Khóa luận Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê–Ba Vì–Hà Nội

pdf 105 trang huongle 2550
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê–Ba Vì–Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tim_hieu_loai_hinh_du_lich_nong_nghiep_tai_trang_t.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê–Ba Vì–Hà Nội

  1. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Lời cảm ơn! Trong thời gian ngồi trên ghế của giảng đƣờng Đại Học Dân Lập Hải Phòng em đã nhận đƣợc sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, đƣợc sự quan tâm của các thầy cô trong Ban giám hiệu nhà trƣờng, bản thân em nói riêng và toàn thể sinh viên năm cuối nói chung đã trƣởng thành học hỏi đƣợc nhiều điều bổ ích. Các thầy cô đã tạo điều kiện tốt nhất cho chúng em đi sâu thâm nhập vào thực tế. Đặc biệt, chúng em có cơ hội để kiểm chứng những điều đã đƣợc học hàng ngày ở nhà trƣờng bằng những kinh nghiệm thực tiễn có thật. Tất cả những kinh nghiệm, tri thức mà các thầy cô trang bị cho chúng em chính là những hành trang quý báu để chúng em bƣớc vào đời, tự tin bƣớc đi trên con đƣờng lập nghiệp của mình. Đƣợc làm đề tài khóa luận tốt nghiệp là một điều vinh dự đối với mỗi sinh viên nói chung và bản thân em nói riêng. Đây là cơ hội cho sinh viên đƣơc thử sức mình, là bƣớc tập dƣợt cho sự độc lập của bản thân mỗi sinh viên. Nhân dịp hoàn thành đề tài khóa luận cho phêp em xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới chị Ngô Kiều Nga - Giám đốc công ty ATC Việt Nam và các anh chị nhân viên Trang Trại Du Lịch Đồng Quê Ba Vì đã nhiệt tình cung cấp những thông tin, số liệu hữu ích để em hoàn thành bài khóa luận này. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành của mình tới toàn thể các thầy cô trong Ban giám hiệu nhà trƣờng, các thầy cô đã giảng dạy chúng em trong suốt 4 năm học tại mái trƣờng Đại Học Dân Lập Hải Phòng, các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Văn Hóa Du Lịch. Em xin chúc các thầy cô luôn mạnh khỏe, công tác tốt, tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp “ trồng ngƣời” cao quý của dân tộc. Sự hoàn thiện khóa luận này cũng là một cách thể hiện tình cảm của em tới gia đình, ngƣời thân, thầy cô và bạn bè đã giúp đỡ em cả về vật chất lẫn tinh thần, tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành bài khóa luận. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Cô giáo – Thạc sĩ Đào Thị Thanh Mai – ngƣời
  2. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội đã định hƣớng đề tài, tận tình hƣớng dẫn chỉ bảo em trong suốt quá trình hoàn thành đề tài khóa luận này. Trong quá trình hoàn thành khóa luận mặc dù đã cố gắng để đề tài khóa luận có tính khoa học và thực tiễn nhất, song do trình độ chuyên môn và kiến thức còn hạn chế nên những khiếm khuyết trong đề tài khóa luận này không thể tránh khỏi. Vì vậy, em rất mong nhận đƣợc sự cảm thông và góp ý của các thầy cô cũng nhƣ bạn đọc để cho bài khóa luận của em đƣợc hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hải Phòng, ngày . tháng . Năm 2011 Sinh viên Đặng Thị Thảo
  3. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4 3.Mục đích nghiên cứu 6 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6 4.1 Đối tƣợng nghiên cứu 6 4.2 Phạm vi nghiên cứu 6 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 7 6. Kết cấu của đề tài 7 CHƢƠNG I: CỞ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH NÔNG NGHIỆP 8 1.1 Khái quát chung 8 1.1.1 Khái niệm về du lịch nông nghiệp 8 1.1.2 Đặc điểm du lịch nông nghiệp 9 1.1.3 Phân loại du lịch nông nghiệp 11 1.1.4 Vai trò của loại hình du lịch nông nghiệp 13 1.2 Lịch sử hình thành và phát triển loại hình du lịch nông nghiệp 15 1.3 Khả năng phát triển du lịch nông nghiệp ở Việt Nam 23 Tiểu kết chƣơng I 28 CHƢƠNG II: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG NGHIỆP TẠI TRANG TRẠI ĐỒNG QUÊ - BA VÌ – HÀ NỘI 29 2.1 Giới thiệu chung về huyện Ba Vì 29 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 29 2.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội 30 2.2 Tiềm năng phát triển du lịch của huyện Ba Vì 32 2.2.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên 32 2.2.2 Tài nguyên du lịch nhân văn 41 2.3 Thực trạng khai thác du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê Ba Vì 47 2.3.1 Giới thiệu về Trang trại Đồng Quê Ba Vì 47 2.3.2 Hình thức tổ chức 49
  4. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội 2.3.3 Nguồn khách 55 2.3.4 Kết quả bƣớc đầu đạt đƣợc 60 Tiểu Kết Chƣơng II 61 CHƢƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG NGHIỆP TẠI BA VÌ 62 3.1 Một số nhận xét và đánh giá 62 3.1.1 Những lợi thế của Ba Vì trong việc phát triển du lịch nông nghiệp62 3.1.2 Những khó khăn của Ba Vì trong việc phát triển du lịch nông nghiệp 64 3.2 Đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê Ba Vì 65 3.2.1 Đẩy nhanh và tăng cƣờng hiệu quả công tác quy hoạch phát triển du lịch 66 3.2.2 Thu hút vốn đầu tƣ cho hoạt động du lịch 66 3.2.3 Đầu tƣ, nâng cấp cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch 68 3.2.4. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực 71 3.2.5 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá 73 3.2.6 Giải pháp thu hút cộng đồng tham gia vào hoạt động du lịch 75 3.2.7 Đa dạng hóa các sản phẩm du lịch 78 3.2.8 Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về du lịch 79 3.2.9 Nâng cao ý thức bảo vệ môi trƣờng cho khách du lịch 80 3.3 Một số kiến nghị 80 Tiểu Kết Chƣơng III 83 KẾT LUẬN 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO 86 PHỤ LỤC 88 PHỤ LỤC 1 89 PHỤ LỤC 2 90 PHIẾU ĐIỀU TRA 99
  5. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thế giới bƣớc vào nền kinh tế tri thức, cùng với sự phát triển nhƣ vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ nhân loại đã chứng kiến một sự bùng nổ của hoạt động du lịch trên phạm vi toàn cầu. Khi nền kinh tế không ngừng phát triển, đời sống văn hóa xã hội ngày càng đƣợc nâng cao thì du lịch trở thành nhu cầu không thể thiếu của ngƣời dân. Tổ chức Du lịch thế giới thuộc Liên Hiệp Quốc (UNWTO) vừa công bố báo cáo cho biết ngành du lịch toàn cầu đã phục hồi nhƣ mức trƣớc khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính thế giới cuối năm 2008. Theo UNWTO, tám tháng đầu năm 2010 lƣợng du khách trên thế giới đạt 642 triệu lƣợt ngƣời, tăng khoảng 40 triệu lƣợt so với cùng kỳ năm ngoái và cao hơn 1 triệu lƣợt so với năm trƣớc khi xảy ra khủng hoảng năm 2008. Ngành du lịch quốc tế đang tiếp tục quá trình phục hồi, sau khi sụt giảm 4,2% năm 2009 do tác động của khủng hoảng kinh tế. UNWTO dự kiến ngành này sẽ tăng trƣởng 5-6% cả năm 2010 và khoảng 4% trong năm 2011, trong đó "đầu máy" kéo "đoàn tàu du lịch thế giới" tiếp tục là các nền kinh tế đang nổi. Mặc dù ngành du lịch ở nhiều nơi thuộc châu Âu và châu Mỹ vẫn phát triển rất chậm, song nhiều điểm đến khác đang cho thấy thực lực tăng trƣởng với lƣợng khách đến thăm kỷ lục, trong đó đặc biệt là khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng. Sau khi bất ngờ chịu tác động của khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới hồi cuối năm 2008, châu Á - Thái Bình Dƣơng là khu vực đầu tiên trên thế giới cho thấy các dấu hiệu hồi phục, với lƣợng khách quốc tế đến du lịch tăng ấn tƣợng 14% trong tám tháng đầu năm 2010, cao hơn 10 triệu lƣợt so với cùng kỳ Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 1
  6. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội năm 2008, trong đó hầu hết điểm đến đạt mức tăng hai con số, thậm chí có điểm tăng hơn 20%. UNWTO cho biết có phát triển mạnh mẽ ở khu vực Trung Đông, với mức tăng tƣơng ứng 16% và châu Phi (9%) nhờ tổ chức tốt vòng chung kết Cúp Bóng đá thế giới (World Cup) 2010 tại Nam Phi. UNWTO kêu gọi chính phủ các nƣớc tạm ngừng tăng thuế lữ hành, giao thông đƣờng không, nhằm thúc đẩy mạnh hơn nữa ngành du lịch thế giới, góp phần tạo việc làm và kích thích kinh tế tăng trƣởng. ( Theo báo Thông tấn xã Việt Nam viết về “ Du lịch thế giới phục hồi nhanh chóng năm 2010”.) Khi nền kinh tế phát triển, các quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa tăng lên càng thúc đẩy du lịch phát triển, đó là xu hƣớng phát triển chung của thế giới. Khi mật độ dân số cao, sự ô nhiễm môi trƣờng, ô nhiễm tiếng ồn, khói bụi, khủng hoảng lƣơng thực, . tất cả những mặt trái của giao thông đô thị hóa đã làm ảnh hƣởng rất lớn đến đời sống của ngƣời dân. Trong khi ngành du lịch tăng trƣởng ngày càng đạt đƣợc kết quả cao thì ngành nông nghiệp trên thế giới và Việt Nam gặp phải nhiều khó khăn do sự biến đổi của khí hậu, làm trái đất ngày càng nóng lên đã dẫn đến nhiều thiên tai,lũ lụt, hạn hán ảnh hƣởng đến năng suất của việc canh tác nông nghiệp của ngƣời dân. Hơn nữa,chi phí đầu tƣ cho ngành nông nghiệp nhƣ việc mua phân bón, cây giống, thuê nhân công, thuê máy móc sản xuất tăng cao hơn so với giá sản phẩm nông nghiệp đƣợc bán ra. Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển làm cho quá trình đô thị hóa ngày càng mở rộng, ngƣời dân tập trung hết về các thành phố lớn để làm ăn và sinh sống. Vì vậy, các nhà chức trách đã quyết định đầu tƣ xây dựng các khu chung cƣ, tòa nhà cao ốc để giải quyết vấn đề chỗ ở cho dân cƣ. Nhƣng, chính quá trình đô thị hóa đã làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, nhiều ngƣời nông dân không còn ruộng để canh tác, đời sống của họ không Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 2
  7. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội đƣợc ổn định nên nhiều ngƣời nông dân phải rời làng quê,bỏ nghề làm nông ra các thành phố kiếm sống. Du lịch nông nghiệp là loại hình du lịch vừa mang lại lợi ích kinh tế cho ngƣời nông dân, vừa có vai trò to lớn trong việc giữ gìn cảnh quan làng quê, giữ đƣợc văn hóa bản sắc dân tộc của quê hƣơng, tăng thu nhập cho ngƣời nông dân ngay trên chính mảnh đất quê hƣơng của họ, tạo ra sản phẩm du lịch khác lạ, độc đáo hấp dẫn có sức cạnh tranh lớn. Ba Vì là huyện thuộc vùng bán sơn địa, nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Hà Tây, cách tỉnh lỵ và thủ đô Hà Nội 53 km. Ba Vì nối liền với các tỉnh và thủ đô Hà Nội bằng các trục đƣờng chính nhƣ: quốc lộ 32, tỉnh lộ 89A, và các tuyến đƣờng thủy qua sông Hồng, sông Đà có tổng chiều dài 70 km. Cách Hà Nội 53km, Ba Vì nổi tiếng là vùng đất có những nét đẹp hoang sơ, mang đậm dấu ấn ngàn năm lịch sử còn lƣu lại từ thuở Sơn Tinh – Thủy Tinh giao chiến. Nhắc đến Ba Vì là nhắc đến huyền thoại trận đánh thƣ hùng giữa Sơn Tinh – Thủy Tinh. Mối tình tay ba thời Hùng Vƣơng thứ 18 đã tạo lên vẻ đẹp truyền thuyết của Ba Vì. Ba Vì có nguồn tài nguyên du lịch phong phú. Có lẽ hiếm ở nơi đâu những cảnh sắc sông nƣớc, núi non, rừng già lại quyện hòa, gắn bó với nhau nhƣ ở đây. Vùng núi Ba Vì chiếm 42% diện tích toàn huyện, với trung tâm là ngọn núi Ba Vì cao 1.296 m, cùng hệ động thực vật phong phú, quý hiếm. Đã từ lâu, Ba Vì đƣợc coi là huyện du lịch, bao gồm 2 vùng lớn: Khu vực sƣờn Đông núi Ba Vì, có thác, có suối, có rừng nguyên sinh đẹp và thơ mộng là tiềm năng lớn cho phát triển du lịch sinh thái. Nơi đây còn có những di tích văn hóa, lịch sử nhƣ đền thờ Bác Hồ, đền Thƣợng, đền Trung rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch văn hóa tâm linh. Khu vực sƣờn Tây núi Ba Vì cũng đƣợc coi là nơi có tiềm năng phát triển du lịch vì có địa thế đẹp, một bên là núi nhìn ra sông Đà tạo ra sức hấp dẫn riêng. Khu du lịch quốc gia hồ Suối Hai là nơi cuốn hút nhất với diện tích vùng Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 3
  8. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội ven hơn 2.000ha, có mặt nƣớc hồ, có những hòn đảo nhỏ xanh mát hứa hẹn cho du khách những phút nghỉ ngơi thƣ giãn. Ngoài ra, Ba Vì còn có nguồn nƣớc khoáng nóng Thuần Mỹ thuận lợi cho việc khai thác du lịch nghỉ dƣỡng, chăm sóc sức khỏe Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, hoạt động du lịch Ba Vì chỉ dừng lại ở một số khu du lịch nằm ở sƣờn Đông núi Ba Vì nhƣ: Khoang Xanh, Đầm Long, Tản Đà, Ao Vua Những địa danh để du khách tìm đến khá quen thuộc và không có nhiều chuyển biến trong nhiều năm trở lại đây. Một số khu du lịch có quy mô lớn của Ba Vì hiện tại có thể kể đến: sân gorl Đồng Mô,( đƣợc đánh giá là sân gorl hàng đầu miền Bắc hiện tại), khu du lịch Khoang Xanh - Suối Tiên, khu du lịch Thác Đa, khu du lịch Thiên Sơn - Thác Ngà, khu du lịch Suối Mơ, du lịch Ao Vua, khu du lịch Suối Hai và vƣờn Quốc Gia Ba Vì. Thêm nữa, có thể nhìn thấy tiềm năng phát triển du lịch ở Ba Vì trên những thảo nguyên cỏ xanh mƣớt, những hệ thống trang trại với những loại hình nông nghiệp độc đáo hấp dẫn, đặc trƣng nhƣ những trang trại bò sữa, trang trại đà điểu, trang trại Dê, cừu, thỏ, trang trại Ong mật, nông trƣờng Dứa . đều có khả năng khai thác cho phát triển du lịch và dịch vụ.Trong đó, có thể nhắc tới Trang trại Đồng Quê Ba Vì - một mô hình mới ở Việt Nam khai thác phát triển du lịch nông nghiệp dựa vào các sản phẩm nông nghiệp sẵn có. Với những lý do trên mà em chọn đề tài “ Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê - Ba Vì - Hà Nội” làm đề tài khóa luận nhằm cung cấp cho mọi ngƣời một loại hình du lịch mới đang manh nha xuất hiện ở Việt Nam, góp một phần nhỏ bé của mình cho sự phát triển hoạt động du lịch nói riêng và phát triển nền kinh tế nói chung của quê hƣơng mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Sự phát triển của du lịch nông nghiệp và nông thôn thu hút sự quan tâm của các học giả trên thế giới bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ trƣớc. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 4
  9. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Đầu tiên, theo một số học giả ở Châu Âu nhƣ Mormont 1987, Bethemont 1994, Nitsch and der Straaten 1995, Hjalager 1996 đã nghiên cứu về du lịch nông thôn ở Châu Âu phát triển trong quá trình một thế kỷ với các bài học kinh nghiệm. Tại nhiều nơi trên thế giới đã có những chƣơng trình phát triển du lịch nông nghiệp mang tầm quốc gia nhƣ “ du lịch nông nghiệp” ở Ý, “ ngủ trong rơm rạ” ở Thụy Sỹ, “ ngủ tại nông trang” ở New Zealand. Theo nghiên cứu của Saugeres 2002: Phát triển du lịch nông thôn giúp tăng cƣờng vai trò của phụ nữ. Khi phát triển du lịch nông thôn, phụ nữ khẳng định đƣợc vai trò quản lý, vị trí và sự độc lập của mình. Việc điều hành hoạt động ở trang trại hay cơ sở lƣu trú phục vụ du khách đƣợc xem nhƣ tăng thêm một chút việc nhà đối với ngƣời phụ nữ mà thôi. Tác giả Curtis E. Beus (2008) đã nghiên cứu khái quát về du lịch nông nghiệp, bài học kinh nghiệm tại Châu Âu, một số kết quả đạt đƣợc tại bang Vermont và Kentucky đề xuất mô hình phát triển các trang trại theo hƣớng du lịch nông nghiệp tại Mỹ. Ngoài ra, Duncan Hilchey (1993) đã nghiên cứu về du lịch nông nghiệp và một số kết quả đạt đƣợc tại một số bang của Mỹ nhƣ New York, Califonia. Hiện nay, ở nƣớc ta cũng có một vài học giả đã nghiên cứu về sự phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn cũng đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. PGS.TS. Bùi Xuân Nhàn nghiên cứu sự ra đời và phát triển của du lịch nông thôn thế giới, nông thôn Việt Nam và tiềm năng phát triển du lịch nông thôn, đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch nông thôn ở Việt Nam. [4;15] PGS.TS.Nguyễn Văn Mạnh và ThS. Trần Huy Đức đã đánh giá nhận thức về du lịch nông thôn, những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển du lịch nông thôn ở Hà Nội, các đề xuất và khuyến nghị dƣới góc độ kinh tế du lịch. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 5
  10. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội ThS.Bùi Thị Lan Hƣơng (2010) đã nghiên cứu phân biệt khái niệm du lịch nông nghiệp và du lịch nông thôn. TS.Lê Anh Tuấn (2010) đã nghiên cứu về sự phát triển du lịch nông thôn ở một số quốc gia nhƣ Vƣơng quốc Anh, CHLB Đức, Pháp. TS.Ngô Kiều Oanh (2010) đánh giá về sức hấp dẫn của du lịch nông nghiệp Việt Nam qua việc xây dựng hệ thống tour du lịch nông nghiệp vùng xứ Đoài thuộc ngoại ô Hà Nội mở rộng. Theo nghiên cứu của Bộ môn Văn Hóa Du Lịch – Đại học Dân Lập Hải Phòng (2010) đƣa ra nhận xét tổng quan về du lịch nông nghiệp và nông thôn, kinh nghiệm ở một số nƣớc trên thế giới, điều kiện phát triển tại Việt Nam. 3.Mục đích nghiên cứu Lựa chọn và xây dựng đề tài “ Khả năng phát triển du lịch tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà nội” ngƣời viết nhằm mục đích giới thiệu về một loại hình du lịch mới xuất hiện ở nƣớc ta – du lịch nông nghiệp. Phản ánh thực trạng phát triển du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội. Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê Ba Vì một cách có hiệu quả hơn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu trong đề tài này là “du lịch nông nghiệp ở Trang trại Đồng Quê - Ba Vì -Hà Nội”. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Thời gian nghiên cứu mà đề tài đề cập đến là trong giai đoạn 2008-2011. Không gian nghiên cứu của đề tài là trang trại Đồng Quê ở Ba Vì - Hà Nội. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 6
  11. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài khóa luận, em đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:  Phƣơng pháp thu thập và xử lý số liệu: Là thu thập thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu rồi xử lý các thông tin đó nhằm chọn lọc các thông tin tốt nhất. Các tƣ liệu bao gồm là các công trình nghiên cứu, báo cáo khoa học, bài báo khoa học .  Phƣơng pháp điền dã: tác giả đã đi đến Trang trại Đồng Quê tìm hiểu thực tế thực trạng du lịch nông nghiệp từ đó có những tài liệu, số liệu để đề tài khóa luận chính xác, cập nhật đáng tin cậy hơn.  Phƣơng pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp trên cơ sở những tài liệu sách báo, tạp chí về hoạt động du lịch nông nghiệp nói chung và du lịch nông nghiệp ở Ba Vì nói riêng.  Phƣơng pháp thống kê, xã hội học: sử dụng các bảng hỏi, các phiếu điều tra. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo nội dung chính của đề tài gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1:Cơ sở lý luận chung về du lịch nông nghiệp Chƣơng 2: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê - Ba Vì - Hà Nội Chƣơng 3: Một số đề xuất nhằm phát triển du lịch nông nghiệp tại huyện Ba Vì - Hà Nội Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 7
  12. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội CHƢƠNG I: CỞ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH NÔNG NGHIỆP 1.1 Khái quát chung 1.1.1 Khái niệm về du lịch nông nghiệp Du lịch nông nghiệp đƣợc mô tả là hoạt động thăm viếng nông trại nông nghiệp hoặc bất cứ hoạt động làm vƣờn, canh tác hay kinh doanh nông nghiệp nào nhằm để đƣợc thƣởng lãm, học hỏi và tham gia vào các hoạt động đó. Loại hình du lịch nông nghiệp bắt đầu đƣợc thế giới quan tâm nghiên cứu từ những năm 90 của thế kỷ 20 và mới đƣợc manh nha phát triển ở Việt Nam. Theo Duncan Hilchey nghiên cứu về nông nghiệp du lịch ở New York: Cơ hội và thách thức trong Farm-Based Giải Trí và Khách sạn - Lựa chọn thay thế Chƣơng trình nuôi, Sở Nông thôn Xã hội học, Đại học Cornell, 1993 thì : “Du lịch nông nghiệp là loại hình du lịch do ngƣời chủ hoặc ngƣời điều hành nông trại triển khai kinh doanh nhằm mục đích nâng cao kiến thức và thƣ giãn giải trí đối với công chúng, quảng bá các sản phẩm của nông trại và từ đó tăng thêm thu nhập cho nông trại”. Từ điển Wikipedia: “Du lịch nông nghiệp hiểu một cách rộng nhất là loại hình du lịch liên quan đến các hoạt động nông nghiệp hoặc dựa vào nông nghiệp, từ đó đƣa du khách đến với các nông trại, trang trại hoặc nông trƣờng”. Tác giả Ramiro E. Lobo nghiên cứu về lợi ích của du lịch nông nghiệp ở San Diego - nông nghiệp California tháng 10 – 12 năm 1999: “Du lịch nông nghiệp là khái niệm chỉ hoạt động đến tham quan một nông trại hoặc bất kỳ một cơ sở nào hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm mục đích thƣ giãn giải trí, nâng cao nhận thức, có thể chủ động tham gia vào hoạt động của nông trại hoặc cơ sở đó”. Theo ThS. Bùi Thị Lan Hƣơng về du lịch nông nghiệp và du lịch nông thôn trong Nội san nghiên cứu khoa học, Trƣờng Cán bộ quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn 2, thành phố Hồ Chí Minh, tháng 1/2010 đã phân biệt khái niệm du lịch nông nghiệp và du lịch nông thôn thì : “Du lịch nông nghiệp Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 8
  13. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội là một loại hình du lịch đơn lẻ dựa trên việc khai thác tài nguyên sản xuất nông nghiệp, chủ thể tham gia du lịch là ngƣời nông dân, không gian du lịch là trang trại, đồng ruộng, có thể gây xung đột lợi ích với cộng đồng” Với mục đích muốn tìm hiểu về loại hình du lịch nông nghiệp em hiểu rằng “du lịch nông nghiệp là một hình thức đƣa khách du lịch trở về với thiên nhiên, tìm hiểu những cách sinh hoạt của những ngƣời nông dân hoặc tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp và hƣởng thụ những sản vật do chính mình làm ra”. Trên đây là những khái niệm cơ bản về du lịch nông nghiệp em nhận thấy rằng khái niệm về du lịch nông nghiệp của Hilchey thì : “Du lịch nông nghiệp là loại hình du lịch do ngƣời chủ hoặc ngƣời điều hành nông trại triển khai kinh doanh nhằm mục đích nâng cao kiến thức và thƣ giãn giải trí đối với công chúng, quảng bá các sản phẩm của nông trại và từ đó tăng thêm thu nhập cho nông trại” là hợp lý cho đề tài khóa luận của em. 1.1.2 Đặc điểm du lịch nông nghiệp Để đáp ứng ngày càng cao của du khách hiện đại, ngành du lịch luôn có những bƣớc chuyển mình tích cực và tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo thu hút du khách. Trong đó loại hình du lịch nông nghiệp là một phân khúc thị trƣờng du lịch mới lạ và bổ ích. Đây là kết hợp sự đa dạng của các vùng nông thôn, những trải nghiệm ẩm thực và những cuộc vui chơi ngoài trời. Một kỳ nghỉ lý tƣởng đồng nghĩa với việc làm thỏa mãn mọi nhu cầu của du khách. Một số ngƣời thích tắm nắng trên bãi biển cạnh một khách sạn 5 sao, hay nghỉ dƣỡng lâu dài ở một thành phố nhộn nhịp và tham quan những phòng tranh và viện bảo tàng. Trong khi số khác thích phiêu lƣu trên những đỉnh núi cao chót vót, hay những dòng sông hiểm trở và cũng có thể là những ngọn đồi thăm thẳm. Khác hẳn với hai hình thức này, du lịch nông nghiệp ra đời và lan rộng khắp thế giới. Nó bao gồm du lịch sinh thái, du lịch đến những vùng nông thôn, vùng dân tộc, trải nghiệm ẩm thực, vui chơi giải trí hoặc du lịch địa lý. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 9
  14. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Ƣu điểm của du lịch nông nghiệp là sự đa dạng. Du khách có thể nghỉ dƣỡng tại một ngôi làng trên bờ hồ, một biệt thự hƣớng ra nhà máy sản xuất rƣợu vang hoặc thậm chí là một trang trại, nơi mà du khách có thể làm việc ở đó. Đặc biệt sáng kiến “những tình nguyện viên trên trang trại” xuất hiện trên toàn thế giới và phổ biến ở 33 quốc gia. Đến với sản phẩm du lịch này, du khách đƣợc trải nghiệm cuộc sống thực tế ở bất kỳ một trang trại nào. Phần lớn du lịch nông nghiệp hƣớng đến trải nghiệm một nền văn hóa mới, tránh xa nhịp sống hối hả nơi đô thị. Đó là thƣởng ngoạn một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và nghỉ dƣỡng trong một ngôi nhà tranh ấm cúng cùng với nhiều hoạt động nhƣ leo núi, câu cá, cƣỡi ngựa và cƣỡi xe trƣợt tuyết, Ở Việt Nam thì du lịch nông nghiệp là một loại hình mới đƣợc biết đến. Với loại hình du lịch mới mẻ này, du khách sẽ đƣợc trực tiếp tham gia vào các hoạt động dân dã thƣờng của nhà nông nhƣ: cấy lúa, tát nƣớc, bắt vịt, bắt cá và các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi khác. Du lịch nông nghiệp còn là hình thức phát triển mối giao hòa về mặt tự nhiên, văn hóa và con ngƣời giữa các vùng đô thị và nông thôn thông qua việc đến ở hoặc tham gia có mục đích nhằm hƣởng thụ các sản vật địa phƣơng tại từng hộ nông dân hoặc các trang trại .Du lịch nông nghiệp là một loại hình du lịch tạo ra sản phẩm du lịch phục vụ du khách chủ yếu dựa vào nền tảng của hoạt động sản xuất nông nghiệp. D o vậy tài nguyên của loại hình du lịch này là tất cả những gì phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Từ tƣ liệu sản xuất, đất đai, con ngƣời, quy trình sản xuất, phƣơng thức tập quán kỹ thuật canh tác và sản phẩm làm ra cho đến những yếu tố tự nhiên liên quan đến sản xuất nông nghiệp nhƣ khí hậu, thời tiết, canh tác đều là cơ sở tài nguyên cho du lịch nông nghiệp. Không gian tổ chức các hoạt động nông nghiệp cho du khách là các trang trại, đồng ruộng, vƣờn cây, rừng trồng đến cả những ao nuôi, cơ sở thuần dƣỡng động, thực vật hoang dã. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 10
  15. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Chủ thể tham gia tổ chức du lịch nông nghiệp có thể là chủ hộ, nhà vƣờn, chủ rừng, chủ trang trại, chủ cở sở, hợp tác xã nông nghiệp,chủ doanh nghiệp nông nghiệp . Hình thái du lịch nông nghiệp là một hình thức xuất khẩu hàng hóa nông nghiệp tại chỗ rất hiệu quả và tiếp thị tận gốc về hồ sơ xuất xứ sản phẩm, nhất là khi nhu cầu tự bảo vệ sức khỏe của cộng đồng xã hội trƣớc các nguy cơ ô nhiễm môi trƣờng tại các thành phố lớn ngày càng tăng. Du lịch nông nghiệp thiên về học hỏi, trải nghiệm hoạt động sản xuất nông nghiệp, thƣởng thức vẻ đẹp cảnh quan nhân văn do hoạt động sản xuất nông nghiệp tạo nên tại điểm tham quan. Du lịch nông nghiệp sẽ ít có tác động tiêu cực đến tài nguyên nếu có giáo dục về môi trƣờng, có tiếp xúc với cộng đồng địa phƣơng và góp phần giữ gìn các giá trị truyền thống nhờ việc tiêu thụ đƣợc những sản phẩm nông, lâm, ngƣ nghiệp và các sản phẩm thủ công truyền thống lợi nhuận từ hoạt động từ hoạt động du lịch là để bảo toàn và phát huy nền văn hoá bản địa. Nguồn lao động dồi dào, hƣớng dẫn viên du lịch trực tiếp tham gia vào các hoạt động dịch vụ phục vụ khách du lịch chủ yếu là ngƣời dân địa phƣơng - họ là ngƣời đƣợc sinh ra và lớn lên trên mảnh đất nông nghiệp nên rất am hiểu cuộc sống nông nghiệp,các phƣơng thức, kỹ thuật canh tác và có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động nông nghiệp .Vì vậy, ngƣời dân địa phƣơng sẽ hƣớng dẫn cho du khách tham gia các hoạt động nông nghiệpmột cách nhiệt tình, chu đáo và đem lại cho du khách nhiều kiến thức bổ ích. Du lịch nông nghiệp có chi phí thấp do các thiết bị vật chất sử dụng mặc dù chƣa hoạt động nhƣng đơn giản và dễ thoả mãn nhu cầu du lịch do đó thu hút đƣợc nhiều khách du lịch đến tham quan. 1.1.3 Phân loại du lịch nông nghiệp Liên quan đến du lịch nông nghiệp có nhiều thuật ngữ. Ở Vƣơng quốc Anh có “Rural-tourism” (du lịch nông thôn), ở Mỹ có “ Homestead ” (du lịch Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 11
  16. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội trang trại), ở Nhật Bản có “Green-tourism” (du lịch xanh), còn ở Pháp có “Tourism de Verdure” (du lịch với cỏ cây). Loại hình “Du lịch xanh” hay còn đƣợc gọi là du lịch tại gia do chính quyền và nhân dân ở Ajimu – Nhật Bản sáng tạo ra nhằm phát huy thế mạnh về nông nghiệp và truyền thống văn hóa địa phƣơng. Khi tham gia vào một tour du lịch nông thôn ngoài việc du khách đƣợc tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp nhƣ cấy lúa, trồng khoai, trồng rau . Đặc biệt, du khách có thể tham gia những hoạt động rất thú vị nhƣ tắm tại nhà tắm công cộng của làng. Cơ sở lƣu trú dành cho du khách đƣợc thiết kế theo lối cổ truyền của ngƣời Nhật xen lẫn kiểu hiện đại của phƣơng Tây chứng tỏ một sự chuyên nghiệp của chủ nhà trong cách làm du lịch. Mặc dù mới đƣợc hình thành từ năm 1996 nhƣng mỗi năm thị trấn Ajimu cũng có đến 165.000 khách du lịch từ khắp nơi đổ về và sự thành công của mô hình “ Du lịch xanh” ở Ajimu đã hình thành một phƣơng pháp làm du lịch mới ở Nhật Bản – phƣơng pháp Ajimu. Ở Mỹ loại hình du lịch nông nghiệp đƣợc nhắc đến “ Du lịch trang trại” với các hoạt động tiêu biểu nhƣ: - Xem trồng lúa, ngô, đậu tƣơng , cho bò, lợn, gà ăn . - Tự tay hái các sản phẩm nhƣ hoa quả, lúa, ngô, vắt sữa bò, thu nhặt trứng gà. - Tham quan nhà máy sản xuất cà phê, quy trình chăn nuôi gia súc. - Cƣỡi ngựa. - Săn bắn hƣơu, thỏ, lợn rừng, chim, câu cá ( vào mùa cho phép), đây là một hoạt động rất đƣợc ƣa thích. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 12
  17. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội - Nghiên cứu: dành cho các sinh viên, giáo viên trong bộ môn nông nghiệp ( ví dụ giáo sƣ có thể giảng dạy sinh viên tại trang trại về quy trình trồng trọt, sản xuất năng lƣợng sinh học, gió ). - Tổ chức tiệc đám cƣới, tiệc sinh nhật ngoài trời. - Tham quan bảo tàng ( một phòng, nhà của trang trại) về lịch sử phát triển của bang, trang tại( tranh ảnh, đồ cổ). - Các lễ hội, sự kiện (festival, events) thƣờng đƣợc liên kết bởi nhiều trang trại trong vùng hoặc một tổ chức của liên các bang và các công ty nông nghiệp thƣờng có chân trong các events này. - Các show về sản phẩm cây trồng, gia súc. - Các show về máy móc, thiết bị chuyên dụng (Các loại máy kéo, máy xúc phục vụ nông nghiệp đứng đầu thế giới). - Các sản phẩm làm từ các loài cây thảo dƣợc. 1.1.4 Vai trò của loại hình du lịch nông nghiệp Với những ƣu điểm của loại hình du lịch này, có thể thấy đây là một loại hình du lịch hoàn toàn có khả năng đáp ứng đƣợc các yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam. Điều đó đƣợc thể hiện ở những tác động tích cực mà loại hình du lịch này mang lại trên nhiều phƣơng diện nhƣ: Phát triển du lịch nông nghiệp góp phần làm tăng thu nhập cho cộng đồng địa phƣơng thông qua việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của khách du lịch khi đến các khu vực nông thôn - nơi tỷ lệ đói nghèo còn cao. Đây chính là lợi ích về kinh tế - yếu tố góp phần làm cải thiện và nâng cao chất lƣợng cuộc sống cho cộng đồng địa phƣơng, từ đó góp phần tích cực trong việc giảm thiểu các tác động tiêu cực của cộng đồng địa phƣơng tới các giá trị cảnh quan môi trƣờng tự nhiên, qua đó góp phần bảo tồn tài nguyên, môi trƣờng, đảm bảo điều kiện cho sự phát triển du lịch một cách bền vững. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 13
  18. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Phát triển du lịch nông nghiệp góp phần giúp cộng đồng địa phƣơng đƣợc hƣởng lợi từ việc hoàn thiện và phát triển cơ sở hạ tầng du lịch (giao thông, điện, nƣớc, bƣu chính viễn thông, ), đặc biệt là những ngƣời dân chƣa có điều kiện trực tiếp tham gia vào các dịch vụ du lịch. Điều này góp phần đảm bảo sự công bằng trong phát triển du lịch, một trong những nội dung quan trọng của phát triển du lịch bền vững. Du lịch nông nghiệp góp phần tạo công ăn việc làm và giải quyết vấn đề thất nghiệp tại khu vực nông thôn, đặc biệt là cho nữ giới và thanh niên cũng nhƣ vào thời điểm nông nhàn khiến cho cơ cấu lao động thay đổi và trình độ lao động tại khu vực này cũng đƣợc nâng cao. Thông qua hoạt động du lịch, ngƣời dân địa phƣơng sẽ trực tiếp tham gia vào việc sản xuất và đáp ứng các nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ phục vụ du khách, từ đó làm hạn chế hiện tƣợng di dân từ nông thôn vào thành thị tìm kiếm việc làm để mƣu sinh, góp phần ổn định xã hội, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, trong đó có du lịch. Phát triển du lịch nông nghiệp góp phần tích cực trong việc khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nhƣ các công trình kiến trúc, các làng nghề, lễ hội, phong tục tập quán trong đời sống sản xuất nông nghiệp, các món ăn truyền thống và sản vật địa phƣơng Điều này có đóng góp rất lớn cho sự phát triển du lịch bền vững nhìn từ góc độ tài nguyên, môi trƣờng du lịch. ệ ầ ộng đồng đị , nông thôn mà Đảng và Nhà nƣớc ta đã xác định. Phát triển du lịch nông nghiệp sẽ góp phần tạo điều kiện thúc đẩy giao lƣu văn hóa và giao lƣu kinh tế giữa các vùng miền, các quốc gia và dân tộc trên thế giới. Đây là yếu tố quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời tạo cơ hội để phát triển kinh tế Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 14
  19. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội nông thôn theo hƣớng hiện đại hóa, đảm bảo sự phát triển bền vững nói chung và phát triển du lịch bền vững nói riêng. Ngoài ra, tham gia vào hoạt động du lịch nông nghiệp là một hƣớng tích cực góp phần nâng cao sự hiểu biết về văn hóa – xã hội, cảnh quan, làng nghề, giáo dục ý thức lao động, ý thức về môi trƣờng cho mọi ngƣời 1.2 Lịch sử hình thành và phát triển loại hình du lịch nông nghiệp Khái niệm du lịch nông thôn đã manh nha cùng với sự hình thành của ngành đƣờng sắt ở châu Âu. Tuy nhiên, cho mãi đến những năm đầu của thập niên 80 thế kỷ XX, du lịch nông thôn mới đƣợc xem là một loại hình du lịch và phổ biến ở hầu hết các quốc gia ở châu Âu nhƣ Pháp, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển Lúc bấy giờ, khái niệm du lịch nông thôn đƣợc quan niệm tƣơng đồng với các loại hình du lịch ở nông trại, du lịch di sản, du lịch xanh, du lịch nhà nghỉ ở nông thôn, du lịch nông nghiệp Sự khác biệt về du lịch nông thôn ở các quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển là ở chỗ: tại các quốc gia đang phát triển, ngƣời ta xem du lịch nông thôn là đa dạng hóa thu nhập từ nông nghiệp, góp phần chống đói nghèo, phát huy sức mạnh nội lực của cộng đồng, bảo tồn các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống và bảo vệ môi trƣờng. Vì vậy, du lịch nông thôn ở các nƣớc này phát triển theo chiều rộng. Còn ở các quốc gia phát triển thì loại hình du lịch này lại phát triển theo chiều sâu mà nguyên nhân chính là do các khu vực nông thôn ngày càng bị thu hẹp lại. Cách đây 30 – 40 năm, tại một số nƣớc phát triển trên giới đã xảy ra tình trạng nền kinh tế bị suy thoái làm cho đời sống ngƣời dân chịu nhiều khó khăn. Vì vậy, ngƣời dân từ các làng quê, vùng ngoại ô kéo nhau về các thành phố, các trung tâm công nghiệp để kiếm sống. Ví dụ: nƣớc Ý từ những năm 1970 tới những năm 1980, tình trạng bỏ nghề nông tăng mạnh với xu hƣớng ào ạt ra thành phố kiếm việc. Trong 10 năm của thập kỷ 1980, có khoảng 400.000 hộ nông dân chuyển sang nghề khác. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 15
  20. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Chính phủ Ý phải đối mặt với những khủng hoảng trầm trọng. Tình trạng nhƣ vậy cũng diễn ra ở Nhật Bản, Pháp, Mỹ Để giải quyết vấn đề trên chính phủ các nƣớc đã triển khai rất nhiều biện pháp ngăn chặn, trong đó có một hƣớng đã đƣợc triển khai rất hiệu quả và chứng minh đƣợc qua vài chục năm hoạt động là có tác dụng rất tốt với thu nhập của ngƣời nông dân, thay đổi nhanh bộ mặt nông thôn. Đó là việc chính phủ đã hƣớng sự quan tâm của cộng đồng toàn xã hội và việc phát triển du lịch nông nghiệp. Việc phát triển loại hình du lịch nông nghiệp tại một số nƣớc đã đƣa ra những kết quả về kinh tế rất đáng khích lệ nhƣ ở Ý trong 5 năm từ 1985 – 1990 doanh thu từ hoạt động du lịch này tăng gấp 2 lần. Trong 10 năm từ 1990 - 2000 đã tăng lên 50%. Tại một số quốc gia đã đƣợc cơ quan quản lý nhà nƣớc quan tâm, đầu tƣ hỗ trợ trong việc phát triển loại hình du lịch nông nghiệp. Vƣơng Quốc Anh ộ . ả . Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 16
  21. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội . . t ố . 1987. ộ ổ . Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 17
  22. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội . Nam. ề , h . : B&B (Bed & Breafast) cun . tham gi . Ở Pháp: Pháp là một trong những quốc gia đi đầu trong việc phát triển loại hình du lịch nông thôn. Ở Pháp có nhiều mạng lƣới nông thôn nhƣ mạng lƣới “ Nhà ở nƣớc Pháp” ( Gites de France), Mạng lƣới “ Đón tiếp nông dân” ( Acceuil paysan), “ Chào đón ở nông trại” ( Bienvenue à la ferme) Hộ nông dân nào muốn tham gia vòa các mạng lƣới này phải sửa chữa nhà cửa của mình cho hợp với tiêu chuẩn của hệ thống du lịch. Đó không phải là các nhà mới xây dựng với Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 18
  23. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội các tiện nghi hiện đại mà là các nhà cổ truyền thống có ngăn các phòng cho khách ở với các tiện nghi vệ sinh tối thiểu và phải giữ đƣợc phong cách địa phƣơng. Sau khi tham gia, Ban quản lý mạng lƣới sẽ mở lớp huấn luyện về dịch vụ du lịch, kiểm tra và xếp hạng các nhà nông dân theo tiêu chuẩn du lịch từ 1 sao đến 5 sao đồng thời quy định cụ thể giá thuê song song với việc phát hành các sách hƣớng dẫn du lịch để thông tin cho khách hàng. Các mạng lƣới du lịch nông thôn của Pháp còn xây dựng những mô hình dịch vụ chuyên biệt nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tƣợng nhƣ: Nhà khách: tiếp khách nhƣ “ bạn” của gia đình, có phòng ngủ, bàn ăn với món ăn cổ truyền. Nhà đón tiếp trẻ con: đón từng nhóm khoảng 10 trẻ em thành thị muốn về sống ở nông thôn vài ngày để trải nghiệm thực tiễn. Trẻ em đƣợc vui chơi, ăn ngủ với trẻ em nông thôn và có ngƣời phụ trách. Trại hè: là một miếng đất gần một di tích lịch sử văn hóa đƣợc tổ chức để có thể căng lều trại, nhà vệ sinh, bếp ăn ngoài trời có thể tiếp các nhóm khoảng 20 thanh thiếu niên về ở và du lịch quanh vùng. Nhà sàn vui chơi: tổ chức 3 đến 25 nhà sàn có thể tiếp 6 ngƣời ăn ngủ. Xung quanh có các nơi vui chơi nhƣ đi câu, đi săn, đi xe đạp, dạo chơi ở các di tích lịch sử, văn hóa hay có phong cảnh đẹp. Tuy nhiên, mỗi mô hình du lịch nông thôn ở Pháp không thể áp đăt hoàn toàn một cách máy móc cho Việt Nam vì giữa hai quốc gia có sự khác biệt về văn hóa rất lớn, điều kiện sản xuất, sinh hoạt và phong cảnh tự nhiên cũng khác nhau. Cái mà Việt Nam học đƣợc ở đây là phải chú ý đến nhƣng nhu cầu đa dạng của mọi đối tƣợng khách du lịch để thiết kế nên những chƣơng trình du lịch đặc trƣng, chẳng hạn nhƣ xây dựng lên những mô hình “ nông trại cho gia đình”, “ nông trại cho những đôi tình nhân”, “ du lịch nông thôn dành cho thanh thiếu niên” và cả những chƣơng trình du lịch phù hợp với du khách nƣớc ngoài hay khách du lịch nội địa đến từ các đô thị lớn. Đối với du khách nƣớc ngoài, thƣởng thức và cảm nhận văn hóa địa phƣơng là nhu cầu chính yếu, Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 19
  24. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội trong khi đối với khách nội địa, nhu cầu nghỉ ngơi, thƣ giãn sau những áp lực của cuộc sống đo thị lại đƣợc đặt lên hàng đầu. Với du khách trong nƣớc cần có những kỳ nghỉ dài nhƣ kiểu Tuần lễ vàng của Nhật hay 3 tuần lễ vàng của Trung Quốc. Các gia đình thành phố đi du lịch nông thôn thƣờng với mục đích hàng đầu là nghỉ ngơi, tham gia các sự kiện văn hóa thôn quê và tham quan những di sản văn hóa, thƣởng thức các nông sản , do đó du lịch nông thôn thƣờng đòi hỏi một quỹ thời gian nhiều hơn so với nhiều loại hình du lịch khác. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay mới có một kỳ nghỉ tƣơng đối dài vào dịp Tết nguyên đán, nhƣng vào dịp này, ngƣời dân thƣờng ƣu tiên cho việc đoàn tụ gia đình, ít có nhu cầu đi du lịch, vì vậy nếu có thêm một kỳ nghỉ dài vào một khoảng thời gian khác trong năm sẽ góp phần kích cầu du lịch nông thôn cũng nhƣ nhiều loại hình du lịch khác. Bên cạnh những chƣơng trình du lịch khung, vẫn có thể bổ sung thêm nhiều hình thức du lịch đặc biệt khác để đem lại cảm nhận thú vị cho du khách. Chẳng hạn, trong một tour du lịch dã lên chƣơng trình sẵn, nếu du khách có yêu cầu có thể tổ chức những hoạt động bổ trợ nhƣ “ Bếp ăn nông thôn”. Hoạt động này sẽ đƣợc tổ chức tại một gia đình nông dân nào đó hay tại nông trang của họ, để cho du khách đƣợc tham gia trực tiếp vào quá trình chế biến các món ăn đặc sản địa phƣơng từ chính các sản phẩm đƣợc sản xuất tại chỗ. Tƣơng tự nhƣ vậy, đối với du lịch nông thôn tại các làng nghề, sẽ không còn gì thú vị hơn với du khách khi đƣợc trực tiếp tham gia vào quá trình tạo tác nên những sản phẩm thủ công truyền thống và đƣợc mang theo về làm kỉ niệm Với những du khách chỉ có thể lƣu lại ngắn ngày hay không có điều kiện trải nghiệm thực tế cuộc sống nông thôn, chúng ta vẫn có thể giúp họ hình dung rõ nét về cuộc sống thôn quê nơi địa phƣơng mình đến bằng cách lập ra các “ nhà bảo tàng nông dân” hay “ nhà bảo tàng phong tục nông thôn”. Nhà bảo tàng nông dân chính là bản thân ngôi nhà của ngƣời nông dân, trong đó có lƣu giữ lại các cảnh sản xuất nhƣ một hộ nông dân cổ truyền điển hình của vùng với các cây trồng, vật nuôi truyền thống, hệ thống các nông cụ và vật dụng cổ truyền dƣới hình thức nhƣ Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 20
  25. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội một bảo tàng thu nhỏ. Còn nhà bảo tàng phong tục nông thôn có thể do làng lập ra, có qui mô lớn hơn, nhằm giới thiệu các cách sống, phong tục cổ truyền nông thôn với quần áo, vật dụng gia đình dƣới hình thức các viện bảo tàng sống. Tại “ nhà bảo tàng” này cũng có thể duy trì hoạt động sản xuất tạo ra các vật kỷ niệm bán cho khách du lịch. Ở Việt Nam với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có một loại hình thức cƣ trú ( nhà ở) riêng, mỗi dân tộc có một bản sắc văn hóa, một phong tục tập quán riêng, chính là một nguồn tài nguyên lớn cho việc xây dựng phong phú các mô hình của du lịch nông thôn. Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể tham khảo thêm kinh nghiệm của để Hàn Quốc tự mình xây dựng nên những mô hình du lịch nông nghiệp hấp dẫn, đặc trƣng. Ở Hàn Quốc: Du lịch nông thôn bắt đầu vào năm 1984 từ một dự án của chính phủ nhằm tăng thu nhập cho nông dân. Đó là dự án Khám phá làng nông thôn truyền thống do Cơ quan Phát triển Nông thôn Hàn Quốc (RDA) thực hiện thí điểm với 141 làng. Mục đích của dự án là lôi kéo ngƣời dân thành phố về khám phá cuộc sống nông thôn. Có một điểm đặc biệt, các ngôi làng của Hàn Quốc thƣờng có qui mô rất nhỏ bé, thƣờng chỉ có 30 - 50 hộ với dân số trong khoảng 100 - 150 ngƣời. Khi tham gia dự án này, mỗi làng sẽ đƣợc nhận khoản tiền đầu tƣ 200.000 USD. Số tiền này đƣợc chi tiêu chủ yếu cho việc tiếp thị và duy trì bộ máy quản lý dự án cấp cơ sở, ví dụ mỗi làng đều lập ra một trang web giới thiệu về những nét đặc sắc của mình tới du khách. Tại những làng tham gia dự án, các hộ dân đƣợc yêu cầu giản lƣợc tối đa nét sinh hoạt thành thị đã du nhập, duy trì đúng lối sống nông thôn. Không chỉ có các cơ quan nhà nƣớc thực hiện mô hình du lịch làng, các Doanh nghiệp tƣ nhân cũng là đầu mối tham gia tích cực. Thƣờng thì mỗi Doanh nghiệp đăng ký “đỡ đầu” cho một làng, mức tiền đầu tƣ mà nhà nƣớc khuyến khích là tối thiểu 300.000 USD/làng. Tập đoàn Hyundai hiện đang giúp đỡ 66 làng trên toàn quốc. Hàng năm Hyundai bố trí một lực lƣợng nhân viên, công nhân của mình về các làng này giúp đỡ nông dân gặt lúa, thu hoạch mùa màng và khuyến khích nhân viên tiêu thụ các loại nông Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 21
  26. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội sản. Các nhân viên Hyundai cũng đƣợc khích lệ đƣa con, cháu và ngƣời nhà về nông thôn trong những chiến dịch “Mỗi công ty - Một làng nông nghiệp” Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc trên đây, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nếu muốn phát triển hiệu quả loại hình du lịch nông thôn. Thứ nhất, cần xây dựng những chƣơng trình Dự án phát triển Du lịch nông thôn theo hƣớng bền vững với sự phối kết hợp giữa các làng quê, các vùng, giữa chính quyền và nông dân, giữa công ty du lịch và địa phƣơng theo phƣơng châm “Nhà nƣớc và nhân dân cùng làm”. Ngƣời nông dân không thể có một nguồn vốn lớn để đầu tƣ một lúc làm dự án du lịch, trong khi đó nguồn vốn của Nhà nƣớc lại không đủ để đáp ứng cho tất cả các địa phƣơng vì vậy thu hút các doanh nghiệp du lịch tham gia đầu tƣ là một việc làm cần thiết. Tuy nhiên, với việc bỏ ra một khoản tiền lớn, doanh nghiệp cần đƣợc đảm bảo về mặt pháp lý cũng nhƣ các chính sách hỗ trợ của các cơ quan nhà nƣớc để có thể yên tâm đầu tƣ kinh doanh lâu dài. Việc kết hợp các nguồn vốn đầu tƣ của ngƣời nông dân với doanh nghiệp và nhà nƣớc cũng là cơ sở để phân chia cơ cấu lợi nhuận hợp lý giữa các bên tham gia. Thứ hai cần có một cơ quan quản lý nhà nƣớc đứng ra định hƣớng và điều phối toàn bộ các hoạt động du lịch nông thôn tại địa phƣơng, chẳng hạn nhƣ có những qui định cụ thể với từng làng và tới từng hộ nông dân tham gia dự án. Muốn vậy phải tiến hành đào tạo cho họ về nghiệp vụ du lịch, về kỹ năng tổ chức quản lý, kỹ năng giao tiếp với khách cũng nhƣ những tiêu chuẩn về cơ sở lƣu trú, về sản phẩm du lịch, về vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trƣờng Ngoài ra, so với Hàn Quốc, làng Việt thƣờng có qui mô lớn hơn rất nhiều với khoảng từ 300-400 hộ dân, dân số vào khoảng vài ngàn ngƣời, nên nếu thu hút hết số lƣợng dân cƣ trong làng tham gia làm du lịch dễ rất đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, làm ăn chụp giật , do đó trƣớc hết nên tiến hành thí điểm theo hƣớng chuyên biệt hóa ở một bộ phận dân cƣ trong làng, sau đó mới nên mở rộng dần ra. Tuy nhiên, một vấn đề đối với du lịch Việt Nam nói chung và du lịch nông thôn Việt Nam nói riêng hiện nay là sản phẩm du lịch quá đơn điệu, nhàm Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 22
  27. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội chán. Chẳng hạn nhƣ, trong những năm qua, tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã manh nha phát triển du lịch miệt vƣờn là một trong những hình thức của du lịch nông thôn. Mặc dù nhận định chung của du khách khi tham gia các tour này là khá hấp dẫn nhƣng rất ít ngƣời có ý định quay trở lại lần thứ hai. Lý do là bởi vì, khách đến Tiền Giang đã vào thăm vƣờn, ngồi ăn trái cây hái sẵn, nghe đờn ca tài tử, thì sang Vĩnh Long, Cần Thơ hay đi Sóc Trăng cũng vẫn thấy các dịch vụ này. Cách làm đơn điệu, thiếu sức hấp dẫn và không có điểm nhấn khiến các tour ở ĐBSCL không thể thuyết phục khách du lịch ở lại lâu hơn. Vì thế, cần có quy hoạch cụ thể cho từng địa phƣơng để phát triển du lịch nông thôn, gắn với đặc điểm kinh tế, xã hội và văn hóa của từng vùng, miền. Phát triển các sản phẩm nghề thủ công truyền thống đặc trƣng hay tăng cƣờng quảng bá văn hóa dân gian địa phƣơng là một giải pháp hữu hiệu để tạo nên thƣơng hiệu du lịch nông thôn cho mỗi làng quê Việt Nam theo phƣơng châm “mỗi làng một sản phẩm”. Tóm lại, trên đây chỉ là những gợi ý cho việc phát triển loại hình du lịch nông nghiệp ở Việt Nam. Việc học tập kinh nghiệm của các nƣớc khác là cần thiết nhƣng không đƣợc phép dập khuôn, máy móc vì điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên và văn hóa của mỗi quốc gia là khác nhau, nên hình thức du lịch nông nghiệp cũng khác nhau. Thậm chí, cùng trong một quốc gia, nhƣng mỗi vùng địa lý khác nhau cũng cho phép phát triển những mô hình khác nhau, vì vậy để phát triển loại hình du lịch này một cách hiệu quả, cần xây dựng đề án một cách chi tiết, cũng nhƣ cần có sự nỗ lực cả từ phía chính quyền và bản thân ngƣời nông dân. Hy vọng với tiềm năng sẵn có, trong tƣơng lai gần, du lịch nông nghiệp sẽ là một trong những loại hình đem lại lợi thế cạnh tranh lớn cho ngành du lịch Việt Nam 1.3 Khả năng phát triển du lịch nông nghiệp ở Việt Nam Việt Nam vốn là một đất nƣớc có nền văn minh nông nghiệp lâu đời, diện tích đất nông nghiệp chiếm trên 90%, cơ cấu kinh tế của Việt Nam chiếm trên Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 23
  28. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội 70% là nông nghiệp. Nông thôn Việt Nam hiện nay còn lƣu giữ đƣợc nhiều phong cảnh thiên nhiên đẹp hoang sơ; địa hình đa dạng với núi đồi, sông suối, biển đảo, hang động; hệ động, thực vật phong phú. Vùng nông thôn với những làng quê cổ kính, những cánh đồng bát ngát, phì nhiêu, những nét văn hóa truyền thống đặc sắc (đặc biệt là văn hóa nông nghiệp), những vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời, nơi lƣu giữ nhiều di tích lịch sử và truyền thống văn hóa tập tục của ngƣời xƣa, là những điều kiện hết sức thuận lợi khi phát triển loại hình du lịch nông thôn. Ngƣời Việt Nam trải qua bao bƣớc thăng trầm của lịch sử, với những phẩm chất cần cù chịu khó, nhân hậu, thủy chung, yêu hòa bình và giàu lòng mến khách, cùng với đôi bàn tay khéo léo, trí thông minh đã làm nên những nét văn hóa truyền thống đặc sắc Việt Nam. Làng quê với những hoạt động của nghề nông, những nghề thủ công của ngƣời dân cƣ ngụ là cả một nguồn tài nguyên lớn của du lịch nông thôn mà du khách quốc tế rất quan tâm. Mặc dù ở Việt Nam, loại hình du lịch nông thôn mới xuất hiện một vài năm trở lại đây và chƣa đƣợc nhắc tới trong các văn bản pháp lý, nhƣng đã có những bƣớc phát triển ban đầu. Loại hình du lịch nông thôn ở Việt Nam đƣợc thể hiện 5 hình thức chủ yếu là “Du lịch tự nhiên” (mang tính giải trí); “Du lịch văn hoá” (quan tâm tới văn hoá, lịch sử và khảo cổ của địa phƣơng); “Du lịch sinh thái” (quan tâm tới việc bảo vệ nguồn lợi tự nhiên cũng nhƣ phúc lợi, giá trị văn hoá của ngƣời dân địa phƣơng); “Du lịch làng xã” (trong đó du khách chia sẻ với cuộc sống làng xã và dân làng đƣợc hƣởng các lợi ích kinh tế do các hoạt động du lịch mang lại) và “Du lịch nông nghiệp” (trong đó khách du lịch tham quan và tham gia vào các hoạt động nông nghiệp truyền thống, không phá hoại, hay làm giảm năng suất cây trồng của địa phƣơng). Với hơn 80% dân số sống chủ yếu bằng nghề nông, có các sản vật phong phú nhƣ nho, thanh long, sầu riêng, khoai, sắn, lúa gạo , Việt Nam có điều kiện rất tốt để xây dựng và phát triển loại hình du lịch nông nghiệp. Khách tham quan sẽ đến các trang trại hoặc làng bản, cùng sinh hoạt, làm việc với ngƣời dân bản địa; có thể mặc áo nông dân, xuống ruộng phát cỏ, cấy lúa hoặc Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 24
  29. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội lội đồng bắt cá, tôm cua Không chỉ khách quốc tế mới là đối tƣợng của loại hình du lịch này mà ngay cả ngƣời dân trong nƣớc cũng có thể tham gia, tìm hiểu. Những bài học góp nhặt đƣợc trong quá trình trải nghiệm sẽ giúp cho chuyến du lịch trở nên bổ ích hơn và thú vị hơn cho du khách và việc đầu tƣ khai thác loại hình du lịch này có nhiều tiềm năng mang lại hiệu quả cao. Ở Việt Nam, du lịch nông nghiệp đã xuất hiện ở Sa-Pa (Lào Cai), Khánh Hòa, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ. Có thể kể một số trƣờng hợp nhƣ Khu du lịch “Một thoáng làng nghề” tại Củ Chi – TP.HCM, hay khu du lịch nhà vƣờn của ông Huỳnh Đức Huệ ở huyện Vĩnh Cửu, Đồng Nai. Đây là vùng bƣởi Tân Triều trù phú nổi tiếng, nhƣng nông dân ở đây phần lớn vẫn nghèo. Thấy đƣợc thế mạnh của địa phƣơng, ông Huệ quyết tâm làm du lịch tìm cách tiêu thụ sản phẩm của địa phƣơng mình. Sau 5 năm nỗ lực, một khu du lịch sinh thái đã ra đời mang tên Làng bƣởi Tân Triều thu hút khách quanh năm. Một số tỉnh nhƣ Bình Dƣơng, Đồng Nai cũng đã phát huy đƣợc thế mạnh du lịch sinh thái của địa phƣơng. Từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm là mùa trái cây chín rộ, du khách không những đƣợc tận hƣởng không khí trong lành của vƣờn cây trái Bình Dƣơng dài tít tắp mà còn đƣợc thƣởng thức các loại trái cây ngon nhƣ măng cụt, sầu riêng, chôm chôm, mít tố nữ, vú sữa. Lợi thế của vùng này là ở sát cạnh TP.HCM, chỉ cách chừng 20km, có diện tích cây ăn quả lớn trong khu vực miền Đông Nam Bộ, lại biết kết hợp với làng gốm và các xƣởng sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ để làm du lịch. Do đó, ngƣời nông dân đƣợc hƣởng lợi về mặt kinh tế nhờ mô hình liên kết này. Tuy nhiên, mới chỉ dƣới dạng những hoạt động mang dáng dấp du lịch nông nghiệp, rất lẻ tẻ và mang tính tự phát. Trong khi đó, các dịch vụ và sản phẩm phục vụ loại hình du lịch này năm nay qua năm khác vẫn không có gì thay đổi, trở nên quá nhàm chán với du khách. Theo một hƣớng dẫn viên có thâm niên 15 năm chuyên đi tour miền Tây, du khách những năm gần đây thƣờng than phiền sản phẩm du lịch vùng này nghèo nàn, trùng lặp, thiếu đặc trƣng địa phƣơng. Nếu ai đã đi một lần, rồi hai Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 25
  30. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội lần sẽ chẳng muốn đi nữa vì cảm giác không có, không còn gì khác để khám phá. Các dịch vụ, sản phẩm phục vụ du lịch nông nghiệp ở tỉnh nào trong vùng dƣờng nhƣ cũng “na ná” nhƣ nhau. Miền Tây có 5 chợ nổi lớn, nhƣng cả 5 đều có đặc trƣng lấy ghe là nhà, cũng họp chợ trên sông từ sáng sớm, cũng “treo gì bán nấy”, có khác chăng chỉ là quy mô lớn nhỏ và sản vật địa phƣơng theo mùa. Chỉ cần đi một chợ là có thể hình dung ra các chợ khác. Từ ghe bƣớc lên vƣờn, men theo vài con đê nhỏ vào các vƣờn cây ăn trái, ngồi nghỉ bên bàn nƣớc nhỏ, uống trà pha mật ong, ăn các loại trái cây đã đƣợc gọt sẵn: đu đủ, chôm chôm, thanh long đƣợc mua từ nơi khác mang về đãi khách. Các vƣờn cây phục vụ du lịch bây giờ có vẻ tiêu điều so với 5 năm về trƣớc. Ngƣời dân thì lo lắng không muốn đầu tƣ thêm vì không biết ngày mai đất của họ có bị quy hoạch, cấp cho một dự án nào đó hay không. Đi tham quan thì cũng chỉ có vài căn nhà cổ, các trại rắn, cá sấu, đà điểu, hay xem làm bánh tráng, kẹo dừa Thậm chí có nơi chỉ là xƣởng, trại đƣợc dựng lên cho khách xem, không phải là nơi sản xuất chuyên nghiệp, nơi chăn nuôi thật của nông dân địa phƣơng. Sản phẩm du lịch trong vùng vì vậy có dấu hiệu nhàm chán, bão hòa. Nhìn nhận thực tế trên, nhiều doanh nghiệp du lịch đã chủ động thay đổi cách làm, tạo ra sản phẩm mới cho loại hình du lịch này với tiêu chí xác định du lịch nông nghiệp không chỉ là đi xem các thửa ruộng xanh mƣợt, nhìn ngắm những con gà, con vịt hay những vƣờn rau, thăm cây ăn trái mà còn là sống với những sinh hoạt rất đỗi quen thuộc, gần gũi nhƣ ngƣời dân bản địa. Một số công ty nhƣ Saigontourist, Bến Thành Tourist, Vietravel, Lửa Việt, Fiditour, Dấu Ấn Việt, Hòn Ngọc Viễn Đông, v.v đã khai thác rất hiệu quả các tour: “Tát mƣơng bắt cá”, “Tham quan làng nghề”, “Một ngày làm nông dân Nam bộ” Với những tour du lịch này, du khách đƣợc khám phá Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 26
  31. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội chính mình và sống trong cảm giác mới lạ bằng việc chủ động tham gia vào các hoạt động sinh hoạt, lao động hàng ngày với ngƣời dân bản địa. Tuy nhiên, cách làm này vẫn mang tính thời vụ, nhỏ lẻ mà chƣa có chiến lƣợc phát triển du lịch nông nghiệp lâu dài, bền vững. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 27
  32. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Tiểu kết chƣơng I Toàn bộ chƣơng 1 cho thấy cơ bản về các khái niệm du lịch nông nghiệp, các đặc điểm của loại hình du lịch mới này. Đồng thời, hiểu đƣợc vai trò và lịch sử ra đời và phát triển của du lịch nông nghiệp trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Bên cạnh đó, phát triển loại hình du lịch nông nghiệp – một giải pháp mới cho việc đa dạng các sản phẩm du lịch trong việc phát triển của ngành du lịch. Trên cơ sở đƣa ra những lý luận chung tạo nền móng cho việc nghiên cứu đề tài một cách đúng đắn, khoa học và thêm phong phú. Là cơ cơ sở lý thuyết cho các nghiên cứu thực tiễn đƣợc thực hiện ở chƣơng 2 và chƣơng 3. Ngoài ra, góp phần cho việc khai thác và bảo tồn các giá trị tài nguyên phục vụ phát triển du lịch nông nghiệp. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 28
  33. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội CHƢƠNG II: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG NGHIỆP TẠI TRANG TRẠI ĐỒNG QUÊ - BA VÌ – HÀ NỘI 2.1 Giới thiệu chung về huyện Ba Vì 2.1.1. Điều kiện tự nhiên Huyện Ba Vì đƣợc thành lập ngày 26/7/1968 trên địa bàn các huyện cũ nhƣ Bất Bạt, Tùng Thiện và Quảng Oai của tỉnh Sơn Tây.Vào thời kỳ 1975 – 1978, huyện thuộc tỉnh Hà Sơn Bình. Từ năm 1978 đến 1991 thuộc thành phố Hà Nội. Sau đó lại trở về tỉnh Hà Tây và từ ngày 1/8/2008 lại thuộc về thành phố Hà Nội. Nhắc đến mảnh đất Ba Vì là nói đến vùng đất địa linh nhân kiệt, là huyện tận cùng phía Tây Bắc của Hà Nội, cách trung tâm thành phố Hà Nội 60 km.Ba Vì không chỉ đƣợc thiên nhiên ban tặng bức ttranh phong cảnh sơn thủy hữu tình, với hệ sinh thái phong phú, thảm thực vật đa dạng, đƣợc coi là “lá phổi xanh” phía Tây Thủ đô Hà Nội, hơn nữa nơi đây còn là địa bàn quan trọng trong lịch sử đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc. Ba Vì là huyện bán sơn địa, có diện tích tự nhiên là 428 km2, trên địa bàn huyện có một phần lớn của dãy núi Ba Vì – một dãy núi đất và đá vôi lớn trải trên một phạm vi rộng chừng 5000 ha chạy qua phía Nam huyện, phía Đông giáp thị xã Sơn Tây, một góc nhỏ phía Đông Nam giáp huyện Thạch Thất. Phía Nam giáp các huyện: Lƣơng Sơn (về phía Đông Nam của huyện) và Kỳ Sơn của Hòa Bình (về phía Tây Nam huyện). Phía Tây và phía Bắc giáp thành phố Phú Thọ, và ranh giới là Sông Đà (ở phía Tây) và Sông Hồng (ở phía Bắc). Phía Đông giáp Vĩnh Tƣờng – Vĩnh Phúc ,ranh giới là Sông Hồng. Theo thống kê năm 1999, dân số huyện Ba Vì là 242.600 ngƣời, gồm các dân tộc: Kinh, Mƣờng Dao . Trƣớc khi sát nhập vào Hà Nội, toàn huyện Ba Vì có 1 thị trấn và 31 xã. Đến ngày 01/08/2008, cũng nhƣ các huyện khác của thành phố Hà Nội, huyện Ba Vì chính thức là một huyện của Hà Nội. Tuy nhiên, trƣớc đó ngày 10 tháng Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 29
  34. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội 7 năm 2008, toàn bộ diện tích tự nhiên là 454,08 ha và dân số 2.701 ngƣời của xã Tân Đức thuộc huyện Ba Vì đƣợc sát nhập vào thành phố Việt Trì – Phú Thọ, theo Nghị quyết của kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII về điều chỉnh địa giới hành chính giữa thành phố Hà Nội và tỉnh Phú Thọ. Hiện tại, Ba Vì có 1 thị trấn là Tây Đằng (huyện lị) và 30 xã: Thái Hòa, Cổ Đô, Phú Cƣờng, Tản Hồng, Châu Sơn, Vạn Thắng, Phong Vân, Phú Đông, Phú Phƣơng, Phú Châu, Phú Sơn, Đồng Thái, Đông Quang, Chu Minh, Minh Châu, Vật Lại, Cẩm Lĩnh,Tản Lĩnh, Tòng Bạt, Tiền Phong, Cam Thƣợng, Thụy An, Ba Trại, Sơn Đà, Thuần Mỹ, Vân Hòa, Yên Bài, Khánh Thƣợng, Minh Quang. Khu vực sƣờn Đông núi Ba Vì có thác, có suối, có rừng nguyên sinh đẹp và thơ mộng là tiềm năng lớn để phát triển loại hình du lịch sinh thái. Khu vực sƣờn Tây núi Ba Vì cũng đƣợc coi là nơi có tiềm năng phát triển du lịch vì có địa thế đẹp, một bên là nhìn ra sông Đà tạo ra sức hấp dẫn riêng. Nơi đây còn hội tụ các điểm du lịch hấp dẫn nhƣ Ao Vua, Khoang Xanh – Suối Tiên, Vƣờn Quốc Gia Ba Vì, Hồ Suối Hai, Suối khoáng nóng Thuần Mỹ 2.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội Ngoài những ƣu ái mà thiên nhiên ban tặng cho mảnh đất Ba Vì giàu tiềm năng phát triển du lịch về tự nhiên thì nơi đây còn là nơi cƣ ngụ của nhiều dân tộc khác nhau, với những phong tục tập quán sinh hoạt và văn hóa cộng đồng (cồng chiêng, hát ru, ném còn, Sắc Bùa của dân tộc Mƣờng; Múa chuông, Tết Nhảy của đồng bào dân tộc Dao), một nét văn hóa riêng biệt nên rất thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch. Đến với Ba Vì, ấn tƣợng đầu tiên khách thập phƣơng sẽ đƣợc chứng kiến nhiều di tích văn hóa dân gian vật thể và phi vật thể độc đáo. Trong số đó phải kể đến truyền thuyết về vị thần đƣợc ngƣỡng kính trong tâm thức của ngàn đời ngƣời dân đất Việt là Đệ Nhất Phúc Thần Tản Viên, hay còn gọi là Nam Thiên Thần Tố, vị thần trong Tứ Bất Tử.Hay nhiều ngƣời cho rằng khi nhắc đến Ba Vì là nhắc đến huyền thoại trận đánh thƣ hùng của lịch sử Sơn Tinh- Thủy Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 30
  35. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Tinh. Mối tình tay ba thời Hùng Vƣơng thứ 18 đã đặt nền móng cho vẻ đẹp truyền thuyết của Ba Vì. Với truyền thuyết đầy tính nhân văn từ ngàn đời qua, nhân dân nhớ ơn cứu sinh, độ thế, giúp dân trị thủy của vị phúc thần Tản Viên nên đã lập nhiều đền thờ ngài ở quanh núi Ba Vì. Trải qua năm tháng thời gian, những sự tích và những ngôi Đền thờ ngài đã trở thành biểu tƣợng đặc trƣng cho văn hóa tâm linh xứ Đoài. Ngoài những khu vực linh thiêng thờ Đức thánh Tản Viên, trên địa bàn huyện Ba Vì còn có một loạt những cụm di tích Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thƣợng, địa danh đã đi vào lịch sử khu căn cứ kháng chiến của tỉnh Sơn Tây, vùng rừng thông Đá Chông, khu tƣởng niệm Bác Hồ đã đƣợc Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch công nhận là di tích lịch sử - -văn hóa Quốc Gia. Đây là những yếu tố giúp Ba Vì có điều kiện phát triển loại hình du lịch tâm linh kết hợp với các loại hình du lịch sinh thái, tĩnh dƣỡng Trong đó đặc biệt có rất nhiều tiềm năng để phát triển hình thức du lịch nông thôn - nông nghiệp. Là huyện có đặc thù đồng đất chia làm ba vùng là núi, bán sơn địa và đồng bằng, là điều kiện thuận lợi để huyện Ba Vì đấy mạnh thực hiện các dự án chăn nuôi bò sữa, bò thịt, trồng chè, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm phù hợp từng vùng để khác thác thế mạnh trong phát triển kinh tế nói chung và du lịch nói riêng nhất là du lịch nông nghiệp. Với những lơị thế về giao thông đƣờng thủy, đƣờng bộ, Ba Vì có điều kiện khá thuận lợi trong giao lƣu kinh tế, văn hóa với bên ngoài, hấp dẫn đƣợc nhiều nhà đầu tƣ, nhất là trong lĩnh vực phát triển đầu tƣ du lịch với hàng loạt các khu du lịch sinh thái, nghỉ dƣỡng đƣợc xây dựng. Hàng chục công ty đã tập trung khai thác các địa điểm ở Ba Vì làm khu du lịch, Reasort, khu vui chơi, nghỉ dƣỡng, tham quan cho du khách trong và ngoài nƣớc. Vì vậy, trong một cuộc phỏng vấn phóng viên báo kinh tế và đô thị, ông Bạch Công Tiến, phó chủ tịch UBND huyện Ba Vì đã cho biết UBND huyện Ba Vì xác định: Ba Vì là điểm đến lý tƣởng cho du lịch sinh thái, tâm linh, bản Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 31
  36. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội sác dân tộc; Nếu phát huy đƣợc những tiềm năng lợi thế này Ba Vì sẽ có thể thay đổi đƣợc cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp chuyển sang du lịch - dịch vụ. 2.2 Tiềm năng phát triển du lịch của huyện Ba Vì 2.2.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên 2.2.1.1 Vƣờn quốc gia Ba Vì Từ trung tâm Hà Nội đi theo hƣớng Tây khoảng 50km, nhìn về phía tay trái trong làn mây trắng mỏng chúng ta sẽ thấy ba đỉnh núi – Ba Vì mờ ảo xuất hiện và cũng là lúc bắt đầu bƣớc vào không gian lung linh huyền ảo của Vƣờn quốc gia Ba Vì. Vƣờn quốc gia Ba Vì đƣợc thành lập ngày 18 tháng 12 năm 1991 theo Quyết định 407/CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trƣởng. Vƣờn quốc gia Ba Vì đƣợc giao cho Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý từ ngày 01/01/1992. Tọa độ địa lý: từ 21 độ 01’ đến 21 độ 07’ vĩ độ Bắc và 105 độ 16’ đến 105 độ 25’ độ kinh Đông. Vƣờn quốc gia Ba Vì có diện tích 7.377 ha trên tổng diện tích 14.144 ha, thuộc địa bàn 7 xã miền núi: Minh Quang, Khánh Thƣợng, Tản Lĩnh, Ba Trại, Ba Vì, Yên Bài và Vân Hòa của huyện Ba Vì thành phố Hà Nội. Từ thành phố Sơn Tây có đƣờng 87 và 88 nối các điểm du lịch trong vùng khá thuận lợi, đặc biệt là con đƣờng từ chân núi lên đỉnh Ba Vì dài 12km khá tốt. Và khoảng cách 50km với trung tâm thành phố Hà Nội với đƣờng giao thông thuận lợi thì đây là một cự ly phù hợp với khách du lịch bởi từ trung tâm thành phố Hà Nội chỉ mất hơn 1 giờ đi ô tô hoặc xe máy và chỉ mất quãng đƣờng 15km để đi từ thành phố Sơn Tây để đến vƣờn quốc gia. Với vị trí nhƣ vậy theo đánh giá về mức độ thuận lợi với du khách, Vƣờn quốc gia Ba Vì có thể đƣợc đánh giá là rất thuận lợi để phát triển du lịch. Đỉnh Vua, đỉnh Tản Viên, đỉnh Ngọc Hoa là 3 đỉnh núi cao nhất thuộc dãy núi Ba Vì mang nhiều huyền thoại của thời lập đất, gắn liền với truyền Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 32
  37. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh. Không bị tác động nhiều bởi bàn tay con ngƣời Vƣờn Quốc Gia Ba Vì mang trong mình vẻ đẹp hoang sơ và lôi cuốn với màu xanh ngát của núi rừng, cùng những dòng suối nhỏ trong vắt chảy ngang lối đi qua thảm thực vật phong phú. Ông Đỗ Hữu Thế - Giám đốc Trung tâm Dịch vụ du lịch sinh thái và Giáo dục môi trƣờng Ba Vì cho biết: Ba Vì đƣợc ví nhƣ “Lá phổi xanh của Thủ đô”. Nơi đây còn là nơi sinh sống của hàng trăm loài động vật hoang dã,có rất nhiều loài quý, hiếm có trong sách đỏ Việt Nam. Hệ thực vật khá đa dạng và phong phú, đã ghi nhận 812 loài thực vật bậc cao thuộc 99 họ,472 chi. Trong số đó có một số loài lần đầu tiên đƣợc mô tả tại khu vực này nhƣ: cây Mỡ Ba Vì, cây Cau Ba Vì, cây Lƣỡi vàng nàng cò Ba Vì. Có hai loại đặc hữu là Bời lời Ba Vì và Cà lồ Ba Vì. Cùng nhiều loài cây quý hiếm nhƣ: Bách Xanh, Thông Tre, Vù Hƣơng, Dẻ tùng sọc trắng, Lan kim tuyến, Quyết thân gỗ, Dồi lá bạc. Kết quả nghiên cứu của Trƣờng Đại Học Dƣợc năm 1997 đã phát hiện đƣợc 250 loài cây dƣợc liệu có thể chữa đƣợc 33 loại bệnh đó là: Hoa Tiên, Huyết Đắng, Bát giác Liên, Râu Hùm . Và hiện nay ngƣời ta đã thống kê đƣợc 503 loài cây thuốc. Hệ động thực vật ở đây có 259 loài, trong đó: Thú 45 loài, có 9 loài đƣợc ghi vào sách đỏ Việt Nam: Cu li lớn, Chồn bạc má, Gấu ngựa, Cầy vằn,Cầy mức,Sơn dƣơng, Tê tê vàng, Sóc bay, Sóc đen. Chim có 113 loài, có 40 họ, 17 chi, trong đó có các loài quý hiếm là gà lôi trắng,công, trĩ Lƣỡng cƣ có 17 loài là ếch gai sần, ếch xanh rama, livida, chàng, ếch vạch, cóc mày chê, cóc mày hạt sen. Côn trùng có 86 loài, 17 họ và 9 bộ. Vƣờn quôc gia Ba Vì đƣợc chia làm hai phân khu chức năng: Phân khu bảo tồn sinh thái từcốt 400m trở lên. Phân khu phục hồi sinh thái từ cốt 100m đến 400m, còn lại là vùng đệm. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 33
  38. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Vùng đệm là nơi sinh sống của 10.125 hộ dân với 46.547 nhân khẩu thuộc 3 dân tộc: Kinh, Dao, Mƣờng. Trong đó, dân tộc Mƣờng cố 2.720 hộ với 17.502 ngƣời, dân tộc Dao có 300 hộ, 1.676 ngƣời, 80% số hộ ở đây có nghề làm thuốc cổ truyền. Hƣớng đông đỉnh Vua cao 1.269m (so với mực nƣớc biển), phải leo lên gần 800 bậc đá mới tới đỉnh, trên đó có lập đền thờ Bác Hồ. Đối diện về phía Tây là đỉnh Tản Viên, cao 1.226m leo lên 225 bậc đá là đến đền Thƣợng, tƣơng truyền là nơi hóa của Đức Thánh Tản – Sơn Tinh, một trong “Tứ bất tử” trong tâm linh của ngƣời Việt. Tiếp đến là đỉnh Ngọc Hoa(tƣơng truyền là con gái Hùng Vƣơng thứ 18), cao1.120m. Về khí hậu: Vƣờn quốc gia Ba Vì có khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình năm là 23,4 độ, nhiệt độ tháng 1 là 16,5 độ, vào tháng 7 là 28,7 độ. Do đây là địa hình đồi núi nên khí hậu Ba Vì thay đổi theo đội cao. Trên 500m luôn có sƣơng mù bao phủ đỉnh núi. Tại cốt 400m nhiệt độ trung bình là 20,6 độ, độ ẩm là 81,6%. Xuống núi, ở độ cao 800m(so với mực nƣớc biển), rẽ phải, vƣợt lên một đoạn dốc cao và khúc khuỷu “cua tay áo” là khu phế tích bao gồm nhà thờ, những biệt thự nghỉ mát, cô nhi viện và cả nhà tù thực dân Pháp để lại cách đây gần một trăm năm với rêu phong cổ kính, mang vẻ đẹp hoang sơ nơi đại ngàn. Xuống độ cao 600m là khu di tích kháng chiến chống Pháp, nơi ghi dấu trận đánh lịch sử của Trung đoàn Ba Vì ngày 31/12/1951, cắt đứt phòng tuyến song Đà của Pháp, tạo cho quân ta đánh thắng chiến dịch Hòa Bình năm 1952. Đƣợc sự ƣu ái của thiên nhiên về địa hình, khí hậu đã tạo cho vƣờn quốc gia Ba Vì trở thành một trong bốn khu du lịch sinh thái vùng núi cao nổi tiếng(Đà Lạt, Sa Pa, Ba Vì và Tam Đảo). Không những thế vùng núi Ba Vì còn là nơi du lịch tâm linh của ngƣời Việt. Hàng năm, Vƣờn quốc gia Ba Vì đón vài chục nghì lƣợt ngƣời đến thăm quan và học tập. Đến đây du khách đƣợc tận hƣởng cái không khí trong lành, mát dịu của núi rừng nơi đây. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 34
  39. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Với hệ sinh thái và những tài nguyên hiện có Vƣờn quốc gia Ba Vì thích hợp cho những loại hình du lịch sinh thái, du lịch tâm linh, du lịch nghỉ dƣỡng, đặc biệt là du lịch cuối tuần 2.2.1.2 Khu du lịch Ao Vua Chỉ cách Hà Nội chừng 60km, nếu đi bằng xe ô tô bạn có thể dễ dàng đến khu du lịch Ao Vua thuộc địa phận xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Nơi đây đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn, thu hút hàng trăm ngàn khách tham quan mỗi năm. Khu du lịch Ao Vua là một trong những địa điểm hiếm hoi ở ngoại vi Hà Nội còn giữ đƣợc cảnh núi rừng hoang sơ, hùng vĩ, không gian đậm chất nhân văn và đặc biệt không khí trong lành rất phù hợp với kỳ nghỉ cuối tuần, nghỉ dƣỡng. Du khách tới Ao Vua có thể tìm về cội nguồn qua câu chuyện truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh giao chiến dể đƣợc trở thành “phò mã” của Vua Hùng, tìm hiểu về Đức Thánh Tản Viên - một vị thánh giúp dân trị thủy, cấy lúa, dệt lụa, chữa bệnh sống mãi trong tâm thức ngƣời Việt. Du khách có thể bơi lặn bên thác Ao Vua trong bể thác thiên nhiên, du thuyền trên mặt hồ, thƣơng thức những món ăn đặc sản trong những ngôi nhà mái lá đủ hình thù, leo lên đỉnh núi nghe tiếng nƣớc chảy rì rào, chiêm ngƣỡng cảnh vật trời mây, non nƣớc mộng mơ và nhƣ có cảm giác đi du lịch mạo hiểm với nững con đƣờng đồi núi quanh co. Lần đầu tiên đến đây, du khách sẽ kông khỏi bất ngờ trƣớc một kiệt tác hoàn hảo của “đức mẹ tạo hóa” với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, một món quà quý giá của thiên nhiên ban tặng cho con ngƣời. Hiện khu du lịch Ao Vua đang đầu tƣ mở rộng quy mô: vƣờn chim thú, ƣờn truyền thuyết cổ tích, vƣờn tƣợng Châu Âu, trồng thêm nhiều loại cây quý nhằm tạo bong mát và hoàn thiện hệ sinh thái rừng. Một khách sạn 3 sao, gồm 50 phòng, hội trƣờng 500 chỗ, nhà ăn và phòng họp hội thảo trên diện tích 5.000m2 cùng nhiều trò chơi hấp dẫn, mạo hiểm nhƣ: khu nhà đa năng, công Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 35
  40. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội viên vầng trăng, đƣờng đua công thức một có thể phục vụ hang ngàn ngƣời cùng một lúc. Khi ra về, du khách có thể mua nhiều loại sản phẩm du lịch đó là những lọ hoa mỹ nghệ, những vật dụng tinh xảo độc đáo, đẹp mắt đƣợc làm từ nguyên liệu tre, nứa bởi đôi bàn tay mềm mại của chính con ngƣời nơi đây. Và khu du lịch Ao Vua đã đƣợc nhắc đến trong điển tích của cha ông chúng ta : “ Ba Vì có thác Ao Vua Có Non núi Tản có hồ Đầm Long Ai ơi lên đó mà trông Thiên nhiên muôn thú thì không muốn về". 2.2.1.3 Khu du lịch Khoang Xanh – Suối Tiên Nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 50km về phía Tây, khu du lịch Khoang Xanh – Suối Tiên thuộc xã Vân Hòa – Ba Vì , là nơi có phong cảnh sơn thủy hữu tình, núi rừng trùng điệp, có dòng suối tiên thơ mộng, nƣớc suối trong mát với nhiều dàn thác dạt dào đổ xuống tạo nên những âm thanh kì diệu. Khoang Xanh – Suối Tiên nằm giữa thung lũng của dãy núi Ba Vì, ở độ cao 400 mét so với mực nƣớc biển. Cả khu Du lịch đƣợc bao bọc bởi núi rừng trùng điệp, có dòng Suối Tiên nằm ngay dƣới chân núi Tản huyền thoại. Phía trên thƣợng nguồn là những dòng thác đẹp nhƣ thác Mơ, thác Hoa, thác Tràn, thác Mâm Xôi ngày đêm đổ xuống từ trên núi tạo ra những âm thanh trầm bổng nhƣ sự vẫy gọi của thiên nhiên huyền ảo. Tất cả đều mang một phong cảnh tự nhiên, với dáng vẻ hoang sơ man mác của một miền sơn cƣớc . Khí hậu ở đây luôn mát mẻ quanh năm, mây trắng lãng đãng bao phủ trên đỉnh núi Ba Vì khiến ngƣời ta có cảm giác êm ái và yên ả nhƣ ở giữa Đà Lạt mộng mơ. Khu du lịch Khoang Xanh – Suối Tiên gắn liền với các truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh, nơi công chúa Ngọc Hoa cùng các tiên nữ thƣờng hay xuống tắm ở suối này. Ngày nay nơi đây vẫn còn nhiều đấu tích. Chuyện kể rằng: Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 36
  41. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Thủa hồng hoang có một nàng tiên nữ đã xuống dạo chơi phàm trần, nàng lạc vào thung lũng này và say sƣa cảnh vật trần gian. Muôn vàn hoa lá cỏ cây đua nhau khoe sắc trong tiếng hót lảnh lót của đàn chim rừng, và cả những âm thanh réo rắt của dòng suối trong, đã khiến nàng tiên mê mải, quên cả thời gian.Tới khi mặt trời nghiêng bóng, Nàng liền vội vã bay về trời và bỏ quên tấm áo choàng màu xanh của mình ở lại trần gian, vô tình chàng hoàng tử đi săn qua đây bắt đƣợc. Hƣơng hoa thơm ngát của núi rừng, cộng với mùi thơm tỏa ra từ xiêm áo nàng tiên khiến chàng hoàng tử ngất ngây, mơ màng dõi lên làn mây trắng. Nàng tiên ngoái lại thấy thấy đôi mắt âu yếm, đắm say của chàng hoàng tử, nàng liền quay trở lại cùng chàng tình tứ. Nhƣng “luật trời” nghiêm khắc nàng phải về. Không nỡ chia tay bạn tình trong lƣu luyến, chàng hoàng tử níu nàng lại chẳng muốn rời xa. Trong khúc hòa tấu của nhạc rừng rôn rã, nàng cùng chàng nằm trên tấm thảm xanh, nàng khe khẽ hát khúc ru ca của trời đất, ru hoàng tử vào giấc ngủ giữa yên ả thiên nhiên. Chàng hoàng tử tỉnh dậy, không thấy nàng đâu chỉ còn tấm thảm xanh và cuộc tình ngắn ngủi thơ mộng. Kể từ đó tấm thảm xanh mà nàng tiên để lại cho hoàng tử đã thành thung lũng Khoanh Xanh mơ màng, xanh mãi ngàn năm. Khu du lịch Khoang Xanh – Suối Tiên rất thích hợp cho các loại hình du lịch cuối tuần, leo núi, tắm suối, thăm bản dân tộc Mƣờng . Khu du lịch này hiện đang thu hút rất nhiều khách du lịch, bởi kết thúc một chuyến du lịch ở đây đã để lại cho du khách nhiều ấn tƣợng khó quên. 2.2.1.4 Khu du lịch sinh thái Thác Đa Nằm trong quần thể du lịch nổi tiếng nhƣ Ao Vua, Suối Mơ, Suối Hai thuộc tỉnh Hà Tây, khu du lịch sinh thái mới Thác Đa Ba Vì đƣợc trải rộng trên diện tích 100 ha là một địa điểm du lịch lý tƣởng đối với du khách trong nƣớc cũng nhƣ nƣớc ngoài bởi một khung cảnh thiên nhiên hoang sơ mà hùng vĩ, bởi một dấu ấn về lịch sử anh hùng cũng nhƣ những nét văn hoá truyền thống của dân tộc. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 37
  42. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Nằm không xa so với Hà Nội, chỉ cách 60 km về phía Tây, có thể nói Thác Đa là một điểm du lịch rất thuận lợi và lý tƣởng cho kỳ nghỉ cuối tuần sau những ngày làm việc vất vả. Đến với Thác Đa, du khách sẽ cảm nhận đƣợc những nét mới mẻ nơi đây so với những khu du lịch khác. Một khung cảnh thật hấp dẫn, thật nguyên sơ đƣợc tạo dựng lên làm cho du khách cảm nhận nhƣ đƣợc ngƣợc dòng thời gian và sống trong bộ tộc của những ngƣời Việt cổ, trong trận thắng năm xƣa của Bà Trƣng-Bà Triệu Du khách cũng sẽ đƣợc tận hƣởng một bầu không khí trong lành trên đỉnh cao1.281m so với mực nƣớc biển của vùng núi Ba Vì, đƣợc nghỉ trong những nhà sàn xinh xắn của dân tộc Thái với xung quanh là cây cối xinh tƣơi, những dòng suối trong mát tạo cảm giác quên đi những mệt nhọc của cuộc sống đời thƣờng để tận hƣởng những ƣu đãi của thiên nhiên ban tặng. Những quán bar đƣợc thiết kế kiểu nhà sàn để du khách dừng chân cũng hết sức độc đáo, tại đây du khách có thể ngồi nghỉ trên những chiếc ghế bằng gỗ đƣợc làm từ thân cây hoặc bằng mây xinh xắn, đƣợc ngắm nhìn cảnh vật xung quanh thật mộng mơ. Khu bể bơi, hồ câu cá dƣới chân núi, sân chơi thể thao, vƣờn trái cây, các món ăn dân tộc độc đáo sẽ để lại cho du khách những ấn tƣợng không dễ phai mờ. Và đặc biệt hơn cả là đến với Thác Đa, du khách sẽ đƣợc hoà mình trong không khí lễ hội ấm áp của dân tộc ít ngƣời, say trong men rƣợu cần của những đêm lửa trại bập bùng, vui trong tiếng sạp của những điệu xoè truyền thống, nhƣ múa "Xênh Tiền" của ngƣời Mƣờng, "Chuông" của dân tộc Dao Tiền, "Kèn lá gọi ngƣời yêu" của dân tộc Mông hay: "Hát mừng năm mới" của ngƣời Tày Qua đây du khách có thể cảm nhận đƣợc tổng quát về những bản sắc văn hoá của 54 dân tộc anh em, các tập tục văn hoá, trang phục và các dụng cụ âm nhạc đực trƣng của từng dân tộc. Có thể nói khu du lịch sinh thái Thác Đa này thực sự lôi cuốn du khách nếu nhƣ ai đó từng một lần đặt chân tới, cúng nhƣ thật sự hấp dẫn đối với ai chƣa từng có dịp tới nơi đây, bởi nghe cái tên sinh thái du khách cũng có thể hình dung đƣợc một vẻ đẹp nguyên sơ, một hệ sinh thái động thực vật đa dạng, phong phú, cảnh núi non hùng vĩ. Hãy một lần đến Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 38
  43. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội và chiêm ngƣỡng vẻ đẹp Thác Đa, du khách nhƣ có đƣợc một cái nhìn tổng thể đất nƣớc, con ngƣời ngàn năm văn hiến Việt Nam. 2.2.1.5 Khu du lịch Thiên Sơn – Suối Ngà Nằm dƣới chân núi Tản Viên, khu du lịch Thiên Sơn – Suối Ngà mặc dù mới đƣợc đƣa vào khai thác không lâu nhƣng với cảnh quan thiên nhiên tƣơi đẹp và thơ mộng của rừng, núi, suối, hồ, đầm và thác nƣớc đã tạo nên một điểm đến hấp dẫn du khách, đặc biệt là trong những ngày hè. Toàn bộ khu du lịch đƣợc chia làm ba khu chính: Hạ Sơn, Trung Sơn và Ngoạn Sơn. Trong đó, điểm nhấn trong khu du lịch chính và thác Cổng Trời quanh năm không cạn nƣớc. Thác Cổng Trời có độ cao 25m đổ xuống sƣờn núi tạo thành một bể bơi thiên nhiên sâu từ 1,5 đến 2m, độ dốc vừa phải là nơi tập trung nhiều du khách yêu thích tắm suối.Cảnh Thác Cổng Trời và bẻ bơi thiên nhiên không xa là động Thiên Sơn đƣợc dung làm nơi biểu diễn, là nơi giao lƣu văn nghệ của các đoàn khách tham quan. Khu Ngoạn Sơn nằm ở giữa hai khu Trung Sơn và Hạ Sơn có đầm nƣớc rộng 12 ha, dƣới đầm có nhiều loài động vật, thực vật thủy sinh, đƣợc quy hoạch là điểm du lịch bơi thuyền và câu cá. Điểm dừng chân cuối cùng là khu Hạ Sơn, có thác Tam Cấp và nhiều con suối nhỏ xen lẫn những nhà nghỉ đƣợc xây theo kiến trúc nhà sàn nằm xen kẽ những rừng cây, thác nƣớc, là điểm dừng chân của du khách trên đƣờng đi. Ngoài việc đầu tƣ, tôn tạo cảnh quan thiên nhiên, khu du lịch Thiên Sơn – Suối Ngà đã không ngừng nâng cao chất lƣợng dịch vụ nhằm “giữ chân” du khách nghỉ lại lâu hơn. 2.2.1.6 Khu du lịch Suối Hai Nằm trên địa phận của 4 xã Thụy An, Cẩm Lĩnh, Tản Lĩnh, Ba Trại của huyện Ba Vì, cách Hà Nội khoảng 60km về phía Tây, Suối Hai nằm dƣới chân núi Ba Vì đƣợc tạo bởi hệ thống đập chính và đập phụ dài 4km để giữ nƣớc từ hai suối chính Yên Cƣ và Cầu Rồng chảy từ trên núi xuống Suối Hai, tên gọi chung của hai con suối Yên Cƣ và Cầu Rồng, đƣợc đắp đập ngăn nƣớc và thành hồ,cải tạo bài trí lại thiên nhiên mà có. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 39
  44. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Trƣớc đây, hàng năm cứ vào mùa mƣa, nƣớc từ các suối nhỏ trên sƣờn núi, sƣờn đồi vùng xung quanh dồn vào suối Hai rồi chảy ra sông Tích, thƣờng gây úng lụt. Nhƣng tới mùa khô sông Tích lại cạn kiệt và hạn hán đe dọa. Vì vậy, năm 1958 phƣơng án xây dựng hệ thống Suối Hai, một công trình trị thủy sông Tích đƣợc đề ra và thực hiện. Công trình đƣợc khởi công xây dựng ngày 25/12/1958 và khánh thành ngày 05/04/1964. Bác Hồ cũng đã về thăm công trình vào ngày 15/04/1964. Trong lòng hồ có tới 14 đảo lớn nhỏ, với diện tích khoảng 90 ha. Đến đây, bạn có thể ngồi trên những chiếc thuyền nhỏ và du ngọa trên hồ. Trên các đảo và ven hồ có trồng nhiều cây xanh và vƣờn cây ăn trái. Hồ Suối Hai không chỉ có giá trị về mặt thủy lợi mà đây còn là nơi sinh sống của rất nhiều loài chim nhu le le, ngỗng trời, vịt trời, mòng, két, giang, sếu, sâm cầm . Chúng sinh sống trên mặt nƣớc làm cho khung cảnh thiên nhiên nơi đây càng thêm phong phú. Điểm du lịch Suối Hai là nơi an dƣỡng, tham quan, nghỉ mát rất tốt.Ở đây có những điều kiện tƣởng để xây dựng các khu nghỉ cuối tuần của Hà Nội. 2.2.1.7 Vƣờn cò Ngọc Nhị Nằm lọt thỏm trên khoảng 3,5 ha đất trong tổng số 26,7 km2 diện tích đất tự nhiên của xã Cẩm Lĩnh, đồi cò Ngọc Nhị đƣợc hình thành từ những năm 1970 – 1971. Ngƣời dân ở đây cho biết, trƣớc đây cái vùng đất nửa đồi nửa gò này gọi là đồi Đƣng, đƣợc bao phủ bởi rất nhiều cây xanh mà trong đó 2/3 là tre với khá nhiều chủng loại. Từ khi số lƣợng cò đổ về đây làm tổ tăng nhanh đến hàng vạn con thì ngƣời dân gọi là đồi cò Ngọc Nhị. Theo khảo sát bƣớc đầu, hiện vƣờn cò Ngọc Nhị đã có 49 loài chim trú ngự, đông đúc nhất là cò trắng, cò khoang, cò bợ, cò lửa, cò mốc, cò ngàng và vạc. Vào mùa sinh sản(từ thánh 4 đến tháng 9) cò bay trắng đồng và đậu kín các cành cây. Ngoài cò còn có các Bụng hung, Ƣng Ấn Độ, diều hoa Miến Điện, Cuốc ngựa trắng, gõ kiến, chèo bẻo . Vƣờn rừng gồm 150 giống cây, có mai, nứa, trúc, thầu dầu, sung, vả nhƣng nhiều nhất vẫn là tre và đây cũng là Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 40
  45. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội nguyên nhân mà vƣờn cò đƣợc hình thành bởi tre là giống cây mà cò ƣa thích làm tổ. Cò làm tổ không phải là nơi nào cũng có, nhất là ở miền Bắc. Với vẻ đẹp hoang sơ của vùng đất bán sơn địa, Vƣờn cò Ngọc Nhị sánh đƣợc với vƣờn chim Chi Lăng – Hải Dƣơng, vƣờn chim Thanh Mai – Thanh Hóa. Tóm lại, tài nguyên du lịch tự nhiên nơi đây rất phong phú, ngoài những điểm du lịch tiêu biểu trên, huyện Ba Vì còn có rất nhiều điểm du lịch khác nhƣ Suố Mơ, Thác Ngà, Thác Hƣơng, Hồ Cầm Qủy. Và đặc biệt có nguồn nƣớc khoáng nóng thiên nhiên tại xã Thuần Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch điều dƣỡng nâng cao nâng cao sức khỏe cho con ngƣời. Du khách có tự mình đến đây mới cảm nhận đƣợc hết cái không khí thoáng đãng, trong lành, dễ chịu cùng cảnh vật xanh tƣơi, thơ mộng của vùng đất Ba Vì này. 2.2.2 Tài nguyên du lịch nhân văn 2.2.2.1 Khu tƣởng niệm Chủ Tịch Hồ Chí Minh Khu di tích Đá Chông thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội, cách thị xã Sơn Tây khoảng 25km. Diện tích rộng 243 ha, phần lớn là đồi rừng, có hai hồ rộng. Nơi đây có nhiều tảng đá thon nhọn tựa mũi chông, ngọn mác nhƣ mọc ở dƣới đất lên, có thể vì thế là nhân dân ở đây gọi địa danh này là Đá Chông. Di tích Chủ Tịch Hồ Chí Minh tại K9- Đá Chông là di sản văn hóa vô giá. Nơi đây in dấu những ngày Chủ Tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc trong những năm tháng lãnh đạo đất nƣớc. Ngƣời đã đón tiếp bạn bè quốc tế than thiết tại đây. Đây còn là nơi an toàn tuyệt đối trong việc giữ gìn, bảo vệ thi hài Bác Hồ từ năm 1969 – 1975. Tháng 5 năm 1957, trong một lần Bác đến thăm Trung đoàn bộ binh 88 thuộc sƣ đoàn 308 cùng Trung đoàn pháo binh 63 và một đơn vị bộ đội thiết giáp diễn tập bên sông Đà, Bác và các đồng chí cùng đi đã dừng chân ăn cơm trên một quả đồi. Nhận thấy nơi đây có nhiều điểm thuận lợi về địa hình, thời tiết, giao thông: có rừng cây, có núi, có sông thuận tiện giao thông, gần Thủ Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 41
  46. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội đô , Bác đã trao đổi với các đồng chí cùng đi, ngỏ ý muốn chọn nơi này là căn cứ của trung ƣơng, đề phòng chiến tranh có thể mở rộng ra miền Bắc. Vào đầu năm 1958, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã cùng đồng chí Nguyễn Lƣơng Bằng đến khỏa sát tại khu vực này. Sau chuyến khảo sát này, đến giữa năm 1958, Khu làm việc của Trung ƣơng tại Đá Chông đã đƣợc khởi công xây dựng với tên gọi là Công trƣờng 5. Từ năm 1960, Công trƣờng 5 đã hoàn thành và đƣa vào sử dụng, sau này đƣợc gọi theo mật danh là K9. Trong 9 năm(1960 -1969), K9 đã nhiều lần vinh dự đƣợc đón Bác cùng các đồng chí trong Bộ chính trị lên làm việc và nghỉ ngơi. Sau khi Ngƣời qua đời, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta là mong bảo vệ và giữ gìn lâu dài thi hài của Bác để sau ngày đất nƣớc thống nhất, đồng bào, chiến sĩ cả nƣớc và bạn bè quốc tế mãi mãi đƣợc viếng thăm Bác. Thể theo nguyện vọng đó, trong khi đất nƣớc còn có chiến tranh, Đảng và Nhà nƣớc ta còn đang hƣớng tới việc xây dựng Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Bộ chính trị đã quyết định chọn K9 làm nơi bảo vệ, giữ gìn thi hài Bác từ ngày 24/12/1969 và phải tuyệt đối bí mật. Khu vực này có nhiều điểm thuận lợi nhƣ nhà cửa, hầm công sự đã có sẵn, địa thế nằm trong dải rừng dài, rộng, nên thuận tiện cho việc phỏng thủ và giữ bí mật. Cơ sở để giữ gìn thi hài Bác gồm có: - Tầng trên: Là khu làm việc liên hoàn, thuận lợi, đảm bảo vệ sinh môi trƣờng. Đã đƣợc Bộ tƣ lệnh công binh cải tạo có bệ, trong bệ có cáng, trên bệ có lồng kính. Nơi để Bác nghỉ gần giống nhƣ quan tài kinhgs ở tại Lăng, thuận tiện cho việc phục vụ khi có các đoàn tới thăm viếng Bác và nghiên cứu để phục vụ viếng ở Lăng sau này. - Tầng ngầm: Có kết cấu hầm kiên cố, kiến trúc của hầm có khả năng triệt tiêu và cản các sóng chấn động do áp lực mạnh của vũ khí nổ gây ra, có hệ thống phòng chống chất độc hóa học, chính đó là yếu tố đảm bảo tuyệt đối an toàn thi hài Bác. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 42
  47. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Sau một thời gian thi hài Bác đƣợc giữ gìn, bảo vệ ở Đá Chông, ngày 23/5/1970, Hội đồng khám nghiệm gồm chuyên gia Liên Xô và Việt Nam đã tổ chức khám nghiệm và kết luận: “Qua 8 tháng đầu bảo vệ, giữ gìn thi hài Chủ Tịch Hồ Chí Minh ở một nƣớc khí hậu ôn đới, mặc dù phải di chuyển xa nhƣng hình dáng bên ngoài và các bộ phận trên cơ thể Ngƣời vẫn đƣợc bảo tồn đầy đủ, phù hợp với hình thể lúc Ngƣời còn sống”. Trên cơ sở đó, Trung ƣơng quyết định lấy K9 làm nơi giữ gìn và bảo về thi hài Bác. Trong 6 năm chiến tranh chống Mỹ cứu nƣớc, thi hài Bác đƣợc giữ gìn bảo quản tại đây ba lần với tổng thời gian là 4 năm 4 tháng 19 ngày. Sau khi việc xây dựng Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh đƣợc hoàn thành ngày 22/8/1975, thi hài Bác đƣợc đƣa về giữ gìn, bảo quản để đồng bào, chiến sĩ cả nƣớc và bạn bè quốc tế về viếng thăm Bác. Với các sự kiện đã diễn ra ở K9 về giữ gìn thi hài Bác thì rõ rang đây là địa danh có ý nghĩa lịch sử đặc biệt gắn liền với sự nghiệp giữ gìn lâu dài thi hài Bác trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Nơi đây đã đƣợc chính Bác chọn làm căn cứ để Bác cùng với Bộ chính trị làm việc, quyết định một số vấn đề về kháng chiến chông Mỹ cứu nƣớc và xây dựng XHCN ở miền Bắc, điều đó càng làm giá trị của công trình tăng lên. Vì thế chúng ta cần phải giữ gìn, phát huy ý nghĩa chính trị của khu di tích này để góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, tự hào dân tộc cho các thế hệ hôm nay và mai sau để chúng ta vững vàng, có niềm tin thực hiện thắng lợi mong muốn của Bác lúc sinh thời là nƣớc Việt Nam dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. 2.2.2.2 Đền thờ Chủ Tịch Hồ Chí Minh Nhân dịp 30 năm kỉ niệm ngày mất của Bác (02/9/1969) và 40 năm kỷ niệm ngày Bác phát động Tết trồng cây. Thể theo nguyện vọng của nhân dân, Đền thờ Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đƣợc xây dựng tại Đỉnh Vua của núi Ba Vì. Đền thờ Chủ Tịch Hồ Chí Minh đƣợc xây dựng trên diện tích 150m2 tại Đỉnh Vua – Ba Vì ở độ cao 1.296m so với mặt nƣớc biển, do kiến trúc sƣ – Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 43
  48. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Chủ tịch Hội kiến trúc sƣ Việt Nam Nguyễn Trực Luyện thiết kế. Ngôi đền có kiến trúc theo phong cách cổ, hai tầng tám mái đao cong, nhìn về hƣớng Nam. Kết cấu bê tong cấu thép giả gỗ. Xung quanh Đền đƣợc bố trí các dãy ghế dài để mọi ngƣời đến viếng thăm đƣợc ngồi quây quần bên Bác. Tƣợng Bác đƣợc đúc bằng đồng thờ chính giữa Đền, với tƣ thế ngồi tay cầm tờ báo Nhân Dân. Hai bên có hạc giầu, giữa có đài hoa sen và các đồ thờ khác. Phía trên bàn có bức trƣớng đề: “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TƢ DO”. Đó là câu nói bất hủ của Bác viết trong lời kêu gọi toàn dân kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Đối diện với bàn thờ là tấm bia đá, mặt trong trích dẫn một phần Di chúc của Bác, mặt trƣớc ghi một đoạn điếu văn của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng đọc tại buổi lễ truy điệu Bác. Xung quanh Đề là một khuôn viên đẹp, phía trƣớc và sau Đền có các đài quan sát, bàn ghế ngồi dƣới bong cây rừng để thƣởng thức thiên nhiên và hƣởng thụ không khí trong lành của hoa phong lan và các loài hoa rừng thơm ngát. Đi từ dƣới lên, bên tay trái có nhà bảo vệ của nhân viên kiểm lâm Vƣờn Quốc Gia Ba Vì ở để trong giữ, quản lý Đền thờ Bác. Theo phong tục của ngƣời Việt Nam, con ngƣời khi chết đều giỗ vào ngày âm lịch, nên hang năm cứ vào ngày 21 tháng 7, cán bộ công nhân viên Vƣờn Quốc Gia Ba Vì cùng các Ban, Ngành, Trung ƣơng và nhân dân địa phƣơng đều về ngôi Đền để tổ chức giỗ Bác. Từ năm 1999 đến nay Vƣờn Quốc Gia Ba Vì đã đón tiếp hang trăm nghìn lƣợt khách trong nƣớc và khách quốc tế đến viếng Bác. Và để thực hiện ƣớc vọng của Ngƣời, Vƣờn Quốc Gia Ba Vì đã dành một khu đồi ở độ cao 700m xây dựng một vƣờn cây “ Thực hiện di chúc Bác Hồ” để mọi ngƣời đến thăm viếng Bác đƣợc tham gia trồng cây lƣu niệm. 2.2.2.3 Đình Tây Đằng Nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 50km về phía Tây, đình Tây Đằng thuộc thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì đƣợc biết đến là một trong những ngôi đền cổ nhất Việt Nam với gần 500 tuổi. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 44
  49. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Đình đƣợc xây dựng vào thế kỷ XVI, vào loại cổ nhất Việt Nam. Hơn thế, ngoài đình chùa, trong di sản văn hóa vật thể của ngƣời Việt, chƣa phát hiện đƣợc công trình nào làm từ gỗ còn nguyên vẹn mà có niên đại từ xa xƣa hơn. Tuy nhiên, hiện nay tại đình vẫn còn một số loại hoa văn từ thế ký XVI – XIII, nên có giả thuyết cho rằng đình Tây Đằng có thể xây dựng từ trƣớc thể kỷ XVI. Đình đƣợc thiết kế gồm 5 gian 4 mái và 48 cột lớn nhỏ. Các đầu đao đều uốn cong có gắn long, li, quy, phƣợng bàng đất nâu màu gan trâu. Xà, đấu, kèo, cốn đều đƣợc chạm khắc. Các hình chạm khắc rồng mang phong cách đời Trần, chim phƣợng đƣợc chạm theo các tƣ thế đang múa, xòe hai cánh Nét độc đáo ở đình Tây Đằng còn đƣợc thể hiện qua những bức chạm khắc trên các cấu kiện kiến trúc mà nội dung đề tài thiên về hoạt động của con ngƣời trong các làng quê Việt Nam thế kỷ XVI nhƣ bơi thuyền, đốn củi, uống rƣợu, gánh con múa hát Bên cạnh những giá trị về mặt kiến trúc, chạm gỗ đặc sắc, đình Tây Đằng là nơi thờ thần Tản Viên – Sơn Tinh một nhân vật anh hùng theo truyền thuyết đã có tái chế ngự đƣợc thiên nhiên, đƣợc dân chúng suy tôn là bậc thánh. Du khách đến viếng thăm tỏ lòng tôn kính, biết ơn vị thần, cầu phúc, vừa có dịp tham quan một công trình kiến trúc văn hóa độc đáo vào loại đẹp, quý của Việt Nam trên địa bàn của thành phố Hà Nội. 2.2.2.4 Các lễ hội truyền thống Lễ hội truyền thống là những hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc và đƣợc coi là bảo tàng sống động về văn hóa dân tộc, nơi lƣu giữ những lễ nghi, trò chơi dân gian. Loại hình du lịch lễ hội hiện nay đang phát triển khá mạnh trên thế giới, từ những lễ hội dân gian ngƣời ta đã tổ chức thành những Festival du lịch của quốc gia hay một thành phố để thu hút khách du lịch quốc tế và quảng cáo cho văn hóa truyền thống địa phƣơng. Trên địa bàn huyện Ba Vì có rất nhiều lễ hội mang đặc trƣng văn hóa lễ hội của vùng đồng bằng Bắc Bộ với những lễ nghi cầu mùa màng bội thu, hay tôn thờ các vị anh hùng, những vị phúc thần bảo vệ làng xóm. Đặc biệt, ở Ba Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 45
  50. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Vì có rất nhiều lễ hội gắn với những truyền thuyết, huyền thoại về Đức Thánh Tản Viên. Danh sách lễ hội gắn liền với Đức Thánh Tản Viên STT Tên lễ hội Thời gian Nội dung 1 Hội làng Khê Từ mùng 3 đến Thờ Thánh Tản Thƣợng – xã Sơn Đà, mùng 7 tháng Giêng Viên huyện Ba Vì Âm lịch Nghi lễ: Rƣớc kiệu thánh Trò chơi dân gian: Đánh vật, chém Chuối cầu may 2 Hội Cẩm Đái và Hội đƣợc mở Thờ Thánh Tản Tòng Lệnh – xã Tòng ngày 12 tháng 02 âm Viên Bạt, xã Cẩm Lĩnh, lịch Nghi lễ: Tế thần huyện Ba Vì Trò chơi dân gian: thi đánh cá, tiệc gỏi cá 3 Hội Miếu Mèn – Ngày mùng 10 Thờ bà Man xã Cam Thƣợng, tháng 3 âm lịch Thiên (mẹ Hai Bà huyện Ba Vì Trƣng) Nghi lễ: rƣớc bài vị, tế lễ. Trò chơi:bơi thuyền Phòng văn hóa và thông tin – Huyện Ba Vì – Năm 2010 Nhƣ vậy, Ba Vì không chỉ có nguồn tài nguyên tự nhiên vô cùng phong phú mà tài nghuyên nhân văn của vùng rất có giá trị, sức sống ngàn năm của vùng non Tản còn thể hiện ở sự quy tụ của một vùng non xanh với số lƣợng di tích lịch sử dày đặc. Quanh núi Ba Vì, nhiều tên đât, tên làng, dòng sông, khe suối, đình đền, miếu, mạo vừa gắn liền với tên tuổi Đức Thánh Tản cũng vừa là dấu tích kết nối truyền thống xƣa và nay. Khu vực núi Ba Vì hiện có gần 100 Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 46
  51. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội ngôi đình, đền thờ Tản Viên Sơn Thánh nhƣ cụm di tích đền Hạ, đền Trung, đền Thƣợng trên núi Ba Vì. Bên cạnh đó là loại hình tín ngƣỡng dân gian đặc trƣng của các tộc ngƣời nơi đây và một số phong tục tập quán sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhƣ cồng chiêng, hát ru,ném còn, Sắc Bùa . Của dân tộc Mƣờng; Múa Chuông, lễ hội Tết Nhảy của đồng bào ngƣời Dao Đó là nguồn tài nguyên phong phú, tiềm năng to lớn để Ba Vì đẩy mạnh phát triển các loạ ịch nhƣ du lịch văn hóa - lễ hội, sinh thái – nghỉ dƣỡng và du lịch văn hóa – tâm linh 2.3 Thực trạng khai thác du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê Ba Vì 2.3.1 Giới thiệu về Trang trại Đồng Quê Ba Vì Trang trại Đồng Quê đƣợc hình thành dựa trên ý tƣởng và mong muốn của TS. Ngô Kiều Oanh (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam), một phụ nữ từng có nhiều năm nghiên cứu về tiềm năng của rừng núi Ba Vì và cũng là ngƣời góp phần không nhỏ vào sự phát triển của vùng du lịch này. Năm 1996, trƣớc nguy cơ một dân tộc Mƣờng định dỡ bỏ ngôi nhà sàn cổ cò lại duy nhất ở xã miền núi Vân Hòa (Ba Vì), TS. Ngô Kiều Oanh quyết định mua lại ngôi nhà đó với giá cao nhằm bảo tồn, giữ gìn nét văn hóa dân tộc Mƣờng, đồng thời cũng đầu tƣ xây dựng cho mình một trang trại riêng trên diện tích hơn 3ha đất vùng đồi gò. Từ đó, ý tƣởng xây dựng một khu du lịch thiên nhiên gắn liền với làng xã, đồng quê dƣới chân núi Ba Vì đã hình thành. Theo bà, Ba Vì là vùng đất tốt, nhiều tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái, du lịch đồng quê với những vùng sinh thái vƣờn rừng, đồi chè, nƣơng lúa. Nơi đây còn nổi tiếng với những sản vật nhƣ sữa tƣơi Ba Vì, mật Ong rừng, gà đồi, dê, cừu và nhiều cây thuốc nam quý có tác dụng tốt cho sức khỏe, đƣợc nhiều du khách ƣa thích. Ngoài ra, vùng Ba Vì còn có nguồn nƣớc khoáng thiên nhiên quý, dễ khai thác là thế mạnh phát triển du lịch sinh thái. Trang trại Đồng Quê đƣợc xây dựng vào đầu năm 2007 nhƣng đến tháng 8/2008 khi mà thời điểm Ba Vì nói riêng và Hà Tây đã chính thức sáp nhập Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 47
  52. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội vào Hà Nội, cũng là lúc Trang trại Đồng Quê bắt đầu mở cửa đón du khách theo từng nhóm nhỏ. Trang trại Đồng Quê Ba Vì chỉ cách trung tâm thành phố 65km, tọa lạc trên một khu đồi nhỏ xinh xắn có diện tích gần 20.000m2. Trang trại nằm trong vùng ngoại thành phía Tây Hà Nội có địa hình thiên nhiên nông nghiệp rất đẹp tiêu biểu cho nền văn minh lúa nƣớc vào hàng cổ đại của thế giới thuộc châu thổ Sông Hồng. Từ trang trại nhìn xuống, quý khách có thể chiêm ngƣỡng những cánh đồng lúa có hình dạng bậc thang thấp, phía sau là màu xanh ngút ngàn của khu rừng nguyên sinh dãy núi Ba Vì với ba đỉnh cao 1100m, 1200m và 1300m. Trang trại Đồng Quê vẫn giữ đƣợc khu rừng trúc với một số cây rừng đại thụ nhiệt đới có tuổi đời vài ba trăm năm trở lên nhƣ: thị, xoài, muỗm, chay, bồ kết, quất hồng bì,mít, cau, sang và các cây hoa quê nhƣ: râm bụt, tƣờng vi, các vƣờn hoa mƣời giờ, thủy tiên, hoa hồng nhỏ đƣợc chăm sóc thƣờng xuyên. Đến với Trang trại Đồng Quê ngoài việc nghỉ ngơi, du khách sẽ đƣợc tham quan các làng sản xuất nông nghiệp truyền thống lâu đời có cảnh quan đẹp, đƣợc hƣởng thụ các đặc sản thiên nhiên tƣơi lành trong khung cảnh gia đình ấm cúng. Cũng nhƣ có cơ hội tham gia trực tiếp vào các hoạt động du lịch nông nghiệp mang đậm dấu ấn văn hóa đồng quê Việt Nam chủ yếu dựa vào thiên nhiên nhƣ: cấy lúa, bắt cá, bắt cua, ốc bằng những dụng cụ làm bằng tre, trồng và hái các loại rau rừng và rau thảo dƣợc, xem cách làm mật ong, tự hái và sao chè khô, cho đà điểu, dê, thỏ, bò sữa ăn v.v . Đi thăm những vƣờn chè, những cánh đồng ngô bạt ngàn ven các dòng sông mẹ của miền Bắc Việt Nam hang nghìn năm đã bồi đắp nên vùng châu thổ sông Hồng. Ngoài ra, trang trại còn tổ chức những cuộc giao lƣu hát múa với các đội văn nghệ của hai dân tộc thiểu số Mƣờng, Dao sống tại đây. Để phục vụ cho việc ăn nghỉ của các đoàn khách du lịch, trang trại có các ngôi nhà gỗ cổ 5 gian với khu bếp hiện đại, phòng ngủ tiện nghi, nhà vệ sinh khép kín. Một ngôi nhà sàn Mƣờng cổ và các khoảng không gian cho các hoạt Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 48
  53. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội động ngoài trời. Có thể đón các đoàn 30 ngƣời ngủ qua đêm và hơn 100 ngƣời trong ngày. Riêng các trƣờng mẫu giáo có thể tổ chức cho 100 cháu sinh hoạt trong ngày. 2.3.2 Hình thức tổ chức Trang trại Đồng Quê có một đặc điểm mà hầu hết các điểm tham quan khác không có đó chính là khi các đoàn khách du lịch muốn tìm hiểu, tham quan, nghiên cứu về các hoạt động nông nghiệp hay đến tập làm những ngƣời nông dân tại các trang trại. Các đoàn du khách phải đặt tour trƣớc chứ không nhận khách vãng lai. Văn phòng làm việc của trang trại Đồng Quê là công ty ATC Việt Nam – Số 1 Nguyễn Đình Chiểu, Quận Hai Bà Trƣng, Hà Nội. Khi du khách đã đặt tour tại công ty, công ty sẽ đƣa khách lên trang trại Đồng Quê để nghỉ ngơi, lƣu trú sau đó sẽ đi tham quan các điểm du lịch. Trang trại Đồng Quê Ba Vì thƣờng xây dựng các chƣơng trình tham quan cho các đoàn du khách. Sau đây là một số chƣơng trình để du khách có thể chọn cho 1 tour của mình. Thứ nhất tham quan: Làng Chè Ba Trại Làng Chè Ba Trại cách trang trại Đồng Quê 12km. Nơi đây có hơn 9 làng chè có nghề truyền thống làm chè khô từ chè búp tƣơi, có diện tích gần 500 ha. Tại đây du khách có thể trực tiếp tham gia vào quy trình làm chè khô (hái chè, sao chè). Sau khi thƣởng thức trà do chính quý khách tự chế biến, quý khách có thể đạp xe quanh các vƣờn chè nối tiếp bao quanh các ngôi nhà đá ong cổ và đi ra bãi sông Đà, nơi có những cánh đồng ngô bạt ngàn với cây gạo khổng lồ đứng ven sông. Đứng ngắm dòng sông Đà đẹp lộng lẫy và đầy thơ mộng về mùa nƣớc cạn cũng nhƣ sẽ thấy dòng sông hùng vĩ đổi màu phù sa khi mùa nƣớc lũ. Vào bất cứ mùa nào, du khách cũng cảm nhận đƣợc giá trị sâu sắc của một nền văn minh nông nghiệp lúa nƣớc Châu thổ đƣợc hình thành qua hàng ngàn năm nhờ những dòng sông cái nhƣ sông Hồng, sông Lô, sông Thao và sông Đà. Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 49
  54. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Điểm tham quan: - Các vƣờn chè bao quanh các khu nhà đá ong - Vỉa khai thác đá ong cổ - Sao chế chè thủ công tại một ngôi nhà có nếp sinh hoạt đặc trƣng Bắc Bộ - Bãi ven sông Đà nên thơ và hùng vĩ với cây gạo cổ thụ lớn nhất Hà Nội Thứ hai du khách có thể đến Làng Thảo Dƣợc Ngƣời Dao Ba Vì Xã Ba Vì nằm tại chân núi hầu hết là địa bàn sinh sống của dân tộc Dao - một dân tộc rất giỏi trong việc nhận biết các loài thảo dƣợc tự nhiên và dùng nó để chữa bệnh và hỗ trợ phục hồi sức khỏe - với 405 hộ, trong đó 80% dân số xã biết làm thuốc và sống bằng nghề thuốc nam gia truyền. Làng nghề thuốc Nam ngƣời Dao Ba Vì có tiềm năng rất lớn trong việc phát triển du lịch vì ngoài nghề làm thuốc nơi đây còn có phong cảnh đẹp cũng nhƣ nền văn hóa đậm bản sắc dân tộc Dao (trang phục đƣợc thêu bằng tay, sặc sỡ, cầu kỳ và tinh tế, có lễ hội với điệu múa chuông ) Điểm tham quan: Đến đây, du khách sẽ đƣợc chiêm ngƣỡng các vƣờn cây thuốc và tham quan các thƣ tịch gia phả nôm Dao, nghề thêu tay trong gia đình. Mua thảo dƣợc với các bài thuốc chữa bệnh tùy theo yêu cầu. Ngƣời Dao Ba Vì với bàn thờ cổ trong từng gia đình đã chứng minh họ xuất xứ từ Tây Tạng, sau quá trình di cƣ 700 – 800 năm đã đến núi Ba Vì với nghề thuốc Nam làm từ các loại thảo dƣợc phong phú của vùng rừng núi Ba Vì. Ngƣời Dao ở đây đã chế biến đƣợc một số các bài thuốc khá nổi tiếng nhƣ: thuốc tắm đẻ và tắm khỏe, thuốc chữa trị các bệnh xƣơng khớp, phong thấp, viêm gan, hƣ thận, dạ dày, đại tràng v v Thứ ba du khách đƣợc tham quan các Trang Trại Liên Kết: Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 50
  55. Tìm hiểu loại hình du lịch nông nghiệp tại Trang trại Đồng Quê – Ba Vì – Hà Nội Để đáp ứng nhiều nhu cầu tham quan của khách du lịch trang trại Đồng Quê đã liên kết với một vài trang trại nông nghiệp khác để dẫn khách đi tham quan. Đến đây, du khách đƣợc tận mắt nhìn thấy những con đà điểu hay bò sữa rồi đƣợc tận tay chăm sóc chúng, cho chúng ăn, thƣởng thức những sản vật do chính bàn tay của mình làm ra. Sau đây là một số trang trại liên kết: Trang trại Bò sữa: cách trang trại Đồng Quê 2km Vùng đất Ba Vì nổi tiếng vì các sản phẩm làm từ sữa dê và bò. Tới trang trại Đồng Quê, bạn sẽ có cơ hội đến thăm các trang trại bò sữa, cho chúng ăn và thử vắt sữa bò. Trang trại bò sữa bắt đầu hoạt động năm 2001. Trang trại có khoảng 20 con bò sữa có nguồn gốc từ Hà Lan và Úc. Các sản phẩm làm từ sữa bò đƣợc thu mua bởi các công ty sữa, sau đó đƣợc chế biến thành sữa đóng hộp hoặc sữa chua và bán ra ngoài thị trƣờng. Các trang trại này còn chăn nuôi các loại lợn mán và lợn thƣờng. Bên cạnh các trang trại có các ao cá, là nơi thả cá của các chủ trang trại và bạn có thể câu cá ở đây. Ở các trang trại của Ba Vì, các loài gia súc đều đƣợc chăn nuôi bằng các loại rau cỏ và thức ăn tƣơi sạch. Trang trại Đà Điểu: cách trang trại Đồng Quê 16km Trang trại Đà Điểu có vị trí gần hồ sen, bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2006 với 8 con đà điểu đƣợc mang từ Úc. Tại đây, bạn có thể tham quan trang trại và có thể cho đà điểu ăn. Bên cạnh trang trại là vƣờn ổi rất rộng. Bạn có thể đi dạo xung quanh vƣờn và thƣởng thức hoa quả nếu vào chính vụ. Trong vƣờn ổi này, các đàn gà đƣợc nuôi thả với các loại thức ăn hữu cơ nhƣ gạo, ngô, thóc Du khách có thể tự tay cho gà ăn rồi thu hoạch trứng gà. Ngoài ra, bạn có thể đi tham quan các trang trại khác nhƣ: trang trại dê sữa,cừu và thỏ, trang trại ong, nông trƣờng dứa, trang trại cây và hoa quả. Cuối cùng các bạn có thể dừng chân tại Đầm Sen Vƣờn Vua Hùng : Đi phà Đầm Luận qua dòng sông Đà trữ tình tới khu Đầm Sen Vƣờn Vua Hùng, quý khách sẽ đƣợc thƣởng thức mùi sen thoảng thơm đặc trƣng quyến rũ. Với diện tích hơn 89 ha mặt nƣớc, đây là khu hồ sen rộng nhất khu vực. Du Đặng Thị Thảo – VH1102 Trang 51