Khóa luận Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên - Đinh Thị Kim Thùy
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên - Đinh Thị Kim Thùy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_xay_dung_tuyen_du_lich_van_hoa_doc_cac_song_quanh.pdf
Nội dung text: Khóa luận Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên - Đinh Thị Kim Thùy
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1- Lý do chọn đề tài 1 2-Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3 3- Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 3 4- Lịch sử vấn đề 3 5- Phương pháp nghiên cứu 3 6- Khả năng đóng góp của khoá luận 4 7- Bố cục của khoá luận 4 CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HOÁ VÀ VIỆC XÂY DỰNG CÁC TUYẾN - ĐIỂM DU LỊCH 1.1- CÁC KHÁI NIỆM 5 1.1.1- Khái niệm về du lịch 5 1.1.2- Khái niệm về văn hoá 5 1.1.3- Khái niệm về du lịch văn hoá 7 1.1.3.1- Khái niệm du lịch văn hoá 7 1.1.3.2- Nội dung của du lịch văn hoá 7 1.1.3.3- Mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá 8 1.1.3.3.1- Ảnh hưởng của văn hoá đến du lịch 8 1.1.3.3.2- Ảnh hưởng của du lịch tới văn hoá 9 1.2- XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA DU LỊCH VĂN HOÁ 10 1.3- KHÁI NIỆM VỀ ĐIỂM DU LỊCH, TUYẾN DU LỊCH VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU XÁC ĐỊNH TUYẾN - ĐIỂM DU LỊCH 1.3.1- Khái niệm về tuyến – điểm du lịch 11 1.3.1.1- Điểm du lịch 11 1.3.1.2- Tuyến du lịch 12 1.3.1.3- Điều kiện để được công nhận là tuyến du lịch 12 1.3.2- Nội dung chủ yếu của việc xác định điểm – tuyến du lịch 13 1.3.2.1- Tài nguyên du lịch 13 1.3.2.1.2- Vị trí địa lý 13 1.3.2.1.3- Tài nguyên du lịch tự nhiên 13 1.3.2.1.4- Tài nguyên du lịch nhân văn 15 1.3.2.2- Cở sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch 18 1.3.2.2.1-Cơ sở hạ tầng 18 1.3.2.2.2- Cơ sở vật chất kỹ thuật 19 1.3.3- Các chỉ tiêu để xác định tuyến - điềm du lịch 20 Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 1
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên 1.3.3.1- Độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch 20 1.3.3.2- Thời gian hoạt động du lịch 20 1.3.3.3- Sức chứa khách du lịch 21 1.3.3.4- Vị trí của điểm du lịch 21 1.3.3.5- Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch 21 1.3.3.6- Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế 22 CHƢƠNG II: CÁC TIỀM NĂNG CHỦ YẾU ĐỂ XÂY DỰNG TUYẾN – ĐIỂM DU LỊCH VĂN HOÁ Ở HUYỆN THUỶ NGUYÊN 2.1- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN THUỶ NGUYÊN 24 2.1.1- Điều kiện tự nhiên 24 2.1.1.1- Vị trí địa lý 24 2.1.1.2- Địa hình 24 2.1.1.3- Khí hậu 25 2.1.1.4- Thuỷ văn 25 2.1.2- Điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội 25 2.1.2.1- Lịch sử 25 2.1.2.2- Dân cư 26 2.2.3- Một số nét về kinh tế - văn hoá - xã hội 27 2.2- MỘT SỐ DI SẢN VĂN HOÁ TIÊU BIỂU CỦA HUYỆN THUỶ NGUYÊN CÓ THỂ ĐƯA VÀO KHAI THÁC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 2.2.1- Các di tích lịch sử văn hoá 31 2.2.1.1- Cụm di tích Bạch Đằng lịch sử 31 2.2.1.2- Đền thờ Trần Quốc Bảo 32 2.2.1.3- Cụm di tích Liên Khê 34 2.2.1.4- Chùa Câu Tử Ngoại 37 2.2.1.5- Đền thờ trạng nguyên Lê Ích Mộc 39 Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 2
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên 2.2.1.6- Chùa Hoàng Pha 42 2.2.1.7- Đình Lôi Động 43 2.2.1.8- Đình Kiền Bái 45 2.2.1.9- Đình Lâm Động 48 2.2.2- Những di tích văn hoá khảo cổ 51 2.2.2.1- Mộ cổ Việt Khê 51 2.2.2.2- Di chỉ khảo cổ Tràng Kênh 52 2.2.3- Các lễ hội 54 2.2.3.1- Hội hát Đúm Thuỷ Nguyên 54 2.2.3.3- Hội Đu xuân Thủy Nguyên 59 2.2.4- Làng nghề truyền thống 60 2.2.5- Các tài nguyên khác 60 CHƢƠNG III: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HOÁ VÀ XÂY DỰNG MỘT SỐ TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH VĂN HOÁ Ở HUYỆN THUỶ NGUYÊN 3.1 ĐÔI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở HUYỆN THUỶ NGUYÊN62 3.1.1- Các loại hình du lịch đang được khai thác 62 3.1.2- Lượng khách đến và thị trường khách 62 3.1.3- Cơ sở lưu trú, ăn uống, phục vụ cho du lịch 63 3.1.4 - Các dịch vụ du lịch khác 63 3.1.5- Một số nhận xét 63 3.3- XÂY DỰNG MỘT SỐ TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH VĂN HOÁ DỌC CÁC SÔNG QUANH HUYỆN THUỶ NGUYÊN 65 3.3.1- Phương pháp xác định các tuyến điểm du lịch văn hoá 65 3.3.1.1- Phương pháp đánh giá 65 3.3.1.2- Đối tượng đánh giá 66 3.3.1.3- Kết quả xác định 67 3.3.2 Xây dựng một số tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh Thuỷ Nguyên 70 3.3.2.1- Một số tuyến du lịch văn hoá tiêu biểu: 70 Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 3
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên 3.3.2.1.1- Chương trình 1: 70 3.3.2.1.2- Chương trình 2: 72 3.3.2.1.3-Chương trình 3: 74 3.3.2.2- Một số giải pháp bổ trợ để đảm bảo xây dựng thành công tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên 74 3.3.2.2.1- Phát triển cơ sở hạ tầng 74 3.3.2.2.2- Tăng cường quản lý Nhà nước về du lịch 75 3.3.2.2.3- Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức về phát triển du lịch. 75 3.3.2.2.4- Bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên 76 3.3.2.2.5- Kêu gọi các dự án đầu tư nước ngoài 77 3.3.2.2.6- Kết nối với các đơn vị lữ hành có uy tín 77 PHẦN KẾT LUẬN 78 TÊN TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 PHỤ LỤC Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 4
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH VĂN HÓA DU LỊCH Sinh viên : Đinh Thị Kim Thuỳ Ngƣời hƣớng dẫn : TS. Nguyễn Thanh Sơn HẢI PHÒNG – 2010 Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 5
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA Ở HUYỆN THỦY NGUYÊN HẢI PHÒNG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHÍNH QUY NGÀNH VĂN HÓA DU LỊCH Sinh viên : Đinh Thị Kim Thuỳ Ngƣời hƣớng dẫn : TS. Nguyễn Thanh Sơn HẢI PHÒNG – 2010 Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 6
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG 1 NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Sinh viên : Đinh Thị Kim Thuỳ Mã số : 101539 Lớp : VH 1004 Ngành : Văn hóa Du lịch Tên đề tài : xây dựng một số tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 7
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI 1. Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt nghiệp (về lý luận, thực tiễn, các số liệu ) 2. Các số liệu cần thiết : 3. Địa điểm thực tập tốt nghiệp : Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 8
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên CÁN BỘ HƢỚNG DẪN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Người hướng dẫn thứ nhất : Họ và tên : Học hàm học vị : . Cơ quan công tác : . Nội dung hướng dẫn Người hướng dẫn thứ hai : Họ và tên : Học hàm học vị : . Cơ quan công tác : . Nội dung hướng dẫn Đề tài tốt nghiệp được giao ngày tháng năm 2010 Yêu cầu phải hoàn thành xong trước ngày tháng năm 2010 Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 9
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN Sinh viên Người hướng dẫn Hải Phòng, ngày tháng năm 2010 HIỆU TRƯỞNG GS. TS. NGƯT. Trần Hữu Nghị PHẦN NHẬN XÉT TÓM TẮT CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN 1.Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp: 2.Đánh giá chất lượng của đề tài (so với nội dung yêu cầu đã đề ra trong nhiệm vụ ĐTTN trên các mặt lý luận, thực tiễn,tính toán số liệu ): 3. Cho điểm của cán bộ hướng dẫn (ghi cả chữ và số): Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 10
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Hải Phòng, ngày tháng năm 2010 Cán bộ hướng dẫn NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA NGƢỜI CHẤM PHẢN BIỆN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Tên Đề tài : Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa ở huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng Của sinh viên: Đinh Thị Kim Thuỳ Lớp VH 1004 1. Đánh giá chất lượng đề tài tốt nghiệp về các mặt thu thập và phân tích tài liệu, số liệu ban đầu; cơ sở lý luận cho phương án tối ưu, cách tính toán chất lượng thuyết minh bản vẽ, giá trị lý luận và thực tiễn của đề tài: 2. Cho điểm của người chấm phản biện: (Điểm ghi bằng số và chữ ) Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 11
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Ngày Tháng Năm 2010 Người chấm phản biện LỜI CẢM ƠN Nhân dịp Khóa luận hoàn thành và đưa ra bảo vệ, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các thầy cô trong khoa Văn hóa Du lịch trường Đại học Dân lập Hải Phòng, đặc biệt tới thầy Nguyễn Thanh Sơn - người đã tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận này. Em cũng xin chân thành cảm ơn Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Hải Phòng, Ủy ban nhân dân huyện Thủy Nguyên, Thư viện trường Đại học Dân Lập Hải Phòng đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình khảo sát và khai thác tư liệu liên quan đến đề tài Khóa luận. Tuy nhiên, do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, những khiếm khuyết trong Khóa luận này là không thể tránh khỏi. Em rất mong tiếp tục Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 12
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên nhận được sự chỉ dẫn của các thầy cô và sự góp ý của các bạn đồng nghiệp để cho Khóa luận được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Hải Phòng, ngày tháng năm 2010 Đinh Thị Kim Thuỳ Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 13
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên MỞ ĐẦU 2- Lý do chọn đề tài Hiện nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được của nhân dân hầu hết các nước trên thế giới. Du lịch không chỉ là ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia, mà còn là cầu nối giao lưu hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc, hay giữa các vùng miền trong một đất nước. Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới, ngành Du lịch toàn cầu đã đạt doanh thu trị giá gần 8.000 tỷ USD vào những năm gần đây. Bất chấp nền kinh tế thế giới đang trong bờ vực của sự suy thoái; lạm phát tăng cao; điều kiện chính trị còn nhiều biến động và hậu quả khôn lường của biến đổi khí hậu trái đất; các chuyên gia vẫn dự báo ngành Du lịch thế giới sẽ tăng giá trị doanh thu lên xấp xỉ 15.000 tỷ USD trong vòng 10 năm tới. Việt Nam ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn của khách du lịch quốc tế. Năm 2007, chúng ta đã đón hơn 4,2 triệu lượt du khách nước ngoài, tăng gần 18% so với năm 2006. Các năm 2008, 2009 lượng khách quốc tế vẫn tiếp tục tăng trưởng với tốc độ trên 8%. Theo ước tính, lượng khách du lịch nước ngoài năm nay sẽ đạt hơn 5 triệu lượt người, lượng ngoại tệ thu được khoảng 5 tỷ USD. Du lịch Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn và ngày càng khẳng định vai trò mũi nhọn trong đời sống kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hải Phòng là một cực quan trọng trong Tam giác động lực tăng trưởng kinh tế phía Bắc, đồng thời là một trong mười trung tâm du lịch lớn nhất của cả nước. Hải Phòng có nền kinh tế năng động, thiên nhiên tươi đẹp, lịch sử lâu đời, văn hoá độc đáo và đa dạng, luôn là một điểm đến lý tưởng của du khách trong và ngoài nước. Năm 2009, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng Hải Phòng đã đón và phục vụ trên 4 triệu lượt khách du lịch, đạt mức tăng trưởng hơn 2,9% so với 2008, trong đó có hơn 700.000 lượt khách khách quốc tế. Ngay trong dịp Tết nguyên đán Canh Dần, Hải Phòng đã tổ chức đón 360 khách du lịch từ Mỹ và châu Âu đi trên tàu du lịch hạng 6 sao mang tên Silversia, báo hiệu năm 2010 là năm Hải Phòng tiếp tục thành công trên con đường phát triển du lịch. Tuy nhiên, hiện nay du khách đến Hải Phòng chủ yếu là theo các tour khám phá những nét độc đáo về du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng biển. Cả một hệ thống các tài nguyên du lịch nhân văn đồ sộ rất có giá trị hầu như vẫn còn bỏ ngỏ. Trừ một số lễ hội như Chọi trâu Đồ Sơn, Kỷ niệm Trạng Trình, Kỷ niệm ngày Bác Hồ về thăm làng cá là được tập trung khai thác phục vụ du khách, số còn lại hầu như chưa được đầu tư đưa vào sử dụng. Vì Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 14
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên vậy, các sản phẩm du lịch của Hải Phòng còn đơn diệu, chưa thực sự lôi cuốn khách du lịch cao cấp, thời gian lưu trú của khách cũng không dài. Để đa dạng hoá sản phẩm du lịch, nhằm kéo dài thời gian lưu trú của khách, nhiệm vụ đặt ra cho Hải Phòng trong thời gian tới là phải phát huy các thế mạnh về tài nguyên du lịch nhân văn, xây dựng các tour du lịch văn hoá độc đáo, đặc trưng làm nền tảng để nâng cao chất lượng các tour du lịch. Thuỷ Nguyên là một huyện có thế mạnh về du lịch văn hoá, là nơi tập trung nhiều tài nguyên du lịch nhân văn bậc nhất của Hải Phòng. Nơi đây có tới 18 di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia. Theo số liệu của Hội Phật giáo Hải Phòng, Thuỷ Nguyên là huyện có nhiều chùa nhất thành phố. Thời Phong kiến, huyện có 84 ngôi chùa. Đến năm 1962 vẫn còn 70 ngôi chùa lớn nhỏ, trong đó có 4 chùa vừa là chốn Tổ đình vừa là danh thắng. Tiêu biểu là chùa Thường Sơn (Hàm Long tự), thuộc phái Trúc Lâm, được xây dựng năm Chính Hoà hai mươi ba (1702) thời Lê Hy Tông; chùa Mỹ Cụ (Linh Sơn tự) được xây dựng vào thời Tiền Lê, hiện còn lưu giữ 6 bộ kinh quý. Tuy nhiên du lịch và du lịch văn hoá Thuỷ Nguyên chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Hệ thống tài nguyên du lịch nhân văn của huyện nằm tập trung chủ yếu ven các con sông quanh huyện, rất thuận tiện cho việc tổ chức các tour vận chuyển bằng đường thuỷ. Nhưng hiện nay chưa được Uỷ ban nhân dân huyện cũng như các Công ty lữ hành lớn của Hải Phòng và Việt Nam quan tâm đúng mức. Mặt khác, nhiều di tích lịch sử văn hoá có giá trị ở Thuỷ Nguyên đang bị xuống cấp một cách nghiêm trọng. Vì vậy phát triển du lịch văn hoá đi đôi với bảo tồn và phát huy những giá trị tài nguyên du lịch nhân văn ở đây là nhiệm vụ cấp thiết đang được đặt ra đối với chính quyền địa phương và ngành du lịch thành phố. Điều đó đòi hỏi có sự góp sức rất lớn của những người làm công tác du lịch. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Thuỷ Nguyên nơi hội tụ rất nhiều tài nguyên văn hoá có giá trị lớn của dân tộc. Bản thân người viết muốn tìm hiểu, giới thiệu, và đề xuất các biện pháp nhằm khai thác tốt tiềm năng du lịch nhân văn của địa phương, góp phần nhỏ bé vào sự phát triển của quê hương. Xuất phát từ lý do trên người viết đã lựa chọn đề tài “Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên” làm nhiệm vụ Khoá luận tốt nghiệp. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 15
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên 2- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: xây dựng một số tuyến du lịch văn hoá bằng đường thuỷ dọc hệ thống sông quanh huyện Thuỷ Nguyên, nhằm tạo ra các sản phẩm độc đáo, có sức hút mạnh mẽ đối với khách du lịch. Nhiệm vụ nghiên cứu: -Tổng quan những vấn đề lý luận về du lịch văn hoá và việc xây dựng các tuyến điểm du lịch. - Xác định các tiềm năng để xây dựng các tuyến điểm du lịch văn hoá ở huyện Thuỷ Nguyên. - Đánh giá thực trạng phát triển du lịch văn hoá ở huyện Thuỷ Nguyên và xây dựng một số tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên. 3- Giới hạn và phạm vi nghiên cứu Tập trung vào việc xác định các tuyến điểm du lịch văn hoá tại huyện Thuỷ Nguyên. Đề tài nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi không gian lãnh thổ huyện Thuỷ Nguyên và một số địa phương lân cận ven các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên. 4- Lịch sử vấn đề Ở Việt Nam, vấn đề tài nguyên văn hoá và tài nguyên du lịch văn hoá đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tiêu biếu có giáo sư Trần Quốc Vượng, Đào Duy Anh, Trần Ngọc Thêm, Phan Ngọc, Toan Ánh, Bùi Thị Hải Yến Ở Hải Phòng, vấn đề tài nguyên văn hoá và tài nguyên du lịch văn hoá của huyện Thuỷ Nguyên đã được đề cập trong các tác phẩm như: “Một số di sản văn hoá tiêu biểu của Hải Phòng” (Tập I, Tập II) của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Hải Phòng; “Du lịch văn hoá Hải Phòng” của tác giả Trần Phương; “Lễ hội truyền thống tiêu biểu của Hải Phòng” của một số tác giả do Trịnh Minh Hiên chủ biên. Song vấn đề đánh gía tổng hợp tài nguyên du lịch nhân văn của huyện Thuỷ Nguyên làm cơ sở để xây dựng những tour du lịch chuyên đề văn hoá tại huyện thì hầu như chưa được quan tâm. Đặc biệt là việc nghiên cứu xây dựng một số tuyến du lịch văn hoá bằng đường thuỷ quanh huyện để khám phá những giá trị văn hoá nơi đây thì hoàn toàn mới mẻ không trùng lặp với tài liệu nào. 5- Phƣơng pháp nghiên cứu Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 16
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên - Phương pháp sưu tầm điền dã: nhằm thu thập các thông tin, trò chuyện trao đổi cùng với nhân dân địa phương, ban quản lý di tích, ghi chép các thông tin cho qua trình nghiên cứu. Đây cũng là phương pháp hiệu quả để người viết tìm được các tư liệu trong dân gian. - Phương pháp thống kê và phân tích tổng hợp: dựa trên các tài liệu sưu tầm được, các nguồn thông tin, chọn lọc, phân tích vàtổng hợp thành các mục đích cụ thể cho việc thiết kế và trình bày nội dung trong đề tài. - Phương pháp bản đồ và biểu đồ: qua phương pháp biểu đồ về số lượng khách, doanh thu du lịchvà bản đồ các tuyến và điểm du lịch, tài nguyên du lịch nhân văn sẽ thể hiện một cách trực quan các nội dung nghiên cứu, các số liệu cụ thể trên biểu đồ, cũng như xác định đặc điểm và sự phân bố theo lãnh thổ của các đối tượng nghiên cứu chính trên bản đồ. - Phương pháp toán học, phương pháp đối chiếu so sánh 6- Khả năng đóng góp của khoá luận Cung cấp những đánh giá khách quan và có căn cứ khoa học về tài nguyên du lịch văn hoá và tiềm năng phát triển du lịch ở Thuỷ Nguyên. Xây dựng một số tuyến điểm du lịch văn hoá tại huyện Thuỷ Nguyên nhằm đa dạng hoá loại hình du lịch góp phần thu hút nhiều hơn nưa du khách dến với huyện Thuỷ Nguyên. Một lần nữa góp phần tôn vinh và bảo tồn giá trị của các công trình văn hoá tại huyện Thuỷ Nguyên. Nêu nên những định hướng cho việc khai thác các giá trị văn hoá theo hướng phục vụ phát triển du lịch văn hoá. Đề xuất một số giải pháp để phát huy giá trị lịch sử văn hoá phục vụ phát triển du lịch 7- Bố cục của khoá luận Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục nội dung chính của Khoá luận được chia làm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về du lịch văn hoá và việc xây dựng các tuyến điểm du lịch văn hoá. Chương II: Tiềm năng chủ yếu để xây dựng tuyến diểm du lịch văn hoá ở Thuỷ Nguyên. Chương III: Thực trạng hoạt động du lịch văn hoá và thành lập một số tuyến du lịch văn hoá ở Thuỷ Nguyên. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 17
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên CHƢƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HOÁ VÀ VIỆC XÂY DỰNG CÁC TUYẾN - ĐIỂM DU LỊCH 1.1- CÁC KHÁI NIỆM 1.1.1- Khái niệm về du lịch Ngày nay trên phạm vi toàn thế giới du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hoá và hoạt động du lịch đang đựơc phân tích một cách mạnh mẽ trở thành nghành kinh tế quan trọng trên toàn thế giới. Cho đến nay có rất nhiều dịnh nghĩa về du lịch, nhưng nhìn chung tất cả mọi khái niệm đều đi đến thống nhất rằng: tất cả các hoạt động của con người ngoài nơi ở thường xuyên nhằm mục đích nghỉ ngơi, giải trí hoặc chữa bệnh và ngoài mục đích đi xâm lược, tìm kiếm việc làm và cư trú chính trị đều được coi là du lịch. Theo quan điểm của I.I.Priôjnik (1985): “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan đến sự di chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần nâng cao trình độ nhận thức, văn hoá, thể thao, kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá.” Hội Nghị Liên Hợp Quốc tế về Du Lịch ở Roma năm 1963 cho rằng: “Du lịch là tổng hòa các mối quan hệ, hiện tượng, các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài ơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước của họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ.” Hội nghị Quốc tế về Thống kê du lịch ở Otawa, Cannada tháng 06/1991 định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”. Trong Khoá luận này người viết sử dụng định nghĩa Du lịch đã được thống nhất quy định tại Điều 10 Pháp lệnh Du lịch Việt Nam: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghĩ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định.” 1.1.2- Khái niệm về văn hoá Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 18
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Văn hóa được đề cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học (theo cách gọi của Mỹ hoặc dân tộc học hiện đại theo cách gọi của châu Âu), dân gian học, địa văn hóa học, văn hóa học, xã hội học và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Các định nghĩa về văn hóa nhiều và cách tiếp cận khác nhau đến nỗi ngay cả cách phân loại các định nghĩa về văn hóa cũng có nhiều. Một trong những cách đó phân loại các định nghĩa về văn hóa thành những dạng chủ yếu sau đây: Các định nghĩa miêu tả: định nghĩa văn hóa theo những gì mà văn hóa bao hàm, chẳng hạn nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 – 1917) đã định nghĩa văn hóa như sau: văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội. Các định nghĩa lịch sử: nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền thống dựa trên quan điểm về tính ổn định của văn hóa. Một trong những định nghĩa đó là của Edward Sapir (1884 – 1939), nhà nhân loại học, ngôn ngữ học người Mỹ: văn hóa chính là bản thân con người, cho dù là những người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống. Các định nghĩa chuẩn mực: nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị, chẳng hạn William Isaac Thomas (1863 – 1947), nhà xã hội học người Mỹ coi văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản ứng cư xử ). Các định nghĩa tâm lý học: nhấn mạnh vào quá trình thích nghi với môi trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con người. Một trong những cách định nghĩa như vậy của William Graham Sumner (1840 – 1910), viện sỹ Mỹ, giáo sư Đại học Yale và Albert Galloway Keller, học trò và cộng sự của ông là: Tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa. Các định nghĩa cấu trúc: chú trọng khía cạnh tổ chức cấu trúc của văn hóa, ví dụ Ralph Linton (1893 – 1953), nhà nhân loại học người Mỹ định nghĩa: a. Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành viên xã hội; Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 19
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên b. Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa. Các định nghĩa nguồn gốc: định nghĩa văn hóa từ góc độ nguồn gốc của nó, ví dụ định nghĩa của Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 – 1968), nhà xã hội học người Mỹ gốc Nga, người sáng lập khoa Xã hội học của Đại học Harvard: Với nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau. Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin. Định nghĩa của Hồ Chí Minh về văn hoá: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, phát luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.” 1.1.3- Khái niệm về du lịch văn hoá 1.1.3.1- Khái niệm du lịch văn hoá Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Người ta gọi là du lịch văn hoá khi hoạt động du lịch diễn ra chủ yếu trong môi trường nhân văn hoặc hoạt động du lịch đó tập trung khai thác tài nguyên du lịch nhân văn. Du lịch văn hoá là phương thức khám phá nền văn hoá một nước và ở đó du khách thưởng ngoạn di tích lịch sử, tham dự lễ hội, thưởng ngoạn các hình thức nghệ thuật biểu diễn, khám phá các lối sống nếp sống văn hoá dân tộc độc đáo. Một cách hiểu khác nữa: du lịch văn hoá là loại hình du lịch mà ở đó con người được hưởng thụ những sản phẩm văn hoá của một quốc gia, của một vùng hoặc một dân tộc. 1.1.3.2- Nội dung của du lịch văn hoá Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 20
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Du lịch văn hoá chỉ thực sự có nội dung văn hoá khi gắn liền hoạt động của nó với kiến thức lịch sử xã hội liên quan tới tuyến - điểm du lịch văn hoá. Văn hoá mà nó gắn liền với hoạt động du lịch được dùng để khai thác phục vụ cho du lịch được gọi là tài nguyên du lịch nhân văn (hay tài nguyên du lịch văn hoá) bao gồm các di tích lịch sử, những di chỉ khảo cổ, các lễ hội truyền thống, trò chơi dân gian, các loại hình văn hoá nghệ thuật, các danh lam thắng cảnh, các công trình kiến trúc đương đại,phong tục tập quán, nghệ thuật ẩm thực, những sự kiện lịch sử Nó là những bằng chứng trung thành, xác thực cụ thể nhất về đặc điểm văn hoá của mỗi quốc gia. Nó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, tinh hoa, trí tuệ, tài năng và sự sáng tạo. Nói như vậy không có nghĩa là tất cả những sản phẩm văn hoá đều đều là sản phẩm du lịch văn hoá mà phải có sự lựa chọn, có điều kiện khai thác để trở thành sản phẩm du lịch. Cuối cùng mục đích của du lịch văn hoá là nâng cao hiểu biết, là phương tiện truyền tải những giá trị văn hoá của một cộng đồng giúp họ hiểu, giữ gìn vốn văn hoá truyền thống của dân tộc mình. Đồng thời du lịch văn hoá còn tạo ra lợi ích kinh tế cho cộng đồng cư dân địa phương. 1.1.3.3- Mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá 1.1.3.3.1- Ảnh hưởng của văn hoá đến du lịch Giữa văn hoá và du lịch luôn có mối quan hệ biện chứng và trực tiếp. Mối quan hệ này càng thể hiện rõ hơn trong sự liên hệ giữa việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá. Xét dưới góc độ thị trường thì văn hoá vừa là yếu tố cung vừa góp phần hình thành nên yếu tố cầu. Văn hóa tạo thành nền móng cho hoạt động du lịch phát triển bền vững. Trong ba yếu tố chủ yếu tác động giữ vai trò quyết định sự tồn tại của hoạt động du lịch là: điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái – xã hội, truyền thống lịch sử văn hóa, thì đã có tới hai yếu tố liên quan trực tiếp đến lĩnh vực văn hóa. Du lịch và văn hóa là hai mặt của một cuộc hành trình không thể thiếu được đối với mỗi khách du lịch. Nền văn hóa càng phong phú càng có điều kiện thu hút du khách đến tham quan du lịch. Có thể nói, một công trình văn hóa, một món ăn tinh ngon, một lời nói ngọt ngào và lời chào hỏi đều thể hiện nếp sống văn hóa của mỗi một dân tộc, mà đời sống văn hóa bao giờ cũng có xu hướng kế thừa gạn đục khơi trong. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 21
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Một ngành kinh tế lớn, ngành du lịch, có liên quan trực tiếp tới văn hóa. Những di sản văn hóa trên lãnh thổ một quốc gia là một chủ bài lớn để thu hút du khách nước ngoài, và từ đó nảy nở những mối giao thương khác. Mặt khác, khi bạn bè hay đối tác nước ngoài tới tìm hiểu đất nước ta, tìm hiểu con người, xã hội và các cơ hội làm ăn với Việt Nam, dĩ nhiên điều tối thiểu là họ phải được tiếp đón với những chuẩn mực văn minh hiện đại. Nhưng như thế chưa đủ. Những ứng xử, những sản phẩm có tính văn hóa cao ngoài việc thu hút và giữ chân du khách, tranh thủ cảm tình của họ, còn góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam tới những nhà đầu tư tiềm năng dù đôi khi miếng bánh lợi nhuận chưa đủ hấp dẫn 1.1.3.3.2- Ảnh hưởng của du lịch tới văn hoá - Về mặt tích cực: Du lịch phát triển trước hết là thỏa mãn nhu cầu của mỗi con người nảy sinh trong đời sống KT-XH, thỏa mãn đời sống văn hóa của con người. Như vậy, du lịch là nhu cầu văn hóa của con người và nhu cầu đó không thể vượt ra ngoài đời sống văn hóa của dân tộc. Du lịch tạo ra một sự trải nghiệm cho chính du khách, giúp họ nhìn nhận lại những giá trị quý báu của dân tộc mà biết bao thế hệ, ngay cả chính họ đã phải đánh đổi bằng xương máu của mình để tạo dựng nên. Đối với thế hệ trẻ thì du lịch là dịp để họ hiểu hơn về công lao của cha ông mình, đồng thời cũng hiểu những giá trị nhân văn, giá trị truyền thống và thiên nhiên mà họ đang được thừa hưởng. Du lịch ngày nay đã trở thành một hoạt động không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt xã hội, làm cho đời sống xã hội ngày một phong phú hơn, lý thú và bổ ích hơn. Về phương diện kinh tế, du lịch đã trở thành một ngành mũi nhọn, chiếm một tỷ trọng lớn trong thu nhập kinh tế quốc dân. Không những vậy, do đặc tính hoạt động, du lịch còn góp phần không nhỏ trong phát triển kinh tế vùng chậm phát triển, đồng thời giúp xoá đói, giảm nghèo ở những vùng sâu vùng xa. Nhưng quan trọng hơn, du lịch có vai trò to lớn trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Du lịch cũng tác động trở lại văn hóa thông qua việc xây dựng và cải tạo môi trường văn hóa, xã hội, làm cho môi trường này khởi sắc, tươi mới, làm cho các hoạt động văn hóa năng động và linh hoạt hơn trong cơ chế thị trường. Hoạt động du lịch góp phần khơi dậy các tiềm năng văn hóa giàu có và phong phú đang còn ẩn chứa khắp nơi trên đất nước ta, "đánh thức nàng Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 22
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên tiên ngủ trong rừng" để cả xã hội chiêm ngưỡng, thưởng thức cái đẹp, không để cái đẹp ấy bị che phủ, mai một và lãng quên. - Về mặt tiêu cực: Dù du lịch có khả năng đóng góp cho việc thúc đẩy và bảo vệ các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, nhưng nếu không được kiểm soát thì nó cũng có thể tác động tiêu cực, làm xuống cấp nguồn lực rất có giá trị này. Sự bùng nổ số lượng khách tại các điểm du lịch đe doạ việc bảo vệ các di tích lịch sử. Sự có mặt quá đông các du khách cùng một thời điểm ở một di sản tạo nên các tác động cơ học, hoá học với các yếu tố khi hậu nhiệt đới gây ra những huỷ hoại đối với các động sản phụ thuộc như các vận dụng trang trí, đồ thờ tự cảnh quan văn hoá và môi trường sinh thái tại điểm du lịch. Khi đi du lịch là tham gia vào các hoạt động văn hoá của địa phương, song nhiều khi xâm nhập biến thành sự xâm hại với mục đích lạm dụng. Gía trị văn hoá bị lu mờ do sựlạm dụng vì mục đích kinh tế, các hoạt động văn hoá được trình diễm thếu chuyên nghiệp, thiếu hiểu biết về nguồn gốc, ý nghĩa của hành vi lễ hội dẫn tới làm trò cười cho khách. Sự xâm nhập giao lưu văn hoá Đông_Tây khiến cho một bộ phận giới trẻ từ chối truyền thống và thay đổi cách sống theo mốt du khách. Nguyên nhân của hiện tượng này là trong hoạt động kinh doanh, người dân bản xứ lấy chuẩn của u khách làm vừa long họ nhằm thu hút tối đa lợi nhuận. Tư tưởng vọng ngoại, người dân bản sứ đánh giá cao lối sống của du khách và họ cho dây là biểu hiện của văn minh và giàu có. Tuy nhiên thái độ của cư dân địa phương đối với khách cũng dần thay đổi, từ chỗ hào hứng đón tiếp nồng nhiệt, quý trọng mến khách theo thời gian giảm dần và ngày càng trở nên lạnh nhạt, thay vào đó là quan hệ buôn bá. Trầm trọng hơn là họ có thể dùng thủ đoạn lừa gạt khách. 1.2- XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN CỦA DU LỊCH VĂN HOÁ Hội nghị Bộ trƣởng du lịch các nƣớc châu Á Thái Bình Dƣơng đã khẳng định: “Du lịch văn hóa: sự lựa chọn của các nƣớc đang phát triển.” Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục gần đây du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 23
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên ngưỡng để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ. Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương - nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo. Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các nước để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa phương. Ở những nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nền tảng phát triển phần lớn không dựa vào những đầu tư lớn để tạo ra những điểm du lịch đắt tiền, mà thường dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc. Những nguồn lợi này không tạo ra giá trị lớn cho ngành du lịch, nhưng lại đóng góp đáng kể cho sự phát triển của cộng đồng xã hội. Những quốc gia phát triển mạnh du lịch văn hóa là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, và một số nước thuộc khu vực Nam Mỹ Định hướng phát triển bền vững của du lịch văn hoá là mở rộng các trương trình du lịch mới, đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên chuyên sâu về văn hoá dân tộc, hiểu biết các loạ hình văn hoá từ đó ngăn chạn hoạt động mê tín. 1.3- KHÁI NIỆM VỀ ĐIỂM DU LỊCH, TUYẾN DU LỊCH VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU XÁC ĐỊNH TUYẾN - ĐIỂM DU LỊCH 1.3.1- Khái niệm về tuyến – điểm du lịch 1.3.1.1- Điểm du lịch Theo Luật Du lịch Việt Nam định nghĩa: “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút khách du lịch” [6]. Theo PGS.TS Nguyễn Minh Tuệ: “ Điểm du lịch là nơi tập trung một loại tài nguyên nào đó (tự nhiên, văn hoá - lịch sử, kinh tế - xã hội) hay một loại công trình riêng biệt phục vụ cho du lịch hoặc kết hợp cả hai trong quy mô nhỏ”[3]. Vì thế mà điểm du lịch được chia làm hai loại: Điểm du lịch tài nguyên Điểm du lịch chức năng (chữa bệnh nghỉ dưỡng ) Điểm du lịch là nơi tổ chức phục vụ du khách, còn ở điểm tài nguyên là nơi mà ở đó có một hay nhiều nguồn tài nguyên có sức hấp dẫn với với du khách song chưa được tổ chức khai thác. Điểm tài nguyên có thể trở thành điểm du lịch khi có việc tổ chức khai thác. Ngược lại điểm du lịch có thể trở thành điểm tài nguyên khi sản phẩm du lịch vào giai đoạn thoái trào. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 24
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Điểm du lịch là cấp thấp nhất trong hệ thống phân vị. Về mặt lãnh thổ, điểm du lịch có quy mô nhỏ. Trên bản đồ các cùng du lịch, người ta thể hiện điểm du lịch là những điểm riêng biệt. Với mỗi điểm du lịch, thời gin lưu lại của khách tương đối ngắn (không quá 1 đến 2 ngày) vì sự hạn chế của đối tượng du lịch. Ở các điểm du lịch cơ sở hạ tầng có thể có có thể chưa hình thành Điểm du lịch văn hoá gồm những điểm du lịch phát trển thể loại du lịch văn hoá như: - Trung tâm lịch sử (điểm du lịch lịch sử) là nơi có các công trình xây dựng từ xa xưa. Đó là những thành phố, đô thị hoặc làng cổ vẫn còn giữ được những nét văn hoá truyền thống như kiến trúc nhà ở, các công trình tín ngưỡng tôn giáo và phong tục tập quán lễ hội - Trung tâm khoa học nơi có nhiều trường đại học, viện nghiên cứu, thư viện, bảo tàng - Trung tâm nghệ thuật là những điểm du lịch dựa trên những sinh hoạt văn hoá của điạ phương có lối sống truyền thống, phong tục tập quá đặc sắc. - Trung tâm du lịch tôn giáo là điểm gắn với hoạt động tín ngưỡng. - Trung tâm du lịch khảo cổ là các điểm du lịch gắn với dấu vết hoạt động của người tiền sử khi chưa có chữ viết. 1.3.1.2- Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không. 1.3.1.3- Điều kiện để được công nhận là tuyến du lịch Điều 4, Điều 25, Luật Du lịch Việt Nam quy định: * Tuyến du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là tuyến du lịch quốc gia: - Nối các khu du lịch, điểm du lịch, trong đó có khu du lịch, điểm du lịch quốc gia, có tính chất liên vùng, liên tỉnh, kết nối với các cửa khẩu quốc tế; - Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch dọc theo tuyến. * Tuyến du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là tuyến du lịch địa phương: - Nối các khu du lịch, điểm du lịch trong phạm vi địa phương; Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 25
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên - Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch dọc theo tuyến. Về mặt không gian lãnh thổ, tuyến du lịch có thể là tuyến nội vùng (á vùng, tiểu vùng, trung tâm) hoặc tuyến liên vùng (giữa các vùng). Đối với cấp tỉnh có tuyến du lịch nội tỉnh và tuyến du lịch ngoại tỉnh (liên tỉnh) [6]. 1.3.2- Nội dung chủ yếu của việc xác định điểm – tuyến du lịch 1.3.2.1- Tài nguyên du lịch Theo Điều 4, Luật Du lịch của Việt Nam thì tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch. Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đang được khai thác và chưa được khai thác. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu của tổ chức, cá nhân [6]. 1.3.2.1.2- Vị trí địa lý Khi xác định điểm_tuyến du lịch, vị trí địa lý là yếu tố quan trọng được xem xét đầu tiên. Đánh giá vị trí địa lý không chỉ được xác định ở hệ toạ độ, ranh giới lãnh thổ, các mối quan hệ kinh tế, mà còn phải đánh giá ý nghĩa kinh tế của vị trí đó đối với sự phat triển du lịch. 1.3.2.1.3- Tài nguyên du lịch tự nhiên Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. a. Khí hậu Khí hậu cũng được coi là một dạng tài nguyên du lịch. Trong các chỉ tiêu về khí hậu, đáng lưu ý nhất là hai chỉ tiêu: nhiệt độ và độ ẩm không khí. Ngoài ra còn phải tính đến các yếu tố khác như gió, áp suất khí quyển, ánh nắng mặt trời, các hiện tượng thời tiết đặc biệt. Điều kiện khí hậu có ảnh hưởng đến việc thực hiện các chuyến du lịch Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 26
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên hoặc hoạt động dịch vụ du lịch. Nhìn chung, những nơi có khí hậu ôn hoà thường được du khách ưa thích. Những nơi có nhiều gió cũng không thích hợp với phát triển du lịch. Mỗi loại hình du lịch thường đòi hỏi những điều kiện khí hậu khác nhau. Chẳng hạn du khách đi nghỉ biển mùa hè thường chọn những dịp ít mưa, nắng nhiều nhưng không gắt, nước mát, gió vừa phải. Như vậy, ở mức độ nhất định cần phải chú ý đến những hiện tượng thời tiết đặc biệt làm cản trở đến kế hoạch du lịch. Đó là bão trên các vùng biển, duyên hải, hải đảo, gió mùa đông bắc, gió tây khô nóng, lốc, lũ vẫn xảy ra ở nước ta. Tính mùa của khí hậu ảnh hưởng rất rõ rệt đến tính mùa vụ trong du lịch. Các vùng khác nhau trên thế giới có mùa du lịch khác nhau do ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu. Sự phụ thuộc chặt chẽ vào các điều kiện khí hậu, hoạt động du lịch có thể diễn ra quanh năm hoặc trong một vài tháng. b. Địa hình - Địa hình là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên phong cảnh và sự đa dạng của phong cảnh nơi đó. Đối với du lịch, các dấu hiệu bên ngoài của địa hình càng đa dạng và đặc biệt thì càng có sức hấp dẫn du khách. - Các đơn vị hình thái chính của địa hình là núi, đồi và đồng bằng, chúng được phân biệt bởi độ chênh cao của địa hình. + Địa hình đồng bằng tương đối đơn điệu về mặt ngoại hình, ít gây cảm hứng cho khách tham quan du lịch. + Địa hình vùng đồi thường tạo ra một không gian thoáng đãng, bao la tác động mạnh đến tâm lý của khách ưa thích dã ngoại, rất thích hợp với loại hình du lịch cắm trại, tham quan - Ngoài các dạng địa hình trên, địa hình Karst và địa hình ven bờ có ý nghĩa rất lớn cho tổ chức du lịch. c. Nguồn nước Tài nguyên nước bao gồm nước chảy trên mặt và nước ngầm. Đối với du lịch thì nước mặt có ý nghĩa quan trọng. Nó bao gồm nước đại dương, biển, sông, hồ (tự nhiên, nhân tạo), suối phun, thác nước Nhằm mục đích du lịch, nước được sử dụng theo nhu cầu cá nhân, theo độ tuổi và nhu cầu quốc gia. Nói chung giới hạn về nhiệt độ của lớp nước trên mặt tối thiểu có thể chấp nhận được là 18°C đối với người lớn, trên 20°C đối với trẻ em, ngoài ra còn phải chú ý tới tần số, tính chất của sóng, độ sạch của nước Đối với du lịch thể thao nên đánh giá tài nguyên cá, khả năng đánh bắt cá, bảo vệ cá Tài nguyên nước mặt không chỉ có tác dụng hồi phục trực tiếp mà còn ảnh hưởng nhiều đến thành phần khác của môi trường sống, đặc biệt nó làm Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 27
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên dịu đi khí hậu ven bờ. Hiện nay, trên thế giới đã mọc lên nhiều khu du lịch nghỉ dưỡng ven biển, ven hồ đã thu hút một lượng lớn du khách. Nước ngầm nhìn chung ít có giá trị đối với du lịch, tuy nhiên cần phải nói tới tài nguyên nước khoáng. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị du lịch an dưỡng và chữa bệnh. d. Sinh vật Ngày nay thị hiếu về du lịch ngày càng trở nên đa dạng. Sau thời gian lao động mệt mỏi, con người cần được nghỉ ngơi để hồi phục sức khoẻ, đảm bảo khả năng lao động lâu dài Việc đi du lịch đến các nơi có phong cảnh đẹp, thiên nhiên trong lành, là cách nghỉ ngơi rất tốt. Bởi lẽ, con người cũng như mọi sinh vật đều được phát sinh và phát triển trong môi trường tự nhiên – nguyên thuỷ – một môi trường hoàn toàn trong lành và ổn định. Con người đã thích nghi với môi trường đó. Giờ đây sống trong một xã hội phát triển, có những điều kiện thuận lợi do con người tạo ra, nhưng đồng thời môi trường lại bị ô nhiễm, biến đổi bất lợi cho cuộc sống của con người. 1.3.2.1.4- Tài nguyên du lịch nhân văn Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. a. Quan niệm Tài nguyên du lịch nhân văn nói một cách ngắn gọn, là các đối tượng, hiện tượng do con người tạo ra trong suốt quá trình tồn tại và có giá trị phục vụ cho nhu cầu du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn có các đặc điểm sau: - Có tác dụng nhận thức nhiều hơn. Tác dụng giải trí không điển hình hoặc chỉ có ý nghĩa thứ yếu. - Việc tìm hiểu các đối tượng nhân tạo thường diễn ra trong thời gian ngắn. - Số người quan tâm tới tài nguyên du lịch nhân văn thường có văn hoá cao hơn, thu nhập và yêu cầu cao hơn. - Tài nguyên du lịch nhân văn thường tập trung ở các điểm quần cư và thành phố lớn. - Ưu thế của tài nguyên du lịch nhân văn là đại bộ phận không có tính mùa vụ (trừ các lễ hội), không bị phụ thuộc nhiều vào các điều kiện khí hậu và các điều kiện tự nhiên khác. - Sở thích của những người tìm đến tài nguyên du lịch nhân văn rất phức tạp và rất khác nhau b. Phân loại tài nguyên du lịch nhân văn Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 28
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm: các di tích (lịch sử, văn hoá, kiến trúc, cách mạng); các lễ hội; các làng nghề; các đối tượng gắn với dân tộc học; các hoạt động văn hoá thể thao. - Các di tích lịch sử văn hoá: Luật di sản văn hoá đưa ra định nghĩa: “Di tích lịch sử_văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.” Theo Nguyễn Minh Tuệ: “Di tích lịch sử_văn hoá là những không gian vật chất cụ thể, khách quan trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân con người hoạt động ságn tạo ra trong lịch sử để lại.” Căn cứ Điều 4 Luật di sản văn hoá, Điều 14 Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hoá, các di tích được phân loại như sau: + Di tích lịch sử - văn hoá: Di tích lịch sử - văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học. +Di tích kiến trúc nghệ thuật: Di tích kiến trúc nghệ thuật là công trình kiến trúc nghệ thuật, tổng thể kiến trúc đô thị và đô thị có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển nghệ thuật kiến trúc của dân tộc. Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử. Di tích khảo cổ: Di tích khảo cổ là những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu các giai đoạn phát triển của các văn hoá khảo cổ +Di tích thắng cảnh: Di tích thắng cảnh (danh lam thắng cảnh) là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học. - Các lễ hội: Trong các dạng tài nguyên du lịch nhân văn, lễ hội truyền thống là tài nguyên có giá trị rất lớn. Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá đặc sắc phán ánh đời sống tâm linh của mỗi dân tộc. Là một hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày lao động vất vả hoặc là một dịp để mọi người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, hoặc liên quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, hoặc chỉ đơn thuần là những hoạt động có tính chất vui chơi giải trí. Nhìn chung, các lễ hội nổi tiếng có tính hấp dẫn rất lớn đối với du khách. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 29
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Khi đánh giá các lễ hội phục vụ mục đích du lịch cần lưu ý đến các đặc điểm sau: + Thời gian lễ hội: nhìn chung ở Việt Nam lễ hội thường diễn ra vào mùa xuân, không phải diễn ra quanh năm mà chỉ tập trung vào thời gian ngắn (tính thời vụ của lễ hội) + Quy mô của lễ hội: khác nhau, có lễ hội diễn ra trong địa bàn rộng, có lễ hội chỉ gói gọn trong một địa phương nhỏ hẹp. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động du lịch, khả năng thu hút du khách, đến việc xác định tuyến, điểm du lịch cũng như chương trình du lịch + Các lễ hội thường được tổ chức tại những di tích lịch sử tích lịch sử – văn hoá. + Một số hình thức lễ hội chính: . Lễ hội mừng sự kiện đời sống. . Lễ hội “phục hồi” vì chúng làm sống lại một cách ngoạn mục ký ức về quá khứ hay một nền văn hoá bị diệt vong. . Lễ hội mô phỏng một cuộc tế lễ, nó mang khía cạnh sân khấu và có vẻ đẹp nghiêm trang. . Lễ hội kỷ niệm tất cả các chế độ, các quốc gia đều tổ chức một cách trang nghiêm, long trọng để nhắc nhở bằng biểu tượng thích hợp một công ước hay khế ước, giữa một dân tộc, hoặc một sự kiện khai sinh ra nhà nước hiện đại. Khách du lịch thường có nhu cầu tham gia các lễ hội này. Họ thường thấy một sự hoà đồng mãnh liệt, say mê nhập cuộc. Những hội hè như vậy gắn kết vào kết cấu của đời sống khu vực hay quốc gia và chính tại đây tình cảm cộng đồng, sự hiểu biết về dân tộc được bộc lộ mạnh mẽ. - Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học: Mỗi một dân tộc có những điều kiện sinh sống, những đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán, hoạt động sản xuất mang những sắc thái riêng của mình và có những địa bàn cư trú nhất định. Những đặc thù của từng dân tộc có sức hấp dẫn riêng đối với khách du lịch.Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học có ý nghĩa với du lịch là các tập tục lạ về cư trú, về tổ chức xã hội, về thói quen ăn uống, sinh hoạt, kiến trú, trang phục, ca múa nhạc cho nên trong việc xác định tuyến_điểm du lịch đây lầ yểu tố quan trọng nhằm giúp du khách thực sự được quan sát để tìm kiếm bản sắc văn hoá dân tộc mình. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 30
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên - Các đối tượng văn hoá – thể thao và hoạt động nhận thức khác: Những đối tượng văn hoá như các trung tâm khoa học, các trường đại học, các thư viện lớn, bảo tàng đều có sức hấp dẫn rất lớn du khách tới tham quan và nghiên cứu. Những hoạt động mang tính sự kiện: các giải thể thao lớn, các cuộc triển lãm thành tựu kinh tế quốc dân, các hội chợ, liên hoan phim ảnh quốc tế, ca nhạc quốc tế cũng là đối tượng hấp dẫn. Thông thường những đối tượng văn hoá tập trung ở các thủ đô và các thành phố lớn. Vì vậy những thành phố lớn đương nhiên trở thành những trung tâm du lịch văn hoá của các quốc gia, vùng và khu vực và là hạt nhân của các trung tâm du lịch. Tóm lại: du lịch là một ngành có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố cơ bản, điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển du lịch của một địa phương. Số lượng tài nguyên vốn có, chất lượng của chúng và mức độ kết hợp các loại tài nguyên trên cùng địa bàn có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển du lịch. Vì vậy, sức hấp dẫn du lịch của một địa phương phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài nguyên du lịch của địa phương đó. Đây là yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng tuyến điểm du lịch. Không có tài nguyên du lịch thì không thể hình thành tuyến điểm. 1.3.2.2- Cở sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch Nếu như tài nguyên du lịch là nhân tố cơ bản để tạo nên các điểm, các trung tâm, các vùng du lịch thì Cở sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật là những nhân tố tạo điều kiện để biến những tiềm năng của tài nguyên du lịch trở thành hiện thực. 1.3.2.2.1- Cơ sở hạ tầng Cở sở hạ tầng là những phương tiện vật chất của xã hội, được coi là tiền đề là đòn bẩy cho mọi sự phát trển kinh tế xã hội, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành và phát triển, đảm bảo việc đi lại tham quan của du khách. Bao gồm: - Mạng lưới giao thông vận tải: Mạng lưới giao thông vận tải đóng vai trò vô vùng quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội nói chung và việc phát triển du lịch nói riêng, nó là nhân tố không thể thiếu được trong hoạt động du lịch. Sự có mặt của mạng lưới giao thông vận tải và các phương tiện vận tải cho phép việc khai thác tài nguyên du lịch được thuận tiện, và nó làm cho du lịch trở thành hoạt động mang tính phổ biến. Và mỗi loại hình du lịch khác nhau sẽ co ý nghĩa khác nhau đối với hoạt động du lịch. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 31
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên + Đường bộ: cơ động, đi được mọi dạng địa hình, mọi cự ly cước phí rẻ, có thể đi theo lộ trình được vạch sẵn hoặc thay đổi lộ trình. + Đường sắt: cước phí rẻ, đi đúng theo lộ trình. + Đường thuỷ: giá vừa phải, kết hợp đi du lịch sông nước, trên cạn. + Đường hàng không: cước phí cao nhưng tiết kiệm được thời gian di chuyển, tăng thời gian nghỉ ngơi giải trí, phù hợp với những hành trình dài. Nhìn chung mạng lưới giao thông vận tải ở Việt Nam khá đa dạng và hoàn chỉnh ở chỗ: chúng ta có đủ các loại hình cũng như phương tiện giao thông, mạng lưới đường bộ có mặt ở mọi nơi (17 vạn km), đường sắt vởi tổng chiều dài 3280km, đường thuỷ khai thácc 11900km. - Hệ thống thông tin liên lạc: Trong hoạt dộng du lịch, thông tin liên lạc là điều kiện quan trọng để đảm bảo mối quan hệ giao lưu cho khách du lịch trong và ngoài nước, và các nhu cầu về thông tin liên lạc trong hoạt dộng du lịch có nhiều loại khác nhau. Ví dụ như thông tin về thời tiết, an ninh, chíng trị, các luồng thông tin về văn hoá xã hội, đại chúng, các luồng thông tin liên lạc giữa người với người. Trong hoạt động du lịch đáp ứng bằng các phương tiện như: mạng internet, điện thoại, báo chí,fax nhờ đó mà có thể nắm bắt được những thông tin cần thiết về nơi mà mình muốn đến du lịch. - Hệ thống cung cấp điện: Đối với hoạt động du lịch thì hệ thống cung cấp điện rất quan trọng, bởi hoạt động du lịch sử dụng nhiều thiết bị hiện đại nên cần sử dụng nhiều năng lượng điện, và đảm bảo sinh hoạt tối thiểu của khách du lịch. - Hệ thống cấp thoát nước: Để hoạt động du lịch diễn ra được thuận lợi thì tại các điểm du lịch cần phải đảm bảo vệ sinh, có hệ thống thoát nước phòng tránh nươcs bẩn tồn đọng do nước sinh hoạt thải ra. 1.3.2.2.2- Cơ sở vật chất kỹ thuật Cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố tạo ra và thực hiện các sản phẩm du lịch, nó có khả nâng quy định mức độ khai thác tiềm năng du lịch nhằm thoả mãm nhu cầu của khách du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm các yếu tố như: các cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch ( hệ thống nhà hàng, khách sạn, phương tiện vận chuyển du lịch, các cơ sở vui chơi giải trí ) và các cơ sở vật chất kỹ thuật của một số ngành kinh tế quốc dân nhưng tham gia phục vụ du lịch như hệ Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 32
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên thống các cơ sở thương nghiệp, y tế, thể thao, du lịch, trạm xăng dầu, thiết bị cấp cứu, phòng rửa tráng phim, hiệu cắt tóc, hiệu giặt là 1.3.3- Các chỉ tiêu để xác định tuyến - điềm du lịch Việc xác định tuyến - điểm du lịch trong phạm vi lãnh thổ của một thành phố hoặc xa hơn nữa dựa trên một số chỉ tiêu nhất định. Các chỉ tiêu đó là: 1.3.3.1- Độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch Độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá tài nguyên du lịch, có tính chất tổng hợp và thường xác định, đánh giá bằng vẻ đẹp phong cảnh, sự đa dạng của địa hình, sự thích hợp của khi hậu, tính đặc sắc của và độc đáo của của tài nguyên tự nhiên và nhân văn. Độ hấp dẫn thể hiện ở số lượng và chất lượng của các tài nguyên, khả năng đáp ứng được nhiều loại hình du lịch. Đối với phạm vi cấp tỉnh, theo TS Nguyễn Thế Chỉnh có thể phân độ hấp dẫn thành 4 cấp: - Rất hấp dẫn: có trên 5 phong cảnh đẹp, đa dạng, có 6 hiện tượng di tịch đặc sắc,đáp ứng được trên 5 loại hình du lịch. - Khá hấp dẫn: có 3 - 5 phong cảnh đẹp, đa dạng, có 2 hiện tượng di tịch đặc sắc,đáp ứng được trên 5 loại hình du lịch. - Trung bình hấp dẫn: có 1- 2 phong cảnh đẹp, đa dạng, có 1 hiện tượng di tịch đặc sắc,đáp ứng được 1- 2 loại hình du lịch. - Kém hấp dẫn: phong cảnh đơn điệu, đáp ứng được 1 loại hình du lịch. 1.3.3.2- Thời gian hoạt động du lịch Thời gian hoạt động du lịch được xác định bởi số thời gian thích hợp nhất của các điều kiện khí hậu đối với sức khoẻ của khách du lịch và số thời gian thuận lợi để triển khai các hoạt động du lịch. Thời gian hoạt động du lịch quyết định thính chất thường xuyên hay mùa vụ của hoạt động du lịch và liên quan đến hoạt động trực tiếp đến phương hướng khai thác, đầu tư, kinh doanh phục vụ du lịch. Có thể phân chia thời gian hoạt động du lịch thành 4 cấp: - Rất dài: có trên 200 ngày trong năm có thể triển khai tốt các hoạt động du lịch và trên180 ngày trong năm có điều kiện khí hậu thích hợp nhất đối với sức khoẻ con người. - Dài: có 120 - 150 ngày trong năm có thể triển khai tốt các hoạt động du lịch. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 33
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên - Trung bình: có 100 - 120 ngày trong năm có thể triển khai tốt các hoạt động du lịch. - Ngắn: có dưới 100 ngày trong năm có thể triển khai tốt các hoạt động du lịch. 1.3.3.3- Sức chứa khách du lịch Sức chứa khách du lịch đối với mỗi khu vực tổng sức chứa tại mỗi điểm du lịch. Sức chứa khách du lịch phản ánh quy mô triển khai hoạt động du lịch tại điểm du lịch có ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động du lịch của khách. Có thể xác định sức chứa theo diện tích hoặc theo tuyến du lịch cho từng thời điểm, điều này phụ thuộc vào hoạt động du lịch cụ thể tại điểm du lịch. Có thể phân chia sức chứa khách du lịch làm 4 cấp: - Rất lớn: có sức chứa trên 1000 người /1ngày. - Lớn: có sức chứa trên 500 - 1000 người /1ngày. - Trung bình: có sức chứa trên 100 - 500 người /1ngày. - Nhỏ: có sức chứa 100 người /1ngày. 1.3.3.4- Vị trí của điểm du lịch Vị trí của điểm du lịch có ý nghĩa quan trọng trong việc triển khai các hoạt động du lịch và thu hút khách du lịch. Các chỉ tiêu đánh giá về khoảng cách. Thời gian đi đường và phương tiện vận chuyển. Nếu tài nguyên du lịch ở vị trí thuận lợi, chất lượng đường tốt, giảm bớt thời gian và chi phí thì đương nhiên sẽ thu hút được nhiều khách du lịch hơn. Có thể nói, vị trí của điểm du lịch cũng là một trong những giá trị vô hình để thu khách, nên khi đánh giá tài nguyên cần phải được quan tâm tới. Có thể phân chia vị trí điểm du lịch thành bốn cấp: - Rất thích hợp: khoảng cách 10-200km, thời gian đi đường nhỏ hơn 3 giờ, có thể đi bằng 2-3 loại phương tiện thông dụng. - Thích hợp: khoảng cách 10-200km, thời gian đi đường 3-4 giờ, có thể đi bằng 2-3 loại phương tiện thông dụng. - Trung bình: khoảng cách trên 200km và dưới 500km, thời gian đi đường mất 5 giờ, có thể đi bằng 1-2 loại phương tiện thông dụng. - Kém thích hợp: khoảng cách trên 500km, thời gian di đường lớn hơn 5 giờ, có thể đi bằng 1-2 loại phương tiện thông dụng. 1.3.3.5- Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 34
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố đáng kể với hoạt động du lịch. Nếu như thiếu nó thì hoạt đông du lịch không có điều kiện thuận lợi để tiến hành, thậm trí có khi phải đình chỉ. Nơi nào chưa xây dựng được cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật thì nơi đó dù có điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thuận lợi đến mấy cũng chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng. Có thể phân chia làm 4 cấp như sau: - Rất tốt: cơ sở hạ tầng - cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đồng bộ, đủ tiện nghi đạt tiêu chuẩn quốc tế. - Tốt: cơ sở hạ tầng - cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tương đối đồng bộ, đạt tiêu chuẩn quốc gia. - Trung bình: cơ sở hạ tầng - cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch chưa đầy đủ, chưa đủ tiện nghi đạt tiêu chuẩn quốc gia. - Kém: cơ sở hạ tầng - cơ sở vật chất kỹ thuật chưa có, hoặc số đã có thì chất lượng thấp và có tính chất tạm thời. 1.3.3.6- Chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế Đối với mỗi điểm du lịch, để xác định hiệu quả kinh tế trong tổng thể phát triển của vùng thường xuyên phải đưa ra những tiêu chuẩn đo lường về mặt kinh tế. Nhưng tiêu chuẩn đó thì nhiều, song có thể chia làm hai nhóm: - Những tiêu chuẩn quyết dịnh khả năng sinh lợi đói với những giá trị hiện hành hàng năm, dựu vào lợi nhuận thu được hàng năm tại nơi kinh doanh du lịch: +Lợi nhuận = tổng doanh thu – tổng chi phí (∑Bt –∑Ct ) Lợi nhuận ∑Bt - ∑Ct +Tỷ xuất lợi nhuận = ( ) x 100% Tổng chi phí ∑Ct - Mặt khác, có thể căn cứ vào cố lượng khách đến hàng năm tại các điểm du lịch, bao gồm tổng lượng khách trong nước và khách quốc tế. Dựa vào 2 nhóm tiêu chuẩn trên, căn cứ vào từng đơn vị lãnh thổ du lịch cụ thể, có thể chia ra làm 4 mức độ và hiệu quả kinh tế phát triển du lịch như sau: Rất cao, cao, trung bình và thấp. Sáu chỉ tiêu trên là căn cứ cơ bản để tính toán và xác định các điểm – tuyến du lịch trên lãnh thổ. TIỂU KẾT CHƢƠNG I Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 35
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Qua phần trình bày ở Chương I, về mặt lý luận có thể rút ra kết luận: nội dung chủ yếu của việc xác định tuyến, điểm du lịch là tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho du lịch. Các chỉ tiêu cụ thể để xác định tuyến, điểm du lịch là độ hấp dẫn của tài nguyên du lịch, thời gian hoạt động du lịch, sức chứa khách du lịch, vị trí, cơ sở hạ tầng – cơ sở vật chất kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của điểm du lịch. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 36
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên CHƢƠNG II CÁC TIỀM NĂNG CHỦ YẾU ĐỂ XÂY DỰNG TUYẾN – ĐIỂM DU LỊCH VĂN HOÁ Ở HUYỆN THUỶ NGUYÊN 2.1- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN THUỶ NGUYÊN 2.1.1- Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1- Vị trí địa lý Huyện Thuỷ Nguyên là một huyện duyên hải của thành phố Hải Phòng, có diện tích khoảng 242,7km2, dân số 203.870 người (số liệu năm 2005) nằm ở phía Bắc thành phố Hải Phòng. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh qua các sông Bạch Đằng, Đá Bạc; phía Tây Nam giáp tỉnh Hải Dương; phía Đông và Nam giáp các quận Hải An, Ngô Quyền và Hồng Bàng qua sông Cấm. Nhìn trên bản đồ huyện Thuỷ Nguyên như một hòn đảo, xung quanh đều là sông bao bọc. Huyện có 37 đơn vị hành chính bao gồm: thị trấn Núi Đèo, thị trấn Minh Đức và 35 xã là: Gia Minh, Gia Đức, Minh Tân, Trung Hà, Ngũ Lão, Hoà Bình, Thuỷ Đường, Thiên Hương, Hoa Động, Lâm Động, Hoàng Động, Tam Hưng, Phục Lễ, Phà Lễ, Lập Lễ, Thuỷ Triều, Thuỷ Sơn, An Lư, Tân Dương, Dương Quan, Liên Khê, Lưu Kỳ, Kỳ Sơn, Lưu Kiếm, Chính Mỹ, Quảng Thanh, Kênh Giang, Đông Sơn, Mỹ Đồng, Lại Xuân, An Sơn, Phù Ninh, Hợp Thành, Cao Nhân, Kiền Bái. 2.1.1.2- Địa hình Vùng đất Thuỷ Nguyên là kết quả của sự hoạt động địa chất, địa mạo lâu dài; quá trình biển tiến, biển lùi phức tạp qua nhiều triệu năm. Địa hình nơi đây bao gồm hai hình thái trái ngược nhau; vùng đồi núi chia cắt khá mạnh và vùng đồng bằng ô trũng. Đồi núi chiếm khoảng 12%, phân bố chủ yếu ở phía bắc Thuỷ Nguyên. Đồng Bằng ở Thuỷ Nguyên chiếm khoảng 80% diện tích tự nhiên của huyện. Khu vực này nằm ở phía Nam huyện, trải rộng trên toàn bộ diện tích các xã Hợp Thành, Cao Nhân, Mỹ Đồng, Kiến Bái, Thiên Hương, Đông Sơn, Tân Dương, Dương Quan, An Lư, Thuỷ Triều, Tam Hưng, Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ và chiếm phần lớn các xã Phù Linh, Kênh Giang,Thuỷ Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 37
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Đường, Hoà Bình, Trung Hà, Ngũ Lão Ngoài ra một số cánh đồng nhỏ hẹp còn nằm xen kẽ giữa các dải núi đồi ở khu vực phía Bắc của huyện. 2.1.1.3- Khí hậu Nằm trong mảnh đất Hải Phòng nhưng với những đặc trưng về vị trí địa lý, địa hình riêng biệt nên khí hậu Thuỷ Nguyên vừa mang tính chất của khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa vừa có những đặc trưng kiểu khí hậu của khu vực đồng bằng xen kẽ với núi đá vôi. Nhiệt độ trung bình hàng năm vào khoảng 23°- 24°C, lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 1500mm – 1650mm. Khí hậu ở Thuỷ Nguyên chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa Đông lạnh, mùa Hạ nóng và thường có nhiều mưa bão vào các tháng 7, 8, 9. Mùa Đông kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau. 2.1.1.4- Thuỷ văn Huyện Thuỷ Nguyên được bao quanh bởi sông Kinh Thầy, Thái Bình, Bạch Đằng, sông Gía, sông Hàn, sông Ruột Lợn Nội địa vùng đất, Thuỷ Nguyên là hệ thống kênh mương dày đặc. Các dòng sông chính chảy qua phần đất Thuỷ Nguyên đều là phần hạ lưu cuối cùng của hệ thống sông Thái Bình, gồm: sông Bạch Đằng (30km), sông Kinh Thầy (27km), sông Hàn (8km), sông Ruột Lợn (5km) và sông Gía. Đặc biệt, sông Bạch Đằng là nơi ghi dấu những chiến công lừng lẫy trong lịch sử đấu tranh của dân tộc (năm 939 Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, năm 1288 chiến thắng Nguyên – Mông). 2.1.2- Điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội 2.1.2.1- Lịch sử Tên đầu tiên của huyện là Nam Triệu Giang. “Giang” có nghĩa là một đơn vị hành chính tương đương cấp huyện. Thời Hùng Vương, Thuỷ Nguyên thuộc bộ Dương Tuyền (Thanh Thuyền) một trong 15 bộ của nước Văn Lang xưa. Vào thời Minh đô hộ, trong sử sách tên Thuỷ Đường được nhắc đến nhiều lần. Thời Nguyễn, Thuỷ Nguyên thuộc phủ Kinh Môn, Trấn Hải Dương. Từ 31-01-1898 sát nhập vào tỉnh Phù Liễn (năm 1906 tỉnh Phù Liễn đổi tên là tỉnh Kiến An). Tháng 11 năm 1949 thuộc tỉnh Quảng Yên, đến năm 1953 thuộc khu Hồng Quảng. Năm 1956 được cắt chuyển về tỉnh Kiến An, ngay sau đó lại thuộc thành phố Hải Phòng. Khi Kiến An và Hải Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 38
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Phòng sát nhập (20-10-1962), Thuỷ Nguyên chính thức trở thành một huyện ngoại thành thuộc thành phố Hải Phòng. Đến nay Thuỷ Nguyên có 35 xã và 2 thị trấn Núi Đèo, Minh Đức. Năm 1886 kiêng tên huý vua Đồng Khánh (Ưng Đường) nên Thuỷ Đường đổi tên là Thuỷ Nguyên và được duy trì đến ngày nay [5]. Trong suốt chiều dài lịch sử, Thuỷ Nguyên luôn là địa bàn chiến lược, nơi đầu sóng ngọn gió, đồng thời cũng là địa thế hiểm yếu, phải đương đầu với muôn vàn biến động của lịch sử. Đặc điểm đó tạo nên bản sắc đáng trân trọng của con người Thuỷ Nguyên: cần cù, sáng tạo trong lao động; dũng cảm trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Mảnh đất này không ít lần chứng kiến và góp phần lập nên nhiều chiến công hiển hách, chôn vùi ý đồ xâm lăng của nhiều đạo quân xâm lược. Tiêu biểu là các trận quyết chiến tiêu diệt quân Nam Hán (năm 938), quân Nguyên Mông (năm 1288). Cũng trên mảnh đất này đã sản sinh biết bao người con ưu tú cống hiến cho sự nghiệp dựng nước mà tên tuổi họ còn sống mãi với truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam như Vũ Hồng, Vũ Thị Lê Hoa, Trần Độ, Trần Cao, Lê Na [1]. 2.1.2.2- Dân cư Thuỷ Nguyên nằm trên hành lang phía Bắc thành phố Hải Phòng, nằm trên trục giao thông chính nối liền hai thành phố công nghiệp Hải Phòng và Quảng Ninh. Nguyễn Trãi đã từng ví đây là “phiên dậu lớn nhất phía Đông” vùng đất này được hình thành từ rất sớm, dân cư sống ở vùng đất này có mặt từ xa xưa. Những di chỉ khảo cổ học tìm thấy mộ cổ Việt Khê (Phù Ninh) được khai quật vào năm 1962 có niên đại khoảng 2000 năm. Theo các kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở di chỉ Tràng Kênh (thuộc văn hoá Phùng Nguyên), di chỉ Việt Khê (thuộc văn hoá Đông Sơn) từ rất sớm con người đã có mặt ở Thuỷ Nguyên. Khi ấy họ cư trú trên các sườn đồi, chân núi rồi xuống đông bằng ven biển, cùng nhau chinh phục tự nhiên, Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 39
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên khai khẩn đất đai, xây dưng nên xóm làng trù phú, chống lại thiên tai, giặc giá xâm lẫm. Nét nổi bật của cư dân Thuỷ Nguyên là đa thành phần, đa dòng họ. Theo bia ký, ngọc phả của các làng còn được lưu giữ, dân cư thuộc khu vực xã Phù Ninh, Thuỷ Đường, Minh Đức thuộc vào lớp đã có mặt ở Thuỷ Nguyên từ cổ xưa.Cư dân các xã còn lại đều là có nguồn gốc từ các vùng khác. Họ di cư đến Thuỷ Nguyên quai đê, lập ấp, thành lập thôn trại cách đây chưa lâu lắm. Chính vì có nguồn gốc khác nhau nên cư dân ở mỗi xã có một giọng nói riêng. Thậm chí hai làng sát nhau, chỉ cách nhau một con đường mà phong cách, nếp sống, lời ăn tiếng nói của dân cư ở đó cũng khác nhau. Dân ở xã An Lư, Trung Hà, Thuỷ Triều khi nói không có sự phân biệt giữa thanh (?) và thanh (~). Dân ở xã Phả Lễ, Lập Lễ thường nhấn mạnh ngữ điệu vào âm cuối tạo giọng ngân nga, kéo dài trong khi nói. Thiên nhiên đã ban tặng cho Thuỷ Nguyên, khung cảnh non xanh, nước biếc, sông ngòi uốn khúc, đồi núi trập trùng có đồng nội làng mạc trù phú, khí hậu biển quanh năm mát mẻ Vì thế con người sông ở nơi đây có điều kiện rất tốt phát triển cả thể lực và trí lực.Từ ngàn xưa Thuỷ Nguyên đã là vùng quê giàu có, và là vùng đất nổi tiếng có nhiều trai tài gái sắc, thông minh lịch lãm.Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi chép về Thuỷ Nguyên đã từng coi nơi đây là vùng đất quân yếu của bờ cõi mặt biển. Bởi trong lịch sử dân tộc, những lần giặc phương Bắc xâm lược nước ta, chúng thường đi bằng hai con đường: một là đường bộ qua Lạng Sơn, hai là đường thuỷ men theo ven biển đến Hạ Long, theo sông Bạch Đằng rồi tới sông Lục Đầu để tiên sâu vào nội địa. 2.2.3- Một số nét về kinh tế - văn hoá - xã hội Thuỷ Nguyên như một hòn đảo nằm trong vòng ôm của những dòng sông, ở phía Tây Bắc là sông Hàn nối với sông Đá Bạc, sông Bạch Đằng kéo dài suốt phía Bắc tới phía Đông huyện, phía Tây là sông Hàn nối liền với sông Văn Dương và sông Cấm ngăn cách huyện Thuỷ Nguyên với các vùng xung quanh. Nằm ngang huyện là hồ sông giá thơ mộng, bốn mùa nước trong xanh với trữ lượng nước lớn chạy dài từ Đông sang Tây Bắc, nằm giữa hai dãy đồi đất sa diệp thạch kì thú. Tận dụng tối đa các thế mạnh của một vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, đa dạng về ngành nghề, Thuỷ Nguyên đã nắm bắt thời cơ, khai thác tối đa Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 40
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên những tiềm năng sẵn có. Trên cơ sở đó, nhanh chóng xác định các ngành kinh tế mũi nhọn để đầu tư phát triển, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Trong giai đoạn 1998 - 2002, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 58% xuống 47,9%; công nghiệp - xây dựng tăng từ 11,9% lên 26,4%; ngành dịch vụ cũng được điều chỉnh hợp lý hơn. Nhờ đó, năm 2002, tổng giá trị các ngành sản xuất và dịch vụ đạt 688,7 tỷ đồng, tăng 16,5% so với năm 2001, trong đó ngành nông nghiệp tăng 5,1%, ngành công nghiệp - xây dựng tăng 26,4%, ngành dịch vụ tăng 22,8%. Những năm gần đây, Thuỷ Nguyên nhộn nhịp như đại công trường xây dựng với 3 khu công nghiệp Minh Đức- Bến Rừng, Nam Cầu Kiền; Lưu Kiếm- Gia Minh và hàng trăm dự án ngoài các khu công nghiệp này. KCN Minh Đức - Bến Rừng có 14 dự án thuộc lĩnh vực đóng mới, sửa chữa tàu biển, nhiệt điện, dự án hạ tầng giao thông, công trình phúc lợi và nhà ở. KCN Nam cầu Kiền có 6 dự án lớn như xây dựng KCN VINASHIN- SHINEC, đóng tàu Sông Cấm, Thành Long, VINASHIN An Dương, sửa chữa phương tiện giao thông đường bộ do Công ty TNHH Thương mại-Vận tải Hoàng Hải làm chủ đầu tư. KCN Lưu Kiếm-Gia Minh có 6 dự án đầu tư gồm: tổ hợp resort tại Lưu Kiếm, Chính Mỹ và, Liên Khê, Nhà máy sản xuất công nghiệp nặng FeLix, xi- măng Liên Khê, sản xuất vôi, xăng dầu khu vực 3 và đóng tàu Nam Sơn. Các dự án mang lại hiệu quả thiết thực, đóng góp lớn cho ngân sách và thúc đẩy tăng trưởng GDP trên địa bàn, tạo việc làm cho số lượng lớn lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế Thuỷ Nguyên theo hướng công nghiệp-xây dựng chiếm chủ yếu (42,1%); dịch vụ 28,9%; nông nghiệp- thuỷ sản 29%. Năm 2008, tổng giá trị sản xuất các ngành của Thuỷ Nguyên đạt hơn 2100 tỷ đồng tăng 16,9% so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp thuỷ sản, công nghiệp xây dựng, dịch vụ đạt khá. GDP đạt 980 tỷ đồng, tăng 16,6% so với năm 2007. Hiện trên địa bàn Thuỷ Nguyên có 39 dự án đã và đang triển khai, trong đó có 30 dự án mới với tổng diện tích đất thu hồi 964,6 ha, khoản tiền bồi thường cho hơn 10 nghìn hộ dân lên tới 1323 tỷ đồng. 32 dự án có quyết định thu hồi đất của UBND thành phố với 599 ha, 7611 hộ dân liên quan phải di dời, trong đó có 317 hộ cần tái định cư và bố trí giãn dân. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 41
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Năm 2009, mặc dù chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, nhưng nhờ sự nỗ lực và quyết tâm cao của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện, tình hình kinh tế - xã hội của Thuỷ Nguyên vẫn tiếp tục ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: nông nghiệp - thuỷ sản 26%, công nghiệp - xây dựng 43,7%, dịch vụ 30,3%. Tổng giá trị sản xuất đạt 2.443,8 tỷ đồng, tăng 15,9%; tổng thu ngân sách đạt 194 tỷ đồng, tăng 42%; huy động đầu tư toàn xã hội đạt 710 tỷ đồng, tăng 18,3% so với năm 2008. Tín hiệu đáng mừng là: dịch vụ thương mại tăng 23,2%, dịch vụ vận tải tăng 20,5%, dịch vụ khác tăng 16,6%; quy hoạch các điểm dịch vụ thương mại và hệ thống ga rác ở các xã, thị trấn cũng như quy hoạch phát triển hệ thống lưới điện đến năm 2020, các cụm công nghiệp ven sông Kinh Thầy, sông Đá Bạc, khu xử lý chất thải Gia Minh đã cơ bản hoàn thành. Lúc này ở Thuỷ Nguyên, tỷ lệ hộ dân dùng nước hợp vệ sinh đạt 85%, số trường học đạt chuẩn quốc gia là 47 (riêng năm 2009 xây dựng được 5 trường), tỷ lệ hộ nghèo còn 4,51%. Năm 2010, huyện đề ra các nhóm giải pháp tập trung tháo gỡ khó khăn để phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; giữ vững quốc phòng – an ninh, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh nhằm thực hiện tốt 9 chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Trong đó, phấn đấu tổng giá trị sản xuất các ngành 2.851 tỷ; tốc độ tăng trưởng kinh tế 16,6%; 91% hộ dân được dùng nước sạch (Báo an ninh Hải Phòng 15/06/2010). Bên cạnh đó, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cảng, Thuỷ Nguyên có điều kiện phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp như: hồ Sông Giá, hang Lương, hang Vua, khu vực núi Tràng Kênh và nhiều công trình kiến trúc độc đáo, đền thờ, miếu mạo đã được Nhà nước công nhận và xếp hạng cùng với những lễ hội truyền thống độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc. Về mặt văn hoá - xã hội, cư dân Thuỷ Nguyên đã sinh sống trên mảnh đất này ngay từ buổi đầu dựng nước. Trải qua các biến động, thăng trầm lịch sử, dựa vào tự nhiên để sinh tồn, cộng đồng dân cư ở đây đã sáng tạo, củng cố và hoàn thiện được những đặc trưng văn hoá của riêng mình. Phong tục tập quán, tín ngưỡng và hệ thống lễ hội của họ đã hình thành, tồn tại và phát triển qua hàng nghìn năm. Ngày nay, nó vẫn được duy trì củng cố và hoàn thiện trong hoàn cảnh mới. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 42
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Nét đặc trưng về phong tục, tập quán trong lao động sản xuất ở Thuỷ Nguyên có: Lễ Hạ điền (xuống đồng) để mở đầu một chu kỳ sản xuất mới hàng năm. Lễ hội này được tổ chức nhằm cầu mong cho mùa màng bội thu. Thời gian tổ chức thường vào một ngày cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6 (âm lịch). Đáng chú ý là tục tế thần nông cầu mong mưa thuận, gió hoà cho lúa và hoa màu tươi tốt, được mùa, ấm no. Đến nay các lễ hội này đã mai một. Gần như mỗi làng ở Thuỷ Nguyên đều có một lễ hội riêng. Đó thường là lễ hội cúng Thành Hoàng, người có công với dân với nước hoặc hội đình, hội đền, hội chùa. Các lễ hội tiêu biểu ở Thuỷ Nguyên phải kể đến: lễ hội Trần Quốc Bảo ở Minh Đức (6/ Giêng), lễ hội cúng Thành Hoàng làng ở đìng Kiền Bái (10/10 âm lịch), lễ hội chùa ở Lâm Động (17/ Giêng), hội chùa Mỹ Cụ xuất xứ từ ngày giỗ Sư tổ mùng 6 tháng Giêng thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia nhằm giúp cho việc tổ chức lễ hội được tốt đẹp, suôn sẻ. Hàng năm các làng thường có tục làm “cai đám”. Các giáp trong làng mỗi năm cử một người thay mặt giúp mình để đăng cai việc tổ chức đình đám. Người “cai đám” này được chia cấy ruộng hậu của làng để lo việc. Cũng như bao làng quê khác, tục thờ cúng tổ tiên là nghiã cử cao đẹp được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong các gia đình, dòng họ ở địa phương. Trong các làng xã đều thờ Thành Hoàng làng là những anh hùng có công với đất nước, làng xã, là người sáng lập làng hoặc ông tổ nghề. Ở Thuỷ Nguyên đó là các anh hùng dân tộc: Cao Sơn, Quý Minh, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Bảo hoặc sáng lập ra quê mình như: ông Vũ Đại, ông Lủi được nhân dân tôn thờ. Ở Thuỷ Nguyên, hai tôn giáo có nhiều tín đồ, ảnh hưởng sâu rộng trong tư tưởng tín ngưỡng nhân dân trong huyện là: Phật giáo, Thiên Chúa giáo. Phật giáo được truyền vào Thuỷ Nguyên từ đầu công nguyên nhưng qua nhiều năm thăng trầm, tới thế kỷ X mới phát triển, đến thế kỷ XVII thì hệ thống truyền tam pháp của thiền gia được thành lập. Theo thống kê chưa đầy đủ ở Thủy Nguyên có khoảng 130 di tích lịch sử văn hóa, phân bố khá đều ở các làng xã với mật độ trung bình 1 di tích/1km². Do vậy Thủy Nguyên là một trong những huyện có mật độ di tích lịch sử văn hóa cao nhất cả nước. Trong đó đã có 18 di tích được xếp hạng Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 43
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên quốc gia và 23 di tích được xếp hạng thành phố (Phụ lục 3) cũng thuộc mật độ cao nhất trong cả nước. Hiện nay, Thuỷ Nguyên là huyện có nhiều chùa nhất ở Hải Phòng, trong đó có 4 chùa vừa là chốn tổ đình vừa là danh thắng. Tiêu biểu là chùa Thường Sơn (Hàm Long tự), được xây dựng năm Chính Hoà hai mươi ba (1702) thời Lê Hy Tông thuộc phái Trúc Lâm; chùa Mỹ Cụ (Linh Sơn tự) được xây dựng vào thời Tiền Lê, hiện chùa còn lưu giữ 6 bộ kinh quý của Nhà Phật. Tính đa dạng của tự nhiên ở Thuỷ Nguyên là tiền đề quan trọng tạo cho con người nơi đây cởi mở, phóng khoáng, thẳng thắn. Đồng thời cũng tạo điều kiện phát triển các hình thức hoạt động kinh tế với nhiều nghành nghề khác nhau. Trên cơ sở cuộc sống lao động đó cư dân huyện Thuỷ Nguyên tạo dựng được bản sắc văn hoá riêng. 2.2- MỘT SỐ DI SẢN VĂN HOÁ TIÊU BIỂU CỦA HUYỆN THUỶ NGUYÊN CÓ THỂ ĐƯA VÀO KHAI THÁC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 2.2.1- Các di tích lịch sử văn hoá 2.2.1.1- Cụm di tích Bạch Đằng lịch sử Dân tộc Việt Nam trong lịch sử đã trải qua bao thế hệ chống xâm lăng, đã tạo cho mình một truyền thống chiến đấu bền bỉ và kiên cường. Trải qua những năm dài chiến đấu đó biết bao địa danh đã thành tên chiến thắng: sông Như Nguyệt gắn với chiến công vang dội của Lý Thường Kiệt; ải Chi Lăng - của Lê Lợi; Đống Đa, Rạch Rầm - của Nguyễn Huệ, Điện Biên Phủ mang tính chất quyết định trong chiến tranh Đông Dương Nhưng không ở một vùng đất nào những chiến công cực kỳ hoành tráng lại xảy ra liên tiếp tại một nơi như sông Bạch Đằng lịch sử. Sông Bạch Đằng, còn gọi là Bạch Đằng Giang (chữ Hán: 白藤江), là một con sông dài 32 km, nằm trong hệ thống sông Thái Bình, chảy qua rìa đông huyện Thuỷ Nguyên. Điểm đầu đối diện với thôn Bạch Đằng, xã Gia Đức, Thuỷ Nguyên. Điểm cuối là cửa Nam Triệu, một bên là đảo Đình Vũ, một bên là đảo Cát Hải, Hải Phòng. Đây là con đường thủy tốt nhất để đi từ miền nam Trung Quốc vào Hà Nội (Thăng Long ngày xưa). Chính tại nơi đây, tổ tiên người Việt đã lập nên những chiếc công hiển hách và cũng bằng cách đóng cọc ngăn sông chống quân xâm lược, đó là trận Ngô Quyền chống quân Nam Hán năm 938, trận Lê Hoàn chống quân Tống năm 981, và oanh liệt nhất là trận Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 44
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên năm 1288. Xưa kia sông Bạch Đằng là con đường thủy tốt nhất để đi vào Thăng Long từ miền nam Trung Quốc, từ cửa sông Nam Triệu các chiến thuyền đi vào sông Kinh Thầy, sông Đuống và cuối cùng là sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội. Theo sử sách xưa kia sông có tên gọi là Vân Cừ, nhưng trong dân gian nó lại mang một một cái tên mộc mạc: sông Rừng. Người dân bảo rằng do ngày xưa hai bên bờ có rất nhiều cây cổ thụ và thường có sóng bạc đầu nên còn có tên gọi là Bạch Đằng giang. Sông Bạch Đằng xưa kia còn là một dòng sông rộng mà câu ca dao truyền lưu ở Thuỷ Nguyên đã mô tả: Nhất cao là núi U Bò Nhất lớn chợ Giá, nhất to sông Rừng. Đi vào các làng ven sông Bạch Đằng, du khách sẽ được nghe các sự tích thành hoàng, hay thấy bản sắc phong ở đình miếu do vua chúa các triều đại ban cho các vị danh tướng, công thần trong đó nhiều nhất là đời Trần. Họ được nhân dân ghi công và lập đền thờ: đình và đền thờ Ngô Quyền, đền thờ Trần Hưng Đạo, đền thờ bà cụ bán nước có công giúp Trần Hưng Đạo đánh giặc Ở bãi sông Chanh dưới chân núi Tràng Kênh còn tìm thấy nhiều cọc gỗ lim đầu vạt nhọn, cao đến ba, bốn mét, hiện được trưng bày ở Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam. 2.2.1.2- Đền thờ Trần Quốc Bảo Trần Quốc Bảo là cháu vua Trần. Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ ba (1287), Trần Quốc Bảo được giao nhiệm vụ trấn thủ miền ven biển. Ông đã đóng quân ở vùng Áng Hồ, Áng Lác trong dãy núi đá Tràng Kênh. Vào khoảng tháng 2-1288, tướng giặc Nguyên là Ô-mã-nhi, chờ mãi không thấy thuyền lương của Trương Văn Hổ tới, đã kéo quân đến An Bang (Quảng Ninh ngày nay) vừa để đón Văn Hổ, vừa đi cướp bóc lấy lương thực ăn. Quân Nguyên bị quân ta chặn đánh. Trần Quốc Bảo đã đưa quân sang chiến đấu ở vùng này để giúp sức cho Trần Khánh Dư. Trong một trận giáp chiến quyết liệt giữa quân ta và quân Nguyên, tướng Trần Quốc Bảo bị trọng thương. Quân lính đưa ông về khu vực Áng Hồ phía sau. Mặc dù được sự chăm sóc tận tình nhưng vết thương quá nặng, Trần Quốc Bảo đã qua đời. Khi ông mất, nhân dân và quân lính đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng ở chân núi Phượng Hoàng. Ngày nay mộ Trần Quốc Bảo hãy còn. Nhân dân còn xây đền thờ ông ngay dưới chân núi Hoàng Tôn thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên. Đền thờ Trần Quốc Bảo là công trình tưởng niệm về vị tướng của vương triều Trần (1225-1400) có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông của dân tộc ta ở thế kỷ XIII. Di tích nằm ở phía Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 45
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên nam chân núi Hoàng Tôn, thôn Tràng Kênh, thị trấn Minh Đức, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng. Căn cứ vào các nguồn tư liệu như bản ngọc phả, văn bia, sắc phong của đền và chính sử nước ta thì thấy Trần Quốc Bảo là con trai của một vị Hoàng tộc trong vương triều Trần, cháu gọi vua Trần Nhân Tông (1279-1293) bằng ông. Trong trận chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, Trần Quốc Bảo đã anh dũng hi sinh, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của quân và dân nhà Trần. Vì vậy sau khi ông mất, triều đình nhà Trần đã truyền cho nhân dân địa phương vùng Tràng Kênh (nơi ông đóng quân và hy sinh) lập miếu thờ và truy phong làm Thái Tử. Các triều đại phong kiến tiếp theo đều thừa nhận công lao của Trần Quốc Bảo và suy tôn là “Thượng đẳng phúc thần”, phong sắc Thành hoàng làng Tràng Kênh. Kiến trúc đền thờ Trần Quốc Bảo tiêu biểu cho mô hình của một trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng, gồm có hai phần. Phần trong còn gọi là hậu cung (hay nội điện), nơi thờ tự đức thánh Trần Quốc Bảo. Phần ngoài còn gọi là tiền đường (hay đại bái) có kiến trúc độc đáo gồm 2 tầng, 8 mái đao cong, đắp mô típ “rồng chầu, phượng mớm”, xung quanh bái đường không xây tường, làm cửa nhà mà để ngỏ 4 mặt, tạo ra sự thông thoáng, mát mẻ. Chính giữa là 'Trung đình', nơi đặt hương án, đồ thờ. Hai bên tả hữu của đại bái là nơi hội họp của các quan viên làng xã xưa kia. Đền Trần Quốc Bảo đã phải trải qua rất nhiều lần tu sửa do đổ nát, xuống cấp, vết tích vật chất thể hiện ở kiến trúc, đồ thờ có niên đại sớm ở thời kỳ Trần Lê hầu như không còn. Lần tu sửa mới đây (1994) chỉ giữ lại được các cột vì xà trong hậu cung mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Nhưng nét độc đáo của quần thế kiến trúc chữ 'nhị' rất tiêu biểu thường thấy ở các di tích thuộc huyện Thuỷ Nguyên (như miếu Thuỷ Tú, đình Trung, đình Thượng ở Thuỷ Đường, đền Đông Môn ở Hoà Bình). Toà đại bái thường có một khoảng cách với toà hậu cung, không có toà “ống muỗng”, nhưng mô típ kiến trúc toà đại bái với kiểu 2 tầng, 8 mái thì chỉ thấy có ở đền Trần Quốc Bảo Tràng Kênh mà thôi. Lễ hội đền Trần Quốc Bảo (hay lễ hội Tràng kênh) bắt đầu vào mồng 6 tháng giêng âm lịch và kéo dài sau đó khoảng 5 ngày. Đây là một lễ hội có qui mô lớn nhất ở huyện Thuỷ Nguyên được duy trì và tổ chức đều đặn hàng Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 46
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên năm, có sức lôi cuốn sự tham gia đông đảo của cả một vùng cư dân rộng lớn (Hải Phòng - Quảng Ninh). Từ một di tích để khói hương tôn thờ, tưởng niệm đến một không khí hội hè với nhiều trò, cảnh. Lễ hội ở đây đã kết tinh tình cảm cao quí đối với một vị tướng của vương triều Trần với lễ hội. Đó cũng là nét bản sắc của lễ hội dân gian truyền thống tiêu biểu mang sắc thái của một làng cư dân ven biển Hải Phòng. Tràng Kênh đã đi vào lịch sử dân tộc như một địa bàn quan trọng của chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại. Đền thờ Trần Quốc Bảo vị danh tướng của vương triều Trần đứng sừng sững trông ra cửa sông Bạch Đằng Nam Triệu như một tượng đài kỷ niệm, nhắc nhở chúng ta về những chiến công oanh liệt chống giặc ngoại xâm [8]. 2.2.1.3- Cụm di tích Liên Khê Liên khê là một xã ở phía đông bắc huyện Thuỷ Nguyên. Nơi đây là một danh thắng, một khu di tích lịch sử trong phòng tuyến Trúc Động Tràng Kênh - Bạch Đằng của quân đội nhà Trần hồi thế kỷ XIII. Cách Hải Phòng chưa đầy 30 km, giao thông thuận tiện, Liên Khê là một trong những nơi thu hút du khách tới thăm quan. Trong vùng còn lưu truyền nhiều câu chuyện, huyền tích lịch sử đầy thú vị về thuở trước cách đây hơn 700 năm, kể từ khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lấy Trúc Động (tên cũ của Liên Khê) làm căn cứ để tiến ra cửa sông Bạch Đằng, sông Chanh tiêu diệt và bắt sống đạo thuỷ binh của đế quốc Nguyên Mông, viết lên một trang sử hào hùng của dân tộc. Liên Khê xưa kia thuộc tổng Trúc Động, huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Liên Khê là vùng đất có lịch sử lâu đời, nằm trên mạch núi già của vòng cung Đông Triều. Con người đến sinh cơ lập nghiệp tại mảnh đất này từ rất sớm. Những hiện vật khảo cổ học tìm thấy dưới lòng đất Liên Khê gồm đồ gốm và đồ đá mách bảo về một nền văn minh cách đây trên 2000 năm. Thư tịch cổ cho thấy vào những năm tháng đầu công nguyên, nhân dân Liên Khê dưới sự lãnh đạo của ba anh em họ Trương, người trang Thiểm Khê đã kéo về Mê Linh (Vĩnh Phúc) theo Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Đông Hán. Ba mặt của Liên Khê được bao bọc bởi sông Đá Bạc, sông Giá (tên cổ là Đô Lý), phía đông bắc có tám dãy núi đá vôi cao nằm sát sông Đá Bạc, tạo thành tấm bình phong thiên nhiên kỳ vĩ. Mười quả núi sa diệp thạch liền Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 47
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên nhau chạy dọc theo chiều dài của xã là chỗ dựa cho các ngôi nhà và vườn đồi bậc thang qui tụ thành những xóm thôn trù mật. Lịch sử đã đi qua mảnh đất này và để lại những nét son oanh liệt. Không những đẹp về cảnh, có lịch sử lâu đời, Liên Khê còn có vị trí chiến lược quan trọng. Các triều đại nhà Trần, nhà Mạc, nhà Nguyễn và thời thuộc Pháp đều nhận thấy điều đó và đặt đồn luỹ ở đây. - Đền Thụ Khê Lịch sử kể rằng, trước nguy cơ bị quân dân Đại Việt tiêu diệt, Thoát Hoan viên tướng cầm đầu đạo quân viễn chinh Nguyên Mông phải tìm cách rút quân về nước. Quân Nguyên Mông chia làm hai đạo rút binh, cánh quận bộ do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy chạy theo đường Lạng Sơn, cánh quân thuỷ do Ô Mã Nhi cầm đầu tháo lui theo đường cửa sông Bạch Đằng. Do vị trí hiểm yếu nên Liên Khê được chọn là trận địa chốt giữ, đánh chặn không cho thuyền giặc lọt vào sông Giá. Tương truyền trận đánh này trực tiếp do Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Ngày mồng 7 tháng 3 âm lịch (tức ngày 8-4-1288), đoàn chiến thuyền của Ô Mã Nhi sau nhiều ngày đánh nhau liên tục với phục binh ta trên nhiều tuyến đường, mệt mỏi rẽ vào sông Giá để ra sông Bạch Đằng liền bị quân ta chặn đánh kịch liệt, buộc phải quay thuyền tháo lui theo đường sông Đá Bạc. Để ghi lại chiến thắng Trúc Động (tên cũ của Liên Khê) và nhớ ơn vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, người trực tiếp chỉ huy trận Trúc Động - Bạch Đằng, nhân dân địa phương đã xây một ngôi đền thờ ông trên nền đại bản doanh xưa. Đó là đền Thụ Khê (còn gọi là Từ Thụ). Cạnh đền thờ Trần Quốc Tuấn có ngọn núi Từ Thụ cao vút là nơi quốc công truyền lại cho dân làng thanh gươm báu và kế sách chống giặc. Đền Thụ Khê trước đây là một công trình lớn, kiến trúc theo kiểu 'Nội công, ngoại quốc', gồm toà bái đường, cung chữ 'đinh' và hai dãy dải vũ. Thời gian và chiến tranh đã làm cho ngôi đền không còn nguyên vẹn như xưa, nhưng hiện tại đền Thụ Khê vẫn còn những hiện vật quí như: cỗ ngai và bài vị thờ đức thánh Trần Hưng Đạo trong tư thế thiết triều; ngai thờ, bài vị cùng duệ hiệu tướng quân Phạm Ngũ Lão (con rể đức thánh Trần Hưng Đạo) và một số hiện vật khác còn lại trong di tích mang niên đại nghệ thuật Nguyễn đầu thế kỷ XX. - Chùa Thiểm Khê Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 48
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Đối diện với bên kia đền Thụ Khê qua dãy núi chạy dài là một thung lũng hiểm yếu, nơi Hưng Đạo luyện quân sĩ, người xưa đã dựng chùa Thiểm Khê ghi dấu. Chùa Thiểm Khê có tên chữ là Hoa Linh Tự, được xem như đài tưởng niệm về chiến thắng Trúc Động. Chùa được dựng trên sườn cao của một thung lũng, lưng dựa vào núi Thiểm, bên phải có núi chùa Hang, bên trái là núi Mẫu Ba. Dưới con mắt phong thuỷ, chùa Thiểm Khê toạ lạc trên khu đất mang thể ỷ ngai, hai bên có tay long, tay hổ. Về kiến trúc, chùa Thiển Khê do bị giặc phá hoại hồi kháng chiến chống Pháp, nên hầu hết những công trình hiện tại tuổi đời còn rất non trẻ. Nhưng trong chùa còn bảo lưu nhiều pho tượng quý, có giá trị nghệ thuật cao, được xếp vào loại tượng gỗ cổ nhất còn lại ở nước ta như: bộ Tam Thế, bộ Di Đà Tam Tôn, Quan Âm Chuẩn Đề, hai pho Bồ Đề Đạt Ma, tượng Bồ Tát, Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu, Thích Ca sơ sinh và tượng Đức Ông, Thánh Tăng. Đáng chú ý nhất là chùa Thiểm Khê còn bảo tồn được pho tượng Quan Âm thiên phủ thiên nhãn niên đại thế kỷ XVI rất đẹp, là một trong những pho tượng gỗ có niên đại sớm nhất được tìm thấy ở nước ta. - Chùa Mai Động Đến cụm di tích Liên Khê, người ta không thể bỏ qua ngôi chùa Mai Động - một công trình lưu niệm về chiến thắng Bạch Đằng (1288) chống để quốc Nguyên Mông của dân tộc. Tương truyền, chùa Mai Động được xây dựng trên mảnh đất đã từng là kho quân lương tiền phương của quân đội nhà Trần. Chùa Mai Động tên chữ là Lễ Sơn Tự - một công trình kiến trúc có qui mô vừa phải và vẫn giữ được dáng dấp của nghệ thuật dân tộc cổ truyền. Chùa nằm trên sườn của dãy núi yên ngựa thấp. Khuôn viên chùa dốc theo độ thoải của sườn đồi khoảng 15 độ. Chùa quay hướng đông nam, trước chùa còn bảo lưu được 4 ngôi tháp mộ trong số hơn hai chục tháp sư của chùa. Kiến trúc chùa có bố cục hình chữ “đinh” quen thuộc gồm 3 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Trong chùa có nhiều di vật quí hiếm: đó là hệ thống tượng tháp; toà tam bảo được bày trọn trong toà hậu cung trên hệ thống bệ thờ xây bằng gạch chắc khoẻ, cân đối. Chùa Mai Động còn lưu giữ một số bia đá, Thạch thiên đài, những thư tịch cổ văn của thế kỷ XVII, XVIII. Thạch thiên đài trụ dựng ở sân chùa là một cột đá hình chữ nhật Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 49
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên vuông (cao 1,65m, rộng 22cm). Đỉnh cột tạo dáng búp sen tròn trên một đầu vuông thắt đáy (cạnh trên 38cm, cạnh dưới 30cm và chiều cao 16cm). Mặt trên đấu sen trang trí hình cánh sen đẹp, mỗi cạnh ba cánh. Trụ đá, hai đầu tạo đấu vuông. Đấu phía trên, mặt trước, mặt sau chạm nổi rồng và phượng đối nhau, hai bên mặt chạm cánh sen cách điệu. Đấu vuông chân cột mặt trước chạm nổi hình thú vờn chân, mặt sau chạm 3 con cá chụm đầu vào nhau tạo thành bông hoa ba cánh và hai mặt bên chạm bông sen mãn khai. Diềm cột trụ chạy hàng hoa dây cúc, rồng, phượng. Thân trụ khắc chìm chữ Hán trong ô tạo dáng cánh sen chữ nhật. Liên Khê còn là căn cứ hoạt động của nghĩa quân Đốc Tít (1885 1887) và của phong trào Mạc Thiên Binh (1897 - 1898) chống thực dân Pháp xâm lược. Trong cuộc kháng chiến 9 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hang sâu, núi cao ở Trúc Động, Liên Khê đã che chở cho du kích bộ đội ta bám trụ, diệt thù. Cụm di tích Liên Khê (Trúc Động xưa) là niềm tự hào của huyện Thuỷ Nguyên, của thành phố Cảng Hải Phòng và đã được Bộ Văn hoá thông tin cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hoá ngày 13-2-1996 [10]. 2.2.1.4- Chùa Câu Tử Ngoại Lịch sử hình thành và tên gọi: Thời xưa, chùa này thuộc trang Hùng Khê và nguồn gốc cư dân, ở các vùng Ngọc Khê, Việt Khê ra đây khai khẩn đất đai sản xuất, tạo lập văn minh xóm làng trên dải đất mới ven sông. Trải qua quá trình phát triển dân cư, hình thành ruộng đồng, thôn xã, Hùng Khê trang được đổi thành Câu Tử. Người địa phương kể: Hùng Khê trang được khai phá, lập nên làng xóm ấm cúng, bên dòng suối mát uốn lượn hình chữ 'Mã' trên bàn cờ tướng. Vì lẽ đó, địa danh Hùng Khê trang ban đầu đã được chuyển thành Câu Tử. Một câu phong dao lưu truyền tại địa phương còn nhắc: Câu Tử ngựa non vươn những bước Hoang vu ngày trước chỉ còn địa danh. Câu Tử đã trở thành đơn vị hành chính cấp xã, trong bản danh sách các tổng, xã, thôn dưới triều Nguyễn (1802-1945). Vì thế, Câu Tử ngoại ngoài tên chữ là Bảo Phúc còn được gọi tắt là chùa Câu Tử, xã Câu Tử, tổng Thái Lai, huyện Thuỷ Đường (dưới triều Nguyễn). Kiến trúc tổng quan: Chùa Câu Tử Ngoại được dựng trên một khu đất cao phía nam của thôn Câu Tử. Chùa quay hướng nam, đối mặt với dòng sông Kinh Thầy Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 50
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên quanh năm nước chảy. Sông Kinh Thầy đã góp phần bồi đắp, tạo lập mảnh đất Câu Tử, Hợp Thành ngày nay. Chùa là một tổng thể kiến trúc nhiều toà ngang dẫy dọc, nhưng được bố cục gọn gàng. Kiến trúc chính hình chữ 'công' (I) đơn giản gồm 5 gian tiền đường và 4 gian hậu cung. Bên hồi trái dọc theo kiến trúc là một sân rộng vuông vức. Sau sân là toà thờ Tổ 3 gian; trước sân là điện thờ thánh mẫu Quận Đa phu nhân. Bên kia sân là nhà khách 3 gian. Kiến trúc chính của chùa vẫn giữ được phong cách của nghệ thuật kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Phía trước toà tiền đường có vườn chùa, với 5 ngôi tháp mộ, trông như bút tháp Hồ Gươm thu nhỏ. Nổi bật hơn cả là cây tháp đá kề bên đường thần đạo. Tháp này hình vuông, ba tầng nhỏ dần từ dưới lên, được ghép bằng những phiến đá vôi xám, lớn, mài nhẵn. Đỉnh tháp là bầu đá hình nụ sen cách điệu trên một đài sen cong vút, đắp đầu rồng cách điệu hoa lá. Ngăn cách các tầng tháp là những phiến đá phẳng, vuông, nhô ra khỏi thân tháp. Những phiến đá giới hạn chia tầng có tác dụng làm tăng qui mô, dáng bề thế cho ngôi tháp. Mặt ngoài tường tháp điểm xuyết một vài chữ Hán lớn và các gờ chỉ trang trí. Mái chùa lợp ngói rồng cổ kính, rêu phong. Bờ nóc đắp trang trí; hồi tiền đường xây cuốn hình quai chảo, trông uyển chuyển, tạo nên nét sống động trong không gian cổ tích. Hồi hậu cung xây kiểu bố trụ, giật hai cấp chắc khoẻ. Nhìn chung, kiến trúc chùa Câu Tử Ngoại ít dùng hình thức chạm khắc trang trí. Trang trí nội thất dường như chỉ tập trung ở một vài câu đối hình chữ nhật phẳng, hình lòng máng sơn son thiếp vàng treo trên cột và hai lớp y môn trong toà hậu cung: y môn thứ nhất chạm nổi đôi phượng chầu hổ phù, ngậm chữ 'thọ'; y môn thứ hai chạm lưỡng long chầu nguyệt và dải mây. Phật điện của chùa được bày trong toà hậu cung theo kiểu thấp dần từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Hàng trên cùng là bộ tam thế, tiếp theo là bộ A di đà tam tôn. Hàng thứ ba là Di đà tiếp dẫn, tiếp theo là hàng cửu long ở giữa, hai bên là quan âm tống tử và bồ tát hiện thân. Hàng cuối cùng của toà tam bảo là Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu. Hai bên gian tả, hữu, gian hoà tiền đường đặt tượng Hộ Pháp. Gian hồi phải đặt bàn thờ Đức Ông ngồi trong khám gỗ. Chính giữa toà nhà tổ đặt hương án thờ 6 pho tượng tổ và những người tu từ, hành pháp ở chùa. Ngoài việc thờ Phật, chùa Câu Tử Ngoại còn phối thờ Quận Đa phu nhân - vị thành hoàng có công đánh giặc ngoại xâm dưới triều Trần. Chuyện kể rằng xưa kia trên mảnh đất này có tên là Trang Hùng Khê do dòng họ Hoàng, họ Đoàn khai sáng, các dòng họ Bùi, Mạc xây dựng tiếp theo sau. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 51
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Dưới vương triều Trần, làng Câu tử có người họ Hoàng đỗ Thái học sinh đến nay nhân dân vẫn gọi là Hoàng tướng công vì có làm quan trong triều. Gia đình Hoàng Công sinh hạ được một người con gái đặt tên là Hoàng Thị Bính, xinh đẹp nết na, được cha mẹ dạy dỗ cho theo học nghiên bút, văn chương. Đến 19 tuổi, Hoàng thị Bính đi ngắm cảnh hái hoa rồi tắm mát bên dòng Hùng Khê. Bên suối gò Rùa có xuất hiện vết chân lạ, nàng liền ướm thử chân mình. Từ đó mang thai, qua 10 tháng sinh được 2 người con trai, diện mạo khác thường. Người anh đặt tên Hoàng Minh Hộ, người em tên Hoàng Minh Thống. Người mẹ nuôi day 2 con ngày một lớn khôn, theo học cung kiếm, bút nghiên. Năm 1287, khi quân Nguyên xâm lược nước Đại Việt lần thứ 3, từ trang Hùng Khê người mẹ đã tiến đưa 2 người con trai yêu quý của mình lên đường giết giặc, báo đền nợ trước. Trận Bạch Đằng lịch sử 8/3 năm Mậu Tý đại thắng, hai người con của bà đã anh dũng hy sinh nơi chiến trận. Bà buồn phiền qua đời ngày 18/8 năm Mậu Tý. Bà Hoàng thị Bính được truy phong là Quận Đa phu nhân làm thành hoàng của Câu Tử Nội và Câu Tử Ngoại ngày nay, được tạc tượng lập đền thờ. Cả 2 con là Hoàng Hộ và Hoàng Thống được tạc tượng tôn thờ ở đình Câu Tử Nội và Câu Tử Ngoại. Đền thờ 3 mẹ con bà Hoàng thị Bính ngày nay không còn nữa, dân làng thờ 3 mẹ con bà ở chùa Câu Tử Nội và Câu Tử Ngoại [10]. 2.2.1.5- Đền thờ trạng nguyên Lê Ích Mộc Lê Ích Mộc (1462 - 1552) ngụ cư ở làng Ráng xã Thanh Lãng, huyện Thuỷ Đường xưa, nay là xã Quảng Thanh, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng. Ông đỗ trạng nguyên khoa Nhâm Tuất (1502) niên hiệu Cảnh Thống đời vua Lê Hiến Tông (thế kỷ XVI). Đền thờ chính trạng nguyên Lê Ích Mộc hiện nay ở thôn Quảng Cư, ngoài ra ở thôn Thanh Lãng (cùng xã Quảng Thanh) còn lưu lại nhiều dấu tích như lăng mộ, từ đường Đây là cụm di tích tưởng niệm về vị trạng nguyên đầu tiên của thành phố Hải Phòng. Theo gia phả Lê tộc để lại thì Lê Ích Mộc sinh ngày mồng 2 tháng 2 năm 1458 tại làng Ráng , huyện Thuỷ Đường , bậc khởi tổ là cụ Lê Văn Hộ từ đất Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 52
- Xây dựng tuyến du lịch văn hoá dọc các sông quanh huyện Thuỷ Nguyên Tây Kinh Thành Hoá đến đây sinh cơ lập nghiệp . Đến đời thứ 3 kết quả mối tình giữa cụ Lê Văn Quang và bà Nguyễn Thị Lệ sinh thành ra Lê ÍCh Mộc .Theo sinh đồ Lê Tuấn Mậu trong : “Tiểu sử thiền sư chùa Thành Lãng “soạn năm 1597 cho biết : Dưới triều Lê Thánh Tông, ở làng Ráng, huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, có một người nối nghiệp nho, tư gia hiếu thảo, họ Lê tên Quang, vợ là Nguyễn Thị Lê, cửa nhà thanh bần, kính sư sùng Phật, hay giúp đỡ người nghèo khó. Một đêm kia vợ chồng năm chiêm bao thấy quan thế âm bồ tát cho một đoá hoa Sen và một bài thơ: Phật cho Lê Thị một bông sen Hiển hách nghìn thu dậy tiếng khen Đích xác sang năm sinh quý tử Danh lừng tam giáo gội ơn trên. Hôm sau vợ chồng nói chuyện lấy làm vui mừng. Từ ngày ấy bà Lệ có mang và sinh hạ được một người con trai mặt vuông, tai lớn đặt tên là Lê Ích Mộc. Tục truyền rằng, thủa nhỏ Lê Ích Mộc là một cậu bé thông minh, ham học và ngoan ngoãn được bà con làng xóm yêu quý. Hàng ngày sau những buổi phụ giúp cha mẹ, cậu bé Mộc thường hay tới chùa Ráng giúp đỡ các vị tăng ni quét dọn nhà của, xới đất trông cây và trông cây và chăm chỉ học hành, nghe nhờ văn sách. Cảm động trước tấm lòng say mê hiếu học, nhà chùa đã nhận Lê Ích Mộc vào làm đệ tử, kèm cặp kinh sử. Ngày ngày ăn chay niệm phật Lê Ích Mộc vẫn dành thơi gian cho đèn sách. Đêm đêm, dưới ánh sáng mờ nhạt của ánh trăng khuya, ông lấy mâm cát làm sách học, Lê Ích Mộc chăm chỉ dùi mài kinh sử. Ông lấy cát đổ lên mâm xoa phẳng, dùng ngón tay viết lên chữ để đọc, ghi nhớ rồi xoá đi.đó là cách học “nhập tâm” giúp người tanhớ lâu hiểu kỹ. Ích Mộc cho rằng : Việc học là việc khó nhưng không vì thế mà không học. Bởi thế mà ông nổi tiếng trong vùng là ngươi nhớ lâu hiểu kỹ. Tài học của ông, sách Đại Việt có ghi: “Tam công túc ngọc đáo Kim cang”. Tức là sau 3 năm ông đã thông hiểu đủ giáo lý, giáo pháp của bộ kinh Kim cương. Một hôm, Ích Mộc đang đi ở ngoai đường, gặp một vị sư già, nhà sư thấy Lê Ích Mộc có tướng và cơ duyên, là một cao tăng nên Ông theo Lê Ích Mộc về nhà. Cha Lê Ích Mộc thấy khách quý đến chơi xiết đỗi vui mừng, ân cần mời làm thượng khách. Nhà sư chỉ Lê Ích Mộc và nói rằng: Ông là người từ thiện nên cậu bé này có tướng làm nên sự nghiệp lớn, rạng danh gia phong. Nếu cho cậu ấy xuất gia đầu phật tương lai phong đỗ cao làm vinh hiển gia đình. Tiền đề không thể hạn định được. Ông Lê Quang bèn hỏi: Ý kiến con thế nào? Ích Mộc nhận lời. Từ đó Lê Ích Mộc xuất gia học đạo, gánh sách theo thầy đến ở chốn xa. Nhà sư là một vị cao tăng trụ trì tại chùa Yên Lãng (tức chùa Láng, Hà Nội ). Khoảng 5 năm Ích Mộc đủ thông hiểu các pho kinh phật, tiêng tăm của ông lừng lẫy khắp làng. Sv: Đinh Thị Kim Thuỳ _ VH 1004_ Khoá luận tốt nghiệp 53