Khóa luận Tìm hiểu hoạt động du lịch ở huyện đảo Vân Đồn-Quảng ninh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tìm hiểu hoạt động du lịch ở huyện đảo Vân Đồn-Quảng ninh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_tim_hieu_hoat_dong_du_lich_o_huyen_dao_van_don_qua.pdf
Nội dung text: Khóa luận Tìm hiểu hoạt động du lịch ở huyện đảo Vân Đồn-Quảng ninh
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH Sinh viên: Vũ Thị Thùy Linh Ngƣời hƣớng dẫn: Ts. Vũ Mạnh Hà HẢI PHÒNG – 2010
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN - QUẢNG NINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH Sinh viên: Vũ Thị Thùy Linh Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Vũ Mạnh Hà HẢI PHÒNG – 2010
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục tiêu nghiên cứu 3 3. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu 3 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4 5. Đóng góp của khóa luận 5 6. Bố cục của khóa luận 5 Chƣơng I: MẤY VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DU LỊCH BIỂN ĐẢO 6 1.1. Khái niệm 6 1.1.1. Biển 6 1.1.2. Đảo 7 1.1.3. Du lịch biển đảo 9 1.2. Du lịch biển đảo ở Quảng Ninh 9 1.3. Thuận lợi và khó khăn của việc khai thác du lịch biển đảo 13 1.3.1. Thuận lợi 13 1.3.2. Khó khăn 13 Tiểu kết chƣơng I 15 Chƣơng II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH BIỂN ĐẢO Ở VÂN ĐỒN 16 2.1. Vài nét chung về Vân Đồn 16 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 16 2.1.2. Vị trí địa lý 19 2.1.3. Dân số 19 2.1.4. Khí hậu 19 2.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên 20 2.2.1. Địa hình 20 2.2.2. Thủy văn 22 2.2.3. Thế giới động vật 24
- 2.3. Tài nguyên du lịch nhân văn 27 2.3.1. Tài nguyên du lịch vật thể 27 2.3.2. Tài nguyên du lịch phi vật thể 33 2.4. Cơ sở hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất phục vụ du lịch 37 2.4.1. Cơ sở hạ tầng 37 2.4.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật 39 2.5. Sản phẩm du lịch và thị trƣờng khách 46 2.5.1. Thị trƣờng khách du lịch 49 2.5.1.1. Thị trƣờng khách du lịch quốc tế 50 2.5.1.2. Thị trƣờng khách du lịch nội địa 50 2.6. Đánh giá chung 53 2.6.1. Ƣu điểm 53 2.6.2. Hạn chế 54 Tiểu kết chƣơng II 54 Chƣơng III: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN 55 3.1. Định hƣớng phát triển du lịch 55 3.1.1. Định hƣớng không gian phát triển và sản phẩm du lịch 55 3.1.2. Định hƣớng đối với thị trƣờng khách 56 3.2. Một số khuyến nghị 58 3.2.1. Khuyến nghị đối với Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch 58 3.2.2. Khuyến nghị đối với tỉnh Quảng Ninh 58 3.2.3. Khuyến nghị đối với huyện Vân Đồn 59 3.2.4. Khuyến nghị với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn 59 Tiểu kết chƣơng III 60 KẾT LUẬN 61 TÀI LIỆU THAM KHẢO 63 PHIẾU HỎI 66 PHỤ LỤC 69
- DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1. Diện tích một số đảo lớn ven bờ biển Việt Nam 8 Bảng 2.1. Phân loại địa cảnh khu vực Vân Đồn 22 Bảng 2.2. Mức độ thích nghi của nhiệt độ nƣớc biển đối với du lịch 23 Bảng 2.3. Một số giá trị đặc trƣng về hải văn khu vực Vân Đồn 24 Bảng 2.4. Thực trạng cơ sở lƣu trú tại huyện Vân Đồn 2004-2008 40 Bảng 2.5. Thực trạng lao động trực tiếp trong ngành du lịch ở Vân Đồn 44 Bảng 2.6. Một số tour du lịch đang đƣợc cônh ty du lịch chào bán đến Vân Đồn 48 Bảng 2.7. Hiện trạng khách du lịch quốc tế đến Vân Đồn giai đoạn 2004- 2007 50 Bảng 2.8. Hiện trạng khách du lịch nội địa đến Vân Đồn giai đoạn 2000 - 2007 51 CÁC KÝ HIỆU VÀ VIẾT TẮT Tiếng Việt TNHH Trách nhiệm hữu hạn UBND Uỷ ban nhân dân GĐ Giám Đốc KS Khách sạn Nxb Nhà xuất bản Tiếng Anh IUCN Tổ chức bảo tồn thiên nhiên UNESSCO Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên hợp quốc
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cùng với sự phát triển chung của thế giới, Việt Nam đang từng bƣớc khẳng định đƣợc uy tín và vị thế của mình trên trƣờng quốc tế. Nền kinh tế Việt Nam một nền kinh tế khởi sắc, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện và nâng cao cả về vật chất và tinh thần. Thu nhập của ngƣời dân tăng lên, thời gian lao động giảm nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, do đó thời gian rảnh rỗi tăng lên đáng kể. Vì lẽ đó du lịch đã trở thành một xu thế tất yếu, một nhu cầu không thể thiếu trong xã hội có sự phát triển. Bởi vì du lịch không những đáp ứng đƣợc nhu cầu vui chơi giải trí đơn thuần mà cũng giúp con ngƣời nâng cao sự hiểu biết, giao lƣu văn hóa giữa các tộc ngƣời, các dân tộc, các quốc gia góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần. Không những thế nó cũng hỗ trợ cho sự phát triển của quốc gia, nơi đón khách, nó đang trở thành một ngành công nghiệp không khói hữu ích đem lại nguồn lợi đáng kể cho quốc gia. Để du lịch phát triển đáp ứng nhu cầu du lịch của con ngƣời, đòi hỏi ngành du lịch mỗi quốc gia phải biết khai thác một cách hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch của nƣớc mình. Đặc biệt là tài nguyên du lịch biển đảo. Việt Nam có lợi thế lớn về tài nguyên cho sự phát triển du lịch biển đảo với đƣờng bờ biển dài 3260km, 125 bãi tắm, gần 4000 hòn đảo lớn nhỏ, cùng ƣu thế của vùng biển nhiệt đới quanh năm nắng ấm, cát trắng, nƣớc trong, đa dạng sinh học cao, cảnh quan thiên nhiên nguyên sơ, nền văn hóa lịch sử lâu đời giàu bản sắc Dọc chiều dài bờ biển, mỗi đơn vị lãnh thổ vừa có thế mạnh đặc thù về tài nguyên, vừa có khả năng liên kết tạo ra những sản phẩm du lịch biển hấp dẫn, khả năng cạnh tranh cao. Quảng Ninh vùng đất đã từ lâu đƣợc rất nhiều du khách trong nƣớc và ngoài nƣớc biết đến với các địa danh nổi tiếng nhƣ: Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái Tử Long, Bãi Tắm Trà Cổ, khu di tích lịch sử văn hóa Yên Tử, chùa Quỳnh Lâm, đền Cửa Ông
- Du lịch biển đảo từ lâu đã là thế mạnh của du lịch Quảng Ninh. Với những lợi thế về tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên, trong những năm qua ngành du lịch Quảng Ninh đã có sự phát triển nhanh chóng, cơ sở vật chất phục vụ du lịch không ngừng đƣợc hoàn thiện, các di tích lịch sử và các thắng cảnh tự nhiên cũng đƣợc trùng tu tôn tạo để khai thác phục vụ du lịch. Năm 2007 Quảng Ninh đã đón tiếp và phục vụ hơn 800 ngàn lƣợt khách quốc tế và hơn 2 triệu lƣợt khách nội địa. Tổng doanh thu đạt 1,650,000 triệu đồng góp phần vào tăng trƣởng kinh tế, giải quyết việc làm. Tuy nhiên sự phát triển du lịch Quảng Ninh trong thời gian qua chƣa tƣơng xứng với tiềm năng và những lợi thế còn mang tính chất riêng lẻ chƣa tạo đƣợc sự gắn kết hữu cơ giữa các khu vực có tiềm năng phát triển du lịch với nhau. Du khách đến Quảng Ninh hầu nhƣ đến với Hạ Long, trong khi đó một số khu vực khác với tiềm năng du lịch hết sức phong phú với rừng, biển, bãi tắm, hải đảo thì lại chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Nằm cách Hạ Long chƣa đầy 40km Vân Đồn đƣợc biết đến nhƣ một trong những điểm du lịch biển hấp dẫn của Quảng Ninh, trong quy họach tổng thể phát triển du lịch Quảng Ninh 2000-2010 Vân Đồn đƣợc xác định là một trong bốn không gian phát triển du lịch trọng điểm. Các không gian phát triển du lịch trọng điểm còn lại là: khu du lịch Hạ Long, khu du lịch Móng Cái - Trà Cổ, khu du lịch Uông Bí - Đông Triều - Yên Hƣng. Với tài nguyên du lịch phong phú, lịch sử phát triển lâu đời Vân Đồn hội tụ đủ điều kiện để phát triển thành một trung tâm du lịch biển đảo với những sản phẩm du lịch hấp dẫn đặc thù. Tuy nhiên trong nhiều năm qua số lƣợng du khách đến với Vân Đồn chƣa nhiều, doanh thu cũng không thực sự đáng kể. Với mong muốn góp phần vào việc phát triển hơn nữa hoạt động du lịch ở Quảng Ninh nói chung và Vân Đồn nói riêng nên tôi đã lựa chọn đề tài: “TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN- QUẢNG NINH”. 2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu hoạt động du lịch ở huyện đảo Vân Đồn nhằm: + Đánh giá một cách tƣơng đối và đầy đủ tiềm năng du lịch biển đảo ở Vân Đồn. + Chỉ ra đƣợc thực trạng hoạt động du lịch biển đảo ở Vân Đồn. + Đƣa ra các khuyến nghị nhằm khai thác một cách hiệu quả tài nguyên du lịch cho phát triển du lịch khu vực này. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là tài nguyên du lịch và thực trạng hoạt động du lịch biển đảo ở Vân Đồn. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: nghiên cứu đƣợc giới hạn trong phạm vi biển đảo(bao gồm khu vực ven biển các đảo Cái Bầu, Ngọc Vừng, Quan Lạn, Ba Mùn) thuộc huyện đảo Vân Đồn. -Về thời gian: việc tìm hiểu đƣợc tiến hành trong ba tháng từ ngày 10/04/2010 đến ngày 10/07/2010. Các số liệu đƣợc sử dụng trong khóa luận đƣợc lấy từ nhiều nguồn khác nhau. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Khi tìm hiểu hoạt động du lịch ở huyện đảo Vân Đồn tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau: + Phƣơng pháp thu thập, phân tích tài liệu. + Phƣơng pháp khảo sát thực địa. + Phƣơng pháp lấy ý kiến chuyên gia. + Phƣơng pháp quan sát tham dự và phỏng vấn sâu. Các phƣơng pháp nghiên cứu trên là cách thức cụ thể hay công cụ đƣợc sử dụng để nghiên cứu một vấn đề nào đó, nhằm mục đích đi đến kết quả một cách chính xác. Phƣơng pháp thu thập, phân tích tài liệu. Đây là phƣơng pháp đƣợc sử dụng phổ biến, phƣơng pháp này giúp cho tôi có đƣợc cái nhìn khái quát hơn về vấn đề mà mình đang tìm hiểu. Tôi đã tiến hành thu thập tài liệu từ các công trình nghiên cứu đƣợc đăng
- tải trên các phƣơng tiện truyền thông nhƣ, đài, báo chí, trên internet, các tác phẩm đƣợc in thành sách. Từ sở văn hóa Quảng Ninh, Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Vân Đồn, Phòng văn hóa huyện Vân Đồn liên quan đến nhiều lĩnh vực mà trực tiếp là du lịch, hải dƣơng học, khí tƣợng, thủy văn. Sau đó tôi tổng kết và phân tích các tài liệu thu thập đƣợc nhằm đƣa ra một cách tổng quát nhất về các số liệu. Do dùng phƣơng pháp thu thập nên lƣợng thông tin giữa các nguồn tài liệu mà tôi thu thập đƣợc không nhất quán về thời gian cũng nhƣ thời điểm nghiên cứu và góc độ đánh giá vì vậy mà tôi đã phân loại chúng theo góc độ tin cậy, theo tính cấp thiết rồi hệ thống tổng hợp đƣa ra những kết luận có căn cứ. Phƣơng pháp khảo sát thực địa Phƣơng pháp thực địa là một trong những phƣơng pháp quan trọng góp phần làm cho kết quả nghiên cứu mang tính xác thực. Việc điền dã đƣợc thực hiện nhằm nghiên cứu điều tra tổng hợp về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu vực nhằm bổ xung, chỉnh sửa, cập nhập số liệu, thông tin đã thu thập. Trực tiếp khảo sát tại một số bãi biển và các đảo thuộc khu vực Vân Đồn giúp tôi có điều kiện theo dõi hoạt động du lịch của Vân Đồn và thẩm nhận giá trị của tài nguyên, bổ xung thêm thông tin,làm căn cứ cho việc đề xuất các giải pháp hợp lý và khả thi. Phƣơng pháp lấy ý kiến Tôi đã tham khảo ý kiến của một số chuyên gia và một số ngƣời có chức trách ở địa phƣơng. Những nhận định trên đã giúp tôi định hƣớng xác thực hơn cho nghiên cứu của mình. Phƣơng pháp quan sát tham dự và phỏng vấn sâu Đây cũng là nhóm phƣơng pháp có ý nghĩa quan trọng đối với đề tài nghiên cứu này, phƣơng pháp này giúp cho tôi nhận thức về vấn đề nghiên cứu sâu sắc hơn, đƣa ra đƣợc những nhận xét đánh giá xác thực hơn về đề tài nghiên cứu. Trong các đợt nghiên cứu điền dã tôi đã sử dụng các phƣơng pháp này này bằng cách quan sát trực tiếp cuộc sống của ngƣời dân địa phƣơng,
- hoạt động của du khách và cách thức phục vụ của nhân viên nhà hàng, khách sạn đối với khách du lịch. Tôi cũng trực tiếp phỏng vấn sâu đối với du khách cả trong nƣớc và quốc tế, ngoài ra tôi cũng có một số cuộc tiếp xúc với một số lãnh đạo địa phƣơng, nhân viên trong các nhà hàng, khách sạn Qua đó giúp tôi hiểu rõ hơn về tâm tƣ, tình cảm, mong muốn của khách du lịch, cơ quan quản lý và cộng đồng dân cƣ địa phƣơng đối với việc phát triển hơn nữa hoạt động du lịch ở đây. 5. Đúng góp của khóa luận Hệ thống hóa đƣợc tài liệu của các tác giả đi trƣớc. Khóa luận này đã giới thiệu một cách có hệ thống và đầy đủ về hệ thống tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của Vân Đồn. Đánh giá đƣợc thực trạng khai thác tài nguyên du lịch biển đảo cho phát triển du lịch, chỉ ra đƣợc những tồn tại, hạn chế trong hoạt động du lịch ở đây. Khoá luận cũng đƣa ra những khuyến nghị nhằm phát triển du lịch biển đảo ở Vân Đồn. 6. Bố cục của khóa luận Phần nội dung tìm hiểu của khóa luận đƣợc chia làm ba chƣơng. Chƣơng I: Mấy vấn đề cơ bản về du lịch biển đảo Chƣơng II: Thực trạng hoạt động du lịch ở huyện đảo Vân Đồn Chƣơng III: Một số khuyến nghị nhằm phát triển hoạt động du lịch trên huyện đảo Vân Đồn. Ngoài ba chƣơng trên thì còn có phần mở đầu, phần kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục bảng,phiếu hỏi, tài liệu tham khảo, phần phụ lục.
- CHƢƠNG I MẤY VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DU LỊCH BIỂN ĐẢO 1.1. Khái Niệm 1.1.1. Biển Theo tác giả Nguyễn Nhƣ Ý trong từ điển Tiếng Việt khái niệm biển đƣợc hiểu là“ Vùng nƣớc mặn rộng lớn trên bề mặt trái đất hay phần đại dƣơng ven lục địa đƣợc ngăn cách bởi các đảo hay đất liền”.Biển cũng đƣợc hiểu là phần đại dƣơng bị giới hạn bởi mép lục địa, các đảo và các vùng cao của đáy, có diện tích nhỏ hơn nhiều so với đại dƣơng. Biển có một chế độ thủy văn riêng biệt khác chế độ thủy văn của phần đại dƣơng tiếp cận với một mức nào đó. Biển cũng khác với đại dƣơng về chế độ nhiệt, độ muối, tính chất triều, các điều kiện sinh thái, hệ thống dòng chảy. Khái niệm biển cũng đƣợc hiểu là “Một phần của đại dƣơng đƣợc tách ra bởi lục địa hay các vùng nổi cao của địa hình đáy”. Về thực chất biển là một không gian rộng lớn, là một phần của đại dƣơng, tuy nhiên trong khóa luận này sử dụng khái niệm biển với cách hiểu là vùng bờ biển. Có nhiều cách xác định vùng bờ biển dựa trên các quan điểm. Theo quan điểm phát triển du lịch thì “Vùng bờ biển”là khoảng không gian hẹp trong phạm vi tƣơng tác biển - lục địa mà tại đó có các tài nguyên du lịch thu hút khách. Đó thƣờng là khu vực vùng bờ có bãi cát, dải đất hẹp ven biển dùng để phát triển cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch, rừng ngập mặn, vùng vịnh, đầm, phá, cồn cát Khu vực biển ven bờ đƣợc khai thác bao gồm bãi tắm vùng ven bờ và phong cảnh vùng ven bờ. Vùng ven bờ thƣờng đƣợc hiểu nhƣ là nơi tƣơng tác giữa đất và biển, bao gồm các môi trƣờng ven bờ cũng nhƣ vùng nƣớc kế cận. Theo Tổ Chức Bảo Tồn Thiên Nhiên Thế Giới(1986) vùng ven bờ đƣợc định nghĩa “là vùng ở đó đất và biển tƣơng tác với nhau, trong đó ranh giới về đất liền đƣợc xác định bởi giới hạn các ảnh hƣởng của biển đến đất và ranh giới về biển đƣợc xác định bởi giới hạn các ảnh hƣởng của đất và nƣớc ngọt đến biển.
- Thuật ngữ biển đƣợc sử dụng trong khóa luận đƣợc hiểu là vùng bờ biển bao gồm khu vực biển ven bờ và phần thềm lục địa nông ven quanh các đảo mà ở đó có thể tổ chức đƣợc các hoạt động du lịch nhƣ thăm quan, tắm biển, nghỉ dƣỡng 1.1.2. Đảo Về khái niệm đảo cũng có nhiều cách hiểu nhau.Theo từ điển Tiếng Việt “Đảo là khoảng đất đá lớn nổi lên giữa sông, biển”. Có quan điểm cho rằng “Đảo là kết quả của quá trình hoạt động địa chất lâu dài của vỏ trái đất trong mối tƣơng tác giữa biển và lục địa”. Theo tác giả Nguyễn Văn Phong trong cuốn sách bách khoa về biển “Đảo là phần đất hoàn toàn xung quanh bao bọc bởi nƣớc, thƣờng xuyên nhô lên cao, không bị ngập nƣớc khi mức nƣớc triều lên cao nhất”.Về nguồn gốc hình thành “Đảo có thể là một phần của lục địa do quá trình tách dần và lún xuống của lục địa gãy ra hoặc do hoạt động của núi lửa dƣới đaý biển tạo nên”. Thuộc vùng biển Việt Nam có trên 4000 hòn đảo. Về phân bố, khoảng 3000 đảo ở ven biển Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi tập chung thứ hai là các tỉnh Kiên Giang và Cà Mau trên vịnh Thái Lan (trên 100 đảo). Còn lại rải rác ở ven biển miền Trung. Khoảng cách giữa đất liền và các đảo là rất khác nhau: đảo Cái Bầu chỉ cách đất liền một rạch triều, trong khi đảo Bạch Long Vĩ cách Hải Phòng tới 135km, đảo Hòn Hải cách bãi biển Phan Thiết tới gần 155km, đảo Thổ Chu cách đảo ông Đốc (Kiên Giang) tới 146km, quần đảo Hoàng Sa cách Đà Nẵng tới 350km và quần đảo Trƣờng Sa nằm cách Vịnh Cam Ranh 450km. Các đảo Hoàng Sa, Trƣờng Sa, Chàng Tây, Thổ Chu, Côn Đảo, Cồn Cỏ, Cô Tô, Bạch Long Vĩ làm lên hệ thống tiền tiêu có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Về cấu tạo địa chất, ven bờ Vịnh Bắc Bộ đặc biệt là khu vực Hạ Long các đảo chủ yếu có cấu tạo từ cacbonat. Dƣới chân đảo là những bãi cát với các địa hình tích tụ cát trắng mịn, là những bãi tắm lý tƣởng với những kích thƣớc khác nhau từ vài chục một đến vài trăm mét, thậm chí vài
- ba nghìn mét (Cô Tô, Ngọc Vừng, Cái Bầu). Theo số liệu điều tra chƣa đầy đủ, Hạ Long - Cát Bà đã phát hiện 139 bãi cát với diện tích lớn nhỏ khác nhau, đa số dƣới 1ha và có 12 bãi. Về diện tích, 97% là các đảo nhỏ hơn 0,5km². Các đảo lớn từ 1km² trở lên có 84 đảo, trong đó có 24 đảo có diện tích từ 10km² đến 567km². Bảng 1.1. Diện tích một số đảo lớn ven bờ biển Việt Nam STT Tên Đảo Diện tích(km²) 1 Phú Quốc (Kiên Giang) 567 2 Cái Bầu (Quảng Ninh) 200 3 Cát Bà (Hải Phòng) 149 4 Côn Đảo ( Bà Rịa –Vũng Tàu) 56,7 5 Hòn Lớn ( Khánh Hòa) 45 6 Hòn Tre ( Khánh Hòa) 32 7 Vĩnh Thực ( Quảng Ninh) 32 8 Phú Quý ( Bình Thuận) 32 9 Cô Tô ( Quảng Ninh) 23,4 10 Cái Chiên ( Quảng Ninh) 10,9 Khái niệm đảo đƣợc hiểu là các đảo ven bờ có tiềm năng du lịch và điều kiện tự nhiên để phát triển du lịch. Ở Việt Nam các đảo đáp ứng đƣợc chỉ tiêu này có rất nhiều bao gồm các đảo thuộc huyện đảo Vân Đồn (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), huyện đảo Phú Qúy ( Bình Thuận), huyện đảo Côn Sơn ( Bà Rịa-Vũng Tàu), huyện đảo Lý Sơn ( Quảng Ngãi), Phú Quốc ( Kiên Giang) đây là các đảo ven bờ có nhiều bãi biển, phong cảnh đẹp còn nguyên vẹn vẻ hoang sơ, môi trƣờng trong lành và điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để phát triển cho loại hình du lịch biển. Vị trí các đảo đƣợc nghiên cứu chính là các đảo thuộc huyện đảo Vân Đồn đáp ứng đƣợc các tiêu chí của đảo du lịch có tiềm năng du lịch và điều kiện phát triển du lịch. 1.1.3. Du lịch biển đảo
- Du lịch biển đảo là hoạt động du lịch đƣợc tổ chức phát triển trên lãnh thổ vùng ven bờ biển và vùng biển ven bờ (bao gồm cả các đảo ven bờ). Vì vậy hoạt động phát triển du lịch biển đảo ở đây đƣợc hiểu chủ yếu là dựa vào đặc điểm tự nhiên và tiềm năng du lịch của lãnh thổ này. 1.2. Hoạt động du lịch biển đảo ở Quảng Ninh Việt Nam có vị trí chiến lƣợc thuận lợi về biển. Lãnh thổ đất liền Việt Nam đƣợc bao bọc bởi bờ biển trải dài 3260km trên 3 hƣớng Đông, Nam, Tây Nam. Trung bình cứ 100km² đất liền Việt Nam có 1km bờ biển, tỷ lệ vào loại cao so với tỷ lệ trung bình của thế giới (600km² đất mới có 1km bờ biển) . Bờ biển của Việt Nam trải dài từ Bắc xuống Nam vì thế biển có vị trí đặc biệt trong phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nƣớc. Vùng ven biển Việt Nam hiện gồm 29 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng với diện tích tự nhiên là 140.413km², dân số 43,9 triệu (số liệu thống kê năm 2005). Lãnh thổ du lịch biển đảo là nơi hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi với nguồn tài nguyên tự nhiên đa dạng và phong phú cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là du lịch bởi trên lãnh thổ này hiện tập trung 6/7 di sản thế giới( cả vật thể và phi vật thể) ở Việt Nam cùng với sự đa dạng và phong phú về các giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên, nhân văn. Với tƣ cách là một trong năm lĩnh vực kinh tế biển quan trọng đƣợc xác định tại Nghị Quyết Hội Nghị lần thứ 4 Ban Chấp Hành Trung Ƣơng Đảng khóa X về chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020 bao gồm: khai thác; chế biến dầu khí; kinh tế hàng hải; khai thác và chế biến hải sản; du lịch và kinh tế đảo và các khu kinh tế các khu công nghiệp tập trung và các khu chế xuất ven biển gắn với các đô thị, du lịch biển ngày càng khẳng định vị trí của mình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc nói chung và đối với sự phát triển ngành du lịch nói riêng. Vị trí của du lịch biển đảo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đƣợc thể hiện một cách rõ nét qua việc: phát triển du lịch góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác; tạo nhiều việc làm cho xã hội.
- Vùng ven biển và các đảo Việt Nam hiện có khoảng 10 triệu ngƣời trong độ tuổi lao động. Việc phát triển du lịch sẽ góp phần tạo việc làm cho cộng đồng dân cƣ sống ở vùng ven biển, đặc biệt trên các đảo vốn có nhiều khó khăn, góp phần tích cực tạo dựng và cố thủ thế trận quốc phòng toàn dân, phát triển hậu phƣơng vững chắc ở tuyến phòng thủ trên biển của đất nƣớc và đảm bảo an ninh quốc phòng ven biển và hải đảo. Thực tiễn phát triển du lịch biển đảo những năm qua đã khẳng định vai trò trên của du lịch. Quảng Ninh một vùng đất giàu tiềm năng du lịch và khoáng sản, du khách nào khi đến với Quảng Ninh cũng để lại trong mình ấn tƣợng khó quên về một Hạ Long kỳ thú, một Yên Tử linh thiêng, một Quan Lạn, một Trà Cổ thơ mộng ở Quảng Ninh cũng đã từ lâu du lịch đƣợc coi là ngành kinh tế mũi nhọn đem lại mỗi năm trên 20% GDP toàn tỉnh. Với những lợi thế về nhiều mặt ( địa kinh tế - chính trị - xã hội, tài nguyên, sự quan tâm của Đảng và Nhà Nƣớc, lịch sử phát triển), đặc biệt với tài nguyên vô giá Vịnh Hạ Long – đã đƣợc UNESCO hai lần công nhận Di Sản Thiên Nhiên Thế Giới, du lịch Quảng Ninh hội tụ các yếu tố “Thiên, thời, địa lợi, nhân hòa”để phát triển và thực tế hoạt động du lịch trên địa bàn đã phát triển nhanh và mạnh mẽ. Những năm qua ngành du lịch Quảng Ninh không ngừng cố gắng và nỗ lực vƣơn lên trở thành một trong những trung tâm du lịch trọng điểm của khu vực phía Bắc. Sự phát triển đó có thể nhận thấy thông qua một số chỉ tiêu du lịch nhƣ lƣợng khách, doanh thu, đội ngũ lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch. Về lƣợng khách Trong những năm gần đây số lƣợng khách đến du lịch không ngừng tăng lên nhất là từ sau ảnh hƣởng của đại dịch SAT từ các nƣớc trong khu vực. Năm 2006 tổng số khách du lịch đến Quảng Ninh đạt 2,800,636 lƣợt,trong đó khách quốc tế đạt 1,385,811 lƣợt .
- Năm 2007 tổng số khách du lịch đến Quảng Ninh đạt 3,175,000 lƣợt khách, tăng 7% so với năm 2006. Trong đó khách quốc tế đạt 2.046.000 lƣợt khách, bằng 96% so với năm 2006. Năm 2008 tổng số khách du lịch đến Quảng Ninh đạt 3.458.500 lƣợt khách, bằng 92% so với năm 2007. Trong đó khách quốc tế đạt 1.005.800 lƣợt khách, bằng 96% so với năm 2007. Năm 2009 tổng số khách du lịch đến Quảng Ninh đạt 3.110.000 lƣợt khách, tăng 26% so với năm 2008. Trong đó khách quốc tế đạt 2.150.000 lƣợt khách, tăng 15% so với năm 2008. Tốc độ trung bình đạt 14%, trong đó khách khách quốc tế đạt 13%. Tổng doanh thu năm 2006 đạt 1275 tỷ đồng, năm 2009 đạt 1969 tỷ đồng, tốc độ tăng trung bình là 27%. Lƣợng khách du lịch đến Quảng Ninh ngày càng tăng vƣợt qua cả số dân toàn tỉnh, tính trung bình mỗi ngƣời dân Quảng Ninh mỗi năm đón tiếp và phục vụ hơn 2 lƣợt khách du lịch. Có rất nhiều yếu tố tạo lên sự hấp dẫn của du lịch Quảng Ninh mà hệ quả là hàng năm đón hàng triệu lƣợt khách thăm quan. Một trong những yếu tố quan trọng nhất đó chính là tài nguyên du lịch biển đảo. Với hơn 2000 hòn đảo lớn nhỏ đã tạo ra ở Quảng Ninh những dạng địa hình hết sức đa dạng, từ những đảo rất nhỏ nhƣ hòn Gà Chọi, Hòn Đỉnh Hƣơng cho đến những đảo lớn có diện tích tới vài chục km² nhƣ Tuần Châu, Quan Lạn, Cái Bầu, Ngọc Vừng đặc biệt là dạng địa hình kaster Hạ Long với những gía trị ngoại hạng về cảnh quan thẩm mỹ và địa chất diện mạo. Chỉ tính riêng khu vực biển đảo Quảng Ninh hằng năm thu hút hơn 90% lƣợng khách du lịch mà Hạ Long là điểm đến có số lƣợng du khách thăm quan lớn nhất. Một khu vực biển đảo khác ở Quảng Ninh cũng đang bắt đầu đƣợc khách du lịch quan tâm đó chính là huyện đảo Vân Đồn với những bãi biển hoang sơ tuyệt đẹp nhƣ Quan Lạn, Ngọc Vừng, Minh Châu đang còn chờ những dấu chân du khách đến để khám phá. Về doanh thu
- Cùng với sự gia tăng số lƣợng khách, doanh thu từ du lịch Quảng Ninh cũng không ngừng tăng lên. Năm 2006 , tổng doanh thu đạt 1.160.000 triệu đồng, tăng 21% so với năm 2005; Trong đó doanh thu trực tiếp từ các đơn vị du lịch đạt 982.600 triệu đồng, tăng24% so với năm 2003. Năm 2007, tổng doanh thu đạt 1.234.000 triệu đồng, tăng 98% so với năm 2006; Trong đó doanh thu trực tiếp từ các đơn vị du lịch đạt 1.075.350 triệu đồng, tăng 11% so với năm 2006. Năm 2008 , tổng doanh thu đạt 1.465.000 triệu đồng, tăng 23% so với năm 2007; Trong đó doanh thu trực tiếp từ các đơn vị du lịch đạt 1.582.070 triệu đồng, tăng22% so với năm 2007. Về hệ thống cơ sở lƣu trú, năm 2004 toàn tỉnh có 28 cơ sở lƣu trú với tổng số 330 phòng nghỉ, trong đó 19 khách sạn đƣợc xếp hạng từ 1-4 sao với 211 phòng. Đến hết năm 2006 con số này đã phát triển tƣơng ứng là 40 cơ sở lƣu trú và 427 phòng, trong đó 75 khách sạn đƣợc xếp hạng từ 1- 4 sao với 4300 phòng. Năm 2009 là 60 cơ sở lƣu trú với 700 phòng. Về lao động Lao động trong ngành du lịch, số lƣợng lao động trực tiếp và gián tiếp trong ngành du lịch cũng phát triển khá nhanh. Năm 2001 toàn tỉnh có 9500 lao động trực tiếp và khoảng 19000 lao động gián tiếp. Đến năm 2009 số lao động trực tiếp là 25000 và khoảng 40000 lao động gián tiếp. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu và kết quả trên thì du lịch Quảng Ninh cũng bộc lộ một số hạn chế: Sản phẩm du lịch còn nghèo và đơn điệu; Chất lƣợng dịch vụ còn thấp; Quy hoạch và quản lý đầu tƣ xây dựng theo quy hoạch chƣa tốt; Chất lƣợng nguồn nhân lực còn thấp. Nhân lực trong ngành du lịch số đông chƣa đƣợc đào tạo chính quy, số lao động đƣợc đào tạo chuyên ngành du lịch chỉ chiếm 50%. Hầu hết các lĩnh vực đòi hỏi chuyên môn và
- ngoại ngữ nhƣ quản lý khách sạn, hƣớng dẫn, lễ tân đều thiếu, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển. 1.3. Thuận lợi và khó khăn của việc khai thác du lịch biển đảo 1.3.1. Thuận lợi Vùng biển và hải đảo thƣờng là nơi có phong cảnh đẹp, hoang sơ, trong lành, có tài nguyên du lịch đa dạng và phong phú, bao gồm cả tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, là tiền đề quan trọng để phát triển nhiều loại hình du lịch biển hấp dẫn bao gồm: du lịch nghỉ dƣỡng, du lịch thể thao – mạo hiểm, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch thăm quan – nghiên cứu, du lịch tàu biển, du lịch hội thảo – hội nghị Cƣ dân sống ở khu vực này có những nét văn hóa đặc trƣng mang đậm dấu ấn của biển là một trong những điều kiện hết sức quan trọng hấp dẫn khách du lịch. Các khu vực biển ven bờ là các khu vực địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội là các điều kiện cơ bản cần thiết cho việc phát triển du lịch. 1.3.2. Khó khăn Mặc dù luôn tiềm tàng một tài nguyên du lịch phong phú là cơ sở cho việc phát triển các hoạt động du lịch và thu hút khách du lịch. Tuy nhiên việc tổ chức các hoạt động du lịch và khai thác tài nguyên du lịch gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là trên các đảo. Những khó khăn thƣờng gặp ở đây là về xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, trình độ nhận thức của ngƣời dân địa phƣơng, trình độ nguồn nhân lực du lịch, về vận chuyển đi lại và chi phí sinh hoạt Đối với các đảo ngoài khơi do vị trí đảo nằm trên biển lại có địa hình hiểm trở nên việc đầu tƣ cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất khó khăn hơn rất nhiều so với việc đầu tƣ phát triển trên đất liền. Đầu tƣ xây dựng tại đảo rất tốn kém thông thƣờng gấp đôi ở đất liền do phí vận chuyển vật liệu từ đất liền ra đảo cao, đối với các đảo xa đất liền việc vận chuyển còn khó khăn hơn nhiều lần.
- Nhân lực cũng là một vấn đề gây khó khăn cho phát triển hoạt động du lịch. Do điều kiện và trình độ của nguồn nhân lực tại chỗ yếu kém các doanh nghiệp kinh doanh du lịch đặc biệt là các khách sạn tiêu chuẩn quốc tế muốn tồn tại phải kéo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn từ các thành phố lớn ra, dù trả lƣơng cao nhƣng họ vẫn thƣờng bỏ về trƣớc thời hạn. Còn đào tạo nhân lực tại chỗ thì phải có một thời gian dài. Một vấn đề khó khăn nữa thƣờng gặp phải đó là vấn đề về trình độ dân trí. Hầu hết các đảo thƣờng nằm xa đất liền ngoài việc khó khăn về xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch thì trình độ dân trí của cƣ dân địa phƣơng cũng là một trong những vấn đề cản trở cho hoạt động du lịch. Ở Việt Nam trừ một số hòn đảo lớn có cƣ dân sinh sống tƣơng đối đông, vị trí địa lý không quá xa đất liền, có điều kiện thuận lợi về giao thông cả đƣờng thủy, đƣờng bộ, đƣờng hàng không nhƣ đảo Phú Quốc (Kiên Giang), đảo Cát Bà ( Hải Phòng) là có trƣờng cấp ba còn lại hầu hết các đảo có dân cƣ sinh sống thì mới chỉ có trƣờng cấp hai, học sinh muốn học lên nữa thì phải vào đất liền học trong các trƣờng nội trú hoặc các trƣờng phổ thông của thành phố, thị xã, thị trấn. Ngoài ra do nhận thức của ngƣời dân từ bao thế hệ chỉ quen với việc mƣu sinh từ khai thác các nguồn lợi của rừng và biển họ chƣa hề quen với việc đón tiếp và phục vụ khách du lịch nên cũng gây khó khăn cho hoạt động này. Vấn đề về chi phí cho việc đi lại và sinh hoạt của du khách cũng là nguyên nhân gây khó khăn cho phát triển du lịch biển đảo. Giá cả sinh hoạt ở khu vực này thƣờng đắt hơn so với đất liền 20-30% do các vấn đề khó khăn về khoảng cách địa lý. Có thể lấy ra đây một ví dụ nhƣ một minh chứng điển hình cho những khó khăn gặp phải trong việc phát triển các hoạt động du lịch ở những khu vực biển đảo đặc thù đó là du lịch tới đảo Cô Tô. Giao thông tới đảo Cô Tô rất hạn chế. Mỗi ngày chỉ có một chuyến tàu từ đảo vào đất liền và một chuyến từ đất liền ra đảo. Phƣơng tiện vận chuyển tại đảo ít. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch hầu nhƣ chƣa có gì ngoài
- một nhà khách Uỷ Ban Huyện có hơn chục phòng và một vài nhà khách nhỏ của các ngành chức năng nhƣ bƣu điện, thuế. Cô Tô chƣa có nhà hàng mà chỉ có một vài quán ăn đơn giản. Cô Tô chƣa có mạng lƣới điện quốc gia, nguồn cung cấp điện chính là các máy phát và nguồn điện năng lƣợng mặt trời, điện không đủ cung cấp cho dân và cho hoạt động kinh tế xã hội nên điện thƣờng đƣợc cung cấp theo giờ nhất định. Hơn nữa do Cô Tô là đảo tiền tiêu nên hiện nay việc đƣa khách ra đảo phải xin giấy phép biên phòng cũng là một trở ngại cho việc thu hút khách du lịch. Thông tin chung về đảo và tiềm năng du lịch rất thiếu, chƣa có ấn phẩm, tài liệu giới thiệu đầy đủ về tiềm năng du lịch của đảo. Với điều kiện nhƣ vậy Cô Tô không đủ khả năng tiếp đón khách với số lƣợng lớn. Tiểu kết chƣơng I Chƣơng I của đề tài đã giải quyết đƣợc nhiệm vụ tìm hiểu thứ nhất là làm rõ cách hiểu về khái niệm biển, đảo, biển đảo và du lịch biển đảo. Chƣơng I cũng đề cập một cách khái quát hoạt động du lịch biển đảo ở Quảng Ninh. Cuối cùng chƣơng I chỉ ra đƣợc những thuận lợi và khó khăn của việc khai thác du lịch trên một vị trí lãnh thổ đặc trƣng là địa hình biển đảo.
- CHƢƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN 2.1. Vài nét chung về Vân Đồn 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Địa danh Vân Đồn đã có từ lâu đời, trải qua nhiều biến cố của lịch sử, vùng đất này cũng có nhiều thay đổi về mặt địa lý hành chính và tên gọi. Vào thời Hùng Vƣơng (279TCN - 258TCN) Vân Đồn thuộc bộ Ninh Hải, nƣớc Văn Lang. Thời nhà Thục (258TCN – 208TCN) thuộc bộ Ninh Hải nƣớc Âu Lạc. Thời thuộc Triệu (208TCN – 111TCN) thuộc bộ Ninh Hải nƣớc Việt Nam. Thời kỳ bắc thuộc lần thứ nhất (111TCN – 40) thuộc quận Giao Chỉ. Thời Ngụ – Đinh – Tiền Lê (Lê Đại Thành)(938 – 1009) thuộc lộ Triều Dƣơng( cũng đƣợc gọi là trấn Triều Dƣơng). Thời lý (1010 – 1225) Quốc hiệu Đại Việt đổi trấn Triều Dƣơng thành Châu Vĩnh An (vào năm 1013). Dƣới đời vua Lý Anh Tông năm 1149 lập trang Vân Đồn gồm các đảo thuộc quần đảo Vân Đồn làm nơi buôn bán với nƣớc ngoài. Thời Trần (1225 – 1400) Quốc hiệu Đại Việt. Năm 1242 Trần Thái Tông đổi Châu Vĩnh An thành Lộ Hải Đông có 8 huyện: Yên Bang, Chi Bang, Yên Lập, Yên Hƣng, Tân An, Đại Lộc, Vạn Ninh, Vân Đồn (Trƣớc năm 1945 cả đảo Kế Bào mới có một xã là Đại Lộc. Huyện Vân Đồn ngày nay là huyện Đại Lộc và huyện Vân Đồn thời Trần. Năm 1285 Trần Nhân Tông đổi lộ Hải Đông thành lộ An Bang. Năm 1397 Trần Anh Tông đổi lộ An Bang thành lộ Phủ Tân An.
- Thời Hồ (1407–1427) năm 1427 Hồ Hán Thƣơng đổi lộ phủ Tân An thành Châu Tĩnh An có 8 huyện: An Đồng, Văn Phong, Tân An, An Hòa, An Lộc, Đại Lộc, An Ninh, Vân Đồn. Huyện Vân Đồn ngày nay là huyện Đại Lộc và huyện Vân Đồn thời Hồ hợp lại. Thời thuộc Minh (1417 – 1427). Đời Trần Qúy Khóang, năm Tân Mão 1411, nhập huyện Đại Lộc vào huyện Tân An, huyện Vân Đồn ngày nay gồm huyện Vân Đồn và một phần đất của huyện Tân An. Đời Lê Thái Tổ năm mậu thân 1428 thuận thiên năm thứ nhất chia đất nƣớc thành 15 đạo Thừa Thiên và một phủ Trung Đô, dƣới Đạo Thừa có phủ và châu, dƣới phủ có huyện, huyện Vân Đồn thuộc đạo Thừa Tuyên Yên Bang. Thời Hậu Lê (thời Lê Trung Hƣng hay Lê Trịnh). Đời Lê Anh Tông (1557) vì tránh tên húy của nhà vua là Lê Duy Bang, Trấn An Bang đổi thành Yên Quang có một phủ Hải Đông, ba huyện ( Chi Phong, An Hƣng, Hoành Bồ) và ba châu ( Vạn Ninh, Vĩnh An, Vân Đồn). Vân Đồn ngày nay gồm một phần đất của Châu Vĩnh An và Châu Vân Đồn thời Hậu Lê. Đời Lê Đế Duy (1731) Vân Đồn ngày nay là đất của châu Vân Đồn và một phần đất của châu Vĩnh An. Thời Nguyễn ( 1802 – 1945). Năm 1836 Vua Minh Mạng đổi Châu Vân Đồn thành Tổng Vân Hải. Ngày 10 – 10 – 1890 Thành Thái năm thứ 7, Phủ toàn quyền Pháp ra nghị định thành lập hai làng ngƣời Việt ở đảo Kế Bào ( Cái Bầu ). Năm 1923 chính quyền bảo hộ Pháp lập tổng Vân Hải sát nhập vào huyện Hoành Bồ. Cách mạng tháng 8 – 1945 thành công, huyện Vân Đồn thuộc Châu Cẩm Phả, bao gồm: Thị xã Cẩm Phả và huyện Vân Đồn ngày nay. Ngày 19 – 7 – 1946, Bộ nội vụ ra nghị định số 269-NV/NĐ tạm lập lại tỉnh Quảng Yên và khu đặc biệt Hòn Gai, ủy ban hành chính khu Đặc Biệt, chịu quyền điều khiển, kiểm soát trực tiếp của ủy ban hành chính Bắc Bộ. Khu Đặc Biệt Hòn Gai gồm: Cẩm Phả bến, Cẩm Phả mỏ, Hà Tu, Hà
- Lầm, Hòn Gai, Bãi Cháy và Châu Cẩm Phả (gồm đảo Cái Bầu và phố Ba Chẽ). Ngày 9 – 7 – 1947, Bộ nội vụ quốc phòng ra quyết định số 99- NV/QP chuyển các phủ huyện Kinh Môn, Nam Sách, Chí Linh (thuộc tỉnh Hải Dƣơng); Thủy Nguyên thuộc tỉnh Kiến An và khu Đặc Biệt Hòn Gai thuộc quyền điều khiển của ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Yên sát nhập đặc khu Hòn Gai với tỉnh Quảng Yên thành liên tỉnh Quảng Hồng, đảo Cái Bầu thuộc liên tỉnh Quảng Hồng. Ngày 26 – 12 – 1948, ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu I ra quyết định số 420-TGY, chia tỉnh Quảng Hồng thành tỉnh Quảng Yên và Hòn Gai gồm thị xã Hòn Gai, thị xã Cẩm Phả và huyện Cẩm Phả. Ngày 6 – 3 – 1957, Uỷ ban hành chính Hồng Quảng ra quyết định số 336-TCCB chia xã Vân Hải thành 4 xã: Quan Lạn, Bản Sen, Ngọc Vừng, Minh Châu. Ngày 12 – 12 – 1957 Uỷ ban hành chính khu Hồng Quảng ra quyết định số 622-TCCB thành lập xã Vạn Hoa Ngày 16 – 7 – 1964, Bộ nội vụ ra quyết định số 198-NV, sát nhập xã Cô Tô và xã Thanh Lân vào huyện Cẩm Phả. Ngày 16 – 9 – 1966, Hội đồng Chính Phủ ra quyết định số 185-CP, sát nhập xã Thắng Lợi thuộc thị xã Cẩm Phả vào huyện Cẩm Phả. Ngày 16 – 1 – 1979 Hội đồng chính phủ ra quyết định số 17-CP giải thể xã Văn Châu sát nhập vào xã Cộng Hòa, chuyển đất đai dân cƣ xã Cộng Hòa về thị xã Cẩm Phả, sát nhập xã Cộng Hòa của huyện Cẩm Phả vào thị xã Cẩm Phả. Ngày 10 – 9 – 1981, Hội đồng Bộ Trƣởng ra quyết định số 63- HĐBT, giải thể xã Tân Hải, sát nhập vào xã Ngọc Vừng, giải thể xã Ngọc Hà sát nhập vào xã Đông Xá và xã Hạ Long, thành lập thị trấn Cái Rồng huỵên Cẩm Phả. Ngày 16 – 4 -1988, Hội đồng Bộ Trƣởng ra quyết định số 6HĐBT hợp nhất xã Vạn Yên và xã Vạn Hoa thành xã Vạn Yên.
- Ngày 23 – 3 – 1994, chính phủ ra quyết định số 28/CP, tách hai xã Cô Tô và Thanh Lân của huyện Cẩm Phả để thành lập huyện Cô Tô. Đổi tên huyện Cẩm Phả thành huyện Vân Đồn. 2.1.2. Vị trí địa lý Huyện Vân Đồn là một huyện đảo thuộc phía Đông Nam của tỉnh Quảng Ninh có diện tích tự nhiên là 1.620,83km² ( trong đó đất nổi là 59.676 ha) đƣợc hợp thành bởi hai quần đảo Cái Bầu (còn gọi là Kế Bào) và quần đảo Vân Hải với hơn 600 hòn đảo lớn, nhỏ (đất, đá xen lẫn nhau) trên Vịnh Bái Tử Long. Phía Bắc và Đông Bắc giáp với huyện Tiên Yên và Đầm Hà, phía Đông Nam Giáp với huyện Cô Tô, phía Tây giáp với thị xã Cẩm Phả và thành phố Hạ Long ( trung tâm kinh tế, chính trị, thƣơng mại, du lịch) của tỉnh Quảng Ninh. Vân Đồn nằm trên quốc lộ 18A từ Hà Nội đi Móng Cái, cách cửa khẩu quốc tế Móng Cái trên 100km. Vân Đồn có 11 xã và một thị trấn, trong đó có hai quần đảo. Quần đảo Cái Bầu và thị trấn Cái Rồng là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của huyện và 6 xã: Đông Xá, Hạ Long, Vạn Yên, Đoàn Kết, Bình Dân, Đài Xuyên. Quần đảo Vân Hải có 5 xã: Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng, Thắng Lợi, Bản Sen. 2.1.3. Dân số Tính đến ngày 31 – 12 – 2005, dân số huyện Vân Đồn có 40.764 ngƣời, 9.130 hộ với 9 dân tộc anh em: Kinh, Tày, Nựng, Dao, Mƣờng, Sán Dìu, Cao Lan, Hoa và Thán Sín cùng chung sống hòa hợp. Dân cƣ phân bố không đều trên 20 hòn đảo, tập chung đông nhất ở đảo Cái Bầu và Đảo Quan Lạn. Quá trình hình thành dân cƣ ở đây trải qua nhiều biến cố của lịch sử, số ngƣời gọi là dân gốc phần lớn là đồng bào dân tộc ít ngƣời Sán Dìu, ngƣời kinh chủ yếu là dân Đồ Sơn – Hải Phòng và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, một số dân tộc ở nơi khác bị phong kiến phƣơng Bắc, đế quốc thực dân, chủ mỏ bóc lột phải bỏ quê hƣơng, hầm mỏ đi di cƣ đến đây để kiếm kế sinh nhai.
- 2.1.4. Khí hậu Cũng nhƣ các vùng biển khác ở Miền Bắc, Vân Đồn nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa song khí hậu ở đây mang nặng tính chất hải đảo: nóng ẩm, mƣa nhiều. Từ tháng 3 đến tháng 8 gió Đông Nam từ biển thổi vào mát mẻ. Từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau khí hậu lạnh do ảnh hƣởng của gió mùa Đông Bắc thổi về nên mùa đông ở đây hay có hiện tƣợng sƣơng mù. Tuy nhiên do là vùng đảo lên nhiệt độ không bao giờ xuống dƣới 0˚ nhƣ ở các vùng núi cao. Lƣợng mƣa trung bình năm ở khu vực quần đảo Cái Bầu là 1748mm, ở quần đảo Vân Hải là 2442mm. Nhiệt độ trung bình năm trên 22˚C, độ ẩm không khí 84% đặc biệt đây là vùng đảo lên từ xƣa đến nay Vân Đồn chƣa bao giờ phải đối diện với hiện tƣợng lụt lội. 2.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên Các hợp phần của tự nhiên là điều kiện cần thiết cho hoạt động du lịch. Trong những trƣờng hợp cụ thể, một số tính chất của các hợp phần đó có sức thu hút hấp dẫn du khách. Do vậy, chúng đƣợc trực tiếp khai thác vào mục đích kinh doanh du lịch nên trở thành tài nguyên du lịch tự nhiên. Các hợp phần đó là: địa hình, thủy văn, thế giới động thực vật. 2.2.1. Địa hình Địa hình là hình thái bên ngoài của vỏ trái đất đƣợc tạo ra bởi các quá trình địa chất lâu dài. Trong chừng mực nhất định, mọi hoạt động sống của con ngƣời trên một lãnh thổ đều phải phụ thuộc vào địa hình. Đối với hoạt động du lịch, điều quan trọng nhất là đặc điểm hình thái địa hình, nghĩa là các dấu hiệu bên ngoài của địa hình và các dạng đặc biệt của địa hình có sức hấp dẫn đối với hoạt động du lịch. Địa hình của Vân Đồn hết sức đa dạng, có rừng, có biển, có đảo đá, đảo đất. Chính những kiểu địa hình ấy đã tạo cho cảnh quan thiên nhiên Vân Đồn có những nét đặc trƣng, hấp dẫn đặc biệt.
- Hệ thống đảo ở các khu vực Vân Đồn hầu hết nằm trong đới địa chất duyên hải Bắc Bộ, hƣớng cấu trúc kiến tạo Đông Bắc – Tây Nam, song song với bờ biển của đất liền. Trên các đảo là địa hình đồi núi thấp, hoặc những dãy núi đá từ 100m đến 300m so với mặt nƣớc biển, đỉnh cao 307m trên đảo Ba Mùn, 282m trên đảo Trà Ngọ Lớn, 320m trên đảo Trà Ngọ Nhỏ, 232m trên đảo Sậu Nam dốc đứng dạng vách sát mép biển. Độ dốc trung bình 25˚. Trong lòng những núi đá vôi này ẩn chứa nhiều hang động kỳ vĩ nhƣ: hang Soi Nhụ, hang Hà Giắt, động Hang Trong, với hệ thống thạch đá và nhũ đá rất đẹp song còn nguyên sơ vì chƣa có sự tác động của bàn tay con ngƣời. Ngoài ra trong các hang động này còn chứa đựng cả những giá trị lớn lao về lịch sử, tại một số hang động đã tìm thấy nhiều di chỉ, hiện vật thuộc nền văn hóa Hạ Long. Ven chân các đảo có nhiều vũng, bãi gian triều đất bùn hoặc nhiều bãi cát hẹp, bãi đá do xô trƣợt từ núi xuống hoặc nổi tự nhiên, một số bãi đá gốc chân đảo rộng từ 30m đến 70m ngập chiều theo chu kỳ. Một số vùng rộng vừa có bãi bùn, vừa có bãi cát, bãi đá,vừa có chỗ sâu, cảnh quan đẹp, thuận lơi leo trú tàu thuyền, diện tích hàng trăm hecta nhƣ vùng Cái Quýt, vũng Ổ Lợn (đảo Ba Mùn), bãi cát dài hàng cây số ở bán đảo Minh Châu – Cửa Đối – Hòn Trụi trên đảo Quan Lạn. Đất trên các đảo hầu hết thuộc loại đất Feralít vàng nhạt trên đá mẹ cát kết, cuội kết, tầng đất mỏng dƣới 40cm, nghèo chất dinh dƣỡng và khô hơn. Từ độ cao địa hình từ 100m trở lên là các đảo núi đất, phần nhiều tầng đất dày và giàu dinh dƣỡng, đặc biệt có rừng che phủ và độ ẩm cao.
- Bảng 2.1. Phân loại địa cảnh khu vực Vân Đồn TT Địa cảnh quan nổi TT Địa cảnh quan chìm 1 Núi đất có rừng thƣờng xanh và 9 Thảm cỏ biển, rong biển trong thảm thực vật tổng hợp hệ thực vật thủy sinh 2 Núi đá vôi có rừng thƣờng 10 Rạn san hô, vỉa san hô, cụm san xanh và thảm thực vật tổng hợp hô nhiều hang động Cù Lao và những hòn nổi nhỏ 3 Rừng ngập mặn 11 Bãi đá ngầm 4 Vũng thung, áng không có 12 Đồng bằng tích tụ ngầm đáy thảm rừng biển 5 Bãi cát, bãi đá 13 Đồng bằng mài mòn ngầm đáy biển 6 Cồn, thềm nổi bị mài mòn, xâm 14 Luồng rạch biển thực 7 Nền đá lục nguyên, tảng, khối, 15 Vực, trũng, máng xâm thực vách đứng 8 Tầng đất theo địa hình, địa mạo các đảo nổi Với đặc điểm địa hình phong phú nhƣ vậy ở Vân Đồn là điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch biển đảo nhƣ tham quan, nghỉ dƣỡng, mạo hiểm, sinh thái. 2.2.2. Thủy văn Tài nguyên nƣớc bao gồm nƣớc trên bề mặt trái đất và nƣớc ngầm, đối với du lịch nƣớc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nƣớc bề mặt không chỉ có tác dụng phục hồi trực tiếp mà còn ảnh hƣởng nhiều đến các thành phần khác của môi trƣờng sống, đặc biệt nó làm dịu khí hậu ven bờ.
- Vân Đồn là khu vực đƣợc thiên nhiên ƣu đãi rất nhiều đặc biệt là ở đây có rất nhiều bãi tắm đẹp, đây chính là nguồn tài nguyên quan trọng để tiến hành khai thác các loại hình du lịch biển. Trong mấy chục hòn đảo ở Vân Đồn có rất nhiều bãi biển có những đặc trƣng về sóng, tốc độ dòng chảy, đặc điểm chiều tính rất thuận lợi cho các hoạt động du lịch đặc biệt là tắm biển. Nƣớc biển đƣợc đánh giá theo các đặc trƣng có ảnh hƣởng đến sức khỏe con ngƣời và hoạt động du lịch nhƣ nhiệt độ nƣớc, độ cao của sóng, độ mặn. Nhiệt độ nƣớc biển có ảnh hƣởng tới các hoạt động vui chơi giải trí dƣới nƣớc. Theo các nghiên cứu thực nghiệm, nhiệt độ nƣớc thích hợp nhất cho vui chơi giải trí dƣới nƣớc là trên 20˚C. Có thể đánh giá nƣớc biển thông qua thang nhiệt thích nghi của một số loại hình du lịch. Bảng 2.2. Mức độ thích nghi của nhiệt độ nƣớc biển đối với du lịch Loại hình Nhiệt độ nƣớc biển(0˚C) du lịch 29 24 - 25 25 - 27 27 - 29 Tắm biển Không thuận Tƣơng đối thuận Rất thuận lợi Thuận lợi lợi lợi Vui chơi Không thuận Tƣơng đối thuận Rất thuận lợi Thuận lợi lợi lợi Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển du lịch 2002 (Xây dựng hệ thống chỉ tiêu môi trƣờng cho phát triển du lịch) Độ cao của sóng cũng đƣợc đánh giá là rất quan trọng đối với nhiều loại hình du lịch. Các hoạt động thể thao dƣới nƣớc nhƣ lƣớt ván có thể cần độ cao lớn hơn nhƣng tắm biển thì cần độ cao thấp hơn. Độ mặn cũng là một nhân tố ảnh hƣởng tới khả năng và thời gian tham gia các hoạt động du lịch, ngoài ra thì dòng chảy có ảnh hƣởng lớn đến khả năng và thời gian tham gia các hoạt động du lịch.
- Qua phân tích trên cùng với việc xem xét các điều kiện cụ thể về thủy văn ở khu vực Vân Đồn có thể nhận thấy Vân Đồn có những điều kiện hết sức thuận lợi cho phát triển các loại hình du lịch biển nhƣ tắm biển, lặn biển, nghỉ dƣỡng biển, các hoạt động thể thao dƣới nƣớc Chẳng hạn các điều kiện nhƣ chế độ nhật triều là yếu tố chủ yếu điều tiết chế độ hải văn ở vùng đảo và biển trong phạm vi Vân Đồn, độ lớn dòng chảy vừa phải (0,1 – 0,2 m/s), độ mặn của nƣớc biển cao trung bình trên 27‰, nhiệt độ nƣớc biển trung bình năm là 25,1˚C. Bảng 2.3. Một số giá trị đặc trƣng về hải văn khu vực Vân Đồn Yếu tháng I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Nă tố m Mực Trun 200 196 195 197 202 203 204 206 217 226 217 207 206 nƣớc g biển bình (cm) Cao 427 410 388 381 423 431 429 415 408 423 430 470 470 nhất Thấp 6 0 16 9 19 2 8 16 14 34 21 7 10 nhất Độ Trun 31, 31, 31, 30, 28, 24, 21, 20, 22, 26, 28, 20, 27,4 mặn g 3 8 7 8 7 8 0 8 2 0 9 8 nƣớc bình biển Cao 35 34, 34, 34, 33, 31, 30, 30, 30, 33 33, 34, 35 (‰) nhất 4 7 4 8 7 1 6 5 9 3 Thấp 19, 26, 32, 2,7 3,6 2,2 1,9 1,9 2,0 4,0 16, 7,2 1,9 nhất 0 8 2 2 Nhiệ Trun 18, 18, 20, 23, 28, 30, 30, 30, 29, 27, 24, 20, 25,1 t độ g 1 1 0 6 6 2 6 3 1 3 5 3 nứơc bình biển Cao 24, 24, 27. 30, 33, 34, 34, 34, 34, 34, 31, 28, 26,6 (˚C) nhất 1 7 2 0 1 0 3 2 5 2 8 7 Thấp 11, 11, 12, 14, 21, 25, 24, 25, 32, 19, 15, 10, 10,9 nhất 0 7 5 0 4 3 5 0 9 8 4 9 (Nguồn: Trung tâm dự báo khí tƣợng hải văn Quảng Ninh) Với địa hình đa dạng phong phú bao gồm cả một phức hợp biển đảo, cùng với những điều kiện thuận lợi về thủy văn chắc chắn sẽ là động lực cho phát triển du lịch biển ở khu vực này.
- 2.2.3. Thế giới động thực vật Thế giới động thực vật cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động du lịch. Ngày nay khi mức sống của con ngƣời đƣợc nâng cao, áp lực của công việc, sự ô nhiễm môi trƣờng sống ngày càng tăng lên, dƣờng nhƣ ngƣời ta càng muốn đƣợc trở về với thiên nhiên. Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi, Vân Đồn không chỉ có biển, đảo mà còn có một thế giới động thực vật hết sức phong phú. Có thể nói Vân Đồn là nơi chứa đựng sự đa dạng sinh học vào loại bậc nhất khu vực Hạ Long. Về hệ động thực vật, theo điều tra nghiên cứu hệ động thực vật khu vực Vân Đồn 1998-2000 của viện điều tra quy hoạch rừng, viện tài nguyên sinh thái, Đại học lâm nghiệp. Hệ động vật thủy sinh trong phạm vi khu vực này đã điều tra phát hiện có tới 51 loài động vật phù du, 132 loài động vật thủy sản có giá trị cao chiếm ƣu thế ở vùng này nhƣ Sá Sùng, Cà Gai, Bào Ngƣ, Hải Sâm, Trai, Ngọc. Ngoài ra các loài động vật quý hiếm khác cũng rất phong phú với nhiều loài nhƣ: Báo lửa, Cầy hƣơng, Rái cá, Khỉ vàng, Tắc kè và nhiều loại cây dƣợc liệu quý nhƣ: Ba kích, Ngũ da bì, Đằng đằng Ngoài ra khi nghiên cứu hệ động thực vật không thể không kể đến quần thể động vật phù du cộng sinh, động vật đáy và rạn san hô. Quần thể động vật phù du cộng sinh với nhiều loại động vật khác, vừa làm cho mức độ đa dạng sinh vật phong phú, vừa là sinh cảnh và nguồn thức ăn cho nhiều loài khác. Động vật đáy thực sự phong phú và có giá trị cao đối với vùng biển ven bờ và trên thềm các đảo trong phạm vi vƣờn quốc gia Bái Tử Long. Hiện tại ở khu vực này đã khảo sát phát hiện đƣợc 132 loài động vật đáy. Số loài thuộc ngành thân mềm chiếm nhiều nhất (62 loài, 47%), tiếp đến là ngành Run đốt (31 loài,24%), ngành Chân đốt có lớp giáp xác (27 loài, 20%) và ngành đa gai (12 loài, 9%). Những loài trong ngành giun đốt có sâu đất, giun tơ chính là nguồn hải sản ƣu thế của vùng quần đảo này, giá trị kinh tế cao, nguồn lợi lớn từ nhiều đời nay của cộng đồng địa phƣơng (
- thƣờng gọi là Sá Sùng). Nguồn phát sinh dồi dào, trữ lƣợng lớn, phẩm chất cao, chủ yếu đối với các loài Sá Sùng, Bào Ngƣ, Hải Sâm, Cỏ Gai, Trai cho Ngọc, trên các bãi cát ngập triều, bãi bùn, thềm đá. San hô và rặng san hô ở vùng này tuy chƣa đến mức độ phong phú nhƣ ở một số vùng khác ở nƣớc ta, do những nguyên nhân địa chất biển, hải văn và môi trƣờng liên quan nhƣng vẫn có những đặc điểm riêng. Khảo sát sơ bộ cho thấy trong vùng có 66 loài san hô đỏ, 13 loài san hô sừng và thân mềm. Có một số loài san hô quý nhƣ Tám Tia, Hồng Sắc, đang ở thời kỳ phát triển. Trên thềm đảo ở tầm sâu trên 6m phía Đông Bắc đảo Ba Mùn, đảo Sậu, tập trung nhiều hơn. Thềm đảo phía nam gần Cửa Đối – Quan Lạn là nơi tập trung san hô sau phía Bắc và Đông Bắc.Tại khu vực hƣớng chính đông của đảo Ba Mùn cũng là khu vực tập trung san hô( có hơn 30 loài). Quần thể san hô trong vùng chƣa hình thành các bãi rạn rộng lớn, đang ở từng cụm nhỏ. Tuy nhiên có tới 70 loài san hô, phân bố khá tập trung ở một số khu vực. Các loài đáy biển bao gồm 13loài họ cá Mú, 12loài cá Khế và sau đó là các loài khác nhƣ Mập, Đuối, He, Kìm, Thu, Sơn, Căng những loài cá trong vùng phân bố, nhóm cá nổi xa bờ, nhóm cá tầng đáy, nhóm cá trong các rạn và cụm san hô. Ngoài cá còn có những loại tôm, cua, thân mềm, da gai Quần thể ốc cũng rất phong phú, đặc biệt một số loài ốc có giá trị cao chỉ có nhiều ở vùng này nhƣ ốc sao, ốc hƣơng, ốc đỏ, ốc đế. Về thực vật, Vân Đồn có hàng ngàn ha rừng với các loài gỗ quý, tiêu biểu nhƣ thiết đinh, lát hoa, kim giao, thông, tre, táu mật, lim xanh Ngoài ra Vân Đồn còn có vƣờnquốc gia Bái Tử Long là nơi lƣu giữ nhiều hệ sinh thái biển điển hình với giá trị đa dạng sinh học cao. Thực vật ƣu thế ở đây gồm các loài thuộc họ Vang, Chè, Trâm. Thực vật rừng khá phong phú và đa dạng đến nay đã ghi nhận đƣợc 398 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có 4 loài đƣợc ghi trong sách đỏ Việt Nam nhƣ Kim Giao, Ba Kích, Giác Đề và Thổ Phục Linh. Hệ động vật theo các ghi chép trƣớc đây Bái Tử Long có một hệ động vật có xƣơng sống rất phong phú và đa dạng
- nhƣng hiện nay đã bị suy giảm nghiêm trọng. Theo một số báo cáo thì lợn rừng và mang vẫn còn xuất hiện nhƣng những loài thú lớn nhƣ gấu thì không còn đƣợc phát hiện. Với sự đa dạng phong phú của các loài động thực vật đặc biệt với những khu rừng nguyên sinh nhiệt đới vẫn còn đƣợc bảo tồn nguyên vẹn trong vƣờn quốc gia, đây chính là nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên quan trọng để phát triển các loại hình du lịch thân thiện với môi trƣờng nhƣ du lịch sinh thái, du lịch tìm hiểu tự nhiên. 2.3. Tài nguyên du lịch văn hóa – nhân văn Vân Đồn đƣợc biết đến là vùng đất có lịch sử lâu đời, ngay từ thời tiền sử con ngƣời đã có mặt và sinh sống ở nơi đây. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử những dấu ấn của ngƣời xƣa vẫn còn để lại qua các di chỉ khảo cổ học quan trọng. Theo thời gian những cƣ dân ấy vẫn gắn bó với mảnh đất này để xây dựng và phát triển. Lịch sử đã ghi nhận nơi đây đã từng có những thời kỳ kinh tế, thƣơng mại phát triển rực rỡ mà sự ra đời và phát triển thƣơng cảng Vân Đồn là một ví dụ. Chính vì vậy mà cho tới hôm nay Vân Đồn vẫn còn gìn giữ đƣợc một hệ thống các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể hết sức phong phú, đây cũng là nguồn tài nguyên du lịch quan trọng cho phát triển du lịch. 2.3.1. Tài nguyên du lịch vật thể Các đảo trong khu vực Vân Đồn còn lƣu giữ các giá trị văn hóa thuộc nền văn hóa Hạ Long. Cuối năm 1937 nhà khảo cổ học Thụy Điển An-Đéc-Xen và hai chị em nhà khảo cổ học ngƣời Pháp M.Co-Li-Na đã đi điền giã nhiều tháng đến các bãi biển, hang động trên các đảo Ngọc Vừng, Cống Đông, Cống Tây, Thoi Giếng, Soi Nhụ Họ đã phát hiện ra nhiều hiện vật công cụ bằng đá của ngƣời nguyên thủy nhƣ: bàn mài, chày nghiền, mảnh tƣớc, vòng tay Từ đó tới nay các nhà khoa học Việt Nam tiếp tục khảo cổ khai quật và đã phát hiện thêm nhiều di chỉ khảo cổ trong khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long có giá trị. Năm 1968 các nhà khảo cổ đó phát hiện ra hang Soi Nhụ tìm thấy vại sành, vỏ hà ốc có liên đại
- cách đây 4000 năm. Các nhà khảo cổ học Việt Nam và thế giới đã gọi các di chỉ này thuộc nền văn hóa Hạ Long có liên đại cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm. Các di tích thời tiền sử Hang Soi Nhụ: Nằm trên đảo Soi Nhụ thuộc xã Hạ Long huyện Vân Đồn nằm cách thị trấn Cái Rồng khoảng 4km về phía Bắc. Đây là một trong những di chỉ khảo cổ học quan trọng của văn hóa Hạ Long. Năm 1938 lần đầu tiên hang động này đƣợc phát hiện bởi hai nhà khảo cổ học ngƣời Pháp. Với những di chỉ khảo cổ tìm đƣợc bao gồm các tàn tích thức ăn, công cụ lao động, đồ gốm có thể khẳng định đây là một trong những ngôi nhà cổ của các cƣ dân văn hóa Hạ Long. Theo kết quả phân tích cacbon C14 các nhà khảo cổ đã đƣa ra niên đại cách ngày nay khoảng trên 14000 năm, điều này chứng tỏ hàng ngàn năm trƣớc mảnh đất này đó có cƣ dân sinh sống. Hang Soi Nhụ căn nhà cổ nhất của các cƣ dân văn hóa Hạ Long đã và sẽ là một trong những điểm tham quan nghiên cứu quan trọng của du lịch Vân Đồn cũng nhƣ của du lịch Quảng Ninh. Hang Hà Giắt: Hà Giắt là một thôn thuộc xã Đoàn Kết thuộc huyện Vân Đồn. Địa danh Hà Giắt có từ lâu đời do những ngƣời Việt gốc Hoa đặt tên với ý nghĩa là nhất, là một. Năm 1937 các nhà khảo cổ học ngƣời Pháp đã tới đây điều tra khai quật họ đã phiên âm Hà Giắt thành Hayart để gọi những bộ sƣu tập hiện vật ở đây. Sƣu tập Hayart hiện nay còn đƣợc lƣu giữ tại bảo tàng lịch sử Việt Nam. Hà Giắt là một trong những địa điểm khảo cổ học quan trọng của văn hóa Hạ Long. Bộ sƣu tập hiện vật ở hang Hà Gíăt hiện nay còn khoảng 70 hiện vật. Toàn bộ là đồ đẽo và công cụ có dấu vết sử dụng không qua chế tác. Hầu hết đồ đá trong bộ sƣu tập này đều làm bằng cuội grannít, đá có hạt thô lẫn trong những tinh thể trắng, vỏ cuội xù xì đã bị nƣớc phong hóa. Đây là đặc điểm chung của vùng biển Hạ Long.
- Về niên đại, di chỉ Hà Giắt có niên đại cách ngày nay khoảng 14000 năm vào khoảng trung kỳ đá mới, qua đây có thể thấy rằng ngƣời Hà Giắt và ngƣời Soi Nhụ cũng chung sống ở một thời kỳ mà các nhà khảo cổ học gọi chung thời kì này là văn hóa Soi Nhụ. Di chỉ Ngọc Vừng: Cách đây 5000 năm ngƣời nguyên thủy thuộc thời đại đá mới đã đến đây cƣ trú. Ngày nay dân cƣ địa phƣơng trong lúc làm vƣờn thƣờng bắt gặp rìu đá, bôn đá vừa có vai vừa có nấc, chì lƣới, bàn mài có rãnh, hòn kê là những di sản của ngƣời nguyên thủy đã sinh sống ở Ngọc Vừng. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, từ một ngƣời chủ lò thủy tinh trong vùng đã phát hiện ra các di chỉ đá mới Ngọc Vừng, các học giả khảo cổ Pháp đã tìm đến hòn đảo này. Căn cứ vào hình dáng độc đáo của những hiện vật thu lƣợn đƣợc trên đảo, họ đặt tên di chỉ đồ đá ở đây là “Nền văn hóa Danh-Dô- La”. Các di tích lịch sử, văn hóa Đình Quan Lạn: Là một công trình kiến trúc cổ có quy mô lớn và bậc nhất nhì hiện có ở Quảng Ninh. Đình đƣợc xây vào thời Lê tại bến Cái Làng – một trung tâm thƣơng cảng Vân Đồn xƣa, gồm 9 gian. Đến thời Nguyễn nhân dân chuyển sang đất Quan Lạn để sinh sống thì đình cũng đƣợc chuyển theo và rút bớt đi còn 7 gian, lúc đầu đình đƣợc xây theo kiểu chữ “công”, gồm 5 gian 2 chái tiền đƣờng, 3 gian ống muống và một gian 2 chái hậu cung. Sau đó đƣợc rời về xóm Thái Hòa rồi xóm Nam, cuối cùng rời về xóm Đoài và đƣợc thu gọn nhƣ ngày nay. Hiên của Bái Đƣờng với những đầu bẩy đƣợc trạm rồng lộng lẫy. Mỗi đầu bẩy là một hình rồng khác nhau. Trong 5 đầu bẩy ở Đình Quan Lạn có một chiếc phía trái gian giữa, bức trạm rồng mang đậm phong cách thời Lê: mắt rồng xếch dài nhƣ mắt ngƣời, dấu bờm hình đao uốn vài đƣờng rồi vút thẳng về phía sau. Đầu lƣ là một bộ phận đỡ cho xà thân vững cũng đƣợc trạm trổ công phu. Mỗi đầu lƣ đƣợc trạm 3 mặt rồng, phải, trái và bên dƣới. Bên dƣới là ngƣời đến thăm đình ngẩng lên nhìn thấy, chính vì vậy đƣợc trạm trổ tỉ mỉ và đẹp mắt.
- Toàn bộ kiến trúc của đình tuy đồ sộ bề thế, nhƣng các đầu đao uốn cong hình rồng đã tạo cho đình một nét mềm mại uyển chuyển. Mái lợp ngói mũi hài, trên bờ nóc đắp nổi lƣỡng long chầu nguyệt, hệ thống vì kèo cột gỗ kiểu giá chiêng chồng rƣờng. Các mảng trạm khắc ở đây đƣợc nghệ nhân trạm thổ công phu, tỉ mỉ, sắc nét và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Đề tài trang trí chủ yếu là hình rồng, phƣợng và hoa lá đƣợc thể hiện với các sắc thái khác nhau trên mỗi bức cuốn, con rƣờng, đầu bẩy, đầu dƣ, câu đầu, cửa võng mang đậm phong cách thời Lê. Toàn bộ hệ thống cột gỗ đƣợc làm bằng chất liệu gỗ Mần Lái một loại gỗ tốt nhất và chắc hơn cả gỗ lim, mọc từ núi đá trên đảo Ba Mùn (Vân Đồn). Đình Quan Lạn xây dựng để thờ thành Hoàng Làng và các vị Tiên Công có công khai lập ấp, lập lên xã Quan Lạn ngày nay và Trần Khánh Dƣ ngƣời có công lớn trong trận chỉ huy đánh tan đoàn quân lƣơng của Trƣơng Văn Hổ ở Vân Đồn, Cửa Lục góp phần quan trọng vào trận đại thắng Bạch Đằng năm 1288 nên đã đƣợc nhân dân tôn thờ làm Thành Hoàng của làng. Hiện nay còn lƣu giữ đƣợc ở đình là tƣợng Trần Khánh Dƣ, 18 sắc phong của triều Nguyễn phong cho Trần Khánh Dƣ, long ngai, khám thờ, cửa võng, hoành phi, câu đối. Chùa Quan Lạn: Nằm ngay bên trái đình Quan Lạn có tên chữ là Vân Quan tự. Tên Vân Quan đã thể hiện mối quan hệ giữa thƣơng cảng Vân Đồn và xã Quan Lạn ngày nay. Chùa có kiến trúc kiểu chữ “đinh”gồm 3 gian 2 chái tiền đƣờng và 3 gian hậu cung, mái lợp ngói mũi hài, phía trƣớc chùa là tam quan gác chuông. Hệ thống vì kèo cột gỗ theo kiểu giá chiêng chồng rƣờng, các con rƣờng, con đầu đều đƣợc trạm trổ hình hoa dây, hoa lá vân xoắn và hoa cúc mãn khai. Ngoài thờ Phật chùa Quan Lạn còn thờ mẫu Liễu Hạnh, một tín ngƣỡng bản địa và thờ cụ Hậu (ngƣời có công với dân làng).
- Hiện nay chùa còn lƣu giữ đầy đủ tƣợng phật có giá trị điêu khắc của thời Nguyễn, hoành phi, câu đối, sắc phong của vua Thành Thái (1889) phong cho mẫu Liễu Hạnh và nhiều đồ tự khác bằng đồng và gỗ có giá trị. Chùa Lấm: Nằm trên sƣờn phía Tây đối diện với năm bến thuyền cổ dƣới chân đảo Cống Đông. Chùa xây trong lòng chảo ba bề có núi cao bao bọc, cửa chùa trông ra biển lớn, bãi cát trắng trải dài vài trăm mét. Nền chùa có hai cấp, cấp một hình gần vuông, cấp hai nhỏ hơn, cả hai cấp đều kè đá chắc chắn. Trên mặt cấp thứ hai còn 16 hòn đá kê cột, khoảng giữa của 4 hòn kè có một bệ sen bằng đá 3 tầng. Cả 3 tầng đƣợc trạm trổ đẹp mắt, các cánh sen mềm mại thu nhỏ dần từ dƣới lên trên, từ ngoài vào trong, tựa một búp Sen đang nở. Khu nhà tổ khá đồ sộ có dãy nhà trên và dãy nhà dƣới. Tƣờng gồm những tảng đá xếp chồng lên nhau, không hề có một chút vôi vữa, vẫn không bị xô lệch, mặt tƣờng vẫn phẳng phiu dù đã sáu, bảy chục năm trôi qua. Ngọn bảo tháp xây dựng chếch về phía Bắc đảo Cống Tây trên một khu đất bằng phẳng có ngọn đồi khá cao. Tháp xây hoàn toàn bằng gạch nung mặt ngoài của tháp đƣợc trang trí hinh rồng, phƣợng, hoa lá với dáng điệu uyển chuyển, sinh động. Ở trên mỗi bến thuyền có một giếng nƣớc ngọt, đó là giếng Hệu (hay giếng nàng Tiên) trên bến Cái Làng, giếng Rùa Vàng trên bãi Con Quy, giếng Đình trên bến Cái Cổng. Mỗi giếng gắn liền với một câu chuyện thần thoại và giếng nào cũng trong và ngọt, đầy nƣớc xung quanh. Đồn Canh Tiền Tiêu Tĩnh Hải: Không chỉ là một cảnh mậu dịch quan trọng mà Vân Đồn còn là mảnh đất tiền tiêu, là cửa ngõ của tổ quốc. Suốt trong thời kì phong kiến Vân Đồn đƣợc xem nhƣ là khu vực có vai trò quan trọng về mặt quân sự. Đến thời Nguyễn tuy không còn vai trò là một thƣơng cảng quan trọng nữa nhƣng việc buôn bán ở đây vẫn chƣa chấm dứt. Các thuyền buôn nƣớc ngoài vẫn qua lại đặc biệt là ngƣời Trung Quốc.
- Ở vào thời kì này hiện tƣợng cƣớp biển xảy ra thƣờng xuyên. Giặc biển có khi là dân đánh cá đi cƣớp các thuyền cá khác của dân, có khi là bọn lái buôn đến lén lút mua hàng quốc cấm, chúng luôn chống lại cả quân tuần tiễu của triều đình. Trƣớc hoàn cảnh đó nhà Nguyễn đã cho xây dựng một hệ thống đồn bảo sai quan lƣu giữ vừa để canh phòng mặt biển vừa để thu thuế các thuyền buôn qua lại. Hiện nay di tích đồn Canh Tĩnh Hải vẫn còn đƣợc lƣu giữ gần nhƣ nguyên vẹn trên đảo Ngọc Vừng. Nghè Trần Khánh Dƣ: Nằm ở xóm Thái Hòa xã Quan Lạn thờ phó tƣớng Trần Khánh Dƣ. Nghè đƣợc xây theo kiểu chữ đinh gồm 3 gian tiền đƣờng và 2 gian hậu cung. Nghè Trần Khánh Dƣ và đình Quan Lạn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nghè là nơi thờ chính Trần Khánh Dƣ, đình là nơi làm lễ tế thành hoàng Trần Khánh Dƣ trong mỗi dịp lễ hội. Các di tích Bến thuyền cổ Bến Cống Đông: Nằm trên đảo Cổng Đông – xã Thắng Lợi. Phía đông và phía tây của đảo là một khoảng dài hơn 10km là một bến thuyền cổ dài nhất trong các bến bãi. Bến này có bảy vụng to nhỏ ăn sâu vào đảo trở thành bến đỗ an toàn và tiện lợi. Hiện vật ở đây có số lƣợng nhiều và phong phú trong tất cả các bến. Trong số đó gốm men nâu thời Trần, gốm men ngọc Trung Quốc thời Nguyên và gốm thời Mạc. Bến Cái Làng: Nằm trên địa phận xã Quan Lạn. Suốt bờ vụng phía Đông, một khoảng dài tới 200m có rất nhiều mảnh đồ gốm các loại thuộc nhiều thời khác nhau. Ngƣời dân ở đây còn tìm thấy nhiều chồng bát đĩa còn nguyên vẹn và một số tiền đồng thời Đƣờng. Trên núi còn có nhiều dấu tích nền nhà và một nền đình cổ, một giếng cổ. Bến Cống Cái: Nằm ở bờ tây đảo Vân Hải, nay thuộc xã Quan Lạn. Cửa vùng mở ra một con sông do đảo Vân Hải và núi Man chạy song song ngăn một dải nƣớc tạo thành. Bến này cách bến Cái Làng khoảng 2km,
- nƣớc sâu, kín gió thuận lợi cho thuyền bè neo đậu. Suốt bờ Bắc một dải dài hơn 100m là nơi tích tụ rất nhiều mảnh gốm các loại giống nhƣ ở Cái Làng. Bến Con Quy: Nay thuộc xã Minh Châu. Tại địa điểm này ngƣời ta cũng tìm thấy rất nhiều mảnh gốm nhƣ vò, hũ, các chồng bát đĩa còn nguyên vẹn và tiền đồng Trung Quốc từ thời Đƣờng – Tống và tiền Việt các thời Lý, Trần, Lê mà nhiều hơn cả là tiền Tây Sơn. Bến Cái Cổng: Gồm hai vụng đƣợc gọi là Cổng Ông (phía Bắc) và Cổng Bà (phía Nam) thuộc đảo Trà Bản. Tại khu vực này cũng tìm thấy nhiều mảnh đồ gốm các thời Lý, Trần, Lê. Đặc biệt ngƣời ta tìm thấy một cây đèn nến bằng gốm, có men màu trắng ngà, rạn, phong cách Hán. Bến Cống Yên, Cống Hẹp; Nằm ở phía tây của đảo Ngọc Vừng. Tại đây cũng tìm thấy nhiều mảnh gốm trên dải bờ biển kéo dài hàng trăm một. Dấu vết và các công trình kiến trúc cổ Cùng với việc mở thƣơng cảng Vân Đồn, các triều đại phong kiến cũng cho xây dựng ở khu vực này nhiều công trình kiến trúc tôn giáo, quân sự. Để đáp ứng nhu cầu tín ngƣỡng của nhân dân và các thuyền buôn và hơn nữa đảm bảo về mặt chủ quyền an ninh trong khu Thƣơng cảng cũng nhƣ an ninh quốc gia. Bắt đầu khu vực đảo Cống Đông, Cống Tây là sự xuất hiện của một loạt các công trình kiến trúc tôn giáo nhƣ dấu tích ngọn bảo tháp, chùa vụng, Cây Quéo, chùa vụng Chuồng Bò, Chùa Lấm, 2.3.2. Tài nguyên du lịch phi vật thể Vân Đồn là nơi dân cƣ sinh sống khá đông đúc trong đó có nhiều ngƣời bản địa. Qua quá trình sinh sống ở đây họ đã sống tạo ra nhiều giá trị văn hóa mang tính địa vực nhƣ: canh tác lúa nƣớc trên đất dốc, đánh bắt chế biến thủy hải sản, sử dụng tài nguyên rừng, phong tục tập quán ăn sóng, nói gió. Cùng với sự chịu thƣơng, chịu khó lao động, phẩm chất chất phác của cƣ dân biển đã hình thành và bảo tồn tới ngày nay nhiều lễ hội và các hình thức nghệ thuật biểu diễn truyền thống nhƣ hội đình Quan Lạn với
- các trò chơi dân gian mang văn hóa biển nhƣ tế thần biển, đua thuyền và hò biển. Lễ hội Lễ hội đình Quan Lạn:(còn gọi là hội đua bơi Quan Lạn), là hội làng của ngƣời dân xã đảo Quan Lạn, một hòn đảo ở khu trung tâm thƣơng cảng Vân Đồn. Lễ hội đƣợc tổ chức vào ngày 18 tháng 6 (âm lịch) hàng năm nhƣng hội kéo dài từ ngày 10 đến hết ngày 20 tháng 6. Lễ hội đình Quan Lạn vừa kỷ niệm chiến thắng giặc Nguyên Mông năm 1288 và chiến công của Trần Khánh Dƣ, một danh tƣớng của nhà Trần, vừa là ngày hội cầu đƣợc mùa của cƣ dân vùng biển. Hội đƣợc tổ chức trên bến đình, nơi có đình Quan Lạn, một ngôi đình cổ trong số ít những ngôi đình còn giữ đƣợc cho đến ngày nay. Theo tục lệ ngày 10 tháng 6 “khóa làng”dân trong làng không đƣợc đi bất cứ đâu nhƣng những ngƣời làm ăn ở xa và khách thập phƣơng lại có thể về làng dự hội. Hội đình Quan Lạn có tục đua thuyền khác với bơi trải. Dân làng chia làm 2 phe Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ lập doanh trại riêng từ ngày 13 để luyện quân, chuẩn bị đua thuyền. Thuyền đua thƣờng là thuyền đi biển trọng tải nặng, sáu tấn, rộng và sâu lòng, đƣợc hạ buồm, trang trí đầu rồng ở mũi thuyền. Ngày 16 làm lễ nghinh thần, dâng lễ rƣớc bài vị của Trần Khánh Dƣ từ nghè (cách đình 1,5 km) về đình. Dƣới bến đôi thuyền đua tập luyện tạo một không khí tƣng bừng , náo nhiệt. Ngày 18 tháng 6 vào 3 giờ chiều (năm nào cũng vậy thƣờng lúc này nƣớc triều lên tới sát bến của đình) hai bên bắt đầu xuất phát. Lính bên Văn áo trắng quần xanh, chân quấn xà cạp xanh. Lính bên Võ quần áo xám hoặc đen. Tiếng chiêng trống, tiếng hô vang, cờ bay phần phật đầy khí thế. Mỗi khi hai đàn giáp nhau ở sân đình, quân chúng cùng dân chúng hét lớn vang dậy cả một vùng. Hai tƣớng mùa những đƣờng dao đẹp mắt, hai đoàn quân gặp nhau ba lần, tƣợng trƣng cho ba lần đánh thắng quân Nguyên thời Trần. Tới lần thứ ba hai đoàn quân tập trung trƣớc miếu, hai vị tƣớng vào tế, khi quay trở ra thì cuộc đua thuyền mới chính thức bắt đầu. Lễ hội đình Quan Lạn mang dấu ấn của một hội làng truyền thống nhƣng đặc biệt
- hoành tráng thể hiện tinh thần thƣợng võ của dân tộc chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền đất nƣớc của những ngƣời dân vùng biển. Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Là vùng đất có truyền thống và lịch sử văn hóa lâu đời trên dƣới một vạn năm. Từ nền đồ đá mới với văn hóa Soi Nhụ và văn hóa Hạ Long đến thời kì kim khí con ngƣời đã liên tục quần cƣ ở vùng đất này. Vân Đồn là nơi có nhiều dân tộc chung sống xen kẽ với nhau. Nếu thống kê theo nguồn gốc thì hiện nay có tới hơn 7 dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc có một nét đặc trƣng văn hóa truyền thống riêng song luôn có ảnh hƣởng qua lại với nhau. Nằm trong cùng khu vực địa lý là vùng biển Đông Bắc Việt Nam, Vân Đồn cũng là nơi hội tụ, tiếp nhận truyền thống văn hóa của nhiều vùng, trƣớc hết là vùng Đồng Bằng Bắc Bộ, ở các huyện miền Đông của tỉnh Quảng Ninh, văn hóa nghệ thuật của ngƣời Việt cũng tiếp nhận những ảnh hƣởng của văn hóa các dân tộc thiểu số và của Trung Hoa. Tuy vậy do điều kiện đặc biệt về địa lý, những hoàn cảnh đặc thù về xã hội và lịch sử, vùng Vân Đồn đó hình thành và tồn tại những nếp sống văn hóa, những hình thái nghệ thuật dân gian, độc đáo nhất là ở vùng biển. Các vùng dân cƣ khác nhau ở Quảng Ninh thì có nhiều loại hình dân gian độc đáo, đặc sắc và mang sắc thái riêng. Trong các vùng dân cƣ của ngƣời Việt thì ngƣời dân chài trên biển có nhiều loại hình hát dân gian đặc sắc hơn cả. Đó là hát chèo đƣờng hay còn gọi là hò biển. Hàng ngày những ngƣời dân chài phải đối mặt với sóng gió, vật lộn với con cá, con tôm, cuộc sống đầy khó khăn vất vả nhƣng họ vẫn sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần rất đặc sắc nhƣ những câu hò biển, những lời nói đối đáp giao duyên. Những câu hò, lời hát đó đã làm cho họ thấy lạc quan hơn, yêu cuộc sống của mình hơn, quên đi những lo âu, vất vả đời thƣờng. Hát chèo đƣờng còn gọi là hát ví, hát véo, hát gái, hát đố, hát giảng, cũng có ngƣời gọi là hò biển.
- Theo nhà nghiên cứu văn hóa Tống Khắc Hài (Quảng Ninh): “Giai điệu của lối hát này gần với giai điệu của Miền Trung nhƣng mềm mại, chậm chãi, mênh mang, trữ tình hơn”. Bắt đầu bài hát, sau tiếng “ơ”ngân rất dài là lời hát gần nhƣ trong “hát đúm”, tiết tấu chạm chãi, âm vực thấp, rất dễ hát, ai cũng có thể hát đƣợc. Hát chèo đƣờng là những cuộc hát đối đáp giao duyên thƣờng diễn ra rất tự nhiên trên vùng non nƣớc Hạ Long kỳ diệu, huyền ảo, thơ mộng, giữa các thuyền ngƣ dân với nhau. Chúng ta có thể thấy rất rõ cuộc sống ở nơi đây, ngƣ dân suốt đời lênh đênh trên thuyền, dƣới biển vật lộn với sóng, gió Họ cƣới xin, sinh đẻ, giỗ tết, làm ăn đều trên thuyền, chỉ khi họ chết mới đƣợc gửi xƣơng trên đảo. Quê hƣơng của họ không ở xã, ở huyện, ở phƣờng nào rõ rệt cả mà cứ theo con nƣớc, theo sóng gió, theo mùa vụ và tùy từng nghề (chài hay lƣới, cắm đăm hay thả câu), mà nay đây mai đó, đƣơng nhiên họ cũng thƣờng đi và sống quây quần theo gia đình, dòng họ. Hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ với rất nhiều hang hƣờm, nhiều vụng, nhiều áng khuất nẻo xa xa ngoài biển khơi họ lấy đó làm mái nhà, làm tƣờng lũy che chắn, che chắn cho họ rất an toàn, không sợ bão tố, không sợ những đe dọa ở trên bờ. Cuộc sống lênh đênh nay đây mai đó, song mỗi gia đình một chiếc thuyền con, họ cảm thấy có nhu cầu làm quen, giao lƣu và kết bạn với các thuyền khác để cùng nhau trò chuyện và có thể giúp đỡ nhau giữa biển bao la rộng lớn này. Giữa vùng non nƣớc xanh biếc, những khi chung bến chung bờ, những khi buông neo chờ gió đợi nƣớc, những khi động biển, động trời, xin nhau miếng chầu, mời nhau chén nƣớc, nhất là khi chiều xuống trăng lên, ánh trăng rải vàng trên vịnh Lúc này thuyền này hát gọi, thuyền kia đáp lời. Tiếng hát vang lên và ngân dài ẩn dấu lời tỏ tình bóng bẩy, thắm thiết chân tình. Dẫu có thể chẳng lên vợ lên chồng thì cũng có thể rãi bày
- cùng nhau qua câu hát, tâm sự tâm tƣ tình cảm với nhau, để rồi khỏi phụ lòng nhau. Nếu nhƣ hợp cảnh, hợp tình thì hát hỏi đối đáp, thử tài thử tình cho đến trăng đêm, rồi đến sáng ra mới đƣợc nhìn tỏ mặt nhân tình. Nhiều đôi thuyền hát hết đêm này qua đêm khác suốt một tuần trăng mới thật sự ngã lòng. Chính vì vậy chúng ta thấy rằng: Hát giao duyên trên biển là nhƣng khúc hát say dắm nhất. Say đắm, nồng nàn, thắm thiết trữ tình, vừa giàu âm điệu hình ảnh vừa mộc mạc, chân thành mà duyên dáng, rí rỏm trong lời hát: Ơ hò Trên mây xa Dƣới hòn Gà Chọi Anh hát câu này anh gọi nàng ra Những lời mình hát đêm qua Đêm nay hát nữa mau ra hát cùng Hát cho con gái bỏ chồng Đàn ông bỏ vợ, nạ dòng bỏ con Xƣa kia dân chài không có làng xóm trên bờ, các con thuyền nhỏ bé lênh đênh chỉ quen nhau, thân thiết với nhau nhờ những lời ca tiếng hát. Phần lớn trai gái dân chài nên vợ nên chồng từ tiếng hát. Hát đã trở thành phƣơng tiện giao lƣu, một nhu cầu tình cảm hết sức quan trọng, nên hát chèo đƣờng có lời ca hết sức phong phú, đủ các cung bậc của tình yêu, có kín đáo duyên dáng lại có cả đam mê suồng sã, có sự chân thành thủy chung, lại có cả ghen tuông, giận hờn, có khép lép nhún nhƣờng, lại có cả chua ngoa quá quắt. 2.4. Cơ sở hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất phục vụ du lịch 2.4.1. Cơ sở hạ tầng Một trong những điều kiện quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của du lịch là cơ sở hạ tầng của khu vực. Cơ sở hạ tầng có ý nghĩa nhất đối với du lịch bao gồm mạng lƣới và phƣơng tiện giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, mạng lƣới cấp điện, cấp nƣớc.
- 2.4.1.1. Mạng lƣới giao thông Mạng lƣới giao thông trên địa bàn huyện Vân Đồn trong những năm qua bƣớc đầu đƣợc đầu tƣ cả trên bộ lẫn dƣới biển, nhất là nâng cấp các bến cảng và các tuyến đƣờng giao thông liên thôn. Tuyến đƣờng tỉnh lộ 334 là trục giao thông chính. Các đƣờng liên xã nhƣ tuyến Đoàn Kết – Bình Dân – Đài Xuyên dài 15km đang đƣợc nâng cấp. Nhờ vốn của chƣơng trình biển Đông hải đảo, phƣơng tiện giao thông ở các đảo xa đã đƣợc nâng cấp. Xã đảo Ngọc Vừng mới đầu tƣ xây dựng đƣờng nhựa dài 7km từ cảng Cống Yên đến trung tâm xã, đƣờng dọc Quan Lạn – Minh Châu, đƣờng trục xã Bản Sen 15km và xã Thắng Lợi 5km đang đƣợc đầu tƣ sửa chữa, nâng cấp. Giao thông đƣờng thủy có vai trò hết sức quan trọng đảm bảo giao lƣu, đi lại của nhân dân năm xã ngoài đảo (đảo xa nhất cách trung tâm huyện khoảng 30km), lƣu thông hàng hóa và học hành, khám chữa bệnh và sinh hoạt của dân cƣ. Hiện có bến cảng Cái Rồng có thể tiếp nhận tàu trọng tải trên 500 tấn các bến cập tàu nhỏ ở các xã Quan Lạn, Minh Châu, Thắng Lợi, Ngọc Vừng. Bến cảng Bản Sen đang đƣợc xây dựng. 2.4.1.2 Mạng lƣới bƣu chính – viễn thông, thông tin liên lạc Huyện có hai cơ sở bƣu điện ở thị trấn Cái Rồng và xã đảo Quan Lạn, còn lại các xã đều có điện thoại và trạm dịch vụ điện thoại, bình quân 8 máy điện thoại trên 100 dân. Tuy nhiên thông tin liên lạc giữa các đảo còn nhiều khó khăn. 2.4.1.3. Mạng lƣới cấp điện Mạng lƣới điện quốc gia 35KV cùng với 9 trạm hạ thế phân phối điện mới chỉ cung cấp cho thị trấn Cái Rồng (90% dân cƣ đƣợc dùng điện) và 2 xã Đông Xá, Hạ Long (60-70% dân cƣ đƣợc dùng địên), đƣờng dây điện đến xã Đoàn Kết đang đƣợc đầu tƣ xây dựng. Tỉnh đã đầu tƣ cho các xã Quan Lạn, Minh Châu xây dựng trạm phát triển diezen, các xã đều đã có điện nhƣng tỷ lệ hộ đƣợc dựng điện mới đáp ứng 30% tổng số hộ. 2.4.1.4. Hệ thống cấp, thoát nƣớc
- Hiện có trạm cấp nƣớc sạch ở hồ Mắt Rồng phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho một số hộ dân cƣ khu vực thị trấn Cái Rồng. Về cấp nƣớc sạch nông thôn hiện nay còn rất khó khăn do chƣa tìm đƣợc nguồn nƣớc ngầm, nhiều vùng vẫn phải dùng nƣớc bị nhiễm mặn, nhất là ở các đảo nhỏ và vùng ven biển. Về hệ thống thủy lợi huyện cũng đã đầu tƣ xây dựng hệ thống thủy lợi gồm 26 hồ chứa nƣớc đập dâng với tổng dung tích 2,84,triệu mét khối và hệ thống kênh mƣơng nội đồng tƣới tiêu cho khoảng 440 ha, trong đó chủ động 140ha. Một số công trình thủy lợi hệ thống đƣợc đầu tƣ kiên cố hóa đã phát huy tác dụng nhƣ đập: Khe Mai (Đoàn Kết), Khe Bòng (Bình Dân). Tuy nhiên hầu hết là hệ thống tƣới chƣa đƣợc hoàn chỉnh nên về mùa khô nguồn nƣớc cạn kiệt, không thể chủ động đƣợc. Là một vùng đất sôi động đang trên đà phát triển du lịch, trong những năm qua tuy đã có nhiều cố gắng trong việc phát triển nhƣng hệ thống cơ sở hạ tầng của Vân Đồn vẫn còn nhiều khó khăn về hệ thống điện nƣớc, đƣờng giao thông nông thôn, bƣu chính viễn thông chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu du lịch. Để Vân Đồn sớm phát triển kinh tế du lịch, huyện đang có nhiều lỗ lực triển khai đề án phát triển kinh tế - xã hội khu kinh tế Vân Đồn để biến nơi đây sớm trở thành một trong những trung tâm du lịch của tỉnh và của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. 2.4.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng nhƣ quyết định mức độ khai thác các tiềm năng du lịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch. Chính vì có vai trò quan trọng nhƣ vậy nên sự phát triển nghành du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật. 2.4.2.1. Cơ sở lƣu trú Theo thống kê của phòng kinh tế huyện Vân Đồn các cơ sở lƣu trú trên địa bàn huyện đã tăng lên nhanh chóng.
- Năm 2004 toàn huyện có 28 cơ sở với tổng số phòng là 330 trong đó 12 cơ sở đƣợc xếp hạng. Năm 2005 toàn huyện có 35 cơ sở với tổng số phòng là 381 trong đó 21 cơ sở đƣợc xếp hạng. Năm 2006 toàn huyện có 40 đơn vị kinh doanh cơ sở lƣu trú với 424 phòng, trong đó 23/40 cơ sở đƣợc xếp hạng đạt 62,5% số phòng đạt tiêu chuẩn là 278/424 chiếm 65%. Năm 2007 trên địa bàn huyện đã có 42 cơ sở lƣu trú với tổng số phòng là 551, trong đó có 25 cơ sở đã đƣợc phân loại, xếp hạng theo quyết định của sở du lịch đạt 50%. Số phòng đạt tiêu chuẩn tối thiểu là 329 đạt 59,7%. Năm 2008 trên địa bàn huyện có 46 cơ sở lƣu trú với tổng số phòng là 602 phòng, trong đó có 26 cơ sở đã đƣợc phân hạng. Bảng 2.4. Thực trạng cơ sở lƣu trú tại huyện Vân Đồn 2004 – 2008 Năm Tổng số Tổng số cơ sở lƣu Tổng số Tổng số buồng cơ sở lƣu trú đƣợc xếp buồng phòng phòng đạt tiêu trú hạng chuẩn 2004 28 12 330 211 2005 35 21 381 254 2006 40 23 424 278 2007 42 25 551 329 2008 46 26 602 367 (Nguồn: Phòng kinh tế huyện Vân Đồn) Trong số các cơ sở lƣu trú thì có tới gần 50% là chƣa đƣợc xếp hạng, các cơ sở này chủ yếu là các nhà nghỉ bình dân. Công suất sử dụng buồng còn thấp, bình quân đạt 48%. Nguyên nhân khách quan là do đặc thù của ngành du lịch mang tính thời vụ nên khi vào mùa cao điểm số lƣợng khách du lịch tăng lên, vì vậy số lƣợng chất lƣợng phòng chƣa đáp ứng đƣợc nhu
- cầu gia tăng đột biến này (một số cơ sở lƣu trú còn chƣa đƣợc trang bị hệ thống điều hòa không khí). Ở các đảo ngoài khơi Vân Đồn nhƣ Quan Lạn, Ngọc Vừng một số nhà dân vẫn cho khách ở theo dạng “home stay”tức là ngủ tại nhà và hầu hết các cơ sở này do không đăng ký kinh doanh nên rất khó khăn trong việc thống kê. Do chƣa có quy hoạch chi tiết, nên các cơ sở lƣu trú đƣợc xây dựng một cách tự phát, không đồng bộ. Các cơ sở này chủ yếu có quy mô nhỏ, vừa là nhà ở vừa tận dụng kinh doanh, thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu các điều kiện của một cơ sở kinh doanh du lịch nhƣ: vấn đề về vệ sinh, an toàn Các cơ sở lƣu trú hầu hết chỉ tập chung ở khu vực thị trấn Cái Rồng, Bãi Dài và trên đảo Quan Lạn. Theo thống kê riêng ở khu vực thị trấn Cái Rồng và khu vực Bãi Dài trên đảo Cái Bầu tập chung tới 29 cơ sở. Trên đảo Quan Lạn là 10 cơ sở. Số còn lại tập chung ở các khu vực khác. Tại Bãi Dài năm 2000 tập đoàn ATI (Ameircan Technologies In – công ty công nghệ Việt Mỹ) đã tiến hành quy hoạch xây dựng ở đây một khu du lịch sinh thái kết hợp với nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra cũng trên đảo Cái Bầu nhiều dự án đầu tƣ du lịch lớn khác cũng đang đƣợc triển khai nhƣ các dự án của xí nghiệp hợp lực Mai Quyền, công ty du lịch sinh thái Vân Hải, dự án xây dựng quần thể khách sạn 5 sao Trên đảo Ngọc Vừng hiện nay mới chỉ có duy nhất hai cơ sở lƣu trú cho khách du lịch, trong đó đã đƣa vào khai thác với số lƣợng là 5 phòng ngủ và một nhà sàn có sức chứa khoảng 40 du khách ngủ tập chung. Tuy nhiên về chất lƣợng tiêu chuẩn thì còn quá thấp kém và tạm bợ. Một số cơ sở khác là dự án xây dựng khu nghỉ dƣỡng cao cấp của công ty xây dựng Sumeco Sông Đà Hạ Long thì còn đang trong quá trình xây dựng, dự kiến sẽ đƣa vào khai thác đón khách vào cuối năm 2011 với hơn 20 buồng ngủ cùng với hệ thống nhà sàn và khu nhà hàng liên hoàn. Cũng trên đảo Ngọc Vừng còn nhiều dự án du lịch sinh thái với tổng diện tích hàng trăm ha nhƣ của các đơn vị: Công ty xây dựng Sông Đà, Công ty xuất nhập khẩu Hà
- Nội đang hứa hẹn một trung tâm du lịch lớn ra đời. Tuy nhiên do chƣa có một bản quy hoạch tổng thể chính thức về không gian phát triển du lịch Vân Đồn nên các dự án hầu hết vẫn chƣa đƣợc cấp phép xây dựng vì thế trong giai đoạn hiện tại Ngọc Vừng vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu về lƣu trú cho khách du lịch. Mặc dù có những điều kiện hết sức thuận lợi về tài nguyên nhƣng do còn nhiều hạn chế về cơ sở vật chất lên khách du lịch đến với một số khu vực ở Vân Đồn chƣa nhiều. Trong tƣơng lai khi các dự án xây dựng đƣợc hoàn thành và đƣa vào sử dụng sẽ đáp ứng đƣợc nhiều hơn nữa nhu cầu nghỉ ngơi của du khách khi đến với khu vực này. 2.4.2.2. Ăn uống Hiện nay trên địa bàn huyện có trên 20 cơ sở ăn uống phục vụ khách du lịch, trong đó có 11 cơ sở vừa kinh doanh ăn uống vừa kết hợp kinh doanh nhà nghỉ, còn lại là các cơ sở khác chủ yếu là các nhà hàng phục vụ các đối tƣợng khách đa dạng từ cao cấp đến bình dân. Các cơ sở này tuy chƣa nhiều nhƣng bƣớc đầu đã đáp ứng đƣợc nhu cầu của phần lớn khách du lịch khi đến với Vân Đồn. Tuy nhiên khó khăn gặp phải ở đây là hầu hết các cơ sở kinh doanh ăn uống ngoài đảo xa gặp khó khăn đó là vấn đề về nguồn cung cấp thực phẩm. Hầu nhƣ các cơ sở này đều bị động bởi nguồn cung thực phẩm do vị trí nằm xa đất liền, xa chợ và các trung tâm thƣơng mại, các loại thực phẩm tƣơi sống lại không bảo quản đƣợc lâu vì vậy gây rất nhiều khó khăn cho việc phục vụ nhu cầu ăn uống của du khách. 2.4.2.3. Vận chuyển Hệ thống các đơn vị vận chuyển khách chủ yếu mới là để phục vụ dân sinh hầu hết chƣa đủ tiêu chuẩn để phục vụ khách du lịch. Năm 2007 tuyến xe buýt số 01 nối liền trung tâm du lịch Bãi Cháy với khu du lịch Bãi Dài đi vào hoạt động tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc đƣa đón, thu hút du khách giữa trung tâm du lịch lớn nhất Quảng Ninh về với Vân Đồn. Ngoài ra các phƣơng tiện vận chuyển khác nhƣ các tuyến xe liên tỉnh, các hãng taxi, tàu ra các tuyến đảo cũng đã thực hiện tốt hơn. Việc đảm bảo an
- toàn, chất lƣợng dịch vụ cho du khách, số lƣợng, số chuyến đƣợc đƣa vào sử dụng cũng không ngừng đƣợc tăng lên. Toàn huyện hiện có 5 hãng taxi với trên 40 xe, mỗi ngày có 50 chuyến xe tốc hành vận chuyển khách từ Vân Đồn đi các nơi, 5 chuyến xe chất lƣợng cao liên tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân và khách du lịch. Ngoài các phƣơng tiện vận chuyển khách trên bộ nhƣ ôtô, taxi, Vân Đồn còn có một đội tàu phuc vụ du lịch chuyên chở khách thăm quan khu vực vịnh Bãi Tử Long và thăm quan các đảo. Trƣớc đây việc vận chuyển khách ra các đảo và về dự lễ hội Quan Lạn chủ yếu là các tàu địa phƣơng hoặc tàu của ngƣ dân. Đến nay trên địa bàn huyện Vân Đồn đã có các doanh nghiệp khai thác hoạt động vận chuyển khách du lịch bằng đƣờng thủy, đƣờng bộ nhƣ công ty Tân Phong, Hoàng Quân, Quang Vinh, Đạt Hùng, Quang Minh với tổng số tàu là 32 chiếc. Tuy nhiên về chất lƣợng vận chuyển thì vẫn còn nhiều bất cập, các vấn đề về an toàn, sức chứa hầu nhƣ chƣa đƣợc chính quyền địa phƣơng kiểm tra, giám sát. Do chƣa có một quy hoạch cụ thể về bến bãi đón trả khách nên ở Vân Đồn các tàu du lịch thƣờng ra khơi tại các địa điểm là bến đỗ của các doanh nghiệp và do vậy sự quản lý của chính quyền là hết sức khó khăn. Một vấn đề nữa về phƣơng tiện vận chuyển khách ở Vân Đồn đó là hệ thống các phƣơng tiện vận chuyển khách trên đảo. Do đặc thự về vị trí, hầu hết các khu vực có điều kiện tự nhiên phong phú hấp dẫn khách du lịch lại nằm ở xa đất liền trên các đảo lớn nên việc di chuyển tại các điểm thăm quan trên đảo là hết sức khó khăn. Hiện nay du khách đến với các đảo nhƣ đảo Quan Lạn, Ngọc Vừng đều phải di chuyển trên các phƣơng tiện vận chuyển mà ngƣời dân địa phƣơng vẫn quen gọi là xe lam hay xe túc túc (một loại xe mô tô 3 bánh đƣợc đóng thùng đằng sau, có thể trở đƣợc 6-8 ngƣời. Về vấn đề an toàn của các phƣơng tiện này thì hầu nhƣ chƣa đƣợc chính quyền địa phƣơng quan tâm. Chẳng hạn số ngƣời đƣợc trở thực tế so với số lƣợng theo đăng ký, thông thƣờng các xe này đều trở quá số ngƣời
- theo quy định, thậm trí vào mùa cao điểm, đông khách thăm quan các xe này còn trở gấp đôi so với đăng ký. Điều này dễ gây ra sự mất an toàn cho du khách mà một khi có sự cố xảy ra thì vấn đề y tế rất khó khăn. Ngoài ra các phƣơng tiện này chủ yếu sử dụng nguyên liệu là xăng nên ít nhiều là nguyên nhân gây ra tiếng ồn và khói bụi. Trên một không gian hẹp của đảo, việc xuất hiện cùng lúc nhiều phƣơng tiện sẽ làm phá vỡ không gian vốn yên tĩnh, thơ mộng trên đảo. 2.4.2.4. Vui chơi giải trí Do điều kiện kinh tế chƣa thực sự phát triển, mặt khác hoạt động du lịch mới phát triển ở đây không lâu nên hiện nay trên toàn bộ khu vực Vân Đồn vẫn chƣa có hệ thống cơ sở vật chất nào phục vụ cho nhu cầu vui chơi giải trí cho các du khách khi đến đây. Ở một số khu vực nhƣ thị trấn Cái Rồng, Bãi Dài cũng xuất hiện một số trung tâm vui chơi nhƣ quán cafê, karaoke. Nhƣng chủ yếu là các cơ sở nhỏ phục vụ cho nhu cầu giải trí của cƣ dân địa phƣơng, còn lại ở các khu du lịch khác các cơ sở kiểu này chủ yếu cũng là để phục vụ các du khách nghỉ tại chỗ là chính. Khách du lịch khi đến đây ngoài việc thăm quan một số điểm du lịch thì không còn nơi giải trí độc đáo nào khác mang nét đặc sắc của địa phƣơng. Chính vì vậy đã làm cho nhiều khách du lịch cảm thấy nhàm chán không kéo dài đƣợc thời gian lƣu trú của khách, không kích thích đƣợc chi tiêu của khách. Từ thực trạng này cho thấy việc đầu tƣ xây dựng các khu vui chơi giải trí ở Vân Đồn là yêu cầu bức thiết hiện nay. Làm đƣợc điều này sẽ góp phần đáng kể trong việc thu hút khách và lƣu giữ khách ở lại với huyện đảo Vân Đồn. 2.4.2.5. Nguồn nhân lực Theo thống kê của phòng kinh tế huyện Vân Đồn trên địa bàn toàn huyện hiện có khoảng trên 1000 lao động hoạt động trong lĩnh vực du lịch dịch vụ. Trong số lao động trực tiếp trong ngành du lịch là hơn 600 ngƣời. Thực tế cho thấy lực lƣợng lao động trong ngành du lịch ở Vân Đồn tăng
- lên khá nhanh trong vòng bốn năm với tốc độ tăng trƣởng bình quân là 23,8%. Tuy nhiên tƣơng quan giữa lao động đƣợc đào tạo và chƣa đƣợc đào tạo là rất lớn. Bảng 2.5. Thực trạng lao động trực tiếp trong ngành du lịch ở Vân Đồn Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Chỉ tiêu Tổng số lao động 320 400 550 600 700 Phân loại trình độ Đại học 05 07 13 25 35 Trung cấp và cao 12 25 31 40 60 đẳng Nghề 40 55 96 135 170 Lao động phổ thông 263 313 410 400 435 (Nguồn: Phòng kinh tế huyện Vân Đồn) Hầu hết các lao động chƣa qua đào tạo vẫn chiếm tỷ trọng lớn 66,6%. Số lao động đạt trình độ từ trung cấp trở lên chỉ chiếm 10,8%. Hầu hết các lao động có trình độ chuyên môn đều tập chung ở các doanh nghiệp lớn là các công ty liên doanh nhƣ công ty cổ phần công nghệ Việt Mỹ, công ty cổ phần Vân Hải, công ty cổ phần Viglacera và một số doanh nghiệp tƣ nhân có vốn đầu tƣ lớn nhƣ công ty hợp lực Mai Quyền, công ty Quang Vinh. Ở đây các doanh nghiệp đã chú trọng hơn trong việc tuyển chọn lao động và đƣa lao động đi học thêm nghiệp vụ tại các cơ sở đào tạo trong và ngoài tỉnh nhằm mục tiêu nâng cao chất lƣợng phục vụ đáp ứng đƣợc nhu cầu ngày càng cao của du khách. Ngoài ra một số lao động là nhà quản lý, ngƣời dân địa phƣơng cũng đƣợc đào tạo kiến thức về du lịch sinh thái và nghiệp vụ hƣớng dẫn thông qua chƣơng trình tập huấn của trung tâm vƣờn Quốc gia trực thuộc hội khoa học lâm nghiệp Việt Nam phối hợp với vƣờn Quốc gia Bái Tử Long nhằm tăng cƣờng sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng vào hoạt động du
- lịch và bảo vệ môi trƣờng tại xã Minh Châu. Qua các chƣơng trình này đã mở ra hƣớng đi mới cho ngƣời dân trực tiếp tham gia vào hoạt động du lịch sinh thái góp phần giải quyết công an việc làm tạo thu nhập, nâng cao ý thức trong việc bảo vệ môi trƣờng bảo tồn và phát huy giá trị của vƣờn quốc gia Bái Tử Long cũng nhƣ nâng cao hiểu biết của du khách về môi trƣờng. Tuy nhiên vẫn còn lại một số lƣợng lớn các lao động trong ngành chƣa qua đào tạo chuyên môn (66,6%). Có rất nhiều nguyên nhân nhƣng nguyên nhân chủ yếu là do đặc điểm của khu vực Vân Đồn có rất nhiều đảo nằm cách xa với đất liền nên các điều kiện phát triển trình độ học vấn còn nhiều khó khăn, bên cạnh đó do đặc điểm dân cƣ sống trên các đảo chủ yếu gắn bó với nghề đi biển và các hoạt động nông nghiệp khác nên điều kiện học hành và mở mang kiến thức còn nhiều hạn chế nhất là các nghiệp vụ chuyên môn và ngoại ngữ. Một nguyên nhân khách quan nữa có thể nhận thấy ở đây do hoạt động du lịch mới phát triển, ngƣời dân địa phƣơng nhận thấy du lịch là hoạt động kinh doanh dễ kiếm đƣợc lợi nhuận nên có hƣớng đầu tƣ vào hoạt động này do vậy việc sử dụng các nguồn cung tại chỗ là hết sức cần thiết. Nhìn chung lực lƣợng lao động ngành du lịch của Vân Đồn ngày một tăng, nhƣng còn thiếu và còn hạn chế rất nhiều về trình độ chuyên môn chƣa đáp ứng đƣợc với yêu cầu của ngành. Hầu hết số lao động phổ thông vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của công việc do chƣa đƣợc đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, chƣa có thói quen và tác phong nghề nghiệp, hơn nữa trình độ ngoại ngữ vẫn còn nhiều hạn chế, đây chính là những khó khăn, thách thức rất lớn đối với ngành du lịch Vân Đồn. Trong khi muốn xây dựng Vân Đồn trở thành một khu vực có hoạt động du lịch phát triển thì vấn đề chất lƣợng sản phẩm dịch vụ, du lịch và cũng chính con ngƣời mời gọi và giữ chân du khách ở lại lâu hơn và quay lại với du lịch Vân Đồn trong lần sau nữa.
- Thực trạng khai thác du lịch ở Vân Đồn cho thấy, tuy có lợi thế mạnh về tài nguyên du lịch nhƣng cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất yếu và thiếu. Nhìn chung mật độ các cơ sở này không cao, không đồng đều giữa các khu vực, chất lƣợng các dịch vụ còn kém chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu ngày càng đa dạng của du khách. 2.5. Sản phẩm du lịch và thị trƣờng khách Các sản phẩm du lịch chủ yếu đang đƣợc khai thác hiện nay là du lịch sinh thái, du lịch văn hóa và du lịch tham quan nghỉ dƣỡng biển. Với lợi thế về tài nguyên tự nhiên phong phú bao gồm các khu vực tự nhiên còn hoang sơ rất thích hợp cho việc tổ chức các hoạt động du lịch sinh thái tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu, nâng cao nhận thức và kiến thức về tài nguyên, môi trƣờng, sinh thái (trên các đảo và khu vực ven biển). Hiện nay loại hình này đã đƣợc một số công ty lữ hành tổ chức cho khách đến các điểm du lịch trên đảo Quan Lạn, Ba Mùn. Các loại hình đi theo loại hình du lịch này chủ yếu là khách phƣơng tây nhƣ Pháp, Anh, Thụy Điển. Theo đánh giá của các du khách thì môi trƣờng tự nhiên ở một số điểm đến trên các đảo còn tƣơng đối hoang sơ trong lành, hệ động thực vật hết sức phong phú. Tuy nhiên phần đông ý kiến cũng cho rằng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch và nhận thức của ngƣời dân còn yếu kém. Muốn phát triển loại hình du lịch này đòi hỏi sự đồng thuận hơn nữa từ phía chính quyền địa phƣơng, doanh nghiệp và ngƣời dân. Các loại hình du lịch văn hóa cũng đƣợc phát triển ở Vân Đồn từ lâu. Với lịch sử phát triển lâu dài, trong quá khứ Vân Đồn đã từng là thƣơng cảng buôn bán sầm uất một thời. Ngoài ra Vân Đồn còn là cái nôi của nền văn hóa Hạ Long đã từng phát triển trong quá khứ. Du khách tham gia loại hình du lịch văn hóa chủ yếu là thăm quan, nghiên cứu những di tích lịch sử, văn hóa, khảo cổ (với những dấu tích về tiến hóa cộng đồng con ngƣời, về giao lƣu văn hóa trong vùng, về lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc, về các hoạt động kinh tế -xã hội qua các thời đại). Các điểm đến thƣờng đƣợc du
- khách lựa chọn là đình Quan Lạn, chùa Quan Lạn, di chỉ khảo cổ hang Soi Nhụ, di chỉ Ngọc Vừng, Nghè Trần Khánh Dƣ. Hiện trạng môi trƣờng (không khí, nƣớc ngọt trên các đảo, biển, hệ sinh thái) trên các đảo khu vực Vân Đồn hầu nhƣ chƣa có dấu hiệu ô nhiễm là những điều kiện hết sức thuận lợi cho việc tổ chức loại hình du lịch thăm quan, nghỉ dƣỡng biển. Du khách đến với Vân Đồn theo loại hình du lịch này chủ yếu là ngƣời Việt Nam. Khi đƣợc hỏi lý do tại sao lại chọn Vân Đồn điểm đến thăm quan, nghỉ ngơi hầu hết các câu trả lời đều cho rằng Vân Đồn còn nhiều lợi thế về cảch quan tự nhiên, có đảo núi, có bãi tắm, thiên nhiên còn tƣơng đối hoang sơ, mặt khác các địa điểm nghỉ dƣỡng của Vân Đồn lại nằm xa khu dân cƣ vì vậy tạo cho du khách cảm giác yên tĩnh, thƣ giãn. Đến với Vân Đồn du khách nhƣ đƣợc sống trong một thế giới khác tránh đi mọi ồn ào, ô nhiễm nơi đô thị. Hiện tại cả du khách Việt Nam và Quốc Tế muốn đi du lịch Vân Đồn có thể đặt tour qua các công ty du lịch. Ngoài ra cũng có rất nhiều du khách thích du lịch theo kiểu tự do. Các chƣơng trình du lịch đến Vân Đồn đƣợc rất nhiều công ty du lịch chào bán trong đó có cả các công ty lữ hành trên địa bàn tỉnh và các công ty lữ hành ở các địa phƣơng khác. Bảng 2.6. Một số chƣơng trình du lịch đang đƣợc các công ty du lịch chào bán đến Vân Đồn Stt Tên công ty Chƣơng trình 1 Công ty du lịch Hải Nam Hà Nội-Vịnh Bái Tử Long-Vân Đồn-Hạ Long (2ngày 1đêm) 2 Công ty du lịch Anhtour Hà Nội-Huyện Vân Đồn-Vịnh Bái Tử Long- Đảo Quan Lạn-Hà Nội (3ngày 2đêm) 3 Công ty du lịch Vietravel Hà Nội-Vịnh Hạ Long-Đảo Quan Lạn-Vịnh Bái Tử Long-Vân Đồn-Hà Nội (5ngày 4đêm)
- Hầu hết các công ty du lịch chào bán các chƣơng trình du lịch đến Vân Đồn đều có văn phòng ở Hà Nội. Ngoài ra cũng có một số các công ty lữ hành ở Quảng Ninh nhƣ công ty du lịch Quảng Ninh, công ty du lịch và dịch vụ Hòn Gai, công ty du lịch và thƣơng mại Entity, công ty du lịch Lạc Việt. Cũng chào bán các chƣơng trình du lịch đến Vân Đồn. Tuy vậy, điều dễ nhận thấy là hầu hết các chƣơng trình đƣợc chào bán na ná giống nhau (phần do nhu cầu từ phía du khách phần do các công ty này sao chép lẫn nhau), có những chƣơng trình đƣợc thiết kế đến thẳng Vân Đồn, có những chƣơng trình kết hợp cả thăm quan Hạ Long và một số điểm đến khác trong cùng một chƣơng trình du lịch. Có rất nhiều du khách đến với Vân Đồn đều cảm thấy thực sự yêu thích không gian và cảnh quan nơi đây, khi đƣợc hỏi lý do tại sao lại chọn Vân Đồn đa số ý kiến cho rằng Vân Đồn là điểm đến còn hết sức mới mẻ hoang sơ. Tuy vậy vấn đề cơ sở vật chất ở đây cũng là lý do gây khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động du lịch. Mặc dù có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, tuy nhiên việc khai thác các tài nguyên này để tạo ra những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách thì vẫn đang là vấn đề khó khăn lớn đối với du lịch Vân Đồn. Hiện nay các sản phẩm du lịch đang đƣợc khai thác còn đơn điệu, nghèo nàn chƣa thực sự mang dấu ấn riêng và hầu hết chƣa mang tính chuyên nghiệp. Để tạo ra đƣợc hình ảnh mang màu sắc riêng thực sự hấp dẫn du khách trong thời gian tới du lịch Vân Đồn cần cố gắng hơn nữa trong việc tạo ra các sản phẩm du lịch đặc sắc mang những nét đặc trƣng biển đảo riêng có của địa phƣơng. 2.5.1. Thị trƣờng khách du lịch 2.5.1.1. Thị trƣờng khách du lịch quốc tế Mặc dù hàng năm đón một lƣợng du khách lớn các du khách quốc tế so với một vài địa phƣơng khác trong tỉnh Quảng Ninh nhƣ Hạ Long, Móng Cái. Nhƣng qua điều tra cho thấy thị trƣờng khách du lịch quốc tế đến với Vân Đồn tƣơng đối đa dạng bao gồm cả du khách mang quốc tịch
- Châu Âu, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Châu Mỹ Theo thống kê của phòng kinh tế huyện Vân Đồn năm 2004 tổng số lƣợng khách du lịch đến với Vân Đồn đạt 132.044 lƣợt trong đó khách du lịch quốc tế là 798 lƣợt. Năm 2009 tổng số lƣợt khách du lịch đạt 346.000 lƣợt. Trong đó khách quốc tế là 3002 lƣợt. Hiện trạng khách du lịch quốc tế đến Vân Đồn đƣợc trình bày qua bảng sau: Bảng 2.7. Hiện trạng khách du lịch quốc tế đến Vân Đồn giai đoạn 2004-2009 (Đơn vị tính: Lƣợt) Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tổng số 132044 198067 241000 276000 311000 346000 Trong đó Khách quốc 798 1120 1671 2119 2567 3002 tế Tốc độ tăng 40,3 49,1 26,8 27,9 26,8 trƣởng(%) (Nguồn: Phòng kinh tế huyện Vân Đồn) Khách quốc tế vẫn chiến con số ít ỏi trong tổng số lƣợng khách đến với khu vực này. Trong 4 năm trở lại đây, tốc độ tăng trƣởng trung bình đạt của khách quốc tế đạt 38.7%, mặc dù khách quốc tế đến với Vân Đồn năm sau tăng hơn năm trƣớc, tuy nhiên con số này còn khá khiêm tốn so với khách du lịch quốc tế đến với Quảng Ninh. Số ngày lƣu trú bình quân của khách quốc tế ở Vân Đồn còn rất thấp, từ 1,5 – 2 ngày. Đối với khách du lịch nội địa thời gian lƣu trú còn thấp hơn từ 1 – 1,5 ngày. Thời gian lƣu trú cho chúng ta thấy rõ chất lƣợng phục vụ du lịch, thời gian lƣu trú ngắn có nghĩa là các dịch vụ còn nghèo nàn, tuyến điểm thăm quan ít, không có điểm mới cho nên không kéo dài đƣợc thời gian lƣu trú.
- Khách quốc tế đến với Vân Đồn vào hầu hết các khoảng thời gian trong năm nhƣng tập chung đông hơn cả là vào khoảng từ tháng 9 đến hết tháng 12 Có thể thấy rằng du lịch Vân Đồn đã có sức hấp dẫn với rất nhiều đối tƣợng khách quốc tế khác nhau đến từ rất nhiều quốc gia trên thế giới. Điều đó chứng tỏ tiềm năng du lịch Vân Đồn là rất lớn, vấn đề là làm sao khai thác đƣợc tiềm năng đó, đồng thời cũng có những giải pháp thực sự tích cực để thu hút khách đến với khu vực này. 2.5.1.2. Thị trƣờng khách du lịch nội địa Cho đến nay thị trƣờng khách du lịch trong nƣớc vẫn chiếm ƣu thế trong cơ cấu du khách đến với Vân Đồn. Khách du lịch nội địa đến đây chủ yếu là khách trong tỉnh, khách Hà Nội và một số tỉnh lân cận phía Bắc. Một số ít đến từ thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam, ngoài ra còn có một số đối tƣợng khách là Việt kiều về Vân Đồn theo dạng thăm thân. Bảng 2.8. Hiện trạng khách du lịch nội địa đến Vân Đồn giai đoạn 2004-2009 (Đơn vị tính: Lƣợt) Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tổng số 132044 198067 241000 276000 312000 376000 Trong đó Khách nội địa 131246 196947 239329 273881 280000 301000 Tốc độ tăng 50,0 21,5 14,4 15,0 15,5 trƣởng (%) (Nguồn: Phòng kinh tế huyện Vân Đồn) Qua bảng 2.8 cho thấy, năm 2004 tổng số lƣợng khách nội địa đến Vân Đồn đạt 131246 lƣợt đến 2009 con số này đã tăng lên 301000 lƣợt. Tốc độ tăng trƣởng bình quân giai đoạn 2004-2009 là 28,6% tuy nhiên tốc độ tăng trƣởng lại không đều qua các năm. Nếu nhƣ giai đoạn 2004-2005 tốc độ tăng trƣởng khách đạt tới 50%/năm thì đến giai đoạn 2006-2007 giảm xuống chỉ cũn 14%/năm, giai đoạn 2007-2009 tăng lên 15%/năm.
- Điều này đƣợc lý giải bởi nhiều nguyên nhân trong đó các nguyên nhân tăng trƣởng chủ yếu nhất là: Năm 2003 cơ sở hạ tầng của Vân Đồn đƣợc nâng cấp lên một bƣớc, cụ thể là việc khánh thành cầu Vân Đồn 1, 2, 3 và trải nhựa tuyến đƣờng 334 từ bến phà Tài Xá cũ về trung tâm thị trấn, đây là điều kiện hết sức thuận lợi giúp cho việc đi lại của du khách khi đến với Vân Đồn, rút đi khoảng cách giữa đất liền và huyện đảo sau nhiều năm cách trở. Địa bàn du lịch đƣợc mở rộng, các danh lam, thắng cảnh đƣợc tôn tạo, nâng cấp, hệ thống các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch đƣợc quan tâm đầu tƣ phát triển đã tạo lên những chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên giai đoạn 2007 tốc độ tăng trƣởng du khách giảm đi là do nhiều nguyên nhân: Do chƣa thực sự có những chuyển biến tích cực cả về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, các sản phẩm du lịch vẫn còn nghèo nàn không có sự đột phá để tạo ra các sản phẩm mới hấp dẫn hơn. Công tác tuyên truyền quảng bá không đƣợc chú trọng hầu nhƣ chỉ đƣợc giới thiệu một chút thông qua các chƣơng trình giới thiệu về du lịch của sở du lịch Quảng Ninh, chƣa có một động thái nào từ phía chính quyền Vân Đồn. Từ cuối năm 2005 tính hình thời tiết diễn biến phức tạp, hạn hán trong nƣớc kéo dài gây thiếu điện, đó ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế và dịch vụ du lịch. Đầu tƣ cơ sở hạ tầng chƣa đồng bộ các tuyến giao thông trên đảo nhiều nơi còn chƣa hoàn thành, các xã đảo chƣa có hệ thống điện sáng, điện thoại, nƣớc sinh hoạt còn thiếu. Nhiều dự án đầu tƣ du lịch triển khai còn chậm. Chƣa có các khu vực vui chơi giải trí để thu hút du khách, các điểm di tích văn hóa và danh lam thắng cảnh chƣa đƣợc đƣa vào khai thác, trùng tu bảo vệ. Đội ngũ cán bộ và lao động làm trong ngành du lịch chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu về chuyên môn nghiệp vụ.
- Khách du lịch nội địa đến Vân Đồn chủ yếu tập chung vào mùa hè và chủ yếu vẫn là khách thăm thân, thăm quan, lễ hội. Số lƣợng khách tập chung không đều tại các điểm du lịch. Chẳng hạn nhƣ khu vực Bãi Dài, Quan Lạn tập chung tới 80% lƣợng khách còn lại ở các khu vực khác nhƣ Ngọc Vừng, Ba Mùn lƣợng khách đến đây rất ít. Khách du lịch đến đây chủ yếu từ các tỉnh phía Bắc, nhiều nhất là các du khách trong tỉnh và từ một số tỉnh lân cận giáp gianh với Quảng Ninh. 2.6. Đánh Gía Chung 2.6.1. Ƣu điểm Vân Đồn là huyện đảo có địa hình điều kiện tự nhiên khó hấp dẫn với nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đặc biệt là tài nguyên biển đảo với những bãi biển tuyệt đẹp nhƣ Sơn Hào, Minh Châu, Quan Lạn, Bãi Dài, hệ thống động thực vật phong phú trên các đảo và vƣờn Quốc gia Bái Tử Long đó chính là những điều kiện thuận lợi để Vân Đồn phát triển các loại hình du lịch nghỉ dƣỡng, sinh thái, mạo hiểm. Nằm cạnh di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long, cách thành phố Hạ Long chƣa đầy 40km trên quốc lộ 18a nối thủ đô Hà Nội với cửa khẩu Đông Hƣng – Trung Quốc và trên đƣờng cao tốc Hạ Long – Móng Cái. Trong tƣơng lai gần khi dự án khu kinh tế tổng hợp Vân Đồn đƣợc triển khai sẽ có thêm sân bay quốc tế, cảng biển đây là những điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tƣ cũng nhƣ du lịch. Vân Đồn cũng là nơi có rất nhiều các di tích, di sản có giá trị cả về văn hóa, lịch sử và du lịch nhƣ đình, chùa Quan Lạn, các di chỉ khảo cổ. Đó là điều kiện thuận lợi để Vân Đồn phát triển loại hình du lịch tham quan, nghiên cứu, tìm hiểu văn hóa lịch sử khảo cổ học. Hoạt động du lịch ở Vân Đồn đã có những bƣớc phát triển mới. Doanh thu từ hoạt động du lịch không ngừng đƣợc tăng lên, cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch của các địa phƣơng đƣợc cải thiện đáng kể, ngày càng xuất hiện nhiều hơn các dự án đầu tƣ về du lịch. Lao động trong ngành du lịch cũng không ngừng tăng lên.
- Ngành du lịch đó mang lại lợi ích xã hội không nhỏ, tạo thêm nhiều công an việc làm, làm khởi sắc bộ mặt kinh tế - xã hội của huyện. Ngành du lịch đã có những đóng góp thiết thực làm cho Vân Đồn ngày càng trở lên giàu đẹp hơn. 2.6.2. Hạn chế, tồn tại Cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch tuy đó đƣợc cải thiện nhiều nhƣng thực tế vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của du khách về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Sản phẩm du lịch còn nghèo nàn không thể hiện đƣợc bản sắc đặc trƣng độc đáo của tài nguyên du lịch Vân Đồn. Đội ngũ lao động trong ngành du lịch tuy đó đƣợc củng cố tăng cƣờng song số lƣợng vẫn còn quá ít, vẫn rất thiếu những các bộ quản lý có trình độ chuyên môn. Công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch còn hạn chế chƣa theo kịp nhu cầu phát triển chung của ngành. Các doanh nghiệp du lịch Vân Đồn nhìn chung quy mô còn nhỏ, năng lực cạch tranh hạn chế, thiếu sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp. Tiểu kết chƣơng II Chƣơng II đã giải quyết đƣợc nhiệm vụ nghiên cứu thứ hai và thứ ba của đề tài là đi sâu phân tích tiềm năng du lịch của Vân Đồn và thực trạng hoạt động du lịch biển đảo ở đây. Trên cơ sở đó chƣơng II bƣớc đầu đƣa ra đƣợc những đánh giá nhận xét về những ƣu điểm và hạn chế của việc phát triển du lịch biển đảo ở Vân Đồn.
- CHƢƠNG III MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRÊN HUYỆN ĐẢO VÂN ĐỒN 3.1. Định hƣớng phát triển du lịch 3.1.1. Định hƣớng không gian phát triển và sản phẩm du lịch Trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2000 – 2010 Vân Đồn đƣợc xác định là một trong bốn khu vực trọng điểm phát triển du lịch. Không gian của huyện đƣợc xác định trong bản quy hoạch bao gồm trên 600 hòn đảo lớn, nhỏ và vựng ven bờ trong vịnh Bái Tử Long với diện tích 596,7km² trong đó đảo Cái Bầu 318,5km², quần đảo Vân Hải 278,2km². Các khu vực du lịch trọng điểm phát triển du lịch trong huyện đƣợc xác định trong bản quy hoạch là: Điểm du lịch đảo Cái Bầu Điểm du lịch Ngọc Vừng Điểm du lịch Quan Lạn Điểm du lịch Minh Châu Không gian khu du lịch Vân Đồn cần đƣợc định hƣớng theo các khu chức năng nhƣ khu lƣu trú dịch vụ ven bờ, khu du lịch biển đảo để từ đây định hƣớng các sản phẩm du lịch cụ thể, đặc trƣng cho từng khu vực trên cơ sở những lợi thế về tài nguyên cũng nhƣ các nguồn lực khác để phát triển. Khu lƣu trú dịch vụ ven bờ bao gồm khu vực thị trấn Cái Rồng, khu vực Bãi Dài. Về lâu dài phát triển khu vực này với chức năng là trung tâm đón tiếp, đồng thời là trung tâm lƣu trú, vui chơi giải trí, mua sắm và là điểm xuất phát cho các tuyến du lịch ra các đảo. Có thể định hƣớng sản phẩm cho khu vực này nhƣ sau: + Du lịch cuối tuần + Du lịch thăm quan, nghỉ dƣỡng, tắm biển + Du lịch văn hóa + Du lịch cộng đồng