnhờ bám chắc vào đời sống đông đảo bà con và các Hội làng, nên dù ở hoàn cảnh nào cũng được nhân dân bù trì khích lệ mà tồn tại và lớn dần đến ngày nay. Con đường gần 5 thế kỷ từ chèo Thuyền bản đến chèo Kiều, hoặc có thể nói, từ trò nhà Phật (có thể gọi là chèo sân chùa?)chuyển sang chèo sân đình qua biết bao biến thiên văn hóa xã hội, cả chính trị, đã để lại cho đời cả một kho tàng nghệ thuật sân khấu dân tộc quý giá, đòi các thế hệ sau quan tâm bảo tồn, kế thừa,phát huy và phát triển. Sự hình thành khuôn diễn cho từng loại nhân vật hay cho từng nhân vật cụ thể là cả một công trình nghệ Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 29
  30. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch thuật mang tính tập thể cao độ, trong đó, mỗi người mỗi góp vào, phần nhiều từ ứng diễn ứng tác truyền đời trên cơ sở bản trò. Vì thế hình tượng vai đóng đã hầu thành khuôn diễn chung trên đường nét cơ bản đòi kẻ đi sau phải cố gắng tuân thủ, nhất thể đối với số vai hay, vở diễn hay, đã được giới nghề coi là vốn cũ truyền thống 1.2.9.2 Chèo cải lƣơng Chèo cải lương là một dạng chèo cách tân do Nguyễn Đình Nghị khởi xướng và theo đuổi để thực hiện từ đầu những năm 1920 đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, theo xu hướng phê phán tính ước lệ của chèo cổ. Chèo cải lương được soạn thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách điệu trong diễn xuất, xử lý những mô hình làn điệu chèo cổ, đưa nguyên những bài dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo. Bộ "Tám trận cười" của Nguyễn Đình Nghi gồm những vở nổi tiếng Trên phương diện hình thức nghệ thuật,chèo cải lương tuyên ngôn cải cách chèo theo tinh thần tả thực của sân khấu phương Tây. Có phông màn, bày biện cảnh trí để quy định không gian cụ thể. Về trang phục thì nhân vật lên sân khấu được ăn mặc như ngoài đời, người thì đầu quấn khăn lượt lỏng lẻo, quần lá tọa, áo cánh màu trắng cháo lòng, chân lận giày mõm ngóe, người thì quần tây, áo vét màu vàng nhạt hoặc trắng nhờ màu nếp, đầu đội mũ phớt tàng, chân mang giày đơ cu lơ Về biểu diễn thì chèo cải lương bỏ những lớp trò ước lệ, bỏ hình thức múa hoa tay, múa cổ tay. Về âm nhạc, trong chèo cải lương du nhập nhiều loại dân ca, bài bản, ca khúc Tây, Tàu không cần tùy thuộc vào bản chất, tính cách nhân vật. Các làn điệu dân ca Bắc Bộ như cò lả, trống quân, hát ví, sa mạc, bồng mạc được đưa vào vở diễn không cần phải “chèo hóa”. Ngoài ra ông còn chú ý sử dụng các bản nhạc cổ như bình bán, hành vân, giao duyên Còn về nội dung, chèo cải lương chú trọng vào việc răn đời, lấy lời ca, giọng hát và tiếng cười tao nhã mà duy trì phong hóa và cảnh tỉnh thế đạo Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 30
  31. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch nhân tâm”. Các vở diễn phê phán nghiêm khắc những kẻ cờ bạc, rượu chè, nghiện hút đề cao nhân phẩm, đề cao tình nghĩa bạn bè, bảo vệ gia đình, yêu cầu sinh hoạt lành mạnh, làm ăn lương thiện (Mảnh gương nhân sự, Chữa bệnh ghen, Lượng cả bao dung, Kiến nghĩa đương vi ); lên án gay gắt lũ tham quan ô lại, cường hào cấu kết với nhau áp chế, bóp nặn người lương thiện một cách độc ác (Vụ án Hà thành), vẽ lên những ông thông, ông phán, hào phú rượu chè, cờ bạc, hút xách, chơi bời trước sau sẽ chịu hậu quả xấu xa, thảm hại, rồi nhờ mẹ hiền, vợ thảo, con khôn mà nhận ra sai trái, trở lại với gia đình (Quá chơi nên nỗi, Say và tỉnh Thế giới nhân vật trong chèo cải lương là những chàng công tử ăn chơi, những cô tiểu thư diêm dúa, gã trai đàng điếm say mê cờ bạc, hút xách cho đến thằng ở, con sen, cô đầu, gái ăn sương, thậm chí cả chú khách, tây đen, cha cố Họ sống cầu an hưởng lạc với những khát vọng, thèm muốn rất tầm thường, thậm chí thấp hèn, dễ sa đà vào bẫy trụy lạc. Do sự mở rộng đề tài mà bút pháp thể hiện của Nguyễn Đình Nghị có sự giống và khác biệt so với bút pháp chèo sân đình. Các vở diễn của ông luôn luôn chú ý đến cốt truyện, đặc biệt quan tâm đến yếu tố bi và hài trong một vở diễn. Ngôn ngữ kịch bản phần lớn viết theo các thể thơ, ít khi văn vần, chen vào các đoạn nói thường, biến ngẫu đối ý, đối vần Ở điểm này tác giả đã tiếp thu và cố gắng phản ánh trong tác phẩm của mình những tinh hoa của nghệ thuật chèo cổ. Tuy nhiên, cũng do sự mở rộng đề tài mà cách xây dựng nhân vật cũng được mở rộng. Nhân vật trong các vở diễn của Nguyễn Đình Nghị không phải chỉ là sự biểu hiện của nhân tình mà đã được đặt vào thế thái. Bối cảnh xã hội tác động đến các nhân vật như là sự trình bày giải thích nguyên nhân của mỗi nhân tình. 1.2.9.3 Chèo Chải Hê Chèo chái hê là loại hình dân ca hát vào rằm tháng bảy hàng năm, hoặc trong đám tang, đám giỗ của người có tuổi thọ, có nguồn gốc từ việc kết nghĩa giữa 2 làng Vân Tương (Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đông Anh, Hà Nội): Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 31
  32. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Chuyện kể rằng, vào thời Cảnh Hưng (1730-1786), viên quan cai trị trong vùng ra lệnh cho mỗi làng phải làm một ngôi đình để thờ thần bản thổ. Dân làng Lũng Giang lên rừng đẵn gỗ về làm đình, trên đường về qua làng Tam Sơn, không may qua sông mắc cạn, được nhân dân làng Tam Sơn ra kéo giúp. Từ đó sinh ra tục kết chạ Lũng Giang-Tam Sơn. Sau khi khánh thành ngôi đình, hàng năm nhân dân hai làng qua lại thăm nhau khi hiếu hỉ từ đó sinh ra hát chèo Chải Hê Chèo Chải hê tên đúng là chèo nhị thập tứ hiếu tức là chọn ra 24 người con hiếu thảo nên gọi tắt là chèo Chải hê hay Chái hê còn có những tên gọi khác như hát phường bội, quan họ hiếu và thường được hát ở sân đình, cửa chùa, trong các gia đình vào dịp giỗ chạp, đám tang hay ngày rằm tháng bảy – lễ xá tội vong nhân. Nhạc cụ của chèo Chải hê rất đơn giản chỉ là trống cơm, thanh la, mõ. Khác với các chiếu chèo khác, ở chèo Chải hê thường chọn 6 người hát là nam thanh nữ tú, những người con hiếu thảo. Người nam vừa hát vừa thể hiện động tác múa với đạo cụ gồm 6 chiếc roi to bằng mười ngón tay cái, dài khoảng 1m được sử dụng như mái chèo trong lúc múa. Còn người nữ động lòng thương chàng trai chèo vất vả nên đứng đằng sau phụ họa bằng quạt. Chèo Chải hê bao gồm hầu hết các giọng chèo, nhiều làn điệu và mang tính sông nước lại có lối hát xướng bằng nhiều hình thức khác nhau trong quá trình biểu diễn nên rất gần gũi với cư dân vùng đồng bằng. Chèo Chải hê gồm có 4 phần, mở đầu là hát giáo roi, nhị thập tứ hiếu, sau đó là múa hát chèo thuyền cạn và cuối cùng là múa hát kể thập ân rồi mới kết thúc bằng câu quan họ giã bạn. Chèo Chải hê trong khi hát cũng có những tích truyện, những câu hát lồng vào đó nhưng chủ yếu vẫn đề cao lòng hiếu thảo. Thế nhưng, chèo Chải hê đã không tồn tại được để vang danh khắp mọi miền như Quan họ. Những năm 1950-1960, thanh niên hai làng (Lũng Giang và Tam Sơn) chỉ chuyên tâm vào việc làm ăn chứ ít quan tâm đến việc học Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 32
  33. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch hát xướng như các thế hệ trước. Do đó, sau này, càng có ít người biết về chèo Chải hê cũng như còn nhớ giai điệu da diết của điệu hát này Hiện nay chèo chải hê đang được phục hồi và bảo tồn. 1.2.9.4 Chèo hiện đại Chèo hiện đại loại hình nghệ thuật chèo từ sau Cách mạng tháng Tám (1945). Kế thừa và phát triển chèo cổ, nội dung phong phú, phản ánh xã hội Việt Nam hiện đại. Kịch mục chèo hiện đại gồm ba bộ phận: 1) Những vở chèo cổ được chỉnh lí hoặc cải biên, dàn dựng lại cho hợp với những yêu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng hiện đại; 2) Những vở chèo mới, diễn theo tích dân gian, lịch sử hoặc dã sử; 3) Những vở chèo mới phản ánh cuộc sống hiện đại Về âm nhạc, một số điệu hát chèo đã được các nghệ sĩ mạnh dạn cải biên, phối khí theo phong cách và nhạc cụ hiện đại nhưng vẫn giữ giai điệu gốc vốn có. Trên cơ sở bảo tồn những tinh hoa truyền thống, chèo hiện đại tìm hướng phát triển cho phù hợp với thời đại: phát triển trên nguyên tắc của phương pháp nghệ thuật truyền thống, tiếp thu những yếu tố của kịch "dram" (kịch nói) và ca kịch phương Tây. Chèo hiện đại đạt tới sự hưng thịnh chưa từng có trong lịch sử lâu đời của chèo vào những năm đầu thập niên 60 thế kỉ 20. Ở Miền Bắc, có 20 đoàn chèo chuyên nghiệp và hàng nghìn đoàn chèo nghiệp dư (riêng tỉnh Hải Dương cũ có tới 400 đội chèo). Hát chèo trở thành phổ biến trong đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân. 1.3 Giá trị của Chèo 1.3.1. Giá trị lịch sử Chèo là một bộ môn nghệ thuật được hình thành từ rất lâu đời. Điều đó được chứng minh trong các chứng tích cổ còn lưu giữ lại được ghi khắc trong sử sách, bi ký qua các đời Ðinh, Tiền Lê, Lý đến cuối Trần. Lịch sử Việt Nam cho biết trong các thời đại Đinh Tiên Hoàng, thời nhà Tiền Lê, Lý, Trần đã có những hoạt động nghệ thuật dân gian như nhảy, múa, ca hát, bơi thuyền chèo có thể là một bộ phận nghệ thuật ca múa song Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 33
  34. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch song với các môn ca múa khác với những “nghệ sĩ dân gian” tụ họp lại thành phường hội do những yêu cầu nghiệp vụ . Qua các triều đại, Chèo ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Chèo không chỉ phát triển và thịnh hành trong cung đình mà nó còn ăn sâu vào phong tục, nghi lễ của con người trong đời sống hàng ngày. Nghệ thuật sân khấu chèo đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài từ khoảng thế kỉ thứ 10 tới nay đã đi sâu vào xã hội Việt Nam từ làng xóm nông thôn đến triều đình vua chúa, và đã được nhân dân ta vô cùng ưa thích. Bởi trong chèo phản ánh đầy đủ mọi góc độ của bản sắc dân tộc Việt Nam : lạc quan, nhân ái, yêu cuộc sống yên lành, bình dị, nhưng tràn đầy tự hào dân tộc, kiên cường đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc thân yêu . Cũng chính vì nội dung tư tưởng lành mạnh đó mà trong chèo có đầy đủ các thể loại văn học: trữ tình lãng mạn, anh hùng ca, sử thi, thơ ca giáo huấn (giảng kinh truyện, khuyên đạo đức) hơn hẳn các loại hình nghệ thuật khác như tuồng, quan họ , .Cùng những thăng trầm của lịch sử dân tộc chèo đã tự mình vận động và phát triển phù hợp với mỗi giai đoạn lịch sử để kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển nội tâm của con người cá thể, và mỗi ngày một thêm hoàn chỉnh về giai điệu, nhuần nhuyễn tinh vi về lời hát, lời thơ, đã trở thành một một bộ phận văn học vô cùng quý báu của dân tộc. Chèo là món ăn tinh thần đã xâm nhập sâu rộng vào trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc ta. Chèo không những mang đến sự yêu thích cho người dân mà đến thần linh cũng thích. Trong những lễ hội tại những đình, miếu, đền trong không khí linh thiêng, thâm nghiêm, các vị thần thưởng thức những làn điệu chèo trong sự tôn kính của các con dân. Ngay trong đời thường nhật mỗi khi có dịp vui, như dịp khao làng,khao thọ,khao được thăng chức, khao thi đỗ thì người ta cũng vời những nghệ sĩ chèo. Hay đơn giản là trong những lúc nhàn rỗi, hay đang lao động mệt mỏi người ta cũng cất lên những làn điệu chèo điệu chèo để xua đi những sự mệt Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 34
  35. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch mỏi.cũng khi có chuyện buồn thì những lời ca tiếng hát, vần thơ để sẻ chia tâm sự, để hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm. Chèo thực sự đã đồng hành cùng tâm hồn và văn hóa của người Việt.Trải qua bao thăng trầm, biến đổi của lịch sử chèo ngày càng hoàn thiện và chiếm phần quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. 1.3.2 Giá trị nghệ thuật của chèo. Chèo là một hình thức sân khấu dân tộc xuất hiện và phát triển trong sinh hoạt văn hóa của người dân, là một nghệ thuật tổng hợp. Phải được tai nghe các điệu hát, mắt thấy các cảnh trên sân khấu, các động tác cử chỉ của nhân vật thì mới hiểu thấu nội dung và nghệ thuật của chèo. Có thể khẳng định chèo là một lối kể truyện bằng sân khấu và do đó chèo cũng giữ được đặc tính của lối kể chuyện trong dân gian. Tác giả chèo dựa vào những sự tích vốn có trong các truyện cổ tích, truyện nôm, mà dựng nên vở. Hoàn cảnh không gian và hoàn cảnh thời gian trong chèo cũng tự do như hoàn cảnh không gian và thời gian trong truyện cổ tích, sinh động và tiến triển rất nhanh. Một vở chèo có khi gồm hàng chục cảnh khác nhau, và diễn lại một sự tích dài hàng ba năm, dăm bảy năm. Trong chèo, từ nội dung lời ca, lối múa và âm thanh nhạc khí của chèo, cho đến lề lối hát và động tác múa của đào kép , với phối khí của nhịp trống , đan lẫn với tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng mõ . Tất cả âm thanh tượng hình ấy, đều mang tải tâm hồn trong mỗi câu thơ, mỗi lời hát của tác giả. Đào - Kép hát múa thể hiện bằng nhấn nhá, luyến láy, buông chữ, nhả chữ, không được sai âm, méo từ, và ở mỗi câu hát lại được đệm thêm những từ “ấy này”, “bây giờ”, “để mà”, “í ì a”, đan lẫn vào trong các câu thơ. Những làn điệu chèo chủ yếu mang tải nội dung ca ngợi nghĩa khí cao đẹp, tấm lòng thủy chung của người phụ nữ, phản ánh những cái thiện, cái đẹp trong cuộc sống. Nói đến nghệ thuật chèo, trước tiên phải nói đến những câu thơ sâu lắng và ý tình, từ hiện thực cảnh vật sống động, chứa đựng trong nội dung bài Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 35
  36. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch thơ ấy. Để tạo ra tiếng ca, tiếng nhạc độc đáo làm nên nghệ thuật chèo thì cần phải có: một là những lời thơ, hai là những lời Hát của những người nghệ sĩ tài ba, ba là nhạc đệm của trống, sênh tiền, đàn nguyệt . Ngày xưa hát múa ở cung đình đều do vua chúa và quan trong triều chế tác, cùng Bộ Lễ sắp xếp, nhằm chúc tụng đăng quang, chúc Quân vương trường thọ, hay mừng công chiến thắng, mừng cảnh thanh bình. Còn hát múa ở sân đình hầu hết là hát những bài thơ, bài kinh, bài truyện có sẵn. Biểu diễn nhằm phục vụ dân làng, hay vừa múa hát theo các tiết mục hành lễ. Cái bất ngờ nhất là càng tìm hiểu sâu thì mới thấy chèo thực sự là hình thức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp độc đáo của Việt Nam. Chèo bao hàm rất nhiều hình thức nghệ thuật trong đó có nghệ thuật ca hát, nghệ thuật múa và nghệ thuật trình diễn. Chính những hình thức này đã làm nên nét độc đáo trong chèo. 1.3.3 Giá trị hiện thực của chèo. Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian, ra đời và phát triển găn với sinh hoạt văn hóa của con người. Cũng chính vì vậy mà trong chèo phản ánh một giá trị hiện thực sâu sắc. Chèo là tấm gương phản ánh xã hội ta ngày trước, xã hội Việt Nam thời phong kiến, trong chèo đã vạch rõ hiện thực sâu sắc nhất của xã hội đó là mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân, giữa chính quyền và nhân dân. Luôn đứng về phía nhân dân, những người nghèo khổ, vạch trần những mặt trái của bọn thống trị. Với cách sắp sếp lớp lang với những nhân vật sống,với những điệu múa lời ca, dưới ánh sáng tập trung của hình thức sân khấu,Chèo đã làm cho nội dung nhân đạo chủ nghĩa của các truyện kia thể hiện rõ rệt trước mắt ta. Chèo có những vai chín và vai lệch. Vai chín là những nhân vật tích cực, thường là những người nghèo khổ hoặc ở vào một địa vị bị áp bức. Vai lệch tức là những nhân vật tiêu cực, thường là những kẻ giàu có đi áp bức người khác và bọn tay sai của chúng. Chèo quan niệm người nghèo khổ,người lương thiện là những người có phẩm chất tốt nhưng lại hay gặp chông gai ở một xã hội đầy bất công.Tuy vậy dù gian nan, họ vẫn giữ chí khí kiên quyết, lương tâm trong sạch, còn Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 36
  37. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch những tên độc ác bất nhân đều bị trừng trị. Lòng yêu thương con người, đề cao phẩm chất con người được thể hiện rõ trong Chèo. Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa lại còn rõ rệt ở chỗ Chèo chú ý nêu rõ sự cao quý ở những con người mà giai cấp phong kiến coi là thấp hèn. Trong Chèo người phụ nữ được nâng lên địa vị cao quí mà ý thức hệ phong kiến không bao giờ công nhận. Người phụ nữ trong các vở Chèo chính là người phụ nữ lao động Việt Nam. Đề cao phụ nữ là một mặt quan trọng của tinh thần nhân đạo chủ nghĩa trong Chèo. Nếu như trên sân khấu bao giờ ít nhiều cũng có tính cách điệu, thì sân khấu chèo đã có nhiều tính chất cách điệu. Tác giả cũng như diễn viên lựa chọn trong hiện thực những cái gì bản chất nhất, tước bỏ đi những gì không tiêu biểu, và phóng đại, nhấn mạnh những gì tiêu biểu nhất. Chèo cũng như các thể loại khác có ý nghĩa đấu tranh giai cấp rõ rệt. Chèo đã dùng lợi khí trào phúng để đả kích bọn cường hào ác bá. Chèo sử dụng mọi khả năng khêu gợi tiếng cười để đấu tranh. Nhân dân có dịp ngàn ngón tay cùng trỏ, ngàn con mắt cùng nhìn, ngàn tiếng cười cùng vang lên khoái chí, để khinh miệt những cái chướng tai gai mắt của bọn thống trị mà chèo đưa lên sân khấu như tấm bia chịu nhiều mũi tên bắn vào. Chèo là một ngành nghệ thuật do quần chúng sáng tạo ra, cải tiến dần theo nhu cầu của quần chúng. Vì vậy chèo mang tính dân tộc và nhân dân sâu sắc. Vẻ đẹp của chèo là vẻ đẹp của âm thanh chau chuốt luột là mà người diễn trao cho người nghe, vẻ đẹp của những điệu múa dân tộc uyển chuyển của những chiếc quạt mà người nghệ sĩ biểu diễn. Chính vì vậy chèo là một di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của dân tộc Việt Nam. Góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa nghệ thuật của dân tộc. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 37
  38. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Tiểu kết chƣơng 1 Trong chương 1, đề tài đã đi sâu làm rõ những vấn đề lí luận chung nhất của nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống nhằm đem lại một cái nhìn tổng quan về nghệ thuật Chèo của Việt Nam, từ lịch sử hình thành và phát triển qua các thời đại lịch sử của dân tộc từ thế kỉ thứ X cho đến thế kỉ XX, với những nét đặc trưng nhất ở mỗi thời kì mà hình thức sơ khai ban đầu là những trò diễn kết hợp trò nhại và múa hát dân gian ở thế kỉ thứ X đến hình thức chèo thuyền bản hay chèo thuyền bát nhã ở cuối thế kỉ XIV rồi phát triển tới mức hoàn chỉnh và trở thành chèo văn minh vào thế kỉ XX cho đến những đặc trưng nghệ thuật như nội dung phản ánh trong chèo, tên gọi, kĩ thuật kịch, âm nhạc, làn điệu, tư duy trong chèo, múa, nhạc cụ, sân khấu, các thể loại chèo cũng như những giá trị về nghệ thuật, giá trị về lịch sử, giá trị hiện thực của chèo, tất cả đều nhằm khẳng định rằng đây là một di sản văn hóa quí báu mà ông cha ta đã để lại cần phải được các thế hệ mai sau tiếp tục giữ gìn, bảo tồn và phát huy. Để có thể tiếp nối cha ông gìn giữ loại hình nghệ thuật này, các thế hệ sau cần phải có những biện pháp cụ thể để có thể phát huy truyền thống dân tộc. Và khai thác nghệ thuật chèo một cách hiệu quả trong phát triển du lịch cũng là một biện pháp quan trọng góp phần bảo tồn và giới thiệu sâu rộng hơn nữa loại hình nghệ thuật sân khấu đặc sắc này đến với công chúng trong và ngoài nước. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 38
  39. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch CHƢƠNG 2 TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT CHÈO HẢI DƢƠNG 2.1 Tổng quan về tỉnh Hải Dƣơng. 2.1.1 Điều kiện tự nhiên. 2.1.1.1 Vị trí địa lí. Hải Dương là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Diện tích: 1.662 km² . Vĩ độ: 20°43' đến 21°14' độ vĩ Bắc, Kinh độ: 106°03' đến 106°38' độ kinh Đông Theo quy hoạch năm 2007, Hải Dương nằm trong Vùng thủ đô với vai trò là một trung tâm công nghiệp.Thành phố Hải Dương trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá khoa học kỹ thuật của tỉnh nằm trên trục đường quốc lộ 5 cách Hải Phòng 45 km về phía đông, cách Hà Nội 57 km về phía tây và cách Thành phố Hạ Long 80 km. Phía bắc tỉnh có hơn 20 km quốc lộ 18 chạy qua nối sân bay quốc tế Nội Bài ra cảng Cái Lân tỉnh Quảng Ninh. Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng qua Hải Dương là cầu nối giữa thủ đô và các tỉnh phía bắc ra các cảng biển. Là tỉnh nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Hải Dương bao gồm 01 thành phố trực thuộc, 01 thị xã và 10 huyện: Thành phố Hải Dương ,Thị xã Chí Linh (8 phường và 12 xã), Huyện Bình Giang (1 Thị trấn và 17 xã), Huyện Cẩm Giàng (2 Thị trấn và 17 xã),Huyện Gia Lộc (1 Thị trấn và 22 xã), Huyện Kim Thành (1 Thị trấn và 20 xã), Huyện Kinh Môn (3 Thị trấn và 22 xã), Huyện Nam Sách (1 Thị trấn và 18 xã), Huyện Ninh Giang (1 Thị trấn và 27 xã), Huyện Thanh Hà (1 Thị trấn và 24 xã), Huyện Thanh Miện (1 Thị trấn và 18 xã), Huyện Tứ Kỳ (1 Thị trấn và 25 xã). 2.1.1.2 Địa hình. Được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía bắc tỉnh, chiếm 11% diện tích tự nhiên gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn; là vùng đồi núi Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 39
  40. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch thấp phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất mầu mỡ thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 63,1% diện tích đất tự nhiên. Đất canh tác phần lớn là đất phù sa sông Thái Bình, tầng canh tác dầy, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến thịt trung bình, độ pH từ 5 - 6,5; tưới tiêu chủ động , thuận lợi cho thâm canh tăng vụ, ngoài sản xuất lúa còn trồng rau mầu, cây công nghiệp ngắn ngày. Một số diện tích đất canh tác ở phía bắc tỉnh tầng đất mỏng, chua, nghèo dinh dưỡng, tưới tiêu tự chảy bằng hồ đập, thích hợp với cây lạc, đậu tương, 2.1.1.3 Khí hậu Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Lượng mưa trung bình hàng năm 1.300 - 1.700 mm. Nhiệt độ trung bình 23,30C; số giờ nắng trong năm 1.524 giờ; độ ẩm tương đối trung bình 85 - 87%. Khí hậu thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm cây lương thực, thực phẩm và cây ăn quả đặc biệt là sản xuất cây rau mầu vụ đông. 2.1.1.4 Tài nguyên nƣớc Thủy văn: Các sông lớn chảy qua có: Sông Thái Bình đi qua giữa thành phố, ở phía nam có sông Sặt, chi lưu sông Thái Bình. Sông Kinh Thày ở phía đông phân định xã Ái Quốc (TP Hải Dương) và xã Lai Vu (Kim Thành). Ngoài ra, còn có các hồ điều hòa: Bạch Đằng và Bình Minh, là những hồ lớn của thành phố. 2.1.2 Điều kiện về dân cƣ - kinh tế - xã hội Dân số & lao động: Dân số hơn 1.703.492 người (theo điều tra dân số năm 2009). Mật độ dân số trung bình: 1.044,26 người/km2. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 40
  41. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Giao thông & cơ sở hạ tầng: Tỉnh Hải Dương có hệ thống cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển. + Hệ thống giao thông: gồm đường bộ, đường thuỷ, đường sắt; Phân bố hợp lý, giao lưu rất thuận lợi tới các tỉnh. - Đường bộ: có 4 tuyến đường quốc lộ qua tỉnh dài 99 km, đều là đường cấp I, cho 4 làn xe đi lại thuận tiện: - Đường sắt: Tuyến Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với quốc lộ 5, đáp ứng vận chuyển hàng hoá, hành khách qua 7 ga trong tỉnh. Tuyến Kép - Bãi Cháy chạy qua huyện Chí Linh, là tuyến đường vận chuyển hàng lâm nông thổ sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân, cũng như hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh - Đường thuỷ: với 400 km đường sông cho tầu, thuyền 500 tấn qua lại dễ dàng. Cảng Cống Câu công suất 300.000 tấn /năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá bằng đường thuỷ một cách thuận lợi. Hệ thống giao thông trên bảo đảm cho việc giao lưu kinh tế từ Hải Dương đi cả nước và nước ngoài rất thuận lợi. - Kinh tế: Năm 2008, Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 10,5%; Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,9%; Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng 13 %. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 13,5%. Giá trị hàng hoá xuất khẩu ước đạt 420 triệu USD, tăng 73,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, chủ yếu tăng do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tăng 85,7%). Tổng giá trị nhập khẩu ước đạt 440 triệu USD, tăng 47,9% so với cùng kỳ năm trước. Đến nay Hải Dương đã quy hoạch 10 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.719 ha. Với chính sách thông thoáng, ưu đãi các nhà đầu tư trong và ngoài nước, với lợi thế vị trí thuận lợi, Hải Dương đã thu hút nhiều nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Đến hết tháng 10/2008 đã thu hút 350,2 triệu USD vốn Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 41
  42. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó cấp giấy chứng nhận đầu tư mới cho 37 dự án ( tăng 9 dự án), tăng 39,2% so với cùng kỳ năm 2007. Ước tính vốn đầu tư thực hiện của các dự án năm 2008 đạt 300 triệu USD, tăng 27,6% so với năm 2007. 2.1.3 Tài nguyên du lịch. Hải Dương là tỉnh có nhiều danh lam thắng cảnh, với những hang động kỳ thú như núi Côn Sơn, núi Phượng Hoàng, núi An Phụ, núi Dương Nham, động Kính Chủ; những làng quê trù phú, những điểm du lịch sinh thái có tiềm năng và hấp dẫn như sông Hương (huyện Thanh Hà), đảo Cò (huyện Thanh Miện), rừng, hồ Bến Tắm (huyện Chí Linh) Tính đến nay Hải Dương có tổng số 1.098 di tích lịch sử văn hoá có giá trị, trong đó có 142 di tích được xếp hạng quốc gia, 52 di tích xếp hạng cấp tỉnh, có nhiều lễ hội truyền thống và những làn điệu chèo xứ Đông nổi tiếng. Hải Dương còn là vùng đất địa linh nhân kiệt gắn liền với tên tuổi của nhiều vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Khúc Thừa Dụ Để khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch của tỉnh Hải Dương, Sở Thương mại và Du lịch (nay là Sở Công thương) đã đề xuất thực hiện đề tài Điều tra hiện trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác nguồn tài nguyên du lịch để phát triển du lịch bền vững ở Hải Dương và được UBND tỉnh phê duyệt trong Quyết định số 106/QĐ-UBND ngày 10/01/2007 Về việc phê duyệt Kế hoạch khoa học và công nghệ năm 2007. Đề tài thực hiện trong năm 2007, kết quả của đề tài đã được Hội đồng nghiệm thu đề tài cấp tỉnh đánh giá xếp loại khá. 2.1.3.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên. Tài nguyên du lịch tự nhiên của Hải Dương phong phú, đa dạng và hấp dẫn, được hình thành bởi đặc điểm tổng hòa của các yếu tố địa chất- địa hình, khí hậu, thủy văn, thảm thực vật và thế giới động thực vật. Với sự phong phú về tài nguyên này, tỉnh Hải Dương có khả năng phát triển nhiều loại hình du lịch như: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, tham quan danh lam Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 42
  43. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch thắng cảnh, du khảo đồng quê Có thể kể tên một số tài nguyên du lịch tự nhiên tiêu biểu của tỉnh Hải Dương như:  Khu du lịch sinh thái Đảo Cò Nằm giữa lòng hồ An Dương, thuộc địa bàn xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Nằm giữa một vùng hồ bao la sóng nước, đảo Cò nổi lên như một viên ngọc mà thiên nhiên đã ban tặng. Với diện tích 2.382m2, từ lâu đảo đã trở thành nơi trú ngụ của nhiều loại cò vạc khác nhau. Có chín loại cò khác nhau là cò lửa, cò ruồi, cò bợ, cò đen, cò nghênh, cò diệc, cò trắng, cò ngang, cò hương và ba loại vạc là vạc xám, vạc xanh, vạc đen có nguồn gốc từ Trung Quốc, Miến Điện, Ấn Độ, Nepal, Philippines Mùa xuân là thời điểm cò về đông nhất, có tới vài vạn con cò và hàng nghìn con vạc. Khi hoàng hôn buông xuống là lúc cò về, chúng bay thành từng đàn, mỗi đàn có số lượng từ dăm bảy chục tới hàng trăm con đậu trắng xóa cả các tán cây trên đảo. Sau khi lượn nhiều vòng che kín cả khoảng không gian mặt hồ, chúng lần lượt hạ cánh an toàn xuống những lùm cây xanh giữa biển nước mênh mông dưới ánh nắng chiều, tiếp đó là những nhịp sải cánh của những chú vạc chuẩn bị cho một buổi kiếm mồi vất cả trong đêm. Là một vùng hồ rộng mệnh mông, không bao giờ cạn nước nên Chi Lăng Nam còn có nhiều mòng két, le le, vịt trời, đặc biệt đã từng có cốc đen, bồ nông, cuốc và nhiều loài giẽ khác nhau. Trong số ấy, cốc và bồ nông là loài chim nước quí hiếm có tên trong sách Đỏ Việt Nam. Đến nơi đây vào lúc hoàng hôn hay sớm mai là lúc “giao ca” thú vị giữa cò và vạc trong cuộc mưu sinh hàng ngày, là khi cò về sớm mà vạc chưa đi kiếm ăn thì đảo cò thật là huyên náo. Chúng tranh cướp nhau để giành chỗ đậu. Vạc yếu thế nên bị dồn xuống dưới, còn cò phủ trắng trên các tán cây. Hình như cây cối trên đảo không còn đủ chỗ cho cả đàn cò khổng lồ bám nữa. Đến Đảo Cò vào những ngày đất trời lập đông, ấn tượng đầu tiên là cảm giác choáng ngợp trước một cảnh tượng thiên nhiên hy hữu. Hàng vạn chú cò, Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 43
  44. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch vạc đậu san sát trên các ngọn tre, cành cây, trông xa như những cành hoa điểm đầy bông trắng. Người dân Chi Lăng Nam vẫn truyền cho nhau nghe về truyền thuyết vùng đất này. Truyện kể rằng vào đầu thế kỷ 15, những trận đại hồng thuỷ đã làm dải đê lớn ven sông Hồng trải qua 3 lần vỡ đê liên tiếp. Đến lần vỡ đê thứ hai thì tạo thành hòn đảo nổi giữa hồ. Rồi "đất lành chim đậu", từng đàn cò, vạc, chim nước đủ loại từ khắp nơi đổ về đây cư trú. Dưới tiết trời heo may, được thả mình vào khung cảnh vẫn còn mang đậm vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên thì thật là tuyệt. Đảo Cò thực sự sẽ mang đến cho du khách những khoảng khắc sống cùng thiên nhiên. Cũng chính vì vậy mà Đảo Cò Chi Lăng Nam đã trở thành điểm du lịch sinh thái "độc nhất vô nhị" của miền Bắc.  Sân Golf Ngôi Sao Chí Linh. Nằm ở thị trấn Sao Đỏ, huyện Chí Linh, Hải Dương, 48km từ Hà Nội, trên đường tới vịnh Hạ Long. Nằm ngay vị trí trung tâm tam giác phát triển kinh tế du lịch phía Bắc, sân golf Chí Linh được đánh giá là một sân golf hàng đầu không chỉ tại Việt Nam mà cả vùng Đông Nam Á. Câu lạc bộ golf Ngôi Sao Chí Linh đã nhanh chóng trở thành một điểm sáng du lịch, trung tâm thể thao, vui chơi, nghỉ dưỡng, xúc tiến đầu tư cao cấp của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Trải rộng trên diện tích 325 ha trong lòng một thung lũng tuyệt đẹp với một hồ nước tự nhiên nép mình bên những dải đồi xanh hùng vĩ bao quanh, sân golf Ngôi Sao Chí Linh được xây dựng 36 lỗ theo tiêu chuẩn quốc tế AAA. Những thảm cỏ xanh được chăm sóc, xén tỉa mỗi ngày, những con đường nhỏ uốn mình vòng quanh mép hồ, các rặng cây, các dốc thoải ven đồi, là điểm dừng chân với những quán nhỏ đơn sơ nép mình trong tán cây thơ mộng Ẩn hiện trong khung cảnh thơ mộng ấy là 36 hố golf được bố trí khoa học với các bẫy cát kín đáo sẵn sàng "bẫy" ngay cả các nhà chơi golf chuyên nghiệp. Điểm cao nhất của sân golf Ngôi sao Chí Linh chính là nhà Câu lạc Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 44
  45. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch bộ. Tòa nhà tròn với thiết kế độc đáo, toàn bộ hệ thống cửa và tường bao được xây dựng bằng kính trong suốt cho phép du khách và khán giả có thể chiêm ngưỡng phần lớn diện tích sân với 28/36 hố golf. Sân golf được xây dựng với khẩu hiệu đặt ra: "Nơi tốt nhất để chơi golf". Phần lớn các công nghệ tiên tiến nhất, vật liệu xây dựng hàng đầu thế giới đã được sử dụng tại đây. Chẳng hạn: các loại cỏ Turf chuyên dụng - loại cỏ tốt nhất dùng cho sân golf - được nhập khẩu từ Úc để sử dụng tại đây; hệ thống tưới linh hoạt điều khiển bằng máy tính của hãng Rainbird được nhập khẩu từ Mỹ, các loại thiết bị bảo dưỡng sân golf hàng đầu thế giới của hãng Toro được nhập khẩu từ Mỹ Sân golf này do IGCS - một công ty hàng đầu của Úc thiết kế và xây dựng theo tiêu chuẩn golf quốc tế chuyên nghiệp nhưng đồng thời vẫn tạo dựng, gìn giữ, và khai thác tối đa các vẻ đẹp tự nhiên của thiên nhiên. Đội ngũ điều hành sân golf có cả các nhà chơi golf chuyên nghiệp nước ngoài, đem theo kinh nghiệm quản lý và phát triển golf đến nắm giữ các vị trí điều hành chủ chốt. Nhờ thế, sân golf Ngôi sao Chí Linh cũng là một sân golf của Việt Nam được quản lý một cách chuẩn mực, tạo được sự hài lòng, sự đánh giá cao nhất từ những khách chơi golf hay khách tham quan Bên cạnh đó sân golf Ngôi sao Chí Linh cũng đồng thời trở thành một điểm đến lý tưởng của du lịch golf, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch từ các nước Đông Nam Á và thế giới đến đánh golf và tham quan. Câu lạc bộ golf Ngôi sao Chí Linh có khách sạn với 90 phòng, 300 biệt thự sinh thái, bể bơi, sân tennis, các công trình phụ trợ 2.1.3.2 Tài nguyên du lịch nhân văn. Về tài nguyên du lịch nhân văn: hiện nay Hải Dương có nhiều di tích tiêu biểu, đặc trưng về văn hoá tâm linh, kiến trúc nghệ thuật, cảnh quan hấp dẫn du lịch văn hoá, sinh thái, nghỉ dưỡng, tham quan, nghiên cứu khoa học, giáo dục truyền thống tiêu biểu là các di tích gắn liền với các danh nhân tiêu biểu của đất nước, có giá trị giáo dục truyền thống cao: Chí Linh bát cổ, Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc; Đền Bia, Đền Xưa, Chùa Giám; Văn miếu Mao Điền; Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 45
  46. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Đình Cúc Bồ; Đền Quát, Đền Long Động và nhiều di tích cách mạng như: Đình Đầu (Hợp Tiến- huyện Nam Sách), Đền Từ Hạ (huyện Thanh Hà); Đình Phù Tài (huyện Thanh Miện) Bên cạnh đó là tài nguyên du lịch văn hoá phi vật thể gồm: lễ hội truyền thống, Văn nghệ diễn xướng dân gian, Ẩm thực; tài nguyên du lịch làng nghề, có thể kể đến một số tài nguyên nhân văn tiêu biểu như:  Khu di tích Côn Sơn Kiếp Bạc. Côn Sơn, Kiếp Bạc là hai di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của quốc gia; thời Trần, thuộc huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang, thời Lê đổi thành huyện Phượng Nhỡn, thuộc thừa tuyên Bắc Giang, sau là trấn Kinh Bắc. Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; phía bắc giáp huyện Cẩm Lý (tỉnh Bắc Giang), phía nam giáp 2 xã Cộng Hoà và Văn An (huyện Chí Linh), phía đông giáp xã Bắc An và xã Hoàng Hoa Thám (huyện Chí Linh), phía tây giáp huyện Yên Dũng (tỉnh Bắc Giang). Sách Cao Biền di cảo và Chí Linh phong vật chí chép rằng: Côn Sơn, Kiếp Bạc mạch tự Huyền Đinh, thế ngăn Đông Bắc, bốn phương quy phục, núi sông kỳ hình, kỳ dạng, long bàn, hổ cứ, như muôn quân, nghìn tướng chầu về ở đất này sẽ được hưởng phúc muôn đời Khu di tích danh thắng Côn Sơn bao gồm cả núi Kỳ Lân và núi Ngũ Nhạc liền kề; Đền Kiếp Bạc tựa lưng vào núi Trán Rồng, trước mặt là sông Lục Đầu. Côn Sơn - Kiếp Bạc lại tiếp giáp với dãy núi Phượng Hoàng (địa phận 2 xã Cộng Hoà và Văn An) và núi Rùa (phía tây bắc), tạo thành một vùng đất quần tụ đủ tứ linh, ngũ nhạc, lục đầu giang . Đó là sự sắp đặt kỳ diệu của tạo hoá đối với khu vực di tích danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc - Phượng Hoàng với sông núi huyện Chí Linh Đây là vùng đất lịch sử mãi còn âm vang những chiến công lẫy lừng qua nhiều thời đại, đặc biệt là trong ba lần quân dân thời Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỷ XV. Đây là cũng là vùng danh sơn huyền thoại, với những thắng cảnh tuyệt vời, những di tích cổ kính, gắn liền với thân thế, sự nghiệp của Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi, hai vị Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 46
  47. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch anh hùng dân tộc kiệt xuất đã làm rạng rỡ non sông đất nước, cùng với nhiều danh nhân văn hoá của dân tộc: Trần Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang Nếu như khu di tích lịch sử Kiếp Bạc có một di tích trung tâm, lớn nhất, linh thiêng nhất là ngôi đền cổ thờ Đức Thánh Trần; du khách về chủ yếu là để tưởng niệm nhớ ơn Đại Vương và để sinh hoạt tâm linh, thì ở quần thể di tích lịch sử - văn hoá - danh thắng Côn Sơn, cụm di tích thờ Phật (chùa Hun) và cụm di tích về danh nhân (đền thờ Nguyễn Trãi), đều có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt; du khách tới đây dâng hương niệm Phật, tưởng nhớ Ức Trai và ngoạn cảnh, tiêu dao, nên có nhiều người là trí giả, văn nhân và đông đảo thày giáo, học trò. Xưa nay, người đời tìm đến Côn Sơn là cuộc tìm về với căn nhà vũ trụ, nơi hoà hợp tột cùng của âm dương, sơn thuỷ và trời đất. Để ở đó, con người được hưởng thụ khí trời trong mát, với hương rừng, gió núi và tiếng ca muôn thuở của suối chảy, thông reo; được đắm mình trong hồn thiêng sông núi, trong cổ tích ngàn năm còn rung động trái tim của muôn triệu con người. Côn Sơn là mảnh đất lịch sử lâu đời. Hơn một ngàn năm trước, Định quốc công Nguyễn Bặc, thượng thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn Trãi đã lập căn cứ ở đây để đánh sứ quân Phạm Phòng Át, giúp Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất nước vào năm 968. Trong các cuộc chiến tranh giành và giữ nền độc lập của Tổ quốc, quân dân trong vùng thường lấy rừng núi Côn Sơn làm căn cứ đánh giặc. Côn Sơn là mảnh đất có bề dầy văn hoá hiếm có. Ở đây, văn hoá Phật giáo, văn hoá Nho giáo và văn hoá Lão giáo cùng tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ, nhưng tất cả đều thấm đẫm bản sắc văn hoá Việt, đều để lại dấu ấn qua mỗi công trình xây dựng, qua từng chi tiết kiến trúc, chạm khắc, qua các bia đá, tượng thờ, hoành phi, câu đối Văn hoá Lý - Trần, văn hoá Lê - Nguyễn hiển hiện trước mắt mọi người và ở các tầng văn hoá dưới lòng đất khi khai quật khảo cổ học. Di sản văn hoá phi vật thể quý giá ở Côn Sơn chứa đựng trong sách vở, trong các truyền thuyết còn lưu, trong các nghi thức cúng Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 47
  48. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch tế, trong các hoạt động lễ hội vô cùng phong phú. Cũng hiếm ở đâu như ở Côn Sơn lại có nhiều trí thức, văn nhân, những nhà văn hoá đến thăm, cảm hứng và sáng tạo đến như ở Côn Sơn. Đây thực sự đã là nơi vân du, ẩn dật và tu tâm dưỡng tính của các bậc danh nhân, tiêu biểu cho tâm hồn, khí phách, tinh hoa văn hoá Việt Nam ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, cũng như của bao tao nhân mặc khách. Trần Nguyên Đán - quan Đại tư đồ phụ chính, nhà thơ, nhà lịch pháp lớn thời Hậu Trần đã về Côn Sơn dựng Thanh Hư Động để lui nghỉ những năm tháng cuối đời. Thời Lê sơ, Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi đã nhiều lần, nhiều năm sống, gắn bó chan hòa cùng thiên nhiên, tạo vật ở Côn Sơn - "núi nhà"*3, tìm thấy nơi đây bạn tri âm tri kỷ và nguồn thi hứng dạt dào. Lê Thánh Tông, vị minh quân và là Tao Đàn nguyên súy (thời Lê sơ), Thánh thơ Cao Bá Quát (thời Nguyễn) v.v. đều đã đến đây tìm lại dấu vết Ức Trai, vãng cảnh, làm thơ, để lại những thi phẩm giá trị. Tháng 2-1965, Hồ Chủ tịch về thăm Côn Sơn. Người đã lên thăm Thạch Bàn, Thanh Hư động và đọc văn bia trước cửa chùa Hun, bằng sự trân trọng thiêng liêng và niềm giao cảm đặc biệt đối với cổ nhân. Người xưa từng đúc kết: "Núi chẳng cần cao có tiên ắt nổi tiếng. Nước chẳng cần sâu có rồng ắt thiêng". Mỗi sự vật, di tích ở Côn Sơn đều lấp lánh ánh sáng của Nguyễn Trãi - Sao Khuê; mỗi địa danh ở Côn Sơn đều in đậm dấu ấn thiêng liêng, áng thi văn, cổ thoại, truyền thuyết ly kỳ và những sự tích bất hủ của những danh nhân kim cổ. Những di tích và tên tuổi các danh nhân, của Trúc Lâm Tam Tổ, đặc biệt là của Nguyễn Trãi, đã nâng tầm vóc Côn Sơn trở thành quốc tự, thành di tích đặc biệt quan trọng của quốc gia, thành "một cõi đi về" trong đời sống tâm hồn của muôn triệu người dân Việt, kể cả những người sống xa Tổ quốc . Cảnh sắc thiên nhiên và con người tạo dựng đã làm cho Côn Sơn thành một "Đại thắng tích". Ở đây, có núi Kỳ Lân và Ngũ Nhạc, với rừng thông bát ngát, suối chảy rì rầm, nước hồ trong mát; có Bàn Cờ Tiên, Thạch Bàn, Giếng Ngọc; có chùa Hun, am Bạch Vân, đền Nguyễn Trãi, động Thanh Hư, cầu Thấu Ngọc, có Ngũ Nhạc linh từ Cũng vì Côn Sơn cảnh vật tốt tươi, “sắc Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 48
  49. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch ngàn ráng đỏ, rừng gấm cuốn, cỏ lụa giăng”, chùa chiền cổ bích, am pháp thâm nghiêm, u tịch và tao nhã, nước biếc, non xanh, hữu tình và hoà hợp, thành miền thắng cảnh làm say đắm hồn người, là nơi con người có thể gửi gắm ước nguyện tâm linh, thoả chí hướng và rung động tâm hồn. Cho nên, từ bao đời nay, mùa trẩy hội, "trai thanh gái lịch đi lại đông như mắc cửi"; bao thi nhân, trí giả tìm về rồi ở đó, nghiền ngẫm và xúc cảm viết nên những trước tác có giá trị sâu sắc, những áng thơ văn tuyệt đẹp. Ở đây, Huyền Quang viết kinh, thuyết pháp, làm thơ; Trần Nguyên Đán nghiên cứu nông lịch và viết "Băng Hồ ngọc hác tập", Nguyễn Phi Khanh viết “Thanh Hư Động ký” và Nguyễn Trãi viết "Côn Sơn ca" cùng nhiều bài thơ xứng là kiệt tác. Những năm gần đây, nhân dân Hải Dương, được sự đồng lòng của đồng bảo cả nước, đã tu bổ hàng loạt di tích, đồng thời xây dựng mới nhiều công trình văn hóa lớn như đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ Trần Nguyên Đán, đường lên Ngũ Nhạc v.v. làm cho Côn Sơn càng giàu thêm giá trị văn hóa, cảnh sắc càng thêm tráng lệ, tôn nghiêm và ngoạn mục, hấp dẫn nhiều du khách bốn phương. Kiếp Bạc là một địa danh lừng lẫy bên Lục Đầu Giang, cách Côn Sơn chừng 5 cây số. Kiếp Bạc có thế "rồng vươn, hổ phục", có "tứ đức, tứ linh". Thế sông núi hiểm mà hài hoà, hùng vĩ khoáng đạt mà trang nhã. Tại đây, hội nước 4 dòng sông từ thượng nguồn dồn về, chảy vào sông Thái Bình và sông Kinh Thầy, mang phù sa màu mỡ tốt tươi về xuôi bồi đắp. Bốn dòng sông ấy, ngoài các tên quen thuộc, đều có thêm một tên Hán tự có chữ "đức" đứng sau: sông Đuống (Thiên Đức), sông Cầu tức sông Như Nguyệt (Nguyệt Đức), sông Thương (Minh Đức), Sông Lục Nam (Nhật Đức); dòng chính về xuôi thì có tên là sông Thái Bình. Vì người xưa coi Lục Đầu Giang là nơi hợp lưu của 4 dòng đức lớn trong vũ trụ mang thái bình tức là mang yên ổn thịnh vượng về cho trăm họ, muôn dân. Kiếp Bạc có đường thuỷ, đường bộ rất thuận tiện. Từ Kiếp Bạc có thể thuận tới Thăng Long, lên ngược, về xuôi, ra biển đều dễ dàng, nên đây là vị trí chiến lược, "quyết chiến điểm" mà cả quân dân Đại Việt cũng như quân xâm lược phương Bắc đều cần chiếm giữ trong các cuộc chiến tranh. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 49
  50. Thực trạng và giải pháp khai thác nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch Vào thời nhà Trần ở thế kỷ XIII, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - vị anh hùng dân tộc, nhà quân sự kiệt xuất, vị tổng chỉ huy quân dân Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông đã chọn Vạn Kiếp để đặt đại bản doanh, xây dựng phủ đệ. Với tài thao lược của Quốc Công Tiết Chế, Kiếp Bạc - Lục Đầu Giang đã phát huy sức mạnh tổng lực của thế trận chiến tranh nhân dân. Dưới sự chỉ huy của Nhân Vũ Hưng Đạo Đại vương, quân và dân Đại Việt đã "trên dưới một lòng, cả nước giúp sức" lập nên những chiến côn vang dội: Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp và cuối cùng là trận Bạch Đằng lừng lẫy, đánh bại hoàn toàn đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ, để non song toàn vẹn, dân tộc khải hoàn ca khúc thái bình. Từ sau cuộc đại thắng giặc Nguyên lần thứ ba, Trần Hưng Đạo đã về ở hẳn tại tư dinh Vạn Kiếp cho tới cuối đời. Tại đây, trước nguy cơ quân Nguyên xâm lược lần thứ hai, Đại Vương đã viết "Binh gia diệu lý yếu lược" để dạy tướng sỹ, và viết "Hịch tướng sỹ" để xác định trách nhiệm, nâng cao ý thức cảnh giác, tích cực học tập binh thư, luyện tập võ nghệ, sắn sàng diệt giặc cho họ; sau khi về nghỉ, Ngài lại viết "Vạn Kiếp tông bí truyền thư", đúc kết những kinh nghiệm, những bí quyết đánh giặc giữ nước của một đời cầm quân truyền lại cho hậu thế. Trước khi mất, được vua Trần Anh Tông về thăm bệnh và hỏi kế sách giữ nước, Đại Vương đã căn dặn: "Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước". Bởi Đại Vương là danh tướng bậc nhất "tài mưu lược, anh hùng, một lòng giữ gìn trung nghĩa lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên”. Ngài đã được triều đình nhà Trần cho lập đền thờ ngay khi còn sống, gọi là Sinh Từ; Thượng hoàng Trần Thánh Tông tự soạn văn bia ngợi ca công đức Đại Vương. Ngày 20 tháng Tám năm Canh Tý (1300), Đại Vương mất tại Kiếp Bạc. Triều đình đã tôn phong là Thái sư Thượng phụ*8 Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương; nhân dân Đại Việt tôn là Đức Thánh Trần, xây đền Kiếp Bạc để tưởng nhớ công lao to lớn đối với non sông, đất nước. Ngày giỗ Đại Vương hàng năm trở thành ngày chính hội Đền Kiếp Bạc. Sinh viên Lê Thị Oanh – VH 1101 50