Khóa luận Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_to_chuc_mo_hinh_du_lich_cong_dong_cua_nguoi_dao_ta.pdf
Nội dung text: Khóa luận Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] LỜI CẢM ƠN Trải qua 4 năm học và tu dƣỡng tại trƣờng Đại Học Dân Lập Hải Phòng, ngoài sự tự ý thức và cố gắng của bản thân em luôn nhận đƣợc sự giúp đỡ, động viên từ phía nhà trƣờng, gia đình, bạn bè. Nhân dịp hoàn thành khoá luận tốt nghiệp em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới thầy Hiệu trƣởng, các thầy cô của trƣờng, đặc biệt là các thầy cô trong bộ môn Văn hoá – Du Lịch. Các thầy cô đã trang bị cho em những kiến thức lý luận và thực tế về nghề nghiệp để em thêm yêu nghề và cố gắng học hỏi để hoàn thiện bản thân. Em xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ của Sở Văn hoá - Thể thao - Du lịch tỉnh Tuyên Quang, cán bộ và đồng bào dân tộc Dao tại làng Nghẹt đã giúp em có đƣợc những hiểu biết, cũng nhƣ những tƣ liệu để hoàn thành bài khoá luận. Đặc biệt, em chân thành cảm ơn sự định hƣớng, hƣớng dẫn và chỉ bảo tận tình của PGS-TS Nguyễn Thị Hải trong suốt thời gian làm khoá luận. Em xin trân trọng cảm ơn! SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 1
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN MỞ ĐẦU CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH CỘNG ĐỒNG 1.1. Cộng đồng địa 6 1.2. Mối quan hệ giữa cộng đồng địa phƣơng với hoạt động du lịch 7 1.3. Du lịch cộng đồng 9 1.3.1. Khái niệm du lịch cộng đồng 9 1.3.2. Đặc điểm và nguyên tắc của du lịch cộng đồng 12 1.3.3. Các bên tham gia du lịch cộng đồng 13 1.3.4. Các loại hình có sự tham gia của cộng đồng 15 1.3.5. Vai trò của cộng đồng địa phƣơng trong hoạt động du lịch 18 1.3.6. Những tác động của du lịch cộng đồng 21 1.4. Một số bài học kinh nghiệm và mô hình du lịch cộng đồng tiêu biểu trên thế giới và Việt Nam 24 1.4.1. Một số bài học từ phát triển du lịch cộng đồng 24 1.4.2. Một số mô hình du lịch cộng đồng tiêu biểu 25 CHƢƠNG 2: TÀI NGUYÊN VÀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI LÀNG NGHẸT - XÃ PHÚ THỊNH - HUYỆN YÊN SƠN - TỈNH TUYÊN QUANG 2.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên 30 2.1.1. Vị trí địa lý 30 2.1.2. Địa hình 30 2.1.3. Khí hậu 31 2.1.4. Thuỷ văn 2.1.5. Động thực vật 31 2.2. Điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn 32 2.2.1. Điều kiện kinh tế xã hội 32 2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn 34 2.3. Thực trạng hoạt động du lịch tại địa phƣơng 53 2.3.1. Đặc điểm của lao động địa phƣơng 53 2.3.2. Những hoạt động của ngƣời dân phục vụ du lịch 54 SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 2
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] 2.3.3. Ảnh hƣởng của du lịch tới cộng đồng 55 2.3.4. Thái độ của ngƣời dân địa phƣơng 57 Tiểu kết chƣơng II 57 CHƢƠNG 3: XÂY DỰNG MÔ HÌNH DU LỊCH CỘNG ĐỒNG TẠI LÀNG NGHẸT - XÃ PHÚ THỊNH - HUYỆN YÊN SƠN - TỈNH TUYÊN QUANG 3.1. Kế hoạch phát triển du lịch cộng đồng tại làng Nghẹt 59 3.1.1. Đặc điểm của làng Nghẹt 59 3.1.2. Sự cần thiết phải xây mô hình du lịch cộng đồng 60 3.1.3. Quá trình xây dựng mô hình 61 3.2. Một số giải pháp phát triển du lịch cộng đồng 64 3.2.1. Cơ chế chính sách 64 3.2.2. Đào tạo 65 3.2.3. Quảng bá và tiếp thị 66 3.2.4. Môi trƣờng 67 3.2.5. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống 67 KẾT LUẬN 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO 70 PHỤ LỤC 72 SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 3
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tuyên Quang là tỉnh ở vùng núi cao phía Bắc. Phía Bắc và Tây của tỉnh giáp tỉnh Hà Giang, phía Đông giáp tỉnh Thái Nguyên, phía Đông Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ. Thị xã Tuyên Quang cách Hà Nội 165km. Ở đây có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống trong các bản làng xa xôi. Trong đó có ngƣời Dao Quần Trắng ở làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn. Ngƣời Dao thật thà, hiền lành, chất phác và hiếu khách. Do sống phân tán, tiếp giáp với nhiều dân tộc nên họ dễ hòa đồng, tạo điều kiện cho sự phát triển, tiếp thu cái mới. Dân tộc Dao có một nền văn hóa rất phong phú và đậm đà bản sắc thể hiện qua nhiều phong tục, nhiều điệu múa đẹp, nhiều bài hát hay, kho tàng truyện cổ tích, thần thoại, ngụ ngôn, ca dao, thành ngữ, chiêm tinh, tƣớng số, câu đố Nhƣng cũng giống các dân tộc thiểu số khác, chủ yếu tồn tại dƣới dạng truyền khẩu. Hiện nay nó đang bị mai một, thất truyền với những lý do khách quan cũng nhƣ chủ quan. Bên cạnh đó, đời sống của họ còn rất nhiều khó khăn. Vì thế, đồng bào cần có sự quan tâm của chính quyền để nâng cao chất lƣợng cuộc sống của họ. Trong vài năm trở lại đây có rất nhiều du khách đến đây để tìm hiểu về phong tục truyền thống, về cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của đồng bào. Vì thế địa phƣơng đang lập kế hoạch để phát triển du lịch. Xu thế phát triển du lịch trên thế giới hiện nay là hƣớng tới những khu vực có tiềm năng đặc sắc về mặt thiên nhiên và văn hoá. Chính vì thế, những tuor du lịch đến những bản làng xa xôi đƣợc khách du lịch quốc tế ƣa chuộng. Du khách nƣớc ngoài thích đi du lịch tới những bản, làng xa xôi, nơi có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống là vì cảnh quan ở đây còn hoang sơ, SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 4
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] những phong tục tập quán của đồng bào còn đƣợc lƣu truyền, chƣa mai một trong cuộc sống đƣơng đại. Kinh nghiệm ở một số nơi nhƣ Sa Pa (Lào Cai), bản Lác, Giang Mỗ (Hoà Bình), khách du lịch nƣớc ngoài thƣờng thích đi bộ vào những bản làng vùng sâu, vùng xa, sống và sinh hoạt cùng ngƣời dân. Ngƣời dân có thể cung cấp những dịch vụ khác nhau nhƣ: phòng trọ, nấu ăn, dẫn đƣờng, vác đồ, hƣớng dẫn thực hiện các công việc nhà nông, hoặc bán những sản phẩm lƣu niệm nhƣ: thổ cẩm, đồ mây tre đan, các sản phẩm mỹ nghệ hoặc biểu diễn các loại hình văn hoá dân gian. Điều hấp dẫn du khách chính là vẻ đẹp nồng hậu, chân chất, thật thà của ngƣời dân ở các bản làng nơi đây. Đó chính là du lịch cộng đồng. Du lịch cộng đồng đem lại lợi ích thiết thực đối với ngƣời dân. Trƣớc hết, ngƣời dân có đƣợc nguồn thu trực tiếp từ các dịch vụ cung cấp cho khách và những nguồn thu này đôi khi lớn hơn rất nhiều so với sản xuất nông nghiệp. Tiếp đến là những lợi ích từ việc phát triển cơ sở hạ tầng. Một khu du lịch phát triển, sẽ thu hút sự quan tâm của các cấp chính quyền, thu hút các nhà đầu tƣ phát triển hệ thống đƣờng sá, hệ thống cấp điện, nƣớc, mạng lƣới thông tin, y tế, chỉnh trang nhà cửa, cảnh quan, môi trƣờng. Đó là những lợi ích cụ thể cho cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Ngoài ra, còn những lợi ích thiết thực khác nhƣ việc làm, giao lƣu văn hoá và đặc biệt là ý thức xã hội về bảo tồn văn hoá đƣợc nâng cao. Nhƣ vậy, đối với những vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, làng Nghẹt nói riêng việc phát triển du lịch cộng đồng hay du lịch dựa vào cộng đồng hoàn toàn có cơ sở để thực hiện và chắc chắc sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đây cũng là phƣơng thức hữu hiệu để phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo cho nhân dân các dân tộc vùng cao, bảo tồn đƣợc môi trƣờng tự nhiên và văn hoá bản địa. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 5
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Mô hình du lịch cộng đồng đƣợc xây dựng ở làng Nghẹt sẽ nâng cao nhận thức cho cộng đồng trong việc bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trƣờng đồng thời cộng đồng đƣợc hƣởng những lợi ích thiết thực từ kinh doanh du lịch. Với mong muốn đó em đã chọn đề tài “Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang”. 2. Mục đích, nhiệm vụ, giới hạn của đề tài * Mục đích của đề tài: Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng cho ngƣời Dao Quần Trắng tại làng Nghẹt nhằm: Góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và văn hoá Đề cao sự bền vững của môi trƣờng, văn hoá, xã hội Tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo, có trách nhiệm đối với môi trƣờng và xã hội, từ đó thu hút mạnh mẽ khách du lịch Lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng và cộng đồng hiểu đƣợc lợi ích của việc tham gia vào du lịch cộng đồng. * Nhiệm vụ của đề tài: Đúc kết về cơ sở lý luận về du lịch cộng đồng Nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng tại làng Nghẹt Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tại làng Nghẹt, góp phần phát triển cộng đồng địa phƣơng, những giải pháp để tiến hành xây dựng làng trở thành làng du lịch cộng đồng, chính sách thu hút đầu tƣ và thu hút khách du lịch, đảm bảo sự phát triển bền vững. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 6
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] * Giới hạn của đề tài Về mặt không gian: Đề tài giới hạn trong phạm vi làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Về mặt thời gian: Sử dụng số liệu từ năm 2004. Về mặt nội dung: Giới hạn trong pham vi nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội; tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn của làng Nghẹt có ý nghĩa cho phát triển du lịch cộng đồng. 3. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch (tự nhiên và nhân văn) của làng Nghẹt. Cộng đồng dân cƣ tại làng Nghẹt. * Phương pháp nghiên cứu Phương pháp khảo sát, điều tra thực địa: Đến địa phƣơng để tìm hiểu phong tục tập quán, điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội,đời sống sinh hoạt và sản xuất của đồng bào đề tiến hành xây dựng mô hình du lịch cộng đồng hợp lý và hiệu quả nhất. Phương pháp điều tra xã hội học Thông qua điều tra xã hội học (phát phiếu để điều tra thái độ, nhận thức của ngƣời dân về các vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trƣờng, những hiểu biết của ngƣời dân về du lịch cộng đồng, điều tra mức sống, trình độ dân trí ), SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 7
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] phát biểu trƣng cầu ý kiến, thu thập và xử lý kết quả. Tiến hành hỏi 45 ngƣời dân địa phƣơng. Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp Phƣơng này sử dụng để hoàn thành chƣơng 1: Những lý luận chung về du lịch cộng đồng. 4. Những đóng góp chủ yếu Điều tra, khảo sát đánh giá về tài nguyên du lịch, những nét đặc sắc trong văn hoá truyền thống của địa phƣơng. Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng nhằm bảo tồn và nâng cao các giá trị về văn hoá, môi trƣờng, nâng cao chất lƣợng sống cho cộng đồng, thu hút khách. 5. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung chính cùa khoá luận đƣợc trình bày trong ba chƣơng: Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch cộng đồng Chương 2: Tài nguyên và hoạt động du lịch tại làng Nghẹt Chương3: Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 8
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH CỘNG ĐỒNG 1.1. Cộng đồng địa phƣơng Cộng đồng là một khái niệm xuất hiện vào những năm 40 tại các nƣớc thuộc địa của Anh. Trƣớc hết quan điểm về cộng đồng đề cập đến các yếu tố con ngƣời với phạm vị địa lý, mối quan hệ và mục đích chung trong phát triển và bảo tồn cộng đồng đó. Theo Keith và Ary. 1998 thì “Cộng đồng là một nhóm người, thường sinh sống trên cùng một khu vực địa lý, tự xác định mình về cùng một nhóm. Những người trong cùng một cộng đồng thường có quan hệ huyết thống hay hôn nhân, và có thể thuộc cùng một nhóm tôn giáo, một tầng lớp chính trị” (12) Theo J. H. Pichter: “Cộng đồng là một tập thể người nhất định trên một lãnh thổ nhất định, được hình thành bởi các yếu tố lãnh thổ, kinh tế và văn hoá trong đó bao gồm bốn yếu tố: Tƣơng quan cá nhân mật thiết với những ngƣời khác, tƣơng quan này đôi khi đƣợc gọi là tƣơng quan đệ nhất đẳng, tƣơng quan mặt đối mặt, tƣơng quan thân mật. Có sự liên hệ về tình cảm và cảm xúc nơi cá nhân trong những nhiệm vụ và công tác xã hội của tập thể. Có sự hiến dâng tinh thần hoặc dấn thân đối với những giá trị đƣợc tập thể coi là cao cả và có ý nghĩa. Một ý thức đoàn kết với những ngƣời trong tập thể. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 9
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Theo Schmink (1999) cộng đồng đƣợc hiểu: “Cộng đồng là tập hợp các nhóm người có chung địa bàn cư trú và có quyền sử dụng các tài nguyên của địa phương”.(8) Có thể nói, cộng đồng địa phƣơng trong hoạt động du lịch là tập thể ngƣời cùng sống trong một khu vực địa lý hoặc một đơn vị hành chính, có chung các lợi ích, các điều kiện tồn tại, có quyền tham gia và làm chủ các hoạt động du lịch trên địa bàn sinh sống của họ. 1.2. Mối quan hệ giữa cộng đồng địa phƣơng và hoạt động du lịch. Du lịch ngày nay không chỉ là một ngành kinh tế mà có yếu tố xã hội rất cao. Trƣớc hết du lịch thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Tiếp đó, nó còn giải quyết việc làm, góp phần tăng thu nhập cho ngƣời lao động, tăng ngân sách cho địa phƣơng và từng quốc gia; du lịch đồng thời là một ngành có tính đa lĩnh vực, liên ngành, liên lãnh thổ, có sự tham gia của nhiều tổ chức xã hội, các cộng đồng dân cƣ. Du lịch ở một số nƣớc cũng cho thấy dân cƣ đóng góp một phần không nhỏ vào việc phát triển các dịch vụ cung cấp cho khách du lịch, bảo vệ tài nguyên môi trƣờng, góp phần thu hút khách du lịch. Hay nói cách khác cộng đồng vừa là đối tƣợng vừa là chủ thể phát triển du lịch tại vùng và quốc gia. Trong một số loại hình du lịch bắt buộc có cộng đồng tham gia nhƣ du lịch sinh thái, du lịch làng bản, du lịch homestay phải diễn ra ở những nơi có tài nguyên hoang dã, còn nguyên trạng đã thu hút đƣợc nhiều khách du lịch đến tham quan. Nhƣng tại những nơi này giao thông không thuận lợi nên rất khó khăn cho các hoạt động cung cấp các dịch vụ của công ty du lịch. Vì vậy khách du lịch và các nhà kinh doanh thƣờng dựa vào cộng đồng cƣ dân tại các làng, bản Hơn nữa, cộng đồng nơi đây cũng có các phong tục tập quán, lễ SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 10
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] hội, lối sống, kiến trúc nhà ở, khí hậu, phong cảnh trở thành tài nguyên du lịch cung cấp cho khách du lịch tìm hiểu, thƣởng thức. Bên cạnh đó, cộng đồng dân cƣ tại đây cũng có nhiều khó khăn trong đời sống, không có việc làm, thu nhập thấp, trình độ dân trí và văn hóa không cao. Nếu du lịch phát triển sẽ đem lại cơ hội việc làm cho cƣ dân của các cộng đồng có liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt động du lịch. Hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật và cở sở hạ tầng đƣợc cải thiện rõ rệt. Từ đó có thể thấy, không gian du lịch và không gian kinh tế, văn hoá, xã hội của cộng đồng địa phƣơng không tách biệt mà có mối quan hệ tác động qua lại. Nếu biết vận dụng, khai thác, quản lý tốt, hợp lý sẽ là nguồn lực quan trọng có tác động tích cực, không chỉ giúp phát triển du lịch mà còn là động lực phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần xoá đói, giảm nghèo bằng cách tổ chức cho cộng đồng địa phƣơng tham gia vào hoạt động du lịch. Một trong những lý do đòi hỏi cần phát triển du lịch tại các vùng này trở thành lợi thế nữa là: Đây là những khu vực cần có sự bảo tồn đa dạng hệ sinh thái, tài nguyên, cảnh quan, môi trƣờng. Trong khi điều kiện của địa phƣơng còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nên cộng đồng địa phƣơng phải dựa vào điều kiện tự nhiên để kiếm kế sinh nhai nhƣ săn bắn động vật hoang dã, chặt cây đốn củi để bán, đốt diễn ra hàng ngày qua nhiều thế hệ với mục đích đảm bảo sự sinh tồn đã ảnh hƣởng nhất định đến môi trƣờng, môi sinh, tài nguyên ngày càng mai một. Tại đây chỉ có phát triển du lịch mới nâng cao nhận thức, mở mang kiến thức hiểu biết cho cộng đồng trong việc cần thiết phải bảo vệ tài nguyên môi trƣờng là con đƣờng duy nhất đảm bảo cho cuộc sống lâu dài và duy trì phát triển các thế hệ tƣơng lai của họ. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 11
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Tuy nhiên sự phát triển du lịch cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực cho điểm đến nhƣ cảnh quan bị phá hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức, ô nhiễm không khí, nguồn nƣớc Do nhiều nguyên nhân mà những ngƣời dân địa phƣơng mất đi quyền lợi về kinh tế, văn hoá, xã hội từ sự phát triển du lịch nếu không có chiến lƣợc tăng cƣờng sự tham gia của ngƣời dân vào các hoạt động du lịch để họ thấy đƣợc sự phát triển này có đem lại lợi ích cho chính họ. Đồng thời, nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc ngăn ngừa, giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trƣờng. Nhƣ vậy sự tham gia của cộng đồng chính là một đối tác của ngành du lịch cũng là một yêu cầu phát triển mới nhằm đảm bảo những cân bằng về lợi ích giữa các bên tham gia: Nhà nƣớc - doanh nghiệp du lịch - cộng đồng - du khách hƣớng tới một sự phát triển bền vững. Điều này nhằm huy động mọi nguồn lực sẵn có cho phát triển du lịch, góp phần vào quá trình gìn giữ bản tính đa dạng văn hoá của mỗi cộng đồng. 1.3. Du lịch cộng đồng 1.3.1. Khái niệm “Du lịch cộng đồng” hay “du lịch dựa vào cộng đồng” đang đƣợc biết đến nhƣ là một nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững, cộng đồng địa phƣơng là ngƣời trực tiếp khai thác và bảo vệ tài nguyên và cũng là ngƣời quản lý hợp pháp các nguồn tài nguyên đó. Trong khi các tài nguyên khác thì quản lý có tính tập trung cao hoặc không có sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng mà phụ thuộc trực tiếp vào tài nguyên. Có nhiều khái niệm đƣợc đƣa ra cho thuật ngữ “Du lịch cộng đồng”: Theo Rest – Thailand (1997): “Du lịch cộng đồng là phương thức tổ chức du lịch đề cao sự bền vững về môi trường và văn hoá xã hội. Du lịch SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 12
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] cộng đồng do cộng đồng sở hữu và quản lý, vì cộng đồng và cho phép du khách nâng cao nhận thức và học hỏi về cộng đồng, về cuộc sống đời thường của họ”.(8) Theo Tổ chức Quỹ bảo tồn Thiên nhiên Thế giới WWF: “Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch mà ở đó cộng đồng địa phương có sự kiểm soát và tham gia chủ yếu vào sự phát trển và quản lý hoạt động du lịch đó và phần lớn lợi nhuận thu được từ hoạt động du lịch được giữ cho cộng đồng”. (8) Nhà nghiên cứu Nicole Hausle và Wolffang Strasdas đƣa ra khái niệm: “Du lịch cộng đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương.”(12) Viện Nghiên cứu phát triển Miền Núi đƣa ra khái niệm: “Du lịch cộng đồng là nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại điểm du lịch đón khách vì sự phát triển du lịch bền vững dài hạn. Du lịch cộng đồng khuyến khích sự tham gia của người dân địa phương trong du lịch và có cơ chế tạo các cơ hội cho cộng đồng”. (12; 46) Tổ chức Bảo vệ thiên nhiên hoang dã đƣa ra khái mối quan hệ nguồn tài nguyên và hoạt động của du lịch, cộng đồng trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng là: SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 13
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Nguồn tài nguyên và văn hoá Hoạt động Thu nhập Khuyến khích Hình 1.1. Sơ đồ về mối quan hệ giữa tài nguyên và hoạt động của du lịch, cộng đồng trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng (12; 47) Nguồn: Tổ chức bảo vệ Thiên nhiên hoang dã Mô hình trên cho thấy mối quan hệ giữa nguồn tài nguyên và hành động của cộng đồng có ý nghĩa rất lớn trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng: Có tài nguyên du lịch là đối tƣợng thu hút khách du lịch tạo thu nhập cho cộng đồng và khuyến khích họ tham gia các dịch vụ cung cấp phục vụ khách du lịch, đồng thời, cộng đồng tích cực tham gia các hoạt động bảo tồn, bảo vệ tài nguyên môi trƣờng và ngƣợc lại tài nguyên môi trƣờng tốt sẽ hấp dẫn khách du lịch tới tham quan. Nói khác, đây là vòng tuần hoàn trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng. Nếu nhƣ du lịch sinh thái nhấn mạnh đến tính giáo dục, đến diễn giải môi trƣờng và không nhất thiết có sự tham gia của cộng đồng thì trong du lịch cộng đồng yếu tố cộng đồng là nét đặc trƣng. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 14
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Từ các khái niệm du lịch cộng đồng có thể rút ra khái niệm chung về du lịch cộng đồng nhƣ sau: “Du lịch dựa vào cộng đồng là phương thức phát triển du lịch trong đó cộng đồng dân cư tổ chức cung cấp các dịch vụ để phát triển du lịch đồng thời tham gia bảo tồn tài nguyên thỉên nhiên và môi trường, đồng thời cộng đồng được hưởng quyền lợi về vật chất và tinh thần từ phát triển du lịch và bảo tồn tự nhiên”.(12; 51) 1.3.2. Đặc điểm và nguyên tắc của du lịch cộng đồng 1.3.2.1. Đặc điểm của du lịch cộng đồng Du lịch cộng đồng có những đặc điểm chính sau: Du lịch cộng đồng là phƣơng thức kinh doanh du lịch mà cộng đồng dân cƣ là ngƣời cung cấp chính các sản phẩm dịch vụ cho khách du lịch, họ giữ vai trò chủ đạo phát triển và duy trì các dịch vụ. Địa điểm tổ chức phát triển du lịch cộng đồng phải là những khu vực hoặc điểm tài nguyên thiên nhiên hoang dã và nhân văn phong phú có sức hấp dẫn thu hút khách du lịch, có độ nhạy cảm cao về đa dạng sinh học, chính trị, văn hoá và xã hội rất lớn và hiện đang bị tác động bởi con ngƣời. Cộng đồng dân cƣ là ngƣời có trách nhiệm trực tiếp tham gia bảo vệ tài nguyên du lịch và môi trƣờng nhằm hạn chế, giảm thiểu tác động bởi khách du lịch và khai thác của chính bản thân cộng đồng dân cƣ. Dựa vào cộng đồng bao gồm các yếu tố giao quyền cho cộng đồng, cộng đồng đƣợc tham gia khuyến khích và đảm nhận các hoạt động du lịch và bảo tồn tài nguyên môi trƣờng. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 15
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Phát triển du lịch cộng đồng đồng nghĩa với sự đảm bảo công bằng trong việc chia sẻ nguồn thu nhập du lịch cho cộng đồng giữa các bên tham gia. Do đặc điểm tài nguyên, điều kiện cộng đồng nên cần xét đến các yếu tố giúp đỡ, tạo điều kiện cho các bên tham gia trong đó có vai trò của các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trong và ngoài nƣớc, nhƣng không phải làm thay cộng đồng. 1.3.2.2. Các nguyên tắc của du lịch cộng đồng - Có sự đồng thuận của cộng đồng địa phƣơng và các bên tham gia (bao gồm chính quyền và cơ quan quản lý khác, các doanh nghiệp du lịch, các nhà nghiên cứu, các tổ chức phi lợi nhuận và chính cộng đồng); - Cộng đồng đƣợc tham gia thảo luận từ việc lập kế hoạch, quy hoạch, thực hiện, quản lý và đầu tƣ để phát triển du lịch trong một số trƣờng hợp có thể trao quyền làm chủ cho cộng đồng; - Phù hợp với khả năng nhận thức của cộng đồng bao gồm nhận thức trong việc sử dụng tài nguyên, nhận thức đƣợc tiềm năng to lớn của du lịch cho sự phát triển của cộng đồng cũng nhƣ những bất lợi từ du lịch - Chia sẻ lợi ích từ du lịch cho cộng đồng đảm bảo nguồn thu từ du lịch đƣợc phân chia công bằng cho mọi thành viên tham gia hoạt động, một phần dành cho tái đầu tƣ cho cộng đồng nhƣ: cơ sơ hạ tầng, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục - Xác lập quyền sở hữu và tham dự của cộng đồng đối với tài nguyên thiên nhiên và văn hoá hƣớng tới sự phát triển bền vững. 1.3.3. Các bên tham gia du lịch cộng đồng SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 16
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Cộng đồng địa phương là nhân tố quan trọng hàng đầu. Hoạt động du lịch cộng đồng hƣớng tới và nhấn mạnh yếu tố cộng đồng. Cộng đồng là tài nguyên, là mục đích, vừa là yếu tố đầu ra và đầu vào cho hoạt động du lịch. Cộng đồng dân cƣ có các yếu tố thu hút khách du lịch nhƣ bản sắc văn hoá, tôn giáo, phƣơng thức sinh sống và môi trƣờng sống của họ. Đây đƣợc gọi là tài nguyên du lịch. Bên cạnh đó cộng đồng còn là ngƣời tham gia phục vụ du khách trong quá trình tham quan du lịch tại điểm đến, tham gia vào mọi hoạt động để làm chủ và thu lợi từ du lịch tại địa phƣơng. Chính quyền địa phương là ngƣời đại diện cho cộng đồng, là ngƣời lãnh đạo, có vai trò tăng cƣờng sức mạnh đoàn kết tập thể cộng đồng để tạo nên sự thống nhất cho mọi hoạt động của cộng đồng. Chính quyền còn là ngƣời đại diện bảo vệ cộng đồng, là chiếc cầu nối giữa cộng đồng với thế giới bên ngoài. Các tổ chức tài trợ, các tổ chức thuộc chính phủ và phi chính phủ là nhân tố hỗ trợ cộng đồng về tài chính, vốn kĩ thuật, kinh nghiệm và chính sách để xây dựng mô hình du lịch cộng đồng. Các tổ chức này đƣợc coi là ngƣời chỉ lối, dẫn đƣờng giúp cộng đồng thực hiện mục tiêu phát triển trong giai đoạn đầu của kế hoạch. Sau một thời gian họ sẽ trao lại quyền quản lý cho cộng đồng. Các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, dịch vụ là chiếc cầu nối giữa du khách và cộng đồng và đảm bảo cho chất lƣợng sản phẩm du lịch. Họ có thể sử dụng lao động là ngƣời địa phƣơng góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho dân cƣ. Bên cạnh đó họ còn thúc đẩy việc chia sẻ lợi ích cho cộng đồng bằng cách đóng thuế hoặc một loại phí nào đó cho cộng đồng. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 17
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Sự kết hợp của các nhân tố này sẽ tạo ra một sự đồng bộ và hiệu quả cao cho hoạt động du lịch. 1.3.4. Các loại hình du lịch có sự tham gia của cộng đồng 1.3.4.1. Du lịch sinh thái Cho đến nay, có nhiều khái niệm định nghĩa khác nhau về du lịch sinh thái. Trƣớc hết cần tìm hiểu thế nào là “sinh thái” ? “Sinh thái” có hàm ý chỉ mối quan hệ tƣơng tác hài hoà giữa thiên nhiên và con ngƣời.(16) Theo hiệp hội Du lịch sinh thái Thế giới: “Du lịch sinh thái là việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương”. (2) Theo Luật du lịch 2005: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững”. (13; 12) Trong Chƣơng trình Du lịch sinh thái của IUCN năm 1992 tác giả Hector Ceballos có nói: “Du lịch sinh thái là dạng tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường ở những khu vực tự nhiên ít bị biến đổi, với mục đích hưởng thụ và trân trọng tự nhiên (và những giá trị văn hoá kèm theo – trong quá khứ lẫn hiện tại), góp phần hỗ trợ bảo tồn, gây ít tác động từ du khách, và cung cấp lợi ích về kinh tế - xã hội chủ động cho dân địa phương”.(5) Du lịch sinh thái diễn ra ở những khu, điểm du lịch có tài nguyên hoang sơ nhạy cảm, những nơi có nét văn hoá bản địa đặc sắc. Ngày nay, xu hƣớng của du lịch thế giới đó là con ngƣời muốn về với thiên nhiên, đƣợc hoà mình vào thiên nhiên, tìm hiểu bản sắc văn hoá cộng đồng và bảo tồn thiên nhiên. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 18
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Du lịch sinh thái đáp ứng đƣợc mong muốn đó của du khách. Du lịch sinh thái có hai nguyên tắc nhấn mạnh đến vai trò của cộng đồng: - Lấy cộng đồng làm trung tâm Cộng đồng địa phƣơng có vai trò quan trọng trong việc đƣa ra quyết định về các hoạt động du lịch tại địa bàn mà họ sinh sống thông qua cơ cấu tổ chức riêng của họ. Phải đảm bảo lợi ích của cộng đồng; Tập trung vào những sáng kiến của cộng đồng và lôi kéo sự tham gia tích cực của cộng đồng. Cộng đồng là chủ nhân của các vùng đất đó, họ hiểu về vùng đất của mình hơn ai hết, có đủ niềm tự hào và tình yêu để bảo vệ nó. Hỗ trợ, nâng cao năng lực của cộng đồng trong quá trình quản lý phát triển du lịch. - Phát triển kinh tế của địa phương Đảm bảo nguồn thu từ du lịch đƣợc sử đụng để nâng cao đời sống cho cộng đồng địa phƣơng, y tế, giáo dục và văn hoá. Hỗ trợ phát triển cộng đồng với sự quản lý của doanh nghiệp và các quỹ phát triển. Thúc đẩy, mở rộng các hoạt động kinh tế khác nhƣ nông nghiệp và sản xuất thủ công mĩ nghệ. Có thể nói, lợi ích của cộng đồng vừa là nguyên tắc vừa là mục đích hƣớng tới của du lịch sinh thái, góp phần giữ gìn tài nguyên cho các thế hệ mai sau. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 19
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] 1.3.4.2. Du lịch văn hoá “Du lịch văn hoá là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống”.(Khoản 1, điều 4, Chƣơng I - Luật du lịch Việt Nam 2005).(13) Du lịch văn hoá là một sản phẩm du lịch sử dụng những giá trị văn hoá đậm đà bản sắc của địa phƣơng. Cộng đồng địa phƣơng là ngƣời sản sinh, bảo tồn các giá trị văn hoá của địa phƣơng. Vì vậy, việc tổ chức phát triển du lịch phải dựa vào cộng đồng địa phƣơng để bảo tồn nuôi dƣỡng những giá trị văn hoá, tôn trọng nguyện vọng, phong tục tập quán của cộng đồng và chia sẻ lợi ích từ hoạt động du lịch với cộng đồng. Do đó để phát triển du lịch văn hoá bền vững, cộng đồng địa phƣơng phải là ngƣời kiểm soát và quản lý hoạt động phát triển du lịch văn hoá. Nhƣ vậy mới có thể giữ gìn bản sắc văn hoá độc đáo của chính họ. 1.3.4.3. Du lịch Homestay Du lịch Homestay là loại hình du lịch mà kích thích sự tƣơng tác lẫn nhau giữa gia đình và khách du lịch. Homestay có thể hoạt động nhƣ một công cụ phát triển để tăng nhận thức về tính sạch sẽ và vệ sinh trong cộng đồng, điểm đến. Loại hình du lịch này không cần đầu tƣ những thiết bị cầu kỳ, sang trọng. Chủ nhà chỉ cần chuẩn bị cho khách những đồ dùng thiết yếu nhƣ chăn màn và một số phƣơng tiện sinh hoạt thiết yếu cho khách du lịch nhƣ một ngƣời khách ở xa tới chơi. Đây là loại hình du lịch mà khách du lịch mà du khách đƣợc tham gia vào đời sống sinh hoạt của ngƣời dân, tìm hiểu nếp sống, phong tục tập quán, học hỏi những giá trị từ dân cƣ địa phƣơng. Sự thành công của loại hình du lịch này phụ thuộc vào mức độ nhiệt tình, niềm nở, mến khách, sự hoà hợp giữa chủ nhà và khách. Do đó trƣớc khi SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 20
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] thực hiện hoạt động này ngƣời dân phải đƣợc tập huấn về những kỹ năng nghề nghiệp của mình. Nhƣ vậy trong loại hình du lịch này ngƣời dân đóng vai trò chủ đạo, tự phục vụ khách. Chính quyền địa phƣơng chỉ có chức năng hỗ trợ. 1.3.4.4. Du lịch làng bản Du lịch làng bản đƣợc hiểu đơn giản là du khách tìm đến những bản làng xa xôi, nơi vẫn giữ đƣợc những nếp sinh hoạt truyền thống vốn có. Những hoạt động chính của loại hình du lịch này là tìm hiểu thiên nhiên, môi trƣờng, phong tục tập quán, tìm hiểu lịch sử của bản làng Du khách đặc biệt là khách nƣớc ngoài thích đi du lịch tới những bản, làng xa xôi, nơi có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống là vì cảnh quan ở đây còn hoang sơ, những phong tục tập quán của đồng bào còn đƣợc lƣu truyền, chƣa mai một trong cuộc sống đƣơng đại. Kinh nghiệm ở một số nơi nhƣ Sa Pa (Lào Cai), bản Lác, Giang Mỗ (Hoà Bình), khách du lịch nƣớc ngoài thƣờng thích đi bộ vào những bản làng vùng sâu, vùng xa, sống và sinh hoạt cùng ngƣời dân. 1.3.5. Vai trò của cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch Để phát triển kinh tế xã hội nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng thì phải dựa vào nguồn tài nguyên là điều tất yếu. Việc khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung và du lịch nói riêng. Vì thế, để đạt đƣợc sự phát triển bền vững, thì ngành du lịch phải đảm bảo lợi ích của ngƣời dân địa phƣơng. Chính ngƣời dân bản địa mới thực sự là chủ nhân của những vùng đất, những phong tục, tập quán, tín ngƣỡng, là ngƣời bảo vệ và tôn tạo, giữ gìn các giá trị tự nhiên và văn hoá bản địa tại nơi diễn ra hoạt động du lịch. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 21
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Du lịch trên thế giới đã chứng minh đƣợc cộng đồng địa phƣơng góp phần không nhỏ vào việc phát triển các dịch vụ cung cấp cho khách du lịch, bảo vệ tài nguyên và môi trƣờng, góp phần thu hút khách. Hơn nữa, cộng đồng lại là nơi có phong tục tập quán, các lễ hội, lối sống, kiến trúc nhà ở, các ngành nghề thủ công truyền thống đều là nguồn tài nguyên quan trọng phục vụ cho phát triển du lịch cộng đồng. Có thể nói, cộng đồng là một thành tố của tài nguyên du lịch. Đối với cộng đồng địa phƣơng, họ quen với cuộc sống dân dã, với lối mộc mạc vốn có và hầu nhƣ không biết gì về du lịch. Khi bƣớc vào ngành du lịch họ lại trở thành một thành phần quan trọng của du lịch cộng đồng. Bên cạnh đó những suy nghĩ, ý tƣởng của họ có thể gợi ý cho những ngƣời làm du lịch những kế hoạch hay. Ngƣời dân địa phƣơng có thể cùng với các nhà nghiên cứu du lịch hoạch định để có những giải pháp hợp lý, hiệu quả, vì quyền lợi chung của cả cộng đồng. Việc huy động tối đa sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng vào hoạt động du lịch nhƣ làm hƣớng dẫn viên, vận chyển, cho thuê nhà để ở, nấu ăn cho khách, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, bán hàng lƣu niệm sẽ tạo việc làm, giúp họ tăng thu nhập, cải thiện đời sống sẽ làm cho họ có trách nhiệm hơn với tài nguyên, môi trƣờng du lịch. Sự tham gia tích cực của cộng đồng sẽ làm phong phú thêm tài nguyên và sản phẩm du lịch. Đặc biệt khi đƣợc tham gia chỉ đạo phát triển du lịch, trực tiếp đƣa ra ý kiến trong quá trình ra quyết định, cộng đồng địa phƣơng sẽ tạo đƣợc những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho du lịch bởi vì họ là chủ nhân và là ngƣời có trách nhiệm chính với tài nguyên vả môi trƣờng khu vực. Để ngƣời dân nhận thấy lợi ích của việc bảo vệ tài nguyên, dễ dàng quy trách nhiệm với mỗi thành viên thì phải nâng cao hơn nữa vai trò sở hữu tài SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 22
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] nguyên du lịch, tài sản của họ để ngƣời dân ý thức hơn với hành động của mình. Vai trò sở hữu cộng đồng nhƣ là một nhân tố quan trọng góp phần vào phát triển cộng đồng Thực tế, hoạt động du lịch có ảnh hƣởng rất lớn đến đời sống của ngƣời dân địa phƣơng, không chỉ là lợi ích kinh tế mà còn tác động đến lối sống, bản sắc, phong tục. Chính điều này đã làm nảy sinh những thái độ khác nhau của ngƣời dân với khách Sự hào hứng Lúc đầu du khách và chủ đầu tƣ đƣợc đón tiếp nồng nhiệt, du lịch chƣa hoặc mới đƣợc quy hoạch Sự lãnh đạm, Du khách đƣợc đón tiếp nhƣ một thông lệ do có thờ ơ đầu tƣ, quan hệ giữa ngƣời dân và khách du lịch mang tính hình thức (tính thƣơng mại). Quy hoạch chủ yếu quan tâm đến thị trƣờng du lịch. Sự khó chịu Du lịch dẫn đến sự bão hoà, dân địa phƣơng có những mối nghi ngại về du lịch, các nhà chính sách (chiến lƣợc) cố gắng tạo các giải pháp bằng việc tăng cƣờng cơ sở hạ tầng nhiều hơn là hạn chế sự phát triển. Sự đối kháng Những bực bội, khó chịu bộc lộ ra ngoài, du khách bị xem là nguyên nhân của mọi vấn đề. Quy hoạch lúc này có tính cứu chữa, song lại kích thích sự gia tăng du lịch để bù lại sự xấu đi về danh tiếng của địa phƣơng. Hình 1.2. Sự thay đổi thái độ của ngƣời dân với khách du lịch (9) SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 23
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Mối quan hệ đó có khi là sự giao lƣu giữa các nền văn hoá khác nhau có khi lại là những mâu thuẫn trái ngƣợc mọi trạng thái, mâu thuẫn đó đều xuất phát từ lợi ích của ngƣời dân. Việc dung hoà những mâu thuẫn đó đƣợc xem nhƣ là điều không tƣởng, có thể kéo theo hàng loạt những phản ứng tâm lý phức tạp của cƣ dân địa phƣơng với khách du lịch mà ngƣời làm du lịch phải lƣờng trƣớc. Nhƣ vậy tâm lý ngƣời dân có ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt động du lịch nhƣ là sự hài lòng của khách, số lƣợng khách quay trở lại Để ngƣời dân có trách nhiệm trong việc quản lý, bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch thì cần phải mang lại lợi ích cho họ một cách rõ ràng, thực chất và công bằng, tạo cho họ một vị thế làm chủ thực sự. Cộng đồng địa phƣơng là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của hoạt động du lịch tao nên sự ổn định về chính trị, xã hội. 1.3.6. Những tác động của hoạt động du lịch cộng đồng Du lịch cộng đồng có tác động tới nhiều lĩnh vực ở cả hai khía cạnh là tích cực và tiêu cực * Tích cực - Về kinh tế Giúp cộng đồng có những khoản thu nhập từ sự chi tiêu của du khách Đa dạng hoá và ổn định nền kinh tế địa phƣơng; Đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trƣởng kinh tế của địa phƣơng nhất là ở những vùng còn nhiều khó khăn; Thu hút sự đầu tƣ từ các tổ chức và doanh nghiệp ở tất cả các lĩnh vực. - Chính trị SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 24
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Cho phép sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng trong việc lập kế hoạch và triển khai dự án du lịch; Tăng quyền lực cho cộng đồng; Đảm bảo quyền làm chủ của cộng đồng trong quản lý tài nguyên; - Về văn hoá, xã hội: Giúp cải thiện chất lƣợng dịch vụ, sản phẩm du lịch, cơ sở vật chất kĩ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch; Làm tăng tự hào của ngƣời dân về văn hoá địa phƣơng; Khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống, các loại hình biểu diễn nghệ thuật và văn hoá Tăng cƣờng trao đổi văn hóa, nâng cao nhận thức, giao lƣu học hỏi từ những nền văn hoá khác tạo sƣ tôn trọng với văn hoá bản địa. Tạo sự bình đẳng trong cộng đồng. - Về môi trƣờng Khuyến khích bảo tồn và bảo vệ nguồn tài nguyên lịch sử, văn hoá và tự nhiên. Giúp cải thiện diện mạo của địa phƣơng. Giúp phục hồi các công trình kiến trúc. * Tiêu cực - Về kinh tế Đòi hỏi vai trò lãnh đạo kiểm soát với chi phí vận hành cao SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 25
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Lợi nhuận có thể không đƣợc chia công bằng cho cộng đồng mà chỉ làm lợi cho một số ngƣời. Gia tăng tình trạng lạm phát nhà đất, hàng hoá, dịch vụ. Chi phí tốn kém cho việc tập huấn, đào tạo cán bộ. Du lịch có thể bị ảnh hƣởng bởi tính mùa vụ cao do đó nằm ngoài tầm kiểm soát của địa phƣơng. - Về văn hoá xã hội: Khách du lịch đến từ nhiều nơi khác nhau nên có thể có lối sống, quan niệm xung đột với dân cƣ địa phƣơng; Cƣ dân địa phƣơng phải chia sẻ nguồn tài nguyên cho nhiều ngƣời ngoài địa phƣơng; Làm gia tăng các tệ nạn xã hội: tội phạm, nghiện hút, mại dâm, ma tuý Làm nảy sinh mối bất hoà trong cộng đồng giữa ngƣời đƣợc hƣởng lợi và ngƣời không đƣợc hƣởng lợi. - Về môi trƣờng Sự xuất hiện của quá nhiều du khách đã làm suy giảm chất lƣợng tài nguyên thiên nhiên, lịch sử, văn hoá; Gây ra hàng loạt ô nhiễm nhƣ ô nhiễm môi trƣờng, ô nhiễm nguồn nƣớc, rác thải 1.4. Một số bài học kinh nghiệm và mô hình du lịch cộng đồng tiêu biểu trên thế giới và ở Việt Nam SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 26
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] 1.4.1. Một số bài học từ phát triển du lịch cộng đồng (6) * Bài học 1: Vƣờn Quốc gia Cúc Phƣơng với chủ trƣơng phát triển du lịch cộng đồng ở bản Khanh. Mặc dù biết để đạt đƣợc các mục tiêu phát triển bền vững thì phải có sự tham gia của cộng đồng địa phƣơng. Thực tế điều này rất khó khăn do năng lực của các thành viên trong cộng đồng rất hạn chế. Điều này chứng tỏ năng lực trong quy hoạch và xây dựng các dự án du lịch là rất quan trọng. * Bài học 2: Du khách muốn đến bản Pác ngòi nằm liền kề với hồ Ba Bể trƣớc đây sẽ đƣợc đi thuyền độc mộc dọc theo hồ và đi bộ thăm các bản của ngƣời Tày. Các chƣơng trình thăm quan trên đã thu hút khách du lịch đáng kể và đƣợc du khách đánh giá cao nét đặc trƣng văn hoá này. Do chủ trƣơng phát triển dân sinh, họ cho xây dựng đƣờng trải nhựa tới tận bản dẫn đến hiện tƣợng xói mòn, lở đất, lòng hồ bị đục ảnh hƣởng tới môi trƣờng cảnh quan quanh hồ. Bài học rút ra là các sáng kiến phát triển du lịch và nâng cao đời sống cộng đồng trƣớc hết phải đƣợc nghiên cứu hoạch định kĩ càng, hợp lý. * Bài học 3: Lash (TIES, 1998) kể một câu chuyện rằng trong một ngôi làng ở Braxin có một gia đình có bí quyết làm bánh mì và các loại bánh từ bột sắn. Du khách tới gia đình này rất đông và rất thích thú khi đƣợc biết thêm một bí quyết làm bánh đặc biệt hấp dẫn và lạ lẫm. Vào mùa du lịch hƣớng dẫn viên tiếp tục dẫn khách nhƣng khách thấy họ vẫn giữ bí quyết làm bánh từ bột sắn nhƣng họ đã thay vì lao động thủ công thì họ đã sử dụng máy trộn, máy ép bột mì, máy nƣớng bánh để cho công việc của họ đỡ vất vả hơn. Khách du lịch không còn thấy hứng thú vì họ không còn thấy sự khác biệt từ gia đình này nữa. Câu chuyện khẳng định một điều, bản sắc văn hoá là một yếu tố quan trọng, có sức hấp dẫn lớn thu hút khách du lịch. Bên cạnh đó việc tuyên SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 27
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] truyền giáo dục cho cộng đồng cũng là một yếu tố quan trọng trong phát triển du lịch cộng đồng. * Bài học 4: Vƣờn Quốc gia Ba Bể đƣợc tài trợ của SNV (Tổ chức Phát triển của Hà Lan) về du lịch sinh thái. Họ đã tiến hành tổ chức đào tạo dân cƣ địa phƣơng học nghề dệt thổ cẩm. Nhƣng khi sự án hết thì hầu hết ngƣời dân đã bỏ nghề. Bài học quan trọng rút ra là, du lịch cộng đồng cần nhiều nỗ lực và thời gian mới có thể thành công đƣợc. * Bài học 5: Xem đom đóm ở Kustan – Selangor – Malayxia đƣợc khởi đầu vào những năm 1980. Việc đi xem đom đóm đã thu hút một số lƣợng khách đến đây và việc thuê thuyền bè cũng tăng lên theo. Tuy nhiên từ nguồn lợi nhuận to lớn này đã phát sinh mâu thuẫn trong cộng đồng. Vì lợi nhuận mang lại là rất lớn nên những ngƣời dân làng phụ cận và một số cƣ dân sống ven sông đã dùng thuyền gắn máy chở du khách tới khu vực bờ đê để xem đom đóm, làm ảnh hƣởng tới môi trƣờng sinh thái, vỡ đê, mọi nỗ lực của ngƣời dân trực tiếp sinh sống ở đây nhằm quản lý và bảo vệ rừng đƣớc đã bị xâm phạm, ảnh hƣởng tới hoạt động xem đom đóm. 1.4.2. Một số mô hình du lịch cộng đồng tiêu biểu *Mô hình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại bản Hway Hee – Thái Lan Đặc điểm của bản liên quan đến phát triển du lịch dựa vào cộng đồng: Bản nằm trong một khuôn viên Vƣờn quốc gia Mã Hồng Sơn là một bản miền núi. Đây cũng là khu vực thuộc “tam giác vàng” phía bắc của Thái Lan. Dân cƣ ở đây là một trong 6 dân tộc thiểu số ở miền Bắc Thái Lan. Ngƣời dân ở đây sinh sống bằng nghề canh tác nƣơng rẫy và khai thác sản phẩm từ rừng nên thu nhập nói chung là thấp, việc trao đổi buôn bán rất hạn chế do điều kiện đƣờng sá đi lại khó khăn. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 28
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Sự cần thiết xây dựng mô hình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại bản: Do điều kiện đất đai, khí hậu khắc nghiệt, thu nhập chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên, dẫn đến tài nguyên ngày càng cạn kiệt, các loài động thực vật ngày càng hiếm và ít đi. Tuy nhiên do sự phong phú về tài nguyên nên số lƣợng khách tới đây ngày càng đông. Họ đã phá vỡ đi sự yên tĩnh của khu rừng nguyên sinh này, tại đây chƣa có một dịch vụ nào để đáp ứng nhu cầu của du khách mà để khách tự thoả mãn nhu cầu của mình dẫn đến tác động không nhỏ đến tài nguyên và sự du nhập cuộc sống của du khách đã ảnh hƣởng đến lối sống bản địa, xâm nhập các tệ nạn xã hội. Vì thế, họ quyết định vận động nhân dân tham gia cung cấp dịch vụ cho khách thông qua chƣơng trình phát triển du lịch cộng đồng. Mục đích là nâng cao điều kiện dân sinh, nâng cao hiểu biết và nhận thức về trách nhiệm của cộng đồng đối với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Các hoạt động du lịch do cộng đồng tổ chức thực hiện: Tổ chức các chƣơng trình du lịch sinh thái nhƣ đi bộ xuyên rừng, chinh phục đỉnh Mã Hồng Sơn, tìm hiểu động thực vật, tham quan nơi nuôi trồng cây phong lan. Tổ chức các chƣơng trình du lịch văn hoá nhƣ tham quan tìm hiểu về cuộc sống của cộng đồng, tham quan tìm hiểu kiến trúc nhà sàn cổ, văn hoá tín ngƣỡng, xem giao lƣu văn nghệ. Tổ chức du lịch mạo hiểm nhƣ leo núi, thám hiểm. Tổ chức dịch vụ lƣu trú tại nhà dân, cung cấp các phƣơng tiện đi lại Kết quả: số lƣợng khách tăng và doanh thu từ du lịch cũng tăng mạnh. Đồng thời việc chia sẻ lợi ích theo tỷ lệ quy định nhƣ sau: Ngƣời cung cấp SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 29
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] dịch vụ đƣợc 80% thu nhập từ du lịch, đóng góp vào quỹ phát triển cộng đồng 5%, đóng góp vào ban quản lý du lịch làng 15%. * Phát triển du lịch cộng đồng tại bản Lác – Mai Châu – Hoà Bình Đặc điểm của bản Lác: là một bản miền núi thuộc huyện Mai Châu, cách thị xã Hoà Bình 60km, là ngƣời Thái Trắng. Bản Lác là một bản có nền văn hoá dân tộc phát triển lâu đời và đến nay còn lƣu giữ đƣợc nhiều giá trị văn hoá đặc sắc. Đặc biệt là sự trật tự và lòng hiếu khách mang tính xã hội cao đƣợc tồn tại lâu đời trong xã hội ngƣời Thái. Họ sống ngăn nắp, trật tự từ việc nhỏ tới việc lớn. Toàn bản có 93 hộ gia đình thì chỉ có 24 hộ tham gia vào các dịch vụ du lịch nhƣ thuê nhà trọ, biểu diễn văn nghệ, tổ chức cho khách đi tham quan các hoạt động sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, tổ chức cho khách đi tham quan các hoạt động sản xuất và tham quan kiến trúc nhà trong bản. Kết quả từ mô hình du lịch cộng đồng: Hàng năm bản có khoảng 3000 khách du lịch đến tham quan để chiêm ngƣỡng, tìm hiểu những nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Thái. Các hộ kinh doanh du lịch trong bản cuối năm đóng góp 10% thu nhập của mình cho chính quyền huyện. 90% còn lại thì các hộ gia đình có thể tiêu dùng hoặc nâng cấp nhà cửa. Một số hạn chế: ngƣời dân phải phụ thuộc vào công ty lữ hành, thiếu sự hƣớng dẫn của chính quyền địa phƣơng, vấn đề bảo tồn, bảo vệ tài nguyên và bản sắc văn hoá dân tộc chƣa đƣợc quan tâm thƣờng xuyên Có thể nói hoạt động du lịch ở đây đã có sự tham gia cung cấp dịch vụ phục vụ khách du lịch nhƣng mang tính tự phát của cộng đồng, cần phải xây dựng các tiêu chí cụ thể để đảm bảo lợi ích của các bên tham gia. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 30
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] *Mô hình du lịch tại Sín Chải – Sa Pa – Lào Cai Đặc điểm: Bản cách thị trấn Sa Pa 4km, phần lớn nằm ở địa phận Vƣờn Quốc gia Hoàng Liên với những dãy rừng nguyên thuỷ bạt ngàn với hệ sinh thái đa dạng, quý hiếm. Dân tộc H’mông sinh sống ở đây có một truyền thống văn hoá đặc sắc nhƣ có phong tục tập quán, tín ngƣỡng riêng tồn tại hàng ngàn năm, một kho tàng về các điệu múa, các bài hát tiếng dân tộc, hàng thủ công mỹ nghệ Nhƣng đời sống của họ vô cùng khó khăn. Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV) đã xây dựng một chƣơng trình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại bản Sín Chải trong khuôn khổ của dự án: “Tăng cƣờng năng lực cho các sáng kiến về du lịch bền vững”. Mục tiêu là thúc đẩy cộng đồng tham gia hoạt động du lịch nhằm góp phần phát triển bền vững cộng đồng, bảo tồn đƣợc tài nguyên thiên nhiên và giá trị văn hoá cộng đồng. Chính vì thế mà mô hình du lịch tại bản Sín Chải còn đƣợc gọi là “Du lịch sinh thái cộng đồng”. Các công việc mà ngƣời dân cung cấp cho du khách nhƣ cung cấp nhà trọ, ăn uống, hƣớng dẫn khách, tổ chức các chƣơng trình du lịch, tổ chức tham quan làng bản, tìm hiểu về các phong tục tập quán và cuộc sống của cộng đồng dân tộc, trình diễn văn nghệ Kết quả: tăng thu nhập, nâng cao niềm tự hào của ngƣời dân trong bản về giá trị văn hoá của bản địa, nâng cao vai trò làm chủ của cộng đồng, bà con đã nhận thức đƣợc trách nhiệm với tài nguyên Tiểu kết chƣơng 1 Chƣơng 1 là cơ sỏ lý luận về vấn đề có liên quan tới đề tài đó là du lịch cộng đồng và cộng đồng địa phƣơng. Đây là cơ sở, tiền đề quan trọng để tiếp SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 31
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] cận với du lịch cộng đồng trên cơ sở đó có thể xây dựng và phát triển du lịch cộng đồng tại làng Nghẹt Chƣơng 2 TÀI NGUYÊN VÀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỘNG ĐỒNG TẠI LÀNG NGHẸT - XÃ PHÚ THỊNH - HUYỆN YÊN SƠN - TỈNH TUYÊN QUANG 2.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên 2.1.1. Vị trí địa lý SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 32
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Làng Nghẹt thuộc vùng núi cao phía Bắc của tỉnh Tuyên Quang, nằm cách trung tâm xã Phú Thịnh 4 km, cách thị xã Tuyên Quang khoảng 10 km về phía Nam, cách Hà Nội 170 km. Để đi vào làng phải đi theo Quốc lộ 37, đến dốc Yên Ngựa, rẽ trái, và đi qua suối Húc. Đoạn đƣờng từ thị xã Tuyên Quang đi đến làng là đƣờng mới đƣợc làm lại nên khá thuận lợi. Làng đƣợc bao quanh bởi các ngọn núi có độ cao từ 300 đến 500 m so với mực nƣớc biển, những cánh rừng bạt ngàn của cây Mỡ, cây Keo. So với các địa phƣơng khác ở Tuyên Quang thì làng nằm khá gần trung tâm tỉnh. Đây là một điều kiện thuận lợi để làng có thể phát triển và giao lƣu kinh tế với các địa phƣơng khác. 2.1.2. Địa hình Địa hình huyện Yên sơn nói chung và làng Nghẹt nói riêng khá phức tạp, hầu hết diện tích đất tự nhiên là đồi núi thấp, có độ dốc lớn, bị chia cắt mạnh, gồm nhiều dạng địa hình nhƣ núi cao là ngọn Lũng Chảo 900m, đồi núi, thung lũng, sông suối .Nếu nhìn từ trên cao thì làng nằm trong một thung lũng rộng bao quanh là núi và rừng. Một số cảnh đẹp tiêu biểu của làng là ngọn núi Húc, núi Nghẹt, núi Lũng Chảo, suối Đặng. Đặc biệt là thác Cả và suối Dạt thuộc địa phận của 5 thôn trong xã. Phần chảy qua làng Nghẹt chừng 1km. Từ lâu đã đƣợc nhân dân địa phƣơng và du khách tới đây yêu thích vì vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ 31 nhƣng cũng không kém phần thiêng liêng và huyền bí. Suối Dạt trải dài theo sƣờn đồi, tắm mát cho hơn 108 ha ruộng của 5 thôn mà nó chảy qua. Không chỉ đƣợc yêu thích bởi khí hậu trong lành, mát rƣợi mà suối còn có rất nhiều loài cá ngon. 2.1.3. Khí hậu SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 33
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, lƣợng mƣa trung bình hằng năm ở đây rất lớn từ 1600 - 1800m; mƣa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10. Thời kỳ này lƣợng mƣa chiếm 70 đến 80% lƣợng mƣa cả năm, độ ẩm cao. Thời tiết chia làm 2 mùa rõ rệt hay thay đổi đột biến, thất thƣờng. Mùa nóng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9. Nhiệt độ trung bình 28 độ C, nóng nhất có lúc lên đến 39 độ C. Mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình 16 độ C, có lúc xuống 10 độ C. Nhiệt độ trung bình năm từ 22 -24 độ C. Tổng số giờ nắng trung bình năm khoảng 1500 giờ, độ ẩm không khí trung bình 80 - 82%. Điều kiện khí hậu trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các loại thực vật phát triển. 2.1.4. Thuỷ văn Chế độ thuỷ văn của làng chịu ảnh hƣởng của các con suối chảy qua làng. Nó dùng để phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của làng. Vào mùa hè nƣớc trong và rất nhiều cá. Du khách vào đây thích lội theo những con suối này. Tuy nhiên vào những ngày mƣa to những con suối chảy qua làng nƣớc chảy xiết, ngăn cách làng với bên ngoài. Điều này gây nhiều khó khăn cho bà con trong những năm qua. 2.1.5. Động thực vật Do việc khai thác, săn bắn của cộng đồng nên trong rừng không còn nhiều động thực vật nhƣ trƣớc nhƣng rừng ở đây vẫn còn nhiều gỗ quý, nhiều loài chim thú quý, cùng những đàn bƣớm nhiều màu sắc và các giống côn trùng Nhƣng khách thật khó có cơ may nhìn thấy, ngoại trừ đƣợc nghe tiếng chim rừng và đôi khi tiếng nai, hoẵng gọi bầy 2.2. Điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn 2.2.1.Điều kiện kinh tế xã hội SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 34
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] 2.2.1.1. Cơ cấu kinh tế Nằm trong địa bàn của một huyện miền núi, cơ cấu kinh tế huyện là sản xuất nông, lâm nghiệp. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp năm 2000 là 77,27% GDP, tới năm 2005 là 42,8% GDP, dịch vụ chiếm 18,3% còn lại là công nghiệp khai thác khoáng sản. Nhƣ vây cơ cấu kinh tế của huyện đang có sự chuyển dịch theo hƣớng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp. Huyện đang đẩy mạnh việc phát triển các ngành dịch vụ nhất là du lịch, toàn huyện đã xây dựng một số chƣơng trình du lịch và bƣớc đầu có kết quả. 2.2.1.2. Hạ tầng cơ sở Hệ thống đƣờng giao thông từ thị xã Tuyên Quang tới đây đi trên Quốc lộ 2, đƣờng khá đẹp nhƣng từ chân núi Yên Ngựa đi vào làng thì đƣờng rất xấu, chủ yếu là đƣờng đất do bà con tự làm từ nhiều năm nay. Vào những ngày mƣa đƣờng lầy lội ảnh hƣởng rất lớn tới sinh hoạt của bà con. Hệ thống thông tin liên lạc trong những năm gần đây khá phát triển, mật độ điện thoại đạt 5,8 máy/100dân, mạng lƣới di động cũng đƣợc phủ sóng khắp địa phƣơng Hệ thống điện: làng đã có điện từ năm 1998 và đến nay làng đã có trạm biến áp riêng phục vụ cho đời sống và sản xuất của bà con. 100% các gia đình đã sử dụng mạng lƣới điện quốc gia. Hệ thống nƣớc sinh hoạt: dân làng vẫn dùng giếng, nƣớc suối chảy qua làng để phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Tỉnh đang chú trọng xây dựng các công trình cấp nƣớc nhỏ cho nhân dân miền núi. Đây là điều đáng mừng vì bà con vẫn luôn mong muốn đƣợc sử dụng nguồn nƣớc sạch để đảm bảo vệ sinh trong sinh hoạt và giữ vệ sinh môi trƣờng. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 35
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] 2.2.3. Cơ chế chính sách Cùng với công tác quy hoạch, huyện đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá về du lịch, đồng thời chỉ đạo chính quyền các địa phƣơng tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức của ngƣời dân về văn hoá, du lịch, tham gia giữ gìn vệ sinh môi trƣờng tại các điểm du lịch, bảo đảm xanh, sạch, đẹp và văn minh để thu hút ngày càng đông khách du lịch đến tham quan. Ngoài chính sách hỗ trợ theo quy định của nhà nƣớc và của tỉnh, khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tƣ vào lĩnh vực du lịch, huyện tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng, thành lập quỹ phát triển du lịch, hỗ trợ và khuyến khích cộng đồng dân cƣ tham gia hoạt động du lịch, nhất là các loại hình du lịch tại các gia đình, thôn, bản, các làng văn hoá - du lịch. Trong kế hoạch phát triển du lịch đến năm 2010, Yên Sơn phấn đấu đạt tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 27% trong cơ cấu kinh tế của huyện, thu hút trên 100.000 lƣợt khách đến tham quan du lịch tại các điểm du lịch trên địa bàn, phát triển trên 200 khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng, các điểm vui chơi, giải trí, đạt giá trị doanh thu trên 100 tỷ đồng, tạo điều kiện cho trên 1.000 lao động hoạt động trong ngành du lịch. Đây sẽ là điều kiện để có thể xây dựng mô hình du lịch cộng đồng ở các làng bản của huyện nói chung và làng Nghẹt nói riêng. 2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn của người Dao ở làng Nghẹt 2.2.2.1. Khái quát về người Dao ở làng Nghẹt a. Nguồn gốc lịch sử của người Dao Về nguồn gốc lịch sử SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 36
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Các nhà dân tộc học Việt Nam đều khẳng định ngƣời Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc. Họ mới chỉ có mặt ở nƣớc ta ở khoảng thế kỷ thứ XIII. Trong sâu thẳm tâm linh của mình ngƣời Dao luôn coi Dƣơng Châu là vùng “đất hứa”. Sau khi chết, chỉ linh hồn của ngƣời tốt mới đƣợc về Dƣơng Châu, còn những ngƣời xấu xa linh hồn bị đày xuống mƣời tầng địa ngục. Theo tác giả của công trình “Ngƣời Dao ở Việt Nam” những ngƣời Dao sinh sống ở vùng Đông Bắc và trung du Bắc bộ đi bằng đƣờng thuỷ và thời gian thiên cƣ kéo dài từ thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XX. Nhóm ngƣời Dao đang sinh sống ở Tuyên Quang đã từ Lƣỡng Quảng đến Việt Nam vào thời nhà Minh, khoảng từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII. Dao Tuyên Quang có dân số khá đông, đứng thứ ba sau các dân tộc Kinh, Tày. Trên địa bàn tỉnh tuyên Quang có các ngành Dao: Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Quần Trắng, Dao Thanh Y, Dao Áo Dài Đời sống của đồng bào ngƣời Dao Quần Trắng chứa đựng những yếu tố riêng, các giá trị văn hoá đƣợc thể hiện qua tiếng nói, chữ viết, nhà ở, trang phục, ăn, uống, mối quan hệ gia đình, làng bản, tín ngƣỡng, văn hoá và tri thức dân gian tạo nên bản sắc riêng có phân biệt với các tộc ngƣời khác b. Một số hoạt động kinh tế - xã hội Hoạt động kinh tế Kinh tế của địa phƣơng cho đến nay vẫn còn kém phát triển. Trồng trọt cây lƣơng thực, trong đó cây lúa là chính, là hoạt động đảm bảo đời sống của họ. Ngoài ra còn có một số hoạt động khác nhƣ: chăn nuôi, thủ công, trao đổi buôn bán, trồng rừng. Trong những năm gần đây đời sống của đồng bào địa phƣơng đã có nhiều thay đổi. Song những tập quán hoạt động mƣu sinh mang tính tộc ngƣời của họ vẫn đƣợc giữ gìn, bảo lƣu. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 37
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Trồng trọt: nƣơng rẫy là đối tƣợng canh tác chính. Bên cạnh đó họ cũng canh tác ở ruộng nƣớc và ruộng bậc thang.Trong canh tác họ vẫn dùng những dụng cụ thô sơ để chặt cây và gieo hạt. Chăn nuôi: gồm có các loại trâu, bò, lợn, gà, vịt, ngan, ngỗng Thủ công gia đình: Họ có khá nhiều nghề thủ công nhƣ làm đồ trang sức, dệt vải, đan lát đồ mây tre. Các khâu kỹ thuật chủ yếu làm bằng tay và đƣợc tiến hành theo kinh nghiệm, truyền từ đời này qua đời khác, không có ngƣời chuyên để dạy. Văn hoá vật chất Nhà cửa Đến nay nhà ở của ngƣời Dao Quần Trắng tuy đã có những thay đổi nhƣng họ vẫn giữ lại những đặc điểm truyền thống để phân biệt với nhà của các dân tộc anh em. Kiểu nhà truyền thống của ngƣời Dao Quần Trắng là nhà sàn, thƣờng đƣợc làm ba gian, cách chắp nối các câu kiện bằng nguyên liệu rời. Tuy nhiên, họ không phải dùng đinh trong quá trình lắp ghép nhà ở. Kiểu nhà này chỉ có một cầu thang lên xuống, cầu thang có số bậc lẻ; trong nhà thƣờng có hai bếp. Nhà của họ thƣờng có số gian lẻ, ít cửa sổ, bàn thờ đƣợc bố trí ở gian giữa, có cửa chính và cửa phụ. Trang phục: Về trang phục: so với các dân tộc khác thì dân tộc Dao đƣợc coi là còn giữ đƣợc nhiều nét bản sắc của mình với chất liệu bằng vải bông nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 38
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Đàn ông nơi đây mặc một loại quần ống túm màu trắng đƣợc may từ vải dệt tay. Quần trắng của nam giới có màu trắng tinh, thân quần phình to, ống quần ngắn nhỏ. Trên ống quần có thêu 5 đƣờng màu đỏ giống nhƣ 5 ngón tay, ở giữa dài, hai bên ngắn. Theo truyền thuyết của dân gian của Dao quần trắng, họ từng có một cuộc chiến với quan thổ ti Nam Đan. Tổ tiên Dao quần trắng bị đánh bại, rất nhiều ngƣời bị thƣơng, bàn tay ƣớt đẫm máu. Bất ngờ, có một ngƣời đứng lên, ấn 5 ngón tay lên chiếc quần trắng. Để ghi nhớ lịch sử, con cháu đời sau của ngƣời Dao quần trắng đã xem chiếc quần in dấu tay máu là vật thiêng liêng đồng thời, trên ống quần của họ đƣợc thêu 5 đƣờng hoa văn, tựa nhƣ hình bàn tay để con cháu đời sau ghi nhớ sự tàn khốc của chiến tranh. Phụ nữ Dao quần trắng lấy màu đen, xanh, trắng làm gam màu chủ đạo. Họ mặc kiểu áo tròng cổ, vạt trƣớc và sau là một mảnh vải lớn. Đây là một kiểu trang phục cổ xƣa nhất của con ngƣời. Từ nhỏ, các bé gái đã đƣợc mẹ dạy thêu thùa. Đó cũng là sự truyền thụ những giá trị văn hóa và lịch sử Dao Quần Trắng nổi bật là yếm rất to che kín cả ngực và bụng, ngày cƣới cô dâu mặc quần trắng. Ăn: Họ ăn cơm là chính. Cối xay lúa thƣờng dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại nhƣ cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nƣớc Uống: họ uống rƣợu cất, và cả rƣợu không qua chƣng cất, có vị chua, ít cay. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 39
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Vận chuyển: do đƣờng sá đi lại rất khó khăn nên họ chủ yếu đi bộ với chiếc gùi đeo vai, đòn gánh bằng tre hoặc đeo túi vải. Nếu đem đồ nặng thì họ thƣờng dùng ngựa thồ Văn hoá xã hội Ngƣời Dao cƣ ttrú tập trung thành từng bản làng riêng. Làng Nghẹt có 94 hộ với gần 400 nhân khẩu. Trong thôn xóm chủ yếu tồn tại quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ. 2.2.2.2. Tín ngưỡng dân gian Thờ cúng tổ tiên gia đình và cộng đồng Ở gia đình ngƣời Dao bàn thờ tổ tiên đƣợc đặt trang trọng ở giữa nhà. Bàn thờ có hai dạng là bàn thờ của dòng họ và bàn thờ của mỗi gia đình. Bàn thờ tổ tiên dòng họ đƣợc đặt tại nhà ông trƣởng họ với đầy đủ các dụng cụ cúng bái nhƣ các tranh thở, trống, chiêng, chuông, nhạc, sách cúng. Họ tiến hành cúng vào các dịp lễ tết hoặc khi các gia đình có chuyện. Tất cả ngƣời Dao đều tin rằng những ngƣời thân trong gia đình chết lành đều về với tổ tiên của họ ở Dƣơng Châu, Trung Quốc nhƣng vẫn giữ mối liên hệ với con cháu ở Việt Nam. Do đó thờ cúng tổ tiên là cách để duy trì mối liên hệ qua lại giữa con cháu và tổ tiên. Lễ cúng Bàn Vương Bàn Vƣơng đƣợc coi là thuỷ tổ của ngƣời Dao. Họ cho rằng thờ cúng Bàn Vƣơng liên quan tới vận mệnh của dân tộc, dòng họ, gia đình thậm chí là từng cá nhân. Trong tín ngƣỡng của ngƣời Dao có hai lễ cúng liên quan đến cúng Bàn Vƣơng là Chẩu đàng và Nhiàng chẩm đao. Trong “Quá Sơn bảng SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 40
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] văn” có nói đến việc con cháu Bàn Vƣơng phải cúng âm hồn của Bàn vƣơng theo định kỳ: cứ ba năm phải cúng một lần và khi cúng thì phải cúng ba năm liền, hai năm đầu cúng nhỏ, đến năm thứ ba cúng to. Khi cúng họ thƣờng đọc quyển sách về Bàn Vƣơng kể cề sự tích Bàn Vƣơng và quá trình thiên di cùa ngƣời Dao. Tết nhảy (Nhiàng chẩm đao) Tết nhảy là lễ hội lớn liên quan đến cúng Bàn Vƣơng. Mục đích là cúng tổ tiên của dòng họ, cầu xin phù hộ, che chở cho mọi thành viên trong gia đình mạnh khoẻ, sản xuất phát đạt. Ngƣời Dao tổ chức Nhiàng chẩm đao vào ngày mồng Một hoặc ngày mồng Hai tháng Giêng Âm lịch theo dòng họ và làm lễ tại nhà trƣởng họ. Tết nhảy phải mời hai thầy cúng giỏi trông coi các nghi thức, nghi lễ. Lễ vật cúng gồm có gà rƣợu, hƣơng hoa, nến và một chiếc bánh dày trên cắm một nhánh hoa đào. Tất cả lễ vật đƣợc bày trên một chiếc bàn thờ nhỏ đặt trƣớc bàn thờ. Xung quanh nơi đặt bàn thờ thƣờng dán nhiều tờ giấy màu xanh, đỏ, vàng viết chữ Nôm kể tên tuổi của các chủ gia đình trong dòng họ. Trong lúc thờ cúng, mọi ngƣời phải tỏ thái độ thành kính, trang nghiêm, không đƣợc cƣời đùa, ngƣời ngoài họ không đƣợc tham dự và mọi ngƣời chỉ nói tiếng Dao (cấm nói tiếng dân tộc khác), nếu ai vi phạm sẽ bị xử phạt. Tết nhảy ngoài những thủ tục chung nhƣ các nghi lễ khác đặc trƣng nổi bật của nó là một vũ điệu “bắt ba ba”, diệt trừ yêu quái, luyện âm binh để bảo vệ dòng họ. Sau khi khấn xong thấy cúng sẽ đứng múa trƣớc bàn thờ tổ tiên hai điệu: điệu múa của thầy cúng và múa của thần linh. Điệu múa của thầy cúng SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 41
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] là những điệu nhảy bình thƣờng còn điệu múa của thần linh là khi thầy cúng “xuất thần” nhập vào thế giới thần linh, tổ tiên, thể hiện sự hiện diện của tổ tiên. Trong khi múa xuất thần, thầy cúng bị cuốn vào trạng thái ngây ngất trong tiếng nhạc rộn rã của kèn, trống, thanh la. Điệu múa trung tâm của nghi lễ Nhiàng chẩm đao là điệu múa tập thể vòng quanh một cái mẹt. Họ múa cho đến khi rơi vào trạng thái xuất thần, có thể lăn lộn dƣới đất hoặc bốc than hồng mà không sợ bị bỏng. Trong số họ, những ngƣời đƣợc ma tổ tiên nhập vào sẽ phán truyền cho con cháu trong họ rằng tổ tiên đã chứng giám nghi lễ, mong con cháu thƣơng yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Kết thúc lễ hội là điệu múa giết ba ba (có nơi gọi là rùa) ăn thịt với ý nghĩa cầu may. Cuối cùng thầy cúng sẽ thu âm binh, ngồi khán trƣớc bàn thờ tổ tiên rồi đặt thanh đoản kiếm lên bàn chân và hất lên bàn thờ. Khi thầy hất đƣợc thanh đoản kiếm lên bàn thờ, nghi lễ mới chính thức hoàn tất. 2.2.2.3 .Phong tục tập quán tiêu biểu a. Tục lệ cưới xin Đối với ngƣời Dao Quần trắng, cô dâu mặc quần trắng, áo chàm, đội mũ thêu hoa văn rất cầu kỳ (gọi là mũ bồ đài). Số nam thanh niên phù rể cũng mặc quần trắng. Bắt đầu là lễ dạm hỏi (lễ "Nịnh nại" hay "Nại nhan"), sau đó đến lễ ăn hỏi (lễ "Ghịa tịnh") rồi đến lễ cƣới (lễ "Chịp nham"). Nhà trai cử một đoàn đi đón dâu với số lƣợng đƣợc chọn lọc và đảm bảo đủ các thành phần nhƣ: trƣởng đoàn (gọi là "áy Tả"), chủ hôn (tức ông Mờ), ngƣời đứng vị trí tiếp theo là "Lại Coỏng" (ông Mối), tiếp đến chú rể và có hai em trai nhỏ dƣới 12 tuổi đi phù rể làm nhiệm vụ dắt rể lên nhà gái sau đó dắt dâu về nhà trai. Cùng đi còn có 7 nam thanh niên trẻ, khỏe, khôi ngô, SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 42
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] nhanh nhẹn và có tài hát đối cầm sáo theo để hát, tất cả đều mặc quần trắng, áo đen, khăn đen. Đoàn đón dâu khi đến cách nhà gái chừng vài mét thì dừng lại và một nam thanh niên bắt đầu thổi sáo với làn điệu báo tin đoàn đã đến. Lúc này, chú rể đƣợc chùm lên đầu chiếc áo vàng (Gúy vằng), một em trai nhỏ cầm hai tay áo của chú rể, dắt chú rể vào cổng, đến chân cầu thang dừng lại để đội nam thanh niên hát bài chào hỏi và xin lên nhà. Khi nhà gái đáp lại, đồng ý đón chú rể thì hai em nhỏ làm nhiệm vụ dắt chú rể lên nhà, đƣa đến tận buồng cô dâu rồi ngủ bạn cùng chú rể một đêm tại buồng, còn cô dâu lại đƣợc giấu tạm ở chỗ khác. Trong thời gian đó, bên ngoài vẫn diễn ra thủ tục, nghi lễ giữa trƣởng đoàn, ông mối với ngƣời đại diện bên nhà gái và cuộc hát đối giữa nam thanh niên họ nhà trai với nữ thanh niên bên họ nhà gái. Hôm sau, chú rể có thể về một mình hoặc cùng về với đoàn nhà trai chứ không cùng về với cô dâu. Khi chú rể rời buồng thì ít phút sau, cô dâu mới trở về buồng để ông trƣởng đoàn và hai em trai nhỏ của nhà trai vào dắt tay ra, đƣa xuống cầu thang. Khi về đến gần cầu thang nhà trai, một em trai cầm tay áo của cô dâu, một em đi theo sau dẫn hai cô phù dâu, chuẩn bị làm nhiệm vụ dẫn cả ba cô vào buồng. Lúc cô dâu đặt chân đến cầu thang, một bà cô hay chị gái chồng đem đến một chiếc áo dài màu chàm, một yếm thêu nền trắng và nữ trang khoác lên ngƣời cô dâu rồi chùm "Gúy vằng" lên đầu. Sau một ngày, cô dâu đƣợc về lại mặt bố mẹ đẻ, khi xuống cầu thang thì bà cô hoặc chị gái chồng lại ra cởi bộ áo ngoài để lại nhà chồng, cho đến lúc dâu trở về mới trao lại. Việc đó có ý nghĩa chính thức công nhận cô dâu là ngƣời nhà mình. Trong lễ cƣới của ngƣời Dao Quần trắng, các vị đại diện cho quan viên hai họ bao giờ cũng đƣợc bố trí ngồi ở nơi trang trọng thuộc gian giữa. Trong tiệc rƣợu, các "Phiêu Chòi" (là ngƣời giỏi chữ) thƣờng hát xƣớng những câu tục ngữ, thành ngữ hoặc những lời răn dạy thanh niên nam nữ nhƣ: SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 43
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] "Gái khôn đừng nên khinh chồng, Con làm nên không được khinh cha". Hay "Khéo nói thì người yêu", "Ma chết mất miệng, người chết cạn lời" Từ những lời hát của các Phiêu Chòi, mọi ngƣời đều rất vui và tự kiểm bản thân mình đã ăn ở nhƣ thế nào và phải làm thế nào để giữ đƣợc cốt cách ngƣời Dao. Lễ cƣới của ngƣời Dao Quần trắng có vẻ đẹp huyền bí và thiêng liêng. Ngày nay, trong nhịp sống mới, ở một vài nơi đã có phần cải tiến cho gọn nhẹ hơn, nhƣng cơ bản vẫn giữ đƣợc những thủ tục và nghi lễ chính. Dự một lễ cƣới của ngƣời Dao Trắng, có thể phân biệt đƣợc ngay so với các nhóm Dao khác. b. Lễ cấp sắc (Chẩu đàng) Theo truyền thống thì ngƣời đàn ông Dao đƣợc giáo dục, rèn luyện về nhiều mặt để làm trụ cột cho gia đình, dòng họ và cộng đồng. Phẩm chất của họ đƣợc kiểm nghiệm qua những kỳ lễ đặc biệt dành cho nam giới. Họ gọi đó là Lễ cấp sắc. Đặc điểm chung nhất của Lễ cấp sắc là ngƣời thụ lễ đƣợc thầy cúng cấp cho một bản sắc bằng chữ Nôm Dao, trong đó ghi rõ lai lịch cá nhân, lý do cấp sắc, điều giáo huấn và tên tuổi những thầy cúng đã tham gia làm lễ cấp sắc cho ngƣời thụ lễ đó. Sau khi đƣợc cấp sắc lần đầu ngƣời đàn ông Dao phải tự học hỏi để đƣợc cấp sắc ở bậc cao hơn. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 44
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Đàn ông Dao phải qua một lần cấp sắc mới đƣợc coi là ngƣời trƣởng thành. Trong xã hội ngƣời Dao nói chung có ý thức phân biệt trẻ già, đặc biệt giữa những ngƣời đƣợc cấp sắc và những ngƣời chƣa qua cấp sắc. Họ quan niệm ngƣời trải qua lễ cấp sắc mới có tâm, có đức để phân biệt phải trái, mới đƣợc công nhận là con cháu của Bàn Vƣơng, khi còn sống thì đủ tƣ cách thở cúng tổ tiên và khi chết thì hồn mới đƣợc đoàn tụ về với tổ tiên, không phải chịu kiếp đày đoạ ở âm phủ. Ngƣời đƣợc cấp sắc có âm binh và đủ uy lực điều khiển chúng bảo vệ gia đình, dòng họ. Trong thực tế ngƣời đƣợc cấp sắc đều là những ngƣời am hiểu các phong tục tập quán và có khả năng hƣớng dẫn các sinh hoạt của cộng đồng theo các phong tục đó. Cấp sắc phải theo nguyên tắc: cấp cho bố rồi mới cho con, cho anh rồi mới cho em. Anh em cùng họ có thể tổ chức cấp sắc một lần cho nhiều ngƣời. Hầu hết nam giới cấp sắc đều biết cúng. Những ngƣời thạo cúng thƣờng đƣợc mời đi cúng. Họ là những ngƣời có hiểu biết rộng, biết đọc chữ Hán Nôm, có kinh nghiệm sản xuất, biết chữa bệnh. Ông thầy trong Lễ cấp sắc phải chọn thầy cao tay, ngày tháng cấp sắc đƣợc chọn rất cẩn thận, ngƣời đƣợc cấp sắc phải thuần thục các nghi lễ quy định trong các bản sắc. Một buổi cấp sắc có thể làm cho một ngƣời hoặc vài ngƣời nhƣng phải là số lẻ. Ngƣời đàn ông có vợ thƣờng đƣợc chọn để cấp sắc trƣớc, vì để đƣợc coi là ngƣời đàn ông trƣởng thành bắt buộc phải qua lễ cấp sắc. Lễ cấp sắc có nhiều bậc, bậc đầu tiên đƣợc họ đƣợc cấp 3 đèn và 36 binh mã. Bậc 2 họ đƣợc cấp 7 đèn và 72 binh mã và cuối cùng là 12 đèn và 120 binh mã. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 45
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Ngày hành lễ cấp sắc thƣờng tiến hành vào cuối năm. Trƣớc khi hành lễ, ngƣời cấp sắc phải kiêng khem một số thủ tục nhƣ: không nói tục chửi bậy, không đƣợc quan hệ vợ chồng Thời gian tiến hành lễ cấp sắc 3 đèn kéo dài 1 đến 2 ngày, cấp sắc 7 đèn kéo dài từ 3 đến 5 ngày. Các nghi lễ chính trong lễ cấp sắc gồm có: Lễ trình diện, gia chủ mổ lợn để tế lễ tổ tiên, các thầy cúng phải tẩy uế xong mới đánh trống mời tổ tiên về dự, sau đó thầy cúng làm lễ khai đàn, nhằm báo cho tổ tiên lý do của buổi lễ. Tiếp đó, tại lễ thụ đèn, ngƣời đƣợc cấp sắc phải ăn mặc chỉnh tề ngồi trƣớc bàn thờ, hai tay giữ một cây tre, nứa, ngang vai có đục và xuyên một thanh ngang dài vừa tầm vai để thầy đốt đèn, đặt nến để làm lễ. Đặc biệt là trong lễ cấp sắc là cấp đạo sắc cho ngƣời thụ lễ với 10 điều cấm và 10 điều nguyện, tại đạo sắc này tên âm của ngƣời thụ lễ ghi luôn để khi chết về với tổ tiên. Quan trọng nhất trong buổi lễ này là cấp pháp danh cho ngƣời thụ lễ. Ngƣời thụ lễ lấy vạt áo để hứng lấy gạo từ thầy cả và bố đẻ. Sau đó các thầy sẽ dạy cho ngƣời thụ lễ một số điệu múa. Kết thúc nghi lễ, các thầy múa để dâng rƣợu, lễ vật để tạ ơn thần linh. Từ đây chàng trai đƣợc thụ lễ đã đƣợc coi nhƣ một ngƣời đàn ông trƣởng thành hoàn toàn về thể chất cũng nhƣ tâm linh. Có thể nói, lễ cấp sắc của ngƣời Dao có giá trị nhân văn cao. Tính giáo dục của lễ tục đó đƣợc thể hiện ở chỗ các điều giáo huấn ghi trong sắc cấp cho ngƣời thụ lễ đều hƣớng tới những điều thiện, ngƣời thụ lễ tuyệt đối không làm điều ác, điều xấu Họ là ngƣời luôn tôn kính thầy dạy, biết ơn nghĩa cha SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 46
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] mẹ, thuỷ chung với bè bạn, trọng nghĩa khinh tài, có lòng vị tha và dũng cảm, không lừa lọc, không dâm đãng Trong lễ cấp sắc, nhiều điệu múa cổ truyền dân gian đƣợc trình diễn, với sự tham gia đông đảo của dân bản. Phần lớn các tiết mục văn nghệ độc đáo của dân tộc Dao đƣợc tiếp thu và cải biên để biểu diễn trên sân khấu hiện đại đều đƣợc trích từ các điệu múa trong lễ cấp sắc. 2.2.2.4. Tri thức kinh nghiệm dân gian a. Kinh nghiệm trong hoạt động kinh tế sản xuất vật chất Kinh nghiệm trồng trọt Sinh sống trong môi trƣờng miền núi, độ dốc lớn, địa hình chia cắt mạnh, rừng nhiệt đới hiểm trở, nhiều thung lũng, bồn địa thấp nên việc canh tác của họ khá thô sơ và gặp nhiều khó khăn. Để mở rộng diện tích canh tác, sau dịp tết Nguyên Đán họ tận dụng các bồn địa, thung lũng chân núi để khai phá ruộng nƣớc, đất có độ dốc thấp thành ruộng bậc thang. Cứ thế qua nhiều năm diện tích lúa nƣớc của họ ngày càng tăng, canh tác nƣơng rẫy chỉ mang tính chất hỗ trợ cho canh tác. Để có nƣớc đƣa vào ruộng, họ dựa vào thiên nhiên, dựa vào địa hình núi đồi để đắp đập, đào mƣơng, bắc máng hoặc dẫn nƣớc từ các mỏ, khe trên núi cao về các khu ruộng. Và công việc này đã trở thành nếp sống từ nhiều đời nay của họ. Việc thu hoạch lúa đƣợc tiến hành bằng liềm, cắt ngang cây, bó lại thành từng bó nhỏ, đập lúa ngay trên ruộng. Dụng cụ để đập lúa là thùng đóng bằng gỗ, đƣợc che kín ba phía (trƣớc, phải, trái). Thóc đập ra đƣợc chuyển về nhà bằng gùi. Ngày nay khi mà máy móc tham gia vào hầu hết hoạt động sản SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 47
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] xuất nông nghiệp thì cách làm truyền thống của bà con nơi đây khiến rất nhiều du khách tới đây thích thú và muốn khám phá. Kinh nghiệm khai thác từ nguồn lợi tự nhiên Công cụ săn bắt của họ khá thô sơ: để săn bắt thú họ sử dụng súng kíp, chiếc nỏ tự tạo và các loại bẫy (bẫy chông, bẫy đá, bẫy cặp, bẫy treo ) b. Hoạt động ăn uống Đồ ăn Để làm xôi nhiều màu ngƣời ta cũng đem đồ nhƣ đồ xôi bình thƣờng, nhƣng trƣớc khi đồ gạo nếp phải chia thành từng phần theo từng loại màu. Sau đó đem phần gạo định đồ màu đỏ ngâm vào chậu nƣớc lá cây có màu đỏ, phần định làm xôi màu vàng thì ngâm vào chậu nƣớc nghệ màu vàng, phần định làm màu xanh thì ngâm vào chậu nƣớc cây cỏ màu xanh còn phần xôi mảu trắng thì ngâm vào nƣớc lã. Hết thời gian ngâm, vớt gạo để vào chõ theo từng màu, màu trắng xếp trên cùng. Sau khi gạo màu các loại đồ chín, đem trộn với nhau sẽ đƣợc xôi nhiều màu. Đôi khi ngƣời ta cũng làm cơm lam. Các món ăn của ngƣời Dao chủ yếu là các dạng xào, luộc, hầm, nấu, rán, nƣớng. Món xào chủ yếu đối với thịt lợn, lòng gan lợn, thịt chua, thịt ƣớp treo, thịt dê, thịt trâu và thịt thú rừng Nhiều thứ nhƣ thịt chim, thịt chuột rừng, thịt ếch, châu chấu, nhộng ong cũng đƣợc đem xào để ăn cho thơm. Món nƣớng gồm có mực nƣớng, cá nƣớng, thịt lợn nƣớng, chim nƣớng ngoài cách nƣớng trực tiếp trên than cũng có loại đƣợc nƣớng bằng cách gói đồ nƣớng vào lá chuối hay lá dong sau đó vùi xuống tro nóng cho đến khi chín. Đồ uống SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 48
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Ngƣời Dao rất thích uống rƣợu và chủ yếu là rƣợu cất. Đáng chú ý là cho đến nay đồng bào vẫn duy trì tập quán uống rƣợu thuốc và chế biến rƣợu thuốc bằng việc ngâm rƣợu cất với một số loại rễ cây có vị bổ, nhất là ngâm với thuốc bắc hoặc những bộ phận quý hiếm quí một số loại chim thú săn bắt đƣợc. Ngoài ra, ngƣời Dao thích nấu rƣợu bằng bột lấy từ than cây đao (tao), cây móc (khô long), cây bang. Đây là cây họ dừa mọc rất nhiều trong rừng nhằm phục vụ nhu cầu của gia đình trong ngày lễ. c. Kĩ thuật sản xuất ra bộ trang phục truyền thống Kỹ thuật dệt vải Ngƣời Dao có nhiều kinh nghiệm trong việc trồng bông, thu hái, quay sa, kéo sợi. Sau khi sợi đƣợc cuốn thành con trƣớc khi mắc vào khung cửi dệt, ngƣời thợ phải tiến hành nhiều công đoạn kỹ thuật nhƣ hồ sợi, lắp sợi vào gò bìa, gƣờng, trục hoa Kỹ thuật nhuộm chàm Y phục của ngƣời Dao là màu chàm và thêu các loại chỉ màu tạo hoa văn. Để có đƣợc màu xanh chàm truyền thống ngƣời Dao phải tiến hành một số công đoạn nhƣ trồng cây chàm, làm cao chàm và nhuộm chàm. Kỹ thuật làm cao chàm và nhuộm chàm chủ yếu làm thủ công bằng tay và đƣợc tiến hành theo kinh nghiệm truyền từ đời này sang đời khác, không có ngƣời chuyên dạy. Để có chảo chàm đạt tiêu chuẩn, trƣớc khi nhuộm họ còn phải pha chế một số nguyên vật liệu khác nữa nhƣ lấy tro bếp ngâm trong nƣớc, dùng mảnh và lấy khoảng 50 đến 60 lít nƣớc đựng trong một cái chảo to. Cho 0,5 kg cao SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 49
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] chàm, một chén rƣợu, ít gừng, củ riềng, củ phù hoá, một ít cây rau râm, vỏ cây lúc lác. Tất cả đƣợc đập nát rồi cho vào chảo nƣớc tro lọc đun sôi lên khoảng một tiếng, để nguội rồi cho vải vào nhuộm. Trƣớc khi nhuộm họ phải giặt nƣớc lã thật kỹ để vải hết hồ, mới dễ bắt màu và khi nhuộm không bị loang lổ, nƣớc chàm ngấm đều. Muốn có màu chàm ƣng ý họ phải nhuộm đi nhuộm lại nhiều lần trong ngày. Mỗi lần nhúng vải vào chảo nƣớc chàm một giờ rồi vớt ra để ráo nƣớc lại ngâm tiếp, làm nhƣ vậy khoảng 5 đến 7 lần mới vắt nƣớc, phơi khô và nhuộm them một lần nữa mới kết thúc. Để giữ màu chàm bền đẹp họ còn phải ngâm vải chàm trong bùn non một lần, sau đó giắt sạch mới đem cắt may, thêu thùa. Kinh nghiệm lấy nguyên liệu và nhuộm chỉ màu thêu hoa văn Xƣa kia ngƣời Dao dùng thuốc nhuộm chỉ thêu bằng các loại cây có sẵn trong rừng. Theo kinh nghiệm muốn lấy cây có màu vàng lấy từ cây “tàng tằng”, màu đỏ lấy từ cây “chồng mua”, màu nâu lấy từ cây “sồng mụa” hoặc củ nâu, màu xanh nhạt từ cây chít, màu tìm từ cây mâm xôi. Các loại cây này lấy về chặt nhỏ, đổ nƣớc ngâm rồi đun sôi khoảng một tiếng đổ ra chậu, cho sợi vào nhuộm khoảng một phút, vắt khô đem phơi, và phải nhuộm ba lần, sợi thêu mới không phai. Khi nhuộm xong, đƣa sợi ngâm trong nƣớc tro bếp làm cho sợi săn và giữ màu tốt hơn. Kỹ thuật tạo hoa văn Y phục nam giới của ngƣời Dao không thêu thùa để nguyên màu chàm đen, còn y phục nữ giới thêu hoa văn sặc sỡ. Hoa văn thêu chủ yếu đƣợc trang trí trên áo, khăn, yếm, xà cạp, tạp dề với nhiều hoạ tiết trang trí khác nhau thể hiện bản sắc dân tộc. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 50
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Hoa văn ghép vải (chùn cháo) là khâu ghép các dải vải khác màu lên trên nền vải chàm. Hoa văn ghép vải đƣợc thực hiện trên tay, nẹp ngực, gấu áo, hai bên nách áo và ở yếm. Các dải vải thƣờng đƣợc cắt nhỏ theo chiều dài và đƣợc gấp viền mép rồi khâu lên nền vải chàm tạo thành các dải dài ngắn, to nhỏ khác nhau, chạy song song xen kẽ nhau. Cách thêu hoa văn của ngƣời Dao: Họ không thêu vắt các đƣờng chỉ lên sợi vải mà thêu luồn chỉ vào các kẽ sợi ở mặt trái vải, hoạ tiết hoa văn sẽ hiện lên mặt phải. Họ thêu không có bản mẫu sẵn mà các đồ án hoa văn đều dựa vào trí nhớ do quá trình trao truyền kinh nghiệm của ngƣời mẹ, ngƣời chị hoặc bạn bè cùng trang lứa từ khi 9, 10 tuổi. Khi thêu họ phải đếm từng sợi và khéo léo, bình tĩnh để tính toán cẩn thận từng đƣờng kim, mũi chỉ dọc ngang trên vải. Khoảng cách mũi chỉ bao nhiêu phụ thuộc vào việc thêu hình gì, to nhỏ, cao thấp ra sao Hoa văn thêu của ngƣời Dao rất phong phú về màu sắc, loại hình và có đặc điểm là: Các mẫu hoa văn thêu ghép trên y phục có tính thống nhất về mặt tộc ngƣời rất cao. Đây là hệ quả của quá trình truyền bá kiến thức bản địa trong phạm vi cộng đồng. Các dạng mẫu hoa văn, các kỹ năng thực hành đƣợc truyền từ đời này qua đời khác một cách tự nhiên, không khiên cƣỡng. Nó trở thành một thói quen, thành yếu tố tâm lý, thẩm mỹ mang tính cộng đồng, mặc nhiên đƣợc thừa nhận và duy trì từ đời này sang đời khác. Kỹ thuật chế tác đồ trang sức Trang sức của dân tộc Dao chủ yếu là ngƣời phụ nữ để tăng thêm vẻ đẹp của giới tính và có ý nghĩa tín ngƣỡng xã hội sâu sắc. Trang sức của phụ nữ gồm có: đồ bằng bạc hoặc đồng, nhôm nhƣ khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, nhẫn, xà tích, cúc bạc SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 51
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Kỹ thuật chế tác trang sức: để làm trang sức trƣớc tiên phải có lò than hồng, nung kim loại cho nóng chảy, gắp nồi kim loại đổ vào khuôn đúc tạo thành các thanh dẹt. Miếng kim loại này tiếp tục cho vào lò nung nóng lên, sau đó mới uốn rèn thành các loại trang sức. Để có các loại hoa văn trên trang sức ngƣời thợ phải dùng đục nhỏ, chạm khắc tỉ mỉ tạo thành các đƣờng nét tinh vi, sắc sảo. Đối với đồ trang sức dẹt, mỏng nhƣ cúc bạc, hoa bạc, hình sao có nhiều hình nổi hay chìm nhỏ tinh vi họ dùng khuôn đã có sẵn hoa văn để dập. Cuối cùng sản phẩm đƣợc giũa các gờ, vỉa, đánh bóng. Cách đánh bóng của họ cũng khá độc đáo, sản phẩm sau khi đã hoàn chỉnh, đƣa vào nồi nƣớc có pha dung dịch kiềm hoặc muối đun sôi khoảng một giờ thì vớt ra khi đó sản phẩm mới bóng đẹp. 2.2.2.5. Ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật dân gian a. Ngôn ngữ Tiếng nói của ngƣời Dao khá phong phú và đa dạng cả về số lƣợng từ cũng nhƣ cách phát âm. Tiếng Dao khi phát âm những tiếng nặng nhƣ tr, s, th, kh thƣờng khó vì thế ngƣời Dao nói tiếng Việt hay bị ngọng, thiếu chính xác. Do vậy khi dịch thuật không phải câu nào, từ nào cũng dịch nguyên văn tiếng Dao. Có rất nhiều khách thích học tiếng của họ để có thể hiểu họ giao tiếp với nhau nhƣ thế nào. b. Truyện kể dân gian Ngƣời Dao còn lƣu giữ truyền nhiều câu chuyện kể về quá trình thiên di của họ. Đó là chuyện Quá hải đồ, Quá sơn bảng văn, đặc biệt là truyện dài bằng thơ Đặng Hành và Bàn Đại Hộ. Nếu nhƣ Quá Sơn bảng văn và Quá hải đồ là những truyện kể về lý do ngƣời Dao sống trên núi thiếu đất canh tác, SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 52
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] đƣợc triều đình Trung Quốc cấp giấy để vƣợt núi, vƣợt sông, qua biển tìm đất làm ăn thì truyện Đặng Hành và Bàn Đại Hộ kể về chuyến đi tìm đất của ngƣời Dao từ Trung Quốc đến Việt Nam. Về nguồn gốc dân tộc có truyện Bàn Cổ, Quá Sơn bảng văn hay còn gọi là Bình hoàng khan điệp Ngoài ra còn có truyện kể về nguồn gốc của điệu “múa ba ba” trong Tết Nhảy truyền thống của ngƣời Dao, truyện kể về các hiện tƣợng xã hội nhƣ : ngƣời mồ côi, con cáo biết hát, con cóc, dê và chó sói c. Văn nghệ Hát đối đáp (pá dung): thƣờng hát trong lễ cƣới, vào nhà mới nơi có khách từ địa phƣơng khác thƣờng có trò chơi hát đối đáp. Trò chơi này có đặc điểm là ngƣời chơi phải biết giao tiếp bằng ca, có đủ nghị lực hát vì ngoài ngƣời hát còn có ngƣời nghe và bình luận. Ngƣời Dao quen tổ chức hát ở ngay trong nhà, bên bếp lửa hoặc trong mâm rƣợu. Nội dung hát khá phong phú, có thể về giao duyên, kinh nghiệm sản xuất Dân vũ (Thiếu nhẹ) Điệu nhảy múa của ngƣời Dao thƣờng theo thể tự do hoà nhịp với các nhạc cụ nhƣ thanh la, não bạt, trống, chuông lắc Nội dung các điệu nhảy múa thƣờng thể hiện chủ đề về lịch sử, về sinh hoạt hàng ngày đƣợc hình tƣợng hoá bằng các động tác nhảy múa kết hợp với ca hát để Bàn Vƣơng và tổ tiên dòng họ xem nhƣ điệu múa về quá trình di dân của dân tộc bằng đƣờng biển vào Việt Nam nhƣ thế nào hoặc các điệu múa diễn tả về hạ cây làm nƣơng rẫy, chọc lỗ tra hạt, chặt củi làm nhà, điệu múa bắt ba ba Các động tác nhảy múa đƣợc kết hợp nhuần nhuyễn giữa tay và chân theo vòng tròn SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 53
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] trƣớc đàn lễ, có thể kéo dài hàng giờ liền và đƣợc cả làng đến xem đông vui nhƣ hội. Nhạc cụ dân tộc Trống có hai loại là trống dài và trống ngắn trong đó trống ngắn đƣợc cộng đồng sử dụng khá phổ biến. Đây là nhạc cụ cơ bản, thƣờng mỗi dòng họ có một chiếc. Nó đƣợc dùng trong đám tang, Chấu đàng, Cấp sắc, Tết nhảy đặc biệt là để đệm nhạc trong các điệu múa dân tộc và để gõ cúng tổ tiên vào ngày mùng Một, hôm Rằm, ngày lễ tết. Thanh la còn gọi là chiêng vì nó hình dáng giống cái chiêng nhƣng nhỏ hơn, đƣợc đúc từ đồng, có âm trầm cao và vang vọng xa. Nó dùng để đệm cho trống trong các điệu múa dân tộc nhất là múa hát. Kèn dùng trong đám ma hoặc dùng trong đám cƣới của ngƣời Dao. Trong đám cƣới kèn hoà với tiếng trống, chiêng tạo âm thanh vui nhộn, còn trong đám ma thì kèn hoà với tiếng trống, chiêng, tù và tạo âm thanh buồn rầu Ngoài ra ngƣời Dao còn chơi nhị và làm nhiều nhạc cụ khác để cho trẻ em chơi nhƣ gõ ống tre, sáo, đàn môi. d. Trò chơi dân gian Ngƣời Dao có rất nhiều trò chơi, có loại mang tính giải trí, có loại dùng trong nghi lễ. Một số loại trò chơi phổ biến nhất: Chơi nhảy múa đƣợc xuất phát từ Lễ pút tồng. Thực chất của trò chơi này là nhảy múa mừng tổ tiên trong những ngày tết. Nghi lễ đƣợc tổ chức hàng năm tại nhà trƣởng họ, nơi có bàn thờ dòng họ, có cụ già am hiểu về các bài múa cổ truyền dân tộc, có đủ nhạc cụ nhƣ trống, chiêng, chũm choẹ, chuông nhac, gậy múa. Các trò chơi nhảy múa thƣờng diễn ra vào buổi tối. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 54
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Những ngƣời tham gia múa phải là nam từ 14- 15 tuổi, còn lại chƣa đến lƣợt thì có thể thƣởng thức, cùng chia sẻ niềm vui hoặc bình luận. Múa ba ba và bài múa nhảy nhịp điệu là những bài múa không lời nhƣng rất nhộn nhịp, diễn đạt đƣợc nhiều yếu tố vui chơi cho ngƣời múa và ngƣời xem. Trong các bài múa, mọi ngƣời tham gia múa đều tranh thủ khán giả để biểu lộ năng khiếu biểu diễn của mình. Chẳng hạn, trong bài múa bắt ba ba thì động tác vui và hấp dẫn là đeo ba ba, nhiều ngƣời múa đi giả ngã có tính trò hề để khẳng định rằng ba ba quá nặng so với sức khoẻ của mình. Những trò này đƣợc ngƣời xem thích thú, họ cƣời ầm ĩ. Còn trong bài múa nhảy nhịp điệu lại có nhiều động tác làm cho ngƣời xem bất ngờ hoặc hồi hộp lo lắng nhƣ các động tác nhào lộn qua ngƣời nhau hoặc kéo tay đối phƣơng để biểu đạt sức mạnh của ngƣời múa. Trò thi tài sử dụng nhạc cụ đƣợc thể hiện qua việc gõ chiêng theo nhịp trống. Trống thƣờng đánh từng hồi, cứ ba hồi một lƣợt đánh, còn chiêng chỉ có nhiệm vụ đuổi theo nhịp trống. Khi trống dừng mà chiêng còn gõ thêm thì coi nhƣ ngƣời đó thua cuộc. Ngƣời đệm chiêng đƣợc coi là thắng chỉ khi gõ đến tiếng mà trống ngừng. Trò chơi bắt dây bằng các ngón tay: dùng một chỉ nhỏ mềm buộc hai đầu với nhau để qua hai hoặc ba ngón của mỗi bàn tay, rồi kéo vừa căng cho ngƣời khác xỏ các ngón tay vào lại kéo ra. Nếu nhƣ ngƣời đó biết chơi thì không những không phá vỡ cách đan ban đầu mà còn tạo ra hình đan khác, còn nếu không biết chơi hoặc bắt nhầm thì dây sẽ bị tuột và trong mỗi bàn tay dây chỉ còn mắc ở một ngón hoặc không ngón nào. Ngƣời bắt nhầm coi nhƣ bị thua. Trò chơi này có thể có cả ngƣời lớn và trẻ em tham gia. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 55
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Tung còn thƣờng đƣợc tổ chức vào những ngày tết Nguyên Đán, từ mùng 1 đến mùng 5 tại sân bãi của làng. Quả còn có đầu hình tròn dẹt to gần bằng nắm tay ngƣời lớn, đƣợc khâu từ các mảnh vải xanh đỏ, trắng trong đựng hạt ngô hoặc hạt bòng, bốn góc của đầu còn có trang trí các tua màu xanh, đen, đỏ, tím, vàng. Ở giữa dây và cuối dây đƣợc buộc các dây xanh đỏ tím trông rất đẹp. 2.3. Thực trạng hoạt động du lịch tại địa phƣơng 2.3.1. Đặc điểm của lao động địa phương Có thể nói chƣa có hoạt động du lịch đúng nghĩa tại làng Nghẹt và chƣơng trình du lịch cộng đồng tại địa phƣơng cũng mới chỉ là dự án. Trong làng có gần 400 nhân khẩu thì chiếm 53 % trong độ tuổi lao động. Đa số lao động có trình độ thấp, chƣa có hiểu biết gì về ngành du lịch. Một số ngƣời có những hoạt động phục vụ cho du lịch nhƣng cũng chỉ mang tính chất tự phát, chƣa đƣợc tập huấn hay hƣớng dẫn gì. Và một hạn chế rất lớn là họ không biết một ngoại ngữ nào. Tham gia vào những hoạt động phục vụ khác du lịch chủ yếu là phụ nữ. Họ tham gia vào du lịch theo mùa vụ, khi nào hết mùa màng, nhiều thời gian rảnh rỗi thì họ mới dẫn đƣờng cho khách hoặc làm các đồ thủ công bán cho khách, tổ chức giao lƣu văn nghệ. Chƣa có bất kì sự liên kết nào khi cung cấp các dịch vụ phục vụ cho khách vì thế các dịch vụ mang tính nhỏ lẻ, thiếu sự chuyên nghiệp. Họ có mong muốn đƣợc đào tạo về du lịch để có thể phát triển một ngành mới ở địa phƣơng, nâng cao đời sống của đồng bào. 2.3.2. Những hoạt động của người dân phục vụ du lịch SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 56
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Tuy hoạt động du lịch ở đây chỉ mang tính tự phát, ngƣời dân tự tổ chức các chƣơng trình cho khách. Theo lời ông trƣởng thôn thì cả làng có 12 hộ hay có khách tới. Mỗi gia đình mỗi tháng có khoảng 10 đến 15 khách. Khách tới đây chủ yếu là ngƣời nƣớc ngoài nhƣ Pháp, Anh, Úc Họ đi thƣờng đi theo nhóm khoảng 4-5 ngƣời. Khách tới đây để nghi ngơi, thƣởng ngoạn phong cảnh, tìm hiểu đời sống sinh hoạt cả đồng bào chỉ cần trả cho gia đình 40 ngàn/ ngƣời/ đêm. Một số hoạt động mà ngƣời dân cung cấp cho khách: -Cung cấp chỗ nghỉ ngơi, ăn uống -Đƣa khách tham quan bản và tìm hiểu về đời sống của đồng bào - Hƣớng dẫn khách công việc nhà nông nhƣ trồng cây thực phẩm, gặt lúa, đập lúa bằng tay. Hoạt động này đƣợc rất nhiều khách thích thú. - Dạy họ các bài hát và điệu múa dân tộc Dao - Có một hoạt động mà khách rất thích khi tới làng Nghẹt là đi câu cá suối vì suối ở đây rất nhiều cá và khi câu xong họ lại đƣợc thƣởng thức những con cá do chính mình câu đƣợc theo cách chế biến đặc trƣng của địa phƣơng. - Theo yêu cầu của rất nhiều khách tới làng thì họ đang tìm cách khôi phục lại những nghề thủ công truyền thống nhƣ làm đồ trang sức và dệt của làng. Hiện nay nghề dệt đã bƣớc đầu đƣợc khôi phục. Thu nhập từ du lịch thì chƣa có sự thống kê nào nhƣng khi hỏi những ngƣời đã làm du lịch thì họ khẳng định thu nhập cao hơn nhiều so với công việc trƣớc đây của họ. Những gia đình làm du lịch mỗi tháng có thêm từ 1 đến 1,5 triệu từ khách du lịch. Năm 2006 thu nhập trung bình của bà con trong SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 57
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] làng chỉ là 420 nghìn/ ngƣời/ tháng thì khoản thu đƣợc từ du lịch sẽ giúp đỡ rất nhiều cho đời sống của họ. 2.3.3. Ảnh hưởng của du lịch tới cộng đồng Mặc dù du lịch cũng chỉ mới bắt đầu xuất hiện ở làng nhƣng nó đã có những ảnh hƣởng nhất định đến đời sống của đồng bào 2.3.4. Tích cực Đối với du lịch: Tạo ra một sản phẩm du lịch khá mới mẻ cho vùng, một hƣớng phát triển mới cho cộng đồng; Góp phần thu hút khách du lịch; Góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên du lịch nói riêng. Đối với cộng đồng: Tăng thu nhập cho đồng bào từ các dịch vụ du lịch. So với trƣớc khi làm du lịch thì thu nhập của họ tăng thêm từ 1 đến 1,2 triệu/gia đình/ tháng. Hoạt động du lịch đã nâng cao niềm tự hào của ngƣời dân trong làng về giá trị văn hóa bản địa đặc biệt là cho thế hệ trẻ. Tham gia vào du lịch giúp họ nâng cao nhận thức về mọi mặt của đời sống, là cơ hội để các thành viên có trách nhiệm trong việc bảo tồn tài nguyên môi trƣờng và văn hoá. Tạo thêm việc làm cho ngƣời dân địa phƣơng nhất là phụ nữ và những lao động trẻ. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 58
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Phát triển cơ sở hạ tầng cho ngƣời dân nhƣ cải tạo nhà ở, đƣờng sá, các công trình vệ sinh, hệ thống nƣớc sạch, hệ thống truyền thông, bƣu điện góp phần thay đổi bộ mặt của địa phƣơng. Sử dụng nguồn lực vốn có của địa phƣơng về cảnh quan, khí hậu, nƣớc rừng, sông suối, phong tục tập quán vốn không đƣợc chú ý thì nay đã trở thành tiềm năng phát triển. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của địa phƣơng đồng thời nâng cao vai trò làm chủ của cộng đồng đối với mỗi thành viên và toàn xã hội. Môi trƣờng vệ sinh trong bản ngày càng sạch đẹp, gọn gàng, ngăn nắp Là hƣớng phát triển để đảm bảo cho cuộc sống lâu dài và duy trì phát triển các thế hệ tƣơng lại của họ b. Tiêu cực Trƣớc sự xuất hiện của các vị khác lạ đã khiến cho việc khai thác nguồn lực và tài nguyên thiên nhiên một cách vô tổ chức khiến cảnh quan bị phá hoại, môi trƣờng ô nhiễm, ô nhiễm nguồn nƣớc, tăng lƣợng rác thải Xuất hiện các tệ nạn xã hội, lối sống không phù hợp với truyền thống của đồng bào. Sự xung đột giữa ngƣời đƣợc hƣởng lợi và ngƣời không đƣợ hƣởng lợi từ du lịch. Đó là nguy cơ dẫn đến mất đoàn kết cộng đồng và nảy sinh nhiều tiêu cực khác 2.3.1.4. Thái độ của người dân địa phương SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 59
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Khi nói chuyện với ngƣời dân địa phƣơng về hoạt động du lịch, phần lớn họ đều tỏ thái độ nhiệt tình với hoạt động du lịch. Tuy nhiên, cũng có những ngƣời chƣa làm du lịch và chƣa co hiểu biết gì về du lịch cho rằng hoạt động du lịch không mang lại hiệu quả kinh tế gì, có khi còn làm mất đi bản sắc văn hoá của họ nên họ không nhiệt tình hƣởng ứng với hoạt động du lịch ở địa phƣơng. Phần lớn ngƣời dân nơi đây tham gia vào hoạt động du lịch với mục đích tăng thu nhập cho gia đình, kiếm sống. Đó là động lực chính của họ, lợi ích kinh tế vẫn là trên hết với ngƣời dân địa phƣơng. Phiếu điều tra đƣợc phát cho 45 ngƣời. Kết quả thu lại đƣợc 40 phiếu. Một số thông tin thu đƣợc từ phiếu điều tra: - 90 % dân trong làng làm nông nghiệp, 10% làm nghề khác chủ yếu là làm thuê trên thị xã. 10 % đó hoàn toàn là thanh niên - Có 35/40 ngƣời muốn làm du lịch chiếm 87%. - 60% khẳng định khách tới đây thích nhất là những phong tục của họ, 40% lại cho rằng họ thích đi làm nông cùng gia đình. - 100% khẳng định họ thiếu vừa thiếu vốn vừa thiếu kinh nghiệm lại không nhận đƣợc sự giúp đỡ nào của chính quyền - Có 9/40 ngƣời đƣợc hỏi đã tham gia hoạt động du lịch Tiểu kết Để triển khai thực hiện chƣơng trình du lịch tại làng Nghẹt là một quá trình vận dụng tổng hợp nhiều biện pháp khác nhau từ vận động, giáo dục, khuyến khích để tạo ra chuyển biến nhận thức cho công đồng vốn gắn liền với các hủ tục lạc hậu. Cần phải có sự gắn kết chặt chẽ giữa công tác bảo tồn văn hoá truyền thống với hoạt động du lịch để tổ chức khai thác, phát huy các di sản văn hoá; di sản văn hoá của ngƣời Dao Quần Trắng phải trở thành tài nguyên du lịch đƣợc khai thác có hiệu quả để thông qua đó tuyên truyền, SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 60
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] quảng bá giới thiệu cho khác du lịch trong và ngoài nƣớc về bản sắc văn hoá tiêu biểu của đồng bào. Đồng thời, qua việc khai thác các nguồn thu từ dịch vụ du lịch sẽ đầu tƣ trở lại cho công tác bảo tồn phát huy các giá trị di sản văn hoá truyền thống. CHƢƠNG 3 XÂY DỰNG MÔ HÌNH DU LỊCH CỘNG ĐỒNG TẠI LÀNG NGHẸT- XÃ PHÚ THỊNH- HUYỆN YÊN SƠN- TỈNH TUYÊN QUANG 3.1. Kế hoạch phát triển du lịch cộng đồng tại làng Nghẹt 3.1.1. Đặc điểm của làng Nghẹt SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 61
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] Làng Nghẹt nằm cách trung tâm thị xã Tuyên Quang khoảng 10 km, cách trung tâm xã Phú Thịnh khoảng 4 km. Làng có số dân khá đông với 94 hộ với 374 nhân khẩu. Theo lời của ông trƣởng thôn thì làng có khoảng 30 hộ giàu, 20 hộ khá còn lại là những hộ nghèo. Cuộc sống của ngƣời dân phụ thuộc nhiều vào việc trồng trọt, chăn nuôi, khai thác rừng. Đặc biệt ở đây có ngọn núi Lũng Chảo có nguồn khoáng sản quặng rất lớn và đang bi khai thác thiếu hợp lý. Điều này ảnh hƣởng rất lớn tới môi trƣờng.Ngƣời Dao Quần Trắng sinh sống ở đây có một truyền thống văn hóa dân tộc rất đặc sắc nhƣ: có phong tục tập quán tín ngƣỡng tồn tại lâu đời, có một kho tàng về điệu múa, các bài hát dân tộc, có các nghề thủ công truyền thống. Nơi đây có diện tích rừng khá lớn, khí hậu tốt thuận lợi cho phát triển du lịch. Những năm gần đây làng đã thu hút đƣợc khách tới tham quan tìm hiểu về đời sống văn hoá và sinh hoạt của đồng bào. Trong đó chủ yếu là học sinh, sinh viên, các nhà nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ và khách quốc tế. Đây có thể coi là bƣớc mở đầu để làng đầu tƣ thu hút khách du lịch có nhu cầu tìm hiểu, khám phá. Các hoạt động mà dân làng cung cấp cho khách còn rất ít, chủ yếu là cung cấp chỗ nghỉ trọ, ăn uống, hƣớng dẫn, đƣa khách đi leo núi; tổ chức hƣớng dẫn khách tham quan làng bản, tìm hiểu về văn hóa, phong tục tập quán và đời sống của đồng bào dân tộc Tổ chức các chƣơng trình biểu diễn, giao lƣu văn nghệ phục vụ khách, các hoạt động sản xuất và bán các hàng thủ công, thêu dệt đang đƣợc khôi phục. Làng cũng đề nghị các cơ quan các cấp có liên quan giúp đõ làng trong việc xây dựng một chƣơng trình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 62
- Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của ngƣời Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [Type the document title] 3.1.2. Sự cần thiết phải xây dựng chương trình phát triển du lịch cộng đồng tại đây Huyện Yên Sơn nói chung và làng Nghẹt nói riêng đƣợc thiên nhiên ban tặng cho cảnh quan tự nhiên và khí hậu rất tốt. Đồng thời, ngƣời dân nơi đây vẫn còn giữ đƣợc nhiều những giá trị văn hóa đặc sắc. Đây sẽ là điều kiện thu hút khác du lịch nhất là khác nƣớc ngoài muốn tìm hiểu những nét hay, độc đáo của ngƣời dân địa phƣơng. Tuy làng chỉ cách thị xã Tuyên Quang chục cây số nhƣng cuộc sống của đồng bào gặp rất nhiều khó khăn. Giao lƣu kinh tế rất ít. Cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào nông nghiệp, chăn nuôi. Trình độ dân trí thấp. Ở đây du lịch đã bắt đầu xuất hiện song mới chỉ là tự phát vì thế nó làm nảy sinh hàng loạt vấn đề. Bên cạnh những lợi ích về kinh tế, các hoạt động mang tính tiêu cực cũng đã xuất hiện ngày một rõ nét tràn vào các vùng dân tộc. Đó là sự xuống cấp về tài nguyên thiên nhiên do việc mở lối cho khách đi cho khách vào các khu rừng, cây bị chặt để là đƣờng. Ngoài ra do nền kinh tế khó khăn mà cộng đồng dân cƣ tại các khu vực này đã dựa vào điều kiện tự nhiên nhƣ săn bắn các loại động vật hoang dã, chặt cây lấy gỗ, củi với mục đích duy trì sự sống đã làm cho môi trƣờng và nguồn tài nguyên ngày càng bị mai một. Thêm vào đó là sự biến mất của những nét văn hoá bản địa và xâm nhập tệ nạn xã hội. Từ đó đặt ra câu hỏi phải làm nhƣ thế nào đảm bảo phát triển du lịch mà vẫn bảo tồn đƣợc tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn đƣợc các nét bản sắc văn hoá dân bản và mang lại lợi ích kinh tế cho toàn thể cộng động chứ không phải cho một nhóm ngƣời. Chỉ có nhƣ vậy mới có thể nâng cao nhận thức cho cộng đồng trong việc cần thiết phải bảo vệ tài nguyên môi trƣờng là con đƣờng duy nhất đảm bảo cuộc sống lâu dài và duy trì phát triển các thế hệ tƣơng lai của họ. SINH VIÊN: ĐỖ THỊ HÀ - LỚP VH901 63