Luận văn Giáo dục Nho giáo dưới triều Nguyễn (Giai đoạn 1802 đến 1919) - Phạm Phương Anh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giáo dục Nho giáo dưới triều Nguyễn (Giai đoạn 1802 đến 1919) - Phạm Phương Anh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_van_giao_duc_nho_giao_duoi_trieu_nguyen_giai_doan_1802.pdf
Nội dung text: Luận văn Giáo dục Nho giáo dưới triều Nguyễn (Giai đoạn 1802 đến 1919) - Phạm Phương Anh
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN o0o PHẠM PHƯƠNG ANH GIÁO DỤC NHO GIÁO DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN 1802 ĐẾN 1919) LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH – 2011
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN o0o PHẠM PHƯƠNG ANH GIÁO DỤC NHO GIÁO DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (GIAI ĐOẠN 1802 ĐẾN 1919) Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60.22.80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trương Văn Chung TP. HỒ CHÍ MINH – 2011
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình khoa học của riêng tôi. Nội dung nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khác, nếu sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Tác giả Phạm Phương Anh
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 01 Chương 1 BỐI CẢNH XÃ HỘI, VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA NHO GIÁO DƯỚI TRIỀU NGUYỄN 09 1.1. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - VĂN HÓA XÃ HỘI TRIỀU NGUYỄN 9 1.1.1.Điều kiện kinh tế triều Nguyễn 9 1.1.2. Điều kiện chính trị - văn hóa xã hội 20 1.2. NHO GIÁO VÀ GIÁO DỤC NHO GIÁO TRƯỚC TRIỀU NGUYỄN 28 1.2.1. Khái quát tiến trình Nho giáo và giáo dục Nho giáo trung đại 28 1.2.2 Vị trí độc tôn về tư tưởng, văn hóa, đạo đức Nho giáo nhà Lê 32 1.2.3. Đặc điểm, vai trò của giáo dục Nho giáo nhà Lê 34 Chương 2 MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA GIÁO DỤC NHO GIÁO TRIỀU NGUYỄN 46 2.1. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG CỦA GIÁO DỤC NHO GIÁO TRIỀU NGUYỄN 46 2.1.1. Mục đích giáo dục Nho giáo triều Nguyễn 46 2.1.2. Đối tượng giáo dục 50 2.2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA GIÁO DỤC NHO GIÁO TRIỀU NGUYỄN 54 2.2.1. Nội dung của giáo dục Nho giáo triều Nguyễn 54 2.2.2. Phương pháp dạy và học trong nền giáo dục Nho giáo triều Nguyễn 76 2.1.3. Một số nhà giáo dục tiêu biểu thời Nguyễn 78 2.3. BÀI HỌC LỊCH SỬ TỪ NỀN GIÁO DỤC NHO GIÁO TRIỀU NGUYỄN 86 2.3.1. Đặc điểm cơ bản của giáo dục Nho giáo triều Nguyễn 86 2.3.2. Giá trị của giáo dục Nho giáo triều Nguyễn 93 2.3.3. Hạn chế chủ yếu của giáo dục Nho giáo triều Nguyễn 99 KẾT LUẬN 107 PHỤ LỤC HÌNH ẢNH 114 TÀI LIỆU THAM KHẢO 119
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức bắt nguồn từ Trung Quốc cổ đại và du nhập Việt Nam ngay từ những năm đầu Công nguyên. Nho giáo đã đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng ở mức độ đậm nhạt khác nhau trong suốt quá trình tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam. Nó được các triều đại phong kiến sử dụng như hệ tư tưởng, công cụ trị nước, tổ chức quản lý xã hội và đào tạo ra những con người phục vụ cho xã hội phong kiến. Tinh thần cơ bản của Nho học là đạo học, tâm học, tức là học để trau dồi nhân cách con người theo những chuẩn mực của bậc thánh hiền, là học để biết đạo xử thế, đạo làm người, đạo làm quan, làm vua. Quá trình du nhập Việt Nam, Nho giáo đã được Việt hóa, mang bản sắc, tâm hồn Việt và từng là hệ tư tưởng thống trị trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Nền Nho học cũng được hình thành từ đó và được nhà nước phong kiến quan tâm, phát triển tinh thần “sùng Nho học”, “chấn hưng văn giáo”, còn đối với nhà nước thì “giáo dục và khoa cử Nho học là biện pháp quan trọng để tái sinh liên tục Nho sỹ và Nho giáo Việt Nam”[21, 116]. Nho học Việt Nam với tư cách là một lĩnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc có tác dụng tích cực thúc đẩy hoặc kìm hãm nhất định đối với xã hội nói chung và đối với nền giáo dục phong kiến Việt Nam nói riêng, nó là động lực để xã hội phong kiến ổn định, phát triển, đóng vai trò quan trọng trong hệ tư tưởng thống trị xã hội. Giáo dục Nho giáo Việt Nam đã có một truyền thống lâu đời dựa trên phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Mỗi thời đại giải thích triết lý này theo cách của mình, nhưng cái chung nhất vẫn là đề cao những giá trị đạo đức, đề cao đạo làm người. Bởi lẽ, “Mỗi một dân tộc có một cái tinh thần riêng, cũng như mỗi cây có cỗi ra ăn sâu xa xuống dưới đất.
- 2 Hễ cây nào cỗi rễ tốt, hút được nhiều khí chất thì cành lá rườm rà, cây nào cỗi rễ xấu, hút không đủ khí chất để nuôi các phần thân thể thì tất là cành lá còi cọc đi. Tinh thần của mỗi dân tộc cũng vậy Dân tộc nào cường thịnh là vì đã biết giũa cái tinh thần của mình được tươi tốt luôn” [49, 13]. Hiện nay, trên con đường đổi mới với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dân tộc Việt Nam đang thực hiện mục tiêu “ .dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội” [26,19]. Cùng với việc xây dựng “ cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc ”[26,18]. Một trong những phương thức để thực hiện được những mục tiêu đó là đổi mới, phát triển nển giáo dục đào tạo, nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây chính là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài, mang tính thời sự và tính chiến lược, nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của đất nước, trong văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: “tiếp tục, bổ sung quan điểm đổi mới giáo dục từ nghị quyết trung ương II, khóa VIII là: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục ”[27,130-131], “phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để
- 3 phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trên cơ sở kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người” [27,208]. Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn đổi mới những năm qua chỉ ra rằng nền giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và yếu kém cần được giải quyết: chất lượng giáo dục thấp; phương pháp giáo dục còn lạc hậu và chậm đổi mới, cách học trong các nhà trường chủ yếu vẫn là truyền thụ một chiều, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa phát huy tinh thần tự học và tư duy sáng tạo của người học “Giáo dục - đào tạo nước ta còn yếu kém bất cập về quy mô, cơ cấu và nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [28,12]. Vì vậy, nghiên cứu những vấn đề liên quan đến giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục Nho giáo triều Nguyễn nói riêng là hết sức cần thiết, nhằm làm rõ hạn chế của nó cùng những giá trị đã trở thành truyền thống văn hóa Việt Nam, góp phần vào công cuộc đổi mới nền giáo dục Việt Nam hiện nay, bởi lẽ: “chúng ta không nghiên cứu lịch sử vì lịch sử. Mọi hứng thú tìm tòi về quá khứ chỉ có ý nghĩa khi nó nhằm cải tạo hiện tại và xây dựng tương lai”[49, 147]. Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu ảnh hưởng của Nho giáo đến tất cả lĩnh vực văn hóa tinh thần xã hội mà chỉ tập trung phân tích, làm rõ lĩnh vực chịu ảnh hưởng đậm nét và sâu sắc nhất của Nho giáo: lĩnh vực Giáo dục.
- 4 Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Giáo dục Nho giáo dưới triều Nguyễn (giai đoạn 1802 đến 1919)” làm luận văn thạc sỹ triết học của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước đến nay, ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo, Nho giáo ở Việt Nam cùng nền giáo dục Nho học trong các xã hội phong kiến Việt Nam. Trong đó, tôi quan tâm đặc biệt đến các tác phẩm, công trình nghiên cứu khoa học, tư liệu lịch sử, thống kê tổng hợp, báo cáo khoa học theo hai lĩnh vực, một là nghiên cứu về Nho giáo và Nho giáo ở Việt Nam – lịch sử, sự kiện, tư tưởng, triết lý giáo dục. Hai là nền Nho học Việt Nam, những vấn đề giáo dục, đào tạo và khoa cử. Luận văn kế thừa, tiếp thu thành tựu nghiên cứu của tất cả những công trình khoa học trên, nhưng chủ yếu, là những công trình sau: Trước hết là tác phẩm: “Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước 1858, sơ khảo” của Trần Văn Giàu (Nxb. Văn hóa, Hà nội, 1958) trình bày nhãn quan lịch sử về những nguyên nhân sâu xa sự bất lực nhiều mặt của triều Nguyễn, trong đó giáo dục Nho học là một trong những nguyên nhân đó. Cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, tác giả Lê Sỹ Thắng đã chỉ ra những ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng, văn hoá, xã hội nước ta trong thế kỷ XIX, tác giả đã có những đóng góp hết sức to lớn trong việc cung cấp tư liệu để nghiên cứu lịch sử tưởng Việt Nam nói chung và lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX nói riêng. Tuy nhiên đây chưa phải là công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu về những ảnh hưởng của Nho giáo đến các lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam nói chung và dưới triều Nguyễn nói riêng. Tác phẩm “Việt Nam văn hóa và giáo dục” của Trần Mạnh Thường (Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2010), tác giả đã khái quát về văn hóa của các dân tộc Việt Nam và nền giáo dục Việt Nam qua các triều đại Ngô – Đinh – Lê đến triều Nguyễn thời Pháp thuộc;
- 5 Bên cạnh đó, liên quan đến đề tài này còn có rất nhiều học giả lớn như: Cao Xuân Huy, Vũ Khiêu, Nguyễn Tài Thư, Quang Đạm, Trần Trọng Kim, Trịnh Doãn Chính với rất nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo nói chung và Nho giáo Việt Nam nói riêng và những ảnh hưởng của Nho giáo đến từng thời kỳ trong xã hội Việt Nam. Các tác phẩm, các công trình nghiên cứu của các học giả về Nho giáo Việt Nam đã làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề về Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam và đưa ra nhiều ý tưởng gợi mở để thế hệ nghiên cứu sau kế thừa và phát triển. Các tác phẩm, công trình khoa học theo lĩnh vực nền Nho học Việt Nam, những vấn đề giáo dục, đào tạo và khoa cử, chúng tôi kế thừa và tiếp thu cuốn “Nho học ở Việt Nam – Giáo dục và thi cử”, tác giả Nguyễn Thế Long đã trình bày một cách có hệ thống những giai đoạn phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, nội dung giáo dục Nho học ở Việt Nam. Trong đó, cuốn sách đã dành một phần nghiên cứu về giáo dục – khoa cử thời Nguyễn, và một số nhận định quan trọng về nền giáo dục khoa cử Nho học ở triều đại này như những vấn đề: nội dung học, quan điểm học, các lối văn cử nghiệp, và vấn đề thi cử của Nho học. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu và làm sáng tỏ về giáo dục khoa cử Nho học ở Việt Nam nói chung và dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX nói riêng. Cuốn “Nho học và Nho học ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tài Thư, đã vạch ra và phân tích những nội dung chủ yếu của nho học, vai trò của Nho học trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Cuốn sách của tác giả đề cập đến là “Nho học triều Nguyễn - Nội dung, tính chất, vai trò lịch sử” cơ bản là nói đến vai trò của Nho học đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam thế kỷ XIX. Tác giả đã khái quát và đưa ra một số nhận định về Nho học và vai trò của Nho học dưới triều Nguyễn làm rõ những ảnh hưởng của Nho giáo đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội cụ thể là lĩnh vực giáo dục triều Nguyễn.
- 6 Cuốn “Nho giáo tại Việt Nam”, tác giả Lê Sỹ Thắng chủ biên, đã giới thiệu các nội dung nghiên cứu của nhiều tác giả trong cuộc hội thảo: “Nho giáo trong lịch sử và tàn dư của nó trong xã hội Việt Nam”. Đây là bản tổng hợp những tham luận nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và Nho giáo Việt Nam nói riêng, trong đó có những bài viết đề cập đến ảnh hưởng của Nho giáo đến từng lĩnh vực: văn hoá, tư tưởng ở Việt Nam. Có thể nói đây là một công trình lớn đã nghiên cứu một cách có hệ thống về một giai đoạn phát triển của Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội phong kiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Cuốn “Sơ lược lịch sử giáo dục” của Đoàn Huy Oánh ( Nxb.Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2004) tác giả đã trình bài tóm tắt lịch sử giáo dục từ thời sơ khai đến hiện tại, trong đó có nhiều nền giáo dục nổi tiểng trên thế giới từ cổ đến kim, từ châu Âu đến châu Á, nền giáo dục của nhiều quốc gia thuộc nhiều khu vực. Tác giả dành một chương dài nhất của cuốn sách để trình bày nền giáo dục Việt Nam từ khởi sự đến hiện tại. Trong đó tác giả trình bày một cách sơ lược về giáo dục triều Nguyễn: về tổ chức giáo dục nhà Nguyễn, tổ chức khoa cử nhà Nguyễn và nêu số nhà giáo dục tiêu biểu dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu vào nghiên cứu nền giáo dục Nho giáo triều Nguyễn cũng như chỉ ra những hạn chế và giá trị của nền giáo dục ấy. Tác phẩm “Việc đào tạo và sử dụng quan lại của triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1884” của Lê Thị Thanh Hòa (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998), tác giả đã khái quá về việc đào tạo và sử dụng quan lại của nước ta trước thời Nguyễn và nền giáo dục thời Nguyễn qua đó tác giả rút ra những bài học lịch sử nhằm phục vụ cho vấn đề đào tạo và sử dụng cán bộ trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đại hóa nước ta hiện nay. Ngoài ra còn có các bài viết và các công trình khác có đề cập đến các
- 7 vấn đề như “Từ điển văn hóa giáo dục Việt Nam” của GS. Vũ Ngọc Khánh (Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà nội, 2003). “Lược sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam” của Lê Văn Giạng (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003), tác giả đã trình bày một cách khái quát về nền giáo dục Việt Nam qua các giai đoạn phát triển của lịch sử, đặc biệt là nền giáo dục phong kiến với những điểm mạnh và hạn chế của nó; hay tác phẩm “Đại nam thực lục tiền biên” (bản dịch của Viện sử học), tập I (Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962); tác phẩm “Khoa cử và giáo dục Việt Nam” của Nguyễn Quang Thắng (Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2005). “Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam thời phong kiến” của Nguyễn Tiến Cường (Nxb. Giáo dục, 1998); “Tiến sĩ Nho học Thăng Long – Hà nội (1075-1919)” của Bùi Xuân Đính (Nxb. Hà Nội, 2003). Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu trên, luận văn cố gắng tổng hợp, khái quát và làm rõ hơn một số vấn đề nhỏ trong lĩnh vực giáo dục Nho học dưới triều Nguyễn góp phần nhỏ vào bức tranh vốn đã đầy đủ, hoàn chỉnh về Nho giáo ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Luận văn có hai mục đích sau: Một là: làm rõ mục đích, đối tượng, nội dung và phương pháp giáo dục Nho giáo dưới triều Nguyễn (giai đoạn năm 1802 đến năm 1919), Hai là: Vạch ra những đóng góp và hạn chế chủ yếu của nền giáo dục Nho giáo triều Nguyễn. Để đạt được nhiệm vụ đó, luận văn có 3 nhiệm vụ sau: - Khái quát bối cảnh xã hội, vị trí và vai trò của Nho giáo dưới triều Nguyễn. - Phân tích mục đích, đối tượng, nội dung và phương pháp của giáo dục Nho giáo triều Nguyễn. - Đánh giá và rút ra bài học lịch sử từ nền giáo dục Nho giáo triều Nguyễn
- 8 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Để đạt được mục đích và nhiệm vụ đã đề ra, luận văn dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp: Logíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, đối chiếu - so sánh, hệ thống hoá, diễn dịch, quy nạp để nghiên cứu, phân tích và trình bày luận văn. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Từ sự tham khảo các tài liệu của các nhà nghiên cứu về đề tài Nho giáo, luận văn góp phần tìm hiểu, hệ thống hoá và chi tiết cụ thể hơn nền giáo dục Nho giáo dưới triều Nguyễn. Bước đầu đánh giá cụ thể hơn về vị trí, vai trò và ảnh hưởng của giáo dục Nho giáo dưới triều Nguyễn. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những sinh viên không chuyên ngành và chuyên ngành Triết học, làm tư liệu cho việc nghiên cứu nền giáo dục Nho học Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh lục tài liệu tham khảo, phụ lục hình ảnh, luận văn được kết cấu gồm hai chương và năm tiết.
- 9 Chương 1 BỐI CẢNH XÃ HỘI, VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA NHO GIÁO DƯỚI TRIỀU NGUYỄN 1.1. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - VĂN HÓA XÃ HỘI TRIỀU NGUYỄN 1.1.1. Điều kiện kinh tế triều Nguyễn Bắt đầu bằng việc đánh bại vương triều Tây Sơn năm 1802, sau ba trăm năm phân tranh và nội chiến, Việt Nam đứng trước vận hội phát triển mới nếu có đường lối cải cách và phát triển đúng đắn về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Đây cũng là thời điểm bản lề của lịch sử đổi mới, phát triển các dân tộc ở Châu Á. So sánh với các vương triều phong kiến đương thời ở Nhật Bản chúng ta thấy rõ điều đó. Năm 1600, tương tự nhà Nguyễn, Tokugawa Ieýasu đánh tan quân liên minh Daimyo trong trận đại chiến Sekigahara, chấm dứt nội chiến, thống nhất Nhật Bản và đưa đất nước bước vào thời kỳ Edo - giai đọan hòa bình suốt hơn 250 năm (1603 – 1867). Dưới thời Edo, chính quyền nhà nước Nhật Bản đã phục hồi, chấn hưng và xác định Nho giáo là cơ sở triết lý chính thống và là khung tư tưởng cho hệ thống xã hội trật tự, ổn định. Khổng giáo còn được coi là nền học vấn chính trong sách lược trị nước của chính quyền Edo. Trong chính sách văn trị để thuần hóa nhân tâm của Tokugawa, Nho học được xem là nền tảng và được chọn là Quan học – môn giáo dục chính yếu của nhà nước. Tuy nhiên đến thời kỳ Meiji (Minh Trị (1868 – 1912) chế độ phong kiến Nhật Bản đã thực hiện một cuộc duy tân mạnh mẽ với hàng lọat các cuộc cải cách quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội song vẫn theo truyền thống cũ bằng khẩu hiệu “Vương chính phục cổ”. Nghĩa là không phế bỏ địa vị của Thiên Hoàng mà còn khôi phục địa vị, quyền uy tối cao của Thiên Hoàng. Các cải cách kinh tế, giáo dục của Nhật Bản đã giúp họ tránh được làn sóng xâm lăng chủ nghĩa thực dân
- 10 phương Tây. Ở Việt Nam cùng thời, các ông vua triều Nguyễn ngược lại, đã không có cải cách, thay đổi gì, mà còn càng ngày càng bảo thủ, cực đoan hơn theo các chính sách truyền thống: “Thiên địa bất biến, đạo diệc bất biến” để rồi “bế quan tỏa cảng”, “trọng nông, ức thương”. Phân tích bối cảnh lịch sử các triều vua Nguyễn sẽ cho thấy các chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thời này có đặc điểm chung là bảo thủ, khép kín, chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt mà không có tầm nhìn lâu dài. Những vấn đề kinh tế với tư cách là cơ sở xã hội của nển giáo dục Nho học triều Nguyễn thể hiện tập trung ở chế độ sở hữu ruộng đất, các chính sách kinh tế như khuyến khích khẩn hoang, phát triển nông nghiệp, chính sách trọng nông, ức thương Nửa đầu thế kỷ XIX, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và là nền tảng kinh tế chủ yếu của xã hội phong kiến Việt Nam. Song tình hình ruộng đất thời kỳ này phải đối mặt với rất nhiều khó khăn: ruộng đất bỏ hoang, nông dân phiêu tán, nội chiến làm cho nền nông nghiệp càng trở nên lạc hậu. Vấn đề đặt ra cho triều Nguyễn lúc này là xác định lại chế độ sở hữu ruộng đất, khôi phục lại sản xuất, đưa nông dân về với ruộng đồng, ổn định làng xã, ổn định an ninh lương thực. Dưới triều Nguyễn, chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất đã phát triển hơn các triều đại trước rất nhiều nhưng vẫn chưa chiếm ưu thế so với sở hữu Nhà nước và trên danh nghĩa, nhà vua là chủ sở hữu toàn bộ đất đai trong cả nước. Nhà nước phong kiến triều Nguyễn cho phép ruộng tư phát triển nhưng vẫn duy trì chế độ ruộng công nên quá trình tư hữu hoá ruộng đất bị kìm hãm. Trong các vương triều Nguyễn, sở hữu tư nhân tiếp tục được duy trì trong sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Đây là mâu thuẫn rất căn bản trong chế độ sở hữu ruộng đất. Ruộng đất công thuộc sở hữu nhà nước luôn là nền tảng kinh tế, là sức mạnh của triều Nguyễn, nhưng nếu ruộng tư không được khuyến khích phát triển thì sẽ
- 11 không có sự cạnh tranh, nền sản xuất hàng hóa không có cơ sở để phát triển và vì vậy, ở thời kỳ này, các nhân tố tư bản chủ nghĩa chưa nảy sinh, kinh tế hàng hoá chưa có điều kiện phát triển. Một xã hội với nền kinh tế thuần nông, tự cấp tự túc, khép kín như thế cộng với chế độ chính trị phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế thì tự nó không thể nảy sinh nhu cầu cải cách. Sự ra đời, tồn tại và phát triển sở hữu tư nhân về ruộng đất là mặt năng động, phát triển của chế độ phong kiến, là xu hướng phát triển xã hội, nhưng triều Nguyễn lại chủ trương, duy trì, mở rộng ruộng đất công phát triển các khu vực quản lý trực tiếp của nhà nước, làng xã, khẳng định đó là bản chất của chế độ phong kiến và sở hữu nhà nước là cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc bảo đảm cho ổn định và tồn tại của chế độ phong kiến đó. Như vậy, xét các nhân tố kinh tế khách quan nội tại của xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, chúng ta thấy nhu cầu cải cách chưa xuất hiện. Do đó các tư tưởng cải cách về văn hóa, giáo dục chưa có cơ sở để xuất hiện. Ngay cả Minh Mệnh - một vị vua được coi là sáng suốt và cứng rắn nhất triều Nguyễn đã nhận thức được tính bất cập của nền giáo dục và đào tạo nhân sự đối với quản lý, điều hành đất nước nhưng ông cũng chưa đưa được ra được một ý tưởng, biện pháp nào nhằm khắc phục mặt yếu kém đó của nền học thuật nước nhà. Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng chỉ khi Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam, khi nguy cơ mất nước đã cận kề thì nhu cầu đổi mới, nhu cầu tự cường dân tộc mới trở nên cấp bách. Sau 1802, Nhà Nguyễn vẫn tiếp tục một số công việc từ thời các chúa Nguyễn trước để lại như việc khẩn hoang, mở rộng đất đai canh tác, phát triển nông nghiệp. Chính sách khai hoang trong giai đoạn sau này là nhằm làm giàu cho giai cấp địa chủ và củng cố cơ sở xã hội của chính quyền. Do việc khẩn hoang và cướp đoạt ruộng đất của người nông dân, tại vùng đất phía Nam đã hình thành một tầng lớp đại địa chủ giàu có, tập trung trong tay rất nhiều
- 12 ruộng đất. Tầng lớp đại địa chủ đó trở thành hiểm họa của chế độ phong kiến. Vua Minh Mạng nối ngôi, tiếp tục công việc của Gia Long nhưng mạnh tay hơn nữa, biến toàn bộ các đồn điền loại 2 thành đồn điền loại 1, cho phép hương hào hoặc sai quan lại mộ dân lưu vong đi khai hoang, lập làng và đồn điền nhà nước. Trên thực tế, khoảng 7, 8 năm đầu triều Minh Mạng, tình hình ruộng đất bỏ hoang vẫn còn nghiêm trọng. Chính vì vậy, các vua nhà Nguyễn đã thực hiện một số biện pháp khuyến khích phát triển nông nghiệp, đưa nông dân về với ruộng đất, ngăn chặn nạn cướp đoạt ruộng đất của địa chủ, cường hào. Việc khai hoang vẫn được tiếp tục qua các đời vua Thiệu Trị, Tự Đức. Có nhiều hình thức khai hoang nhưng quan trọng nhất là hai hình thức doanh điền và đồn điền. Doanh điền: được thực hiện bằng cách di dân lập ấp. Các loại ruộng khai khẩn theo hình thức “doanh điền” được xếp vào hạng “tư điền quân cấp”, nghĩa là người khai khẩn được quyền sử dụng nhưng không được chuyển nhượng và sau khi chết ruộng đó được cấp cho người khác. Năm 1864, vua Tự Đức quy định ruộng nào do nhà nước cấp vốn để khai khẩn thì được giữ lại một phần ba làm tư điền, còn hai phần ba thì làm công điền. Năm 1882, do tài chính thiếu hụt, nhà nước không còn điều kiện cấp vốn, nên lại quy định cho một nửa số ruộng được làm ruộng tư, một nửa còn lại làm công điền. Minh Mạng tiếp tục chính sách khai hoang của Gia Long, tiến hành hàng loạt các chính sách trọng nông, Nguyễn Công Trứ đã chiêu mộ dân phiêu tán đi khẩn hoang, lập làng mang lại kết quả ở Ninh Bình, Thái Bình. Các tổng huyện mới được thành lập, diện tích canh tác được mở rộng. Đồng thời với việc khai khẩn ruộng hoang nhằm mục đích kinh tế, chính sách khai hoang của triều Nguyễn còn có tác dụng trong việc giữ gìn biên cương. Như trong một lời dụ Minh Mạng đã viết: “Khai khẩn ruộng hoang càng là chính sách thiết yếu làm cho biên cương được đầy đủ, nên gia tâm chiêu dân nhận để
- 13 khai khẩn, hoặc sức cho điền đinh nắm giữ, lúc có việc thì nghiêm cẩn phòng bị hơn nữa, lúc không việc thì ra sức cày cấy, sao cho ruộng nương ngày một mở mang, thóc chứa năm một thêm lên, cũng là giúp cho địa phương biên cương được vững bền đó”[63,193]. Đồn điền: Trên thực tế, hình thức “đồn điền” đã được chúa Nguyễn Ánh vận dụng từ năm 1790. Năm 1802 vua Gia Long cho giải ngũ một số binh lính, cấp ruộng đất và lập đồn điền nhưng vẫn tăng tịch là lính. Sang thời Minh Mạng, việc sử dụng binh lính đi lập đồn điền càng được đẩy mạnh. Việc lập đồn điền vừa giải quyết được vấn đề kinh tế tài chính vừa đáp ứng được nhu cầu an ninh. Điều đáng chú ý là các đồn điền (nhất là ở Nam Kỳ) được hình thành trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về ruộng đất và nhanh chóng biến thành sở hữu lớn của những viên quản đồn điền. Với chủ trương “khuyến khích khai hoang” như trên, các quan lại địa phương được dịp chiếm đoạt làm tư hữu những diện tích ruộng đất rất lớn. Nguyên nhân chính của tình trạng này là chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của địa chủ diễn ra ngày một nghiêm trọng. Cho nên, ở nơi này ruộng đất có được khai khẩn thêm, thì ở nơi khác nông dân lại bị cướp mất ruộng, phải đi lưu vong. Ngay ở nơi mới khai khẩn, ruộng đất cũng lại mất dần lọt vào tay quan lại, cường hào, nhất là những địa chủ đứng ra chiêu mộ người đi khai hoang. Về sự biến đổi của diện tích ruộng đồn điền, có lẽ, dưới thời Minh Mệnh, diện tích khai hoang của lính đồn điền khá nhiều, nhưng không phải tất cả số ruộng đất đó đều có thể được trồng cây liên tục và lâu dài. Bởi vì thời kỳ này hầu như chỉ tồn tại loại đồn điền thứ nhất của binh lính. Binh lính thời kỳ này cũng không hoàn toàn được nhàn rỗi, không thể di chuyển trong khi đó ruộng đất phải được canh tác và chăm sóc liên tục. Do đó, đến cuối đời Minh Mệnh năm 1840 đã ban hành một quy định từ Khánh Hòa trở vào Nam những nơi có đồn điền đều lượng trích những ruộng đã thành điền, cho tù phạm quản nhận cày cấy. Đến khi thu
- 14 hoạch, một nửa nộp quan, một nửa cho ăn dùng. Còn khẩu lương thì thôi không cấp nữa. Những ruộng tù phạm làm không hết cho dân nào tiện gần đấy cày cấy nộp thuế, sung làm công điền. Với quyết định này một bộ phận ruộng đất đồn điền đã tách ra và mang hình thức khác nhưng vẫn là ruộng đất của nhà nước. Song quan hệ sản xuất và hình thức có thay đổi. Người trực tiếp sản xuất không còn là binh lính, mà là tù phạm có quyền tự do sản xuất, có quyền tự túc mà sống. Dưới thời Thiệu Trị, chế độ đồn điền không được chú ý, thậm chí có thể bị giải tán hầu hết. Mặt khác dưới thời Thiệu Trị là giai đoạn mờ nhạt, không có gì đặc biệt so với các vua Nguyễn khác. Năm 1848 trở đi, đối với nhà Nguyễn, vấn đề cơ bản đặt ra là củng cố và ổn định trật tự ở ngay đất Nam Kỳ. Vì vậy vấn đề đồn điền được đặt ra ngay từ khi Tự Đức cử Nguyễn Tri Phương vào làm kinh lược sứ vùng đất này. Chế độ đồn điền Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX đã góp phần củng cố nền thống trị của nhà nước phong kiến. Hình thức đồn điền bị bãi bỏ hoàn toàn và tức thời kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Sự kết thúc đó không có nghĩa là một dấu chấm hết tất yếu cho một cái gì đã mất vai trò của nó. Ngược lại, đồn điền từng đóng vai trò rất quan trọng của nó qua mấy thế kỷ, đặc biệt là thế kỷ XIX. Thực dân Pháp sợ chế độ đồn điền vì chính đồn điền đã sản sinh những chiến sĩ và cấp chỉ huy cho cuộc khởi nghĩa Trương Định lừng danh trong lịch sử chống Pháp. Chế độ đồn điền với hai hình thức nói trên quả là một thiết chế đã tác dụng về nhiều mặt kinh tế, xã hội, chính trị, quân sự. Hình thức sở hữu nhà nước về ruộng đất này đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ biên giới. Thực tiễn đó đã góp phần khẳng định sự tồn tại trong một chừng mực khá lớn của chế độ sở hữu ruộng đất. Có thể nói rằng, chính sách phát triển đồn điền hoàn toàn phù hợp với chế độ ruộng đất của triều Nguyễn, đường lối phát triển các loại hình thức sở
- 15 hữu về ruộng đất, làm cơ sở cho chế độ quân chủ quan liêu chuyên chế. Đồn điền còn được đem ban cấp cho công thần làm tự điền hay cho các làng xã làm công điền làng xã. Như vậy đồn điền đóng vai trò trọng yếu về nhiều lĩnh vực đời sống xã hội thời Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX nước ta. Cũng như các triều đại trước kia, ruộng đất trong cả nước thuộc quyền sở hữu của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, thần dân có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà vua. Nhưng trên thực tế, bên cạnh công điền của làng xã được cấp định kỳ cho các hạng dân, vẫn tồn tại và ngày càng phát triển tư điền các loại. Tư điền được mua bán, cầm cố và truyền cho con cháu; khi cần trưng dụng tư điền, nhà nước có bồi thường. Về nguyên tắc, tư điền bỏ hoang bị nhà nước sung công khó có thể phát triển, trái lại ngày càng lưu hẹp. Đó cũng chính là lý do khiến vua Minh Mạng phải đặt chế độ công điền ở Nam Kỳ năm 1837 nhằm duy trì số người nộp thuế và đi lính cho triều đình. Công điền được giao cho làng xã phân cấp, không được mua bán. Khi cần thiết, nhà nước có thể sử dụng ruộng đất công làng xã (có bồi thường hoặc miễn thuế). Ngoài ra, còn một số loại ruộng khác cũng thuộc diện công điền (trợ sưu điền, học điền, bổn thôn điền ) nhưng chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Năm 1804, Gia Long ban hành phép quân điền. “Cách quân điền là để bớt chỗ nhiều thêm cho chỗ ít, lợi công cộng cho nhân dân, là phép rất hay”[92, 836]. Ngay khi mới lên ngôi, vua Gia Long đã phải ra lệnh cấm bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ này để bảo đảm đất cày cho mọi người nông dân. Đạo dụ năm Gia Long thứ 2 (1803) có ghi rõ: “Theo lệ cũ thì công điền công thổ cho dân quân cấp, đem bán riêng là có tội, do đó nhân dân đều được lợi cả. Từ đời Tây Sơn bỏ hết luật cũ, dân gian nhiều người đổi ruộng công làm ruộng tư, cũng có kẻ tạ sự việc công mà cầm bán ruộng đất công phàm xã dân có công điền công thổ
- 16 đều không được mua bán riêng, làm trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền”. Song trên thực tế chính sách quân điền không có tác dụng đáng kể, dân nghèo vẫn không có ruộng đất. Tình trạng chiếm đoạt ruộng đất của địa chủ, cường hào cùng nạn ruộng đất bị bỏ hoang, nông dân lưu tán. Bên cạnh chính sách quân điền, vua Gia Long cho mở nhiều đồn điền khẩn hoang. Sau khẩn hoang, nông dân cày cấy vài năm rồi bỏ đi vì tô thuế quá nặng “Nay các hạt Bắc thành dần yên, nhân dân hơi biết hướng theo giáo hoá có thể nhân cơ hội này, đưa dân về ruộng đất, khiến yên nghiệp làm ăn, dân có của thì có lòng thường, bọn trộm cướp tất phải tan đi mà ngầm hoá. Vả lại triều đình khai hoá không cái gì trước việc dạy dân trăm nghề gốc. Nay việc dinh điền đã giao cho khanh phàm việc có thể làm lợi cho dân, cho tuỳ tiện mà làm, nên hết lòng xếp đặt sớm báo thành công, để yên ủi lòng trẫm mong đợi” [89,702-721]. Trong khi đó, việc các vua Nguyễn thi hành chính sách quân điền, về thực chất, là nhằm đảm bảo quyền lợi kinh tế của quan lại, binh lính. Trong khi phần lớn ruộng đất được cấp cho quan lại, binh lính, thì ruộng công làng xã bị thu hẹp, số ruộng còn lại cấp cho nông dân càng ít và chỉ là một trong những biện pháp để trói buộc người nông dân vào tổ chức làng xã và thực hiện nghĩa vụ tô thuế, lao dịch, binh lính đối với nhà nước phong kiến. Vua Tự Đức, trước tình hình đất nước “vào quãng đời giữa, lòng người dễ phần buông lỏng, chính trị và giáo dục không được sửa sang, diềng mối không chân hưng được” [67, 105] nên ra sức khuyến khích nhân dân khôi phục và phát triển nông nghiệp. Vua bảo các thần rằng: “thóc là của báu trong nước, nguồn sống của dân, vì thế cho nên đời xưa mới trọng việc làm ruộng. Nay nên dụ cho khắp các địa phương đều sức cho phủ, huyện, châu trong hạt hết lòng khuyến khích dạy về việc nông. Về xã thôn nào lưu tán, ruộng đất bỏ hoang, thì phải gọi dân về cày cấy. Riêng đất chỗ nào có thể cày cấy được mà
- 17 bỏ hoang, thì sức cho nhân dân đến khai khẩn, cứ đến cuối năm kê khai làm sổ tư đi, do bộ chia từng hạng làm bản tâu lên, đợi chỉ định thưởng phạt, để tỏ sự khuyên răn”[68, 129]. Triều Nguyễn triệt để thi hành chính sách “trọng nông ức thương” nên đã phục hồi được nền nông nghiệp vốn bị sa sút nghiêm trọng, triền miên do các cuộc nội chiến. Song chính sách này đã kìm hãm sự phát triển của các thành phần kinh tế khác như thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Cả nội thương và ngoại thương đều kém phát triển. Các ngành này chỉ được duy trì ở mức độ thấp, nhằm đáp ứng nhu cầu tối thiểu của nhân dân và phục vụ cho hoàng gia cũng như triều đình. Những quy định khắt khe mang tính đẳng cấp về tiêu dùng mà triều Nguyễn đặt ra càng làm hạn chế sức sản xuất trong nhân dân. Chế độ quản lý ruộng đất như đã nói cùng với chính sách trọng nông ức thương là hai yếu tố cơ bản khiến cho nền kinh tế dưới triều Nguyễn vẫn mang đặc trưng chủ yếu là nền “kinh tế tiểu nông lạc hậu”. Triều nguyễn và các nhà tư tưởng của triều đại này, chịu ảnh hưởng của Nho giáo luôn coi dân là gốc nước, quan tâm đến đến vấn đề giáo dân và dưỡng dân. Thông qua Thập huấn điều, Minh Mệnh chính yếu các chiếu dụ, các chính sách khai hoang, lập ấp, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nghề nông đã thể hiện được các chính sách nuôi dân và dạy dân của triều Nguyễn. Triều Nguyễn thi hành các chính sách trọng nông, khuyến khích nhân dân chăm cày cấy với mục đích làm cho dân được no đủ, giàu có, nước thịnh, dân quý bởi lẽ dân nghèo thì nước loạn. Vua Minh Mệnh dụ rằng: “Từ khi lên ngôi đến nay, chỉ nghĩ đến việc thương yêu nuôi dưỡng nhân dân” [91,731]. Vua từng dụ bộ Lễ: “Việc đầu tiên của chính sự vương giả, không gì lớn bằng việc làm cho dân được no đủ”[91,532]. Bởi vì, theo nhà vua “gốc của sinh dân ở việc làm ruộng. Chăm cày cấy, thì hưởng được mùa; không cày, không làm cỏ thì phải chịu túng đói. Đó là lẽ thường trong việc làm ăn của nhà dân” [91,382].
- 18 Như vậy, kinh tế nông nghiệp dưới triều Nguyễn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của quốc gia. Mặc dù thi hành chính sách “trọng nông”, nhưng do sự bất lực của nhà nước phong kiến, chính sách này không những không bảo vệ và phát triển nông nghiệp mà còn làm cho nông dân lâm vào cảnh ai oán, điêu tàn: “Chính sách nông nghiệp của nhà Nguyễn, rút cục chỉ nhằm mưu lợi cho giai cấp thống trị, đảm bảo cho dân đóng đủ sưu thuế tạp dịch mà thôi. Do các chính sách có mục đích phản động như thế, chính quyền nhà Nguyễn đã phá hoại kinh tế tiểu nông của nông dân, khuyến khích nạn chiếm hữu ruộng đất mà mọi tệ nạn tham nhũng, hà thu lạm bổ vẫn có cơ sở hoành hành nghiêm trọng, nông dân càng đói khổ cùng cực”, ngoài ra còn là “nguyên nhân chính của thảm trạng nhân dân lưu tán thường xuyên và phổ biến khắp ba kỳ làm nổ ra liên tiếp những cuộc khởi nghĩa lớn lao, làm lay động tận gốc rễ chế độ phong kiến triều Nguyễn” [54,446]. Khi thực hiện một số chính sách tiến bộ đối với nông nghiệp thì triều Nguyễn lại sai lầm khi áp dụng các biện pháp ức thương nhằm hạn chế sự phát triển các nhân tố thương mại trong nền kinh tế. Chính sách “trọng nông ức thương” là có nguyên nhân sâu xa về mặt tư tưởng, liên quan đến việc tôn sùng đạo Nho dưới triều Nguyễn. Xuất phát từ quan niệm vương đạo trong nền chính trị - đạo đức Nho giáo, các vua Nguyễn coi buôn bán là nghề mạt nên đã xếp thương nghiệp đứng sau tất cả các nghề khác. Đồng thời, do Việt Nam là một nước nông nghiệp nên mọi khoản chi thu trong ngân sách quốc gia đều dựa vào nguồn thu chủ yếu là địa tô. Vì thế, nhà nước phong kiến Việt Nam đặt nghề nông lên vị trí hàng đầu trong nền kinh tế. Hơn nữa, để đối phó với hiểm họa các nước phương Tây, ngay từ thời Gia Long, chính sách đóng cửa, nhà nước kiểm soát việc ngoại thương đã được thi hành. Chính sách này là biểu hiện đặc trưng của lối tư duy phong kiến, khép kín. Thương nghiệp trong và ngoài nước bị ức chế trong lúc đòi hỏi cần phải được phát triển, công
- 19 nghiệp đình đốn vì thị trường quá eo hẹp. Vì vậy, tài chính quốc gia khô cạn, tài lực nhân dân ngày càng kém sút: “Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này chính là mâu thuẫn giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá trong toàn quốc với chính sách ức thương của triều đình nhà Nguyễn”[30,153]. Những chính sách hạn chế thương mại đó đã làm ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Bên cạnh đó, trong các ngành tiểu thủ công nghiệp, tình hình không có gì mới. Nhà Nguyễn nắm giữ những công xưởng lớn đúc súng, đúc tiền, đúc tàu. Những chính sách trong các ngành tiểu thủ công nghiệp đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế, các sản phẩm làm ra không được tham gia vào quá trình tái sản xuất, không được hội nhập vào thị trường hàng hóa nên không thể trở thành đòn bẩy kích thích mở rộng sản xuất, mở rộng nền kinh tế hàng hóa, tạo đà đi lên cho yếu tố kinh tế tư bản chủ nghĩa. Thương mại, công nghiệp bị ngăn trở, các thị trấn không thành lập được, thì nạn nhân dân lưu tán đã trầm trọng trở nên trầm trọng. Triều đình không thể giải quyết được bằng chính sách đinh điền. Chính vì vậy con đường phát triển tự nhiên của kinh tế Việt Nam lúc ấy chỉ có thể “là con đường tiến lên của công thương tư nhân và công thương nhà nước, nghĩa là con đường tư bản chủ nghĩa, nói theo danh từ lúc ấy là “phú quốc cường dân” hay là “ngụ binh ư thương”[30,154]. Khi phải đương đầu với những thách thức đó, nhà Nguyễn đã bộc lộ những nhược điểm và sai lầm của mình dẫn đến thất bại. Đó không chỉ là thất bại của một vương triều mà là thất bại của một dân tộc, một quốc gia, thất bại lịch sử kéo theo những hậu quả nặng nề và lâu dài. Bởi đất nước Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX cần được cải cách, xây dựng và phát triển đi lên. Đó là một đòi hỏi bức xúc để nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế, khắc phục những hậu quả do chiến tranh tàn phá. Các vua Nguyễn đã tiến hành khôi phục và phát triển đất nước vì lợi ích của vương triều họ Nguyễn
- 20 và xây dựng xã hội theo mô hình truyền thống phong kiến – mô hình xã hội đã lỗi thời, không còn thích hợp với thời đại nữa . Như vậy, vương triều nguyễn đã cố gắng phục hồi, phát triển kinh tế theo mô hình phong kiến truyền thống, dựa trên cơ sở các loại hình sở hữu ruộng đất tàng chứa những mâu thuẫn kinh tế nội tại cùng các chính sách kinh tế khép kín, bảo thủ, trì trệ, đó là cơ sở kinh tế của nền giáo dục Nho giáo triều Nguyễn và cũng chính là nguyên nhân sâu xa của sự trì trệ, suy thoái của giáo dục Nho giáo triều Nguyễn. 1.1.2. Điều kiện chính trị - văn hóa xã hội Nhà nguyễn ra đời, tồn tại không chỉ trong bối cảnh đặc biệt của đất nước và tình hình thế giới có nhiều biến động. Thắng lợi của chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu đã kéo theo sự phát triển của chủ nghĩa thực dân cũ và sự giao lưu buôn bán quốc tế. Trước sự bành chướng của chủ nghĩa thực dân ở châu Á, hàng loạt nước châu Á lần lượt rơi vào ách đô hộ thực dân trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh xã hội phong kiến Việt Nam giai đoạn 1802 đến 1919, nhà Nguyễn tái độc tôn Nho giáo nhằm củng cố và bảo vệ địa vị, quyền lợi của triều đại phong kiến thống trị. Nho giáo với tư cách là học thuyết chính trị - đạo đức có vai trò, vị trí và ảnh hưởng nhất định đến nhiều lĩnh vực của xã hội phong kiến triều Nguyễn. Thực chất của đường lối, chủ trương chính trị triều Nguyễn là loại bỏ các âm mưu bạo loạn và trừng trị các cuộc khởi nghĩa chống phá triều đình của nhân dân và các thế lực cát cứ, phản loạn khác. Đường lối chính trị của triều Nguyễn có nguồn gốc từ các học thuyết Nho giáo, các vua Gia Long, Minh Mệnh, Tự Đức, Thiệu Trị đều là những người am hiểu và sùng bái Nho học. Nguyễn Ánh - Gia Long chọn Nho giáo làm hệ tư tưởng, đề cao Nho học. Minh Mệnh tiếp tục khẳng định và nâng cao
- 21 hơn nữa vị trí của Nho giáo và Nho học. Tự Đức là nhà một nhà Nho thuần thành, ông đề xướng nhiều hoạt động học thuật nhằm khẳng định hơn nữa vai trò, vị trí của Nho học trong xã hội. Với mong muốn duy trì dài lâu sự tồn tại của nền quân chủ chuyên chế, nhà Nguyễn đã tìm mọi cách thực thi đường lối đức trị, vận dụng các nguyên tắc đạo đức tam cương, ngũ thường, nguyên tắc chính danh, tôn quân quyền, để xây dựng một xã hội hoà mục, trị bình theo lý tưởng của Nho giáo. Nho giáo với tư cách là học thuyết chính trị - xã hội đã được các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX sử dụng làm hệ tư tưởng chính trị, là công cụ để xây dựng, quản lý và bảo vệ triều đại. Vì vậy, Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc và đóng vai trò quan trọng trong việc định ra và thực hiện đường lối đức trị, xây dựng và thực thi pháp luật, hình thành và phát triển nền giáo dục khoa cử nước ta dưới chế độ phong kiến. Tính từ khi tiêu diệt triều Tây Sơn lập nên nhà Nguyễn đến trước khi thực dân Pháp xâm lược, triều Nguyễn đã tạo ra những điều kiện hết sức thuận lợi cho sự độc tôn Nho giáo và thực hiện Nho giáo hoá toàn bộ đời sống xã hội để duy trì quốc gia và địa vị thống trị của mình. Các nhà vua Nguyễn đều là những người trực tiếp truyền bá Nho học và đào tạo Nho sĩ, dưới sự chỉ đạo của Minh Mạng, triều thần nhà Nguyễn xây dựng nên bộ “Minh Mạng chính yếu”, thể hiện tư tưởng phục hồi đạo Nho và xuất phát từ các yếu tố tích cực của nhà Nho để trị nước. Tuy nhiên, theo một số tác giả, đối với Phật giáo, đạo giáo, triều Nguyễn không có chính kiến, quan điểm, thái độ rõ ràng. Các vua Nguyễn lo sợ giáo lý nhà Phật có thể phương hại đến học thuyết Khổng giáo thống trị nhưng vẫn muốn khai thác giáo lý nhà Phật nhằm hỗ trợ cho ý thức hệ Khổng giáo. Đến thời vua Tự Đức, những sắc chỉ “chấn chỉnh đạo Phật” lại được ban hành, nhằm giảm bớt số sư tăng trong chùa chiền còn như làm chùa mới, đúc chuông tô tượng ( ) đều cấm cả. Sư ở chùa có người nào
- 22 chân tu thì lý trưởng phải khai liệt họ tên của họ để nộp quan, để biết rõ sư tăng” [65,136]. Vua Minh Mạng khi xem làm chay ở chùa Thiên Mụ, nhân đó bảo quan hầu rằng: “Nhà Phật dùng thần đạo để dạy đời, đạo Khổng chỉ dạy luân thường là món dùng hàng ngày, song tóm lại chung quy đêu dạy người ta làm điều thiện mà thôi. Kể ra người ta sinh ra ở vòng trời đất, nên làm điều thiện, nên tránh điều ác. Đối với đạo Phật dạy người bằng thuyết hoạ phúc, báo ứng, ta không nên nhất khái cho là dị đoan. Một việc khuyên người làm điều thiện của nhà Phật, dẫu thánh nhân sống lại cũng không thể đổi bỏ đi được” [92,718]. Mặc dù, nhà Nguyễn hạn chế Phật giáo trong đời sống chính trị, nhưng lại “thả nổi” trong đời sống tâm linh, Phật giáo vẫn được nhân dân coi trọng, được nhà Nguyễn sử dụng để thu phục lòng dân vì những mục tiêu chính trị của họ. Biểu hiện rõ nhất là việc các vua Nguyễn cho xây, sửa chùa chiền, nhất là ở Huế, làm lễ cầu đảo, siêu độ cho những binh lính chết trận Năm 1840, Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh có dịch lệ, vua sai các sư ở kinh đến làm đàn chay ở chùa Phật Tích (Sơn Tây) trong 21 ngày đêm để cầu an. Các vua còn mở trai đàn, pháp hội ở các chùa Huế khi có đại tang, đại khánh, chúc thọ, cầu phúc. Các lễ Vu lan, Phật đản đều được tổ chức long trọng hàng năm. Bộ máy nhà nước phong kiến được nhà Nguyễn tổ chức theo thiết chế quân chủ chuyên chế, tập trung mọi quyền hành vào tay nhà vua, đây là sự tiếp tục thiết chế quân chủ thời Lê (thế kỷ XV), nhưng được nâng lên mức tập trung cao hơn, nhằm ứng phó với những biến động xã hội. Chính sách “bế quan toả cảng” là một mặt trong toàn bộ chính sách “trọng nông ức thương” kìm hãm công thương nghiệp của nhà Nguyễn và hệ quả là Việt Nam trở thành cô lập, khép kín về thương mại, ngoại giao. Về đối nội, chính sách ấy làm cho đất nước mất nhiều nguồn lợi về buôn bán, trao đổi hàng hoá với
- 23 nước ngoài, số thu nhập của nhà nước và của những tư nhân sản xuất đều sút kém đi và một điều tai hại nữa là, nó đã gây sự chia rẽ dân tộc, làm cho hai cộng đồng Lương, Giáo trong xã hội xung đột, xa lánh nhau. Đường lối đối ngoại bảo thủ, khép kín được các vua Nguyễn kiên trì thực hiện do nhiều nguyên nhân. Xuất phát từ quan niệm cho rằng việc giao thương với người phương Tây có thể làm suy đồi đạo đức nhân dân, trái ngược với mục đích chính trị của Nho giáo và có thể dẫn tới phản loạn nên triều đình không thiết lập quan hệ thương mại chính thức với bất cứ quốc gia nào cho tới khi bị buộc phải làm điều đó. Có thể thấy rằng: “Vì lợi ích của bản thân, triều Nguyễn đã thi hành những chính sách nhằm một mặt thì đè bẹp sự phản kháng của các thế lực tàn dư của các vương triều Tây Sơn và Lê - Trịnh, đàn áp các cuộc nổi dậy khác, một mặt thì ổn định xã hội và bảo vệ chủ quyền trên toàn bộ lãnh thổ” [81,23]. Cho tới thời Thiệu Trị, chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với phương Tây đã cởi mở hơn trước, thương mại được khuyến khích. Sau năm 1818, các thương gia phương Tây khỏi phải trả thuế nhập cảng quá cao, chỉ vài loại hàng mới phải chịu thuế xuất cảng còn phần lớn được miễn. Hoạt động thương mại của Việt Nam với các nước láng giềng không thể phát triển tự do khi các quan chức đánh thuế nặng lên thương mại, còn thủ tục lại phiền phức. Ngoài ra, triều đình còn cấm đoán một số mặt hàng, muốn bán phải có giấy phép riêng. Guồng máy hành chính của nhà Nguyễn thời này vẫn viện nhiều lý do để cản trở, gây khó khăn cho các hoạt động của thương nhân, vì thế mà các giao dịch quốc tế chậm phát triển. Các trung tâm thương mại lớn trước đó như Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà do nhiều nguyên nhân trở nên đình trệ, thiếu sinh khí. Chỉ có Thăng Long, Bến Nghé, Gia Định vẫn còn tồn tại nhưng không phát triển. Việc ngăn chặn giao lưu buôn bán, hạn chế, o ép thương nghiệp là do chính sách ức thương của triều đình. Các vua Nguyễn
- 24 cho rằng: “cửa ải và bến đò đặt ra là có ý chuộng [nghề nông là] gốc mà ức chế [nghề buôn là] ngọn, triều đình không phải thiếu về tiền tài, vốn không coi việc ấy là cần phải có hay không, duy trì bọn con buôn gian giảo phần nhiều tự ý định giá thấp cao, há nên nhất khái theo theo lời cầu xin của chúng!” [64,265], “việc bán lậu gạo, đã từng nghiêm dụ răn cấm để cho ai cũng nghe biết cả Nếu ai vi phạm, tức thì chiếu theo luật “trái lệ cấm ra biển, tư thông với nứơc ngoài”, “sẽ khép vào tội chết” và “hễ thuyền buôn đi ngoại quốc, khi ra cửa biển, nếu xét thấy có chở lậu gạo, và khi về, bắt được mang theo thuốc phiện, thì chuẩn cho lập tức cứ thực, báo quan; nếu thiên vị giấu giếm không phát giác, sẽ trị tội nặng” [91,402]. Chính sách thuế khoá, kiểm soát nặng nề và phức tạp, thậm chí năm 1834 Minh Mạng còn ra lệnh cấm nhân dân họp chợ do lo sợ phong trào khởi nghĩa của nông dân lan rộng. Thương nhân ngoại quốc đến xin thông thương đều bị từ chối. Các hoạt động buôn bán với nước ngoài chủ yếu là để mua sắm vật dụng quý tộc. Muốn phát triển đất nước phải mở rộng ngoại thương, phải mở cửa đất nước, phải tạo động lực cho kinh tế hàng hoá phát triển, giải phóng sức sản xuất xã hội Song chính sách “bế quan toả cảng” khép kín, thụt lùi của các vua Nguyễn làm cho đất nước trì trệ, lạc hậu, không tiến kịp các nước phát triển phương Tây. Điều đó khiến nước ta suy yếu, không đủ sức đương đầu với những khó khăn, thách thức mới của thời đại. Sang đời Minh Mạng, tính chất chuyên chế chính trị phát triển cao độ song song với việc hạn chế quyền hành của các cấp địa phương. Nhà vua đặt thêm Cơ mật viện, lấy 4 đại thần ở các bộ bổ sung vào để cùng nhà vua bàn bạc những việc quân quốc trọng yếu; lại đặt thêm Tôn nhân phủ là cơ quan quản lý công việc của hoàng tộc. Bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế đó ngày càng xa rời thực tế, bảo thủ, cố chấp, kém hiệu lực rồi trở nên lạc hậu trước những trào lưu canh tân và Âu hóa nửa đầu thế kỷ XIX.
- 25 Sự đề cao các học thuyết chính trị của Nho giáo như những chân lý tuyệt đối, vĩnh hằng đã đẩy triều Nguyễn sa vào tình trạng bảo thủ cố chấp về mọi mặt, đặc biệt là quan hệ giao lưu với văn hóa phương Tây. Nhận thức đánh giá Nho giáo như một công cụ thống trị về tư tưởng, triều nguyễn sử dụng Nho giáo, đặc biệt trong việc củng cố vương quyền, tranh thủ lòng dân, ổn định xã hội, với các nguyên tắc tam cương ngũ thường, đường lối nhân chính, lý tưởng xây dựng một xã hội hòa mục và có kỷ cương. Gia Long cho rằng Nho giáo chính là học thuyết duy nhất có khả năng đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của chế độ phong kiến trung ương tập quyền, và ông đã đưa Nho giáo lên địa vị quốc giáo. Điều này không khác so với triều Lê, song trong bối cảnh xã hội và triều đình nhà Nguyễn đã tiếp xúc với nền văn minh Tây phương, đã nhìn thấy họa mất nước cận kề thì đây là một bước lùi về tư duy chính trị, không theo kịp xu thế cải cách trong khu vực. Chính sách đối ngoại sai lầm của các vua Nguyễn, bắt đầu từ Gia Long, được hoàn thiện và củng cố bới Minh Mệnh, được duy trì bởi Thiệu Trị và Tự Đức là một trong những nguyên nhân quan trọng làm Việt Nam trở nên lạc hậu so với nhiều nước đương thời. Chính sách đóng cửa, bế quan toả cảng, tự cố thủ trong nền văn hoá Nho giáo đã đưa Việt Nam tới tình trạng trì trệ về mọi mặt. Mặc dù, các vua Nguyễn luôn cử Người đi thám sát tin tức các nước xung quanh, vua Minh Mệnh đã tiếp xúc với báo tiếng Anh ở Hương Cảng, triều đình luôn sử dụng hàng hoá của phương Tây và các nước lân cận, nhưng tinh thần tự tôn dân tộc, tư tưởng “nội hạ ngoại di” đã khiến họ cự tuyệt việc tiếp thu, học tập, phổ biến các tri thức văn hoá phương Tây. Tư tưởng phòng thủ thụ động, tiêu cực đối với sự xâm nhập của văn hoá, văn minh phương Tây nhằm phòng tránh nguy cơ xâm lược từ hướng này đã chứng tỏ sự bất cập của giai cấp lãnh đạo nhà Nguyễn trong chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước. Như chúng ta đã biết, các yếu tố văn hóa, văn minh phương Tây đã
- 26 xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu trước khi quân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Do thái độ và những đường lối sai lầm của vua chúa nhà Nguyễn nên các yếu tố này không có điều kiện phát huy ảnh hưởng trong đời sống xã hội. Chỉ đến khi Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, tiến hành xây dựng cơ sở vật chất của khu vực thuộc địa này nhằm làm bàn đạp cho tiến trình xâm lược toàn bộ đất nước Việt Nam thì các yếu tố văn hoá; văn minh đó mới có điều kiện ảnh hưởng mạnh hơn tới xã hội Việt Nam. Năm 1868, Pháp khánh thành Sở Bưu điện Sài Gòn. Trường học tiếng Pháp và đào tạo thông ngôn được thành lập năm 1864. Cũng trong năm đó, thực dân Pháp phát hành cả báo tiếng Pháp và báo tiếng Việt. Các thiết chế mới của xã hội thực dân lần lượt được thiết lập ở ba tỉnh bị chiếm đóng này và dần dần lan toả theo bước chân xâm lược của Pháp. Cũng trong thời gian này, Tự Đức thực hiện lại việc cử người tới các nước lân cận khảo sát tình hình và cử các phái đoàn đi thương thuyết với Pháp nhằm chuộc lại ba tỉnh đã mất. Điều này đã tạo điều kiện cho một số quan chức của ta được tiếp xúc với văn hoá, văn minh Tây phương. Chính nhờ các cuộc khảo sát và thương thuyết này mà một số quan lại của triều đình mới nhận thức được tình thế hiểm nghèo như ngàn cân treo sợi tóc của vận mệnh dân tộc, nhận thức được con đường tất yếu phải canh tân, tự cường đất nước để mong thoát khỏi họa vong quốc. Các đề nghị cải cách ở Việt Nam thời kỳ này đã ra đời trong bối cảnh như vậy. Nghiên cứu sự xuất hiện các tư tưởng canh tân thời kỳ này, chúng tôi nhận thấy hầu hết các bản điều trần đều do các chí sĩ đã được tiếp xúc hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với văn minh, văn hoá phương Tây đề xướng. Hai nhân tố khách quan dẫn tới sự xuất hiện các đề nghị cải cách ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX là sự xâm lược của thực dân Pháp và sự tiếp xúc với văn minh phương Tây. Nhưng đó mới chỉ là các nhân tố khách quan. Để có được các tư tưởng canh tân đất nước thì không thể thiếu nhân tố chủ quan, cụ thể là năng
- 27 lực tư duy của những người đề xướng. Những gương mặt tiêu biểu của xu hướng cải cách thời kỳ này có thể kể đến Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch Các nhân vật này đều được tôi luyện và trưởng thành trong môi trường Nho giáo. Bản thân Nguyễn Trường Tộ, mặc dù đã theo đuổi nơi cửa Khổng sân Trình gần hai chục năm trời nhưng cũng đả phá kịch liệt lối học vô dụng của nhà Nho. Những tư tưởng cải cách trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền giáo dục Nho giáo đương thời, Trong đời sống văn hóa – xã hội thời này, các hoạt động học thuật và khảo cứu Nho giáo được duy trì thường xuyên, nhằm phục hưng và tôn sùng Nho học. Tự Đức dịch sách Luận ngữ sang chữ Nôm để truyền bá tư tưởng Nho giáo sâu rộng trong nhân dân. In ấn, phổ cập rộng rãi trong xã hội“Nhị thập tứ hiếu”, “Thập huấn điều” để giáo hoá, đôn nhân luân cho nhân dân. Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nho sĩ, triều Nguyễn hủy bỏ tất cả các chương trình giáo dục cấp tiến của vua Quang Trung, ngừng việc sử dụng chữ Nôm, quay trở lại dùng chữ Hán và theo đuổi đường lối giảng dạy Nho học Chữ Hán trở thành công cụ chính thức để truyền đạt tư tưởng, viết văn bản, giao tiếp trong hàng ngũ quan lại, giới Nho sỹ. Lối giáo dục và khoa cử Nho học mang trong nó những hạn chế tất yếu, những tệ đoan mà nó phải sinh ra như lối từ chương, tầm trích, hư văn, đề cương, nghiền ngẫm kinh sử Trong buổi thịnh thời, khoa cử Nho học chưa bộc lộ những hạn chế đó. Càng về sau, giáo dục và khoa cử càng bài bản, thành “nghề”, kỹ xảo càng cao, rèn rũa càng tinh vi, những mối tệ mới ngày càng nặng nề và thành một nguy cơ, một lực tác động càng làm suy yếu Nho giáo, làm tha hóa Nho phong sĩ khí. Kẻ sĩ thế kỷ XIX phần lớn bị động và bị trói buộc chặt chẽ bởi quan điểm, tư tuởng Nho giáo đã lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với nhu cầu cải cách, thay đổi xã hội.
- 28 Khi đánh giá vai trò của triều Nguyễn đối với tiến trình lịch sử Việt Nam, có ý kiến cho rằng nhà Nguyễn có công trong việc thống nhất đất nước với sự hoàn chỉnh cương vực quốc gia, thống nhất thị trường, tiền tệ; ngược lại cũng có ý kiến khẳng định Gia Long đã “cõng rắn cắn gà nhà” Chỉ có thực tế lịch sử mới có thể đánh giá đúng những công trạng của nhà Nguyễn cũng như những hạn chế dẫn đến đất nước ta từng bước bị thực dân Pháp xâm lược, và cuối cùng đất nước rơi vào tay thực dân Pháp. Cuộc chấn hưng của nhà Nguyễn khiến cho địa vị quan trọng của Nho giáo được tái lập, nhưng cũng giống “như ngọn đèn sắp tắt bao giờ cũng bất chợt sáng lên một lần cuối cùng” [85,133]. Theo như đánh giá của các học giả, triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX “cũng là một nhà nước mạnh, nhưng nó trở thành một thứ tai họa của dân tộc và nhân dân ta. Chính nó là công cụ đàn áp mọi xu hướng tích cực trong nhân dân, chặn đứng làn sóng đấu tranh đòi dân quyền, dân chủ Xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX chứa đựng nhiều mâu thuẫn Có những mâu thuẫn triều Nguyễn đã giải quyết đúng hướng, tích cực, nhưng có những mâu thuẫn triều Nguyễn đành chịu bất lực luẩn quẩn và bế tắc , nên cuối cùng triều Nguyễn đã lâm vào sự khủng hoảng toàn diện và triền miên dẫn đến đất nước bị xâm lược” [61,51]. 1.2. NHO GIÁO VÀ GIÁO DỤC NHO GIÁO TRƯỚC TRIỀU NGUYỄN 1.2.1. Khái quát tiến trình Nho giáo và giáo dục Nho giáo trung đại Thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam, quá trình phát triển Nho giáo ở Việt Nam trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng từ những thay đổi về chính trị - xã hội của Trung Quốc. Những kiến thức của Nho sĩ Việt Nam chủ yếu dựa vào lý thuyết của Nho giáo. Kinh điển của Nho giáo đã cung cấp cho họ những kiến thức nhằm phục vụ cho triều đình phong kiến, giáo dục nhân dân, xây dựng những quy tắc ứng xử trong cuộc sống
- 29 hằng ngày. Trong chiều hướng đi lên của đất nước, nho sĩ Việt Nam “đã khai thác mặt tích cực của Khổng giáo để xác định những tiêu chuẩn đạo đức, để xây dựng lẽ sống của con người, tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của toàn thể nhân dân đối với tổ quốc. Nhưng dần về sau, xã hội trở nên trì trệ, giới cầm quyền trở nên bảo thủ, thì Nho sĩ trở nên giáo điều. Họ lại lấy những lời cũ kỹ để biện minh cho sự trì trệ và bảo thủ ấy” [47,38]. Từ thế kỷ XI trở đi, khi chế độ phong kiến tập quyền ở Việt Nam được xác lập, Nho giáo đã thể hiện được vai trò là hệ tư tưởng của quốc gia độc lập. Xuất phát từ nhu cầu củng cố nhà nước quân chủ tập quyền và trật tự của xã hội phong kiến, nhu cầu phát triển văn hoá giáo dục, nhà Lý đã từng bước tạo điều kiện cho Nho giáo phát triển. Vì thế, tuy không được tôn sùng và có ảnh hưởng mạnh mẽ như Phật giáo nhưng Nho giáo với những ưu thế riêng biệt của mình đã có cơ hội theo sự phát triển của việc học mà vươn lên lần lần, chậm chạp mà chắc chắn. Điều này được đánh dấu bằng một số sự kiện sau: năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu tại kinh thành Thăng Long, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 vị tiên hiền; năm 1075, nhà Lý mở khoa thi đầu tiên là khoa thi Minh kinh bác học và Nho hoc tam trường để chọn người dạy Nho học, tuyển chọn quan lại; năm 1076, nhà Lý cho xây dựng Quốc tử giám, lúc đầu là trường dành cho con em quí tộc nhà Lý học tập; năm 1095, Lý Cao Tông mở kỳ thi Tam giáo Đó là những biểu hiện rõ rệt nhất của việc lựa chọn và phát triển Nho giáo với tư cách là hệ tư tưởng chính thống của nhà nước phong kiến Việt Nam thời kỳ độc lập tự chủ; là sự khẳng định vai trò, vị trí nhất định của Nho giáo trong kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến VIệt Nam. Đến thời Trần (1226-1400), do yêu cầu củng cố chế độ phong kiến, bộ máy nhà nước cần được tăng cường, giáo dục – khoa cử được tổ chức thường xuyên để đào tạo tầng lớp quan lại bổ sung vào bộ máy nhà nước. Do vậy,
- 30 Nho giáo có ảnh hưởng rộng rãi hơn, mạnh mẽ hơn đối với con người và xã hội phong kiến Việt Nam so với trước đây. Tầng lớp Nho sĩ ngày càng đông đảo, quan lại trong nhà nước có nhiều người xuất thân từ nho sĩ. Họ là những người đại diện cho giai cấp địa chủ, nắm địa vị quan trọng trong bộ máy nhà nước. Nho giáo phát triển nhanh chóng hơn ở cuối thế kỷ XIII, tầng lớp nho sĩ đã chiếm được một địa vị quan trọng trong bộ máy nhà nước. Các khoa thi được mở đều đặn hơn do nhu cầu nhân tài của nhà nước và do nhu cầu văn hoá của các tầng lớp xã hội. Năm 1232, nhà Trần đặt học vị cho chế độ thi cử Nho học là Thái học sinh - học vị cao nhất, năm 1247, đặt lệ Tam khôi (ba người đỗ cao nhất của khoa thi Thái học sinh): Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Cuối đời Trần, Nho giáo chiếm ưu thế hơn so với Phật giáo ở cả lĩnh vực chính trị, văn hoá, song cũng không cứu vãn nổi nhà Trần khỏi suy vong. Xã hội xuất hiện những khủng hoảng, mâu thuẫn nội tại trong nội bộ giai cấp phong kiến. Phật giáo có những biểu hiện làm tổn hại quốc gia như: chùa xây quá nhiều, sư sãi đông đúc Thế kỷ XIV cũng là thời kỳ xuất hiện tầng lớp quí tộc và quan liêu nho sĩ trong xã hội. Lực lượng này ngày càng đông đảo, có vị trí, vai trò lớn đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam. Đặc biệt xuất hiện giai cấp mới trong xã hội: giai cấp địa chủ đang trở thành một thế lực kinh tế - chính trị chủ yếu trong xã hội. Vào nửa cuối thế kỷ XIV, xã hội Đại Việt lâm vào khủng hoảng trầm trọng, mất mùa, đói kém xảy ra ở nhiều nơi, nông dân nổi dậy, nhà Trần ngày một sa đoạ Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần, hình thành vương triều Hồ tồn tại từ năm 1400 đến năm 1407. Nhằm mục đích duy trì sự ổn định xã hội, khắc phục mâu thuẫn nội bộ, tạo ra những tiền đề phát triển đất nước và bảo vệ nền độc lập, chủ quyền quốc gia, Hồ Quý Ly đã có hàng loạt những cải cách về kinh tế, văn hoá Những biến đổi ấy tạo ra diện mạo mới cho Nho giáo.
- 31 Chính sách hạn nô, hạn điền của ông đã hạn chế được thế lực của quý tộc nhằm tập trung quyền lực vào chính quyền trung ương, chuyển dần chế độ quý tộc sang chế độ quân chủ quan liêu, tăng cường hơn nữa sức mạnh kinh tế cho nhà nước. Nhà nước phong kiến Việt Nam đứng đầu là Hồ Quý Ly đã quy định lại chế độ học và thi cử nhằm đào tạo đội ngũ Nho sĩ mới, tuyển quan lại chủ yếu bằng thi cử Nho học. Hồ Quý Ly đã tạo ra những điều kiện nhất định để độc tôn Nho học, Nho giáo thông qua các chính sách giáo dục, các hoạt động học thuật như viết sách Minh đạo gồm 14 thiên bàn về Nho giáo, phê phán Tống Nho, đề cao Chu Công hơn Khổng Tử, soạn sách “Thi nghĩa” bằng chữ Nôm để đóng góp vào việc phổ biến nền văn hoá Nho học. Trong thời gian nước ta bị nhà Minh xâm lược (1407 - 1427), Nho học được nhà Minh sử dụng, trở thành công cụ thống trị và nô dịch nhân dân ta. Nhà Minh mở rộng các trường Nho học nhằm đào tạo tầng lớp Nho sĩ mới, truyền bá văn hoá Trung Hoa, sách vở Nho giáo được đưa vào Việt Nam nhiều nhất từ trước đến nay. Sau kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Nho giáo được các triều đại phong kiến Việt Nam sử dụng như là một trong những công cụ chủ yếu để ổn định đất nước sau chiến tranh, đặc biệt là trong việc tổ chức xây dựng và phát triển mô hình nhà nước phong kiến khác thời Lý - Trần – đó là mô hình nhà nước quân chủ trung ương tập quyền. Qua những biến đổi về các mặt văn hoá, tư tưởng dưới các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, có thể nhận thấy, sự tồn tại, biến đổi và phát triển của Nho giáo có xu hướng ngược lại với Phật giáo và Đạo giáo. Trong khi thế lực Phật giáo và Đạo giáo có chiều hướng suy giảm dần thì thế lực của Nho giáo ngày càng tăng tiến, từ chỗ lúc đầu mới chỉ là một nền văn hoá giáo dục được nhà nước phong kiến chấp nhận trên nguyên tắc dùng làm học thuyết trị nước tới chỗ chiếm ưu thế so với Phật giáo trong các lĩnh vực chính trị, văn hoá tư tưởng. Nho giáo đang trên đà trở thành một ý thức hệ thống trị xã hội.
- 32 1.2.2 Vị trí độc tôn về tư tưởng, văn hóa, đạo đức Nho giáo nhà Lê Thế kỷ XV dưới thời Lê Sơ, các vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông đã có những cố gắng để đưa Nho giáo thâm nhập sâu trong lĩnh vực chính trị, chi phối sâu rộng hơn trong đời sống xã hội, vì lúc này, Nho giáo vẫn chưa thực sự trở thành hệ tư tưởng thống trị tuyệt đối và hoàn toàn trong xã hội, chưa thực sự chi phối mạnh mẽ tới tập quán, lối sống của nhân dân. Thậm chí, ngay trong tầng lớp cầm quyền, Nho thuật, nho sĩ chưa được sùng thượng. Điều này được ghi chép rất rõ trong sách Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí Đến thời Lê Thánh Tông (nửa cuối thế kỷ XV) với ảnh hưởng và vai trò của ông, Nho giáo mới thực sự trở thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, thâm nhập, kiểm soát mọi mặt của đời sống xã hội và ngự trị trong các thể chế của nhà nước. Lê Thánh Tông đã tìm thấy ở Nho giáo những nhân tố cần thiết để ổn định tình hình chính trị lúc bấy giờ và nhanh chóng giương lên như một ngọn cờ tư tưởng. Điều này được thể hiện ở các bài văn đình đối trong các kỳ thi tuyển chọn người đỗ trạng nguyên – một hình thức thi đặc biệt bằng sự đối thoại giữa nhà vua và “sĩ tử” về các vấn đề tư tưởng và những vấn đề chính trị - xã hội quan trọng nhất của đất nước hay những đề xuất, hiến kế sách về việc xây dựng đất nước của các cống sĩ đối với nhà vua và triều đình, một Nho sĩ đã viết: “Điều cốt yếu của việc trị nước là ở làm sáng tỏ nền thánh học, lấy đó làm gốc cho việc chính nhân tâm trừ tà thuyết. Thần mong tấm lòng của bệ hạ noi theo tấm lòng của các tôn vương, tôn sùng giáo hóa, nghiêm cẩn việc học hành để cho nhân luân vua tôi, cha con sáng tỏ rạng ngời, đạo lý tam cương, Ngũ thường huy hoàng rực rỡ, như thế thì trên sẽ có vua của ngôi hoàng rực rỡ, dưới có dân của ngôi hoàng rực rỡ, trên sẽ có vua theo đúng chính kinh, dưới sẽ không có người tà bậy. Lòng người nhờ đó mà được chính, dị đoan dó đó mà bị trừ, trăm quan được sửa sang cất nhắc, chính sự được hưng thịnh vững bền, tệ nạn do đó mà trừ
- 33 bỏ, hiệu lực do đó mà rõ ràng, hiệu quả nền chính trị cũng nhờ đó mà được hình thành” [82, 78]. Để phát triển mọi mặt của đất nước, bảo vệ vững chắc chủ quyền, độc lập quốc gia, Lê Thánh Tông đã tạo điều kiện thuận lợi để Nho giáo ảnh hưởng và chi phối đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tiếp tục kiên quyết, triệt để nhất đường lối độc tôn nho giáo: - Đưa ra chính sách, biện pháp hạn chế Phật giáo, Đạo giáo: không cho xây thêm chùa, quán. Các nhà sư, đạo sĩ từ 50 tuổi trở lên, có đạo đức mới được hành đạo, họ phải trải qua một kỳ thi kinh điển của Phật giáo hay Đạo giáo, không đỗ phải hoàn tục. - Đẩy mạnh quá trình Nho giáo hoá triều đình và xã hội, trong đó việc quan trọng hàng đầu là tăng cường giáo dục Nho học và hoàn thiện chế độ khoa cử, xuất chính bằng con đường khoa bảng. Những người đỗ đạt được Nhà nước đề cao bằng rất nhiều nghi thức mang tính quốc gia, có tổ chức, với những qui định chặt chẽ như: lệ xướng danh, treo bảng, ban áo mão, đãi yến tiệc, lễ vinh quy bái tổ, khắc tên vào bia đá (bắt đầu từ năm 1442 thời Lê Thánh Tông) để lưu danh muôn đời. Những biện pháp tôn vinh Nho sỹ và đề cao học tập thi cử đó đã góp phần quan trọng phát triển giáo dục trong nước. Số học trò đi học ngày càng nhiều, số người đi thi ngày càng đông. Riêng chỉ trong 38 năm thời Lê Thánh Tông trị vì đã có đến 12 khoa thi Hội và tuyển chọn được 501 tiến sỹ. Hai con số này đều lớn hơn tổng số của cả hai đời nhà Lý và nhà Trần cộng lại. Chính nhờ những chính sách tích cực trên mà việc thi cử dưới thời ông được xem là thịnh đạt nhất trong lịch sử giáo dục và khoa cử thời phong kiến Việt Nam. Lê Thánh Tông không chỉ là một ông vua tài năng và nhiệt huyết trong giáo dục mà còn để lại những công trình lớn trong lịch sử và văn hoá nước nhà như: - Biên soạn luật, biến tư tưởng về phép trị nước của Nho giáo thành
- 34 pháp luật của xã hội. Đây là bộ luật được xây dựng hoàn chỉnh và mang đậm dấu ấn tư tưởng về phép trị nước của Nho giáo. Luật Hồng Đức được xây dựng nhằm bảo vệ chủ quyền và sự thống nhất của quốc gia, bảo vệ thể chế tập quyền mà đỉnh cao của nó là hoàng đế họ Lê: “Bộ luật Hồng Đức ra đời đánh dấu sự vững mạnh của thượng tầng kiến trúc phong kiến và sự hoàn chỉnh của chế độ phong kiến Việt Nam” [80,279]. Dưới triều Lê Thánh Tông các tín ngưỡng dân gian cũng được hướng theo mục đích “nhà nước hóa” và “Nho giáo hóa”. Các phong tục Truyền thống, lễ hội làng xã cũng được nhà nước tổ chức nhằm làm cho người dân dễ dàng quen và chấp nhận trật tự xã hội Nho giáo, tạm quên đi những mâu thuẫn, bức xúc trong đời sống thực tế. Có thể nói, triều đại Lê Thánh Tông, Nho giáo đã có vai trò lớn trong việc đưa xã hội phong kiến Việt Nam phát triển cao và thịnh trị trong lịch sử quốc gia Đại Việt thời phong kiến. Tóm lại, dưới thời Nhà Lê, Nho giáo đã trở thành chỗ dựa duy nhất về mặt lý luận cho nhà nước phong kiến tập quyền; những học thuyết của Nho giáo được xem như khuôn vàng thước ngọc; những giáo lý Nho giáo trở thành luật lệ mang tính chuẩn mực đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là thời kỳ thịnh vượng, rực rỡ nhất của Nho giáo Việt Nam. 1.2.3. Đặc điểm, vai trò của giáo dục Nho giáo nhà Lê * Đặc điểm của giáo dục Nho giáo nhà Lê Thứ nhất, giáo dục Nho giáo thời Lê là đào tạo ra đội ngũ quan lại phục vụ cho giai cấp thống trị một cách trung thành, tận tụy. Thời kỳ nhà Lê được xem là một trong những thời thịnh trị của chế độ phong kiến Việt Nam với nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh, đạt nhiều đỉnh cao trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt chế độ học tập, khoa cử và trọng dụng hiền tài được chú trọng và trở thành mẫu mực cho thời sau. Như các triều đại phong kiến trước, chịu ảnh hưởng Nho
- 35 giáo và tư tưởng giáo dục Nho giáo mà mục đích nền giáo dục thời Lê cũng là dạy “đạo lý làm người”, nhằm đào tạo những con người luôn suy nghĩ, hành động phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của Nho giáo. Qua các bộ quốc sử Việt Nam, chúng ta thấy nội dung giảng dạy, học và thi cử trong hệ thống trường lớp từ địa phương đến kinh đô thời Lê chủ yếu là những tư tưởng trong các thuyết Tam cương, Ngũ thường, chính danh định phận và các Nho sỹ tùy theo địa vị, chức phận của mình mà đem cái tri thức ấy, cái đạo đức ấy đã được học để hành đạo. Bên cạnh việc dạy “đạo lý làm người”, nền giáo dục Nho giáo nhà Lê còn có mục đích quan trọng khác là đào tạo ra đội ngũ quan lại có tài năng quản lý và thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của triều Lê. Đó là những con người ưu tú có đạo đức, có trí thức Nho học, được chọn lựa kỹ càng thông qua con đường thi cử họ là những người có đầy đủ các phẩm chất: nhân, lễ, nghĩa, chí, tín. Rõ ràng dưới thời Lê, mục đích giáo dục, khoa cử Nho giáo được xác định rõ hơn, nhất quán hơn mà thực chất là đào tạo tầng lớp quan lại - Nho sĩ - trí thức theo tư tưởng Nho giáo có khả năng giúp việc trị quốc, an dân, bình thiên hạ. Điều này thể hiện rõ qua chế độ ban cấp bổng lộc, chức tước và vinh danh cho những người đỗ đạt của nhà vua. Vì vậy, một đặc điểm của nền giáo dục Nho giáo thời Lê là đã tạo ra đội ngũ quan lại - Nho sĩ - trí thức có khả năng trị quốc, an dân và phục vụ giai cấp thống trị một cách trung thành, tận tụy. Thứ hai, giáo dục Nho giáo thời Lê đào tạo ra những nhân tài cho đất nước, trở thành một trong những truyền thống giáo dục Việt Nam và cơ sở kế thừa giáo dục Nho giáo thời Nguyễn. Từ khi xác lập triều đình lê sơ (1428) đến khi Lê Thánh Tông trị vì (1460 - 1497), nền giáo dục - khoa cử ngày càng phát triển, hoàn thiện hơn. Sau đây là những sự kiện và số liệu để minh chứng cho thực tế và nhận định trên: Năm
- 36 1427, khi còn bao vây thành Đông Quan, Lê Lợi đã mở khoa thi đầu tiên của thời Lê sơ, chọn được 36 người trúng tuyển bổ nhiệm làm An phủ sứ các lộ và Viên ngoại lang ở các bộ ở các bộ. Năm 1429, Lê Lợi mở khoa thi Minh kinh ở thành Đông Kinh để khảo sát lại các quan văn, quan võ từ tứ phẩm trở xuống và tuyển lựa thêm những nhân tài đang ẩn dật vào bộ máy quan liêu. Trong số những người trúng tuyển ở kì thi này, có người trở lên lỗi lạc như nhà Sử học nổi tiếng Phan Phù Tiên. Năm 1431, Lê Lợi mở khoa thi Hành Từ ở Bồ Đề (thuộc Hà Nội hiện nay). Năm Thiệu Bình thứ 1 (1434), nhà Lê sơ bắt đầu quy định các thể lệ thi cử và ban định mở khoa thi tiến sĩ: “hẹn tới năm Thiệu Bình thứ 5 (1438), thì thi Hương ở các đạo, đến năm thứ 6 (1439) thì thi Hội ở đo sảnh đường”. Từ đó về sau, cứ 3 năm một khoa thi, đặt làm thường lệ. Ai đỗ đều cho Tiến sĩ xuất thân theo thứ bậc khác nhau” [15,13]. ngoài ra, triều đình còn đưa ra nội dung thi qua 4 kỳ (đã trình bày ở trên). Nhưng thể lệ trên không được thực hiện đầy đủ, cụ thể là khoa thi Hội năm 1439 không được tổ chức. Năm Nhâm Tuất 1442, triều đình mới mở khoa thi Hội đầu tiên. Kỳ thi này có 150 thí sinh và trúng tuyển 30 người. Chọn được Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Như Đổ đỗ Bảng nhã, Lương Như Hội đỗ Thám hoa, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đỗ Tiến sĩ xuất thân. Đến thời Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông trị vì, chế độ khoa cử ngày càng phát triển với những kì thi Hội có hàng ngàn sĩ tử tham gia. Khoa thi Hội năm 1448 dưới triều Lê Thái Tông có 720 người thì đến khoa thi hội năm 1463 dưới triều Lê Thánh Tông, số người thi đã tăng lên 1400 người và đến năm 1475 con số đó đã tăng lên 3200 người. Trong suốt thời gian trị vì, Lê Thánh Tông rất quan tâm đến vấn đề giáo dục và khoa cử nho giáo. Thời Lê Thánh Tông, số lượng khoa cử được tổ chức nhiều và thường xuyên hơn trước. Mặt khác, ở thời gian này quy chế thi cử tỏ ra khá nghiêm ngặt. Chẳng hạn như năm 1462, Lê Thánh Tông đã đưa ra Định lệ bảo kết thi Hương đề
- 37 cập tới các vấn đề lý lịch, đạo đức của người đi thi và nội dung của thi Hương. Năm 1463, bắt đầu thực hiện định lệ 3 năm một lần thi Hội vào những năm Sửu, Thìn, Tuất, Tị (tức là năm 1463,1466,1469 - cứ 3 năm một lần thi). Cũng trong năm 1463, triều đình tổ chức thi Hội chọn sĩ nhân trong cả nước. Số người thi năm ấy là 14000 người, lấy đỗ 44 người, ở kì thi này, Lương Thế Vinh đỗ Trạng Nguyên. Năm 1472, dưới sự chỉ đạo của Lê Thánh Tông, triều đình không chỉ tổ chức thi Hội mà còn đưa ra nội dung thi mới. Vua ra đề văn sách hỏi về vương trị thiên hạ. kì này có Vũ Kiệt, Nguyễn Toàn An, Vương khắc Thuật đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cấp đệ. Từ năm 1473 đến 1481 tổ chức được 4 lần thi. Năm 1484, thi Hội các cử nhân trong cả nước. Vua ra đề thi văn sách hỏi về nhà Triệu, Tống dùng Nho sĩ. Kỳ này có Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Giác, Mai Duy Tinh đỗ tiến sĩ cập đệ. Trong năm này, nhà vua cho dựng bia ghi tên các tướng sĩ từ khoa thi Nhâm Tuất 1442 đến nay. Từ năm 1487 đến năm 1496 đời vua Lê Thánh Tông, triều đình phong kiến đã tổ chức được 5 kỳ thi Hội chọn sĩ nhân trong cả nước để lấy tiến sĩ bổ sung vào bộ máy quan lại của triều đình. Ngoài ra nhà nước còn mở ra các kỳ thi đặc biệt, bất thường với nhiều nguyên do khác nhau.như: Năm Thiệu Bình thứ 4 (1437), Lê Thánh Tông cho thi viết, làm tính, lấy đỗ 690 người, bổ làm thuộc Lại các nha môn trong ngoài. Năm 1449, vua Lê Nhân Tông định lệ kỳ thi Lại điển chọn người vào làm việc trong các cục ở kinh thành. Năm 1467, vua Lê Thánh Tông mở khoa thi Nho thần, triệu tập 30 viên quan đã đỗ tiến sĩ về thi để kiểm tra xem học nghiệp của từng người có tiến bộ hay không và căn cứ vào kết quả ấy mà thăng quan hay giáng chức. Cuối năm 1467, vua Lê Thánh Tông mở khoa thi Hoành từ cho viên quan từ tứ phẩm trở xuống dự thi để kén chọn người trúng tuyển cho vào học tại Bí thư giám. Những kỳ thi này có tính chất khảo hạch lại trình độ Nho học của các quan lại để định việc thăng trưởng và qua đó mà khuyến khích sự học của
- 38 tầng lớp sĩ phu. Những kỳ thi này không có thời hạn nhất định, chỉ khi nào cần thì triều đình mới mở khoa thi. Như vậy, khoa cử ở thời Lê Thánh Tông là thịnh đạt nhất. Trong vòng 100 năm, nhà Lê đã tổ chức 31 lần thi với số người đỗ là 1007 người, thì riêng thời Lê Thánh Tông đã có 12 khoa thi Hội với 501 người đỗ Tiến sĩ, trong đó có 10 người đỗ Trạng Nguyên. Nếu so sánh con số ấy với tổng số 2898 người đỗ Thái học sinh và Tiến sĩ từ thời Lý đến thời Nguyễn trong đó có 30 người đỗ Trạng nguyên, thì chúng ta thấy rằng chỉ trong vòng 37 năm dưới triều Lê Thánh Tông, tổng số Tiến sĩ đã chiếm khoảng 17%, trong đó số Trạng nguyên chiếm đến 30% tổng số Tiến sĩ và Trạng nguyên trong lịch sử khoa cử nước ta. Ở thời Lê Thánh Tông, số lượng người đỗ gần bằng một nửa (501 người) so với cả triều Lê (1428-1527). Đó là những con số có ý nghĩa lớn lao trong nền giáo dục của chế độ phong kiến, nói lên một thời đại thịnh trị của Nho giáo, của nền giáo dục và thi cử Nho học trong triều Lê . Trong phần Khoa mục chí (sách Lịch triều hiến chương loại chí), Phan Huy Chú nhận xét như sau: “Khoa cử các đời, thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau càng không thể theo kịp” [15,18]. Giáo dục phát triển lại góp phần chủ yếu vào việc đưa tình hình kinh tế - xã hội ở triều đại này ổn định, phát triển và thịnh đạt. Như vậy, với quy chế thi cử nghiêm minh, chế độ giáo dục thời Lê đã đào tạo ra hàng loạt quan lại trong bộ máy phong kiến quan liêu đồng thời cũng sản sinh ra nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà sử học lỗi lạc cho dân tộc. Thứ ba, nền giáo dục khoa cử thời Lê chứa đựng những giá trị tích cực và những hạn chế. Thời Lê cũng chú trọng tới mặt học quan (trình độ và thực lực Nho học của qiuan lại) không chỉ của đội ngũ quan lại mà cả đội ngũ dạy học. Với phương châm là “dạy người không biết mỏi”, người thầy thời nhà Lê rất
- 39 gương mẫu trong việc thực hiện quy chế giáo dục. họ luôn có trách nhiệm dạy cho học trò thói quen “học không biết chán” và cổ vũ ý chí học tập để trở thành nhân tài đất nước. Nho giáo thời nhà Lê đã góp phần to lớn và hiệu quả vào việc tạo ra một đội ngũ dạy học hội tụ đầy đủ các phẩm chất: đạo đức, uyên thâm Nho học, tận tâm với sự nghiệp trồng người cho đất nước. Việc thường xuyên kiểm tra lại trình độ của người dạy để nâng cao chất lượng dạy học ở triều Lê là những điểm tiến bộ mà chúng ta cần phải tiếp thu, kế thừa và phát huy hơn nữa trong việc phát triển nền giáo dục của nước ta hiện nay. Quá trình giáo dục Nho học, ở các khâu dạy, học và thi cử được nhà Lê đề cao phương pháp “học kết hợp với hành” - một phương pháp đào tạo đòi hỏi người học, người thi không chỉ biết tiếp nhận đầy đủ và nắm vững những tri thức Nho học mà còn phải có năng lực vận dụng những kiến thức đã học vào trong hoạt động thực tiễn, vào xã hội để cứu đời, giúp nước đúng như yêu cầu đã ghi trong sách Đại học: “cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, phương pháp để đi tới mục đích này thể hiện tập trung và rõ nhất trong nội dung và yêu cầu của đề thi văn sách. Dưới triều Lê Thánh Tông, nhà vua thường ra đề thi về đạo trị nước, về thời cuộc yêu cầu thí sinh phải đem những điều đã được học để phân tích và luận giải các vấn đề chính trị thực tiễn. Ngoài ra, triều Lê còn coi trọng và đề cao phương pháp “học đi đôi với hành” nhằm đào tạo đội ngũ quan lại không chỉ có đạo đức và thực lực Nho học, phải biết và phải có năng lực thực hành trong công việc giúp vua trị quốc, an dân. Những phương pháp dạy, học trên đã phần nào truyền tải được nội dung giáo dục chủ yếu và hướng dẫn cho người học biết cách vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống, góp phần không nhỏ vào việc củng cố và phát triển ngày càng vững chắc vị thế của chế độ phong kiến thời Lê. Như vậy, nền giáo dục - khoa cử thời Lê chứa đựng những giá trị tích cực
- 40 và những hạn chế. Hạn chế chủ yếu của nền giáo dục, khoa bảng của triều Lê là chỉ phát huy được trong một chừng mực nhất định, bởi nó chỉ tập trung ở đô thị, hướng vào đào tạo con quan, nhà giàu là chủ yếu. Trong nền giáo dục phong kiến đó, luôn luôn có sự phân biệt đẳng cấp, cấm phụ nữ và con cháu những người làm nghề cầm ca được tham gia; nội dung đào tạo chủ yếu nhằm vào thi, thư, Bắc sử, chú trọng nhiều đến dạy đạo lý mà chưa quan tâm đúng mức đến truyền đạt kiến thức khoa học; lối học cử nghiêp, gò bó, phương pháp tầm chương trích cú phù phiếm, với nội dung vay mượn xa rời thực tế, khó có thể phát triển trí tuệ sáng tạo cần cho nền văn hóa dân tộc.Mặt khác, xét ở một góc độ nào đó, ở thời Lê nói riêng, đã diễn ra theo một đơn tuyển, gộp nhiều chức năng và nhân cách vào một con người. Chức quan thời phong kiến ở Việt Nam vừa là nhà tri thức độc lập, vừa là một nhà chính trị, bầy tôi bị lệ thuộc vào nhà vua và triều đình, vừa là người quản lý (cai trị dân chúng) vừa là người điều hành chuyên môn. Chính một con người đa nhân cách đa chức năng đó đã dẫn đến sư thiếu năng động, hoặc tự ly khai của người quan chức trong những giai đoạn lịch sử không còn thịnh thị về sau này. Cũng chính vì những lý do đó mà chế độ đào tạo và tuyển dụng quan chức của nhà nước thời Lê đã làm hạn chế năng lực điều hành công việc quản lý nhà nước của bộ máy chính quyền. Vai trò của giáo dục nho giáo thời Lê Nhận thức và quán triệt chủ trương: “muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học, phép chọn người có học thì thi cử là đầu” [15,13] dưới triều Lê đặc biệt thời Lê Thánh Tông quan tâm tới vấn đề vai trò của giáo dục trong đó có khoa cử. Chế độ khoa cử nhà Lê đã đạt mức độ thịnh đạt nhất và phương cách đào tạo, tuyển chọn quan lại hòan thiện nhất trong lịch sử giáo dục phong kiến Việt Nam. Đối tượng đi học, đi thi thời kì này được mở rộng đến tầng lớp bình dân.
- 41 Căn cứ theo tiêu chuẩn cho những người đi học, đi thi của triều Lê thì họ phải là những người có đạo đức. Những người tài năng, uyên thâm Nho học đỗ đạt đều có thể tiến thân bằng con đường khoa cử. Hiểu được vai trò quan trọng của giáo dục Nho học đối với việc tổ chức, quản lý xã hội theo triết lý Nho giáo. Lê Thái Tổ đã “hạ chiếu cho trong nước dựng nhà học, dạy dỗ nhân tài, trong kinh có Quốc Tử Giám, bên ngoài có nhà học các phủ lộ” [82,29], việc giáo dục được triển khai thực hiện từ trong gia đình, làng xã cho đến các phủ lộ, châu và ở kinh đô. Nhà nước khuyến khích việc giáo dục trong gia đình. Trong thời kì này nhiều gia đình có đông người đỗ đạt với các thế hệ khác nhau, tiêu biểu như gia đình Thân Nhân Trung có bốn cha con ông cháu đỗ đồng triều. Trường học ở kinh đô, châu, phủ, lộ là do nhà nước quản lý. Ở kinh đô ngoài trường Quốc Tử Giám ra còn nhiều trường học khác, như: Ngự Tiền Cận Thi Cục, Chiêu Văn Quán, Tú Lâm Cục, Trung Như Giám, Sùng Văn Quán. Ngoài ra còn có các lớp học tư thục ở những địa phương do những thây đồ lỡ vận, những viên quan lại hưu trí mở ra để thu nạp rộng rãi học sinh ở nhiều thành phần khác nhau. Hệ thống trường lớp Nho học không phải do Nhà nước tổ chức và quản lý mà nhân dân còn tích cực kết hợp với Nhà nước hoặc tự chủ động tham gia tổ chức quản lý. Tình hình này không chỉ được tiếp tục mà còn được mở rộng phát triển hơn nữa dưới triều đại Lê Thánh Tông. Về phương diện chính trị, nền giáo dục Nho giáo đã có vai trò lớn trong việc tạo lập một bộ máy nhà nước qui củ với hệ thống quan lại có đạo đức và có năng lực Trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú đã nhận xét về điều này như sau: “Bản triều ở đời Hồng Đức, phép dạy, phép thi cũng chỉ có kinh nghĩa, lấy nghĩa tùy ý đặt lời ,nếu không phải là người học rộng hiểu sâu thì không làm nổi; tứ lục dùng cả cổ sử và công việc bản triều; thơ phú thì hoặc theo lối Ly Tao, hoặc theo lối văn tuyển không cứ thể Cách ngũ ngôn
- 42 hay thất ngôn, lối bát vận của Lý Bạch hay lối liên châu, có khi dùng sử truyện và sách ngoài, cùng tả cảnh, nếu không xem rộng chư tử và các sử và không có văn nghệ dồi dào, cũng không làm được. Những người có học đều phải nghĩ làm sao cho đủ quyển thành bài, còn có sức đâu mà làm hộ người khác. Kẻ dốt chỉ lo không làm đủ quyển nên không dám vào thi. Vì thế không có cái tệ mua văn bán văn nữa. Người thi đỗ rồi còn phải đọc sách, đợi bất kỳ phải thi lại, như Dương Như Châu vì học nghiệp không tiến, bị truất làm tự thừa, Nguyễn Quý Nhã vì ứng chế làm thơ lạc vần, phải ra làm tri huyện. Xem thế thì biết các quan chấm lường không quáng mắt nhận lầm, cho nên thi cử bấy giờ được nhiều người giỏi, đến nay vẫn còn khen ngợi” [15,33-34]. Ngoài ra, nền giáo dục triều Lê còn có vai trò Nho giáo hóa mọi mặt đời sống xã hội và con người, bên cạnh nội dung trong sách kinh điển Nho học, người đi học còn được học các sách Nhập môn: Tam tự kinh, Minh tâm bảo giám, Minh đạo gia huấn, Ấu học ngũ ngôn, Sơ học vấn tân. Đó là sách dùng cho trẻ nhỏ và người mới đi học, mà nội dung của chúng là những tri thức có tính bản lề của Nho giáo, qua đó bước đầu hình thành đạo làm người, cách cư xử có đạo đức theo tinh thần của Nho giáo trong các mối quan hệ của con người Sau khi trình độ đã khá hơn thì mới học đến Tứ Thư, Ngũ Kinh. Tất nhiên trong hai loại sách này, các vua thời Lê đặc biệt đề cao loại sách kinh điển của Nho giáo. Trong bài dụ khuyến học, Lê Thánh Tông nói rằng: “kinh là một thứ chép đạo lý, phải đúng sức mà giảng giải tìm. Sử là kho sách ghi chép việc làm, phải hết lòng mà uy xét. Khảo phép tắc của thánh hiền đã dựng nên để tìm cái lẽ đương nhiên của sự lý vật. Chính lời nói không cần gì bằng Kinh Thi, Kinh Thư, Thi Thư chăm tất được” [52,194]. Vai trò của giáo dục Nho giáo thời Lê còn thể hiện ở việc đề cao giáo dục đạo đức con người, đặt đức lên trên tài, “tài thì kém đức một vài phân” [52,106], nên nội dung dạy học ở thời kì này không những là những tri thức
- 43 về đạo đức, mà còn là phương pháp tu dưỡng và thi hành đạo đức, cùng những cách ứng xử trong các quan hệ xã hội của con người và đặc biệt là những tri thức cùng những kinh nghiệm, những bài học cần thiết cho nhà vua, người cầm quyền để vận dụng trong việc trị nước, an dân theo đường lối “đức trị”, “nhân trị” mà tất cả đều được trình bày rõ trong các sách như Tứ thư, Ngũ kinh, các sách kinh điển của Nho giáo. Việc học ở Quốc Tử Giám dưới triều đại Lê, đặc biệt dưới triều Lê Thánh Tông nhà vua đã đưa ra nhiều quy định có tính chất bắt buộc đòi hỏi giám sinh phải biết cách vận dụng những tri thức sách vở có trong Tứ thư, Ngũ kinh - những kiến thức Nho học vào việc quản lý xã hội thông qua việc bày tỏ kế trị nước trong bài làm của mỗi người. Có nghĩa là chịu ảnh hưởng của nội dung giáo dục của Nho giáo và xuất phát từ mục đích giáo dục ở thời kỳ này, thể hiện trong nội dung giáo dục là đòi hỏi người đi học phải biết đem những kiến thức đã được học áp dụng vào cuộc sống và biết vận dụng nó vào việc giúp vua trị nước tức là vào việc “tu, tề, trị, bình”. Mặc dù, vua tôi nhà Lê sùng nho, trọng đạo nhưng nền giáo dục khoa cử thời kỳ này được xem là chín muồi về nội dung và hình thức. Cũng như sự nghiệp giáo dục của bất kỳ quốc gia nào thời đó, giáo dục, thi cử nước ta tập trung thực hiện mục tiêu dạy làm người và truyền bá đạo làm người mà cái đạo đó nhất định phải hướng tới xây dựng những chuẩn mực đạo đức vừa mang tính chất riêng của con người gia đình, vừa mang tính chất con người xã hội phù hợp với những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam và phù hợp với những giá trị văn hóa thời đại. Chính vì lẽ đó mà một số nội dung tích cực của đạo nho đã được các ông vua thời Lê tiếp thu triệt để nhưng theo một nhân sinh quan và một hệ quy chiếu hoàn toàn khác, đó là: Lấy con người Việt Nam và tổ quốc Việt Nam là trung tâm, lấy dân tộc Việt Nam làm gốc. Thông qua việc dạy con người học trong sách vở, học qua sự trao truyền giữa các thế
- 44 hệ, học ở đời kết hợp với việc học qua thầy, qua bạn mà nền giáo dục khoa cử thời Lê sơ đã hướng con người đến chữ nhân, đưa con người về chữ hiếu, dẫn con người đến chữ trung, khuyên con người về chữ nghĩa, đó là những giá trị hằng xuyên và bất biến của bất kỳ xã hội nào. Chẳng những thế, nền giáo dục đó đã dạy và rèn luyện con người sống một cách hướng thiện, chính trực, thẳng thắn, công minh, thanh cao, trong sạch dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Các vua nhà Lê là người đứng đầu và trực tiếp chỉ đạo công tác giáo dục, khoa cử. Triều đình coi việc giáo dục, mở khoa thi kén kẻ sĩ là việc làm đầu tiên trong phép trị nước, là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của nhà nước phong kiến, gắn với sự hưng vong của triều đại, đồng thời là lĩnh vực trọng yếu để giữ vững cơ đồ, mở mang giáo hóa, sắp xếp chính sự, gìn giữ kỷ cương, xây dựng, củng cố nền tảng chính trị của chế độ, do đó phải được thực hiện nghiêm chỉnh, công khai, nghiêm ngặt, thường xuyên, nhằm lựa chọn được những người tài đức xứng đáng. Bên cạnh đó, nền giáo dục, khoa cử đó đã có vai trò khẳng định, bảo vệ củng cố, ca ngợi và duy trì chủ nghĩa tôn quân phong kiến, chứng minh cho sự trường tồn của chế độ phong kiến là hợp quy luật, làm cho hệ tư tưởng phong kiến và những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc cùng những tinh hoa của văn hóa nhân loại chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần; củng cố, tăng cường sự thống nhất về tư tưởng, tạo ra sự đoàn kết toàn dân, giữ vững và mở rộng sự ảnh hưởng của chế độ phong kiến Việt Nam, đào tạo được một tầng lớp quan lại từ trung ương đến địa phương có đủ năng lực, đạo đức, bản lĩnh để trị quốc. Giáo dục thời Lê luôn luôn gắn liền với việc thi cử để chọn lựa nhân tài và mở nền nhân văn, khai hóa thiên hạ. Triều đình hết lòng chuộng kẻ sĩ và tin dùng kẻ sĩ, giao cho họ nhiều trọng trách lớn lao để họ thỏa chí trung thành cống hiến cho đất nước. Có thể nói rằng, nền giáo dục, khoa cử thời Lê đã có vai trò quan
- 45 trọng trong việc phát triển đất nước, tổ chức xã hội, đào tạo đội ngũ quan lại – trí thức Nho giáo có đạo đức, năng lực và trung thành với chế độ phong kiến và những nhân tài (Nguyễn Trãi, Đào Công Soạn, Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Trực, Lương Thế Vinh, Thân Nhân Trung, Quách Đình Bảo, Đỗ Nhuận, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên ), góp phần làm rạng rỡ lịch sử và văn hóa Việt Nam. Chính họ là những người trao truyền, giữ gìn và phát triển những giá trị văn hóa tinh thần của cha ông để lại và biến chúng trở thành bất tử. Những tiến sĩ ấy là sản phẩm của một thời thịnh trị và phát triển đến đỉnh cao của nền văn hóa, giáo dục dân tộc.
- 46 Chương 2 MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA GIÁO DỤC NHO GIÁO TRIỀU NGUYỄN 2.1. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG CỦA GIÁO DỤC NHO GIÁO TRIỀU NGUYỄN 2.1.1. Mục đích giáo dục Nho giáo triều Nguyễn Xét về mặt thế giới quan, Nho giáo truyền thống rất chú trọng đến sự hợp nhất giữa trời và người. Từ Khổng, Mạnh, Trình, Chu cho đến Lục, Vương đều cho rằng “thiên nhân cảm ứng”, “thiên nhân tương dữ” tức thiên đạo và nhân đạo là liên thông, cảm ứng và hợp nhất. Mệnh đề mà Nho gia thường nhắc nhở là: “hiểu được đạo người tức là hiểu đạo trời”. Nếu như Khổng tử bàn rằng: “Chưa thể thờ người, làm sao có thể thờ quỉ, chưa biết sự sống làm sao biết được sự chết”, thì Mạnh tử nói: “hiểu thấu hết cái tâm con người thì biết được cái tính của nó. Hiểu được cái tính của nó thì hiểu được trời”. Vì vậy mà trong nền giáo dục Nho giáo, triết lý nhân sinh luôn là hạt nhân để từ “nhân tính” mà suy ra “thiên lý”, từ đạo làm người để đi tới đạo trời. Nếu hiểu triết lý giáo dục là lý luận triết học về giáo dục và là định hướng mang tính bản chất chung nhất của một nền giáo dục thì triết lý giáo dục Nho giáo là “đạo là người”. Tuy mỗi thời kỳ, mỗi giai đọan vận động lịch sử khác nhau mà cách hiểu triết lý giáo dục Nho giáo có nội dung khác nhau, song triết lý đạo làm người thể hiện bằng mẫu người quân tử vời các phẩm tính, chuẩn mực cơ bản là bất biến. Trên phương diện lý tưởng, đạo làm người của người Quân tử được thể hiện cụ thể ở 3 phẩm tính: Nhân, Trí, Dũng. Thứ nhất là Nhân, theo nghĩa rộng, có thể hiểu Nhân là con người được giáo dục, có văn hóa, Khổng tử xem đó là quá trình “người hóa con người”. Đây là phẩm tính quan trọng hàng đầu, mà theo kẻ sĩ đó là Đức hạnh - cái gốc lập thân của Chính sự, văn chương và ngôn ngữ
- 47 Phẩm tính thứ hai là “Trí” đó là năng lực trí tuệ của người Quân tử đạt đến “cách vật cùng lý” mà Khổng tử cho rằng đó là tri thức về bản thân con người để yêu mến và thờ phụng con người với lý tưởng “nội thánh, ngoại vương”, như vậy mục đích của trí là “Nội thánh” - cái lý tưởng, chân thực bên trong. Phẩm tính thứ 3 là “Dũng”, đó là bản lĩnh sống của người Quân tử, phẩm tính này đòi hỏi phải được nằm lòng và thể hiện trong đời sống hành động và giao tiếp, ứng xử của người Quân tử, được tóm gọn ở 6 điều sau: Sợ Mệnh trời; sợ lời của Bậc Thánh nhân; sợ chính mình; nghèo mà không hèn; giàu sang mà không đắm đuối, cuồng mê; bạo lực không thể khuất phục. Trong lịch sử giáo dục Nho giáo Việt Nam, tiết lý này đã được thấm nhuần, thực hiện một cách tích cực, từ triều lý, trần đến thời Nhà Lê, tuy mỗi thời có những đặc điểm khác nhau, như Nguyễn Trãi khẳng định: “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có”. ( trích: Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi ) Nền giáo dục Nho giáo thời ấy đã sản sinh những hiền nhân quân tử. Nhà trí thức Chu Văn An đầu thế kỷ XIV sáng chói: “Hạo khí dĩ bằng thiên địa bạch, Cao phong do đối thủy sơn trường” (trời đất soi chung vầng hào khí, nước non còn mãi nếp cao phong), mà trong kiến văn tiểu lục, Lê Qúi Đôn tôn vinh ông là: “bậc thanh cao nhất”. Nếu như Nguyễn Trãi được xem “như sao khuê vằng vặc sáng, như con chim Hồng hạc bay giữa trời xanh, thì Cao Bá Quát con người: “nhất sinh đê thủ bàn hoa mai” (suốt cuộc đời chỉ biết cúi đầu trước hoa Mai mà thôi). Đến triều Nguyễn, triết lý giáo dục đó vẫn được tuân thủ theo hướng ngày càng nghiêm ngặt hơn và cụ thể hơn với sự sùng bái, độc diễn Nho học một cách thái quá triết lý “đạo làm người” bị chuyển thành “đạo làm quan” và mẫu người quân tử thời Nguyễn nhấn mạnh đến khả
- 48 năng: “trị quốc, bình thiên hạ” với chuẩn mực nhất thành bất biến: “Tam cương, ngũ thường”. Mục đích giáo dục Nho giáo triều Nguyễn là đào tạo ra những người quân tử, đức tài toàn diện, phò nước, giúp đời”, vì vậy nhiệm vụ là đào tạo nên những con người “nhân, nghĩa, trung, chính”. Triều Nguyễn coi giáo dục là công cụ để đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đồng thời dùng “tam cương, ngũ thường” làm công cụ để truyền bá “đạo làm người trong nhân dân. Bởi lẽ, “người quân tử là cội gốc để tiến lên trị bình, kẻ tiểu nhân là thềm bậc để đi đến họa loạn”, “Người quân tử học là vì mình, không phải học để làm quan. Vì mình, cho nên học suốt đời. Kẻ học để làm quan thì chỉ học khi chưa được làm quan, đến khi được làm quan thì thôi không học nữa” [81,116] và “Sức kiến thức có hạn và sự lý thì vô cùng. Học giả không quý biết hết, chỉ quý biết cho đến nơi đến chốn; không cần nhớ hết, chỉ cốt nhớ cho tinh tường” [81,116]. Các vua triều Nguyễn chú trọng đến việc học hành thi cử Nho học, trước mắt và lâu dài là để đào tạo, tuyển chọn và bổ sung cho bộ máy phong kiến quan liêu, chuyên chế to lớn vừa được xây dựng trên phạm vi cả nước: “ dùng khoa mục để kén lấy kẻ sĩ, vẫn là đường chính”[94, 117] và “đặt ra khoa thi để lấy nhân tài, vốn muốn được nhiều nhân tài để cho nhà nước dùng” [90, 384]. Vua Minh Mạng nhận rõ vai trò trọng yếu của văn hoá, giáo dục, tư tưởng trong công việc củng cố chính quyền: “muốn có nhân tài trước phải giáo hoá. Nay ở kinh sư số học giả còn ít bởi phép dạy chưa đầy đủ. Trẫm muốn dựng nhà Quốc học và quán Sùng văn để tỏ bày giáo hoá, khiến cho học giả bốn phương nhóm họp ở kinh sư, ai học tiến ích thì ưu cấp lương lẫm, học lâu không tiến thì trách phạt, như thế học trò biết sự khuyên răn, mà nhân tài ngày thêm thịnh vượng” [91, 933]. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy mục đích giáo dục triều Nguyễn là đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo
- 49 tầng lớp nho sĩ để “làm quan” nhằm thực hiện có hiệu quả nhiều chủ trương, nhiều hoạt động của Nhà nước phong kiến nói chung. Vua Gia Long, Minh Mệnh đã tích cực khôi phục, phát triển nền giáo dục Nho học nhằm chấn hưng văn hóa, mở mang việc học và tuyển chọn quan lại có thực lực Nho học. Năm 1803, vua Gia Long cho đặt trường Quốc tử giám ở kinh đô, năm 1807, Gia Long mở khoa thi Hương đầu tiên; năm 1822, vua Minh Mạng mở khoa thi Hội và thi Đình đầu tiên. Vua Thiệu Trị và vua Tự Đức cũng đều đặn mở các khoa thi để lấy nhân tài, khảo quan, mở các ân khoa Vua Minh Mạng nghị mở Ân khoa, dụ rằng: “Làm cho đời được thịnh trị, đào tạo lấy nhân tài là thịnh điển của nước nhà. Trẫm lưu tâm chuộng việc văn học, đặt khoa thi lấy người có học thức, đã ấn định lệ cứ 3 năm một lần thi, làm phép nhất định. Sang năm gặp tiết thọ ngũ tuần của trẫm, đáng nên làm điển lễ vui mừng, thi ân cho bọn học trò Vậy bộ Lễ truyền bảo cho học trò các hạt biết để chúng tự rèn dũa trước, để đáp lại cái ý tốt của ta sùng thượng văn học” [95,500- 501]. Nhằm phục vụ mục đích đó, nhiều sách giáo khoa mang nội dung giáo dục đạo đức cho học trò được biên soạn. Học trò ngay từ buổi đến học thầy đã phải học các giáo lý đó và suốt cuộc đời đi học cả khi đã ra trường, thành đạt vẫn phải tu luyện, rèn dũa để sống theo các nguyên tắc của đạo đức ấy. Chính mục đích ấy đã tạo ra tâm lý coi trọng việc đi học để làm chính sự và tạo nên tư tưởng là chỉ có làm quan mới là cao quý, còn các nghề khác là thấp kém, quan niệm “một người làm quan cả họ được nhờ” đã tạo ra những con người chỉ lo cầu lợi cho bản thân và gia đình, làm lu mờ nghĩa vụ phục vụ dân, làm lợi cho dân. Biểu hiện cụ thể của nhà Nguyễn là dựa vào Nho giáo để chỉ đạo hoạt động của lĩnh vực giáo dục, lấy học thuyết Hán nho và Tống nho làm nội dung giảng dạy, học tập, thi cử và đào tạo, tuyển dụng quan lại, nhân tài. Tất cả cũng nhằm biến Nho giáo trở thành công cụ thống trị về tinh thần, làm cơ
- 50 sở lý luận, nền tảng về luân lý đạo đức để củng cố kỷ cương và trật tự cơ cấu giai cấp xã hội phù hợp với yêu cầu, lợi ích của nhà vua, của giai cấp phong kiến thống trị; phát triển cao độ chế độ phong kiến tập quyền quân chủ, chuyên chế. Ngoài ra, giáo dục triều Nguyễn bắt chước chế độ phong kiến Trung Quốc như giáo dục, thi cử, tuyển dụng, tổ chức triều đình, bắt chước sự đánh giá con người, đánh giá văn hóa tư tưởng, bất kể thực tế đất nước. Tư tưởng thoát ly thực tế, tư tưởng bắt chước của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã là bức tường chặn lối của người có tài. Có thể thấy, sự học ở triều Nguyễn đã quá coi trọng hư văn, tách rời giữa danh và thực. Tóm lại, mục đích của giáo dục Nho giáo thời Nguyễn, trên văn bản vẫn là đào tạo ra những hiền tài cho đất nước, song trên thực tế là: “Đào tạo ra người làm quan, trung thành phục vụ cho nhà Vua”. 2.1.2. Đối tượng giáo dục Về mặt lý thuyết, đối tượng giáo dục dưới triều Nguyễn là “hữu giáo vô loại” (bất luận người nào cũng dạy) [51,268] theo đúng tinh thần của Nho giáo. Song trên thực tế không phải người nào cũng được đi học, đi thi mà chỉ là con em tầng lớp thống trị là chủ yếu. So với các triều đại trước, đối tượng giáo dục dưới triều Nguyễn có sự thay đổi với mức độ khác nhau cho phù hợp với triều đại song về cơ bản đều dựa trên nền tảng tư tưởng Nho gia. Cụ thể, thời Lý, đối tượng giáo dục vẫn là con em tầng lớp thống trị, do đó Quốc Tử Giám chỉ là nơi dành cho Hoàng thái tử; đến thời Trần có thêm con em Hoàng tộc và con em các quan đại thần được theo học; đến thời Lê Sơ và nhất là dưới triều đại Lê Thánh Tông, đối tượng học ở đây được mở rộng và được quy định chặt chẽ: “Quan võ từ chức Quản lĩnh, quan văn từ chức Hành khiển trở lên, ai có con cái từ 5 tuổi trở xuống, 9 tuổi trở lên được cho vào hầu Hoàng thái tử. Ngày 15 tháng này tới học đường để điểm mục, quan Nội mật viện lấy danh sách. Quan văn từ đồng trị trở xuống đến đại đội trưởng, đội
- 51 trưởng trở lên; quan văn từ Thượng thư xuống đến thất phẩm, ai có con trai từ 17 trở xuống, 9 tuổi trở lên tới nhà quốc học để học quan lấy danh sách dạy học”. Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, cũng vào năm này, vua Lê Thái Tổ “hạ chiếu cho quân dân các lộ và những người ẩn dật ở rừng núi, cùng các quan từ tứ phẩm trở xuống, ai tinh thông kinh sử, thì đến cả sảnh đường để thi. Năm ấy thi khoa Minh Kinh”[15,13]. Đối với thi Hương, thời nhà Trần chưa có quy định về tiêu chuẩn dự thi, ai tự thấy có năng lực có thể xin dự thi. Đến đời Lê từ khoa thi Hương đầu tiên có lẽ nhiều nhất cũng chỉ hạn chế ở mức con em nhà lương thiện. Tiêu chuẩn dự thi này được áp dụng trong đời Lê, đời Mạc, đời Lê Trung Hưng. Tiêu chuẩn đối với người dự thi dưới triều Nguyễn được quy định như các triều đại trước nhưng có bổ sung thêm, chi tiết hóa thêm phần lý lịch và đạo đức: phải là con nhà lương thiện, những nhà phường chèo con hát và những kẻ phản nghịch, ngụy quan có tiếng xấu thì bản thân và con cháu không được dự thi. Thí sinh phải nộp giấy “thông thân cước sắc” tức lý lịch khai rõ phủ huyện xã, tuổi tác cùng là chuyên học kinh nào, lý lịch ông cha ra sao, không được gian dối giả mạo. Người đi thi phải có đạo đức và được chứng nhận: “Cho quan bản quản cùng bản xã bảo kết người nào thực có đức hạnh thì mới được khai vào sổ ứng thí. Những người bất hiếu, bất mục, loạn luân, điêu toa dẫu có học vấn văn chương, cũng không được vào dự thi”[15,14]. Rất nhiều sĩ tử có tài nhưng thi hỏng vì không tuân theo đúng thể lệ ngặt nghèo của trường thi nhất là “lệ phạm húy”, có nghĩa là thí sinh không được dùng tên các vua, tên các chúa Nguyễn và tên khác của Hoàng gia. Đây cũng là một điểm hạn chế khiến cho việc giáo dục và thi cử dưới triều Nguyễn thời Pháp thuộc mỗi ngày một suy đồi. Đối với thi Hội, đối tượng dự thi dưới triều Nguyễn được quy định: những người đã thi đỗ Cử nhân dù vào nhà Giám học được liệt vào loại giám
- 52 sinh, hay được cử làm hành tẩu ở 6 Bộ, ở các trấn, tỉnh để học việc hay xin ở nhà tự học, học tư đều được dự thi. Những giám sinh xuất thân là ấm sinh, tôn sinh đã qua kiểm tra xác nhận trình độ đủ năng lực dự thi Hội, lập danh sách báo cao lên Bộ lễ và triều đình xin được dự thi. Những giám sinh vốn là cống sinh của các phủ huyện chưa qua kiểm tra hoặc chưa đỗ thi Hương được cử về học ở Quốc tử giám, nay đã qua kiểm tra và Quốc tử giám xác nhận đủ trình độ thi, lập danh sách báo cáo lên xin thi. Một điểm khác biệt về đối tượng dự thi ở thi Hội dưới triều Nguyễn so với các triều đại trước đó là đối với quan lại, nói chung nhà Nguyễn không cho các quan đi thi vì sợ rằng như thế họ chú ý học hành để đi thi mà không chăm lo công việc đang làm. Đối với thi Đình, đối tượng dự thi nhỏ bé ít ỏi hơn thi Hội và thi Hương rất nhiều, nó chỉ bao gồm những người trúng cách thi Hội và một số rất ít phép thi thêm mà chỉ riêng triều Nguyễn đời Tự Đức mới có. Điều kiện được đi thi dưới triều Nguyễn đã được quy định trong các chiếu, điều lệ về thi Hương, thi Hội, thi Đình, thậm chí Luật Gia Long cũng có những quy định về thi cử. Nhà nước có các quy định cụ thể, chặt chẽ về tiêu chuẩn của người đi học và đi thi. Theo đó, các thí sinh từ thi Hương ngoài việc thông hiểu kinh, sử, văn chương còn phải khai rõ lý lịch 3 đời, khai man thì dù có thi đỗ cũng bị huỷ kết quả. Những hạng người vi phạm pháp luật, vi phạm các quy phạm, chuẩn mực đạo đức phong kiến như bất hiếu, bất nghĩa, loạn luân đều không được tham gia thi. Ngay cả Hoàng tử, Hoàng tôn cũng phải ra sức học tập tại phủ đệ hoặc ở nhà quốc học: “Sai chọn con em tôn thất từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, cho vào học nhà quốc học” [88,594] và “kén những người học vấn rộng rãi sung việc dạy bảo các hoàng tử, hoàng tôn” [88,656]. Minh Mạng năm thứ 2 dụ rằng “từ xưa các nước nhà lâu dài toàn mở các bậc hiền tài, mà dạy bảo cho thành tài, tất phải nhờ sự học hỏi con cháu