Khóa luận Tìm hiểu các công trình kiến trúc Pháp ở Hải Phòng phục vụ phát triển Du lịch
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tìm hiểu các công trình kiến trúc Pháp ở Hải Phòng phục vụ phát triển Du lịch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_tim_hieu_cac_cong_trinh_kien_truc_phap_o_hai_phong.pdf
Nội dung text: Khóa luận Tìm hiểu các công trình kiến trúc Pháp ở Hải Phòng phục vụ phát triển Du lịch
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Du lịch trong những năm gần đây có những bước phát triển mạnh mẽ, là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Không chỉ là nguồn thu ngoại tệ quan trọng, du lịch còn tạo việc làm cho hàng chục vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp trong xã hội. Ngoài ra, du lịch phát triển còn thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác cùng phát triển tạo nên một diện mạo mới cho nền kinh tế Việt Nam. Thành phố Hải Phòng là thành phố mang đậm dấu ấn kiến trúc thuộc địa của Pháp. Hiện nay, Hải Phòng còn lưu giữ được nhiều khu phố với kiến trúc khá nguyên vẹn từ thời Pháp thuộc. Cùng với những di tích lịch sử và danh thắng khác trên đất Hải Phòng, các công trình kiến trúc Pháp chính là một nguồn tài nguyên du lịch độc đáo, đầy tiềm năng, đóng góp vào sự phát triển chung của ngành du lịch Hải Phòng. Nhưng trên thực tế trong những năm qua, việc khai thác những tài nguyên này phục vụ cho du lịch của thành phố chưa được chú trọng và quan tâm đầu tư đúng mức. Hoặc có một số công trình đã được đưa vào khai thác trong du lịch, nhưng không phải dưới tư cách những công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn giao lưu và ảnh hưởng của văn hóa Pháp, mà dưới vai trò hoàn toàn khác như Nhà hát lớn, Nhà Bảo tàng thành phố Đồng thời hoạt động du lịch tại các điểm đến này còn diễn ra một cách tự phát, chưa có quy hoạch cụ thể đồng bộ, cũng như chưa có sự quản lý một cách chặt chẽ các nguồn tài nguyên từ phía cấp chính quyền địa phương, đã gây ra những lãng phí lớn về nguồn tài nguyên. Hơn thế nữa, những lợi ích về kinh tế do du lịch mang lại chưa tương xứng với tiềm năng, cụ thể đó là sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế của địa phương còn rất hạn chế. Chính vì những lý do trên, người viết đã quyết định lựa chọn đề tài “Tìm hiểu các công trình kiến trúc Pháp ở Hải Phòng phục vụ phát triển du lịch” làm hướng nghiên cứu chính cho bài khóa luận tốt nghiệp của mình. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 1 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch 2. Mục đích của đề tài 1. Tìm hiểu về lịch sử ra đời và đặc trưng của các công trình kiến trúc Pháp trong nội thành thành phố Hải Phòng. 2. Thực trạng khai thác các công trình đó trong hoạt động du lịch những năm gần đây. 3. Đề ra một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác các công trình này phục vụ cho hoạt động du lịch tại Hải Phòng một cách bền vững. 3. Ý nghĩa của đề tài Với đề tài này, trên cơ sở vận dụng những lý thuyết của du lịch học vào trong thực tiễn du lịch thành phố Hải Phòng, người thực hiện mong muốn đưa ra một cái nhìn hệ thống về nguồn tài nguyên độc đáo này, cũng như những bất cập trong hiện trạng khai thác hiện nay, từ đó đề xuất những định hướng cho việc phát triển du lịch của địa phương trong thời gian tới, tạo nên các tour du lịch hấp dẫn cho du khách với một loại tài nguyên còn đang bỏ ngỏ. Ngoài ra, đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo và là những gợi ý cơ sở cho công tác quản lý tài nguyên hay việc xây dựng các tour du lịch một cách khoa học. Đồng thời, với những thông tin mà đề tài cung cấp, đây còn có thể là tài liệu hữu ích đối với du khách trong việc lựa chọn những điểm đến du lịch hấp dẫn trên địa bàn thành phố Hải Phòng. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Là phương pháp chính được sử dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập thông tin tư liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau có liên quan tới đề tài nghiên cứu, người viết sẽ xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần thiết, có được tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu. nhằm có một cái nhìn tổng quan nhất về loại tài nguyên giá trị còn đang bị bỏ ngỏ này. Phương pháp thực địa: Trong quá trình nghiên cứu, người viết đã tiến hành đi điền dã, tham quan tìm hiểu một số các công trình kiến trúc Pháp tiêu biểu ở thủ đô Hà Nội và ở Hải Phòng để trước hết có cái nhìn so sánh về những Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 2 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch đặc trưng chung và riêng của kiến trúc Pháp tại hai thành phố, sau đó để có thể đánh giá được một cách chân thực về hiện trạng bảo tồn cũng như mục đích sử dụng hiện nay của các công trình kiến trúc Pháp tại Hải Phòng. Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp: Phương pháp này giúp định hướng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan, phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh hưởng của yếu tố tới hoạt động du lịch trong đề tài nghiên cứu; việc phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở trong việc thực hiện các mục tiêu dự báo, các định hướng và giải pháp phát triển du lịch trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. 5. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm có 3 chương: Chương 1: Tổng quan về . Chương 2: Các công trình kiến trúc Pháp tại Hả . Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả các công trình kiến trúc Pháp phục vụ phát triển du lịch Hải Phòng. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 3 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ KIẾN TRÚC PHÁP VÀ QUÁ TRÌNH DU NHẬP KIẾN TRÚC PHÁP VÀO VIỆT NAM VÀ HẢI PHÒNG 1.1. Vài nét về kiến trúc châu Âu và kiến trúc Pháp 1.1.1. Lịch sử hình thành của kiến trúc châu Âu - ảnh hưởng của kiến trúc Hy Lạp và La Mã Nói đến kiến trúc Pháp không thể không nói đến cái nôi đã sản sinh và nuôi dưỡng nó, đó là kiến trúc châu Âu, bởi từ trong cội nguồn lịch sử, văn hóa Pháp và văn hóa châu Âu không thể tách rời. Lịch sử của Tây Âu được hình 1 thành từ thế kỷ thứ VSCN, trên cái nền tan rã của đế chế Tây La Mã cổ đại , vì vậy xét cho đến cùng, kiến trúc châu Âu chịu ảnh hưởng phong cách của kiến trúc La Mã và sâu xa hơn là phong cách kiến trúc của Hy Lạp cổ đại. Hai nền văn minh Hy Lạp và La Mã được hình thành từ thiên niên kỷ thứ III và thứ I (TCN), là cái nôi của văn minh phương Tây cổ đại, đã phát triển rực rỡ và để lại những ảnh hưởng sâu sắc đến diện mạo văn hóa của Tây Âu trong suốt thời kỳ trung đại. Vì vậy khi ngược dòng trở về với lịch sử của kiến trúc châu Âu không thể không nhắc đến những phong cách kiến trúc cổ đại Hy - La. 1.1.1.1. Kiến trúc Hy Lạp cổ đại Kiến trúc cổ Hy Lạp tồn tại và phát triển trong suốt 12 thế kỉ, kể từ thế kỉ XII TCN đến thế kỉ I TCN, cùng với kiến trúc La Mã, là cái nôi của kiến trúc cổ điển phương Tây. Kiến trúc Hy Lạp để lại rất nhiều công trình bằng đá làm mẫu mực cho kiến trúc thế giới với vẻ đẹp thanh nhã, có tỉ lệ hài hòa giữa các thành phần kiến trúc và giữa công trình với con người. Hai quần thể kiến trúc công cộng phổ biến trong đô thị Hy Lạp cổ đại lúc bấy giờ là agora (quảng trường công cộng, mang tính dân dụng) và acropol (là những quần thể kiến trúc với nhiều đền đài, được xây dựng trên những khu đồi cao). Vẻ đẹp của đền đài Hy Lạp cổ đại gắn liền với sự ra đời và phát triển của các loại thức cột. Thức cột là hệ thống tỷ lệ và hình thức trang trí cột, là cách người Hy Lạp cổ 1 Năm 476, các bộ tộc du mục người Germain đã tràn vào lãnh thổ của đế chế Tây La Mã cổ đại, tiêu diệt đế chế này và thành lập nên các quốc gia Tây Âu. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 4 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch đại tìm kiếm đến cái đẹp lý tưởng. Có 3 loại thức cột cơ bản trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric (được hình thành từ một trụ thẳng đứng phình to ở đáy, thường được so sánh với vẻ đẹp khỏe mạnh của người đàn ông cường tráng), cột Ionic (có thêm đế cột (base) ở phía dưới và đầu cột có hình đệm nhỏ, phía trên có hình xoắn ốc loe ra rồi cuộn vào trong, mang dáng dấp nữ tính, mảnh dẻ và giàu tính trang trí) và cột Corinth (có đường nét mảnh mai, giàu trang trí, đầu cột có nhiều chi tiết hoa lệ, giống như một lẵng hoa, đối xứng nhiều chiều và có thể cảm nhận được trong không gian). Những thức cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một hình thức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu trưng cho vẻ đẹp trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Thức cột Hy Lạp được xem như biểu tượng của kiến trúc cổ điển. [26] Quần thể kiến trúc đẹp đẽ nhất của kiến trúc cổ điển Hy Lạp là Acropole ở thủ đô Athen. Ở đây có 3 kiệt tác là đền Parthenon, đền Erechteyon và cổng Propylaia. Đền Parthenon là đỉnh cao nhất của kiến trúc cổ điển Hy Lạp, là hình ảnh bất diệt được lặp lại trong muôn vàn công trình ở châu Âu, châu Mỹ và nhiều nơi nữa. Đền Erechteyon có một loại cột độc đáo hình người gọi là Cariatit. Kiến trúc cổ Hy Lạp đã tạo nên một hệ thống ngôn ngữ kiến trúc có sức thuyết phục và đã góp phần rất to lớn trong kho tàng nghệ thuật kiến trúc thế giới. 1.1.1.2. Kiến trúc La Mã cổ đại Đến cuối thế kỉ III (TCN), Đế quốc La Mã làm chủ một vùng đất rộng mênh mông thuộc Địa Trung Hải. Trong nghệ thuật kiến trúc, họ học tập người Hy Lạp. Tiếp theo 3 hệ thống “thức” Hy Lạp nói trên, người La Mã sáng tạo thêm 2 loại “thức” nữa là Toscan và Compozit. Về mặt kết cấu và phương pháp xây dựng, người La Mã tiến bộ hơn người Hy Lạp một bước. Trên cơ sở dùng lối tạo dáng công trình bằng thức cột của người Hi Lạp, kết cấu các công trình kiến trúc La Mã có nhiều tiến bộ trong kỹ thuật xây dựng vòm, cuốn bằng đá và nhờ việc tìm ra bêtông thiên nhiên, người La Mã đã thực hiện được những kết cấu không gian lớn. Thành tựu nổi bật của của kiến trúc La Mã là việc xây dựng và qui hoạch Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 5 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch đô thị đạt đến đỉnh cao: thành phố được xây dựng theo hình bàn cờ, tại 2 điểm giao nhau của 2 đường theo hướng Đông - Tây và Bắc - Nam là một quảng trường trung tâm, cửa ngõ dẫn vào các thành phố là các khải hoàn môn, trong thành phố có hệ thống cấp, thoát nước hoàn chỉnh cùng nhiều kiểu thức công trình khác như đấu trường, nhà tắm, dinh thự, cung điện, đền thờ Những công trình kiến trúc La Mã nổi tiếng nhất là Đấu trường Colosseums (hình elip với đường kính là 156m và 186m, tường bao quanh cao 4.8m, khán đài chứa được 45.000 người); Nhà tắm công cộng Caracalla (sức chứa 1.600 người) và Đền Panthéon (có một mái vòm hình cầu đường kính 45m, giữa chỏm cầu là một cửa trời đường kính 9m để lấy ánh sáng). Đặc biệt, đấu trường Colosseums là nguyên mẫu cho hầu hết các sân vận động lớn trên thế giới từ trước tới nay. Đặc điểm chung của kiến trúc La Mã là quy mô kiến trúc đồ sộ, tường dày, hoành tráng bề thế, gây ấn tượng về sức mạnh, quyền lực, tạo cảm giác về một sự bền vững lâu dài, nhiều công trình đã chịu đựng được thử thách của thời gian. Nếu nghệ thuật Hy Lạp tìm đến một sự hài hòa giữa hình thức và cấu trúc, giữa kiến trúc và trang trí, thì kiến trúc La Mã, ngược lại, lại là một nghệ thuật ứng dụng nhằm đáp ứng tính cách sôi động và thực dụng của người La Mã [17]. Và những đặc điểm này đã được đem vào trong kiến trúc châu Âu nói chung và kiến trúc Pháp nói riêng để tạo nên những phong cách kiến trúc đầy sáng tạo, độc đáo, ấn tượng mà vẫn không làm mất đi vẻ đẹp hài hòa. 1.1.2. Kiến trúc Pháp trên cái nền của kiến trúc châu Âu 1.1.2.1. Những phong cách kiến trúc thời trung đại Trên cơ sở những ảnh hưởng của kiến trúc Hy - La cổ đại, từ thế kỷ X - XII, ở châu Âu xuất hiện một phong cách kiến trúc mới, được gọi là phong cách Roman (hay Romanesque, xuất xứ từ “Rome”, tức La Mã). Phong cách Roman có thể bắt đầu ở vùng Normandie, Italia vào thế kỷ thứ 9, nhưng kiến trúc Roman thật sự ra đời cùng với sự xuất hiện của dòng tu Benecdictine ở Pháp vào năm 910. Thế kỷ 10, nền kinh tế Pháp phục hồi, Giáo hội thịnh vượng, sự sùng bái các "thánh tích" trở nên cao trào và dòng tín đồ hành hương đi tìm các “thánh vật và thánh cốt” trở nên ngày càng đông đảo và Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 6 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch cuồng nhiệt. Bên cạnh các tuyến đường hành hương, Giáo hội xây dựng các tu viện để khách hành hương có thể trú ngụ, ăn uống và làm lễ. Nhà thờ được xây dựng bên trong tu viện, cùng với tu viện trở thành quần thể kiến trúc lớn. Nước Pháp là cái nôi của các kiến trúc nhà thờ xây dựng kèm với các tu viện. Loại nhà thờ này thường được xây dựng cùng với nhà ở của các thầy tu, tu viện, nhà nghỉ đôi khi gây ấn tượng như một thành phố. Sau đó, kiến trúc Roman đã được trải dài trên một bình diện rộng, phát triển chủ yếu ở các nước Tây Âu và Trung Âu, gồm Pháp, Anh, Ý, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha Đặc điểm chung của Kiến trúc Roman là chịu ảnh hưởng của kiến trúc La Mã cổ đại và kiến trúc Byzantyne (đế chế Đông La Mã)2; loại hình kiến trúc không đa dạng, phần lớn là kiến trúc tôn giáo như nhà thờ, tu viện và các công trình nhà ở, thành quách pháo đài có tính chất phòng thủ của giai cấp phong kiến. Bên cạnh đó, kiến trúc Roman không có quy mô lớn và cầu kỳ như kiến trúc La Mã cổ đại, phần nhiều công trình có mặt ngoài thô ráp, ít yếu tố trang trí, kiến trúc nặng nề, sử dụng cửa đi và cửa sổ kích thước nhỏ, ít ánh sáng. Về kết cấu, sử dụng nhiều cuốn cửa trụ, vòm nôi và vòm bán cầu, các loại mái vòm được làm bằng đá và kĩ thuật còn hạn chế nên mặt bằng kiến trúc các bộ phận thường chỉ là vuông, tròn hoặc hình chữ thập La tinh. Kiểu kiến trúc này tuy chắc chắn nhưng tốn nhiều vật liệu, nhà cửa đều giống các lô cốt với tường dày, cửa sổ nhỏ, cột thô. Nhìn chung cấu trúc bên ngoài hơi nặng nề, kém sự thanh thoát, hài hòa. Một trong những tác phẩm xuất sắc của kiến trúc này là quần thể tôn giáo Pisa (thế kỷ XI-XIII) là tác phẩm của kiến trúc Roman Italia, thể hiện sự kết nối truyền thống với kiến trúc La Mã. Quần thể này bao gồm Nhà thờ Pisa (1063-1118, 1261-1272); Nhà rửa tội The Baptistery (1153-1265); Tháp chuông The Campanile (1174-1271) - ngày nay gọi là tháp nghiêng Pisa. Hình 2 Do lãnh thổ quá rộng lớn, năm 395, La Mã bị phân chia thành hai phần: Đông La Mã đóng đô ở Conxtantinople, Tây La Mã đóng đô ở Roma. Sau khi Tây La Mã bị tiêu diệt vào năm 476, Đế quốc Đông La Mã đi vào con đường phong kiến hóa và trở thành đế quốc Byzantium, tồn tại đến năm 1453 thì bị Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 7 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch khối của cả quần thể cân bằng và hài hòa, nhà thờ ở giữa, nhà rửa tội và tháp chuông đều có hình dáng hài hòa, đều là hình khối trụ (một dạng khối platong) nhưng một bên to hơn và cao vừa phải, một bên nhỏ hơn và có chiều cao lớn. Cả ba công trình phía bên ngoài đều được làm bằng đá vân thạch trắng và hồng xen kẽ nhau, trang trí mặt tiền bằng các cuốn nửa tròn tương tự giữa các tầng với nhau, tạo nên vẻ thống nhất tinh tế. [27] Kiến trúc Gothic ra đời sau thời kì kiến trúc Roman. Cuối thế kỷ XII, ở miền Tây bắc nước Pháp xuất hiện một kiểu kiến trúc mới gọi là kiến trúc Gothic (Gothique), sau đó được truyền đi khắp châu Âu, phát triển rực rỡ đến thế kỷ XV. Thậm chí, giữa thế kỷ XVIII, phong cách Gothic vẫn rất được ưa chuộng ở Anh và lan rộng khắp Châu Âu trong suốt thế kỷ XIX, sau đó vẫn ảnh hưởng rất mạnh trong các kiến trúc về nhà thờ và trường đại học cho đến tận thế kỷ XX. [28] Kiến trúc Gothic là một bước tiến bộ lớn so với kiến trúc Roman. Kiến trúc Gothic không chắc chắn bằng kiến trúc Roman nhưng nhẹ nhàng đẹp đẽ hơn, nhà có cửa sổ lớn lắp kính màu, cột chạm trổ đẹp, kiểu cửa mái vòm được thay bằng hình lăng nhọn, những bức điêu khắc nhiều hơn, sinh động hơn và tự nhiên hơn. Như vậy, kiến trúc Gothic phản ánh một nền văn hóa cao hơn của thời kỳ thành thị phồn thịnh ở Tây Âu thời trung đại. Đến ngày nay, nhà thờ Gothic là hình ảnh điển hình của đạo Kito. Nhờ phát minh ra hệ thống cuốn chống tách được phần chịu lực và tường bao che nên nhà thờ có thể làm cao hơn nhiều, mở được nhiều cửa sổ và trong nhà thờ cũng sáng sủa hơn. Cũng nhờ phát minh ra vòm cuốn múi có sống mà mái nhà thờ Gothic cao hơn, rộng hơn, có những cửa sổ chiếu sáng lớn hình tròn, có gắn kính màu, gọi là cửa hoa hồng. Những cửa sổ khác hình vòm cuốn nhọn đầu cũng được gắn tranh kính màu rất nghệ thuật. Nước Pháp là quê hương của kiến trúc Gothic, có nhiều nhà thờ Gothic nổi tiếng thế giới, điển hình nhất là nhà thờ Đức bà ở thủ đô Pari xây dựng từ thế kỉ XII. Cũng trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XIV - XVI, ở châu Âu còn xuất hiện một phong cách kiến trúc khác, đó là Phong cách Phục hƣng. Trên Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 8 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch thực tế, phong cách Phục hưng là sự tiếp nối và quay trở lại của phong cách kiến trúc Roman, nhưng đã biến cải ít nhiều những chi tiết nghệ thuật cho phù hợp với yếu tố thời đại và hệ tư tưởng thực dụng của tầng lớp thị dân và giai cấp tư sản mới xuất hiện. Thời kì văn hóa Phục hưng xuất hiện ở Italia từ cuối thế kỉ XIV, sau đó lan sang các nước Anh, Pháp, Đức, Hà Lan Giai cấp tư sản đang lên đã sử dụng hình thức kiến trúc cổ điển Hy Lạp - La Mã để tạo uy tín cho mình, cho nên ở thời kì Phục hưng, ngôn ngữ kiến trúc cổ điển Hy Lạp - La Mã được sử dụng với nhiều sáng tạo mới, bố cục công trình phức tạp hơn, to lớn hơn. Kiến trúc Phục hưng rất chú ý đến tỉ lệ hài hòa với tầm vóc con người, thường sử dụng toán học để xác định tỉ lệ của công trình. Trong thời kì này xuất hiện nhiều kiến trúc sư tài năng, họ xây dựng rất nhiều những công trình có giá trị ở Italia và trên nhiều nước khác như Michel Angelo, Raphael, Sangalo, Becnini Sau Phong cách Phục hưng là Kiến Trúc Baroque. Nghệ thuật Baroque nói chung và Kiến trúc Baroque nói riêng bắt nguồn từ phong trào Chống cải cách của giáo hội Roma, thế kỉ XVII. Nhằm chống lại sự phát triển của Đạo Tin lành, Giáo hội Thiên chúa giáo La Mã đã đưa ra một số chương trình chống cải cách tôn giáo để mở rộng thanh thế, uy tín cho nhà thờ. Tất cả các ngành nghệ thuật được triển khai vào công chúng. Dưới sự chỉ đạo của Giáo hoàng và giáo hội, ở Roma đã hình thành một phong cách kiến trúc mới gọi là Kiến Trúc Baroque. "Baroque" có nguồn gốc từ tiếng Bồ Đào Nha: "Barroco", tiếng Tây Ban Nha là "Barrueco", nghĩa là “những viên ngọc không có quy luật hay có hình thù kì dị”, là "tất cả những gì không tuân theo các chuẩn mực về tỉ lệ, mà chiều theo tính khí bất thường của nghệ sĩ". Kiến trúc Baroque vẫn phát triển trên cơ sở kiến trúc Phục hưng nhưng sử dụng nhiều đường cong và trang trí gây ảnh hưởng cảm giác mạnh, sắc, gây kịch tính bất ngờ, tạo nên những không gian phức tạp, cường điệu sự tương phản sáng tối, gây những ảo giác không thật về độ to - nhỏ, động - tĩnh, phô trương gồ ghề, mãnh liệt, ồn ào, rất phong phú, kiêu kì và đặc biệt tốn kém. Kiến trúc Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 9 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch Baroque là sự vận động liên tục của những bức tường uốn lượn, ấn tượng trong Kiến trúc Baroque được thấy như trong nhà hát, đó là những không gian kịch tính, những luống ánh sáng chuyển động và sự vang lên của một âm thanh hoàn hảo. Sự uốn lượn của những bức tường với những mặt bằng hình oval, cả những góc nhỏ cũng hình oval, tất cả đều giàu trang trí là đặc điểm của nhà thờ Baroque. Ngoài ra trong Kiến trúc Baroque các thức cột đều có kích thước lớn hơn và thường chồng cao hai tầng, cửa sổ lớn hình chữ nhật, một cửa bé hơn hình tròn, nửa tròn hay hình oval. Nghệ thuật Baroque thường sử dụng loại cột thân vặn để phá vỡ cái cứng nhắc của thể thức kiến trúc mà thời Phục Hưng đã thừa hưởng của Hy Lạp, La Mã cổ đại. Nền kiến trúc Baroque là sự kết hợp chặt chẽ giữa các kiến trúc sư, các nhà điêu khắc, các nhà hội họa, họ cùng tạo ra một kết quả thống nhất và nhấn mạnh hiệu quả ảo ảnh với mục đích làm cho chiều sâu sâu hơn, chiều dài dài hơn. Tuy nhiên, các công trình của nghệ thuật Baroque còn đến ngày nay không nhiều. Một trong những công trình tiêu biểu cho phong cách kiến trúc rực rỡ, lộng lẫy, hùng vĩ này là nhà hát Opera ở Paris. [23]. Đầu thế kỉ XVIII, tiếp theo kiến trúc Baroque là Kiến trúc Rococo. Xu hướng phong cách nghệ thuật Rococo bắt nguồn từ nước Pháp trong những năm cuối của triều đại vua Louis XIV (1643-1714) và nở rộ dưới thời vua Louis XV (1715 - 1774). Trong giai đoạn này, Pháp trở thành trung tâm văn hóa châu Âu. Nhà vua muốn uy quyền của mình và của trật tự phong kiến được đề cao nên khuyến khích quan điểm triết học duy lí, đề cao lí tính, đề cao tính qui luật, sự qui củ nghiêm chỉnh. Do đó, trong nghệ thuật kiến trúc, phong cách cổ điển được chọn để đẩy lên một bước nữa, thể hiện sự to lớn đồ sộ, tính qui củ nghiêm ngặt của uy quyền phong kiến. Phong cách kiến trúc cổ điển Pháp rất chú trọng đến tổ hợp quần thể, đến nhịp điệu của kiến trúc. Những tác phẩm thành công nhất thường là các lâu đài cung điện và các công viên. Kết hợp một cách khéo léo cùng với chủ nghĩa anh hùng dưới thời vua Louis XIV, phong cách Rococo đã xuất hiện lần đầu tiên cùng với nhà thiết kế người Pháp Pierre Lepautre, người đã đưa những đường nét uốn lượn và những đường cong vào kiến trúc nội Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 10 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch thất trong cung điện của hoàng tộc ở vùng Marly, và sau đó được hưởng ứng bởi đông đảo các nhà kiến trúc, thiết kế, thợ mộc và thợ vẽ. Thuật ngữ “Rococo”, xuất phát từ từ “rocaille”, được sử dụng vào khoảng những năm 1730 để chỉ một phong cách thiết kế trang trí bắt chước những vách đá và những viên đá tự nhiên. Trong hội họa, phong cách Rococo được thể hiện bởi những màu sắc tinh tế, nơi mà màu hồng, màu xanh lá cây và màu vàng được dùng làm chủ đạo trong các chủ đề thần bí và những câu chuyện ly kỳ của các nhân vật thần thoại. Trong kiến trúc nội thất, phong cách Rococo đạt tới đỉnh cao tại nước Pháp với việc cải tạo lại khách sạn Soubise ở Paris (1735 - 1740), công trình có sự đóng góp của rất nhiều họa sỹ và nhà trang trí trong đó có Germain Boffrant và Pierre-Alexis Delamair. Quảng trường Stanislas ở thành phố Nancy, được vẽ bởi Héré de Corny, là một ví dụ điển hình. Phong cách Rococo nhanh chóng phát triển sang các nước châu Âu khác, đặc biệt là Đức và Áo, nơi mà chúng đã kết hợp với phong cách Baroques đang thịnh hành tạo nên một phong cách kiến trúc rất hoang phí, đặc biệt trong các nhà thờ và trong những địa điểm thiêng liêng. Phong cách này đạt tới đỉnh cao trong tác phẩm của nhà kiến trúc và trang trí vùng Bavaria có nguồn gốc Flemish là François de Cuvilliés. Ngôi nhà của Amalienburg (1734 - 1739) ở vùng Nymphenburg gần Munich là một ví dụ không cân xứng về sự kết hợp hoàn hảo giữa kiến trúc và trang trí. [22]. 1.1.2.2. Những phong cách kiến trúc thời cận đại Trào lưu Kiến trúc Hiện đại (còn gọi là Phong cách Hiện đại hay Trào lưu Modern - Modernism) là một khái niệm rất rộng được sử dụng để miêu tả các công trình khác nhau có các đặc điểm tương đồng về sự đơn giản trong bố cục hình khối không gian, tổ chức mặt bằng tự do phi đối xứng, mặt đứng, loại bỏ việc sử dụng các họa tiết trang trí của trường phái cổ điển cũng như việc sử dụng vật liệu mới như kính, thép, bê tông. Kiến trúc hiện đại là một sự đoạn tuyệt mạnh mẽ với kiến trúc cổ điển, thể hiện một lối tư duy mới của sự phát triển bùng nổ của các xã hội châu Âu cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 11 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch Vào thế kỉ XIX, ở châu Âu xuất hiện một số vật liệu mới có hiệu quả cao, nhất là bêtông cốt thép. Khoa học kĩ thuật đã được áp dụng vào ngành kiến trúc xây dựng. Các kết cấu của ngôi nhà được tính toán chính xác thay cho kinh nghiệm dựa trên trực giác. Nhiều kiến trúc sư thừa nhận rằng do những tiến bộ về khoa học kĩ thuật mà hệ thống “thức” Hy Lạp - La Mã không phù hợp nữa, trào lưu kiến trúc Cổ điển không còn đủ sức sống, vay mượn và lệ thuộc quá nhiều vào những gì có trong quá khứ, không phản ảnh trung thực lại bối cảnh của thời đại công nghiệp. Không những vậy, kiến trúc cổ điển còn trở thành vật cản, trói buộc con người với quá khứ hoặc đánh lừa thị hiếu kiến trúc bằng những yếu tố trang trí diêm dúa và vô nghĩa. cần phải thiết kế và xây dựng những công trình kiến trúc dựa trên cơ sở khai thác khả năng triệt để của vật liệu mới, nhất là thép và bêtông cốt thép. Trào lưu kiến trúc dựa trên cơ sở từ bỏ “thức” cổ điển, phát huy các vật liệu và kĩ thuật mới, từ đó đề ra hệ thống thẩm mĩ của thời đại mới, thời đại khoa học kĩ thuật phát triển, gọi chung là trào lưu Modern. Phát sinh vào cuối thế kỉ XIX, phát triển mạnh mẽ vào những năm đầu thế kỉ XX, trào lưu này có nhiều tên gọi khác nhau như: Art Nouvoau, Jugendstil, Moderniame Nó là tiền thân của các xu hướng kiến trúc hiện đại của thế kỉ XX như Chủ nghĩa công năng, Kiến trúc hữu cơ, Chủ nghĩa biểu hiện Các kiến trúc sư nổi tiếng nhất của trào lưu này là: Henri Vandeven, Oguytxto Pero, Vichto Oocta, Hecto Ghina Trào lưu chủ nghĩa công năng trong kiến trúc xuất phát từ 3 trung tâm kiến trúc hiện đại sớm nhất Thế giới là trường phái Chicago ở Mỹ vào cuối thế kỉ XIX, trường Bauhau ở Đức, và chủ nghĩa kết cấu ở Liên Xô vào đầu thế kỉ XX. Nội dung của kiến trúc theo trào lưu này là tính chất hợp lí của dây chuyền công năng được đưa lên làm tiêu chuẩn hàng đầu, các hình khối phải là đơn giản và khước từ mọi trang trí. Hình ảnh chủ yếu của kiến trúc theo chủ nghĩa công năng là những ngôi nhà hình hộp chữ nhật đơn giản khô khan, theo 5 điểm sau: nhà trên cột, mặt bằng tự do, mặt đứng tự do, dải cửa sổ nằm ngang và mái bằng. Người ta thường đồng nhất kiến trúc theo chủ nghĩa công năng với kiến trúc hiện đại vì lí do chủ nghĩa công năng có ảnh hưởng quá rộng lớn trên Thế Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 12 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch giới trong suốt hơn nửa đầu thế kỉ XX. [3, 65] Kiến trúc hữu cơ phát sinh từ nước Mỹ với thủ lĩnh là kiến trúc sư Prăng Lôirai. Kiến trúc hữu cơ mong muốn tạo nên một môi trường sống của con người nằm trong sự hài hòa hữu cơ toàn diện. Đây là một sự tổng hòa giữa vật liệu và hình thức kiến trúc, giữa bộ phận và toàn thể, giữa con người và ngôi nhà, giữa ngôi nhà và thiên nhiên. Một sự hài hòa của ý chí, tình cảm, khoa học kĩ thuật để đạt tới một sự đơn giản hữu cơ. [3, 67] Chủ nghĩa biểu hiện trong kiến trúc xuất hiện từ cuối thế kỉ XIX với Antonio Gaudi, sang những năm 20 của thế kỉ này với Erich Mendenxon và Han Ponxich. Chủ nghĩa biểu hiện là xu hướng nghệ thuật kiến trúc không lấy logic công năng làm yếu tố hàng đầu mà cho rằng mục đích quan trọng nhất của tác phẩm kiến trúc là gây xúc động cho con người, biểu hiện được tính chất nhất định nào đó của con người. [3, 68] Ưu điểm của Phong cách kiến trúc Hiện đại là: Dây chuyền công năng được đề cao, hợp lý; Tiết kiệm được không gian giao thông, tiết kiệm vật liệu; Không trang trí phù phiếm; Áp dụng các thành tựu của khoa học và kỹ thuật. Nhưng bên cạnh đó, phong cách này cũng có những hạn chế như: Tính chất khô khan, nghèo nàn về hình thức, do những giáo lý cực đoan như "trang trí là trọng tội" (Adolf Loos), "Nhà là cái máy để ở" (Le Corbusier) ; Mang tính chất quốc tế, không có tính dân tộc và địa phương; Coi nhẹ sự giao tiếp với thiên nhiên, sự giao tiếp giữa kiến trúc với xã hội, sự giao lưu giữa con người với nhau. [29] Trào lưu kiến trúc Hiện đại kéo dài đến những năm 1970 của thế kỷ XX, và những dấu ấn của nó đã để lại trên rất nhiều công trình nổi tiếng trên thế giới. Người ta cũng có thể tìm thấy bóng dáng của phong cách kiến trúc này tại nhiều vùng đất thuộc địa của các nước phương Tây cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong đó có Việt Nam3. 3 Hiện nay, kiến trúc Hậu hiện đại (Postmodernism) đã thay thế cho kiến trúc Hiện đại, bắt đầu từ cuối thập niên 1950, kéo dài đến thời điểm hiện tại với những đặc điểm như: Xu hướng quay về với cổ điển, sự xuất hiện của các chi tiết trang trí, tính đa nghĩa của biểu tượng trong kiến trúc Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 13 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch 1.1.2. 3. Đặc điểm riêng của kiến trúc Pháp Khảo sát qua lịch sử các phong cách kiến trúc ở phương Tây từ cổ đại đến hiện đại, có thể thấy rằng, Pháp là một trong những cái nôi vừa góp phần bảo lưu, gìn giữ các phong cách kiến trúc cổ điển, lại vừa góp phần sáng tạo ra những phong cách kiến trúc mới hết sức độc đáo và ấn tượng. Kiến trúc Pháp kế thừa những nét đẹp của kiến trúc cổ điển Hy Lạp - La Mã, cái nôi chung của kiến trúc châu Âu. Cũng giống như nhiều quốc gia châu Âu khác, phong cách kiến trúc Pháp mang hơi hướng vẻ đẹp thần thoại của phong cách Hy Lạp - La Mã, với những kiểu “thức” căn bản: thức Doric, thức Ionic và thức Corinth, hay thậm chí cả những kiểu thức tiến bộ của người La Mã như Toscan và Compozit. Lịch sử kiến trúc thế giới nói chung và lịch sử kiến trúc châu Âu nói riêng đã để lại rõ nét từng dấu ấn trên bước phát triển của mình trong kiến trúc Pháp. Chính vì thế mà có thể nói rằng kiến trúc Pháp được thừa hưởng những tinh hoa của kiến trúc nhân loại. Nhưng cũng từ nước Pháp, nhiều phong cách kiến trúc tiêu biểu đã được hình thành và lan rộng ra toàn châu Âu như phong cách kiến trúc Roman, kiến trúc Gothic, kiến trúc Rococo. Các kiến trúc sư Pháp cũng là những người đi đầu trong việc tạo dựng nên những thể thức kiến trúc mới trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị cổ điển Hy - La với bản sắc văn hóa Pháp cũng như với dấu ấn và hơi thở của thời đại để tạo ra những công trình và phong cách rất riêng. Có thể nói không sai rằng, kiến trúc châu Âu trong thời kỳ trung đại thấm đẫm tinh thần của văn hóa Pháp - một nền văn hóa vừa năng động vừa sáng tạo vừa thực dụng song vẫn giữ được nét kiêu sa và vẻ đẹp diễm lệ, kỳ vĩ vốn là đặc trưng chung của kiến trúc cổ điển phương Tây. Một đặc điểm nữa dễ nhận thấy là các kiến trúc sư Pháp ít khi chịu bó buộc năng lực sáng tạo của mình trong một khuôn khổ nhất định mà thường xuyên tìm tòi, kết hợp nhiều phong cách, nhiều trường phái kiến trúc với nhau. Hơn thế nữa, họ còn rất chú trọng phối kết hợp với không gian hay bối cảnh cụ thể của nơi đặt kiến trúc đó, nhằm tạo ra những công trình mang tính thực dụng cao mà vẫn có hồn. Triết lý sáng tạo này không chỉ được ứng dụng cho những công trình kiến trúc trên đất Pháp mà còn Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 14 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch được người Pháp áp đặt tại những cơ sở thuộc địa của họ như Algerie, như Việt Nam Nhờ đó mà ngày nay chúng ta có thể nói đến một phong cách kiến trúc Pháp đặc trưng trên cái nền chung của kiến trúc châu Âu. Trong những năm đầu của thế kỉ XVI, người Pháp đã tham gia vào cuộc chiến tranh ở miền bắc Italy. Cuộc chiến tranh này đã mang lại cho Pháp một kho tàng nghệ thuật thời Phục hưng như một chiến lợi phẩm của họ, nhưng không vì thế mà không có những ý tưởng phá cách. Trong thung lũng Loire một làn sóng xây dựng được tiến hành theo phong cách thời Phục hưng. Một trong những ví dụ đầu tiên của thời kỳ này là Chateau d'Amboise, và công trình này nổi tiếng còn bởi Leonardo Da Vinci đã dành ngày cuối cùng trong cuộc đời ông ở đây. Cũng chính vì những sự phá cách và sáng tạo như vậy nên trong nghệ thuật kiến trúc thế giới người ta còn nhắc đến một phong cách kiến trúc rất đặc trưng của người Pháp, đó là trường phái Tân cổ điển Pháp. Bằng chứng hiển nhiên về kiến trúc Hy Lạp có tầm ảnh hưởng rất ít tới người Pháp là: người Pháp luôn tìm cách phân biệt các nguyên tắc của người Hy Lạp thay vì chỉ thực hành theo họ. Pháp Baroque là một hình thức chịu ảnh hưởng sâu sắc phong cách kiến trúc Baroque Ý nhưng đồng thời vẫn thể hiện sự tôn trọng, được thừa kế phong cách kiến trúc truyền thống Pháp. Đó là sự nổi bật của các chi tiết nghệ thuật trang trí, một bước chuyển để hình thành nên phong cách kiến trúc Rococo. Rococo phát triển đầu tiên trong nghệ thuật trang trí và thiết kế nội thất. Louis XIV đã mang đến một sự thay đổi trong tòa án và các nghệ sĩ thời trang nghệ thuật nói chung. Vào cuối triều đại của Louis XIII, Baroque với kiểu dáng phong phú đã được đưa ra “chỉnh sửa” để các thành phần nhẹ hơn với các đường cong hơn và các mẫu tự nhiên. Rococo vẫn duy trì vị Baroque cho các loại hình phức tạp và các mô hình phức tạp, nhưng thời điểm này, nó đã bắt đầu để tích hợp một loạt các đặc điểm đa dạng, bao gồm một hương vị cho các thiết kế phương Đông và thành phần bất đối xứng. Phong cách này đã lan tràn ra ngoài kiến trúc và nội thất để vẽ tranh và điêu khắc. Các phong cách Rococo lây lan với các nghệ sĩ Pháp và các xuất bản phẩm. Nó đã dễ dàng được chấp nhận Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 15 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch trong các bộ phận Công giáo của Đức, Bohemia và Áo, nơi nó được sáp nhập với Baroque sống động truyền thống của Đức. Một trong những đặc điểm đặc biệt nhất của Pháp là nhiều tòa nhà cao cửa sổ, thường cong ở đầu, mà break qua đường viền và tăng trên mái hiên. Cửa sổ thiết kế khác thường này là điểm đặc biệt đáng chú ý của kiến trúc Pháp. Những ngôi nhà bằng gạch hoặc bằng vữa được chính thức sử dụng. Họ đã dốc mái nhà và tạo nên các hình vuông với các cửa sổ hình dạng đối xứng cân bằng ở hai bên lối vào. Trong thời gian giữa những năm 1800 khi Napoleon III đã thành lập Đế chế thứ hai, Paris trở thành một thành phố quyến rũ của các tòa nhà. Nhiều nhà cửa đã được tôn tạo với chi tiết như ghép nối các cột và xây dựng wrought sắt cresting xuất hiện cùng mái nhà. Nhưng tính năng nổi bật nhất ngay từ thời kỳ này là, dốc boxy à Bạn có thể nhận ra một mái nhà nhà bởi nó có hình thang. Không giống như một hình tam giác hồi một mái nhà có mái dốc gần như không có. Điều này gần như tạo ra một cảm giác thật sự khác biệt, và cũng cho phép có thể sử dụng thêm không gian sống trong gác mái. Trong vùng Normandy và các thung lũng Loire của Pháp, silo trang trại thường gắn liền với các khu sinh hoạt chính thay vì một chuồng riêng biệt. Sau Thế chiến I, người Mỹ đã lãng mạn hóa các trang trại truyền thống của Pháp, tạo ra một phong cách được gọi là Pháp Normandy. Đứng về phía đá, vữa, hoặc gạch, những ngôi nhà này có thể đề xuất các phong cách Tudor với một nửa trang trí gỗ (dọc, ngang, và các dải đường chéo bằng gỗ đặt trong tường). Các phong cách Normandy của Pháp được phân biệt bởi một tháp đá tròn đứng đầu bởi một mái hình nón. Tháp thường được đặt gần trung tâm, phục vụ như là lối vào nhà. Pháp Normandy và chi tiết kiến trúc của các địa phương Pháp thường được kết hợp để tạo ra một phong cách đơn giản gọi là tiếng Pháp khắc hoặc dập nổi trên đường gờ dọc và hành lang. [14, 107] Và như vậy với những đặc trưng riêng của mình, kiến trúc Pháp xứng đáng là một nền nghệ thuật lớn của nghệ thuật kiến trúc thế giới. Kiến trúc Pháp Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 16 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch không chỉ ảnh hưởng sâu sắc tới các phong cách kiến trúc của châu Âu, mà theo bước chân của các đoàn quân viễn chinh Pháp, nền nghệ thuật này đã có mặt ở nhiều vùng đất xa xôi trên thế giới, tại cả những vùng đất có những điều kiện hoàn toàn khác biệt về tự nhiên, khí hậu và bản sắc văn hóa - như Việt Nam. 1.2. Quá trình du nhập của kiến trúc Pháp vào Việt Nam và Hải Phòng 1.2.1. Quá trình du nhập của kiến trúc Pháp vào Việt Nam Theo kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, trong lịch sử phát triển nền kiến trúc Việt Nam thì thời cận đại trùng với thời thực dân Pháp cai trị. Đó là một thời kỳ chuyển tiếp hết sức quan trọng trong sự phát triển kiến trúc Việt Nam, đô thị Việt Nam. Bởi từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, kiến trúc Việt Nam là kiến trúc truyền thống, kiến trúc gỗ. Người phương Tây, cụ thể là người Pháp, đã đưa vào Việt Nam một nền kiến trúc mới của châu Âu tương ứng với công nghệ mỹ thuật châu Âu và như thế tạo ra một thời kỳ chuyển tiếp giữa kiến trúc truyền thống sang kiến trúc hiện đại hôm nay. Tuy nhiên, trước khi thực dân Pháp chính thức cai trị và du nhập kiến trúc của họ vào nước ta, trên thực tế, ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều công trình mang dáng dấp của kiến trúc phương Tây đến từ quá trình giao lưu văn hóa tự nhiên hay do chính triều đình phong kiến Việt Nam chủ động học tập, vay mượn. Vì thế, có thể tạm chia quá trình du nhập của kiến trúc phương Tây nói chung và kiến trúc Pháp nói riêng vào Việt Nam qua hai thời kỳ: thời phong kiến và thời Pháp thuộc. 1.2.1.1. Thời phong kiến Người châu Âu đến Việt Nam từ thế kỉ XVI. Việc truyền bá đạo Thiên chúa vào nước ta cũng đồng thời là quá trình xâm nhập của các phong cách kiến trúc Roman, Gothic vào kiến trúc Việt Nam. Ở châu Âu, những phong cách này rất đặc trưng cho kiến trúc đạo Ki tô. Những nhà truyền giáo đi theo những tàu buôn và truyền bá đạo vào nước ta, cũng đồng thời đưa các công trình kiến trúc tu viện và nhà thờ vào Việt Nam. Tuy nhiên, dấu vết của các phong cách kiến trúc Roman và Gothic trong thời kỳ này còn rất mờ nhạt, thiếu những công trình tu viện hoành tráng, mà chỉ thấy thấp thoáng qua hình ảnh của một số nhà thờ nhỏ. Phải đợi đến thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đã đứng chân vững ở Việt Nam Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 17 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch mới thấy xuất hiện các công trình nhà thờ tu viện mang tính qui mô như nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn (1880), nhà thờ lớn Hà Nội (1887). Ngoài ra, Nhà thờ đá Phát Diệm được xây dựng xong vào năm 1896 là sự kết hợp hết sức độc đáo giữa kiến trúc thánh đường châu Âu với kiến trúc truyền thống Việt Nam. Bên cạnh các công trình của đạo Thiên chúa, cuối thế kỉ XVIII, nhà Nguyễn đã nhờ một số võ quan và lái buôn người Pháp giúp đỡ thiết kế và xây dựng thành phỏng theo kiểu Vauban (loại thành do kiến trúc sư Vauban thiết kế và xây dựng ở Pháp từ thế kỉ XVII) với nhiều hình thức khác nhau, xây dựng từ Bắc đến Nam. Sự kiện đầu tiên đó là vào khoảng năm 1791, Nguyễn Ánh thuê một quan Năm người Pháp tên là Victor Oliver Paymanel, là phụ tá của giáo sĩ D’Adran vẽ kiểu và cho xây dựng thành Sài Gòn 8 góc theo kiểu Vauban trên khu đất cao ráo nhất trên bờ sông Đồng Nai. Năm 1834, sau những năm khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, Minh Mạng ra lệnh tàn phá thành cũ, xây lại thành mới, rồi lần lượt xây ở nhiều tỉnh, thành khác, trong đó phải kể đến các công trình Vauban tiêu biểu như kinh thành Huế, thành Hà Nội, thành cổ Quảng Trị Thành Vauban có mặt bằng hình vuông, chữ nhật hoặc đa giác đều; trong thành có đường phố kẻ ô bàn cờ. Thành có nhiều góc cạnh tạo nên pháo đài góc; thành thường xây cao, xung quanh đào hào hoặc lợi dụng sông hồ để tạo chướng ngại vật. Có kiến trúc cao nhất và chế ngự cả khu thành là cột cờ, mang dáng dấp của những tháp canh lâu đài kiểu Trung cổ ở châu Âu. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh, phần lớn các thành lũy ở các tỉnh lị bị phá hủy, chỉ còn lại khá nguyên vẹn ở Huế. Do các chính quyền nhà Nguyễn đã tiếp cận mời chuyên gia quân sự người Pháp về nghiên cứu, thiết kế các thành trì nên các thành trì cận đại Việt Nam có sự kết hợp rất rõ giữa nghệ thuật xây dựng thành truyền thống ở Việt Nam và thành đương thời ở phương Tây. Cơ cấu thành thường mang yếu tố quân sự, đồn trú và triều nghi, được tổ chức theo mô hình sau: - Cơ cấu bên trong xây hình vuông hay hình chữ nhật được tổ chức theo mạng lưới giao thông ô cờ, mặt bằng thành bằng phẳng. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 18 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch - Cơ cấu bên ngoài được tổ chức theo hình ngôi sao, răng cưa của kiến trúc thành Châu Âu phục vụ đặt đại bác và chống chiếm thành. Tường thành xây thẳng đứng, cao, dày, có hào sâu bao quanh bảo vệ. Mô hình tổ chức thành trì theo kiểu này được áp dụng rộng rãi cho 12 tỉnh thành mà chính quyền nhà Nguyễn đã có quy hoạch xây dựng đô thị ổn định theo sự phân vùng cụ thể. Như vậy, trong thời kỳ phong kiến độc lập, tự chủ, những dấu ấn của văn hóa phương Tây, trong đó có kiến trúc đã bắt đầu ảnh hưởng vào nước ta. Song những ảnh hưởng này mới chỉ ở bề nổi. Quá trình du nhập và truyền bá kiến trúc Pháp vào Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu khi thực dân Pháp chính thức biến Việt Nam thành một nước phong kiến nửa thuộc địa. 1.2.1.2. Thời Pháp thuộc Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta vào năm 1858, nhưng phải đến năm 1884, sau hòa ước Giáp Thân, Pháp mới xác lập được chủ quyền vững chắc trên lãnh thổ Việt Nam4. Song song với khoảng thời gian người Pháp có mặt trên lãnh thổ Việt Nam, lịch sử kiến trúc Pháp tại Việt Nam có thể chia làm 3 giai đoạn: - Thời kỳ đầu từ 1860 đến 1880 là thời kỳ kiến trúc hàng hải và quân sự. Thời kỳ này, chỉ có những kỹ sư quân sự mới được thiết kế đồ án xây dựng với những kinh nghiệm từ Algeria. - Giai đoạn 2 từ 1880 đến 1920, với các công trình của các kiến trúc sư được đào tạo từ trường Mỹ thuật Paris. Thời kỳ này, kiến trúc mang phong cách Pháp được thay đổi để phù hợp với khí hậu ở Việt Nam vốn khác biệt hoàn toàn với khí hậu của nước Pháp. - Giai đoạn 3 từ 1920 đến 1945, các kiểu kiến trúc từ nhiều, vùng miền nước Pháp được các kiến trúc sư Việt Nam vận dụng, thay đổi biến thành những 4 Theo Hòa ước Giáp Thân 1884 kí kết giữa Pháp và triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam bị chia làm ba xứ: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine) dưới ba chế độ khác nhau: Nam Kỳ là xứ thuộc địa Pháp; Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ Pháp bảo hộ nhưng triều đình nhà Nguyễn trên danh nghĩa vẫn được quyền kiểm soát. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 19 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch kiến trúc mang đậm phong cách địa phương. Cùng với quá trình khai thác thuộc địa, thực dân Pháp cũng tiến hành qui hoạch và xây dựng một mạng lưới hệ thống đô thị ở nước ta. Mạng lưới đô thị hành chính nhỏ (lị, sở) kèm theo đồn trú được hình thành rải đều trên khắp lãnh thổ Việt Nam, tuy cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn và lạc hậu. Các cơ sở này dùng chính sách “chia để trị” với tổ chức các huyện, tỉnh có qui mô nhỏ, tách riêng các tỉnh, huyện của dân tộc ít người dù dân số ít. Các đô thị hành chính được xây dựng mà hầu như không có sự hoạt động của các cơ sở kinh tế thúc đẩy nên tốc độ tăng trưởng chậm chạp. Người Pháp đã cho xây dựng ở nước ta rất nhiều mô hình đô thị khác nhau, tùy theo điều kiện từng địa phương, chẳng hạn như: xuất hiện một số “đô thị khai khoáng” ở Bắc kì, một số “đô thị công nghiệp nhẹ” cung cấp sản phẩm tiêu dùng trong nước với sự ra đời của hệ thống nhà máy xí nghiệp như than Quảng Ninh, dệt Nam Định, bia rượu Hà Nội, Sài Gòn, xay xát thóc gạo Hải Dương, nước mắm Phan Thiết, gốm Bát Tràng, diêm bến Thủy, cao su Đồng Nai, xi măng Hà Tiên, xi măng Hải Phòng; các “đô thị cảng” như Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng; các “đô thị hành chính” như Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Bên cạnh đó, còn có các đô thị có qui mô nhỏ phục vụ nghiên cứu khoa học và du lịch nghỉ dưỡng như đô thị nghiên cứu chữa bệnh Nha Trang, đô thị du lịch nghỉ dưỡng Đà Lạt, Sa Pa, Tam Đảo, Đồ Sơn, Trà Cổ [9, 74] Ở Việt Nam hiện nay, kiến trúc Pháp thời thuộc địa còn lại khá nhiều ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh lị như Quảng Ninh, Bắc Ninh, Vũng Tàu, Trà Vinh Ở Hà Nội, nhiều công trình chiếm cả một khu phố, một dãy phố và trong các ngách phố. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì các công trình kiến trúc Pháp tập trung chủ yếu vào thể loại công trình công cộng. Ở một số tỉnh khác có các công trình mang tính sở, lị và công sở nhỏ. Các tòa biệt thự chiếm số ít trong khi đó các tòa nhà ở hàng phố phỏng theo xu hướng kiến trúc Pháp chiếm khá nhiều. Về mặt quản lý hành chính, các đô thị có xu hướng tách dần khỏi nông thôn, có hoạt động kinh tế xã hội riêng, cơ chế quản lí riêng, đồng thời xuất hiện hệ thống luật lệ quản lí đô thị kiểu phương Tây của người Pháp khá chặt chẽ, Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 20 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch cũng như phương pháp quy hoạch đô thị được áp dụng. Sự phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo giữa tầng lớp trí thức, cán bộ viên chức, thương nhân với công nhân và nông dân xảy ra ngày một tăng. Nhiều vị trí đẹp trong cấu trúc đô thị được dùng để xây dựng các công thự của bộ máy cai trị, các dinh thự cho các viên chức cao cấp, đế quốc phong kiến Trường học, bệnh viện được bổ sung, đường sá mở mang, chỉnh trang. Đô thị Việt Nam thời kỳ này có màu sắc công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ nhưng chủ yếu phục vụ cho chế độ thực dân và quan lại phong kiến. Những hoạt động về xây dựng đầu tiên của Pháp trong khoảng những năm 1880 đến 1900 có thể gọi chung là kiến trúc thực dân tiền kì. Sau khi chiếm được Hà Nội, thực dân Pháp đã khởi công xây dựng những công trình kiên cố trên khu nhượng địa chính thức, mở đầu cho thời kì xây dựng qui mô của chúng ở Hà Nội và các tỉnh trong cả nước. Người Pháp đã cho xây dựng và phát triển Hà Nội với tham vọng dựng "một Paris thu nhỏ trong lòng Đông Dương" để thỏa nỗi nhớ của người xa xứ. Công cuộc xây dựng đã kéo dài cho tới đầu những năm 40 của thế kỷ XX. Đầu não hành chính là khu Ba Đình (phía Nam Hồ Tây), lui xuống phía dưới là nơi tọa lạc những biệt thự của quan chức cấp cao; nơi hiện giờ là phủ Chủ tịch và trụ sở của Bộ Ngoại giao, xưa vốn là Phủ toàn quyền Pháp. Xuôi về Hồ Gươm, phía Bắc là 36 phố phường, trung tâm buôn bán sầm uất nhất của người Việt; phía Đông là ngân hàng, bưu điện, phía Nam là khu biệt thự của công chức Pháp. Tất cả những công trình chính thống của thực dân Pháp ở thuộc địa đều được kiến trúc sư Pháp thiết kế từ bên Pháp mang sang xây dựng. Hầu hết các công trình này đều theo các phong cách cổ điển như Phục hưng (Dinh toàn quyền, Nhà hát lớn Hà Nội), Baroque, Cổ điển Pháp (Tòa án tối cao, bệnh viện K, trụ sở công ti đường sắt Vân Nam, ga xe lửa Hà Nội, toà công sứ). Vì sao các kiến trúc sư Pháp sử dụng các phong cách cổ điển trong giai đoạn này? Một là vào thời kì này, trào lưu Modern mới phát triển ở châu Âu, chưa có ảnh hưởng mạnh mẽ lắm. Hai là với các phong cách cổ điển, tính chất nghiêm trang đồ sộ của các công trình chính thống của Pháp sẽ gây uy tín cho chính quyền thuộc Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 21 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch địa, biểu hiện tính chất vững vàng của chính phủ bảo hộ và ý định ở lại Việt Nam lâu dài của thực dân Pháp. Khi một chính quyền mới lên cầm quyền bao giờ cũng muốn tìm cho mình một hình thức kiến trúc biểu hiện được tinh thần của chế độ mới nhưng một phong cách mới ngay lập tức chưa thể sáng tạo ra được, vì vậy người Pháp đã lựa chọn một phong cách kiến trúc đã được lịch sử đánh giá và công nhận. Đó chính là hình thức cổ điển Hy Lạp - La Mã trong kiến trúc. Các kiến trúc sư Pháp có kiến thức rất vững chắc về kiến trúc cổ điển Hy Lạp - La Mã với các trục đối xứng nghiêm ngặt, với nhịp điệu lặp đi lặp lại của những hàng cột, với hệ cấu trúc “dầm”, “cột” và “thức” Tuy nhiên, để không rơi vào phục cổ, phong cách tân cổ điển đã được đưa vào một cách tự nhiên, hòa nhập cùng với một số xu hướng kiến trúc khác, phát triển mạnh hơn vào giai đoạn sau này. Giai đoạn từ 1900 đến 1920, thời kỳ tiến hành khai thác Đông Dương lần thứ nhất, các công trình của Pháp tại Hà Nội được thiết kế theo phong cách Tân cổ điển. Đây là phong cách hàn lâm thịnh hành cùng thời ở Pháp. Nguyên tắc bố cục dựa trên quy luật đối xứng nghiêm ngặt với sự chú ý nhấn mạnh diện trung tâm hay hai khối nhô ở hai bên và dựa trên cách thức, chi tiết trang trí kiến trúc theo tinh thần cổ điển. Trong những năm 1900 - 1920, khu vực thị dân của các tỉnh lẻ và các đô thị cũ vẫn tiếp tục phát triển, các công trình nhà ở được xây đa số đều từ 2 đến 3 tầng, điều quan trọng là nhà ở thị dân chịu ảnh hưởng của việc xây dựng mới và trang trí kiến trúc thực dân tiền kì thể hiện trong cấu trúc mặt bằng và hình thức trang trí. Trong giai đoạn này, kiến trúc chủ yếu là các loại công thự, dinh thự, công sở hoặc nửa dinh thự, nửa công sở. Một số dạng công trình kiến trúc kiểu chính thống được đưa sang. Từ năm 1900, chính quyền Đông Dương đã tiến hành công cuộc xây dựng các cơ quan đầu não ở Hà Nội với mục đích biến Hà Nội thành thủ đô của Liên bang Đông Dương. Những công trình tiêu biểu là: Phủ Toàn Quyền (nay là Phủ Chủ Tịch, xây dựng năm 1902), Dinh thống sứ (Bắc bộ Phủ, nay là Nhà Khách Chính Phủ trên đường Ngô Quyền) Kiến trúc thời kì này cũng được nghiên cứu sâu để thoát khỏi chủ nghĩa Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 22 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch công năng đơn giản của kiến trúc thực dân tiền kì. Phong cách kiến trúc tân cổ điển được dùng phổ biến trong các công sở của nền hành chính thực dân Pháp, khai thác đặc điểm của bố cục đối xứng, thể hiện tính bề thế và hoành tráng qua các mặt chính có hình khối kiến trúc nặng nề, tập trung vào việc trang trí các chi tiết. Vị trí của các công trình đó là điểm nhấn trong tổng thể không gian qui hoạch. Người Pháp muốn thông qua các công trình kiến trúc mà thể hiện sức mạnh áp đảo của thực dân, đồng thời gây ảnh hưởng văn hóa Pháp vào Việt Nam. Từ năm 1920 đến năm 1954, người Pháp tiến hành khai thác Đông Dương lần thứ hai, mối giao lưu về kiến trúc và văn hóa giữa hai nước Pháp và Việt Nam trở nên thường xuyên hơn, làm xuất hiện một phong cách kiến trúc mới - phong cách kết hợp. Đó là phong cách hướng về những đặc điểm văn hóa, kiến trúc và điều kiện thiên nhiên, khí hậu của địa phương trong sáng tác kiến trúc. Kiến trúc sư E. Hebrard là một trong những người tiên phong trong xu hướng kiến trúc này. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của một số công trình mang phong cách kiến trúc hiện đại do các kiến trúc sư Pháp thiết kế, phần nào thể hiện sự hòa nhập của kiến trúc bản địa với thế giới. Các công trình để lại dấu ấn của giai đoạn này là: Đại học Đông Dương (nay là Đại học tổng hợp Hà Nội, xây dựng trong 4 năm1923 - 1926), Sở tài chính (nay là trụ sở Bộ ngoại giao), Bảo tàng Viễn Đông Bác Cổ (nay là Bảo tàng Lịch sử) Ngoài Hà Nội, nhiều tỉnh thành ở Việt Nam cũng mang đậm dấu ấn của các phong cách kiến trúc phương Tây do người Pháp du nhập. Ngay cả tại Huế - nơi cố thủ của tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn, cũng hiện diện một quần thể kiến trúc Pháp ở bờ nam sông Hương. Khu phố Tây bắt đầu hình thành từ khi người Pháp đến đồn trú tại Huế cuối thế kỷ XIX. Các trường phái kiến trúc phương Tây đã du nhập vào cố đô, để lại dấu ấn trong nhiều công trình có tính mỹ thuật cao. Sự kết hợp Âu - Á lại tiếp tục hình thành nên lối kiến trúc Đông Dương, với đặc trưng là hệ mái dốc lợp ngói liệt, hoa văn trang trí mô phỏng các cung điện, đền đài. Cho đến nay vẫn còn khá nhiều dinh thự mang phong cách Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 23 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch này như: trụ sở Thành ủy, UBND thành phố Huế, trường Quốc học Hai Bà Trưng, văn phòng Đại học Huế Theo thống kê của Sở Xây dựng Thừa Thiên - Huế, hiện vẫn còn khoảng 240 "nhà Tây", hầu hết là công sở, trường học, tập trung chủ yếu ở đường Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Lý Thường Kiệt Theo tiến sĩ Trần Minh Đức (Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng), quần thể này không chỉ có giá trị lớn về nghệ thuật kiến trúc, mà còn là một kho tư liệu sinh động về kỹ thuật xây dựng đặc sắc của Pháp trên đất Việt Nam. [24]. Và tại Minh Hải (nay là Cà Mau - Bạc Liêu), dấu ấn các công trình kiến trúc của Pháp vẫn còn để lại tương đối đậm nét. Nói đến công trình xây dựng của Pháp phải nói đến Nhà Công Tử Bạc Liêu, Trụ sở Thư viện Bạc Liêu do người Pháp thiết kế xây dựng từ những năm thập niên 20, cho đến thập niên 40 của thế kỷ XX. Các kiến trúc sư Pháp đã bằng sự kết hợp ngôn ngữ kiến trúc phương Đông để diễn đạt một không gian rất phương Đông trên một mặt đứng đăng đối vốn là một trong những ngôn ngữ chính của kiến trúc cổ điển Pháp bằng những mái đua, mái chống hắt, con sơn, con tiện Cà Mau, Bạc Liêu vốn là vùng khí hậu ôn hòa thuộc vùng cận xích đạo, nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa mưa nắng rõ rệt, nắng nóng, mưa nhiều. Để thích ứng với khí hậu, các nhà kiến trúc Pháp còn tạo cho công trình có độ sâu các lớp hành lang, những bức tường dày và những mái chống hắt những hàng hiên, những lỗ thoáng đối lưu có tác dụng làm ấm nhà về mùa đông, mát nhà trong mùa hè, thông thoáng tự nhiên, chống mưa và giảm bức xạ mặt trời khi nắng nóng. Có thể nói, tính bậc thầy của kiến trúc Pháp để lại thông qua những công trình, những ngôi nhà trên quê hương Cà Mau - Bạc Liêu xưa và nay, đó là tính hợp lý về cách chọn vị trí để xây dựng công trình trên một tổng thể không gian kiến trúc và có sự kết hợp hài hòa, bởi xung quanh ngôi nhà, tòa biệt thự kiểu Pháp bao giờ cũng có cây xanh và hồ nước. Xem những công trình kiến trúc Pháp trên quê hương Minh Hải, chúng ta có một nhận xét chung, đó là những tòa nhà không cao, nhưng rất đồ sộ với một mặt thẳng đăng đối đã làm cho những công trình xây dựng hàng thế kỷ vẫn tồn tại với thời gian. [19]. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 24 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch Còn tại Sài Gòn - vốn được mệnh danh là “Hòn ngọc của Viễn Đông” cũng được người Pháp gia công để tạo nên một đô thị phồn hoa vào bậc nhất của xứ thuộc địa Đông Dương. Ngay sau khi người Pháp chiếm Sài Gòn - Gia Định lần thứ 2 (năm 1862), cùng với việc xây dựng đô thị, phát triển Sài Gòn thành thủ phủ của Nam Kỳ, chính quyền Pháp đã cho xây dựng nhiều công trình như Nhà Bưu Điện trung tâm, Nhà hát thành phố, Bệnh viện, Nhà thờ Đức Bà góp phần tạo nên bộ mặt kiến trúc đô thị Sài Gòn ngày nay. Ngoài ra, còn rất nhiều thành phố mà dấu ấn người Pháp để lại cũng không kém phần độc đáo và sâu sắc như Nam Định, Hải Phòng Tuy nhiên, thông qua quá trình du nhập các phong cách kiến trúc châu Âu do các kiến trúc sư người Pháp mang vào Việt Nam có thể nhận thấy một điều rất nổi bật rằng ít có công trình nào ở Việt Nam mang một phong cách thuần túy mà thường là có sự pha trộn nhiều phong cách kiến trúc khác nhau. Có thể thấy người Pháp đã mang những phong cách kiến trúc sau vào nước ta trong quá trình khai thác thuộc địa của họ: - Kiến trúc theo phong cách Roman: Được thấy ở Việt Nam chủ yếu trong kiến trúc thuộc Thiên chúa giáo như nhà thờ, nhà tu, trường dòng được xây dựng ở nhiều thành phố và làng xóm trong khắp cả nước. Công trình Roman đẹp nhất xây dựng ở nước ta là Nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn, sau này vào năm 1960 được Toà thánh La Mã phong cho tên gọi là “Vương Cung Thánh Đường”. Nhà thờ do kiến trúc sư Jules Bourard thiết kế năm 1880. - Kiến trúc theo phong cách Gothic: Chỉ thấy chủ yếu ở nhà thờ và nhà tu, trường dòng, không như ở châu Âu còn thấy ở các công trình công cộng, các lâu đài vua chúa và nhà ở thường dân. Công trình tiêu biểu là nhà thờ Lớn Hà Nội được xây dựng với phong cách Gothic nguyên thủy nghiêm ngặt với những vòm cuốn nhọn nhưng cũng được tinh giản nhiều: cửa sổ hoa hồng nhỏ, trang trí tượng rất ít, ở mặt chính chỉ có duy nhất 1 tượng thánh, còn lại tất cả các hốc tường đều là những cửa sổ hẹp hình tên. Vì là một nhà thờ nhỏ nên yếu tố cuốn chống - một yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống kiến tạo Gothic không được áp dụng. Ngôi nhà thờ theo phong cách Gothic lớn nhất ở nước ta là nhà thờ Phú Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 25 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch Nhai xây dựng năm 1911 tại huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. - Phong cách trại lính: Là loại công trình do thực dân Pháp xây dựng ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX, dùng chủ yếu cho quân đội như trại lính, nhà của sĩ quan và một số công trình công cộng khác như bệnh viện, trường học Đây là loại kiến trúc đơn giản “với quan niệm một kiểu kiến trúc nhiệt đới thô sơ thời bấy giờ”. Các công trình đều có chung một dạng mặt bằng hình chữ nhật, có hành lang chạy chung quanh cả 4 mặt. Hành lang rộng từ 2.5 đến 3.5m. Bước cột từ 4 - 5m, cửa cuốn gạch hình cung hay bán cầu có khóa vòm, đôi khi dùng cuốn thép hình. Sàn dùng thép hình IPN là dầm đỡ, trên cuốn gạch, mái ngói tây, ngói đá hay lợp tôn. - Kiến trúc cổ đại Hy Lạp - La Mã và Phục hưng: Ở nước ta không có công trình kiến trúc nào được làm đúng theo kiểu kiến trúc cổ điển Hy Lạp - La Mã nhưng việc sử dụng những hệ thống thức kiến trúc cổ điển rất phổ biến dưới các hình thức kiến trúc Phục hưng, chủ nghĩa cổ điển Pháp, phong cách Baroc và các dạng chiết trung. Các công trình kiến trúc cổ điển này rất nhiều và hầu hết là những tòa lâu đài công quyền đồ sộ, hoành tráng, sử dụng cho quan chức cao cấp trong chính quyền thuộc địa. Tại Hà Nội, Tòa án tối cao ở đường Lý Thường Kiệt là một tác phẩm mang phong cách Hy Lạp với hệ cột Doric, do kiến trúc sư Henry Vildieu xây dựng năm 1906. Phủ Toàn quyền, nay là Phủ Chủ tịch, được xây dựng theo phong cách Phục hưng có điểm thêm những nét Baroque (cầu thang ngoài trời cong, tay vịn cong, bậc cong; cửa sổ mắt bò hình bầu dục) do kiến trúc sư Charles Lichtenfelder xây dựng năm 1907. - Phong cách Baroque: Những công trình lớn làm theo phong cách này không nhiều nhưng nó lại rất phổ biến trong kiến trúc các nhà dân ở đô thị, thậm chí ở ngoại thành những thành phố lớn. (UBND thành phố Hồ Chí Minh). - Phong cách cổ điển Pháp: Từ những năm đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp xây dựng ở nước ta nhiều công trình lớn mang phong cách cổ điển Pháp, đồ sộ, nghiêm trang, đứng đắn nhưng nhiều khi lạnh lùng, thậm chí thiếu linh hồn. Tiêu biểu cho loại kiến trúc này là Tòa án tối cao ở Hà Nội, xây dựng năm 1920 theo bản thiết kế bên Pháp đưa sang và ga Hà Nội. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 26 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch Tính chất phong cách cổ điển Pháp của công trình Tòa án tối cao được thể hiện ở sự nghiêm ngặt mang tính lí trí, minh mẫn của phong cách cổ điển Hy Lạp nhưng lại sử dụng thức Doric theo kiểu đại thức: cột Doric chạy suốt 2 tầng trên theo dạng nảy trụ. Một đặc trưng rõ rệt nhất là tầng Mansardo - tầng mái lợp ngói đá phiến đen, trên đó có nhiều cửa mái. Sự nghiêm ngặt của phong cách cổ điển Pháp ở công trình này có tính chất lạnh lùng phù hợp với chức năng của công trình. Ga Hà Nội có cổng vào chính là yếu tố Roman. Tuy có đôi chi tiết pha tạp, nhưng thực sự ga này trước đây là một công trình cổ điển Pháp nghiêm chỉnh, thực dụng, không có một chi tiết trang trí rườm rà nào. Những ga ở các tỉnh khác đều nhỏ hơn ga Hà Nội, thường theo phong cách cổ điển Pháp nhưng rất đơn giản và thực dụng. Ngoài ra, Tòa Bắc Bộ phủ trên đường Ngô Quyền, do kiến trúc sư Adolphe Bussy xây dựng năm 1919 cũng theo phong cách Cổ điển Pháp, mái măngxác (Mansardo), mái đơn hình lưỡi trai bằng kính và thép theo kiến trúc Modern của Hector Guimard. Viện Radium nay là Bệnh viện K, cũng là một tác phẩm Cổ điển Pháp với hàng cột Toscan do kiến trúc sư Charles Delpech xây dựng năm 1927. - Phong cách Rococo: Chỉ còn để lại dấu ấn trên một công trình duy nhất, đó là tòa thị chính Sài Gòn, nay là Trụ sở UBND thành phố Hồ Chí Minh do kiến trúc sư Paul Gardès xây dựng vào năm 1907. Toà nhà là một công trình lộng lẫy sang trọng và diêm dúa với nhiều trang trí cầu kỳ, một tài sản quý giá cho kho tàng kiến trúc. - Kiến trúc hiện đại: Ở đây chủ yếu nói đến trào lưu Modern, ở Pháp còn có tên là Art Nouvean hay Art Deco. Lúc đó vật liệu mới như sắt thép, xi măng và bê tông cốt thép đã được người Pháp mang sử dựng ở Việt Nam. Đơn giản nhất là những ngôi nhà kiểu trại lính, hay nhà sĩ quan, cao hai tầng có hành lang bao quanh cho mát và dễ vận động khi có sự cố; hình khối đơn giản, khỏe mạnh, cửa sổ và cửa đi rộng, kết cấu thép gang và bêtông cốt thép được sử dụng nhưng hầu hết còn ẩn giấu trong tường gạch. Trào lưu này ảnh hưởng đến Việt Nam chủ yếu thông qua các công trình do kiến trúc sư Pháp thiết kế. Vào những năm Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 27 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch đầu thế kỉ XX, trào lưu này rất thịnh hành ở phương Tây. Các kiến trúc sư Pháp đang dạy tại trường Cao đẳng mĩ thuật Hà Nội đã truyền lại cho sinh viên Việt Nam tư tưởng của trào lưu này. Trào lưu này đã truyền sang ta một thành phần kiến trúc độc đáo là mái hắt lưỡi trai bằng khung kim loại lợp kính màu, phát minh của kiến trúc sư Modern nổi tiếng ở Pháp đầu thế kỉ XX là Hecto Guimard. Mái hắt này có ưu điểm che mưa, nắng gắt, có thể làm lớn, chìa ra xa mà vẫn nhẹ nhàng, không gây tối vì lớp kính mờ có màu sắc nhẹ (vàng, xanh). Kèm với mái hắt này thường là các con sơn bằng thép uốn thành nhành lá phức tạp và các hoa văn cây lá đắp nổi trên tường. Ở những ngôi nhà nhỏ do dân làm ở thành thị thường có những hoa văn Modern đơn giản đắp trên tường chắn mái, trên trán nhà như hình mặt trời có tia nắng chiếu ra, các hình quả trám lồng nhau ghi số năm xây dựng. Trào lưu Modern mang đến cho nước ta hình thức kiến trúc hiện đại châu Âu là các nhà hình hộp, sử dụng vật liệu hiện đại bêtông cốt thép, không có các môtip trang trí cổ điển phương Tây liên quan đến hệ thống “thức” Hy Lạp - La Mã, sử dụng một số đường cong và một số hoa văn. Nó là bước khởi đầu của chủ nghĩa công năng. Ví dụ rõ rệt nhất là nhà Bảo tàng Quân đội ở cạnh Cột cờ trong Hoàng Thành Hà Nội. Sắt thép bắt đầu được dùng xây dựng cầu Long Biên năm 1902, cây cầu dài nhất thế giới đầu thế kỷ XX, do Gustave Eiffel thiết kế và hãng Daydé et Pillé xây dựng; chợ Đồng Xuân với khung sắt cao 19m, dài 52m, kiến trúc sư Adolphe Debussy xây dựng năm 1906. Trong những công trình kiến trúc mới, có tác phẩm Tân Cổ điển tuyệt đẹp là Ngân hàng Quốc gia do kiến trúc sư Felix Dumail xây dựng năm 1930. Công trình này có nhịp điệu và bố cục cổ điển, nhưng được diễn đạt một cách hiện đại bằng hình khối chắc khỏe, vật liệu đá đẹp. Nội thất là một không gian rộng mênh mông với hệ thống ánh sáng chiếu từ trên mái xuống. Một công trình mang phong cách Modern khác là nhà Bưu điện tại góc phố Đinh Tiên Hoàng và Đinh Lễ ngay bờ hồ Hoàn Kiếm do kiến trúc sư Henri Cerutti xây dựng năm 1942, ngôi nhà không lớn nhưng rất đẹp, bố cục chặt chẽ, đường nét hiện đại, mặc dầu đã trải qua 70 năm mà vẫn Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 28 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch không hề lạc hậu. - Kiến trúc dân gian Pháp: Người Pháp sống ở xứ thuộc địa luôn luôn nhớ nhà, nên họ thường làm các ngôi nhà ở mang phong cách địa phương nơi họ sinh trưởng. Đó là những ngôi nhà vùng quê hay thị trấn nhỏ, thường là ở xứ lạnh, nên có lò sưởi, ống khói đưa lên tận trên mái. Mái lợp ngói có độ dốc lớn để tránh tuyết đọng và ở hồi nhà thường có mái gập đầu ở hồi nhà, một kiểu mái khá đặc trưng của nước Pháp và một vài nước châu Âu khác. Những ngôi nhà này thường được làm ở những vùng có khí hậu lạnh ở nước ta như Đà Lạt. - Kiến trúc biệt thự kiểu phương Tây: Một loại kiến trúc thấy nhiều ở các khu ở thành phố và các khu nghỉ mát được làm trong thời gian thuộc địa Pháp là các biệt thự làm cho người Pháp (và đôi khi cho một số ít người Việt Nam giàu có). Những biệt thự này vô cùng đa dạng, gần như không có 2 ngôi nhà giống nhau nhưng hầu hết đều có sân vườn, gara ôtô, ở trong nhà có phòng khách, các phòng ngủ, phòng ăn và các khu vực phục vụ tiện nghi cao. Các loại biệt thự Pháp được xây dựng theo 2 kiểu: phong cách hiện đại và phong cách dân gian Pháp. Theo phong cách dân gian thì mang phong cách kiến trúc của nhiều địa phương nước Pháp. - Phong cách kiến trúc Đông Dƣơng: Tất cả những loại trên đều là kiến trúc có sẵn của nước Pháp và của châu Âu, riêng kiến trúc gọi là phong cách Đông Dương là một loại kiến trúc mới do người Pháp ở nước ta sáng tác. Đầu những 1920, các kiến trúc sư người Pháp cùng với thế hệ kiến trúc sư đẩu tiên của Việt Nam tốt nghiệp trường cao đẳng mĩ thuật Đông Dương đã mầy mò, đúc kết giữa kiến trúc bản địa với kiến trúc Pháp thuộc để làm nên nét văn hóa tiêu biểu của nền kiến trúc Đông Dương. Cải tiến các kiến trúc Pháp theo hướng dân tộc hóa, họ đưa các chi tiết mái ngói, mái bát giác, mái hiên, ô văng, cửa tò vò tạo nên một nét kiến trúc bình dị, gần gũi với người dân bản địa. Vì sao ra đời theo phong cách này? Có ba lý do: Thứ nhất, những kiến trúc mang từ Pháp sang sau một số năm thì bộc lộ nhiều bất cập, nhất là không phù hợp với khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, gió mạnh Thứ hai vào lúc đó, vào những năm 30-40 của thế kỷ XX, ảnh hưởng Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 29 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch của Nhật Bản với thuyết Đại Đông Á đang lan tràn, ảnh hưởng của Pháp ở Việt Nam giảm sút. Để tranh thủ được lòng dân, để thân thiện hơn với Việt Nam, một số kiến trúc sư Pháp dạy tại Trường Mỹ thuật Đông Dương nghĩ cách thiết kế những công trình mang tính chất Việt Nam để lấy lại lòng tin của dân Việt. Người có công nhất trong việc sáng lập ra phong cách kiến trúc này là Ernest Hébrard, giáo sư của Trường Mỹ thuật Đông Dương, một viên chức cao cấp được chính phủ Pháp đưa sang để phụ trách công việc quy hoạch và kiến trúc của ba nước Đông Dương. Ông là kiến trúc sư nổi tiếng đã có giải thưởng Prix de Rome. Ông gọi phong cách kiến trúc này là phong cách kiến trúc Đông Dương (Style indochinois). Thực chất đây là một phong cách chiết trung châu Á, không chỉ có chi tiết của ba nước Đông Dương mà có cả chi tiết kiến trúc Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan Hérbrard sử dụng phong cách kiến trúc Đông Dương rất sáng tạo và đã để lại những công trình rất có giá trị nghệ thuật. Bảo tàng Louis Finot nay là Bảo tàng Lịch sử là một công trình đẹp. Từ rất xa, trên cầu Long Biên đi từ Gia Lâm sang Hà Nội đã thấy toà tháp của Bảo tàng. Ở đây có sự pha trộn kiến trúc Việt Nam, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, nhưng rất nhuần nhuyễn như một loại phong cách châu Á thuần nhất, nhiều chi tiết sáng tạo như hệ thống mái hắt hạ thấp xuống tạo hệ thống thông gió sát trần. Hệ thống mái chồng diêm thấp như là cổ diêm nhưng lại dùng để thông gió Cùng năm 1931 ông xây dựng Trụ sở Tài chính, nay là Bộ Ngoại giao. Công trình này có hệ thống mái phức tạp, phong phú làm theo kiểu mái Việt Nam, nhưng có hệ thống ống thông hơi và ống khói lò sưởi rất đa dạng. Ngôi nhà được giải quyết thông gió tốt, nên ngay cả trong những ngày nóng bức nhất, ở đây vẫn mát mà không hề có hệ thống điều hòa khí hậu. Trường đại học Đông Dương (nay là Đại học Dược) cũng được Hébrard xây dựng năm 1927, là công trình đồ sộ có nhiều chi tiết kiến trúc Việt Nam. Ông cũng xây dựng ngôi nhà thờ Cửa Bắc ở Hà Nội với sự kết hợp khéo léo hệ thống mái ngói Việt Nam với những cột và vòm cuốn Roman tạo thành một nhà thờ Thiên chúa giáo có nhiều tính chất kiến trúc Việt Nam và châu Á. Viện Pasteur do Hébrard xây dựng năm 1924 lại có một chi tiết khác thường là một gác chuông treo ba quả chuông nhỏ đặt trên một mái ngói Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 30 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch gập đầu (chi tiết kiến trúc dân gian Pháp) dưới đó là cái đồng hồ hình tròn. Tất cả những công trình do Hébrard thiết kế đều rất chú trọng hệ thống thông thoáng gió nên những ngôi nhà này rất mát. Một giáo sư khác của Trường Mỹ thuật Đông Dương, kiến trúc sư Arthur Kruze, cũng để lại một số công trình kiến trúc ở Hà Nội làm theo phong cách Đông Dương rất đặc sắc. Đó là Trụ sở UBTDTT ở phố Trần Phú; Toà soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội ở số 4 Lý Nam Đế; Nhà biệt thự của bá tước Didelot tại dốc Ngọc Hà Hệ thống bốn ngôi nhà ba tầng lớn trong Đại học Bách Khoa của các kiến trúc sư Louis Chauchon, Gilles và Masson làm năm 1942 cũng gây ảnh hưởng rất lớn trong giới kiến trúc, vì đó là những ngôi nhà nhiều tầng nhưng lại lợp mái ngói có dáng dấp Việt Nam mà lại hiện đại. [2] Như vậy có thể thấy mục đích đầu tiên của người Pháp sang Việt Nam là để cai trị đất nước ta, bóc lột nhân dân ta. Trong quá trình cai trị, để phục vụ cho chính sách bóc lột thuộc địa, họ đã xây dựng nhiều tỉnh, thành Việt Nam theo những mô hình đô thị thuộc địa mà họ mong muốn. Nhưng bên cạnh mục đích đó, không thể phủ nhận rằng thông qua các công trình kiến trúc Pháp mà họ đã cho xây dựng ở Việt Nam, người Pháp cũng đã làm được nhều điều cho văn hóa và lịch sử của dân tộc. Trước hết, lần đầu tiên, chúng ta có thiết kế bản vẽ kiến trúc, có thiết kế quy hoạch đô thị, có thiết kế hạ tầng kỹ thuật đô thị. Chúng ta có những bài học sống động về quy hoạch đô thị, về kiến trúc công trình và được tiếp xúc với một nền văn minh lúc đó vào bậc nhất thế giới. Thứ hai, lần đầu tiên chúng ta có trường đại học đào tạo kiến trúc sư theo chương trình hiện đại của nước Pháp5. Số kiến trúc sư này chừng 50 người đã phát huy thế mạnh của mình là thế hệ kiến trúc sư đầu tiên của Việt Nam, đặt nền móng cho việc thiết kế và xây dựng đất nước một cách khoa học. Thứ ba, các kiến trúc sư Pháp đã để lại một số lượng đáng kể những công 5 Năm 1925, người Pháp cho thành lập ở Hà Nội trường Cao đẳng mĩ thuật duy nhất trong số các thuộc địa của họ. Năm 1927, ra đời khoa kiến trúc do các giảng viên là các kiến trúc sư người Pháp điều hành. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 31 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch trình kiến trúc có giá trị to lớn, chúng trở thành tài sản quý giá của nhân dân ta. Cũng qua những công trình kiến trúc này, chúng ta tiếp xúc được với nền văn minh chung của nhân loại. Thứ tư, người Pháp đã để lại cho chúng ta những khu phố đẹp, như phố Phan Đình Phùng toàn nhà biệt thự nhỏ trong vườn cây xanh ở Hà Nội; một thành phố Đà Lạt với rất nhiều biệt thự mang phong cách địa phương nước Pháp và những biệt thự hiện đại. Họ để lại những bài học tế nhị khi xử lý các công trình quanh Hồ Gươm. Với quyền lực Toàn quyền Đông Dương hay Công sứ Bắc Kỳ, họ có quyền làm những công trình rất đồ sộ, vậy mà tòa Thị chính Hà Nội chỉ là một ngôi nhà 2 tầng nhỏ bé lùi sâu vào trong, xa bờ Hồ. Còn công trình Ngân hàng Đông Dương và Bắc Bộ phủ hay khách sạn Metropolitain thì nằm sâu tận phố Ngô Quyền sau vườn hoa Chí Linh. Tất cả để tránh phương hại đến hồ Hoàn Kiếm mà khi ấy đã bị thu nhỏ lại. Một bài học nữa, họ không phá các phố cổ Hà Nội mà để nguyên nó như vậy, làm một hệ thống đường phố mới kẻ ô vuông theo quy hoạch Hy Lạp Hypodamus về phía Nam thành phố Thứ năm, người Pháp đã đưa vào nước ta vật liệu và kỹ thuật xây dựng hiện đại như cầu Long Biên, chợ Đồng Xuân. Nhiều công trình lớn ở Hà Nội, lăng Khải Định ở Huế được xây dựng bằng bê tông cốt thép. Thứ sáu, phong cách kiến trúc Đông Dương là một sáng tạo của các kiến trúc sư Pháp, đã để lại cho chúng ta rất nhiều công trình đẹp. Phong cách này đã góp phần tôn vinh nghệ thuật kiến trúc dân tộc, mặc dù nó còn nhiều điểm chiết trung, pha trộn (vì người Pháp không sành kiến trúc cổ điển Việt Nam), nhưng nó đã khích lệ các kiến trúc sư Việt Nam, sinh viên của Trường Mỹ thuật Đông Dương tiếp tục đi theo con đường nghệ thuật dân tộc. Nhưng không phải là trong kiến trúc, người Pháp chỉ toàn làm điều tốt. Chẳng hạn như, họ đã phá thành Hà Nội, phá tất cả mọi công trình, chỉ để lại cổng phía Bắc với một vết đạn đại bác; họ đã phá toàn bộ 19 cổng ngăn các phường với nhau của khu phố cổ 36 phố phường để mở đường cho ô tô đi được; họ cũng đã để lại một đô thị phân biệt giàu nghèo một cách rõ rệt như các đô thị phương Tây và châu Mỹ La tinh với một bên là những dãy phố Tây khang trang, Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 32 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch sạch sẽ, giàu có còn một bên là những khu phố nghèo khổ xơ xác tăm tối [2] Dẫu sao, người Pháp cũng đã để lại trên đất nước ta một di sản kiến trúc có giá trị, đó là một tài sản quý. Thái độ của chúng ta là cần phải trân trọng, giữ gìn và sử dụng chúng phù hợp trong tình hình mới, cần phát huy tác dụng của những công trình kiến trúc này sao cho có lợi nhất. 1.2.2. Quá trình du nhập của kiến trúc Pháp vào Hải Phòng Năm 1874, thực dân Pháp chiếm Hải Phòng. Thành phố Hải Phòng chính thức thành lập theo sắc lệnh ngày 19/07/1888 của Tổng thống Pháp và được xếp loại thành phố cấp I ngang với thành phố Hà Nội và thành phố Sài Gòn, mặc dù lúc ấy thành phố mới bắt đầu triển khai xây dựng trên cơ sở bến Ninh Hải. Thi hành sắc lệnh trên, ngày 01/10/1888, vua Đồng Khánh ra sắc dụ nhượng hẳn thành phố Hải Phòng cho Pháp. Hơn hai tháng sau, ngày 20/01/1889, Thống sứ Bắc kì kí nghị định xác lập giới hạn của thành phố Hải Phòng như sau: Trên hữu ngạn sông Cửa Cấm: Đường ngoại vi từ chỗ giao điểm với sông Cửa Cấm đến đoạn cắt dự kiến của sông Lạch Tray. Bờ phía phải của đoạn cắt dự kiến sông Lạch Tray từ đường ngoại vi nói trên đến sông Tam Bạc. Đường ngoại vi dự kiến ở khoảng giữa sông Tam Bạc và sông Cửa Cấm theo chiều kéo dài của đoạn cắt sông Lạch Tray ngang qua địa phận Hạ Lý. Trên tả ngạn sông Cửa Cấm: Đường giao thông sẽ lập giữa sông Cửa Cấm và đường ngoại vi Cửa Cấm. Đường ngoại vi bờ trái sông Cửa Cấm đến Vàng Châu. Đường này dự kiến sẽ ở quãng cách trung bình 400m của bờ trái sông Cửa Cấm. Vàng Châu. Do nhu cầu phát triển nhanh của thành phố, ngày 16/12/1901, Thống sứ Bắc Kì lại ra nghị định tách các xã nằm trong địa giới sau của tỉnh Phù Liễn (năm 1906 đổi là tỉnh Kiến An) để lập khu ngoại ô thành phố Hải Phòng: Sông Cửa Cấm đến chỗ hợp lưu với sông Lạch Tray. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 33 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch Sông Lạch Tray từ chỗ hợp lưu đó đến đoạn cắt sông này. Một đường vạch theo địa giới hiện tại của xã Trang Quán (tổng An Dương) đi qua sông Tam Bạc sang sông Cửa Cấm theo địa giới tổng Lạc Viên. Đến 31/12/1921, ngoại ô thành phố lại được mở rộng lần nữa bằng cách tách khỏi địa bàn tỉnh Kiến An, thị trấn Đồ Sơn và dải đất phía Bắc, phía Đông giáp cửa sông Lạch Tray và biển; phía Nam giáp biển Đông và sông Sàng, con ngòi dưới cầu km 17 chảy vào sông Sàng và bờ Tây Nam đường Hải Phòng - Đồ Sơn, trừ đoạn đi qua xã Quí Kim (trong khu vực này, địa giới sát nhập trùng với địa giới xã Quí Kim), phía Tây trùm lên đường Hải Phòng - Đồ Sơn. Nhưng đến ngày 29/02/1924, chính quyền Pháp lại bãi bỏ khu vực ngoại ô mở rộng đợt sau và trả lại tỉnh Kiến An phần đất đó. Những xã trả lại cho tỉnh Kiến An để thành lập huyện Hải An và khôi phục thị trấn Đồ Sơn. Tuy vậy thỉnh thoảng do nhu cầu, chính quyền đô hộ vẫn cắt xén thêm đất đai của các xã ven nội để sát nhập vào nội châu. Đến tháng Tám 1945, thành phố nhượng địa này đã mở rộng đến 18,18km2 so với khi kí Hòa ước Giáp Tuất (1874), triều đình Huế chỉ nhượng 5 mẫu quan điền xích, tương đương 2ha. Thời thuộc Pháp, nội thành Hải Phòng năm 1901 được chia làm 4 hộ (quartier): Đệ nhất hộ gồm làng Gia Viên, giới hạn bởi sông Cửa Cấm, đường đồn binh An Nam (phố Lê Lai), đường Quần Ngựa, đường Paul Doumer (Cầu Đất), đường Bonnal (Nguyễn Đức Cảnh và Trần Phú). Đệ nhị hộ gồm làng An Biên, giới hạn bởi đường Bonnal, đường Paul Doumer, đường Sadi Carnot (Tô Hiệu), sông đào Lạch Tray và sông Tam Bạc. Đệ tam hộ gồm làng Hạ Lí, khu xưởng thợ, giới hạn bởi sông Cửa Cấm, sông Tam Bạc đến trại Pháo thủ và kênh đào Hạ Lí. Đệ tứ hộ gồm làng Hạ Lí, khu vực chợ, giới hạn bởi sông Tam Bạc từ trại Pháo thủ và kênh đào Hạ Lí. Đến tháng 11/1931, Đốc lí Hải Phòng lại điều chỉnh địa giới các hộ cũ và chia nội thành thành 7 hộ: Đệ nhất hộ giới hạn bởi đường đồn binh An Nam, đường Belgique (Lê Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 34 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch Lợi), đường Paul Doumer, đường Chavassieux (Quang Trung và Trần Hưng Đạo) và sông Cửa Cấm. Đệ nhị hộ giới hạn bởi đường Sadi Carnot (Tô Hiệu), đoạn cắt sông Lạch Tray, sông Tam Bạc, đường Bonnal và đường P.Doumer. Đệ tam hộ là toàn bộ đảo Hạ Lí (Ilôt de Hạ Lí). Đệ tứ hộ giới hạn bởi sông Cửa Cấm, kênh đào Hạ Lí, sông Tam Bạc và địa giới phía Tây thành phố. Đệ ngũ hộ giới hạn bởi sông Lạch Tray, sông đào Lạch Tray, đường Sadi Carnot, đường Lạch Tray và địa giới phía Nam thành phố từ đường Lạch Tray tới sông Lạch Tray. Đệ lục hộ giới hạn bởi đường Lạch Tray, đường đồn binh An Nam, sông Cấm và địa giới phía Đông và Đông Nam thành phố từ cửa Cấm đến đường Lạch Tray. Đệ thất hộ gồm đất của thành phố ở tả ngạn sông Cấm (kể cả những dân đánh cá và sống trên sông Cấm). [6; 13-16]. Như vậy có thể thấy hình thái cảng thị Hải Phòng ban đầu tương đương như các đô thị cổ châu Âu đã có trước đó với tổ chức mạng lưới đường phố theo kiểu ô cờ, dạng tự do, bám chặt, chạy dài theo dòng sông. Thành phố Hải Phòng mang đậm dấu ấn kiến trúc thuộc địa của Pháp. Kiến trúc của Hải Phòng rất giống Hà Nội dưới thời Pháp thuộc về tổng thể, chỉ nhỏ hơn về quy mô. Nơi được đô thị hóa đầu tiên là vùng ven sông Tam Bạc (nay thuộc địa bàn các phường Quang Trung, Phan Bội Châu, Phạm Hồng Thái - quận Hồng Bàng) bởi vị trí thuận lợi trên bến dưới thuyền của nó. Cư dân có nhiều người từ nơi khác đến, trong đó có khá đông Hoa kiều. Tiếp theo, người Pháp cho xây dựng ở đây nhiều công trình quan trọng như đào sông Bonal, làm cầu cảng, dựng đèn biển ở Long Châu, Hòn Dáu, xây dựng nhà máy xi măng, đặt đường ống dẫn nước ngọt từ Uông Bí về (1898). Năm 1876, chính quyền bảo hộ mở Bưu cục Hải Phòng, đến năm 1904, mạng lưới điện thoại nội thành Hà Nội - Hải Phòng được đưa vào khai thác, lúc ấy bưu điện Hải Phòng là một trong bốn bưu cục hiện đại của cả nước. Về điện Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 35 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch năng, Hải Phòng dùng điện sớm nhất Bắc Kỳ, trước Hà Nội 2 năm. Ngày 1/2/1893, trạm điện đầu tiên bắt đầu cung cấp điện thắp sáng, nhưng công suất chỉ đủ dùng cho dưới 2000 bóng đèn 15W. Mấy năm sau, nhà máy điện Cửa Cấm được xây dựng, tạm thời cung cấp điện đủ dùng cho toàn thành phố trong thời kỳ thuộc Pháp. Trong những năm 1925 - 1926, người Pháp xây thêm nhiều nhà máy, xí nghiệp trên Cửa Cấm, Thượng Lí, mở rộng cảng Hải Phòng. Đô thị Hải Phòng thời kì này phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa thực dân. Di sản tiêu cực của thời kì này là chế độ thực dân áp bức, còn di sản tích cực có thể kế thừa là kinh nghiệm khoa học trong quản lí đô thị của người Pháp. Từ 1943, thành phố được xây dựng theo kế hoạch chỉ đạo của kiến trúc sư Pineon. Đồ án của Pi có vai trò tích cực trong quản lí phát triển đô thị, phản ánh sự phân tầng của giai cấp trong không gian đô thị. Phần phía bắc trục đường Tô Hiệu, Lê Lợi ngày nay chủ yếu được xây dựng theo đồ án này. Nhìn chung, khi xây dựng đô thị Hải Phòng, người Pháp có những tính toán rất kỹ lưỡng để vừa phù hợp với mục đích cai trị và bóc lột thuộc địa của họ vừa phù hợp với những đặc điểm địa lý tự nhiên và dân cư riêng của thành phố. Khi mới tiếp nhận khu nhượng địa, việc đầu tiên họ làm là xây dựng các đồn binh và trụ sở hành chính (cơ quan công quyền, tòa án, nhà tù) để tiện bề cai trị. Sau khi đã chiếm toàn bộ Hải Phòng và đã chắc chân ở đây, họ bắt đầu xây dựng hệ thống công trình phục vụ cho mục đích ở lại và khai thác thuộc địa lâu dài. Lợi thế về địa lý của Hải Phòng cho phép hình thành các bến Cảng, nhà Ga và sân bay Không cần nói cũng rõ giao thông có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, và đặc biệt là với quá trình khai thác thuộc địa Sân bay Cát Bi còn có vai trò quân sự lớn khi nó nỗ trợ cho Điện Biên. Tiếp theo, họ xây dựng bưu điện để đảm bảo thông tin liên lạc một cách thông suốt và cùng với đó là các khu phố thương mại, hệ thống ngân hàng Giải quyết xong cơ sở hạ tầng, người Pháp bắt đầu tính đến việc xây dựng những công trình khác như trường học (mục đích để đào tạo nhân lực cho chính quyền đô hộ, để truyền bá ảnh hưởng tư tưởng và văn hóa Pháp) và hàng loạt các công trình phục vụ cho mục đích giải trí của chính quyền thực dân và tầng lớp thượng lưu như nhà Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 36 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch hát, rạp chiếu bóng, khách sạn Nói chung từ các vấn đề liên quan tới chuyện lớn như cai trị hay chuyện nhỏ như giải trí, thưởng thức nghệ thuật đều được người Pháp chú trọng và quy hoạch đâu ra đó, mọi nhu cầu của cuộc sống đều được xem xét và có công trình tương ứng. Hải Phòng khi đó giống như một góc thu nhỏ của nước Pháp vậy. Trở lại vấn đề kiến trúc Pháp, chúng ta không thể không nhắc tới sự thông minh của người Pháp khi đặt nhà máy xi măng tại Hải Phòng. Để đáp ứng việc xây một nước Pháp tại Việt Nam thì vật liệu xây dựng trong đó có xi măng là một bài toán lớn. Lời giải cho bài toán này là ở Hải Phòng có nguồn nguyên liệu sẵn có: đá bên huyện Thủy Nguyên, bùn sông Cấm, than có thể lấy từ Quảng Ninh - tỉnh liền kề , sau khi sản xuất thành xi măng, từ Hải Phòng lại có thể lên tàu đi các nơi. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 37 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch Tiểu kết chƣơng 1 Trong chương 1, đề tài đã trình bày hai vấn đề chính, đó là lịch sử hình thành và phát triển của kiến trúc Pháp cũng như quá trình truyền bá kiến trúc Pháp vào Việt Nam và Hải Phòng. Nhìn chung, có thể nói, kiến trúc Pháp được hình thành và chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền kiến trúc cổ đại là Hy Lạp và La Mã. N đ , tuy nhiên bằng tài hoa của mình, họ đã mô thức mới mang đậm phong cách và tâm hồn Pháp, vừa phóng khoáng vừa chuẩn mực, vừa kiểu cách, hoa lệ lại vừa dân dã, thực dụng. Không chỉ có vậy, Pháp còn là một trong những nơi đi đầu trong việc tạo ra các phong cách kiến trúc mới như phong cách Gothic, phong cách Rococo Để rồi cho đến nay, n chiêm n . đã . Mặc dù mục đích của người Pháp khi xây dựng những công trình kiến trúc ấy, trước hết là để phục vụ cho công cuộc đô hộ thực dân của họ được thuận lợi. Song nếu bỏ qua mục đích đô thị hóa của chính quyền thực dân thì từ vẻ đẹp của các công trình cho đến sự tiện dụng, tính bền vững, sự bề thế, tính hoành tráng và đặc biệt là khả năng quy hoạch đô thị tổng thể của người Pháp, của kiến trúc Pháp nhìn chung vẫn đáng để cho chúng . Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 38 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch CHƢƠNG 2. CÁC CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC PHÁP TIÊU BIỂU Ở HẢI PHÒNG VÀ THỰC TRẠNG KHAI THÁC HIỆN NAY 2.1. Các công trình kiến trúc Pháp tiêu biểu ở Hải Phòng 2.1.1. Kiến trúc Hành chính - Thương mại 2.1.1.1. Các công trình kiến trúc hành chính - thương mại trên phố Điện Biên Phủ Phố Điện Biên Phủ trước đây bao gồm Đại lộ Paul Bert6 (Boulevard Paul Bert) và phố Thống chế Joffre (Maréchal Joffre). Đại lộ Paul Bert từ cầu Lạc Long đến ngã tư giao với phố Trần Phú hiện nay, phố Thống chế Joffre là phần còn lại của phố Điện Biên Phủ. Phố thuộc đất xã Gia Viên cũ, trước giải phóng thuộc khu trung ương. Các công trình kiến trúc hành chính - thương mại quan trọng của thực dân Pháp trong thời kỳ này chủ yếu tập trung ở Đại lộ Paul Bert. Đây là phố đẹp và lớn nhất thành phố đồng thời cũng ra đời sớm. Do nằm sâu trong khu phố người Âu nên suốt thời Pháp thuộc, phố Paul Bert là nơi thực dân Pháp rất chú ý lo giữ an ninh chính trị, an toàn xã hội. Dân lao động ít khi đến phố này. Trên phố có nhiều cơ sở kinh tế quan trọng, nhiều ngân hàng, khách sạn lớn. Về các cơ sở kinh tế và thương mại có: Công ti vận tải đường biển (Messageries), thường gọi là hãng đầu ngựa vì biểu tượng của hãng vẽ mỏ neo, giữa nổi hình đầu con ngựa; trụ sở chính của hãng đặt ở Marselles nước Pháp và được thành lập năm 1851. Cơ sở của hãng này ở Hải Phòng, nay là cửa hàng nông sản thực phẩm, đối diện với cửa hàng Bách hóa tổng hợp. Cũng về vận tải đường biển còn có công ti vận tải liên hiệp Chargeurs Réunis, nhân dân ta thường gọi là hãng Năm Sao vì hãng trương cờ màu trắng ngà, giữa có một ngôi sao đỏ, châu tuần 4 góc 4 ngôi sao đỏ. Cơ sở của hãng nay là trụ sở của Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải. Đây là hai hãng vận tải biển lớn nhất Hải 6 Paul Bert (1833-1886) là Tổng trú sứ dân sự đầu tiên ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ (tháng 1-11/1886), là người đã quyết định thành lập Phòng Thương mại Hải Phòng, cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc hoạt động kinh doanh và phát triển vùng duyên hải từ Hà Tĩnh ra Bắc. Thống chế Joffre (1852-1931), sĩ quan Pháp tham gia xâm lược Bắc Kỳ. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 39 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch Phòng lúc đó. Các cơ sở thương mại khác ở phố này thời Pháp thuộc còn có: hãng bảo hiểm Phôven (Fauvel), nhà in Viễn Đông IDEO, nằm bên kia đường đối diện với khách sạn Commerce, hãng Opto (Optorg), hiệu thuốc Brútmít (Pharmacie Brusmith), nay là hiệu thuốc Hồng Bàng. Thuộc về các ông chủ Hoa kiều có hãng Yuen Tai Ling (Nguyễn Thế Lâm), là người Trung Quốc đến kinh doanh thương mại sớm nhất tại Hải Phòng, vào năm 1875, hãng có chi nhánh ở Hồng Gai, trụ sở đặt ở số 11 - 13 - 15 Paul Bert. Về các ngân hàng, có nhà băng Anh, nay là trụ sở của Liên đoàn lao động thành phố; Pháp - Hoa ngân hàng, nay là Bảo tàng thành phố, là tòa nhà có kiến trúc kiểu Gothic được xây dựng vào năm 1919 trên diện tích rộng gần 1 ha, bao quanh bảo tàng là một hàng rào mô phỏng một loại vũ khí của các hiệp sĩ thời trung cổ; Địa ốc ngân hàng (Crédit Foncier), nay là Ngân hàng Công thương. Về các khách sạn có Ôten Pari (Pari), nay là khách sạn Điện Biên, Ôten Commec (Commerce), nay giữ nguyên tên, có thời kì gọi là khách sạn Hữu Nghị; Ôten Palat (Palace), Ôten LaPe (La Paix); khách sạn Bạch Đằng hiện nay trước là nhà in Tôpanh (Topin); khách sạn Hồng Bàng nguyên là hiệu buôn vải lụa, quần áo của một phụ nữ Pháp tên là Girôđôn (Girodolle), trên các ô cửa sổ thời trang đều bày hàng hóa quảng cáo. Các cơ sở văn hóa có trường dạy đánh máy, kế toán, Anh ngữ ODACS, nay là cửa hàng Foserco, câu lạc bộ hội âm nhạc Philamônic (Filamonique), đặt ở Đình Cấm cũ, nay là nhà văn hóa lao động; rạp chiếu bóng Omnia, sau giải phóng gọi là rạp Cộng hòa rồi thành thư viện thiếu nhi thành phố, nay đã dỡ bỏ để xây mới; rạp Colibri sau giải phóng thành hiệu cắt tóc; rạp Club, sau giải phóng không còn. Trụ sở báo Courrie Hải Phòng nay là Công ti bông vải sợi, tầng dưới của tòa báo là nhà in IDEO. Cơ sở quân sự có trại Buê (Camp Bouet) nay là trụ sở Bộ tư lệnh Hải quân. [6; 78-81]. 2.1.1.2. Các công trình kiến trúc hành chính - thương mại trên phố Minh Khai Phố thuộc đất xã Gia Viên cũ, trước giải phóng thuộc khu Trung ương. Là phố nối từ Cảng cắt qua những đường phố quan trọng, Minh Khai có một vị trí Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 40 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch quan trọng về giao thông và kinh tế. Lúc mới mở, phố được gọi là phố Frăngxi Gácniê (Rue Francis Garnier)7. Sau cách mạng tháng Tám, phố được đổi gọi là Phan Đình Phùng. Năm 1953, phố mang tên Thống chế Đờ Lát đờ Tátxinhi (Rue Amiral De Lattre de Tassigny). Sau giải phóng, phố đổi gọi là phố Hoà Bình và từ năm 1963 mang tên Minh Khai như hiện nay. Thời Pháp thuộc, trên phố có nhiều cơ sở kinh tế, thương mại khá quan trọng như: Phòng thương mại Hải Phòng (Nay là Sở Văn hóa - Thông tin thành phố). Phòng được thành lập ngày 23/11/1884 với địa bàn hoạt động là các tỉnh, thành phố thuộc miền duyên hải Bắc - Trung kì. Sau đó năm 1909, ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh tách ra, đưa vào địa bàn hoạt động của Phòng thương mại Hà Nội. Điểm độc đáo của ngôi nhà này là tháp chuông được xây dựng vào năm 1895, với ba đồng hồ quay về 3 hướng tây, nam, bắc. Đồng hồ rung nhạc đổ chuông theo giờ, vì vậy nhân dân hay gọi đây là Nhà đồng hồ ba chuông. Đồng hồ cũ từ thời Pháp, nay hỏng, hiện đã được thay thế bằng đồng hồ mới. Trên phố có Hãng Descours Cabaud là hãng buôn lớn của Pháp, chuyên kinh doanh vật liệu kim khí, nay là cửa hàng Bách hóa tổng hợp Minh Khai; ngân hàng China (nay là trụ sở Mặt trận Tổ quốc thành phố, ban dân vận, liên hiệp các hội hữu nghị với nước ngoài). Trên phố có nhiều biệt thự được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trụ sở Ban Tuyên giáo Thành ủy cũ nguyên là toà nhà của viên quan một Pháp. Trụ sở Tổng lãnh sự quán Cộng hòa liên bang Nga vốn là biệt thự của chủ nhất nhà máy Xi - măng. Thời Pháp thuộc, phố này được coi là phố Tây nên người bản xứ ít ai qua lại. Phố đẹp và yên tĩnh mang kiến trúc Pháp rất rõ. [6; 170-171]. 2.1.2. Các công trình kiến trúc Văn hóa - Nghệ thuật 2.1.2.1. Nhà hát lớn thành phố Nhà hát Lớn thành phố nằm trên phố Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hồng Bàng ngày nay. Nhà hát thành phố nằm ở khu chính trung tâm nội thành, tiếp điểm của khu người Âu, khu người Hoa, khu người Việt theo qui hoạch đô thị 7 Francis Garnier (1839-1873), đại úy hải quân Pháp, chết tại trận Cầu Giấy năm 1873. De Lattre de Tassigny (1889-1952), Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 41 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch của chính quyền đô hộ. Năm 1900, Pháp đuổi chợ (chợ cổ của làng An Biên, trông ra ngòi Liêm Khê, có cầu, có quán, xung quanh có nhiều vườn hoa và cơ sở thương mại), lấy đất xây Nhà hát Lớn. Theo thiết kế, nguyên vật liệu xây dựng đều mang từ Pháp sang. Việc xây dựng do thợ Việt Nam thực hiện dưới sự chỉ đạo của kiến trúc sư Pháp (thiết kế theo kiểu các nhà hát của Pháp thời trung cổ). Quá trình xây dựng từ năm 1904 đến năm 1912 mới hoàn thành. Nhà hát lớn cao 2 tầng, mái vòm, có 100 cửa ra vào và cửa sổ, có hành lang, tiền sảnh, một sân khấu với khán phòng khoảng trên 600 ghế. Toàn bộ số ghế lô dành cho quan đầu tỉnh, cho khách danh dự. Bên phải, bên trái sân khấu là phòng trang điểm, phòng nghỉ của diễn viên, nhạc công. Phía sau có phòng khách lịch sự. Tiền sảnh rộng để đón khách có thể trưng bày tranh ảnh, triển lãm nhỏ. Hai bên tiền sảnh là hai phòng dùng làm nơi bán vé và căngtin. Hành lang rộng, chạy dọc suốt Nhà hát cả 2 tầng trên dưới. Ngoài cửa sổ kính, chớp, phía trong hành lang có cửa đệm bọc da để cách âm. Trần Nhà hát hình vòm, tạo tiếng vang và làm tôn chiều cao của Nhà hát. Vòm trần vẽ các lẵng hoa trang trí, ghi tên các nhạc sỹ, kịch sĩ châu Âu lừng danh như: Mozard, Betthoven, Molière, Corneille Thời Pháp thuộc, đây là nơi sinh hoạt chính trị, văn hóa của người Pháp và người giàu bản xứ. Thời ấy, chỉ những gánh hát từ Pháp sang hoặc những gánh hát nổi tiếng cả nước mới được biểu diễn ở đây. Đây cũng là nơi hàng năm phát phần thưởng cho học sinh giỏi. Phía trước Nhà hát có sân và vườn rộng 5.400m2, gọi chung là Quảng trường Nhà hát thành phố, có tên là Place Théâtre Municipale. Trên sân, Pháp trồng hai cột đèn bằng gang theo kiểu đèn cổ Tây Âu, trên đỉnh cột đèn có thanh ngang hai đầu treo đèn tròn bóng to; thân đèn bằng gang, chụp đèn bằng hợp kim có họa tiết hoa văn trang trí xung quanh. Đến năm 1985 mới dỡ bỏ hai cột đèn cũ thay bằng cột xi măng và đặt đèn ống huỳnh quang như hiện nay. Trước đây, ở mặt trước Nhà hát, hai bên có trang trí tượng thiếu nữ Pháp; xung quanh sân có bồn cỏ, trồng dừa và đặt một số ghế gỗ, nay không còn. Phía trước mặt nhà hát lớn là kênh đào Bonnal (sau này người dân Hải Phòng hay gọi là "sông Lấp” vì sau đó người Pháp đã lấp con sông và cho dỡ bỏ Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 42 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch cây cầu Paul Doumer bên trên). Vào ngày 20/11/1946, tại đây đã diễn ra trận đánh đẫm máu để bảo vệ thành phố, 13 chiến sĩ Vệ quốc đoàn và chiến sĩ tuyên truyền văn hóa Việt Nam do trung đội trưởng Đặng Kim Nở chỉ huy đã cầm chân lực lượng quân đội Pháp có xe tăng yểm trợ suốt một ngày đêm và tiêu diệt được 50 lính Pháp trước khi anh dũng hy sinh sau 4 ngày chiến đấu quả cảm. Nhà hát thành phố là niềm tự hào của nhân dân thành phố cảng. Ngày nay quảng trường nhà hát lớn là nơi tụ họp của nhân dân thành phố vào những ngày lễ lớn. 2.1.2.2. Quán hoa Có du khách khi đến với Hải Phòng nói rằng anh đã đi qua nhiều tỉnh thành trong cả nước, thậm chí ngay tại Đà Lạt, nơi được mệnh danh là thành phố ngàn hoa, nơi có địa điểm bán hoa rất nhiều, nhưng được qui hoạch là một điểm tham quan và nhất là có giá trị về lịch sử như Quán Hoa của Hải Phòng thì dường như chưa từng thấy ở đâu. Quán hoa được xây dựng vào cuối năm 1941 do Đốc Lý Luciani người Pháp chủ trì việc thiết kế và Chánh lục lộ Gautier (cũng là người Pháp) phụ trách thiết kế mỹ thuật. Tại cuộc thi thiết kế mẫu do viên Đốc Lý lúc bấy giờ khởi xướng, trong hàng chục mẫu gửi dự thi, mẫu đã được chọn này là của một nhà thiết kế người Á Đông. Mẫu quán lấy 04 cột gỗ tròn làm trụ, mái cong, lợp mái ngói mũi hài, mỗi quán rộng 20 m2, cao gần 4m, cách nhau 6m. Tất cả các quán trải dài trên diện tích 300 m2. Do thời gian eo hẹp, một nhà thầu đã dùng phương pháp truyền thống làm đình chùa ở Việt Nam, đó là làm các bộ phận ở nơi khác rồi đem đến lắp ráp chỉ trong một đêm là xong, đem lại sự ngỡ ngàng cho viên Đốc lí và nhân dân thành phố. Việc được xây dựng và hoàn thành trong một đêm mà không bị sai phạm lỗi kĩ thuật đã là một kì tích gây sự chú ý về tài hoa của nhà thầu xây dựng khi đó. Thêm vào đó, 5 quán hoa nhỏ mang phong cách kiến trúc phương Đông lại rất hòa hợp về mặt mĩ quan với toàn bộ quần thể kiến trúc phương Tây do người Pháp quy hoạch cũ và cột cờ, bể phun nước do nhân dân Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 43 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch Hải Phòng mới xây dựng, càng làm tăng thêm giá trị độc đáo, đặc sắc của công trình này. 2.1.2.3. Nhà thờ lớn Hải Phòng Kiến trúc nhà thờ ra đời và gắn liền với sự du nhập và phát triển của đạo Thiên Chúa vào Việt Nam. Các nhà thờ này phần lớn được xây dựng vào khoảng cuối thế kỉ XIX, thường mang phong cách kiến trúc Gothic. So với các công trình kiến trúc khác, ở Việt Nam bên cạnh việc mang phong cách kiến trúc phương Tây, nhà thờ còn chịu ảnh hưởng của phong cách kiến trúc bản địa với các công trình tôn giáo như chạm khắc trên gỗ, trên đá hình tứ linh tứ quí, bát quái Nhà thờ thường có cấu trúc theo chiều sâu, mái vòm, các tháp vươn cao để phù hợp với chức năng và quan hệ tôn giáo. Vật liệu xây dựng nhà thờ thường là ximăng cốt sắt. Quy mô kiến trúc của nhà thờ thường to lớn uy nghi và ít thanh thoát hơn so với các công trình kiến trúc truyền thống, đồng thời kiến trúc của nhà thờ cũng giảm đi sự kết hợp hài hòa với phong cảnh, ít sử dụng phong cảnh để trang trí cho kiến trúc. Tại nhà thờ Chính tòa Hải Phòng, theo như tấm bia đá xanh hình khối chữ nhật đặt dưới chân tượng Thánh Juse, tạc năm 1886, ghi bằng chữ Hán, chữ Latinh và chữ Pháp cho biết: các Linh mục dòng Đa Minh (Dominique) nước Tây Ban Nha đã đến Bắc Kỳ từ ngày 7/7/1676 và ngày 5/7/1848 đã được Giáo hoàng Pie chia làm hai giáo đoàn. Từ năm 1676 đến 1866, dòng tu Đa Minh Tây Ban Nha ở Bắc Kỳ đã có 3 giáo phận, 20 vạn tín đồ. Như vậy, dòng tu Đa Minh của các giáo sỹ Tây Ban Nha đã đến Bắc Kỳ, nhất là vùng ven biển khá sớm và có ảnh hưởng sâu ở Hải Phòng và vùng phụ cận. Mặc dù đã có mặt từ rất lâu và ảnh hưởng sâu rộng đến Hải Phòng, tuy nhiên, phải đến mãi những năm 20 của thế kỷ XIX, một nhà thờ có quy mô lớn mới được xây dựng ở Hải Phòng. Ngõ nhà thờ chính tức thánh đường, xây theo kiểu kiến trúc Gothic dài 47m, rộng 17m, đủ chỗ cho ngàn giáo dân đến dự lễ. Tháp chuông nhà thờ cao 28m. Bên trong còn có phòng là nơi ở của các giáo sỹ, nhà khách, nhà làm việc. Đối diện với cổng nhà thờ (phía đường Hoàng Văn Thụ hiện nay) là trường Dòng Saint Dominique (nay là trường tiểu Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 44 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch học Đinh Tiên Hoàng). Vì đây là công trình to đẹp nhất dãy phố nên phố có tên ban đầu là phố Mission (phố Nhà Chung), năm 1954 đổi tên là phố Đắc Lộ, tên phiên âm Hán Việt của Alexandre De Rhodes, một linh mục có công đầu trong việc sáng tạo nên chữ Quốc ngữ của chúng ta hiện nay. 2.1.2.4. Biệt thự Bảo Đại Nằm trên đồi Vung cao 36m so với mực nước biển, thuộc khu II Đồ Sơn, biệt thự Bảo Đại được xây dựng từ năm 1928. Ngày 16/06/1949, toàn quyền Đông Dương đã tặng nó cho vua Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, từ đó ngôi nhà này được mang tên “Biệt thự Bảo Đại”. Ngay từ năm 1933, sau một năm lên cầm quyền, Bảo Đại đã đến đây. Mỗi lần ra kinh lí Bắc Kì, vua Bảo Đại đều đến Đồ Sơn và nghỉ tại biệt thự này. Từ biệt thự có thể nhìn toàn cảnh bán đảo Đồ Sơn. Khí hậu nơi đây rất ôn hòa, đặc biệt vào mùa hè rất mát mẻ. Từ tháng 5 năm 1955, ngôi nhà được giao cho Bộ Quốc phòng quản lí. Do ảnh hưởng của thời gian chiến tranh, ngôi biệt thự bị xuống cấp nghiêm trọng. Ngày 28/03/1984, Bộ quốc phòng đã bàn giao lại ngôi nhà cho Công ti du lịch Hải Phòng, nay là Công ti khách sạn Đồ Sơn quản lí. Sau đó công ti đã tiến hành phục chế lại tòa nhà, sau 2 năm đã đón khách tham quan và nghỉ qua đêm. 2.1.3. Các công trình kiến trúc Giao thông - Thông tin liên lạc 2.1.3.1. Cảng Hải Phòng Trước khi có Cảng Hải Phòng, Hải Phòng thuở xưa là một bến sông. Những năm 40 - 44 (SCN), bà Lê Chân, nữ tướng dưới triều Trưng Nữ Vương, về trấn miền biển, lập ra làng An Biên. Năm 938, Ngô Quyền xây dựng một hệ thống đồn phòng ở đây (khu vực nội thành và quận Hải An ngày nay). Thời Lê, Nguyễn (1685 - 1871), vùng Hải Phòng được coi là một khu vực phòng thủ quan trọng. Trong giai đoạn từ 1871 đến 1877, Hải Phòng được xây dựng nhiều đồn phòng trên đảo Cát Bà và dọc sông Cấm làm nhiệm vụ kiểm tra đi lại của tàu thuyền, phía bên kia sông Tam Bạc được xây dựng trạm thu thuế tàu biển và phòng thủ gọi là “Hải dương thương chính quan phòng”. Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 45 Líp: VH 1101
- T×m hiÓu c¸c c«ng tr×nh kiÕn tróc Ph¸p ë H¶i Phßng phôc vô ph¸t triÓn Du lÞch Từ 1871, Hải Phòng trở thành một trung tâm buôn bán, trao đổi với nước ngoài. Lúc đầu, tàu cập cảng Cát Bà, sau đi sâu tới bến Ninh Hải trên sông Tam Bạc, cư dân lúc đó sống dọc hai bên bờ sông, bên cạnh bến có một chợ hẹp (gần chợ Sắt ngày nay). Cảng Hải Phòng được xây dựng đã trên 100 năm. Ngay sau Hòa ước Giáp Tuất (1874), thực dân Pháp đã khai thác khu bến này phục vụ cho tàu thuyền của đội quân viễn chinh do tên lái súng thám hiểm dò đường. Nhưng chỉ từ sau hòa ước Giáp Thân (1884), khi thực dân Pháp đặt xong bộ máy đô hộ trên toàn cõi Việt Nam, cảng Hải Phòng mới được tích cực xây dựng. Năm 1886 đã có 170m cầu tàu bằng gỗ và hai cụm kho. Năm 1900 bắt đầu xây dựng hệ thống kè đá từ bến sáu Kho đến bến Cầu Ngự. Từ đó đến nay, qua nhiều lần xây dựng, cải tạo kho bãi cùng thay đổi bổ xung thiết bị kĩ thuật, nhất là từ năm 1902, toàn quyền Đông Dương quyết định xây dựng Cảng Bắc kì tại Hải Phòng. Bến Cảng Hải Phòng thuộc địa phận làng Gia Viên trước đây, trước giải phóng, được quyền tự quản, không thuộc khu hành chính nào. Lúc mới mở gọi là Cảng Hải Phòng, dân chúng thường gọi là bến Sáu Kho vì lúc ấy có 6 kho hàng. Ca dao xưa về Hải Phòng có câu: Hải Phòng có bến Sáu Kho Có sông Cửa Cấm có lò Xi - măng. Giới hạn của Cảng Hải Phòng thời Pháp thuộc chỉ thấy ghi ở điều 1 "Qui tắc chung về thuế quan" do Cảng Hải Phòng ấn hành năm 1875 (Kí hiệu ở Thư viện Quốc gia: M.5993). Theo văn bản này thì "Cảng Hải Phòng được giới hạn giữa đồn binh ở trên phía hữu ngạn sông Cửa Cấm, đối diện với lạch Vàng Châu và đồn binh ở thượng lưu lạch Hải Phòng trên tả ngạn sông Cửa Cấm''. [6; 97]. Đối chiếu với sách Đồng Khánh địa dư chí lược thì đồn binh ở hữu ngạn sông Cấm tức là đồn Ninh Hải số 1 tại xã Lạc Viên mà các bản đồ của chính quyền đô hộ Pháp vẫn ghi là Fort Annamite (đồn binh Annam). Còn đồn ở hữu ngạn sông Cấm tức là đồn Ninh Hải số 3 đặt ở địa phận xã Bích Động huyện Thủy Nguyên. Đối chiếu với bản đồ Hải Phòng của bộ tham mưu quân sự Sinh viªn: NguyÔn ThÞ Th•¬ng Giang 46 Líp: VH 1101