Khóa luận Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn-Thủy Nguyên-Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch

pdf 102 trang huongle 2670
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn-Thủy Nguyên-Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_tim_hieu_nghe_thuat_ca_tru_dong_mon_thuy_nguyen_ha.pdf

Nội dung text: Khóa luận Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn-Thủy Nguyên-Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch

  1. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT CA TRÙ 4 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ca trù 4 1.1.1. Câu chuyện truyền thuyết về vị tổ Ca trù 4 1.1.2. Thế kỷ XVI - Ca trù gắn với ngôi đình làng ở Bắc bộ 6 1.1.3. Thế kỷ XVII và XVIII - nghi lễ hát cửa đình trong các làng quê 7 1.1.4. Thế kỉ XIX 8 1.1.5. Thế kỉ XX .9 1.1.6. Ca trù hiện nay .12 1. 2. Đặc trƣng nghệ thuật của Ca trù 15 1.2.1. Về tên gọi của Ca trù 15 1.2.2. Thành phần của một chầu hát 17 1.2.3. Nhạc cụ trong ca trù. .19 1.2.3.1. Phách. 19 1.2.3.2. Trống chầu 20 1.2.3.3. Đàn đáy 21 1.2.4. Các lối hát của Ca trù 22 1.2.4.1. Hát chơi 22 1.2.4.2. Hát cửa đình 23 1.2.4.3. Hát thi 25 1.2.5. Khế ƣớc và điều luật của Ca trù 26 1.2.5.1. Vấn đề tổ chức giáo phƣờng 26 1.2.5.2. Quyền lợi của giáo phƣờng và việc mua bán các quyền lợi 27 1.2.5.3. Những nét đẹp nhân văn của giáo phƣờng xƣa 29 1.3. Giá trị của Ca trù 30 1.3.1. Giá trị lịch sử 30 1.3.2. Giá trị văn hóa nghệ thuật 32 Tiểu kết chƣơng 1 35 Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 1
  2. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch CHƢƠNG 2:TÌM HIỂU VỀ NGHỆ THUẬT CA TRÙ ĐÔNG MÔN - THỦY NGUYÊN - HẢI PHÒNG 36 2.1. Vài nét về huyện Thủy Nguyên - Hải Phòng 36 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 36 2.1.1.1. Vị trí địa lý 36 2.1.1.2. Địa hình 36 2.1.1.3. Khí hậu 37 2.1.1.4. Tài nguyên nƣớc 37 2.1.1.5. Tài nguyên động thực vật 37 2.1.2. Điều kiện dân cƣ - kinh tế - xã hội 38 2.1.3. Tài nguyên du lịch huyện Thủy Nguyên 39 2.1.3.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên 39 2.1.3.2. Tài nguyên du lịch nhân văn 42 2.2. Khái quát về nghệ thuật ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên- Hải Phòng 46 2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ca trù Đông Môn 46 2.2.1.1. Từ thời Hậu Lê đến thế kỉ XX 46 2.2.1.2. Sự ra đời của Câu lạc bộ Ca trù Đông Môn - nơi lƣu giữ hồn nghệ thuật Ca trù Đông Môn 52 2.2.2. Đặc trƣng của nghệ thuật ca trù Đông Môn 52 2.3. Thực trạng khai thác ca trù Đông Môn trong đời sống và hoạt động du lịch 56 2.3.1. Biểu diễn ca trù trong các lễ hội làng, tiệc mừng 56 2.3.2. Biểu diễn ca trù tại nhà của các nghệ nhân hay ca quán 56 2.3.3. Khai thác tại trụ sở Câu lạc bộ Ca trù 57 2.3.4. Khai thác trong các dịp đi lƣu diễn, biểu diễn 59 2.3.5. Khai thác trong hoạt động du lịch 61 Tiểu kết chƣơng 2 . 63 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM BẢO TỒN VÀ KHAI THÁC HIỆU QUẢ CA TRÙ ĐÔNG MÔN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH HẢI PHÒNG 64 3.1. Định hƣớng bảo tồn và khai thác các giá trị của Ca trù 69 3.2. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn đối với nghệ thuật Ca trù Đông Môn 70 3.2.1. Đào tạo theo mô hình chuyên biệt 74 Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 2
  3. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch 3.2.2. Tăng cƣờng công tác nghiên cứu 78 3.2.3. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế 80 3.3. Giải pháp phát triển du lịch 80 3.3.1. Xây dựng các chƣơng trình biểu diễn nghệ thuật 83 3.3.2. Mở rộng không gian biểu diễn 88 3.3.3. Liên kết với các tuyến điểm du lịch khác trong địa bàn huyện Thủy Nguyên 88 Tiểu kết chƣơng 3 91 KẾT LUẬN 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 PHỤ LỤC 96 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vào 14h45 (giờ Việt Nam, tức 10h45 giờ Abu Dhabi) ngày 1/10/2009, Ca trù của Việt Nam đƣợc UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần đƣợc bảo vệ khẩn cấp. Đây là một sự kiện đánh dấu sự trở lại của ca trù sau nhiều thế kỉ bị quên lãng và có nguy cơ bị mai một. Ca trù là một bộ môn nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc và có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Hải Phòng cũng là một trong những nơi có nghệ thuật hát ca trù từ lâu đời, trong đó làng Đông Môn, xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên chính là nơi khởi nguyên của nghệ thuật hát ca trù Hải Phòng. Mặc dù hàng năm, vào ngày 23-24/9 âm lịch, tại Đông Môn vẫn diễn ra Hội hát ca trù nhƣng nghệ thuật ca trù nơi đây cũng đang đứng trƣớc nguy cơ bị mai một. Chính vì vậy, với mong muốn đƣợc góp một phần công sức nhỏ bé của mình trong việc khôi phục và lƣu giữ loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc, ngƣời viết đã lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu nghệ thuật ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hƣớng khai thác trong du lịch” cho bài khóa luận tốt nghiệp của mình. Việc khai thác ca trù Đông Môn hiệu quả trong du lịch chính là một cách góp phần vào việc bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật độc đáo này, đồng thời cũng là một cách giới thiệu với bạn bè gần xa về kiệt tác phi vật thể này của Hải Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 3
  4. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Phòng nói riêng và của Việt Nam nói chung, đóng góp vào ngân sách chung của ngành du lịch cả nƣớc. 2. Mục tiêu của khóa luận Mục tiêu của đề tài là đi vào tìm hiểu nghệ thuật Ca trù nói chung và những nét đặc sắc của Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng nói riêng, đồng thời cũng tiến hành xem xét thực trạng khai thác Ca trù Đông Môn trong đời sống xã hội những năm gần đây, trên cơ sở đó sẽ đề ra một số định hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác Ca trù Đông Môn phục vụ phát triển du lịch Hải Phòng. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Dƣới góc độ một bộ môn nghệ thuật, ca trù đƣợc khá nhiều học giả dày công nghiên cứu. Có thể kể tên một số công trình và tác giả tiêu biểu nhƣ: 1. Ca trù - thú xưa tao nhã, tác giả Nguyễn Quảng Tuân, NXB Văn học, 2003. 2. Góp phần tìm hiểu lịch sử ca trù, của Nguyễn Xuân Diện, NXB Khoa học xã hội, 2000. 3. Ca trù nhìn từ nhiều phía, tác giả Phạm Đình Hổ, Xuân Lan, Phạm Văn Duyệt, NXB Văn hoá Thông tin, 2003. Hay nhƣ giáo sƣ Trần Văn Khê, một ngƣời con Việt Nam sống ở nƣớc ngoài cũng dày công nghiên cứu và giới thiệu loại hình nghệ thuật đặc sắc này của dân tộc đến bạn bè quốc tế. Có thể tìm hiểu những ghi chép của ông về Ca trù thông qua cuốn “Trần Văn Khê & âm nhạc dân tộc”, NXB Trẻ, 2000. Về Ca trù Hải Phòng, có thể kể tên tác phẩm “Tìm hiểu Ca trù Hải Phòng” do tác giả Giang Thu - Vũ Thu Loan viết. Trong tác phẩm này, các tác giả đã giới thiệu khái quát về lịch sử hình thành, phát triển và một vài nét về đặc trƣng nghệ thuật của Ca trù Hải Phòng. 4. Ý nghĩa của đề tài Nhƣ vậy có thể thấy, những tác phẩm trên đây phần lớn đều nghiên cứu về Ca trù dƣới góc độ nghệ thuật, hầu nhƣ chƣa có tài liệu nào đề cập một cách sâu sắc đến việc định hƣớng khai thác những giá trị của ca trù cho hoạt Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 4
  5. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch động du lịch. Số lƣợng tài liệu tìm hiểu về nghệ thuật ca trù tại một địa phƣơng nhỏ nhƣ Đông Môn càng ít. Vì thế, với đề tài này, ngƣời thực hiện mong muốn trên cơ sở những hiểu biết về Ca trù nói chung, kết hợp với việc tìm hiểu thực tiễn về nghệ thuật Ca trù Đông Môn nói riêng sẽ đề xuất những biện pháp cụ thể nhằm bảo vệ và khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên đang dần bị mai một này, đóng góp vào sự phát triển chung của du lịch Hải Phòng. Ngoài ra, đề tài còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành VHDL cũng nhƣ là tài liệu hữu ích đối với du khách đến với Hải Phòng khi muốn tìm hiểu về nghệ thuật ca trù Đông Môn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong đề tài đã sử dụng các phƣơng pháp sau: phƣơng pháp thu thập và xử lí số liệu; phƣơng pháp thực địa; phƣơng pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp. Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Là phƣơng pháp chính đƣợc sử dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập thông tin tƣ liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau có liên quan tới đề tài nghiên cứu, ngƣời viết sẽ xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần thiết, có đƣợc tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp thực địa: Quá trình thực địa giúp sƣu tầm thu thập tài liệu, nhằm nhận đƣợc thông tin xác thực cần thiết để thành lập ngân hàng số liệu cho việc hoàn thiện đề tài . Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp: Phƣơng pháp này giúp định hƣớng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tƣơng quan, phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh hƣởng của yếu tố tới hoạt động du lịch trong đề tài nghiên cứu; việc phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề tài cơ sở trong việc thực hiện các mục tiêu dự báo, các chƣơng trình phát triển, các định hƣớng, các chiến lƣợc và giải pháp phát triển du lịch trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. 6. Kết cấu của khóa luận Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 5
  6. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài chia làm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Tổng quan về nghệ thuật Ca trù Chƣơng 2: Tìm hiểu về nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng. Chƣơng 3: Một số đề xuất nhằm bảo tồn và khai thác hiệu quả Ca trù Đông Môn phục vụ phát triển du lịch Hải Phòng. CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT CA TRÙ 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ca trù 1.1.1. Câu chuyện truyền thuyết về vị tổ Ca trù Trƣớc đây nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ca trù có từ thời Lý - Trần - Hồ, thế kỷ XI, XII khi căn cứ vào các bức chạm khắc ở các chùa Phật Tích (Bắc Ninh), Thái Lạc (Hƣng Yên) và mấy chữ ả đào, đào nƣơng trong các sách cổ Đại Việt sử ký toàn thƣ, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cƣơng mục, Công dƣ tiệp ký. Nhƣng thông qua những câu chuyện thần tích lƣu truyền trong dân gian và những ngôi đình thờ tự các vị tổ ca trù, dấu tích chính thức sớm nhất của bộ môn nghệ thuật này là vào khoảng thế kỷ XV, thời Hậu Lê. Ca trù có một truyền thuyết rất đẹp và lung linh huyền thoại về sự ra đời, trong đó, các vị tổ ca trù đã đƣợc chính các vị tiên xui khiến chế tác ra cây đàn đáy, mà tiếng đàn này có thể giải mọi phiền muộn, chữa đƣợc bệnh cho mọi ngƣời, tiếng đàn ấy còn se duyên cho hai vị tổ ca trù thành đôi lứa Câu chuyện lƣu truyền nhƣ sau: Vào đời Lê, Đinh Lễ, tự Nguyên Sinh, ngƣời làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, con nhà gia thế, tính tình phóng khóang. Một hôm, Nguyên Sinh đem đàn nguyệt và rƣợu vào rừng thông để tiêu khiển, gặp đƣợc hai ông cụ già. Đó chính là hai tiên ông Lý Thiết Quài và Lã Động Tân. Hai tiên ông đƣa cho chàng khúc gỗ ngô đồng và tờ giấy vẽ kiểu mẫu Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 6
  7. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch đàn và dặn đóng đàn theo kiểu mẫu nhƣ trong giấy. Tiếng đàn ấy sẽ trừ đƣợc ma quỷ, giải đƣợc phiền muộn. Nguyên Sinh y theo lời. Nhờ tiếng đàn kỳ diệu, chàng chữa đƣợc bệnh cho rất nhiều ngƣời. Một lần, Nguyên Sinh đến châu Thƣờng Xuân, tỉnh Thanh Hóa, chàng đã chữa bệnh cho ngƣời con gái tên Hoa, con của vị Quan châu Bạch Đình Sa khỏi bệnh câm. Sau Nguyên Sinh và Bạch Hoa nên vợ nên chồng, sống cùng nhau rất hòa hợp tƣơng đắc ở bên nhà Bạch công. Nguyên Sinh đã đặt ra lối múa hát mới, rồi lấy hai thanh tre vót thực đẹp để cho nàng gõ lên trên mảnh gỗ theo với nhịp đàn mà hát. Sau hai vợ chồng từ biệt ông bà nhạc dẫn nhau về quê Nguyên Sinh ở Cổ Đạm để lập nghiệp. Ít lâu sau, chàng gặp lại các vị tiên ông và đƣợc ghi tên tuổi vào tiên phả rồi cùng nhau hóa. Vợ Nguyên Sinh biết chuyện, bèn phát tán hết gia tài rồi đóng cửa dạy cho đám con em trong làng hát múa. Sau nàng bệnh mà chết. Dân làng Cổ Đạm và đệ tử nhớ ơn lập đền thờ, gọi là đền Tổ Cô đầu, hay là đền bà Bạch Hoa Công chúa. Trải các triều đều phong tặng Đinh Lễ là Thanh Xà Đại vƣơng, Bạch Hoa là Mãn Đào Hoa Công chúa. Làng Phƣợng Cách, xã Phƣợng Cách, huyện Quốc Oai, Hà Tây cũ cũng là một nơi có di tích đền thờ tổ. Trong lịch sử nơi đây là một vùng rất thịnh của ca trù. Ở trong khu nhà thờ họ Nguyễn Thế (do ông Nguyễn Thế Mạnh trông nom) có một gian điện thờ đức tổ ca trù với hai pho tƣợng tròn rất đẹp. Theo các vị cao tuổi trong dòng họ thì đây là nơi các giáo phƣờng lớn nhỏ trong huyện Quốc Oai về dâng hƣơng lễ tổ hàng năm. [18] Bên cạnh những thần tích và di tích kể trên, gần đây với các tài liệu khảo cổ học, mỹ thuật học và nhất là tài liệu bằng chữ Hán Nôm xác thực và tin cậy, các nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng tài liệu chính thức đề cập đến ca trù sớm nhất cũng là vào khoảng thế kỷ XV. Căn cứ về khảo cổ học là các bức chạm khắc đàn đáy - một cây đàn 3 dây đặc biệt chỉ dùng riêng trong ca trù, tìm thấy ở các ngôi đình làng, chùa làng ở Bắc bộ thế kỷ XVI. Tƣ liệu chữ viết là bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Tiến sĩ Lê Đức Mao (1462- 1529) trong sách Lê tộc gia phả (kí hiệu tài liệu A. 1855 thuộc Viện Hán Nôm) soạn trƣớc Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 7
  8. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch năm 1505, tức là khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. 500 năm về trƣớc, tại đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội) đã diễn ra lễ hội đầu xuân cầu phúc. Một văn nhân hay chữ trong làng là Lê Đức Mao thay mặt 8 giáp viết 9 bài thơ để các giáp đọc và khen thƣởng cho các cô đào. Đây chính là tƣ liệu sớm nhất mang hai chữ Ca trù. Đây cũng là Bài thơ cổ nhất hiện biết có hai chữ Ca trù lần đầu tiên có mặt trong văn học viết. Bài thơ cho chúng ta thông tin quan trọng: ngôi đình Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội có trƣớc năm 1500 và hát cửa đình đã có trƣớc năm 1500. Bài thơ cho ta mƣờng tƣợng ra không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng của lễ hội đầu xuân cầu phúc của làng Đông Ngạc hồi cuối thế kỷ XV. Trong ngày hội lớn của làng Đông Ngạc bấy giờ có ít nhất là 8 giáp, đã cùng nhau thƣởng đào ở đình làng. Các cô đào hát những bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân làng. Trong bài thơ này, chữ “ca trù” xuất hiện hai lần: Thọ bôi kể chục, ca trù điểm trăm và Mừng nay tiệc ca trù thị yến. Ở câu thơ thứ nhất, chữ “ca trù” cho thấy đây là lối hát dùng thẻ (trù) để thƣởng cho ngƣời hát ngƣời đàn (đào và kép). Mỗi khi thấy hay, ngƣời cầm chầu gõ một tiếng “chát” vào tang trống để thƣởng và khi đó sẽ thả một thẻ tre (mỗi thẻ tƣơng ứng một số tiền) vào chiếc chậu thau (để tiếng ném thẻ vào chậu thau sẽ báo cho đào kép biết là làng thƣởng khiến cho họ hát càng hay hơn nữa). Ở câu thơ thứ hai, cho thấy tiệc ca trù đƣợc mở để thờ thần. [18] 1.1.2. Thế kỷ XVI - Ca trù gắn với ngôi đình làng ở Bắc bộ Bƣớc sang thế kỷ XVI, sự phát triển và phổ biến của ca trù đƣợc ghi nhận bằng các bức chạm khắc dân gian tại các đình làng. Các bức chạm đình Lỗ Hạnh (huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang) và đình Tây Đằng (xã Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội) đều có các bức chạm hoặc tƣợng hình ngƣời cầm đàn đáy. Đình Tây Đằng có tƣợng tròn hình ngƣời đứng cầm đàn đáy. Đình Lỗ Hạnh có bức chạm tiên nữ ngồi trên mình con hƣơu cầm đàn đáy và một bức chạm khác có cả đám nhạc công đang hòa nhạc trong đó có 1 ngƣời đàn ông ngồi cầm đàn đáy. Hình Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 8
  9. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch ảnh này cho thấy ca trù đã có mặt trong những sinh hoạt văn hóa dân gian tại các làng quê và có mặt trong điêu khắc đình làng. Qua những hình chạm ngƣời cầm đàn đáy ở các đình, đền, có thể thấy rằng: đàn đáy đã trở nên phổ biến ở thế kỷ XVI, ở đồng bằng Bắc bộ. Đàn đáy mới đầu đƣợc sử dụng trong các cuộc hoà nhạc, cùng với các nhạc khí khác trong một đám đông (có khi có cả ngƣời múa), mà ngƣời đàn có thể là nam, có thể là nữ với tƣ thế là đứng hoặc ngồi. Về sau ca quán thính phòng ra đời, đàn đáy là loại đàn duy nhất trong cuộc hát. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 9
  10. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch 1.1.3. Thế kỷ XVII và XVIII - nghi lễ hát cửa đình trong các làng quê Tiếp tục dòng chảy của điêu khắc đình làng từ thế kỷ trƣớc, sang đến thế kỷ XVII và XVIII chúng ta vẫn bắt gặp sự ghi nhận của dân gian đối với cây đàn đáy. Điều này càng chứng tỏ cây đàn đáy đã có một chỗ đứng trong đời sống và phong tục dân gian, và hoạt động diễn xƣớng ca trù đã trở thành một nét sinh hoạt phổ biến tại các đình làng dân gian. Những ngôi đình có niên đại thế kỷ XVII nhƣ đình Đại Phùng (xã Đại Phùng, huyện Đan Phƣợng, Hà Nội), đình Hoàng Xá (xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội), đình Xốm (xã Hùng Lô, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ) hiện còn giữ các bức chạm những ngƣời đang sử dụng đàn đáy. Đặc biệt ở đình Đại Phùng đặc tả hộc đàn ở mặt sau hộp đàn đáy, còn bức chạm ở đình Xốm miêu tả cả nhóm nhạc công đang hòa nhạc. Hai ngôi đền có niên đại thế kỷ XVIII là đền Tam Lang (xã Ích Hậu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) và đền Lê Khôi (huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) cũng cho các cứ liệu rất cụ thể về đàn đáy, phách và sinh hoạt diễn xƣớng ca trù ở thế kỷ XVIII. Các bức chạm này có nét điêu khắc tinh tế hơn chứ không còn vẻ mộc mạc thô phác của các bức chạm trƣớc đó. Điều này thể hiện rõ nhất là những đặc tả về trang phục và vũ điệu mềm mại của các nghệ sĩ dân gian. Các nghệ sĩ đã mang trang phục của nghi lễ hát thờ, với chiếc mũ trên đầu, hoặc búi tóc gọn ghẽ và khá kiểu cách, và những bộ trang phục của những vũ công chuyên nghiệp. Đây cũng là tƣ liệu rất quý, làm cơ sở cho việc phục hồi các nghi thức hát thờ tại các đình đền trong dân gian. Nhƣ vậy, qua các ngôi đình có các bức chạm các cảnh sinh hoạt ca trù và việc sử dụng cây đàn đáy, chúng ta biết ca trù có mặt ở các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Tây, Hà Tĩnh. Nguồn tƣ liệu văn bia cũng cho biết giáo phƣờng ca trù đã phục vụ hát thờ ở khắp vùng đồng bằng châu thổ Bắc bộ. Đó là các tỉnh Hà Tây (cũ), Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Hải Dƣơng, Nam Định. Các bản hƣơng ƣớc, tục lệ của các làng quê có ghi nhận về những ngày tiệc lớn trong Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 10
  11. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch làng đều có hát thờ ở cửa đình, nhiều khi là kéo dài vài ba ngày thậm chí cả nửa tháng trời. [18] Trong thế kỉ XVII - XVIII, việc tổ chức giáo phƣờng Ca trù cũng đƣợc hoàn tất. Theo ghi chép của các văn bia thì Ty giáo phƣờng là một tổ chức quản lí hoạt động ca xƣớng tƣơng đƣơng cấp huyện. Giáo phƣờng các xã thuộc về Ty giáo phƣờng của huyện. Mỗi huyện thƣờng có một Ty giáo phƣờng. Ngƣời đứng đầu Ty giáo phƣờng là một ông trùm. Ty giáo phƣờng chia việc giữ các cửa đình trong huyện cho các giáo phƣờng. Việc giữ này đƣợc truyền từ đời này qua đời khác. Giáo phƣờng Ca trù không những biểu diễn phục vụ trong các lễ hội dân gian ở các làng xã mà còn vƣợt ra khỏi địa phƣơng để tham gia vào các nghi thức tiếp khách của nhà nƣớc. Từ đó cho phép nhận định rằng nghệ thuật Ca trù vào thế kỉ XVIII đã là một trong những đại diện của âm nhạc nƣớc ta đƣợc đem giới thiệu trong hoạt động đối ngoại ở cấp quốc gia. 1.1.4. Thế kỉ XIX Trong thời kì này ghi dấu sự hoàn thiện của thể cách hát nói, cả về mặt âm nhạc, văn chƣơng và việc thƣởng ngoạn. Sự ra đời và phát triển của thể Hát nói vừa với tƣ cách là một thể loại văn học, vừa với tƣ cách là một thể Ca trù mới đã đánh dấu bƣớc phát triển cao của Ca trù. Hát nói là một thể thơ ca dân tộc đƣợc sinh ra từ nhu cầu của môn nghệ thuật Ca trù trở thành một thể thơ độc đáo đối với văn học Việt Nam nói chung và văn học chữ Nôm nói riêng. Cùng với lục bát, song thất lục bát, Hát nói là một sáng tạo về mặt thể loại của văn học chữ Nôm Việt Nam. Hát nói có ba cách gọi khác nhau: Hát nói (nếu đào hát), hát Hà Nam (nếu là hát kép), Hát nối (chỉ các bài dôi khổ). Ngoài hát nói đủ khổ (11 câu) thì thể Hát nói còn có một số biến thể khác nhƣ: Hát nói thiếu khổ (bài hát chỉ có 6 câu thơ), Hát nói dôi khổ tức là dôi thêm một hoặc nhiều khổ (mỗi khổ 4 câu thơ), hát nói gối hạc (một vài câu thơ kéo dài ra, số chữ trong câu thơ có thể là 12, 18 và thậm chí là 24 chữ). Hát nói thƣờng hay đi cùng với Hát Mƣỡu. Hát Mƣỡu đƣợc hát mở đầu hay kết thúc cho một bài hát nói. Khoảng thời gian này, Ca trù ở Ca quán đƣợc tinh giản chỉ gồm: Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 11
  12. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch phách, đàn đáy và chiếc trống chầu. Thơ nƣơng vào nhạc và nhạc là để phục vụ cho thơ, ngƣời nghe nhằm dến thƣởng thức thơ là chính. Trong lịch trình phát triển của Ca trù, chỉ đến khi có Ca trù ca quán mới có mối tình của văn nhân và ca nƣơng. 1.1.5. Thế kỉ XX Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ngƣời Pháp đã đặt xong nền đô hộ tại Đông Dƣơng. Nhiều tỉnh lỵ, huyện lỵ đƣợc mọc lên bên cạnh những trục đƣờng giao thông lớn nhỏ. Một số giáo phƣờng ca trù ở nông thôn đã di chuyển ra tỉnh và bám theo dọc các trục đƣờng giao thông để mở nhà hát (ca quán). Trƣớc kia ngƣời hát đến nhà ngƣời nghe hát. Kể từ khi có ca quán, ngƣời nghe hát đến ca quán để nghe hát. Từ đó nảy nở mối tình giữa văn nhân và đào nƣơng. Khắp các nơi phố thị, ca quán ca trù mọc lên nhƣ nấm sau mƣa. Ở miền Trung thì Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, tỉnh nào cũng có nhà hát cô đầu. Ở miền Bắc những thành phố lớn đều có nhà hát, ở Nam Định trƣớc cô đầu mở nhà hát ở phố Hàng Thao, sau thiên xuống Ngã Sáu. Theo phóng sự điều tra của ký giả Hồng Lam trên báo Trung Bắc chủ nhật số 129, năm 1942 thì riêng năm 1938, ngoại ô Hà Nội có 216 nhà hát và gần 2000 cô đầu tập trung trƣớc thì ở Hàng Giấy, ấp Thái Hà, sau đến Khâm Thiên, Ngã Tƣ Sở, Vạn Thái, Chùa Mới, Cầu Giấy, Kim Mã, Văn Điển, Gia Quất. Trong các khu phố có các ca quán ả đào, Khâm Thiên và Ngã Tƣ Sở là những địa chỉ tiêu biểu vì sự gắn bó với các nhà văn nhà thơ nổi tiếng: Tản Đà, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoài Điệp Thứ Lang, Vũ Hoàng Chƣơng. Phải nói rằng văn hóa ả đào, văn hóa ca trù đã thấm đẫm trong sáng tạo của thi sĩ, văn sĩ trƣớc 1945. Cũng tại Khâm Thiên, Nguyễn Tuân đã sống và tích lũy vốn liếng cho các tác phẩm về ca trù nhƣ Đới roi, Chùa Đàn. Trần Huyền Trân đã sống ở ngõ Cống Trắng, Khâm Thiên, và đã viết tặng danh ca Quách Thị Hồ những dòng thơ chứa chan niềm ƣu tƣ trong bài “Sầu chung”. Thế Lữ, Vũ Hoàng Chƣơng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính cũng có nhiều bài thơ gửi gắm tâm hồn đồng điệu với các đào nƣơng đem tài sắc tuổi thanh xuân Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 12
  13. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch dâng tặng tri âm. Thƣởng thức ca trù gọi là “nghe hát”, chứ không phải là “xem hát”. Thế nhƣng nghệ thuật này đã góp cho văn chƣơng hàng nghìn bài thơ viết bằng chữ Nôm chứa đựng rất nhiều tâm trạng, rất nhiều biến thái vi tế của tâm hồn Việt Nam qua nhiều thế kỷ với các tên tuổi tiêu biểu nhƣ: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dƣơng Khuê, Dƣơng Tự Nhu, Nguyễn Hàm Ninh, Chu Mạnh Trinh, Vũ Phạm Hàm, Nguyễn Thƣợng Hiền, Phan Bội Châu, Bùi Kỷ, Tản Đà Cùng với sinh hoạt ả đào ở các ca quán đô thị, tại các nhà giam đế quốc, các tù chính trị là các trí sĩ yêu nƣớc, những chiến sĩ cộng sản kiên cƣờng đã vui hát ả đào hàng ngày sau song sắt nhà tù thực dân khủng khiếp để rồi vƣợt qua không gian chật hẹp đó, kêu gọi quần chúng tập hợp đi theo cách mạng và vững tin vào ngày thắng lợi. Tại Huế, vào những năm trƣớc cách mạng tháng Tám, vẫn là nơi diễn ra các nghi lễ cung đình để chúc thọ Hoàng đế. Các thi sĩ thuộc Hoàng tộc nhƣ Ƣng Bình Phúc Giạ Thị cũng rất chuộng hát Ả đào và đã sáng tác nhiều bài thể Hát nói. Song, bên cạnh đó, do ảnh hƣởng của nền văn minh phƣơng Tây, những nền tảng đạo đức của dân tộc ta bị lung lay khiến các lề lối, luật lệ khắt khe của Ca trù bị phá vỡ. Ca trù trở thành một thứ kinh doanh, phục vụ nhu cầu của tầng lớp quan lại, ngƣời giàu sang thỏa mãn ăn chơi, hƣởng lạc khiến ca trù không còn là một thú vui tao nhã. Chính vì thế, sau năm 1945, trong một thời gian khá dài sinh hoạt ca trù vốn tao nhã và sang trọng trƣớc đây đã bị hiểu lầm và đánh đồng với các sinh hoạt thiếu lành mạnh ở một số ca quán đô thị khiến cho xã hội chối bỏ và quyết loại sinh hoạt ca trù ra khỏi đời sống văn hóa. Ca trù đã không đƣợc nuôi dƣỡng và phát triển một cách tự nhiên, không đƣợc tôn vinh đúng mức, phải chịu tồn tại thiếu sinh khí và tàn lụi. Để tránh mang tiếng xấu, sợ ngƣời đời khinh miệt, hầu hết các nghệ nhân Ca trù từng nổi tiếng một thời, ngƣời thì mai danh ẩn tích, ngƣời thì rời bỏ giáo phƣờng, bỏ phách, bỏ đàn đi tìm nghề khác để kiếm sống. Nhắc đến Cô đầu ngƣời ta sợ. Nhắc đến hát Ả đào Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 13
  14. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch ngƣời ta nghĩ đến một thú ăn chơi làm cho ngƣời ta khuynh gia bại sản, có hại cho phong hóa và luân lý. Nghề hát của đào kép ả đào, của sinh hoạt Ả đào, Cô đầu bị xã hội xa lánh và nhìn nhận rất ác cảm, khiến cho ca trù không thể nảy mầm trổ nụ trong suốt hàng chục năm sau đó. Năm 1976, giáo sƣ Trần Văn Khê từ Pháp trở về. Ông đã đến Khâm Thiên gặp bà Quách Thị Hồ. Tại đây ông đã ghi âm tiếng hát của bà để giới thiệu với thế giới. Năm 1978, Hội đồng âm nhạc quốc tế của UNESCO và viện nghiên cứu quốc tế về Âm nhạc so sánh đã trao bằng cho bà vì công lao đặc biệt trong việc bảo tồn một bộ môn âm nhạc truyền thống có giá trị văn hóa nghệ thuật cao. Năm 1988, tại Liên hoan Quốc tế Âm nhạc tại Bình Nhƣỡng, có sự tham gia của 29 quốc gia, băng ghi âm tiếng hát của bà đại diện cho Việt Nam đã đƣợc xếp hạng cao nhất. Năm 1991, với sự cố gắng bền bỉ của nghệ sĩ Lê Thị Bạch Vân, cùng với sự giúp đỡ của các nghệ sĩ già, Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội ra đời. Câu lạc bộ này hoạt động liên tục từ đó đến nay, đƣợc nhiều ngƣời biết tới, nhiều báo chí đƣa tin và khen ngợi. Năm 1995, nhóm Ca trù Thái Hà và nhiều nhóm khác đã lần lƣợt ra đời, đi vào hoạt động. Nhóm Ca trù Thái Hà đƣợc coi là nhóm Ca trù đầy đủ và bề thế nhất hiện nay. Năm 1997, một nhóm ca trù khác cũng tự phát hình thành và thƣờng xuyên hoạt động tại đền Bích Câu, mà chủ nhiệm câu lạc bộ là ngƣời làng Lỗ Khê, nơi vốn có truyền thống hát Ca trù lâu đời. Năm 2000, Liên hoan Ca trù mở rộng đƣợc tổ chức tại Văn miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội, lần đầu tiên tụ họp những ngƣời hát ca trù của 14 tỉnh thành trong cả miền Bắc. Nhờ có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc, các tổ chức đoàn thể xã hội cùng với sự nỗ lực cố gắng của các nghệ nhân, sự hâm mộ nhiệt tình của đông đảo công chúng, bắt đầu từ đó, Ca trù đã tìm đƣợc chỗ đứng của âm nhạc cổ truyền trong xã hội đƣơng đại. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 14
  15. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch 1.1.6. Ca trù hiện nay Trải qua hơn nửa thế kỷ hình thành và phát triển, Ca trù đã trở thành một loại hình ca nhạc cổ truyền của dân tộc. Đã từng có một thời Ca trù giữ vai trò khá đặc biệt trong đời sống cộng đồng. Nó thịnh hành ở nhiều vùng đất Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Nam Định, Hƣng Yên, Hải Dƣơng, Hải Phòng Sau một thời dài trầm lắng, nghệ thuật Ca trù đang từng bƣớc đƣợc khôi phục và đi vào đời sống bằng nhiều cách. Từ năm 2000 tới nay, một số cuộc Liên hoan Ca trù đã đƣợc tổ chức nhằm quảng bá loại hình nghệ thuật văn hóa truyền thống đặc sắc này tới cộng đồng rộng rãi hơn nhƣ: Liên hoan Ca trù Hà Nội (2000), Liên hoan Ca trù toàn quốc (2005), Đêm Ca trù toàn quốc (2006), Thi hát Ca trù toàn quốc và đêm tôn vinh Ca trù (2007), Liên hoan câu lạc bộ ca trù toàn quốc (10/2009) Những động thái tích cực này phần nào đã giúp nghệ thuật Ca trù nhận đƣợc sự chú ý của công chúng trong nƣớc và bạn bè quốc tế; thêm nữa, nó khích lệ các nghệ nhân thêm vững tâm theo nghiệp đàn, hát mà cha ông để lại. Sinh hoạt Ca trù hiện nay ở các địa phƣơng thƣờng diễn ra với các hình thức: hát phục vụ lễ hội địa phƣơng nhƣ hội làng, hội xuân, mừng thọ; hát phục vụ các chính quyền, các tổ chức xã hội; hát trong các buổi sinh hoạt câu lạc bộ thƣờng kì. Tuy có những khởi sắc nhất định, nhƣng giới nghiên cứu âm nhạc dân gian Việt Nam vẫn không khỏi lo ngại về công tác gìn giữ, phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật Ca trù. Có một thực trạng đáng buồn là mặc dù Ca trù đã bƣớc đầu đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm nhƣng số ngƣời biết hát, biết đàn, biết thƣởng thức Ca trù thuộc diện “con nhà nòi” hiện nay không nhiều. Phần lớn các nghệ nhân biết đàn, biết hát, biết nghe Ca trù đã ở tuổi “thất thập cổ lai hi”. Một mặt do xã hội chƣa thật sự trân trọng; mặt khác do nghệ nhân già yếu và thế hệ trẻ chƣa đƣợc đào tạo kịp để có khả năng tiếp thu, giữ gìn vốn nghề. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 15
  16. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Trƣớc tình trạng đó, năm 2002, Cục nghệ thuật Biểu diễn thuộc Bộ văn hóa - Thông tin đã phối hợp với nhạc viện Hà Nội tổ chức lớp đào tạo diễn viên trẻ Ca trù, bao gồm 41 học viên học hát và 24 học viên chơi đàn đáy và đánh trống chầu. Sau khi kết thúc đào tạo họ quay về địa phƣơng, tiếp tục cùng các nghệ nhân mở lớp đào tạo Ca trù, thành lập thêm các câu lạc bộ ca trù ở nhiều làng, xã. Hiện nay Ca trù bắt đầu sống lại, tiếng hát ca trù đã gây đƣợc ấn tƣợng tại các cuộc hội diễn, hội thi, liên hoan nghệ thuật tổ chức tại các địa phƣơng trong và ngoài nƣớc. Song song với quá trình đào tạo nghề, nhiều hoạt động khác cũng đƣợc thực hiện nhằm đóng góp vào công tác bảo tồn và phục dựng một trong những vốn văn hóa cổ truyền của dân tộc. Một cuộc kiểm kê, khảo sát trên qui mô lớn đã đƣợc thực hiện tại 14 tỉnh thành trên toàn quốc có sự hiện diện của nghệ thuật ca trù là Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dƣơng, Hƣng Yên, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, TP. Hồ Chí Minh. Theo kết quả báo cáo của nhà nghiên cứu Hồ Thị Hồng Dung (Viện Âm nhạc Việt Nam), tính đến tháng 10/2008, cả nƣớc có 63 câu lạc bộ ở 14 tỉnh thành, tổng số ngƣời biết đàn, hát và múa Ca trù trong cả nƣớc gồm 769 ngƣời (513 đào nƣơng, 256 kép đàn và ngƣời đánh trống chầu). Số lƣợng các di tích liên quan đến ca trù là 99 di tích. Hà Nội kể từ khi sát nhập với Hà Tây (cũ) đã trở thành địa phƣơng có số đào nƣơng nhiều nhất (130 ngƣời), nhƣng số lƣợng kép đàn và ngƣời chơi trống chầu lại đứng thứ 2, sau Quảng Bình (59 ngƣời). Kết quả khảo sát và kiểm kê của các chuyên gia cho thấy, đây cũng là hai địa danh có số lƣợng CLB hát ca trù nhiều nhất (Hà Nội có 13 CLB, Quảng Bình có 11 CLB), các tỉnh Vĩnh Phúc và Nam Định đƣợc ghi nhận là có số ngƣời biết đàn hát và số tổ chức sinh hoạt Ca trù ít nhất. Hiện nay, nghệ thuật Ca trù Việt Nam và những gì liên quan, nhƣ di tích, tƣ liệu vẫn đang đƣợc các tỉnh cố gắng bảo tồn và coi đó là tài sản văn hóa của địa phƣơng mình. Theo tổng kết của Viện Âm nhạc Việt Nam thì chúng ta đang Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 16
  17. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch sở hữu 42 bài bản ca trù, 7 điệu múa, 117 băng - đĩa tiếng sƣu tầm điền dã, 250 băng -đĩa hình, 25 cuốn sách viết về ca trù Một tín hiệu đáng mừng cho sự hồi sinh của nghệ thuật Ca trù là 14h45 (giờ Việt Nam, tức 10h45 giờ Abu Dhabi) ngày 1/10/2009, Ca Trù của Việt Nam đƣợc UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Trong lần xét chọn đầu tiên kể từ khi Công ƣớc có hiệu lực, Việt Nam đã quyết định đề cử Ca trù vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần đƣợc bảo vệ khẩn cấp bởi mặc dầu đã đƣợc phục hồi trong 5 năm gần đây nhƣng nguy cơ thất truyền những bài bản, thể cách của Ca trù xƣa đang đặt ra nhƣ một thách thức không dễ gì giải quyết. Việc Ca trù trở thành Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp mang lại nhiều lợi ích cho ngành du lịch Việt Nam, sẽ không chỉ ca trù đƣợc thế giới biết đến mà hình ảnh Việt Nam sẽ có cơ hội quảng bá rất lớn, vì chúng ta đang nỗ lực hết mình để quảng bá hình ảnh đất nƣớc qua con đƣờng văn hóa. Sẽ có thêm nhiều du khách quốc tế đến Việt Nam để mong đƣợc một lần thƣởng thức loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc này. Song bên cạnh đó, việc công nhận danh hiệu của UNESCO cũng đặt ra không ít thách thức đối với việc gìn giữ và phát huy một trong những vốn quí của dân tộc. Theo nhạc sĩ Đặng Hoành Loan, ngƣời có nhiều năm nghiên cứu về ca trù, cho biết thách thức đối với việc bảo tồn ca trù chủ yếu xuất phát từ đặc trƣng của chính loại hình này: Ca trù là hình thức nghệ thuật rất chuyên nghiệp. Việc đào tạo nghệ nhân đòi hỏi phải có thời gian, có quy trình nghiêm ngặt, lâu dài. Ca trù không phải là văn hóa bình dân, mà ca từ của nó rất bác học, đòi hỏi sự tham gia sáng tác của giới trí thức, các nhà văn, nhà thơ. Thêm vào đó, âm nhạc đi kèm ca trù cũng rất phức tạp. Không gian trình diễn ca trù cũng không thể diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc mà cần có đặc trƣng riêng. Cũng nhƣ âm nhạc thính phòng không thể mang ra đƣờng phố biểu diễn. Chính vì vậy, để bảo tồn ca trù, cần rất hiểu về hình thức nghệ thuật này. [12] Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 17
  18. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Bảo tồn đã khó, đƣa vào khai thác trong du lịch nhƣ thế nào cho hiệu quả mà không làm mất đi cái hay, cái đẹp, cái bản sắc của nghệ thuật Ca trù còn khó hơn. Hy vọng rằng với sự phân công, phân nhiệm nhƣ hiện nay (Theo cam kết của Việt Nam với UNESCO, Ca trù thuộc lĩnh vực quản lý chuyên môn của Viện Âm nhạc, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch), các cơ quan ban ngành đoàn thể có liên quan sẽ cùng phối hợp để Ca trù mãi mãi là niềm tự hào của văn hóa Việt và là một điểm sáng thu hút bạn bè du khách bốn phƣơng. 1. 2. Đặc trƣng nghệ thuật của Ca trù 1.2.1. Về tên gọi của Ca trù Trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam, không một thể loại âm nhạc nào lại đa diện, đa sắc nhƣ nghệ thuật Ca trù. Trải qua dòng chảy của thời gian, tùy theo từng không gian văn hóa hay chức năng phối thuộc mà loại hình này mang những tên gọi với nhiều ý nghĩa khác nhau. Nguyên tắc đặt tên của Ca trù rất phong phú và có thể phân loại nhƣ sau: - Tên gọi xuất phát từ danh từ chỉ ngƣời nghệ sĩ thực hành âm nhạc dƣợc dùng nhƣ danh từ chỉ thể loại: Hát Ả đào, Hát Ca công. + Hát Ả đào: Nguồn gốc của tên gọi này bắt nguồn từ đời vua Lê Thái Tổ có ngƣời ca nƣơng tên Đào Thị giỏi nghề ca hát, thƣờng đƣợc nhà vua ban thƣởng. Ngƣời thời bấy giờ ngƣỡng mộ danh tiếng của đào nên phàm ca hát đều gọi là Đào nƣơng hay Ả đào. + Hát Ca công: Cho đến cuối thời Lê, Ca công là danh từ đƣợc dùng để chỉ các nghệ sĩ chốn giáo phƣờng. Theo đó Hát Ca công hàm ý là âm nhạc Giáo phƣờng. Hát Ca công thời xƣa là một thể loại rất phổ biến, bao trùm khắp nơi chốn, phƣờng hội của những nghệ sĩ dân gian chuyên nghiệp. - Tên gọi thể loại xuất phát từ địa điểm, không gian văn hóa sinh hoạt: Hát Cửa quyền, Hát Cửa đình và Hát Nhà tơ. + Hát Cửa quyền: Đây là hình thức sinh hoạt nghệ thuật Ca trù trong các nghi thức của cung đình phong kiến. Chức quan phụ trách phần lễ nhạc trong Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 18
  19. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch cung gọi là quan Thái thƣờng. Hát Cửa quyền đƣợc dùng vào các dịp khánh tiết của hoàng cung. + Hát Cửa đình: Đây là hình thức sinh hoạt Ca trù phục vụ cho nghi thức tế lễ thần thánh ở các đình hay đền làng. Trên thực tế, ngƣời ta còn mƣợn không gian đình đền để tổ chức hát Ca trù với mục đích giải trí đơn thuần. Song, hát lễ vẫn là hình thức đƣợc coi trọng hơn cả với một hình thức diễn xƣớng tổng hợp kéo dài. Bởi vậy thuật ngữ Hát Cửa đình vẫn đƣợc sử dụng với hàm ý chỉ loại âm nhạc Ca trù mang chức năng nghi lễ tín ngƣỡng nơi đình (đền) làng. + Hát Nhà tơ: So với các tên gọi khác của nghệ thuật Ca trù, Hát Nhà tơ là một thuật ngữ ít phổ biến. Cách gọi này xác định hình thức sinh hoạt phục vụ nhu cầu giải trí của nghệ thuật Ca trù trong môi trƣờng nhà quan lại. Tuy nhiên, Hát Nhà tơ còn có thể hiểu theo nghĩa khác: Đời Hồng Đức (1470 - 1497) nhà Lê, Ty giáo phƣờng là một thiết chế do triều đình sắp đặt để trông coi âm nhạc chốn dân gian. Về sau khái niệm này còn đƣợc dùng phổ biến ở thế kỉ XVII, XVIII. Vì thế khái niệm Hát Nhà tơ - hát Nhà ty rất có thể chỉ là cách “diễn Nôm” phiếm chỉ loại hình âm nhạc của Ty giáo phƣờng mà thôi. - Tên gọi thể loại gắn với danh từ phiếm chỉ chỉ chế độ “tiền bảo hiểm” cho đào nƣơng lão thành: Hát Cô đầu; đồng thời, cô đầu cũng chính là danh từ chỉ ngƣời ca nƣơng giống nhƣ chữ ả đào Những ả đào danh ca dạy con em mình thành nghề, mỗi khi đi hát đình đám, con em phải trích ra một món tiền để phụng dƣỡng thầy gọi là tiền Đầu. Sau ngƣời ta dùng tiếng cô hay ả cho rõ raàg và tiếng đầu thay thế tiếng đào để tỏ ý tán tụng là bậc danh ca lão luyện đã dạy nhiều con em thành tài và đƣợc tặng nhiều món tiền đầu nên đƣợc gọi là Cô đầu. Tên gọi này của nghệ thuật Ca trù chính là sự phản ánh phần nào nhu cầu “Nôm Hóa” ngôn ngữ, đồng thời phản ánh một luật tục của giới nghề, đó là việc trọng thầy và phụng dƣỡng thầy. Trong lịch sử nghệ thuật Ca trù, có lẽ đây là tên gọi xuất hiện muộn hơn cả và đƣợc giới thị thành biết đến nhiều hơn - trƣớc khi thể loại này biến mất khỏi đời sống xã hội vào cuối thập niên 50 của thế kỉ XX. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 19
  20. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch - Tên gọi thể loại xuất phát từ hành động diễn xƣớng, sân khấu: Hát Nhà trò. Trong hình thức Hát cửa đình, bên cạnh âm nhạc bao giờ cũng có sự kết hợp của nghệ thuật múa và một số trò diễn mang tính sân khấu. Ngƣời ta gọi đó là “bỏ bộ”. Ả đào miệng hát tay múa uốn éo lên xuống, làm bộ điệu ngƣời điên, ngƣời say rƣợu, ngƣời đi săn , vì vừa hát vừa làm trò nên gọi là hát Nhà trò. - Tên gọi thể loại hình thành danh từ chỉ phƣơng thức chi trả thù lao cho đào kép: Hát Ca trù. Ở cửa đền ngày xƣa có lệ hát thẻ. Thẻ gọi là Trù, làm bằng mảnh tre ghi mức tiền ứng với giá trị mỗi thẻ, dùng để thƣởng cho ả đào thay cho tiền mặt. Khi hát, quan viên thị lễ chia ngồi hai bên, một bên đánh chiêng (cồng) và một bên đánh trống. Chỗ nào ả đào hát hay, bên trống thƣởng một tiếng chát, bên chiêng đánh một tiếng chiêng rồi thƣởng cho một cái trù. Vì thế hát Ả đào còn đƣợc gọi là Ca trù, nghĩa là hát thẻ. Có thể nói Ca trù thể hiện rõ tính thƣơng mại của một loại hình nghệ thuật - tức loại hình nghệ thuật này đã đạt tầm nghệ thuật cao để trở thành một giá trị hàng hóa trong đời sống xã hội. 1.2.2. Thành phần của một chầu hát Một chầu hát có ba thành phần chính: - Một ca sĩ (gọi là Đào nƣơng, còn đƣợc gọi là Ca nƣơng, Ả đào): là ngƣời nữ, thƣờng là ngƣời hát, kết hợp sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp. Ngƣời nữ đánh đàn đáy sẽ đƣợc gọi là “Đào đàn”1. Ca nƣơng là một trong ba thành phần quan trọng của một chầu hát Ca trù. Chính vì vậy có thể khẳng định sự tồn tại của Ca trù luôn luôn gắn liền với các đào nƣơng: “không có đào nƣơng bất thành ca trù, khi nói tới ca trù không thể không nói tới đào nƣơng”. Để trở thành một đào nƣơng cũng không phải là một chuyện dễ, phải hội đƣợc nhiều tiêu chuẩn khắt khe nhƣ giọng hát, năng khiếu 1 Sách Việt sử tiêu án viết, vào thời Lê Thái Tổ, có ngƣời ca nhi họ Đào hát hay, đƣợc vua ban thƣởng. Ngƣời sau vì mộ danh tiếng của Đào thị nên gọi con hát là Đào nƣơng. Sách Công dƣ tiệp ký chép chuyện ngƣời ca nữ giỏi nghề ca xƣớng, lại thông minh trung dũng, họ Đào, quê làng Đào Đặng, Tiên Lữ, Hƣng Yên, sống vào khoảng cuối đời Hồ. Khi quân Minh đem quân xâm lƣợc nƣớc ta, bà đã mƣu trí giết nhiều giặc Minh. Khi bà mất, nhân dân đều kính trọng và lập đền thờ. Từ đó, ngƣời làm phụ nữ theo nghề ca hát đều đƣợc gọi chung là Đào nƣơng (hay Ả đào). Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 20
  21. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch âm nhạc (thẩm âm, gõ phách), tri thức âm nhạc và văn thơ, lòng đam mê và kiên trì Do đó sự tồn tại của ca trù đƣợc quyết định bởi chính các đào nƣơng. Các đào nƣơng là ngƣời truyền tải và thể hiện những cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của ca trù, giúp ca trù tồn tại cho đến ngày nay. Ca trù là nghệ thuật chuyên nghiệp cho nên nó rất thận trọng trong việc đào tạo ca nƣơng. Ngƣời ca nữ trƣớc tiên phải học cho thật thành thạo 5 khổ phách. Yêu cầu là phải gõ phách đúng cao độ và trƣờng độ, có thể tập phách với đàn. Sau khi gõ phách đã thành thạo thì sẽ học hát. Ca trù chỉ có năm khổ phách, nhƣng phách lại là một yếu tố rất cơ bản để đánh giá trình độ của ngƣời ca nữ. Ngƣời ca nữ giỏi là ngƣời biết biến hóa tiếng phách của mình, tùy theo từng bài thơ hoặc tùy theo ý riêng của mình. Ngƣời trong nghề nghe tiếng phách mà biết cá tính sáng tạo của ngƣời ca nữ. Cách lấy hơi nhả chữ là một nét rất độc đáo khác của ca trù. Khác với các lối hát cổ truyền khác, cách lấy hơi trong hát ca trù tinh tế và phức tạp hơn. Trong khi hát chèo, ngƣời nghệ sĩ lấy hơi chủ yếu là từ khoang miệng, trong hát quan họ, ngƣời nghệ sĩ lấy hơi ở khoang miệng và cổ họng; thì hát ca trù, ngƣời nghệ sĩ lấy hơi không chỉ ở khoang miệng hay cổ họng mà còn vận hơi từ đan điền lên, lấy hơi ở khoang mũi nữa. Điều này rất khó, nhƣng cái khó hơn là làm sao khi chuyển hơi mà ngƣời nghe không thể nhận ra, không để lộ và làm thô sự biến hóa này. Tất cả các kỹ thuật đổ hột, sang hơi, đổ con kiến đều ở nơi cổ họng của đào nƣơng. Đạt đƣợc nhƣ vậy, tiếng hát của đào nƣơng sẽ trở nên tinh tế, giàu âm sắc và đạt đƣợc đến sự biểu cảm cao nhất. Tuy nhiên, cái tài hoa của ngƣời Ca nƣơng còn thể hiện ở năng lực cảm thụ văn chƣơng. Đào nƣơng trƣớc hết cảm thụ ý thơ, bài thơ để mới có thể nhập vào nó, phô diễn ý thơ một cách đúng và hay nhất. Sau 5 năm học nghề, ca nƣơng sẽ phải trình diễn 1 năm mới đƣợc làm lễ mở xiêm y. Nhƣ vậy, sau 6 năm đào tạo và thực tập thì đào nƣơng mới đƣợc công nhận là nghệ nhân thật sự. Do những đòi hỏi cao nhƣ thế nên hiện nay ca trù đứng trƣớc nguy cơ tầng lớp kế cận không còn. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 21
  22. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch - Một nhạc công (gọi là “kép”). Chữ Kép nguyên đƣợc gọi chệch ra từ Quản giáp, là chức quan đƣợc giao nhiệm vụ trông coi, giữ trật tự ở giáo phƣờng. Trong ca trù, kép đàn là ngƣời đàn ông, chơi đàn đáy đệm cho ca nƣơng hát. Kép thƣờng không thƣờng hát nhƣ đào, mà chỉ hát trong những điệu đặc biệt, nhƣ điệu Hà nam, điệu hát Giai, hay Đào luồn kép với (đào hát giọng thấp, nhƣ giọng nam, còn kép hát giọng cao, nhƣ giọng nữ). - Ngƣời thƣởng ngoạn (gọi là “quan viên”, thƣờng là tác giả bài hát) là ngƣời cầm chầu trong canh hát. Quan viên thƣờng là một thính giả có hiểu biết về âm luật của ca trù. Ngƣời quan viên giữ trách nhiệm đánh trống chầu chấm câu, khen thƣởng hoặc trách phạt ngƣời hát. Cái tên Quan viên đƣợc sử dụng để ám chỉ ngƣời cầm chầu thƣờng là bậc phong lƣu quân tử. Xƣa, ngƣời có thể trả tiền cho canh hát thƣờng phải giàu có hoặc con nhà quan lại, gia thế. Mặt khác, cũng có thể hiểu, Quan viên là vị quan Cổ lệnh đƣợc vua chúa giao việc cầm chầu, điều khiển canh hát. Lâu dần mà thành tên gọi chung đối với những thính giả cầm chầu. Vì là nghệ thuật âm nhạc thính phòng, không gian trình diễn ca trù có phạm vi tƣơng đối nhỏ. Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Khi bài hát đƣợc sáng tác và trình diễn ngay tại chỗ thì gọi là "tức tịch, " nghĩa là "ngay ở chiếu". 1.2.3. Nhạc cụ trong ca trù. 1.2.3.1. Phách Phách là nhạc cụ gõ, xuất hiện trong nhiều thể loại ca, múa nhạc ở Việt Nam từ lâu đời. Phách có nhiều loại và tên gọi khác nhau. Trong hát xẩm, phách gọi là cặp kè; trong cải lƣơng và dàn nhạc tài tử phách là song lang; trong ca Huế phách là sênh, còn trong dàn nhạc tuồng, đám ma, múa tôn giáo, múa dân gian ngƣời ta mới gọi là phách. Nhiệm vụ của phách là giữ nhịp cho dàn nhạc, ngƣời hát hay múa. Nhịp của phách đơn giản trong cải lƣơng nhƣng lại phức tạp và biến tấu trong những dàn nhạc sân khấu. Bộ phách Ả đào gồm: bàn phách, tay ba và hai lá phách. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 22
  23. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Phách cấu tạo đơn giản nhƣng kỹ thuật sử dụng rất phong phú, gồm những cách chính sau: - Ngón rục: tay ba gõ nhẹ, nẩy nhanh trên bàn phách hai tiếng, tiếp ngay sau đó là phách hai lá gõ cuống bàn phách một tiếng. Ba âm phách gần nhau gọi là tiếng rục. - Ngón chát: tay ba và phách hai lá cùng gõ xuống bàn phách (phách hai lá gõ hơi nhanh hơn một chút). Gõ xong không nhấc lên ngay nên âm thanh chát, hơi thô. - Ngón vê: tay ba và phách hai lá gõ thay phiên gõ nhanh trên bàn phím hoặc giơ tay ba giơ cao đối diện bàn phím. Phách hai lá luồn vào giữa gõ xuống bàn phách rồi nảy ngƣợc nhanh gõ vào tay ba (ít sử dụng). Xƣa kia đào ca khi hát cũng bắt buộc phải vừa hát vừa gõ phách, giữ nhịp điệu và tiết tấu của lối hát nên gọi hát ca trù là lối hát gõ. Bởi thế nên ngƣời nào trƣớc khi học hát, kể cả ngƣời học đánh trống cầm trầu cũng phải học thật nhuần nhuyễn 5 khổ phách: Khổ sòng (còn gọi là sòng 3 hay sòng 5), Khổ giữa, Khổ siết hay còn gọi là khổ rãi, Khổ lá đầu, Khổ chặn, hay còn gọi là khổ khóa, tiếp khổ mở mồi cho lời hát theo vào. Khi hát, phách phải phục vụ cho tiếng hát, tiếng phách phải gõ sao đan vào tiếng hát, nhƣ cùng đồng ca với ngƣời, tiếng phách phải công kênh cho tiếng hát nâng cao thêm cảm xúc của tình thơ ý thơ. Phách còn làm nhiệm vụ giữ nhịp và ngắt nhịp ý thơ khi lời thơ đã lọn nghĩa - giúp cho tiếng hát sau khi ngừng không bị lơ lửng chơi vơi và tiếp sang tiếng hát câu sau vẫn có tiếng phách lót nối kề. 1.2.3.2. Trống chầu Trống đế là nhạc cụ gõ, xuất hiện ở Việt Nam từ khá lâu đời. Trong Chèo ngƣời ta gọi nó là trống đế, còn trong Ca trù gọi là trống chầu. Nhìn chung nó chỉ xuất hiện trong Chèo và Ca trù. Trống chầu có hai mặt trống hình tròn, đƣờng kính bằng nhau khoảng 15 cm. Mặt trống thƣờng là da nách trâu nạo mỏng (rất dai và bền). Đƣờng viền da Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 23
  24. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch bịt mặt trống trùm xuống thân trống khoảng 3cm, đƣợc đóng bằng đinh tre. Da trống căng nhƣng phải định âm tƣơng ứng giọng hát của diễn viên. Tang trống cao khoảng 18 cm, bằng gỗ mít nguyên khúc gọi là tang liền, song có khi bằng những mảnh gỗ mít chắp lại, sơn phết bên ngoài. Hai dùi trống dài khoảng 25cm, bằng gỗ cứng. Phía đầu tay cầm to hơn phía đầu gõ vào mặt trống. Trống chầu có âm sắc đanh gọn, thể hiện tốt tình cảm trong sáng, vui tƣơi. Tuy nhiên tùy thuộc vào kĩ thuật đánh nó có thể diễn tả nhiều sắc thái tình cảm khác nhau (ngón vê, ngón bịt, đánh trên tang trống hay mặt trống ). Tiếng trống chầu là để ngắt câu, ngắt mạch thơ, giục hát, khen câu thơ hay, thƣởng giọng hát đẹp, thƣởng cho nhịp phách tuyệt kỹ hoặc cho cung đàn ngọt. Đánh trống chầu là một nghệ thuật. Trong lối hát tuồng, hát chèo, cũng có sự khen chê, thƣởng phạt nhƣ trong lối hát ca trù. Song trống chầu trong ca trù biểu thị sự tinh tế rất cao vì trống chầu ca trù là để “bình phẩm” cả tiếng phách, tiếng hát, tiếng đàn, và hơn hết là lời thơ. Ngƣời cầm chầu vừa phải bộc lộ khả năng thẩm âm, lại vừa phải bộc lộ khả năng cảm thụ văn chƣơng thì mới có thể cầm chầu để thƣởng thức, khen chê đích đáng. Và do vậy, tiếng trống chầu rất giàu cá tính sáng tạo của ngƣời thƣởng thức. Trong một cuộc hát ca trù, những khách nghe (quan viên) đều bình đẳng trƣớc văn chƣơng và âm nhạc. Tham gia cuộc hát có thể là một ông quan to đƣơng chức, một hƣu quan, một ông đồ hỏng thi, một thầy khóa Khi vào chiếu hát, mọi ngƣời quên đi chức tƣớc, quyền hành, bình đẳng trong thƣởng thức. Mọi ngƣời thay nhau cầm chầu. Cái trống chầu là nhạc khí giữ vai trò nối sợi dây liên hệ giữa ngƣời nghe hát và ngƣời hát, ngƣời đàn. Ai có bài thơ mới làm thì đƣa cho cô đào hát. Ngƣời hát, ngƣời đàn, ngƣời nghe cùng góp cho cuộc thƣởng thức nhạc - thơ thêm hoàn hảo. Đó là một lối chơi tao nhã của cha ông ta suốt nhiều thế kỷ qua. 1.2.3.3. Đàn đáy Theo nhiều nhà nghiên cứu thì đàn đáy là một nhạc cụ chỉ có duy nhất ở Việt Nam và đàn đáy cũng chỉ dùng trong khi hát Ca trù. Không rõ đàn đáy xuất Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 24
  25. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch hiện lần đầu vào năm nào nhƣng nó đƣợc nhắc đến gần 200 năm qua. Đàn đáy có tên gọi là “đàn không đáy” tức là “vô đề cầm” vì nó không có đáy (hậu đàn), do đó ngƣời ta gọi tắt là đàn đáy, lâu ngày thành tên chính thức nhƣ ngày nay. Một giả thuyết khác cho rằng nhạc cụ này có dây đeo bằng vải, dây này trong chữ Hán là “đái’(đai) nên mới gọi là “đàn đái”, đọc chệch đi lâu ngày thành “đàn đáy”. Đàn đáy có âm vực rộng hơn hai quãng tám, âm sắc giống đàn nguyệt, ấm áp, dịu ngọt và có thể diễn tả tình cảm sâu sắc. Ngày xƣa nghệ sĩ cầm miếng khảy bằng tre để đánh, ngày nay thƣờng dùng miếng khảy nhựa. Kĩ thuật tay phải gồm có ngón khảy, hát, lia (vê) giống nhƣ cách diễn đàn nguyệt và đàn tì bà; kĩ thuật tay trái gồm có ngón chùng, đánh chồng âm và hợp âm Ở loại đàn đáy cổ truyền ngƣời ta không đánh dây buông mà bấm vào ngắn phím thứ nhất để khảy, cách này coi nhƣ đánh dây buông. Ngày xƣa đàn đáy có 16 phím, hiện nay chỉ còn 10 phím đến 12 phím. 1.2.4. Các lối hát của Ca trù Theo Việt Nam ca trù biên khảo, Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề cho rằng ca trù có tất cả 46 thể và đƣợc chia ra làm 3 lối hát chính: Hát chơi (tại tƣ gia, tại ca quán), Hát cửa đình (còn gọi là hát thờ tại đình làng hay hát nhân dịp tế tổ Ca công) và Hát thi. Ngoài ra, còn có thể kể đến một không gian trình diễn đặc sắc nữa của Ca trù, nơi mà Ca trù từ chốn dân gian xâm nhập một cách mạnh mẽ vào chốn lầu rồng gác phƣợng, đó là Hát cung đình hay còn gọi là Hát chúc hỗ nơi cung vua phủ chúa, một sự kết hợp nhuần nhụy, vùa tao nhã vừa linh thiêng giữa phong cách của hát chơi (hát cho vua chúa thƣởng thức, lời thơ có thể do vua quan đặt) và những bài bản, làn điệu chúc tụng của lối hát cửa đình (một số bài bản Ca trù đƣợc đặt ra dùng để tế tự trong Tông miếu). 1.2.4.1. Hát chơi Hát chơi là lối hát tổ chức tại nhà quan viên hay nhà ả đào để quan viên thƣởng thức. Hát chơi thƣờng hát những bài tả tình, tả cảnh với sự phóng khóang, phong lƣu, tình tứ. Hát chơi gồm có 15 thể: Bắc phản, Mƣỡu (mƣỡu đơn, mƣỡu Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 25
  26. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch kép, mƣỡu dựng), Hát nói, Gửi thƣ, Đọc thơ-thỏng-dồn, Đọc phú, Chừ khi (có nơi gọi là Chử khi), Hát ru, Nhịp ba cung bắc, Tỳ bà, Kể truyện, Hãm, Ngâm vọng, Sẩm cô đầu (Sẩm nhà trò), Ả phiền (riêng Ả phiền có tới 20 giọng). Từ nhà quan viên, hát chơi dần dần mang tính thƣơng mại hóa và đƣợc mở rộng thành các ca quán. Hát ở ca quán đơn giản hơn ở cửa đình. Đàn hát giảm đi, chỉ cần một đào, một kép. Khách nghe hát thƣờng chỉ dăm bảy ngƣời, có khi một, hai ngƣời; trống chầu là loại trống nhỏ, roi chầu cũng nhỏ xinh; tiếng chầu “cắc, thòm” mạnh mẽ ở cửa đình đổi thành tiếng “chát, tom” tình tứ, duyên dáng. [19] Tuy nhiên, yêu cầu nghệ thuật đảm bảo chất thơ, chất nhạc của ca trù ca quán rất cao. Những bài hát cổ điển giàu chất trữ tình nhƣ Tỳ bà hành, nhịp ba cung bắc, thƣờng dành lại tới đêm khuya mới hát. Ca trù ca quán đƣợc xây dựng trên cơ sở của làn điệu hát giai của lối hát cửa đình, ngày một thêm hoàn chỉnh với sự tham gia sáng tác của đông đảo nhà thơ từ cuối thế kỉ XVIII đến nay. Có thể nói rằng hát Ca trù ở ở ca quán, ở chốn nhà quan, ở tƣ gia hay nhân các dịp chúc thọ, sinh hoạt câu lạc bộ nghệ thuật, sinh hoạt tôn giáo không đòi hỏi nhiều ở tuổi tác, ở đây đòi hỏi chủ yếu là tính nghệ thuật diễn xƣớng. Nghệ nhân hát thƣơng mặc trang phục nền nã, không màu sắc nhƣ nghệ thuật chèo. Giai đoạn sau này, nghệ nhân hát thƣờng mặc áo dài gấm, lụa tơ tằm, kếp màu tím, nâu nhã nhặn, trang điểm nhẹ nhàng cùng nữ trang vòng, xuyến, chuỗi hạt bằng vàng, bạc, ngọc 1.2.4.2. Hát cửa đình Hát cửa đình là lối hát thờ thần (Thành hoàng). Hát cửa đình thƣờng hát về những bài sử, về kinh truyện và sự tích danh nhân. Cách hát rõ ràng, cần nhiều hơi, cao giọng để mọi ngƣời cùng nghe rõ. Điệu bộ nghiêm trang không đƣợc lẳng lơ nhƣ hát chơi. Hát cửa đình gồm có 12 thể: Giáo trống, Giáo hƣơng, Dâng hƣơng, Thét nhạc, Hát giai, Đọc phú, Đọc thơ, Gửi thƣ, Đại thạch, Bỏ bộ, Múa bài bông (múa), Tấu nhạc và múa tứ linh (múa). Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 26
  27. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch 1. Giáo trống (tiết mục chỉ có trong Hát thờ). Kép dạo trống, dạo đàn rồi đứng trƣớc hƣơng án đọc bốn câu thơ có nhan đề là Giáo trống. 2. Giáo hƣơng (tiết mục chỉ có trong hát thờ). Kép lùi xuống hai bƣớc rồi đọc tiếp bốn câu thơ có nhan đề là giáo hƣơng. 3. Dâng hƣơng (thể hát có trong hai lối Hát thờ và Hát thi). Đào dâng hƣơng lên ban thờ rồi ngâm và hát hai khổ thơ thất ngôn bát cú với nội dung chúc tụng thần linh, vua chúa, đất nƣớc, trời đất. 4. Thét nhạc (bài hát có trong ba lối Hát thờ, Hát chơi và hát thi). Dâng hƣơng xong, đào và kép chia nhau đứng hai bên hƣơng án hát bài Thét nhạc. Thét theo tiếng Việt cổ có nghĩa là reo lên, tiếng vút cao lên, cũng có nghĩa là gọi hoặc sai khiến điều gì. Khúc hát này cốt mƣợn lời ca dể dẫn nhạc bởi thế, ý nghĩa lời ca rất rời rạc, không gắn bó với nhau, nhiều câu vô nghĩa, nhƣng khi hát lên thì nghe âm hƣởng rất hay. 5. Hát giai (thể hát có trong Hát thờ và Hát thi). Một thể hát có nhiều điệu, dùng để hát lên nhiều bài thơ khác nhau. Nội dung các bài thơ này thƣờng ca ngợi đất nƣớc, tôn vinh thần linh, vịnh phong cảnh, vịnh sử hoặc hát dã sử, hát truyện 6. Đọc phú (thể ngâm có trong ba lối Hát thờ, Hát chơi và Hát thi). Phú là một thể văn cổ có vần hoặc xen lẫn văn vần với văn xuôi dùng để tả cảnh, kể sự việc hay bàn chuyện đời Tuy gọi là đọc nhƣng thực chất là ngâm và cũng có thể coi là hát. Có bài dành cho đào đọc, có bài dành cho kép đọc. 7. Ngâm thơ, Thổng, Dồn (thể hát ngâm có trong hai lối Hát thờ và Hát chơi). Các bài thơ xƣa kia đều đƣợc mọi ngƣời ngâm lên chứ không đọc nhƣ văn xuôi. Ngâm thơ thực chất là một lối hát và có nhiều làn điệu khác nhau dùng để phổ vào một bài thơ. Trong tiết mục này, sau bài thơ đầu thất ngôn bát cú viết bằng chữ Hán thì tiếp theo là một bài Thổng gồm hai cặp lục bát viết bằng chữ Nôm nhằm tóm tắt hoặc giải thích ý của bài thơ trên, tăng thêm thi cảm cho ngƣời nghe. Cuối cùng là đoạn Dồn, lời ca dài khoảng từ bốn đến năm cặp lục bát, lúc này đàn hát trống phách đều nhanh nên đƣợc gọi là Dồn. Đó là đoạn cao trào lớn trƣớc khi chấm dứt tiết mục. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 27
  28. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch 8. Gửi thƣ (điệu hát có trong ba lối Hát thờ, Hát chơi và Hát thi). Đây là một điệu hát trữ tình vào bậc nhất của nghệ thuật Ca trù, giọng hát bóng bẩy mƣợt mà, làn điệu thiết tha nồng ấm. Điệu hát này cho phép ngƣời ta diễn đạt tình ý của mình dƣới hình thức một bức thƣ. 9. Hát múa Đại thạch hay Đại thực (tiết mục có trong hai lối Hát thờ và Hát thi). Các đào nƣơng vừa múa vừa hát, có đàn phách phụ họa một bên, tính chất vui tƣơi, nhộn nhịp. 10. Hát múa bỏ bộ (tiết mục chỉ có trong Hát thờ). Bỏ bộ là vừa hát vừa làm bộ theo nghĩa của lời ca. Điệu múa này đƣợc thực hiện bởi từ sáu đến tám cô đào hoặc nhiều hơn nữa, trang phục đồng đều nhƣng không cầu kỳ và không nệ quy cách. Đây là một đoạn dài, diễn tả cảnh lao động sản xuất nhƣ xe chỉ, vá may, quay tơ, dệt gấm, thêu hoa, hái chè, bắt ốc, hái rau, đi săn và ca ngợi tinh thần thƣợng võ nhƣ luyện gƣơm, tập bắn súng, chiến đấu với quân thù 11. Hát múa bài bông (tiết mục chỉ có trong Hát thờ và Hát Cửa quyền nơi cung đình). Bài là bày ra hay dàn hàng ngang. bông là hoa. Đây là điệu múa mà các cô đào đeo trên vai những chiếc đèn có cắm hoa xung quanh, làm cho mình trở thành những bông hoa đẹp. Trang phục cầu kỳ tốn kém, số lƣợng diễn viên thƣờng rất đông, ít nhất là 8 ngƣời, đông hơn thì 16 hoăc 32 ngƣời. Múa trong cung đình có khi lên tới 64 ngƣời. 12. Tấu nhạc và múa tứ linh (tiết mục chỉ có trong Hát thờ). Tứ linh là bốn con vật thiêng: Long (rồng), Ly (kỳ lân), Quy (rùa), Phụng (chim phƣợng). Đây là điệu múa tƣợng trƣng cho bốn con vật thiêng quy tụ trong lễ tế thần ở sân đình. Các đào nƣơng dâng hƣơng, dâng rƣợu rồi dàn hàng ngang hai bên hƣơng án cùng hát múa, trong khi bốn con vật thiêng đƣơc hóa trang do bốn kép thủ vai múa vòng xung quanh sân đình. [17] 1.2.4.3. Hát thi Hát thi đƣợc tổ chức ở cửa đình, là lối hát để khảo sát tài năng của đào kép. Vào mùa xuân, các làng sung túc, giàu có thƣờng mở hội và mở cuộc thi ở cửa đình để chọn đào hay, kép giỏi. Các cô đầu có thể đỗ hoặc không đỗ trong Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 28
  29. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch các cuộc thi ở cửa đình, nhƣng phải qua cuộc thi này họ mới đƣợc công nhận là ngƣời biết hát ca trù, mới trở thành một cô đầu chính thức. Hát thi thƣờng qua 4 giai đoạn là: Vãn, Chầu thi, Chầu cầm, Thi lại. Vãn là hát sơ khởi, đào hát vài câu Gửi thƣ hoặc Thổng Thiên thai; kép hát vài câu thơ để ban giám khảo chọn vào Chầu thi. Chầu thi gồm 28 thể, Chầu cầm gồm 17 thể, trong đó có thể Làm trò vui (làm trò). Trong Chầu thi và Chầu cầm có những thể dành riêng cho đào, thể dành riêng cho kép, thể dành cho đào và kép cùng hát. Thi lại để ban giám khảo cân nhắc chính xác để định giải. Thông thƣờng hát thi gồm 10 giải, có nơi lấy thêm 4-5 giải khuyến khích. Ngƣời đoạt giải nhất gọi là Thủ khoa và giải nhì gọi là Á nguyên. Theo thƣ tịch cổ, kết hợp với sự khảo cứu của các học giả, có các trƣờng hợp thi trong hát ca trù nhƣ sau: Thứ nhất: Thi giữa các giáo phƣờng với nhau để chọn đào kép hay nhất vào hát thờ ở cửa đình, phục vụ lễ hội địa phƣơng (cuộc thi do Hội đồng chức sắc địa phƣơng tổ chức); Thứ hai: Cuộc thi do Ty giáo phƣờng tổ chức để chọn lấy đào kép hay để phục vụ hát chúc hỗ trong các khánh tiết của nhà nƣớc; Thứ ba là cuộc sát hạch do giáo phƣờng tổ chức để công nhận ngƣời đào nƣơng đã đạt đến trình độ đƣợc phép hành nghề (gọi là lễ mở xiêm áo). Những ngƣời thi đỗ sẽ đƣợc hát chính thức trƣớc điện thờ, còn những ngƣời không trúng đều đƣợc làng phát tiền phấn sáp hoặc tiền trầu cau để vui vẻ ra về. Xem thế đủ biết lệ thi hát ở những làng xã ngày xƣa là một dịp so tài sắc vui vẻ thu hút sự tham gia của đông đảo các giáo phƣờng xa gần. 1.2.5. Khế ước và điều luật của Ca trù 1.2.5.1. Vấn đề tổ chức giáo phường Mô hình giáo phƣờng bao gồm giáo phƣờng cung đình và giáo phƣờng dân gian - chính thức đƣợc sách vở ghi chép lại chỉ có thể bắt đầu từ thời Lê. Vào đầu thời Lê có các cơ quan biểu diễn nhạc vũ thuộc triều đình gồm Ty Giáo phƣờng, Thự Đồng văn, Thự Nhã Nhạc, Sở Ca vũ, Sở Húy thuật, Xiếc, Múa Chiêm, Múa rối, đều là nha môn thuộc Thái thƣờng tự. Hai Thự Đồng văn và Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 29
  30. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Nhã nhạc chuyên trách nhạc vũ cung đình, dùng để trình diễn vào những dịp quan trọng, riêng giáo phƣờng là cơ quan chuyên trách nắm giữ tục nhạc (âm nhạc dân gian), là nơi thu thập, chỉnh lí, biểu diễn và truyền bá nhạc vũ dân gian. Nhƣ vậy vào đầu thời Lê, tổ chức giáo phƣờng cung đình đã chính thức đƣợc thành lập và đƣợc gọi là Ty giáo phƣờng. Thời Nguyễn trong cung đình không đặt Ty giáo phƣờng, cũng không thấy nói tới một cơ quan nào khác chịu trách nhiệm sƣu tầm, lƣu giữ, biểu diễn nhạc vũ dân gian nhƣ Ty giáo phƣờng thời Lê. Vì vậy, mà luật lệ điển chế thời Nguyễn không có quy định gì về hoạt động nhạc vũ trong dân gian, các khoản thuế ở thời Nguyễn không còn nhắc tới thuế cửa đình. Có lẽ giáo phƣờng dân gian thời kì này hoạt động không chịu sự quản lí về mặt hành chính của nhà nƣớc nữa mà hoàn toàn theo tính chất phƣờng hội. 1.2.5.2. Quyền lợi của giáo phường và việc mua bán các quyền lợi Giáo phƣờng là một tổ chức có vai trò quan trọng, chính vì vậy mà tổ chức này sẽ đƣợc hƣởng những quyền lợi nhất định trong các cuộc lễ. Đây là vấn đề chính mà các văn khế đều đề cập đến. Tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện trách nhiệm và quyền lợi của giáo phƣờng cũng nhƣ các làng xã thƣờng không suôn sẻ, giáo phƣờng ở thời kì hoàng kim của nó cũng đã gây nhiều phiền nhiễu rắc rối cho làng, họ có thể hạch sách làng hoặc ngƣời mời về chuyện tiền nong cỗ bàn, ngăn cấm giáo phƣờng nơi khác đến địa bàn của mình biểu diễn, cho dù bản thân họ không đáp ứng đƣợc yêu cầu của làng. Chính vì vậy, triều đình phải đặt điều lệ, quy định rất chi tiết từ lệ tiền trù đến lệ xông đình cùng các mức độ xử phạt đối với những trƣờng hợp làm trái. Nhìn chung, việc tổ chức giáo phƣờng đƣợc hình dung nhƣ sau: các đào kép đƣợc tổ chức thành các giáo phƣờng. Nhiều giáo phƣờng đƣợc đặt dƣới sự quản lý của Ty giáo phƣờng. Theo ghi chép của các văn bia thì Ty giáo phƣờng là một tổ chức quản lý hoạt động ca xƣớng tƣơng đƣơng cấp huyện. Giáo phƣờng các xã thuộc về Ty giáo phƣờng của huyện. Ty giáo phƣờng huyện quản lý hoạt động của các giáo phƣờng các xã trong huyện. Mỗi huyện thƣờng có một Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 30
  31. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Ty giáo phƣờng. Ngƣời đứng đầu Ty giáo phƣờng là một ông trùm. Ty giáo phƣờng phân chia việc giữ các cửa đình trong huyện cho các giáo phƣờng. Việc giữ này đƣợc truyền từ đời này sang đời khác. Theo đó các giáo phƣờng này đƣợc phép toàn quyền biểu diễn tại đình làng này, hoặc đƣợc phép tuỳ ý mời giáo phƣờng khác đến hát giúp trong những ngày tiệc của làng và hƣởng quyền lợi. Đặc biệt là giáo phƣờng sẽ đƣợc hát trong lễ xông đình trong dịp hoàn thành công việc tu tạo sửa chữa đình làng. Ngƣợc lại, giáo phƣờng cũng phải có một số trách nhiệm đóng góp vào các nghi thức hát xƣớng tế lễ của làng, theo mức độ quy định giữa làng xã sở tại với giáo phƣờng. Quyền lợi của giáo phƣờng đƣợc xác định bằng một tấm bia đá đặt trang trọng ngay trƣớc cửa đình làng mà giáo phƣờng đƣợc quyền hƣởng lợi. Việc giữ cửa đình này đƣợc truyền từ đời này sang đời khác, tuy nhiên nếu cần tiền để lo việc quan hoặc để chi dùng các việc, giáo phƣờng có thể sang nhƣợng lại quyền này cho quan viên trong chính làng xã có đình, từ đó làng xã này không phải trả tiền cho giáo phƣờng nhƣ quy định trƣớc đó nữa. Việc soạn văn bản sang nhƣợng, mua bán các lệ hát cửa đình phần lớn đều do các giáo phƣờng và quan viên làng xã có đình thực hiện, không ghi rõ tên ngƣời soạn bia, nhƣng có xác nhận của các bên với họ tên và chức vụ rõ ràng. Có 3 văn bia ghi rõ soạn giả soạn bản giao kèo về việc sang nhƣợng quyền giữ cửa đình do các Tiến sĩ soạn. Đó là TS. Phan Lê Phiên soạn 1 bia, TS. Đào Hoàng Thực soạn 2 bia. Những tƣ liệu văn bia về hát cửa đình với lƣợng thông tin phong phú cho thấy trong suốt thời gian lịch sử dài lâu (ít nhất là từ năm 1672) đông đảo nhân dân đã yêu thích ca trù, coi việc thƣởng thức ca trù nhƣ một nhu cầu văn hóa, và quan trọng hơn, việc biểu diễn ca trù đã đem lại nguồn lợi kinh tế cho cả ngƣời nghệ sĩ dân gian lẫn các nhà tổ chức. [11] Bên cạnh đó còn có những qui định về lệ tiền trù (trù tiền), còn đƣợc gọi là tiền xƣớng trù (xƣớng trù tiền). Đây là khoản tiền trả mỗi ngày cho giáo phƣờng tham gia hát xƣớng trong lễ tế, khoản tiền này tùy thuộc theo thỏa thuận Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 31
  32. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch của hai bên, thƣờng là từ một hai quan trở lên, đi kèm theo nó là cỗ bàn bao gồm xôi gà, rƣợu thịt, trầu cau. Ngoài lệ tiền trù ra còn có nhiều lệ khác nhƣ lệ về tiền lệnh (tức là tiền trả cho ngƣời cầm hiệu lệnh trong tế lễ - đánh chiêng trống làm hiệu lệnh), tiền trùm (tiền trả cho ngƣời trùm), tiền trí tịch (tiền đặt tiệc hát sau khi đã tiến hành tế lễ), tiền nhiêu trù (tiền các chầu hát thêm), tiền thƣởng lệ khảo thí Đặc biệt còn có lệ xông đình, ngôi đình thuộc sở hữu của giáo phƣờng nào thì giáo phƣờng đó tham gia làm lễ và đƣợc hƣởng lợi từ công việc đó. 1.2.5.3. Những nét đẹp nhân văn của giáo phường xưa Xã có thể có một hoặc nhiều giáo phƣờng. Mỗi giáo phƣờng là một họ riêng. Đứng đầu họ là một ông trùm họ. Ngƣời thuộc về họ nào, lấy chữ họ đó đặt lên trƣớc tên mình. Ví dụ tên là Thuận mà thuộc về họ Thịnh thì gọi là Thịnh Thuận. Lối gọi này chỉ dùng trong giáo phƣờng với nhau. Những văn bia này đã cung cấp cho chúng ta một tƣ liệu quý về sinh hoạt và quan hệ giữa các cá nhân và có thể coi là một nét đẹp trong một giáo phƣờng ca trù thời trƣớc. Giáo phƣờng ca trù xƣa còn tôn vinh tri ân ngƣời có công truyền nghề. Việc thờ kính thầy dạy rất đƣợc xem trọng. Trò coi thầy nhƣ cha mẹ, “sống tết, chết giỗ”. Những ả đào già có tài thƣờng dạy dỗ đƣợc nhiều học trò thành nghề và rất đƣợc kính trọng. Mỗi khi các học trò đi hát đƣợc trả tiền công vẫn thƣờng trích ra một khoản tiền để góp với giáo phƣờng cung dƣỡng thầy. Đây cũng là một nét đẹp nhân văn của một giáo phƣờng ca trù, vừa tôn vinh nghề tổ, vừa thành kính tri ân ngƣời có công gây dựng nghề cho giáo phƣờng. Giáo phƣờng ca trù ở nông thôn hoạt động bán chuyên nghiệp. Họ là những ngƣời nông dân vẫn phải lo việc đồng áng, chăn tằm dệt cửi. Họ đƣợc cha mẹ hoặc các đào kép lớn tuổi trong “họ” dạy dỗ về nghề. Ngƣời trong giáo phƣờng đều phải tuân thủ các phong tục và luân lý trong làng trong họ. Họ không đƣợc phép làm những việc bất chính. Nếu vi phạm, họ bị các bậc cao niên và ngƣời Quản giáp luận tội và bắt phạt, thậm chí đến bị đuổi ra khỏi giáo phƣờng và thông báo cho các giáo phƣờng khác biết để không giáo phƣờng nào Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 32
  33. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch cho vào nữa. Việc đi hát ở các đình miếu bao giờ cũng do ngƣời Quản giáp cắt đặt, và thƣờng là chồng đàn vợ hát, anh đàn em hát, bố đàn con hát. Đối với giáo phƣờng, tất cả các công việc nhƣ lễ tế tổ hàng năm, các lệ kiêng tên tổ ca trù, việc thờ thầy, việc chia tiền hát, lệ mở xiêm áo để công nhận một cô đào bắt đầu đƣợc hành nghề đều đƣợc tổ chức và tuân thủ nghiêm ngặt và tự nguyện. Chính cách tổ chức giáo phƣờng nhƣ thế đã tạo nên những nét đẹp nhân văn của giáo phƣờng, khiến cho đào kép ngày xƣa rất đƣợc cộng đồng làng xã trân trọng và kính nể. Ca trù còn lại đƣợc đến hôm nay chính là nhờ các đào kép xƣa đã từng sống trong các giáo phƣờng nhƣ thế truyền lại. 1. 3. Giá trị của Ca trù 1.3.1. Giá trị lịch sử Ca trù là một bộ môn nghệ thuật đƣợc hình thành từ rất lâu đời. Điều đó đƣợc chứng minh trong các chứng tích cổ còn lƣu giữ lại đƣợc trong các bức chạm cổ ở nhiều ngôi đình của nƣớc ta hiện nay Lịch sử Việt Nam cho biết trong các thời đại Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn đã có những hoạt động nghệ thuật dân gian nhƣ nhảy, múa, ca hát, bơi thuyền Ca trù có thể là một bộ phận nghệ thuật ca múa song song với các môn ca múa khác với những “nghệ sĩ dân gian” tụ họp lại thành phƣờng hội do những yêu cầu nghiệp vụ. Đến đời Lí, Nhà nƣớc trung ƣơng Thăng Long đặt ra chức “quản giáp” để quản lí các phƣờng hát múa dân gian, qua đó tuyển chọn những ngƣời hát hay múa giỏi vào phục vụ cho triều đình. Qua các triều đại, ca trù ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Ca trù không chỉ phát triển và thịnh hành trong cung đình mà nó còn ăn sâu vào phong tục, nghi lễ của con ngƣời trong đời sống hàng ngày. Có thể nói ca trù từ dân gian vào trong cung đình tiếp nhận lấy những cái gì cần lấy rồi trở lại với dân gian phong phú thêm, nên càng “thịnh hành” thêm. Không những thế, với đà phát triển không ngừng của nền âm nhạc nƣớc nhà, ca trù ngoài giáo phƣờng mỗi ngày có thêm một xoang điệu mới. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 33
  34. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Trong hồ sơ đệ trình UNESCO, Ca trù đã đƣợc đánh giá nhƣ sau: “Ca trù đã trải qua một quá trình phát triển ít nhất từ thế kỷ 15 đến nay, đƣợc biểu diễn trong không gian văn hóa đa dạng gắn liền, ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Ca trù thể hiện một ý thức về bản sắc và sự kế tục trong nghệ thuật biểu diễn, có tính sáng tạo, đƣợc chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua các tổ chức giáo phƣờng”. [16] Từ nhân dân mà ra, gắn liền với lịch sử nƣớc nhà, ca trù đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài từ khoảng thế kỉ thứ 15 tới nay, đã đƣợc nhân dân ta vô cùng ƣa thích. Không phải ca trù đi sâu vào xã hội Việt Nam từ làng xóm nông thôn đến triều đình vua chúa chỉ vì nó đã đạt đƣợc những đỉnh cao về nghệ thuật, mà còn vì phần nội dung tƣ tƣởng phản ánh đầy đủ mọi góc độ của bản sắc dân tộc Việt Nam trong nó: lạc quan, nhân ái, rất nhạc, rất thơ, yêu cuộc sống yên lành, bình dị, nhƣng tràn đầy tự hào dân tộc, kiên cƣờng đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc thân yêu đến cùng. Cũng chính vì nội dung tƣ tƣởng lành mạnh đó mà trong ca trù có đầy đủ các thể loại văn học: trữ tình lãng mạn, anh hùng ca, sử thi, thơ ca giáo huấn (giảng kinh truyện, khuyên đạo đức) Đó là điều mà tất cả các môn nghệ thuật ca hát khác nhƣ tuồng, chèo, ca Huế, quan họ không so sánh nổi với ca trù. Từ thời Lê mạt tới hết thời nhà Nguyễn, lịch sử Việt Nam có nhiều biến động lớn, tác động mạnh mẽ và đa dạng đến tâm tƣ tình cảm từng ngƣời dân nƣớc ta. Điệu Hát Nói của ca trù, từ thời hát giai thời cổ phát triển lên, kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển nội tâm của con ngƣời cá thể, và mỗi ngày một thêm hoàn chỉnh về giai điệu, nhuần nhuyễn tinh vi về lời hát, lời thơ, đã trở thành một một bộ phận văn học vô cùng quý báu của nƣớc nhà. Có lẽ trong các lối hát và ngâm vịnh cổ truyền Việt Nam hiếm có một lối hát nào lại xâm nhập sâu rộng hầu hết các sinh hoạt văn hóa tinh thần nhƣ là lối hát ca trù. Có thể nói, nghệ thuật ca trù trải mấy trăm năm, cả Thần và Ngƣời đều chuộng. Ở nơi đình miếu, đền đài thâm nghiêm các vị thần thánh nghe hát trong hƣơng trầm đƣợm tỏa, trong sự sùng phụng của con dân. Trƣớc khi dâng Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 34
  35. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch lên các vị thần thì các chức sắc địa phƣơng cũng đã nghiêm trang thẩm định để chọn ra những đào hay kép giỏi, để những đào kép giỏi nhất dâng thần khúc hát tuyệt kỹ. Sau này khi Thien chúa giáo du nhập vào nƣớc ta, nơi giáo đƣờng thênh thang uy nghiêm, Đức Chúa cũng nghe những lời xƣng tụng của con chiên thành kính qua nhữngg bài bản độc đáo của Ca trù. Trong dân gian, mỗi khi khao vọng, cho dù là khao thọ, khao thi đỗ, khao đƣợc thăng chức, hay khai trƣơng cửa hiệu, hoặc mừng đón nhau về hoặc mừng tiễn nhau đi đều vời đến đào kép ca trù, tùy việc tùy duyên mà thƣởng ngoạn câu thơ khổ phách cung đàn. Hay những khi thƣ thả việc công, những khi buồn thế thái nhân tình, hoặc câu chuyện tình duyên gặp khi trắc trở, ai đó lại đến một ca quán vịn vào tiếng hát, tiếng thơ, tiếng tơ, nhịp phách ca trù, để sẻ chia tâm sự, để hoà mình vào thế giới nội tâm sâu thẳm của những tri âm, để hào hứng dốc sạch túi tiền vào một cuộc hát mà thƣởng cho một ngón nghề tài hoa Có thể nói ca trù đã đồng hành cùng tâm hồn Việt, trải biết mấy thăng trầm cùng lịch sử vẫn lại đang về tìm lại chỗ đứng trong đời sống văn hóa văn nghệ phong phú đa dạng hôm nay. 1.3.2. Giá trị văn hóa nghệ thuật Với hai từ nghệ thuật, ngƣời ta thƣờng ghép vào những hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nhƣ nghệ thuật chính trị, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật kinh doanh, nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật sân khấu Ai cũng biết nghệ thuật văn hóa trong mỗi âm thanh nhạc khí, mỗi giai điệu, ngữ điệu, mỗi âm từ, mỗi màu sắc, mỗi hình tƣợng trƣờng đoản, mỗi động tác, mỗi con số, đạo cụ đều có ngôn ngữ riêng. Nói đến nghệ thuật ca trù, đã nhiều nhà nghiên cứu nói và viết: Ca trù mang tính hàn lâm và bác học. Trong ca trù, từ nội dung lời ca, lối múa và âm thanh nhạc khí của ca trù là môn nghệ thuật đọc thơ, đọc phú, ngâm vịnh, từ lề lối hát và động tác múa của đào nƣơng, với phối khí của nhịp phách ba lá, đan lẫn năm cung đàn đáy, năm khổ trống chầu. Tất cả âm thanh tƣợng hình ấy, đều mang tải tâm hồn trong mỗi câu thơ, mỗi bài phú của một hay đồng tác giả cụ thể nào đó. Đào - Kép hát Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 35
  36. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch múa thể hiện bằng nhấn nhá, luyến láy, buông chữ, nhả chữ, không đƣợc sai âm, méo từ, và không đƣợc thêm vào hay bớt đi một chữ nào, nhƣ các lối dân dã khác đệm thêm “ấy nấy”, “bây giờ”, “để mà” đan lẫn vào trong các câu thơ. Dù ca trù có đôi âm từ muốn nhấn thêm, Đào nƣơng có láy lại, nhƣng cũng rất ít. Những bài ca trù chủ yếu mang tải nội dung ca ngợi nghĩa cao đức cả, hay giáo huấn khuyến dụ lối sống nhân văn hoặc kích cảm mơ mộng cái Thiện, cái Mỹ, trƣớc thiên nhiên và cộng đồng, nhƣ mục đích yêu cầu trongThần phả, Thần sắc, nơi có đền thờ Tổ nghề đã nói ở trên là dạy cho trăm họ đức nghĩa chu toàn, khoan dung hòa hợp, kính cẩn sửa mình trong sạch, quyết đoán thông minh, dũng cảm vì dân vì nƣớc. Nhƣ vậy “nghệ thuật ca trù, là cái nghề tận dụng năng khiếu của thanh đới thiên bẩm và dày công luyện rèn cả cánh tay, ngón tay sao cho uyển chuyển khéo léo hết mình, bỏ thêm than, thổi thêm lửa, hâm thêm nóng, với lồng ngực căng phồng tim phổi, dồn sức nén hơi, đẩy bật dâng trào, ngút ngàn hƣơng vị, vào một vật thể có xƣơng, có thịt, bằng chữ, bằng câu, mà nhà thơ đã sàng lọc, giũa gọt sắp xếp sẵn, khích lệ ai đó dù khó tính, giàu mơ mộng hay sống khô khan cũng phải đắm chìm vào say sƣa thƣởng thức. Hay nói nghệ thuật ca trù là phƣơng tiện chắp cánh cho thơ, gắn thêm kim tuyến cho lời, thổi thêm lửa tình cho chữ, tạo cho thơ bay thêm cao, liệng thêm xa, rải rợp đƣờng hoa, lấp la lấp lánh. [7 ; 54-57] Do đó, nói đến nghệ thuật ca trù, trƣớc tiên phải nói đến những câu thơ sâu lắng và ý tình, từ hiện thực cảnh vật sống động, chứa đựng trong nội dung bài thơ ấy. Để tạo ra tiếng ca, tiếng nhạc độc đáo làm nên nghệ thuật ca trù thì cần phải có: một là Thơ, hai là Hát, ba là Phách, bốn là Đàn đáy, năm là Trống chầu. Có thể nói không có nghệ thuật nào của Việt Nam có tính quy chuẩn, nguyên tắc, tính bài bản nhƣ ca trù. Một mặt nữa đó là nghệ thuật mà trên thế giới không có: nhƣ cây đàn đáy không nƣớc nào có, phƣơng pháp đánh trống chầu trong ca trù không nƣớc nào có, một nghệ thuật đào nƣơng vừa hát vừa gõ Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 36
  37. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch phách không nƣớc nào có. Theo giáo sƣ Trần Văn Khê, Ca trù thực sự là một hình thức độc lập, sáng tạo riêng biệt của quá trình lịch sử. [3] Cái bất ngờ nhất là càng tìm hiểu sâu thì mới thấy ca trù thực sự là hình thức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam. Ca trù bao hàm rất nhiều hình thức nghệ thuật trong đó có nghệ thuật ca hát, nghệ thuật múa và nghệ thuật trình diễn. Một điều nữa là ca trù thực sự là nghệ thuật âm nhạc của ngƣời Việt Nam sáng tác, nó không vay mƣợn. Cái hay của loại hình nghệ thuật này còn ở chỗ bản thân ca trù có sự dịch chuyển rất mạnh mẽ, từ hát ở cửa đình ra sinh hoạt đời thƣờng, hát khao vọng, hát mừng lên lão, rồi nó ra ca quán hát cho các nhà văn, nhà thơ nghe. Vẻ đẹp của ca trù là vẻ đẹp của âm thanh đã chuốt thành những chuỗi ngọc lung linh mà ngƣời hát trao cho ngƣời nghe hát, cũng đồng thời là những ngƣời làm ra các bài thơ đó, lại cũng là ngƣời phẩm bình, chấm điểm tiếng hát, tiếng phách ấy. Chính vì vậy mà Ca trù xứng đáng là một di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại bởi nó là nghệ thuật có giá trị lịch sử lâu đời nhất, một không gian văn hóa rộng nhất với những quy chuẩn nghệ thuật cao nhất. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 37
  38. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Tiểu kết chƣơng 1 Trong chƣơng 1, đề tài đã đi sâu làm rõ nhằm đem lại một cái nhìn tổng quan về nghệ thuật Ca trù của Việt Nam, từ lịch sử hình thành và phát triển đến những đặc trƣng nghệ thuật cũng nhƣ những giá trị của ca trù , tất cả đều nhằm khẳng định rằng đây là một di sản văn hóa quí báu mà ông cha ta đã để lại cần phải đƣợc các thế hệ mai sau tiếp tục giữ gìn, bảo tồn và phát huy. Và khai thác nghệ thuật ca trù một cách hiệu quả trong phát triển du lịch cũng là một biện pháp quan trọng góp phần bảo tồn và giới thiệu sâu rộng hơn nữa loại hình nghệ thuật đặc sắc này đến với công chúng trong và ngoài nƣớc. Hải Phòng tự hào có 2 câu lạc bộ Ca trù vẫn đang hoạt động thƣờng xuyên đều đặn, đóng góp vào việc lƣu giữ vốn cổ của dân tộc trong tổng số 22 câu lạc bộ Ca trù trên cả nƣớc hiện nay. Đó là Câu lạc bộ Ca trù Hải Phòng và Câu lạc bộ Ca trù Đông Môn, thuộc xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên. So với Câu lạc bộ Ca trù Hải Phòng, Câu lạc bộ Ca trù Đông Môn có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời hơn, còn lƣu giữ đƣợc truyền thống nghề sâu sắc của một thời kỳ có tổ chức giáo phƣờng hoạt động chuyên nghiệp và mạnh mẽ. Đó cũng là một trong số ít những nơi còn lƣu giữ đƣợc dấu tích của đình thờ tổ nghề Ca công và những bài bản làn điệu tƣơng đối cổ. Vì thế, Ca trù Đông Môn hoàn toàn có đủ điều kiện để đƣa vào khai thác phục vụ phát triển du lịch, đóng góp vào ngân sách du lịch chung của toàn thành phố Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 38
  39. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch CHƢƠNG 2: TÌM HIỂU VỀ NGHỆ THUẬT CA TRÙ ĐÔNG MÔN - THỦY NGUYÊN - HẢI PHÒNG 2.1. Vài nét về huyện Thủy Nguyên - Hải Phòng 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Thủy Nguyên là huyện thuộc miền duyên hải Hải Phòng, nằm trong tọa độ 20º55’ vĩ độ bắc, 106º45’ kinh đông, có diện tích 242 km². Hiện nay huyện Thủy Nguyên có 37 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn: Minh Đức, Núi Đèo và 35 xã. Vùng đất nơi đây đã đƣợc hình thành từ rất lâu, xƣa đƣợc gọi là Nam Triệu Giang, nằm trong vùng An Biên do nữ tƣớng Lê Chân cai quản, sau gọi là huyện Thủy Đƣờng thuộc phủ Tân An Châu - Đông Triều. Đến triều vua Duy Tân thời Nguyễn (1908) đổi tên là huyện Thủy Nguyên thuộc tỉnh Kiến An, sau đó sát nhập vào Hải Phòng. Từ lịch sử xa xƣa, Thủy Nguyên là nơi trung gian quá cảnh đi nhiều vùng miền khác nhau bằng cả đƣờng bộ lẫn đƣờng thủy. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp với huyện Kinh Môn (Hải Dƣơng), phía Nam giáp với quận Hải An và nội thành Hải Phòng, phía Đông nhìn ra cửa biển và cửa Nam Triệu. Chiều dài của huyện từ Bến Đụm (đập Phi Liệt) đến Bến Rừng (Tam Hƣng) là 31 km, chiều rộng từ Bến Bính đến Cầu Đá Bạc dài khoảng 17 km. 2.1.1.2. Địa hình Thủy Nguyên là huyện ven biển ở vào vị trí chuyển tiếp của 2 vùng địa lí tự nhiên lớn là châu thổ sông Hồng và vùng đồi núi Đông Bắc. Địa hình Thủy Nguyên gồm các dạng: * Địa hình có núi đá vôi xen kẽ: Dạng địa hình này nằm ở phía Bắc huyện gồm địa hình núi đá vôi, đồi núi đất chạy từ An Sơn qua xã Lại Xuân, Liên khê, Lƣu Kiếm, Minh Tân, Gia Minh, Gia Đức và Minh Đức. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 39
  40. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch * Địa hình đồng bằng: Đồng bằng trung tâm huyện gồm các xã Kiền Bái, Mỹ Đồng, Thủy Sơn có lƣợng phù sa lớn thích hợp cho việc trồng lúa, hoa màu và cây ăn quả, độ cao trung bình của bề mặt thƣờng từ 0, 2- 0, 8m. * Đồng bằng ven sông: Đây là vùng đồng bằng mới đƣợc bồi tụ, thƣờng bị ngập nƣớc của các xã Hoàng Động, Hoa Động, Lâm Động, Tân Dƣơng, Phục Lễ, Phả Lễ, An Lƣ, Thủy Triều thuận lợi cho nền nông nghiệp phát triển. * Vùng cửa sông ven biển: Nét khác biệt đặc trƣng cho dải đất ven biển huyện Thủy Nguyên là các bãi lầy đƣợc tạo thành từ một lớp phù sa và bùn nhão, ở bề mặt thƣờng có màu phớt hồng. Đây là môi trƣờng thuận lợi cho việc phát triển hệ động thực vật phong phú và rừng ngập mặn. 2.1.1.3. Khí hậu Khí hậu Thủy Nguyên mang tính chất nhiệt đới nóng ẩm gió mùa, do sự chi phối của hoàn lƣu gió mùa Đông Nam Á, đặc biệt là không khí cực đới nên khí hậu ở đây chia làm 2 mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình năm là 23ºC, độ ẩm 82- 85%. 2.1.1.4. Tài nguyên nước Trên bản đồ Hải Phòng, huyện Thủy Nguyên nhƣ một ốc đảo bao bọc xung quanh và cả trong lòng huyện là mạng lƣới sông ngòi dày đặc, có sông nƣớc ngọt, sông nƣớc lợ, sông nƣớc mặn ngay sát biển. Toàn bộ huyện nằm trong vòng ôm của những dòng sông, phía Tây là sông Hàn, phía Bắc là sông Đá Bạc, phía Đông là sông Bạch Đằng (sông Rừng), phía Nam là Sông Cấm, nằm ngang huyện là hồ Sông Giá thơ mộng. 2.1.1.5. Tài nguyên động thực vật * Động vật : cho tới nay, trên vùng đất của Thủy Nguyên gần nhƣ vắng bóng động thực vật hoang dã. Đây là hậu quả của quá trình khai phá rừng hoang để mở rộng địa bàn cƣ trú và sản xuất của con ngƣời. Tuy nhiên, hiện nay ở Thủy Nguyên vẫn còn một số động vật tồn tại và phát triển, chúng thƣờng xuất hiện ở các dãy núi đá vôi nhƣ khỉ, dê, sơn dƣơng, trăn, rắn, tắc kè và các loại chim. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 40
  41. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Hiện nay huyện Thủy Nguyên đang triển khai kế hoạch phủ xanh đối trọc bằng cách trồng các loại cây có ích và thả các loài động vật hoang dã để giữ cân bằng sinh thái. * Thực vật: Thủy Nguyên có khí hậu nhiệt đới gió mùa, bị chi phối mạnh bởi khí hậu của biển nên thực vật xanh tốt và sinh trƣởng mạnh mẽ quanh năm cùng với tính chất đa dạng của địa hình và cấu tạo địa chất đã tạo nên tính đa dạng các kiểu thực bì và phong phú về nguồn gen. 2.1.2. Điều kiện dân cư - kinh tế - xã hội Vùng đất Thủy Nguyên đƣợc hình thành từ rất sớm, dân cƣ sống tại vùng đất này đã xuất hiện từ rất xa xƣa. Theo điều tra dân số của huyện Thủy Nguyên đến năm 2010 có khoảng trên 30 vạn ngƣời. Thủy Nguyên là một trong những huyện có mật độ dân số cao của Hải Phòng với tỉ lệ 1, 70 ngƣời/km2. Từ xƣa tới nay khi nói tới con ngƣời Thủy Nguyên, ngƣời ta thƣờng nói tới trai tài gái sắc, thông minh duyên dáng nổi tiếng khắp vùng. Sự phong phú, đa dạng của địa hình tạo cho con ngƣời Thủy Nguyên có khả năng phát triển về mọi mặt, có thể khắc phục những khó khăn trong cuộc sống cũng nhƣ nhanh chóng thích nghi đƣợc với môi trƣờng sống hiện đại. Điều kiện đất đai, khí hậu đã giúp con ngƣời Thủy Nguyên không chỉ giỏi về làm nông nghiệp, nghề làm rừng, làm vƣờn, nghề chài lƣới mà còn thông thạo các nghề thủ công, thƣơng mại và máy móc công nghiệp. Nằm ở phía bắc của thành phố Hải Phòng, Thủy Nguyên đƣợc đánh giá là huyện có vị trí chiến lƣợc quan trọng về kinh tế, an ninh, quốc phòng. Với diện tích 242, 7 km² lớn nhất so với các quận huyện khác của thành phố, với 37 đơn vị hành chính. Thủy Nguyên là đầu mối giao thông quan trọng về đƣờng bộ, đƣờng sông, đƣờng biển. Trong phát triển kinh tế, Thủy Nguyên có tiềm năng lớn về phát triển ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển, khai thác chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng, nhiệt điện, phát triển đô thị hiện đại và dịch vụ thƣơng mại, du lịch nuôi trồng và khai thác thủy sản. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 41
  42. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Trong những năm qua, đảng bộ, quân và dân huyện Thủy Nguyên đã nỗ lực phấn đấu đạt đƣợc những kết quả quan trọng và khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hƣớng, giảm dần tỉ trọng nhóm ngành nông nghiệp, tăng tỉ trọng nhóm ngành công nghiệp, xây dựng, thƣơng mại và dịch vụ. Kinh tế tăng trƣởng liên tục và luôn ở mức khá cao. Kinh tế - xã hội, nhất là hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng nông thôn, các công trình phục vụ sản xuất đƣợc quan tâm đầu tƣ, việc quản lí đất đai, xây dựng có chuyển biến tích cực, tốc độ đô thị hóa khá nhanh. Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa thông tin, thể dục thể thao từng bƣớc xã hội hóa, phát triển khá nhanh cả về quy mô, chất lƣợng đạt nhiều thành tựu xuất sắc. Những vấn đề xã hội nhƣ xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo các chính sách xã hội đƣợc chú trọng. Thủy Nguyên hôm nay đang từng bƣớc thay da đổi thịt nhờ những chính sách đổi mới phù hợp với đội ngũ lãnh đạo năng động, dám nghĩ dám làm. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bƣớc đƣợc cải thiện và nâng cao, tƣ tƣởng quần chúng ổn định, tin tƣởng vào đƣờng lối đổi mới của Đảng và sự lãnh đạo của huyện. 2.1.3. Tài nguyên du lịch huyện Thủy Nguyên 2.1.3.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên Tài nguyên du lịch tự nhiên của Thủy Nguyên phong phú, đa dạng và hấp dẫn, đƣợc hình thành bởi đặc điểm tổng hòa của các yếu tố địa chất- địa hình, khí hậu, thủy văn, thảm thực vật và thế giới động thực vật. Với sự phong phú về tài nguyên này, huyện Thủy Nguyên có khả năng phát triển nhiều loại hình du lịch nhƣ: du lịch sinh thái, nghỉ dƣỡng, vui chơi giải trí, tham quan danh lam thắng cảnh, du lịch leo núi, du khảo đồng quê Có thể kể tên một số tài nguyên du lịch tự nhiên tiêu biểu của Thủy Nguyên nhƣ: Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 42
  43. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch * Khu du lịch sinh thái Hồ Sông Giá: Đẹp nhất và có tiềm năng du lịch lớn nhất là sông Giá. Sông Giá là một vùng cảnh quan thiên nhiên đẹp, không phải ngẫu nhiên ngƣời ta gọi con sông Giá là con sông giàu huyền thoại. Sông Giá là một chi lƣu của hệ thống sông Bạch Đằng, bắt nguồn từ sông Đá Bạc tại thôn Giao Dƣơng, xã Lại Xuân chảy qua các xã phía đông bắc huyện Thủy Nguyên rồi đổ ra sông Bạch Đằng ở khu Đầm De thị trấn Minh Đức. Sông Giá nằm giữa miền châu thổ ven Biển Đông, nơi tạo tác nền văn minh sớm của cƣ dân Lạc Việt. Ngàn năm trƣớc sông Giá hiền hòa góp phần hình thành “Hành lang văn hóa” của vùng đất Thủy Nguyên cổ kính, đỉnh cao là văn hóa Tràng Kênh, văn minh Đông Sơn. Đôi bờ sông Giá còn là một kho tàng văn hóa phong phú, là quê hƣơng của nhiều nhân tài, mặc khách, nơi gìn giữ phong tục tập quán lâu đời của quê hƣơng đất nƣớc. Hồ Sông Giá là vùng du lịch cảnh quan sinh thái bao gồm 3 khu vực chính, có mối quan hệ với nhau trong khai thác. Đó là: - Vùng lòng hồ Sông Giá có chiều dài 16, 5km từ đập Minh Đức đến đập Phi Liệt, chiều rộng trung bình từ 250-400m, diện tích mặt hồ là 6, 6km². - Vùng bờ phía Bắc hồ bao gồm các xã Minh Tân, Lƣu Kiếm, Liên Khê và thị trấn Minh Đức. Nơi đây có nhiều núi đá, hang động và danh thắng đẹp nhƣ Hang Vua, đền thờ Trần Quốc Bảo - Vùng phía nam hồ gồm các xã Ngũ Lão, Thủy Triều, Trung Hà, Hòa Bình với những đồi thấp ven hồ, những vƣờn cây ăn quả trù phú, có những địa danh nổi tiếng nhƣ Quán Đá, Bến Hà Tê, Chợ Giá, Chợ Chính Mỹ đã đi vào lịch sử địa phƣơng, từ đây có những tuyến đƣờng liên tỉnh, liên huyện, liên xã thuận tiện cho việc di chuyển và phát triển du lịch của huyện Thủy Nguyên. *Núi U Bò: “Tràng Kênh có núi U Bò Có sông Quán Giá, có đò sang ngang”. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 43
  44. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Đây là ngọn núi cao chừng 400m, nằm gần đền thờ Trần Quốc Bảo. Hình dáng của núi giống cái u của con bò nên đƣợc gọi là núi U Bò. Núi U Bò đứng sừng sững ngay bên bờ sông Bạch Đằng lịch sử. Tƣơng truyền đây là nơi Trần Hƣng Đạo đã đứng để chỉ huy trận thủy chiến chống quân xâm lƣợc thế kỉ XIII. Dƣới chân núi Hoàng Tôn, gần núi U Bò còn phần mộ và đền thờ Trần Quốc Bảo cách đây trên 700 năm. Đứng trên núi U Bò có thể nhìn bao quát toàn cảnh sông Bạch Đằng. Cách đây 4000 năm, nơi đây là xƣởng chế tác đồ trang sức của ngƣời xƣa. * Hang động: Trong quá trình hoạt động của vỏ trái đất đã ban tặng cho Thủy Nguyên một địa hình Karst trên cạn với nhiều hang động hấp dẫn và kỳ thú. Các hang động chủ yếu tập trung ở phía bắc huyện, trong đó còn rất nhiều hang động vẫn giữ đƣợc vẻ hoang sơ nhƣ thời kỳ ban đầu. Ở đây có nhiều hang động nổi tiếng nhƣ: hang Vua, hang Vải, hang Ma, hang Sộp, hang Sơn, hang Lƣơng, hang Đốc Tít Hầu hết các hang động ở đây đều có độ dài dƣới 200m, các hang động có độ dài lớn nhất cũng không vƣợt quá 500m. Vị trí của hang động thƣờng tập trung ở mức cao 4-6m, 15-20m, hoặc 30m, chiều rộng từ 5-10m, chiều cao từ 10-18m. Tuy kích thƣớc hang động không lớn nhƣng các hang động ở Thủy Nguyên lại có địa hình đẹp, nhiều thành tạo địa chất hấp dẫn, nhiều thạch nhũ. Bên cạnh đó các hang động ở đây thƣờng gắn liền với tên tuổi của các vị anh hùng dân tộc qua các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc. * Sông Bạch Đằng: Nói đến Thủy Nguyên trƣớc hết phải nói đến sông Bạch Đằng lịch sử, một tuyến đầu chống giặc ngoại xâm từ biển ở phía đông bắc của đất nƣớc ta. Sông Bạch Đằng ở phía Bắc của Hải Phòng, cách trung tâm thành phố 20 km. Dòng sông dài nhƣng tiếp giáp với biển nên cảnh sắc ở đây mênh mông hùng vĩ. Sông có tên là Vân Cừ hay sông Rừng, sông có địa thế thiên hiểm. Nơi đây Ngô Quyền (938), Lê Hoàn (981), Hƣng Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn (1288) đã đánh Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 44
  45. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch tan các đạo thủy binh lớn của giặc ngoại xâm bằng các bãi cọc đóng trên sông. Cọc lim - chiến tích của những chiến công lẫy lừng đó hiện còn lƣu giữ ở một bãi cọc tại bờ sông Chanh, thị xã Quảng Yên (tỉnh Quảng Ninh) cách bến Rừng 1km về phía Đông và một số đang đƣợc trƣng bày ở nhà bảo tàng thành phố Hải Phòng. Vùng quanh đó còn có những cái tên làng nhƣ Lƣu Kiếm (nơi giữ kiếm), Lƣu Kỳ (nơi giữ cờ), chùa Vẽ (nơi vẽ bản đồ quân sự), đền thờ Ngô Quyền, Hƣng Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Bảo và nhiều truyền thuyết lịch sử về các danh tƣớng lƣu truyền từ đời trƣớc sang đời sau, đều gợi nhắc về chiến công và quá khứ hào hùng của cha ông. Bên cạnh những tài nguyên du lịch tự nhiên, Thủy Nguyên còn là mảnh đất lƣu giữ nhiều chứng tích lịch sử của dân tộc với nguồn tài nguyên du lịch nhân văn không kém phần phong phú. 2.1.3.2. Tài nguyên du lịch nhân văn Tính đến nay, Thủy Nguyên có 5 Đền, 8 Chùa, 34 Đình, 2 Miếu và 1 Nghè, trong đó có 21 di tích lịch sử - văn hóa đƣợc nhà nƣớc công nhận, nhiều trong số đó là những nơi có thắng cảnh đẹp hấp dẫn, có thể khai thác phục vụ tham quan du lịch. Bên cạnh đó, Thủy Nguyên còn có một hệ thống lễ hội đặc sắc và làng nghề thủ công có truyền thống lâu đời, góp phần làm nên sự phong phú của tài nguyên du lịch nơi đây. Có thể kể đến một số tài nguyên du lịch nhân văn tiêu biểu của huyện nhƣ sau: a). Khu di tích lịch sử và danh thắng Tràng Kênh với các điểm du lịch: núi U Bò, hang Vua, sông Bạch Đằng, đền thờ Trần Quốc Bảo. Tràng Kênh thuộc huyện Thủy Nguyên, cách nội thành Hải Phòng 20km về phía Đông Bắc. Đây là quần thể đồi, núi đá vôi, hang động sông nƣớc, áng, hồ, muôn hình ngàn vẻ cảnh trí thiên nhiên giống nhƣ Vịnh Hạ Long nên ngƣời ta gọi là vùng “Hạ Long cạn”. Tại địa điểm Tràng Kênh, ngƣời ta phát hiện ra 3 ngôi mộ của ngƣời Tràng Kênh cổ. Trong 3 ngôi mộ kể trên thì có 2 ngôi mộ là mộ của ngƣời lớn và một mộ là trẻ em. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 45
  46. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Tràng Kênh có nhiều hang động kì thú, nổi tiếng là Hang Vua ở xã Minh Tân. Hang rộng 5 đến 18m, trần hang nhƣ nóc chuông nhà thờ, hang thông với nhiều ngách, có ngách tới 4 tầng, tầng hầm, tầng giữa cao từ 4 đến 6m, tầng tiếp theo cao từ 8 đến 10m cà tầng trên cùng cao từ 12 đến 15m. Trong hang có suối nƣớc quanh năm trong mát, gọi là Hang Vua vì theo tƣơng truyền cách đây trên 4000 năm vua Hùng thứ 18 đã lập mê cung ở đây. Hang Vua đầu thế kỉ XX đƣợc nghĩa quân Đốc Tít dùng làm căn cứ chiến đấu. Năm 1930, các đảng viên quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học đã hội họp ở đây. Năm 1940, chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên xã Minh Tân ra đời trong hang này và từ đó trong suốt 2 cuộc chiến tranh vệ quốc luôn là căn cứ kháng chiến của ta. Bao bọc phía đông Tràng Kênh là sông Bạch Đằng, còn dƣới chân núi Hoàng Tôn, gần núi U Bò, cách sông Bạch Đằng không xa là đền thờ tƣớng quân Trần Quốc Bảo. Đền thờ Trần Quốc Bảo là công trình tƣởng niệm về vị tƣớng của vƣơng triều Trần, cháu gọi vua Trần Nhân Tông (1279-1293) bằng ông. - ngƣời có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của dân tộc ta ở thế kỷ XIII. Đền nằm ở phía nam chân núi Hoàng Tôn, thôn Tràng Kênh thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên. Trong trận chiến Bạch Đằng năm 1288, Trần Quốc Bảo đã hy sinh anh dũng. Do vậy sau khi ông mất triều đình nhà Trần đã truyền cho nhân dân địa phƣơng vùng Tràng Kênh (nơi ông đóng quân và hy sinh) lập miếu thờ và truy phong làm thái tử. Các triều đại phong kiến tiếp theo đã thừa nhận công lao của Trần Quốc Bảo và suy tôn là “thƣợng đẳng phúc thần”, phong sắc “thành hoàng làng Tràng Kênh”. Lễ hội Trần Quốc Bảo (hay lễ hội Tràng Kênh) bắt đầu vào mồng 6 tháng giêng âm lịch và kéo dài đến 11 tháng giêng âm lịch. Đây là một lễ hội có quy mô lớn nhất ở huyện Thủy Nguyên, đƣợc duy trì và tổ chức đều đặn hàng năm, có sức lôi cuốn sự tham gia đông đảo của nhân dân địa phƣơng và các vùng lân cận. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 46
  47. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch b) Lễ hội Lễ hội truyền thống có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời dân. Các lễ hội cũng là một tiềm năng du lịch rất quan trọng, vì vậy cần chú ý đầu tƣ khôi phục và phát triển. Hầu hết các làng xã ở Thủy Nguyên đều có các ngày lễ hội riêng của mình. Xã Minh Đức có ngày lễ hội mồng 6 tháng giêng âm lịch cúng Trần Quốc Bảo, Xã Kiền Bái có lễ hội mồng 10 tháng 11 cúng thần làng, xã Lâm Động có hội chùa 17 tháng giêng, xã Thủy Đƣờng, Phà Ninh thƣờng làm cỗ đem lên đình, chùa, miếu để cúng. Đáng chú ý ở huyện Thủy Nguyên là một số lễ hội mang tính chất lớn tiêu biểu và có nhiều chất sinh hoạt văn hóa là Hội hát đúm và Hội mở mặt vào 4 - 10/ tháng giêng tại xã Lập Lễ, Phả Lễ, Phục Lễ (Hát đúm là Hát đối đáp Nam - Nữ); Hội Chùa Mĩ Cụ - xã Chính Mỹ vào 6/tháng giêng; hội Ca trù Ở Đông Môn, Hòa Bình vào 23 - 24/ tháng 9 âm lịch; hội hát trống quân vào ngày 10/11 âm lịch ở xã Kiền Bái; hội đền Lê Ích Mộc, hội du xuân ở nhiều làng xã c) Nghề và làng nghề thủ công Thủy Nguyên có một số nghề truyền thống nhƣ: đúc đồng, đúc gang, mây tre đan, nghề cói, thêu ren , mỗi nghề đều có lịch sử phát triển lâu dài và khá độc đáo. * Nghề đúc Nghề đúc ở xã Mỹ Đồng đã có cách đây 200 năm, bắt đầu ở thôn Phƣơng Mỹ. Vào năm 1918 - 1920, ở thôn Phƣơng Mỹ đã có tới hơn 20 lò đúc, những năm kháng chiến chống Pháp nghe theo tiếng gọi của Đảng, ngƣời dân Phƣơng Mỹ đã bí mật rèn vũ khí, các chi tiết máy in cho cách mạng. Dƣới sự chỉ đạo và quan tâm chặt chẽ của Nhà nƣớc, nghề đúc Thủy Nguyên đang phát triển mạnh. * Nghề gốm sứ Nghề này tập trung ở xã Minh Tân, qua các di chỉ khảo cổ Tràng Kênh ngƣời ta đã thu lƣợm hàng vạn mảnh gốm với nhiều hình thức trang trí chứng tỏ đây là một công xƣởng chế tác nhiều loại gốm với chất lƣợng cao. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 47
  48. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch Ngoài các sản phẩm chủ yếu nhƣ nồi, bình, bát, ấm, chén thì ngƣời dân nơi đây còn làm cả ngói lẫn phù điêu. Trải qua nhiều năm nhƣng sản phẩm gốm Minh Tân vẫn đƣợc nhiều ngƣời yêu thích. * Nghề mây tre đan Đây là một nghề cổ truyền của xã Chính Mỹ. Theo các cụ trong làng kể lại, khi xƣa đây là vùng núi rừng, tre vầu mọc rất nhiều, để phục vụ cho nhà nông, ngƣời dân trong làng đã tận dụng nguồn nguyên liệu này làm ra các sản phẩm nhƣ thúng, nong, nia theo các mẫu đan hình tròn, hình chữ nhật, xƣơng cá. Ngày nay nghề này vẫn đƣợc duy trì. Nhƣ vậy có thể thấy, huyện Thủy Nguyên có tài nguyên nhân văn khá phong phú và có giá trị du lịch cao. Đây là mảnh đất địa linh nhân kiệt đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc và đồng thời cũng là nơi lƣu giữ dấu vết của ngƣời cổ đại qua các di chỉ khảo cổ Tràng Kênh. Hơn nữa, Thủy Nguyên còn là vùng đất có nhiều lễ hội dân gian đặc sắc, là nơi tập trung của nhiều làng nghề thủ công truyền thống có sức thu hút khách du lịch. Tuy nhiên việc khai thác tiềm năng trên phục vụ du lịch còn rất hạn chế, các di tích lịch sử đƣợc khai thác phục vụ du lịch còn quá ít. Lí do chủ yếu là cơ sở hạ tầng kém, giao thông chƣa thuận tiện, mặt khác các di tích đang bị xuống cấp nghiêm trọng, có nơi còn bị đổ nát, một số đình chùa đƣợc tôn tạo nhƣng chƣa đảm bảo đƣợc tính chân thực của lịch sử và phong cách kiến trúc cổ Tuy nhiên với sự đa dạng và phong phú của cả tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, đồng thời với tình hình kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân ngày càng đƣợc cải thiện rõ nét đang từng bƣớc đƣa Thủy Nguyên trở thành một huyện phát triển nhất của thành phố Hải Phòng. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có sự quan tâm và đầu tƣ đúng hƣớng để du lịch của huyện ngày càng phát triển, xứng đáng với tài nguyên sẵn có của huyện. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 48
  49. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch 2.2. Khái quát về nghệ thuật ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên- Hải Phòng 2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ca trù Đông Môn Ngƣời dân Đông Môn, xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên (trƣớc là huyện Thủy Đƣờng, phủ Kinh Môn, lộ Hải Dƣơng) ngoài các sinh hoạt văn hóa, lễ hội nhƣ các làng quê khác còn có loại hình sinh hoạt văn hóa Ca trù tiêu biểu, khá phát triển với nhiều nghệ nhân nổi tiếng trong Tam phủ Bát huyện. Theo các tài liệu còn để lại và qua lời kể của các cụ xƣa thì ca trù Đông Môn ra đời từ thời Lê. Theo ngƣời dân địa phƣơng kể lại rằng: Các cụ xƣa có nói, ca trù ở đây đã bắt nguồn từ bốn anh em nhà họ Phạm ở trang Thủy Đƣờng, phủ Kinh Môn, lộ Hải Dƣơng, xƣa là Phạm Quang, Phạm Nghiêm, Phạm Huấn, và Phạm Thị Cúc Nƣơng. Cả bốn anh em đều theo Vua Lê Đại Hành đánh giặc. Sau khi chết dân làng đều lập đền thờ - Làng Ngọc Phƣơng (nay là thôn Thủy Tú, xã Thủy Đƣờng ) thờ Phạm Quang và Phạm Thị Cúc Nƣơng. Làng Nƣơng Kệ và Chiếm Phƣơng (nay thuộc xã Hòa Bình) thờ Phạm Nghiêm - làng Thƣờng Sơn (nay thuộc thị trấn Núi Đèo) thờ Phạm Huấn, là những ngƣời đầu tiên mang nghề ca trù về truyền bá ở khu vực này. Đó chỉ là truyền miệng, cũng có thể lối hát ca trù đã bắt đầu từ thời Tiền Lê, nhƣng thời kỳ này, ca trù có lẽ còn hòa lẫn với các hình thức ca nhạc dân gian khác chứ chƣa trở thành một bộ môn nghệ thuật độc lập và có âm luật riêng nhƣ từ thời Hậu Lê trở đi. Tuy nhiên, căn cứ trên những di tích còn lại có thể khẳng định rằng, làng Đông Môn, huyện Thủy Nguyên cũng là một trong những cái nôi phát tích của nghệ thuật Ca trù. Bằng chứng là ở làng Đông Môn, xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên hiện nay còn có đền thờ nhị vị tổ nghề Ca trù Đông Môn dựng từ thời Hậu Lê. Ngôi đền này thờ Đinh Dự hiệu Thanh Xà Đại Vƣơng (có ngƣời còn gọi là Đinh Lễ) cùng vợ là Bạch Hoa công chúa (Mãn Đƣờng Hoa công chúa, con gái ông Bạch Đình Sa, là quan châu phủ Thƣờng Xuân, Thanh Hóa). Có hai giả thuyết về hai vị Tổ nghề này. Giả thuyết thứ nhất, ông Đinh Dự và vợ đã tiếp thu nghệ thuật hát ca trù về Đông Môn lập giáo phƣờng và tổ chức truyền nghề cho con em trong làng cùng các làng, phủ lân cận. Chi tiết này có lẽ khó có thể Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 49
  50. Tìm hiểu nghệ thuật Ca trù Đông Môn - Thủy Nguyên - Hải Phòng và định hướng khai thác trong du lịch kiểm chứng, nhƣng thông qua câu chuyện truyền thuyết về vị Tổ nghề Ca trù cùng hệ thống những di tích thờ họ còn lại đến ngày nay trên khắp cả nƣớc đã đƣợc khảo sát trong phần đầu của chƣơng 1, có thể thấy rằng, chƣa chắc vợ chồng Đinh Dự đã từng đến Đông Môn và truyền nghề cho dân chúng địa phƣơng, nhƣng cũng nhƣ nhiều làng nghề ca trù và giáo phƣờng khác, ngƣời dân Đông Môn vẫn lập đền thờ họ để tri ân những vị Tổ nghề đã có công truyền lại câu ca tiếng phách tiếng đàn cho hậu thế. Và nhƣ thế, giả thuyết thứ hai nghe chừng có vẻ hợp lý hơn, nghe đồn hai vợ chồng họ Đinh ở Thanh Hóa khai sinh ra lối hát mới rất hay, ngƣời dân ở Đông Môn đã cử ngƣời vào đây học đàn, hát và về làng truyền lại cho con cháu. Nghề ca trù Đông Môn chính thức có từ thời đó. Tiếp theo hai ông bà Tổ nghề Đinh Dự và Bạch Hoa công chúa đƣợc cho là 2 ngƣời có công đặt nền móng đầu tiên cho nghệ thuật ca trù Đông Môn, thì sử sách và trí nhớ của các thế hệ nghệ nhân đời sau còn truyền tụng lại vai trò của ngƣời đã có công tiếp tục duy trì, phát triển và mở rộng loại hình nghệ thuật này ở Đông Môn là bà Chúa Sang (Phạm Thị Sang). Bà vốn là một đào hát nổi danh, nhờ tài sắc vẹn toàn đã đƣợc Chúa Trịnh Giang (1729 - 1790) phong làm Thứ Phi và cấp cho 10 mẫu ruộng lộc ở Đông Môn. Sau khi bà mất, do công lao của bà, giáo phƣờng đã tạc tƣợng và đƣa bà vào phối thờ trong ban thờ Mẫu chùa Đông Môn, tuy nhiên vào năm 1968, tƣợng bà đƣợc chuyển sang chùa làng Hà Phú bên cạnh. Sau bà Chúa Sang, có thể kể tên thế hệ nghệ nhân tiêu biểu tiếp theo của Đông Môn là ông Tô Tiến. Ông nổi tiếng đã tham gia các chầu sát hạch do Nhà nƣớc bấy giờ tổ chức và đều đạt bằng cấp cao, tiếp tục nối nghề và phát triển nghệ thuật ca trù, đƣợc giáo phƣờng phong làm Trùm trƣởng. Hiện còn bài vị, sắc phong (có niên đại cách đây khoảng 200 năm) cùng rất nhiều câu đối, hoành phi của giáo phƣờng đƣơng thời cũng nhƣ của các thế hệ giáo phƣờng nối tiếp ca ngợi công đức của ông, đang đƣợc lƣu giữ tại đền thờ ông của một trong hai chi họ giáo phƣờng của làng Đông Môn. Sinh viên: Phạm Thị Hồi - VH1101 50