Luận văn Phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên - Đỗ Xuân Luận

pdf 140 trang huongle 1940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên - Đỗ Xuân Luận", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_phat_trien_cac_nghe_tieu_thu_cong_nghiep_o_huyen_ph.pdf

Nội dung text: Luận văn Phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên - Đỗ Xuân Luận

  1. 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ĐỖ XUÂN LUẬN PHÁT TRIỂN CÁC NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ THÁI NGUYÊN, NĂM 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  2. 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ĐỖ XUÂN LUẬN PHÁT TRIỂN CÁC NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 60 - 31 - 10 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ MINH THỌ THÁI NGUYÊN, NĂM 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện nghiên cứu đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Thái Nguyên, ngày 15 tháng 06 năm 2009 Tác giả luận văn Đỗ Xuân Luận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  4. 4 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Minh Thọ, người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi trân trọng cảm ơn Khoa Sau đại học, Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh Thái Nguyên; Các thầy cô giáo trong Bộ môn Kinh tế, Khoa Khuyến nông & Phát triển nông thôn, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên; Cán bộ Trung tâm Hỗ trợ phát triển bền vững Việt Bắc – Đạ i họ c Thá i Nguyên , những người đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Phòng Công thương, Phòng Thố ng kê, các xã và các hộ điều tra ở huyện Phổ Yên đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu và kiểm nghiệm những kết quả nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu. Thái Nguyên, ngày 15 tháng 06 năm 2009 Tác giả luận văn Đỗ Xuân Luận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  5. 5 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa i Lời cam đoan ii Lời cảm ơn iii Mục lục iv Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt viii Danh mụ c cá c bả ng ix Danh mục các biểu đồ, sơ đồ x MỞ ĐẦU 1 1. Sự cần thiết của đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2 4. Đóng góp mới của luận văn 3 5. Bố cục của luận văn 3 CHƢƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4 1.1. Cơ sở lý luận về nghề tiểu thủ công nghiệp 4 1.1.1. Một số khái niệm 4 1.1.2. Vai trò của các nghề TTCN 4 1.1.3. Đặc trưng của nghề thủ công 9 1.1.4. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển của các nghề TTCN 10 1.1.5. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta có liên quan đến phát 15 triển các nghề TTCN 1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển các nghề TTCN 17 1.2.1. Phát triển các nghề TTCN ở một số nước Châu Á 17 1.2.1.1. Nhật Bản 17 1.2.1.2. Ấn Độ 18 1.2.1.3. Thái Lan 20 1.2.1.4. Inđônêxia 21 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  6. 6 1.2.2. Phát triển các nghề TTCN ở Việt Nam 22 1.2.2.1. Nghề gốm sứ 23 1.2.2.2. Nghề đan lát mây tre, chiếu cói 24 1.2.2.3. Nghề đóng gỗ cao cấp, chạm khắc gỗ 24 1.2.2.4. Nghề kim hoàn 25 1.2.2.5. Một số nét về tình hình phát triển các nghề TTCN ở tỉnh Thái Nguyên 29 1.2.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra đối với sự phát triển các nghề TTCN ở 29 Việt Nam nói chung và đối với huyện Phổ Yên nói riêng 1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu 31 1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu 31 1.3.2. Phương pháp nghiên cứu 31 1.3.2.1. Phương pháp thu thập thông tin 31 1.3.2.2. Phương pháp thống kê 32 1.3.2.3. Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA) 32 1.4. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích 33 1.4.1. Những chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất 33 1.4.2. Những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất 34 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGHỀ TTCN Ở HUYỆN 35 PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN 2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 35 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 35 2.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội 39 2.1.3. Tình hình phát triển kinh tế của huyện 42 2.1.4. Đá nh giá về điều kiện tự nhiên , kinh tế - xã hội của huyện Phổ Yên ảnh 45 hưởng đến sự phát triển các nghề TTCN 2.2. Thực trạng phát triển các nghề TTCN ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên 48 2.2.1. Tình hình phát triển chung của các nghề TTCN 48 2.2.2. Thực trạng phát triển một số nghề TTCN 53 2.2.2.1. Nghề mây tre đan 53 2.2.2.2. Nghề chế biến chè khô 63 2.2.2.3. Nghề sản xuất gạch đất nung 73 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  7. 7 2.2.4. Những nhận xét, đánh giá chung về thực trạng phát triển các 85 nghề TTCN ở Phổ Yên 2.2.3.1. Những thành tựu đạt được 85 2.2.3.2. Những tồn tại 86 2.2.3.3. Những nguyên nhân chủ yếu 87 CHƢƠNG III: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ 89 YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÁC NGHỀ TTCN Ở HUYỆN PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN 3.1. Phƣơng hƣớng và mục tiêu phát triển các nghề TTCN ở huyện 89 Phổ Yên trong thời gian tới 3.2. Những giải pháp chủ yếu 91 3.2.1. Những giải pháp chung 91 3.2.1.1. Giải pháp về thị trường 91 3.2.1.2. Giải pháp về vốn 94 3.2.1.3. Giải pháp về đào tạo, nâng cao trình độ cho người lao động 96 3.2.1.4. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng 98 3.2.1.5. Giải pháp về quy hoạch, phát triển nguồn nguyên liệu 100 3.2.1.6. Phát triển các nghề TTCN gắn với bảo vệ môi trường 101 3.2.1.7. Hoàn chỉnh một số chính sách kinh tế của nhà nước trong 103 việc phát triển các nghề TTCN 3.2.2. Những giải pháp riêng cho các nghề TTCN 106 3.2.2.1. Đối với nghề mây tre đan 106 3.2.2.2. Đối với nghề sản xuất gạch nung 107 3.2.2.3. Đối với nghề chế biến chè khô 111 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO 116 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  8. 8 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Diễn giải 1 TTCN Tiểu thủ công nghiệp 2 CN Công nghiệp 3 GTSX Giá trị sản xuất 4 UBND Ủy ban nhân dân 5 CC Cơ cấu 6 GT Giá trị 7 SL Số lượng 8 LĐ Lao động 9 HTX Hợp tác xã 10 Tr. đ Triệu đồng 12 QĐ Quyết định 13 NĐ Nghị định 14 TTg Thủ tướng chính phủ 15 THCS Trung họ c cơ sở 16 THPT Trung họ c phổ thông 17 BTVH Bổ tú c văn hó a Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  9. 9 DANH MỤC CÁC BẢNG Tên bảng Nội dung Trang Bảng 1.1 Cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng thủ công Việt Nam 28 Bảng 2.1 Diện tích và cơ cấu diện tích các loại đất ở huyện Phổ Yên 37 Bảng 2.2 Tình hình dân số và lao động của huyện Phổ Yên năm 2008 39 Bảng 2.3 Giá trị sản xuất và cơ cấu kinh tế huyện Phổ Yên 2004 - 2008 43 Bảng 2.4 Hình thức tổ chức sản xuất và số lao động tham gia ở một số nghề 49 TTCN của huyện Phổ Yên năm 2008 Bảng 2.5 Giá trị sản xuất ngành TTCN phân theo loại hình kinh tế 51 Bảng 2.6 Sản lượng một số sản phẩm TTCN qua các năm 52 Bảng 2.7 Sản lượng và giá trị sản phẩm mây tre đan năm 2008 54 Bảng 2.8 Vốn trong các hộ làm nghề mây tre đan 55 Bảng 2.9 Tình hình lao động trong các hộ làm nghề mây tre đan 57 Bảng 2.10 Tình hình sử dụng nguyên liệu mây tre đan 58 Bảng 2.11 Thị trường tiêu thụ sản phẩm mây tre đan năm 2008 59 Bảng 2.12 Kết quả và hiệu quả sản xuất của các hộ làm nghề mây tre đan năm 2008 60 Bảng 2.13 Phân tích SWOT cho nghề mây tre đan Phổ Yên 62 Bảng 2.14 Hình thức chế biến chè khô theo giai đoạn 64 Bảng 2.15 Chi phí chế biến cho 100 kg chè thành phẩm 68 Bảng 2.16 Hiệu quả kinh tế của hoạt động chế biến chè 70 Bảng 2.17 Phân tích SWOT cho nghề chế biến chè khô 72 Bảng 2.18 Thống kê các mỏ sét nguyên liệu ở Phổ Yên 75 Bảng 2.19 Sản lượng gạch nung trên địa bàn huyện 77 Bảng 2.20 Tình hình vốn bình quân một hộ điều tra 78 Bảng 2.21 Kết quả và hiệu quả sản xuất gạch đất nung 79 Bảng 2.22 Dự báo nhu cầu gạch đất nung Phổ Yên 82 Bảng 2.23 Nhu cầu nguyên, nhiên liệu chính và năng lượng điện 83 Bảng 2.24 Phân tích SWOT cho nghề sản xuất gạch đất nung 85 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  10. 10 DANH MỤ C CÁ C BIỂ U ĐỒ , SƠ ĐỒ Tên biể u đồ , Nộ i dung Trang sơ đồ Biể u đồ 2.1 Tình hình sử dụng đất đai ở Phổ Yên 37 Biể u đồ 2.2 Cơ cấ u lao độ ng là m việ c trong cá c ngà nh kinh tế 40 Biể u đồ 2.3 Cơ cấ u kinh tế huyệ n Phổ Yên năm 2008 43 Biể u đồ 2.4 Cơ cấ u giá trị sả n xuấ t ngà nh TTCN phân theo loạ i hình kinh tế 51 Sơ đồ 2.1 Cây vấ n đề cho nghề mây tre đan ở Phổ Yên 63 Sơ đồ 2.2 Quy trình chế biế n chè khô thủ công 65 Sơ đồ 2.3 Tình hình tiêu thụ chè 69 Sơ đồ 2.4 Cây vấ n đề cho nghề chế biế n chè khô thủ công 73 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  11. 1 MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Từ xa xưa, các nghề tiểu thủ công nghiệp luôn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa tinh thần ở các vùng quê Việt Nam. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp rất có ý nghĩa trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương hỗ trợ và phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước, các ngành nghề, làng nghề tiểu thủ công nghiệp ở nước ta đã và đang được khôi phục và phát triển. Một cuộc điều tra của Bộ công nghiệp cho thấy làng nghề Việt Nam đang sử dụng 1,3 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và 3 – 5 triệu lao động thời vụ đã khẳng định được vị trí quan trọng của làng nghề trong nền kinh tế nói chung. Làng nghề phát triển góp phần giải quyết việc làm cho nông thôn đang có quá nhiều người thất nghiệp; giữ gìn và phát triển văn hóa truyền thống; đặc biệt tạo ra bộ mặt đô thị mới cho nông thôn để nông dân ly nông nhưng không ly hương và làm giàu trên quê hương mình. Ngoài ra, việc phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là các nghề truyền thống còn có một ý nghĩa khác là sử dụng được lao động già cả , khuyết tật , trẻ em mà các khu vực kinh tế khác không nhận [2]. Phổ Yên là huyện trung du của tỉnh Thái Nguyên, có 18 đơn vị hành chính, gồm 15 xã và 3 thị trấn. Diện tích đất tự nhiên toàn huyện là 256,68 km2, dân số 139.961 người, mật độ trung bình 545,27 người/km2. Trong những năm qua, sản xuất nông lâm nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế huyện. Các ngành kinh tế khác trong đó có ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã và đang từng bước được khôi phục và phát triển, những kết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  12. 2 quả đạt được tuy còn khiêm tốn nhưng lại có xu hướng tăng lên cùng với sự phát triển của nền kinh tế [24]. Một số công trình nhằm bảo tồn và phát huy các nghề tiểu thủ công nghiệp, giải quyết việc làm cho lực lượng lao động dư thừa, tăng thu nhập cho khu vực nông thôn chủ yếu còn tập trung vào những vùng có quy mô sản xuất tiểu thủ công nghiệp lớn, việc nghiên cứu hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở những vùng có quy mô sản xuất nhỏ, đặc biệt đối với khu vực trung du miền núi như huyện Phổ Yên chưa thực sự được quan tâm đến. Nhằm góp phần hoàn thiện những vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn về phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện Phổ Yên, xác định những hướng đi phù hợp trong tiến trình phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên” cho Luận văn của mình. 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp. - Phân tích và đánh giá tình hình phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện Phổ Yên từ đó rút ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong phát triển các nghề TTCN. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện trong thời gian tới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các loại hình sản xuất sản phẩm tiêu biểu, sử dụng nhiều lao động, có tiềm năng phát triển như nghề mây tre đan, nghề sản xuất gạch đất nung và nghề chế biến chè khô thủ công. - Phạm vi: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  13. 3 + Về không gian: Tại địa bàn huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, trong đó tập trung vào một số xã như Tiên Phong, Trung Thành, Đắc Sơn, Phúc Tân, Phúc Thuận, Thành Công, Bắc Sơn. + Về thời gian: Số liệu nghiên cứu của đề tài là số liệu thống kê qua 5 năm (từ năm 2004 đến năm 2008) và số liệu điều tra về tình hình phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp năm 2008. 4. Đóng góp mới của luận văn - Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp. - Phân tích và đánh giá được tình hình phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp ở huyện Phổ Yên, chỉ ra những thuận lợi và khó khăn trong phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp của huyện. - Đề xuất được các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp ở huyện Phổ Yên. 5. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu Chương II: Thực trạng phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên Chương III: Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  14. 4 CHƢƠNG I TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP 1.1.1. Một số khái niệm - Nghề thủ công: là những nghề sản xuất ra sản phẩm mà kỹ thuật sản xuất chủ yếu là làm bằng tay. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các nghề thủ công có thể sử dụng máy, hóa chất và các giải pháp kỹ thuật của công nghiệp trong một số công đoạn, phần việc nhất định nhưng phần quyết định chất lượng và hình thức đặc trưng của sản phẩm vẫn làm bằng tay. Nguyên liệu của các nghề thủ công thường lấy trực tiếp từ thiên nhiên; công cụ sản xuất thường là công cụ cầm tay đơn giản [2]. - Thủ công nghiệp: là lĩnh vực sản xuất bao gồm tất cả các nghề thủ công. Cũng có khi gọi là ngành nghề thủ công [2]. - Ngành tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp: là lĩnh vực sản xuất bao gồm các nghề thủ công và các cơ sở công nghiệp nhỏ. Thường các cơ sở công nghiệp nhỏ này có nguồn gốc từ các nghề thủ công phát triển thành [2]. - Làng nghề tiểu thủ công nghiệp: là làng có nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển với một tỷ lệ số hộ và tỷ lệ thu nhập từ nghề TTCN nhất định, trở thành nguồn thu nhập quan trọng không thể thiếu được của người dân trong làng. Nhiều nước trên thế giới lấy tỷ lệ 20% hay 30%, ở Việt Nam đang có xu hướng lấy tỷ lệ 30% hay 50% số hộ dân làm nghề và thu nhập của làng từ nghề thủ công. Tỷ lệ đó được duy trì và ổn định trong nhiều năm [2]. 1.1.2. Vai trò của các nghề tiểu thủ công nghiệp * Phát triển các nghề TTCN là góp phần phát triển công nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  15. 5 Phát triển các nghề TTCN góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo ra sản phẩm phục vụ xã hội và góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Phát triển các nghề TTCN sẽ nâng tỷ trọng của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế ở nông thôn và tăng tốc độ phát triển kinh tế nông thôn. Đồng thời với thúc đẩy phát triển công nghiệp, phát triển các làng nghề sẽ kéo theo phát triển nông nghiệp để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp, thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các nghề dịch vụ Do vậy, phát triển các nghề TTCN sẽ góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn [2]. * Phát triển các nghề TTCN góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân ở nông thôn Phát triển toàn diện kinh tế, xã hội nông thôn, tạo việc làm, nâng cao đời sống cho dân cư nông thôn là vấn đề quan trọng hiện nay ở nước ta. Với diện tích đất canh tác bình quân vào loại thấp và tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở khu vực nông thôn còn chiếm tỷ lệ cao (hiện khoảng 30 - 35% lao động nông thôn). Do vậy vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho lao động nông thôn trở nên hết sức khó khăn, đòi hỏi sự hỗ trợ nhiều mặt và đồng bộ của các ngành nghề và khu vực. Việc mở mang, đầu tư phát triển ngành nghề ở các làng nghề là biện pháp tốt nhất để huy động nguồn lao động này. Bởi vì, sản xuất TTCN chủ yếu thực hiện bằng tay, không đòi hỏi cao về chuyên môn, kỹ thuật như đối với các lĩnh vực sản xuất khác. Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công tuy có quy mô nhỏ, thậm chi chỉ là sản xuất của các hộ gia đình nhưng đã thu hút một số lượng khá lớn lao động nông thôn. Nhiều làng nghề ở nước ta hiện thu hút trên 60% lao động tham gia vào các hoạt động ngành nghề. Sự phát triển của làng nghề không những chỉ thu hút lao động ở gia đình làng xã mình mà còn thu hút được nhiều lao động từ các địa phương khác. Ngoài ra, sự phát Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  16. 6 triển của các làng nghề còn kéo theo nhiều nghề dịch vụ khác phát triển, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Mặt khác, cần chú ý đến ý nghĩa xã hội của những việc làm được tạo ra ở các làng nghề. Sự phát triển của các làng nghề đã có vài trò tích cực trong việc hạn chế di dân tự do. Người dân nông thôn luôn có tâm lý gắn bó với làng quê, do vậy khi đã có việc làm và thu nhập ổn định, mà nguồn thu nhập này lại cao hơn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thì họ sẽ không muốn đi tìm việc nơi khác. Việc phát triển làng nghề theo phương châm “ly nông, bất ly hương” không chỉ có khả năng lớn giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, mà còn có vai trò tích cực trong việc hạn chế dòng di dân tự do từ nông thôn ra thành thị, từ vùng này sang vùng khác ở nước ta hiện nay. Hoạt động sản xuất TTCN của làng nghề không chỉ tạo ra một số lượng lớn lao động mà còn giải quyết việc làm cho những lao động nông nghiệp nhàn rỗi sau vụ sản xuất. Ở nhiều làng nghề, những người nông dân, trong những vụ nông nhàn hoặc ngoài giờ ra đồng lại chính là những người thợ thủ công tài hoa. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất thủ công trong làng nghề còn thu hút được một lực lượng đông đảo người già, trẻ em, người tàn tật tham gia sản xuất ở những công đoạn đơn giản. Theo ước tính của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, những nhóm đối tượng này chiếm đến 30 - 35% lao động đang làm việc trong các làng nghề. Bên cạnh đó, tạo thêm công ăn việc làm sẽ làm tăng thu nhập của người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân. Đây cũng là một trong những chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề quốc kế dân sinh. Thực tế là trong những năm qua, sự phục hồi và phát triển của các làng nghề đã có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Thu nhập của các hộ làm nghề thủ công ở các làng nghề cao hơn từ 2 - 8 lần thu nhập của hộ thuần nông. Ở các làng có nghề, tỷ lệ hộ khá và giàu thường Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  17. 7 rất cao, tỷ lệ hộ nghèo thường rất thấp và hầu như không có hộ đói. Thu nhập từ nghề thủ công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập đã đem lại cho người dân ở các làng nghề một cuộc sống đầy đủ, phong lưu hơn cả về vật chất lẫn tinh thần [2]. * Phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp sẽ góp phần phát triển kinh tế địa phương và xây dựng nông thôn mới Phát triển các nghề TTCN góp phần tăng thu nhập của người dân, đồng thời đã tạo ra nguồn tích luỹ khá lớn và ổn định cho các hộ gia đình cũng như cho ngân sách địa phương. Vì vậy, nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn được huy động từ sự đóng góp của người dân tại các địa phương có làng nghề phát triển cũng khác hẳn so với các địa phương không có nghề. Ở làng nghề, đặc biệt là ở các làng nghề vùng Đồng bằng sông Hồng, gần như 100% đường làng, ngõ xóm đều được bê tông hoá hoặc lát gạch hoặc chạt xỉ vôi. Các địa phương này đều có trường mầm non, tiểu học, phổ thông cơ sở khang trang. Hệ thống điện nước được cải tạo và nâng cấp. Đời sống văn hoá tinh thần của người dân được cải thiện và từng bước được nâng cao. Sức mua của người dân có xu hướng tăng, góp phần tạo điều kiện cho thị trường hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ phát triển. Thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn và góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá [2]. * Hoạt động sản xuất kinh doanh của các nghề TTCN góp phần làm tăng giá trị tổng sản phẩm hàng hóa cho nền kinh tế Phát triển nghề TTCN có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển kinh tế, xã hội nông thôn. Với quy mô nhỏ bé, được phân bổ rộng khắp ở các vùng nông thôn, hàng năm các làng nghề luôn sản xuất ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá khá lớn phục vụ cho tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân nói chung và cho từng địa phương nói riêng. Năng lực sản xuất, kinh doanh của các làng nghề là yếu tố quan trọng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  18. 8 thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Thực tế cho thấy ở địa phương nào có nhiều làng nghề thì ở đó kinh tế hàng hoá phát triển [2]. * Các nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển góp phần phát huy tiềm năng, thế mạnh nội lực của địa phương Các nghề thủ công trong làng nghề cho phép khai thác triệt để hơn các nguồn lực ở địa phương, cụ thể là nguồn lao động, nguyên vật liệu, tiền vốn. Làng nghề truyền thống có thể làm được điều này vì nó có nhiều loại quy mô, dễ dàng chuyển hướng kinh doanh v.v Một khi các nghề TTCN ở nông thôn phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Chính thông qua lực lượng này để tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất, làm cho sản phẩm có chất lượng cao, giá thành giảm, khả năng cạnh tranh trên thị trường lớn. Như vậy các nghề TTCN càng phát triển mạnh nó càng có điều kiện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Hơn nữa khi cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường và hiện đại, chính là tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ lao động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng cao tính tổ chức kỷ luật. Đồng thời trình độ văn hoá của người lao động ngày một nâng cao, lại là cơ sở thuận lợi cho việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào lĩnh vực sản xuất và hoạt động dịch vụ trong làng nghề [2]. * Phát các nghề tiểu thủ công nghiệp sẽ góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của địa phương Lịch sử phát triển kinh tế cũng như lịch sử phát triển nền văn hoá Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử phát triển của các làng nghề truyền thống. Văn hoá làng nghề với các thể chế cộng đồng chứa đựng những quan hệ huyết thống, láng giềng, hôn nhân, nghề nghiệp với các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội mang đậm những sắc thái riêng, tạo nên bản sắc truyền thống văn hoá phong phú sâu đậm của dân tộc ta. Vì vậy, để các làng nghề truyền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  19. 9 thống mai một cũng tức là đánh mất đi một phần máu thịt của nhiều thế hệ, đánh mất một vốn quý của dân tộc. Làng nghề là cả một môi trường kinh tế, xã hội và văn hoá thu nhỏ. Nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật từ đời này sang đời khác, hun đúc các thế hệ nghệ nhân tài ba và những sản phẩm độc đáo mang bản sắc riêng. Bởi vậy, các làng nghề truyền thống với những bàn tay vàng của người thợ thủ công cần được coi trọng, bảo tồn và phát triển. Bảo tồn và phát triển các làng nghề là tăng thêm sức mạnh cội nguồn, gieo vào lòng mỗi người Việt Nam tình cảm dân tộc, yêu quý, trân trọng, giữ gìn di sản và bản sắc văn hoá Việt Nam. Điều đó không gì khác là giữ gìn và phát huy một bộ phận của nền văn minh nhân loại, làm tăng những giá trị văn hoá truyền thống trong một thế giới đa phương tiện thông tin và đầy biến động. Với vai trò to lớn của làng nghề trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, để khôi phục và phát triển làng nghề đòi hỏi các cấp chính quyền phải nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của làng nghề; kịp thời có những biện pháp hỗ trợ các làng nghề phát triển phù hợp với đặc điểm từng địa phương cũng như yêu cầu của thị trường [2]. 1.1.3. Đặc trƣng của nghề thủ công nghiệp Nghề tiểu thủ công nghiệp có một số nét đặc trưng nổi bật sau đây: - Ra đời và phát triển trên cơ sở kỹ thuật tinh xảo và tài hoa của đôi tay và trí óc của các nghệ nhân, được truyền từ đời này sang đời khác, được mọi lứa tuổi tiếp thu và có hành nghề. - Đáp ứng được nhu cầu của xã hội ở các địa phương và trong cả nước nên giá trị và giá trị sử dụng khá cao. Nét nổi bật là nguyên vật liệu được khai thác tại chỗ, nhiều nghề đã tạo được danh tiếng về sản xuất của một làng, một vùng quê và nhiều nơi biết đến. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  20. 10 - Kết tinh được nhiều truyền thống, tinh hoa của dân tộc, tạo nên đặc thù phản ánh thói quen của nhân dân bao đời. Trong đó, nổi bật là các thói quen sử dụng nguyên vật liệu, thói quen sử dụng công cụ tinh xảo; thói quen về tạo hình sản phẩm; thói quen trang trí thông qua dùng màu sắc, hình thể; thói quen về thể hiện kỹ năng, kỹ xảo trong các thao tác trên cơ sở sử dụng linh hoạt, mềm dẻo các công cụ lao động một cách tinh tế với sự cảm nhận khác nhau. Tính đặc thù này đã tạo nên các sản phẩm phong phú, tinh tế, với độ kỳ công cao, khiến sản phẩm trở nên độc đáo, quyến rũ người sử dụng. - Sản phẩm thể hiện sự tích hợp các kiến thức về tự nhiên, xã hội, môi trường, văn hóa, khoa học kỹ thuật, tinh hoa văn hóa dân tộc và truyền thống đẹp trong đời sống xã hội qua nhiều thời đại. Tuy buổi đầu chỉ xuất phát từ công cụ thủ công nhưng với tài khéo léo và sự cảm thụ sâu sắc của các nghệ nhân đã tạo nên các sản phẩm thiết dụng, độc đáo. Ngày nay, nếu kết hợp khéo léo với trang thiết bị hiện đại và công nghệ cao, chắc chắn sẽ tạo bước phát triển mới của các nghề truyền thống với chất lượng, hiệu quả cao mà vẫn thể hiện được tài hoa của nghệ nhân và tính độc đáo của sản phẩm truyền thống Việt Nam [2]. 1.1.4. Những nhân tố chủ yếu ảnh hƣởng đến sự phát triển của các các nghề tiểu thủ công nghiệp Quá trình hình thành và phát triển của các nghề TTCN chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, trong đó thì các nhân tố kinh tế - xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển gồm có: * Nhu cầu thị trường Sự tồn tại và phát triển của các nghề TTCN phụ thuộc rất lớn vào khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú và thường xuyên biến đổi của thị trường. Những nghề có khả năng thích ứng với sự thay đổi nhu cầu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  21. 11 của thị trường thường có sự phát triển nhanh chóng. Sự thay đổi nhu cầu của thị trường tạo định hướng cho sự phát triển của các nghề TTCN. Những nghề mà sản phẩm của nó phù hợp với nhu cầu của xã hội, có khả năng tiêu thụ lớn thì vẫn phát triển bình thường. Ngay cả trong mỗi một nghề, cũng có những làng nghề phát triển, trong khi một số làng nghề khác lại không phát triển được, do sản phẩm làm ra chỉ là những sản phẩm truyền thống, ít chú ý đến sự thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng và giá cả nhằm đáp ứng được sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường [2]. * Cơ chế chính sách về phát triển các nghề TTCN Cơ chế chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển hay suy vong của các nghề TTCN. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, khi các hộ gia đình được công nhận là chủ thể kinh tế độc lập tự chủ trong nông thôn, các doanh nghiệp tư nhân được phép phát triển chính thức, thì các nghề TTCN đã có điều kiện phục hồi và phát triển mạnh. Chính sách mở cửa hội nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và thế giới cũng làm cho một số sản phẩm có điều kiện phát triển vì mở rộng được thị trường, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ, trong đó có sản phẩm thêu ren truyền thống, nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho hàng nước ngoài tràn vào thị trường trong nước khá nhiều, làm cho sản phẩm của các làng nghề khó có thể cạnh tranh nổi với sản phẩm ngoại nhập, làm hạn chế sự phát triển của một số làng nghề. Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, nếu không có chính sách phát triển hợp lý đối với sự kết hợp giữa đại công nghiệp với tiểu thủ công nghiệp thì các làng nghề cũng khó có điều kiện phát triển [2]. * Vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh Vốn là yếu tố, là nguồn lực quan trọng đối với bất kỳ quá trình sản xuất, kinh doanh nào. Sự phát triển của các nghề TTCN cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng của nhân tố vốn sản xuất. Trước đây, vốn của các hộ sản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  22. 12 xuất, kinh doanh trong các nghề TTCN rất nhỏ bé, thường là vốn tự có của từng gia đình hoặc vay mượn của bà con họ hàng, láng giềng, nên quy mô sản xuất không mở rộng được. Ngày nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn đã khác trước, đòi hỏi các hộ sản xuất, kinh doanh phải có lượng vốn khá lớn để đầu tư, cải tiến công nghệ, đưa thiết bị, máy móc tiên tiến vào một số khâu, công đoạn, công việc có thể thay thế kỹ thuật lao động thủ công được, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường [2]. * Yếu tố nguyên vật liệu Yếu tố nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất TTCN. Khối lượng, chủng loại, phẩm cấp và khoảng cách từ cơ sở sản xuất tới nơi có nguồn nguyên vật liệu có ảnh hưởng tới chất lượng và giá thành sản phẩm của các đơn vị sản xuất. Cho nên, các làng nghề thường chú ý nhiều đến yếu tố nguyên vật liệu. Trước đây, phần lớn các làng nghề được hình thành do có nguồn nguyên vật liệu tại chỗ và nghề nghiệp chủ yếu được gắn bó với nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Hiện nay, nguồn nguyên liệu tại chỗ của nhiều làng nghề truyền thống đã cạn kiệt, phải vận chuyển từ những nơi khác về, điều kiện khai thác, vận chuyển có ảnh hưởng tới việc đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các làng nghề. Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển như hiện nay, nguyên vật liệu cho các làng nghề đã có sự phong phú, đa dạng. Một loại nguyên vật liệu có thể dùng cho nhiều loại sản phẩm, ngược lại một loại sản phẩm có thể dùng nhiều loại nguyên vật liệu thay thế. Vì vậy, vấn đề chọn lựa và sử dụng các loại nguyên vật liệu thay thế hợp lý, theo hướng đa dạng hóa, giá rẻ, bảo đảm cho quy trình sản xuất nhanh, đảm bảo sảm phẩm của các làng nghề có được chất lượng cao, giá thành hạ là điều cần được quan tâm [2]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  23. 13 * Kết cấu hạ tầng Kết cấu hạ tầng, trước hết là giao thông, điện, cấp và thoát nước, bưu chính - viễn thông, có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành, tồn tại và phát triển của các nghề TTCN, trong đó giao thông vận tải là yếu tố quan trọng nhất. Từ xa xưa, các làng nghề truyền thống thường nằm trên các đầu mối giao thông thủy, bộ khá thuận lợi. Ngày nay, khi giao lưu kinh tế phát triển rộng khắp, khi mà thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề không chỉ ở tại địa phương mà vươn tới các thị trường xa xôi khác, khi mà nguồn nguyên liệu tại chỗ đã cạn kiệt phải vận chuyển từ nơi xa về thì nhu cầu về hệ thống giao thông vận tải phát triển thuận lợi đối với các làng nghề là rất quan trọng. Trong công cuộc CNH, HĐH, sự phát triển của các nghề TTCN chịu ảnh hưởng rất lớn bởi hệ thống cung cấp điện, nước và thoát nước, trong việc đưa thiết bị, công nghệ, máy móc hiện đại để đổi mới công nghệ cổ truyền, làm tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm và làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Sự phát triển của các nghề TTCN trong điều kiện nền kinh tế thị trường chịu tác động mạnh bởi yếu tố thông tin nói chung, bưu chính viễn thông nói riêng. Nó sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp nắm bắt kịp thời, nhanh chóng, chính xác những thông tin về thị hiếu, giá cả, mẫu mã, chất lượng, quy cách sản phẩm trên thị trường, để có những ứng xử thích hợp đáp ứng nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, hệ thống cửa hàng, cửa hiệu, nhà trưng bày, giới thiệu sản phẩm, chợ nông thôn, trường học, bệnh viện cũng là những nhân tố tích cực giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm nhanh, phát triển mạnh nguồn nhân lực có sức khỏe, trình độ tri thức và kỹ thuật tay nghề cao, tạo điều kiện cho các nghề TTCN phát triển [2]. * Trình độ kỹ thuật và công nghệ Trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất có ảnh hưởng rất quan trọng đối với bất kỳ ngành nghề nào, sản phẩm nào. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  24. 14 năng suất lao động, chất lượng và giá thành sản phẩm, đến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa trên thị trường và cuối cùng là quyết định đến sự tồn tại hay suy vong của một cơ sở sản xuất, một ngành nghề nào đó. Hiện nay, phần lớn các cơ sở sản xuất TTCN vẫn sử dụng thiết bị thủ công, công nghệ cổ truyền chủ yếu dựa vào kinh nghiệm có tính chất cha truyền con nối trong từng hộ gia đình là chính. Bởi vậy, sản phẩm sản xuất ra với năng suất, số lượng và chất lượng sản phẩm thấp kém, không đồng bộ, giá thành cao, hạn chế khả năng cạnh tranh của các sản phẩm làng nghề. Để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, các cơ sở sản xuất kinh doanh không thể không đổi mới trang thiết bị, cải tiến áp dụng một số tiến bộ khoa học công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất [2]. * Yếu tố truyền thống Đây là yếu tố có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của các nghề TTCN, là nhân tố quan trọng không chỉ chi phối các hoạt động sản xuất mà chi phối cả tiêu dùng và đời sống của cư dân nông thôn. Sự bình ổn của các nghề TTCN là điều kiện tạo ra truyền thống và truyền thống lại góp phần giúp nghề phát triển ổn định hơn, truyền thống cao hơn. Yếu tố truyền thống có những tác động trái ngược nhau tới sự phát triển của các nghề TTCN. Trong các nghề truyền thống, bao giờ cũng có các thợ cả, nghệ nhân có trình độ tay nghề cao, có kinh nghiệm sản xuất, có tâm huyết với nghề, là những hạt nhân để duy trì và phát triển của nghề. Họ và cơ sở cho sự tồn tại bền vững của các nghề TTCN trước mọi thăng trầm và đảm bảo duy trì những nét độc đáo truyền thống. Yếu tố truyền thống có tác dụng bảo tồn những nét đặc trưng văn hóa của từng nghề, của dân tộc, làm cho sản phẩm có tính độc đáo và có giá trị cao. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  25. 15 Song, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, không thể chỉ có kinh nghiệm cổ truyền, mà còn phải có khoa học và công nghệ hiện đại, phải có những con người có đầu óc kinh doanh năng động, sáng tạo. Yếu tố truyền thống trong điều kiện hiện nay có tác dụng hai mặt, vừa tích cực vừa tiêu cực, đối với sự phát triển của các làng nghề. Việc khó là làm sao đưa được những tiến bộ của khoa học và công nghệ hiện đại vào nhưng vẫn giữ được những yếu tố truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và những sản phẩm của các làng nghề phải được tiếp nhận trong thị trường của xã hội hiện đại [2]. 1.1.5. Chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta có liên quan đến phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 đã khẳng định “ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu, thị hiếu và điều kiện sinh thái của từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và cơ cấu lao động, tạo việc làm, thu hút nhiều lao động ở nông thôn, phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn liền với thị trường trong nước và xuất khẩu ”. Qua đó, có thể nhận thấy phát triển các làng nghề gắn liền với thị trường trong nước và xuất khẩu nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước. Chính phủ cũng đã đưa ra nhiều chính sách, biện pháp ưu tiên, khuyến khích phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn: Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi và áp dụng những chính sách nhằm đảm bảo quyền lợi cho các cơ sở sản xuất và ngành nghề nông thôn, đặc biệt là các ngành, nghề TTCN, nhằm thoả mãn yêu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, thu hút lao động và góp phần tạo công ăn việc làm ở nông thôn, xoá đói giảm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  26. 16 nghèo, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Quyết định số 132/2001/QĐ-TTg ngày 07/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế tài chính phục vụ triển khai các chương trình phát triển đường và cơ sở hạ tầng phục vụ nông, ngư nghiệp ở các làng nghề, nội dung của Quyết định là: khuyến khích các địa phương huy động mọi nguồn lực và tổ chức triển khai có hiệu quả các chương trình phát triển đường và cơ sở hạ tầng nông thôn phục vụ nông, ngư nghiệp tại các làng nghề. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng đã xác định “ Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, tạo điều kiện để phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, các vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các làng nghề, các loại hình sản xuất trang trại, hợp tác xã, sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao ”. Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 về phát triển ngành nghề nông thôn. Nghị định này đã đưa ra một hệ thống chính sách khuyến khích phát triển làng nghề, từ xây dựng mặt bằng sản xuất, đầu tư tín dụng đến xúc tiến thương mại, khoa học công nghệ và đào tạo nhân lực. Năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã chính thức trình Chính phủ Đề án phát triển mỗi làng một nghề. Đây là Đề án có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo, đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, thực hiện Nghị quyết của Ðảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Mục tiêu của Đề án là tạo ra phong trào rộng khắp trong cả nước phát huy lợi thế, tiềm năng của các địa phương về ngành nghề nông thôn, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước; thu hút và tạo ra mối liên kết chặt chẽ hơn giữa nhiều “nhà” cùng tham Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  27. 17 gia phát triển ngành nghề; tạo ra những nghề mới, thêm nhiều làng có nghề, thêm nhiều làng nghề mới. Từ đó thúc đẩy ngành nghề nông thôn phát triển bền vững, lâu dài, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, nâng cao tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp, dịch vụ và nâng cao thu nhập của người dân nông thôn; góp phần bảo tồn giá trị truyền thống, tạo ra bản sắc mới của các làng xã trong các sản phẩm. Như vậy, khi Đề án được triển khai thực hiện sẽ mở ra cơ hội để thúc đẩy các làng nghề phát triển hơn nữa trong thời gian tới. 1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN CÁC NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP 1.2.1. Phát triển nghề tiểu thủ công nghiệp ở một số nƣớc Châu Á 1.2.1.1. Nhật Bản Ở Nhật Bản, trong quá trình công nghiệp hóa, các nghề tiểu thủ công nghiệp không những không bị mai một mà trái lại, nó vẫn được duy trì và phát triển ở nông thôn, trong các hộ nông dân, các làng nghề và thị trấn. Qua kết quả thống kê, ở Nhật Bản có 867 nghề tiểu thủ công nghiệp khác nhau như chế biến lương thực, thực phẩm bằng nông sản, thủy sản (như bột gạo, miến, đậu phụ, tương, dấm, rượu Sakê, mắm, v.v.); nghề đan lát bằng tre nứa; nghề dệt chiếu, bao tải bằng rơm; nghề thủ công mỹ nghệ (bao gồm gốm sứ, sơn mài, chạm khắc gỗ); nghề dệt lụa may áo Kimônô; nghề rèn nông cụ, với công nghệ cổ truyền rèn kiếm Nhật nổi tiếng , nghề cổ truyền sơn mài đã trải qua những bước tiến thăng trầm trong cơ chế thị trường của thời kỳ công nghiệp hóa, có thời kỳ thịnh vượng và có lúc suy thoái. Sơn mài (tiếng Nhật là SHIKKI) là một nghề thủ công mỹ nghệ lâu đời mà AIZO – WAKAMAMATSU là một trong những địa phương nổi tiếng về các sản phẩm sơn mài, phục vụ khách hàng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài, kể cả nước Mỹ. Trước đây các gia đình Nhật Bản có tập quán sử dụng các đồ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  28. 18 dùng là những sản phẩm có giá trị thẩm mỹ cao bằng sơn mài và gốm sứ ở trong nhà, nhưng đến nay lối sống và sinh hoạt của người dân Nhật Bản đang thay đổi mạnh, theo phong cách công nghiệp hóa, nên thị hiếu về đồ dùng trong nhà cũng khác đi. Chính vì vậy nghề sơm mài giảm sút. Điều đáng chú ý công nghệ chế tạo nông cụ của Nhật Bản từ thủ công dần dần được hiện đại hóa với các máy gia công tiến bộ và kỹ thuật tôi, mạ tiên tiến. Thị trấn TAKEO có trung tâm nghiên cứu mẫu mã và chất lượng nông cụ với đầy đủ thiết bị đo lường hiện đại để kiểm nghiệm nông cụ theo tiêu chuẩn quốc gia. Mặc dầu hiện nay Nhật Bản đã trang bị đầy đủ hệ thống máy móc nông nghiệp và đạt trình độ cơ giới hóa dưới 95%, nhưng nghề sản xuất nông cụ vẫn không giảm sút nhiều . Nông cụ Nhật Bản với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, không chỉ được tiêu thụ ở thị trường trong nước mà còn xuất khẩu sang những nước đang phát triển và những nước công nghiệp phát triển Tây Âu, Bắc Mỹ. Vào những năm 70 của thể kỷ XX ở tỉnh OITA (miền Tây Nam Nhật Bản) đã có phong trào “Mỗi thôn làng một sản phẩm” nhằm phát triển ngành nghề cổ truyền ở nông thôn. Kết quả là ngay từ năm đầu tiên họ đã sản xuất được 143 loại sản phẩm, thu được 358 triệu USD, đến năm 1992 sản xuất thu được 1,2 tỷ USD, trong đó có 378 triệu USD do bán rượu đặc sản Sakê, 114 triệu USD các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Phong trào đã nhanh chóng lan rộng ra cả nước. Nhìn chung ở Nhật Bản, nhiều nghề thủ công bị giảm sút khi trở thành nước công nghiệp phát triển [2]. 1.2.1.2. Ấn độ Ấn Độ là một nước có dân số đông thứ hai trên thế giới (sau Trung Quốc), có nền văn minh và văn hóa dân tộc lâu đời, được thể hiện rõ qua các nghề thủ công cổ truyền đặc sắc. Hàng chục triệu người dân Ấn Độ đến nay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  29. 19 vẫn đang sinh sống bằng các nghề thủ công. Sản phẩm làm ra tiêu thụ ở thị trường trong nước và xuất khẩu với doanh thu mỗi năm trên 1000 tỷ rupi. Chính Phủ Ấn Độ đặc biệt quan tâm và đề ra nhiều biện pháp và các chính sách để bảo tồn và phát triển các nghề tiểu thủ công mỹ nghệ tinh hoa của dân tộc, tạo ra sự ưu thế vươn ra thị trường thế giới. Chính Phủ đã tổ chức các trung tâm phát triển công nghệ và thiết kế mẫu mã cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở nhiều nơi như Niuđêli, Cancutta, Bombay, Bănggalo nhằm nghiên cứu, thiết kế mẫu mã và công nghệ, bảo tồn những nét đặc sắc của mặt hàng thủ công mỹ nghệ Ấn Độ. Các trung tâm còn nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới, tạo ra những mẫu mã mới, đa dạng, hợp với thị hiếu nhiều mặt của khách hàng trong và ngoài nước, riêng các trung tâm ở Bombay và Bănggalo còn tập trung nghiên cứu tạo dáng cho hàng mỹ nghệ của các bộ lạc thiểu số và giới thượng lưu. Không chỉ chú ý mẫu mã, ở Ấn Độ còn có khoảng 400 trung tâm dạy nghề rải rác ở các vùng trong nước, tập trung ở các bang Utta Prađét, Giamu, Casơmia, Biha để đào tạo nghề cho các lao động thủ công mỹ nghệ. Cùng với đào tạo tay nghề cho thợ, Ấn Độ đặc biệt quan tâm tới đội ngũ thợ lành nghề, thợ cả có nhiều kinh nghiệm. 13 trung tâm đào tạo có nhiệm vụ chuyên lo việc nâng cao tay nghề cho thợ cả, nhằm giữ gìn, khôi phục các nghề thủ công cổ truyền đặc sắc có nguy cơ bị mai một, thất truyền và bồi dưỡng tay nghề cho các nghệ nhân đặc biệt tài ba đã hoạt động. Thợ cả - các nghệ nhân tài năng có tay nghề cao được coi như vốn quý của quốc gia Ấn Độ, được nhà nước chú ý quan tâm về vật chất và tinh thần. Từ năm 1950 đến nay, Chính phủ Ấn Độ đã đặt ra giải thưởng cấp nhà nước trao tặng các thợ cả nghệ nhân xuất sắc một thẻ chứng nhận của Chính phủ, 10.000 rupi tiền thưởng và một bộ quần áo của Tổng thống ban tặng. Từ năm 1973 – 1974, mỗi năm nhà nước lại chọn ra 15 thợ cả nghệ nhân xuất sắc và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  30. 20 cấp cho mỗi người một khoản trợ cấp hàng tháng 500 rupi và cho đến nay 227 nghệ nhân đã được hưởng khoản trợ cấp này. Trong các nghề thủ công mỹ nghệ, nghề chế tác kim cương có tốc độ phát triển nhanh trên cơ sở tận dụng, phát huy công nghệ cổ truyền và ứng dụng công nghệ, thiết bị hiện đại vào sản xuất. Ấn Độ đã trở thành một trong các quốc gia chế tác kim cương lớn nhất thế giới với kim ngạch xuất khẩu là 3 tỷ USD. Ở Ấn Độ, Viện thủ công mỹ nghệ quốc gia là cơ quan nghiên cứu kinh tế kỹ thuật phục vụ yêu cầu phát triển các ngành nghề cổ truyền, ngoài việc nghiên cứu khoa học, công nghệ, mẫu mã, mặt hàng, trong thời gian qua còn tổ chức 165 cuộc triển lãm – hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ ở trong nước và nước ngoài, giới thiệu các mặt hàng đặc sắc của Ấn Độ, nghiên cứu thị trường và tiếp thị để mở rộng thị trường xuất khẩu ra thế giới [2]. 1.2.1.3. Thái Lan Thái Lan là nước có diện tích canh tác bình quân đầu người đạt 3.756 m2, diện tích bình quân của một hộ nông dân là 4.5 hecta, cao nhất trong các nước Đông Nam Á. Trong những năm 60 của thế kỷ trước, Thái Lan vẫn còn là nước lạc hậu, yếu kém về nông nghiệp và công nghiệp nên họ đã lựa chọn con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa, để nâng cao mức sống của người dân nông thôn, đi đôi với việc khuyến khích phát triển nông nghiệp theo hướng xuất khẩu. Chính phủ Thái Lan chủ động phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nông thôn, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa. Các ngành nghề truyền thống, thủ công mỹ nghệ như chế tác vàng bạc đá quý và đồ trang sức, được duy trì và phát triển tạo ra nhiều hàng hóa xuất khẩu đứng vào loại thứ hai trên thế giới, do kết hợp được tay nghề của các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  31. 21 nghệ nhân lành nghề với công nghệ, kỹ thuật, thiết bị hiện đại. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mỹ nghệ vàng bạc, đá quý năm 1990 đạt 2 tỷ USD. Nghề gốm sứ cổ truyền ở Thái Lan trước đây chỉ sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong nước. Gân đây ngành này đã phát triển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa và trở thành mặt hàng xuất khẩu thu ngoại tệ lớn thứ hai sau gạo. Trung tâm sản xuất đồ gốm lớn nhất ở Thái Lan – Chiềng Mai, đang được phát triển đi vào sản xuất với khối lượng lớn cả 3 mặt hàng: đồ gốm truyền thống (gồm các đồ dùng sinh hoạt hàng ngày), hàng gốm sứ công nghiệp (bao gồm gốm xây dựng, gốm cách điện, chịu lửa), hàng gốm sứ mới (gồm các vật thể hóa học, quang học, gốm điện v.v ). Cho đến nay 95% hàng gốm xuất khẩu của Thái Lan là đồ trang trí nội thất và đồ lưu niệm. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, Thái Lan đang xúc tiến nâng cao tay nghề cho công nhân của 93 xí nghiệp gốm ở Chiềng Mai và Lam Pang [2]. 1.2.1.4. Inđônêxia Chương trình phát triển ngành nghề TTCN được Chính phủ Inđônêxia hết sức quan tâm bằng việc lần lượt đề ra các kế hoạch 5 năm. - Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất: Xây dựng các xưởng và trung tâm để bán các sản phẩm TTCN của các làng nghề. - Kế hoạch 5 năm lần thứ hai: Thực hiện các dự án hướng dẫn và phát triển công nghiệp nhỏ nhằm giáo dục, đào tạo, mở mang các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp của những doanh nghiệp nhỏ. - Kế hoạch 5 năm lần thứ ba: Chính phủ đứng ra tổ chức một số cơ quan để quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cung cấp vật tư thiết bị, tiêu thụ sản phẩm cho các làng nghề. Chính phủ đã thiết lập chương trình kết hợp giữa các trung tâm công nghiệp với làng nghề truyền thống. Các trung tâm công nghiệp có trách nhiệm giúp đỡ làng nghề truyền thống nâng cao năng lực quản lý, quy trình công Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  32. 22 nghệ marketing, cung cấp tài chính, mua nguyên liệu thô và đứng ra đảm bảo cho làng nghề truyền thống vay vốn ngân hàng, còn làng nghề truyền thống có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ, đồng thời làm nhiệm vụ gia công cho trung tâm công nghiệp lớn. Thậm chí có lúc trung tâm công nghiệp lớn còn đứng ra giúp đỡ làng nghề truyền thống bán sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế hoặc thường xuyên trao đổi cung cấp thông tin cần thiết về thị trường xuất khẩu, những mặt hàng đang được ưa chuộng và có nhu cầu lớn trên thị trường. Có thể nói, sự nỗ lực của Chính phủ trong việc phát triển ngành nghề TTCN ở nông thôn đã đem lại những hiệu quả thiết thực ở Inđônêxia [2]. 1.2.2. Phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở Việt Nam Văn hóa gắn liền với sự phát triển của con người, bắt đầu bằng việc chế tạo các công cụ đá, gỗ, xương, sừng Sau đó có sự phân công giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp ở đầu thời đại kim khí (6000 năm) và xuất hiện lớp thợ thủ công chuyên nghiệp. Rồi từ ngành nghề trong nền văn minh nông nghiệp đã phân hóa thành các làng nông, làng nghề, làng buôn Ở Việt Nam, nghề thủ công vốn đã có truyền thống từ lâu đời. Đầu tiên là nghề đẽo đá cuội thủ công. Theo nhiều nhà khảo cổ học, ở thời đồ đá cũ (cách đây khoảng vài triệu năm đến 1 vạn năm), con người đã làm ra các sản phẩm thủ công với khoảng 12 loại nguyên liệu (đá, gỗ, tre, vỏ sò, vỏ ốc, đất, vỏ cây, dây leo, xương, sừng, ngà, da ). Nhưng khi đó thủ công chưa phải là những nghề chuyên nghiệp, nó chỉ phục vụ cho việc hái lượm, săn bắt của con người. Từ thời đại đồ đá mới (10.000 – 6.000 năm về trước), tuy nghề nông ra đời và thủ công nghiệp dần tách khỏi nông nghiệp và theo hướng chuyên môn hóa. Xã hội loài người được phân hóa và dần hình thành bên cạnh nghề nông là các nghề thủ công. Qua nhiều thời kỳ phát triển đến nay có rất nhiều nghề thủ công truyền thống khác nhau, có thể kể tên các nghề như: nghề gốm sứ, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  33. 23 nghề khảm trai, nghề chạm khắc gỗ, nghề đan mây, tre, nứa, nghề dệt truyền thống, nghề đúc đồng 1.2.2.1. Nghề gốm sứ Ở nước ta nghề này đã xuất hiện từ lâu và có những làng nghề như Bát Tràng (Hà Nội), Hương Canh (Vĩnh Phúc), Đông Triều (Quảng Ninh), Lái Thiêu (Sông Bé). Cho đến nay, nhiều làng nghề vẫn được duy trì và phát triển phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Làng gốm sứ Bát Tràng có 1.172 hộ gia đình làm nghề gốm với hơn 800 lò gốm, ngoài ra còn một số xí nghiệp gốm quốc doanh và quân đội. Hàng năm Bát Tràng sản xuất trên 50 triệu sản phẩm đồ sứ dân dụng và hàng mỹ nghệ các loại. Ngoài các lao động trong làng, hàng ngày còn có thêm 1000 – 2000 người của các địa phương khác đến làm thuê. Hiện nay,làng không những là nơi sản xuất đồ gốm nổi tiếng mà còn là địa điểm du lịch tham quan của nhiều du khách trong và ngoài nước, đặc biệt là khách nước ngoài. Vùng Đông Triều (Quảng Ninh), trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX đã cho ra đời hàng trăm triệu sản phẩm các loại, trong đó một phần đã được xuất khẩu sang thị trường Phương Tây. Ngoài hàng sứ dân dụng còn có chậu hoa, lọ hoa kiểu dáng độc đáo như hình giọt lệ, hình thắt đáy, những chiếc ấm trà hình quả lựu, quả cam, các pho tượng La Hán, Tam đa, cac con giống ngộ nghĩnh, các phù điêu sứ với các loại men thanh nhã Xã Tân Phước Khánh (Tân Uyên, Sông Bé) là một làng gốm nối tiếng. Cả làng ai cũng biết làm nghề gốm, từ cụ già đến em bé. Sản phẩm gốm ở đây đủ loại từ lu, hũ, bát, đĩa, ấm, tách, chén, ghế đôn sứ, tượng thập bát La Hán, tượng thánh Venus được sản xuất từ gần 100 lò gốm trong xã. Nghề gốm sứ Đồng Nai tập trung chủ yếu ở 3 xã ven sông Đồng Nai là: Tân Vạn, Bửu Hòa, Hóa An. Thời Pháp thuộc, sản phẩm gốm sứ Đồng Nai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  34. 24 đem triển lãm tại Paris (Pháp) được nhiều giải thưởng. Hiện nay gốm sứ Đồng Nai vẫn đang phát triển và được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới [2]. 1.2.2.2. Nghề đan lát mây tre chiếu cói Sản phẩm của nghề này thường là các dụng cụ sinh hoạt và phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Nghề này gần đây được phát triển ở nhiều nơi. Sản phẩm đan lát bao gồm nhiều loại từ thúng mủng, nong nia, dần sàng, cót, sọt đến các mặt hàng mỹ nghệ xuất khẩu như làn, giỏ, lẵng hoa, khay, đĩa, bàn, nghế mây tre Đến nay có 38 tỉnh có cơ sở làm hàng mây tre xuất khẩu. Làng Phú Vinh (Chương Mỹ, Hà Nội) có nghề đan hàng mỹ nghệ bằng mây tre nổi tiếng từ trước cách mạng tháng Tám. Trong hội chợ đấu xảo ở Hà Nội, 9 nghệ nhân có hàng mây mỹ nghệ được phong hàm Cửu phẩm mỹ nghệ. Lao động mỹ nghệ Phú Vinh có tay nghề cao. Nghệ nhân Nguyễn Văn Khiêm năm 1962 đan gửi Bác Hồ một lọ hoa bằng mây và được Người gửi thư cảm ơn. Nghệ nhân Nguyễn Văn Trung đã đan hình chữ V.I.Lênin dự hội chợ Mátxcơva năm 1986 giành được huy chương vàng và danh hiệu tuổi trẻ sáng tạo. Hàng mỹ nghệ mây tre đan Phú Vinh xuất khẩu sang Nhật Bản, Singapore, Malaysia, Châu Âu, Mỹ. Làng Lưu Thượng, xã Phú Thượng, huyện Phú Xuyên, Hà Nội có nghề đan cỏ tễ dùng làm hàng thủ công mỹ nghệ: mũ, làn, con giống, bán ghế xuất khẩu với hơn 200 loại sản phẩm, 70% xuất sang Nhật, Pháp, Singapore. Nghề chiếu cói ở các vùng Nga Sơn (Thanh Hóa), Kim Sơn (Ninh Bình) và một số nơi khác. Nghề truyền thống này hiện đang phát triển với các mặt hàng chiếu cói, thảm cói, làn cói cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu [2]. 1.2.2.3. Nghề đóng đồ gỗ cao cấp, chạm khắc gỗ, khảm trai, sơn mài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  35. 25 Các nghề này được khôi phục và phát triển ở nhiều nơi như Đồng Kỵ (Bắc Ninh), Vân Hà (Đông Anh, Hà Nội), Đông Giao (Hải Dương), Vạn Điểm, Chương Mỹ (Hà Nội), Tương Bình Hiệp (Sông Bé). Làng mộc Đồng Kỵ có trên 90% số hộ với 3.600 lao động tham gia làm đồ mộc mỹ nghệ, hàng năm sử dụng 1.200 m3 gỗ và sản xuất ra trên dưới 5.000 sản phẩm đưa ra thị trường trong và ngoài nước. Tùy theo từng hộ mà có số người khác nhau tham gia vào các công đoạn sản xuất: cưa, xẻ, đục, bào, đánh bóng, chạm khắc, khảm Ngoài các sản phẩm thông thường, Đồng Kỵ còn sản xuất các loại đồ gỗ cao cấp như sập gụ, tủ chè, sa lông, phù điêu, sập ba thành, giường công chúa Bên cạnh lớp thợ già lành nghề là thế hệ thợ trẻ 14 – 15 tuổi đã quen tay chạm khắc khá nhuần nhuyễn. Không chỉ sử dụng nhân công tại chỗ, Đồng Kỵ còn thuê thợ gia công ở nơi khác đến. Làng Vân Hà (Đông Anh, Hà Nội) có nghề chạm khắc gỗ có trên 70% số hộ dân cư tham gia, với hàng loạt chủ doanh nghiệp trẻ trên, dưới 30 tuổi. Mỗi năm làng Vân Hà sử dụng 1000 m3 gỗ tốt do lực lượng dịch vụ tư nhân cung cấp và tạo ra 5 – 6 tỷ đồng giá trị sản phẩm. Xã Chương Mỹ (Phú Xuyên, Hà Nội) có nghề truyền thống khảm, sơn mài lâu đời. Sản phẩm sơn mài của xã được xuất khẩu ra 12 nước trên thế giới. Hiện nay đã có 7 thôn trong xã với hàng nghìn lao động tham gia làm nghề khảm trai. Số lao động trẻ có tay nghề cao chiếm 70%. Làng sơn mài Tương Bình Hiệp (thị xã Thủ Dầu Một, Sông Bé) có 495 cơ sở tiểu thủ công nghiệp làm nghề sơn mài chiếm 80% số hộ gia đình trong xã. Hàng chục thợ giỏi được tặng nghệ nhân có bàn tay vàng [2]. 1.2.2.4. Nghề kim hoàn Kim Hoàn là nghề truyền thống ở một số nơi như Châu Khê (Hải Dương), Đồng Xâm (Thái Bình), những năm gần đây cũng được khôi phục và phát triển. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  36. 26 Làng Châu Khê có ông tổ nghề kim hoàn là Lưu Xuân Tín, Thượng thư Bộ Lại, triều Lê Thánh Tôn, quê ở Châu Khê. Hiện nay, làng có 180 hộ vừa làm ruộng vừa làm nghề kim hoàn. Mỗi nhà là một xí nghiệp gia đình, trong đó ông bố chủ gia đình là người thợ cả có tay nghề cao, trực tiếp làm các khâu đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và điều hành sản xuất. Cả làng có 500 thợ kim hoàn làm việc ở làng và 200 thợ làm việc ở phố Hàng Bạc (Hà Nội), trong đó có hơn 100 thợ giỏi và 5 – 6 nghệ nhân cao tuổi lành nghề. Hiện nay hàng tháng Châu Khê làm gia công cho các cơ sở ở Hà Nội 150 kg bạc để tạo ra các sản phẩm: nhẫn, dây truyền, lắc đeo tay và hơn 20 loại đồ trang sức với hơn 50 mẫu mã khác nhau. Làng Đồng Xâm (Thái Bình) có nghề chạm bạc nổi tiếng được ghi trong bia đá dựng năm 1409 ở miếu thờ tổ nghề là ông Nguyễn Kim Lân ở châu Bảo Lạc (Cao Bằng) vốn làm nghề vá nồi đồng đen truyền nghề cho dân làng từ 600 năm nay. Ở đền Đồng Xâm có hàng chục loại đồ thờ như mũ, bình, chóe bằng bạc nặng 25 kg là những công trình nghệ thuật độc đáo của làng nghề chỉ đưa ra trưng bày trong những ngày lễ hội của làng. Trước năm 1945 nghề chạm bạc ở đây hưng thịnh, nhiều chủ có 10 – 20 thợ, sản phẩm bạc Đồng Xâm có mặt trong nhiều cuộc đấu xảo ở trong nước và quốc tế. Trong những năm 60 – 80 của thế kỷ trước, các hợp tác xã trạm bạc, thợ bạc chuyển sang làm dụng cụ y tế mạ kền, lúc không có việc các xã viên phải đi nung vôi, khai thác lâm sản. Tổng công ty xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đặt hàng mạ bạc xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa, hợp tác xã xây dựng 3.000 m2 nhà xưởng hai tầng, mua bể mạ, máy phay, bào, đột dập Đến năm 1988, hợp tác xã giải thể, máy móc bán hết, các xã viên một số trở về làm ruộng, một số bỏ làng đi nơi xa làm ăn. Mấy năm nay nghề chạm bạc được phục hồi tại các cơ sở gia đình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  37. 27 Nhìn chung, các nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống có những bước thăng trầm. Có những nghề vẫn được duy trì và phát triển, có những nghề có nguy cơ mai một hoặc thất truyền. Song những năm qua, nhờ có chính sách khôi phục và phát triển các nghề truyền thống của Nhà nước, những nghề này dần được khôi phục và phát triển. Đã có nhiều sản phẩm nổi tiếng và có giá trị xuất khẩu cao. Từ năm 1993, sau khi có chính sách khuyến khích thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển và giao quyền tự chủ về kinh tế cho các hộ, nhiều cơ sở sản xuất, làng nghề bắt đầu vực dậy tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước, chuyến hướng thị trường quốc tế từ Đông Âu sang các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, các nước trong khối EU, Hoa Kỳ Chủng loại mặt hàng xuất khẩu được đa dạng hóa. Những sản phẩm có tỷ trọng xuất khẩu cao so với sản lượng sản xuất là thêu ren (xuất khẩu chiếm 52,3%), sản phẩm cói (36,3%), mây tre đan (29,4%), sơn mài (23,1%) Tuy nhiên những mặt hàng xuất khẩu trên chưa phải là những mặt hàng có ưu thế cạnh tranh về giá cả và chất lượng trên thị trường quốc tế. Tình hình thị trường xuất khẩu cùng các mặt hàng xuất khẩu được thể hiện qua bảng 1.1. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  38. 28 Bảng 1.1: Cơ cấu thị trƣờng xuất khẩu của hàng thủ công Việt Nam Thị trƣờng mục tiêu (%) Sản phẩm Nƣớc Hàn Quốc Trung Châu Hoa Nƣớc Nhật Châu + Đài Loan Quốc Âu Kỳ khác Á khác Cói 19,2 20,1 19,2 5,7 26,4 4,6 4,9 Sơn mài 7,1 50,0 2,4 2,4 7,1 26,2 4,8 Mây tre đan 21,8 18,6 15,0 6,2 22,8 11,2 4,2 Gốm sứ 12,7 15,5 7,0 9,9 33,8 15,5 5,6 Thêu ren 23,2 25,5 10,7 5,5 27,2 3,6 4,3 Dệt sợi 16,7 11,1 13,6 11,1 38,9 5,6 3,0 Gỗ 8,4 21,8 23,5 5,0 15,1 10,1 16,0 Chạm khắc đá 12,5 15,6 25,0 12,5 21,9 6,3 6,3 Giấy 0,0 100 0,0 0,0 0,0 0,0 0,0 Tranh dân gian 0,0 16,7 16,7 16,7 33,3 16,7 0,0 Kim khí 3,4 15,5 37,9 20,7 8,6 3,4 10,3 Sản phẩm khác 9,0 15,7 28,2 13,7 16,1 8,2 9,0 Tổng 17,4 19,8 17,1 7,9 24,3 7,7 5,8 (Nguồn: Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công phục vụ công nghiệp nông thôn Việt Nam, của JICA và Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn) Hiện nay, các làng nghề còn gặp nhiều khó khăn như thông tin về thị trường hạn chế (thông tin về mẫu mã, giá cả, thị hiếu, chất lượng ); hình thức xuất khẩu hiện nay đa phần là phần hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu thông qua trung gian vì vậy hiệu quả thấp; thiếu vốn; cơ sở hạ tầng thấp kém; tình trạng ô nhiễm môi trường và các biện pháp xử lý còn hạn chế Chính vì vậy việc tạo điều kiện cho các làng nghề nói riêng và các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống phát triển nói chung là vấn đề được nhà nước và các ngành, các cấp chú trọng, quan tâm thường xuyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  39. 29 1.2.2.5. Một số nét về tình hình phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên Trong những năm qua, nền kinh tế tỉnh Thái Nguyên ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt gần 9%, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp cũng được quan tâm phát triển và đã có những đóng góp tích cực trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp – nông thôn. Thu nhập từ các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp hàng năm lên tới nhiều tỷ đồng. Điều quan trọng hơn là các ngành nghề này đã thu hút một lực lượng lao động tương đối lớn trong nông thôn tham gia và đã tạo ra những làng nghề mang sắc thái riêng của từng địa phương trong tỉnh như các làng nghề đan lát các vật dụng sinh hoạt, xuất khẩu ở xã Hà Châu, Tân Đức (Phú Bình), xã Tiên Phong (Phổ Yên); các làng nghề chè ở Tân Cương, Trại Cài; làng sản xuất gạch ngói ở Cổ Lũng (Phú Lương) Với tiêu chí cũ thì trên địa bàn tỉnh có 37 làng nghề tập trung ở 5 huyện: Phú Bình, Phổ Yên, Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Lương. Các làng nghề phát triển với tốc độ nhanh (năm 2001 mới có 22 làng nghề). Xã Hà Châu (Phú Bình) là địa phương có tới 3 làng nghề chuyên đan lát các sản phẩm như rọ tôm, rổ, rá, nong nia phục vụ cho nhân dân trong và ngoài huyện. Năm 2005 đạt doanh thu 106 triệu đồng. Một làng nghề khá nổi tiếng khác với sản phẩm bánh chưng Bờ Đậu ở xã Cổ Lũng đã thu hút được 41 hộ sản xuất với gần 100 lao động tham gia, đạt doanh thu gần 300 triệu đồng năm 2005 [2]. 1.2.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra đố i vớ i sƣ̣ phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp ở Việt Nam nói riêng và đối với huyện Phổ Yên nói riêng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  40. 30 Từ thực tiễn phát triển các nghề TTCN ở một số nước Châu Á và ở Việt Nam, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau: Một là, muốn phát triển các nghề TTCN thực sự có hiệu quả trước hết phải có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước. Đó là sự hỗ trợ bằng việc ban hành những quy định pháp chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, đồng thời hỗ trợ về tài chính và tiếp cận nguồn vốn, tạo nền tảng và động lực cho các doanh nghiệp trong ngành TTCN phát triển. Xây dựng cơ chế, chính sách cho các hộ sản xuất TTCN vay vốn không cần thế chấp. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chính phủ cần có những hỗ trợ toàn diện đối với các nghề TTCN, từ đảm bảo nguồn nguyên liệu, đào tạo lao động đến cung cấp thông tin, quảng bá sản phẩm, Những chương trình hỗ trợ toàn diện này sẽ tạo điều kiện cho các nghề TTCN có thể phát triển một cách bền vững [11]. Hai là, việc sản xuất các loại hàng phải xuất phát từ nhu cầu thị trường, sản phẩm phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của thị trường. Cải tiến mẫu mã bằng việc mời các chuyên gia của những nước nhập khẩu chính để tư vấn [11]. Ba là, tăng cường việc đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, trình độ tay nghề cho người lao động thông qua các trung tâm đào tạo, các viện nghiên cứu. Đồng thời phải xây dựng và phát triển các trung tâm đào tạo nghề bậc cao thay vì đào tạo nghề mới như hiện nay. Bên cạnh đó, cần giáo dục thế hệ trẻ biết giữ gìn văn hoá truyền thống cũng như tôn vinh nghệ nhân, những người trực tiếp làm nên những sản phẩm thủ công độc đáo [11]. Bốn là, thành lập các tổ chức, hiệp hội ngành nghề và phát huy vai trò của nó trong việc hỗ trợ các vấn đề về vốn, tiêu thụ sản phẩm, đào tạo, [11]. Năm là, áp dụng công nghệ mới, hiện đại để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hạn chế ô nhiễm môi trường [11]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  41. 31 Sáu là, chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng (kỹ thuật, hành chính, nghiên cứu và phát triển) tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận với các điều kiện sản xuất kinh doanh hiện đại và mở rộng thị trường [11]. Bảy là, phát triển các nghề TTCN, đặc biệt là các làng nghề phải xuất phát từ những chính sách bảo tồn và phát triển văn hoá truyền thống; phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch làng nghề [11]. 1.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.3.1. Câu hỏi nghiên cứu - Thực trạng phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp ở Phổ Yên ra sao? - Giải pháp chủ yếu nào để phát triển các nghề này? 1.3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 1.3.2.1. Phương pháp thu thập thông tin: * Thu thập thông tin thứ cấp (thu thập và nghiên cứu tài liệu có sẵn): Thông qua các tài liệu văn bản, sách báo, tạp chí, sổ sách, báo cáo, website và tư liệu do địa phương cung cấp có liên quan đến đề tài. * Thu thập thông tin sơ cấp (khảo sát điều tra): Để có được số liệu sơ cấp, tác giả đã tiến hành điều tra, phỏng vấn trực tiếp bằng những câu hỏi đã được lập sẵn trong phiếu điều tra. - Chọn điểm nghiên cứu: Căn cứ vào mục đích của đề tài, việc chọn điểm nghiên cứu được tiến hành như sau: + Chọn xã điều tra: Xã điều tra là các xã có hoạt động tiểu thủ công nghiệp, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các nghề TTCN, xã có sản xuất TTCN với sản lượng đủ lớn bao gồm: o Xã Tiên Phong: nghiên cứu nghề mây tre đan; o Xã Đắc Sơn, Vạn Phái, Đông Cao, Thành Công, Nam Tiến, Hồng Tiến, Đồng Tiến: nghiên cứu nghề sản xuất gạch nung thủ công; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  42. 32 o Xã Phúc Thuận, Phúc Tân, Thành Công, thị trấn Bắc Sơn: nghiên cứu nghề chế biến chè khô; + Chọn hộ điều tra: Để chọn hộ điều tra, chúng tôi căn cứ vào xã nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu và đặc thù của các nghề TTCN khác nhau. o Đối với nghề mây tre đan: Chúng tôi chọn 60 hộ, chia đều cho 3 thôn ở xã Tiên Phong là: thôn Thù Lâm, thôn Hảo Sơn và thôn Nguyễn Hậu. o Đối với nghề sản xuất gạch nung: Chúng tôi điều tra 50 hộ, trong đó tập trung vào 3 xã: xã Đắc Sơn (trung tâm sản xuất gạch nung của huyện) chọn 20 hộ, xã Nam Tiến (xa Trung Tâm) chọn 15 hộ, xã Đông Tiến (gần Trung Tâm) chọn 15 hộ điều tra; o Đối với nghề chế biến chè khô thủ công: Tổng số hộ điều tra là 50, trong đó xã Phúc Thuận (xã Trung tâm sản xuất chè) chọn 20 hộ, xã Phúc Tân (vùng sâu, vùng xa) chọn 15 hộ và xã Thành Công (giáp Hà Nội) chọn 15 hộ. 1.3.2.2. Phương pháp thống kê: là phương pháp tổng hợp các số liệu của các hiện tượng để tiến hành phân tích, so sánh nhằm làm rõ những vấn đề thuộc bản chất của hiện tượng nghiên cứu. Qua các số liệu thống kê, ta có thể thấy được tính quy luật của các hiện tượng và rút ra được những nhận xét và kết luận đúng đắn. 1.3.2.3. Đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA) PRA là viết tắt của 3 từ tiếng Anh: Participatory Rural Appraisal. Phương pháp này nhằm khuyến khích, lôi cuốn người dân cùng tham gia chia sẻ, thảo luận và phân tích kiến thức của họ về tình hình phát triển các nghề TTCN để cùng họ tìm ra những giải pháp phát triển các nghề TTCN nhằm cải thiện đời sống của người dân địa phương. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  43. 33 1.4. HỆ THỐNG CÁC CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH 1.4.1. Hệ thống chỉ tiêu về kết quả sản xuất - Giá trị sản xuất (GO - Gross output): Giá trị sản xuất của từng ngành hoặc toàn doanh nghiệp là toàn bộ giá trị của các sản phẩm vật chất và dịch vụ hữu ích do lao động của từng ngành hoặc toàn doanh nghiệp làm ra trong mộ t thờ i kỳ nhấ t đị nh, thườ ng là 1 tháng, 1 quý hoặc 1 năm. GO = ∑Qi x Pi (i=1,n) Trong đó : + Qi: Khối lượng sản phẩm, dịch vụ thứ i + Pi: Giá sản phẩm, dịch vụ thứ i + n: số hàng hóa, dịch vụ - Chi phí trung gian (IC - Intermediational Cost): Chi phí trung gian là mộ t bộ phậ n cấ u thà nh củ a tổ ng chi phí sả n xuấ t , bao gồ m toà n bộ chi phí thườ ng xuyên về vậ t chấ t như vậ t liệ u , nhiên liệ u , độ ng lự c , chi phí vậ t chấ t khác (không kể khấ u hao tà i sản cố định) và chi phí dịch vụ (kể cả dị ch vụ vậ t chấ t và dị ch vụ không vậ t chấ t ), đượ c sử dụ ng trong quá trì nh sả n xuấ t ra củ a cải vật chất và hoạt động dịch vụ khác của doanh nghiệp trong một thời gian nhấ t đị nh (thườ ng là 1 tháng, 1 quý hay 1 năm – tương ứ ng vớ i thờ i gian tí nh GO và VA). IC = ∑ Ci x Ti (i= 1,m) Trong đó: + IC là chi phí trung gian + Ci: Chi phí vật chất, dịch vụ thứ i + Ti: Đơn giá vật chất, dịch vụ thứ i + m: số vật chất, dịch vụ cấu thành IC - Giá trị gia tăng ( VA - Value Added): Giá trị gia tăng của ngành hoặ c toà n doanh nghiệ p là toà n bộ kế t quả lao độ ng hữ u í ch củ a nhữ ng ngườ i lao độ ng trong ngà nh hoặ c toà n doanh nghiệ p đó mớ i sá ng tạ o ra và giá t rị hoàn vốn cố định (khấ u hao tà i sả n cố đị nh ) trong mộ t khoả ng thờ i gian nhấ t Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  44. 34 đị nh (1 tháng, 1 quý hoặc 1 năm). Nó phản ánh bộ phận giá trị mới được tạo ra củ a cá c hoạ t độ ng sả n xuấ t hà ng hó a và dị ch vụ mà nhữ ng ng ười lao động của ngành hoặc toàn doanh nghiệp mớ i là m ra. VA = GO - IC - Thu nhập hỗn hợp (MI - Mixed Income ): là phần thu nhập (gồm cả công lao động và lãi) nằm trong giá trị sản xuất sau khi đã trừ đi chi phí trung gian, khấu hao tài sản cố định (phần tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất), thuế, lãi vay, tiề n thuê đấ t và tiền công lao động thuê ngoài . MI = VA – Khấ u hao – Lãi vay – Tiề n thuê đấ t – Thuế – Lao độ ng thuê 1.4.2. Hệ thống chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất - Hiệu quả của chi phí sản xuất (GO/IC, VA/IC, MI/IC): thể hiện bỏ ra một đồng chi phí trung gian thu được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất , bao nhiêu đồng giá trị gia tăng, bao nhiêu đồng thu nhập hỗn hợp; - Hiệu quả sử dụng lao động (GO/LĐ,VA/LĐ, MI/LĐ): thể hiện giá trị sản xuất, giá trị gia tăng, thu nhập hỗn hợp của một ngày người lao động hoặc của một lao động gia đình trong một khoảng thời gian xác định. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  45. 35 CHƢƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN 2.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên a. Vị trí địa lý Phổ Yên là huyện đồi thấp và đồng bằng của tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 26 km về phía Nam và cách Hà Nội 55 km về phía Bắc theo Quốc lộ 3. Huyện Phổ Yên có có vị trí giáp ranh như sau: o Phía Bắc giáp thành phố Thái Nguyên; o Phía Nam giáp thủ đô Hà Nội và tỉnh Bắc Giang; o Phía Đông giáp huyện Phú Bình – Thái Nguyên; o Phía Tây giáp huyện Đại Từ và tỉnh Vĩnh Phúc. b. Địa hình Huyện Phổ Yên thuộc vùng gò đồi của tỉnh Thái Nguyên, bao gồm vùng núi thấp và đồng bằng. Địa hình của huyện thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và chia làm 2 vùng rõ rệt: o Vùng phía Đông (hữu ngạn sông Công) gồm 11 xã và 2 thị trấn, có độ cao trung bình 8 – 15 m, đây là vùng gò đồi thấp xen kẽ với địa hình bằng. o Phía Tây (tả ngạn sông Công) gồm 4 xã, 1 thị trấn, là vùng núi của huyện, địa hình đồi núi là chính, cao nhất là dãy Tạp Giàng 515 m. Độ cao trung bình ở vùng này là 200 – 300 m. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  46. 36 c. Khí hậu Phổ Yên nằm trong khu vực có tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt: mùa nóng, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa lạnh, mưa ít từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. o Chế độ nhiệt: Nhiệt độ trung bình năm khoảng 270C, tháng 7 là tháng nóng nhất (28,50C), tháng 1 là tháng lạnh nhất (15,60C). Số giờ nắng cả năm là 1.628 giờ, năng lượng bức xạ đạt 115 kcal/cm2. o Chế độ mưa: Mưa phân bố không đồng đều trong năm. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 91,6% lượng mưa cả năm. Mùa mưa trùng với mùa lũ nên thường gây úng lụt cho vùng thấp của huyện. o Lượng bốc hơi: Trung bình năm đạt 985,5 mm, trong năm có 5 – 6 tháng lượng bốc hơi lớn hơn lượng mưa. d. Chế độ thủy văn Chế độ thủy văn các sông qua địa phận Phổ Yên phụ thuộc chủ yếu vào chế độ mưa và khả năng điều tiết của lưu vực sông Công và sông Cầu. Mùa lũ trên 2 hệ thống sông Công và sông Cầu thường trùng vào mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10), xuất hiện nhiều nhất vào các tháng 6,7,8,9. Bình quân mỗi năm có từ 1,5 – 2 trận lũ, năm nhiều nhất có 4 trận lũ xuất hiện. Mùa cạn ở 2 hệ thống sông kéo dài khoảng 4 tháng (từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau). Lượng nước trên các sông này bình quân chỉ đạt 1,5 – 2% tổng lượng nước cả năm. Đây là yếu tố bất lợi cho sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn huyện. e. Tài nguyên đất Theo kết quả điều tra và tổng hợp trên bản đồ thổ nhưỡng tỷ lệ 1/25.000, huyện Phổ Yên có 10 loại đất chính. Trong đó có các loại đất phù sa, bạc màu, dốc tụ và đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa thường có độ dốc thấp, tầng đất dày > 100 cm, rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nhưng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  47. 37 loại đất này chỉ chiếm 35% diện tích tự nhiên toàn huyện. Đất đỏ vàng trên phiến thạch sét, đất vàng nhạt trên đá cát, đất nâu vàng trên phù sa cổ có diện tích chiếm 61,6% diện tích toàn huyện, hầu hết có độ dốc >250. Diện tích và cơ cấu các loại đất của huyện Phổ Yên được thể hiện ở bảng dưới đây vµ biể u đồ dướ i đây: Bảng 2.1: Diện tích và cơ cấu diện tích các loại đất huyện Phổ Yên Năm 2004 Năm 2006 Năm 2008 Loại đất DT CC DT CC DT CC (ha) (%) (ha) (%) (ha) (%) Diện tích tự nhiên 25.667,63 100 25.667,63 100 25.667,63 100 1. Đất nông nghiệp 20.191,97 78,67 19.430,41 75,29 18.435,68 71,82 2. Đất phi nông nghiệp 5.166,57 20,13 5.931,3 23,11 6.991,48 27,24 Trong đó: Đất khu CN 60,95 0,24 106,37 0,41 419,56 1,63 3. Đất chưa sử dụng 309,09 1,20 305,92 1.19 240,47 0,94 (Nguồn: Phòng thống kê huyện Phổ Yên) Biểu đồ 2.1. Tình hình sử dụng đất đai ở Phổ Yên 25.000,00 20.000,00 15.000,00 1. Đất nông nghiệp 2. Đất phi nông nghiệp 10.000,00 3. Đất chưa sử dụnng 5.000,00 0,00 2004 2006 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  48. 38 Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 25.667,63 ha. Diện tích đất nông nghiệp toàn huyện là 18.435,68 ha (năm 2008), chiếm 71,82% tổng diện tích đất tự nhiên và giảm dần do đất đai được chuyển sang xây dựng các công trình như trường học, đường giao thông, khu công nghiệp. Tỷ trọng đất lâm nghiệp giảm từ 28,70% năm 2004 xuống còn 25,32% năm 2008. Nguyên nhân là do một bộ phận đất lâm nghiệp đã được chuyển sang trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao. Đất phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá lớn trong diện tích đất tự nhiên toàn huyện (từ 20,13% năm 2004 lên 27,24% năm 2008). Diện tích này tăng lên qua các năm do đất giao thông, đất xây dựng cơ bản tăng mạnh, đấ t xây dự ng khu công nghiệ p . Nhìn chung, diện tích đất nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm nên đã gây ra sức ép phải tăng cường thâm canh trong sản xuất nông nghiệp, phát triển các ngành nghề phụ trong đó có các nghề tiểu thủ công nghiệp, nhưng nó cũng là một cơ hội cho huyện phát triển kinh tế, văn hóa và dịch vụ. f. Tài nguyên rừng Theo số liệu tổng kiểm kê năm 2005, diện tích rừng của huyện là 7.367,75 ha (chiếm 28,7% diện tích tự nhiên), trong đó rừng sản xuất là 5.222,62 ha, rừng phòng hộ là 2.145,13 ha. Tập đoàn cây rừng chủ yếu là bạch đàn, mỡ, bồ đề, keo, tre, mai (tập đoàn cây nhóm 4 - 6). Lượng tăng trưởng đạt 5,5 – 6,5 m3/ha/năm. Phổ Yên là huyện chuyển tiếp giữa vùng núi và vùng đồng bằng nên diện tích đất lâm nghiệp không lớn và tập trung chủ yếu ở các xác phía Tây của huyện. Những xã có thảm rừng lớn là Phúc Tân (2.260,53 ha), Phúc Thuận (2.836,30 ha), Thành Công (1.109,32 ha). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  49. 39 2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội a. Dân số Dân số bình quân toàn huyện năm 2008 là 138.608 người, với 31.810 hộ gia đình (bình quân 4,35 người /hộ), dân số thành thị là 13.211 người (chiếm 9,53%), dân số nông thôn 125.397 người (chiếm 90,47%). Tốc độ tăng dân số bình quân trong 5 năm qua là 1,05%, mỗi năm bình quân tăng khoảng 1.350 người. b. Lao động Năm 2008, toàn huyện có 91.230 lao động trong độ tuổi (chiếm 66% tổng dân số của huyện), trong đó lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế là 86.000 người, trong đó lao độ ng ngà nh nông lâm nghiệ p chiế m 86%.(Xem thêm Bảng 2). Bảng 2.2: Tình hình dân số và lao động của huyện Phổ Yên năm 2008 Năm 2008 Chỉ tiêu Số lƣợng Cơ cấu (ngƣời) (%) 1. Tổng dân số trung bình 138.608 100 a. Tổng dân số chia theo giới + Tổng dân số nam 68.819 49,65 + Tổng dân số nữ 69.789 50,35 b. Tổng dân số chia theo khu vực + Dân số thành thị 13.211 9,53 + Dân số nông thôn 125.397 90,47 2. Dân số trong độ tuổi lao động 91.230 66 3. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế 86.000 100 a. Lao động trong ngành nông lâm thuỷ sản 74.000 86 b. Lao động trong ngành công nghiệp, xây dựng 8.320 9,7 c. Lao động trong ngành thương mại, dịch vụ 3.680 4,3 (Nguồn: Phòng Thố ng kê huyện Phổ Yên) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  50. 40 Biểu đồ 2.2. Cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế ở huyện Phổ Yên năm 2008 Lao động ngành nông lâm 9,7% 4,3% thủy sản Lao động ngành CN - XD Lao động ngành thương mại – DV 86% c. Cơ sở hạ tầng * Giao thông Mạng lưới đường bộ trên địa bàn huyện Phổ Yên gần trục Quốc lộ 3 dài 13 km chạy qua trung tâm huyện theo hướng Bắc Nam. Từ trục Quốc lộ 3 này là các đường xương cá đi đến trung tâm các xã, thị trấn và khu vực dân cư. Tổng chiều dài đường liên huyện là 27 km, bao gồm các tuyến Ba Hàng – Tiên Phong, đường 261 (Ba Hàng – Phúc Thuận). Từ Quốc lộ 3 đi Chã và từ đường 261 đi Thành Công, các tuyến này hiện nay đều là đường cấp phối. Đường liên xã có khoảng 19 km, liên thôn 30 km. Trong phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn hiện nay, nhiều tuyến đã được bê tông hóa theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Tuyến đường sắt Hà Nội – Thái Nguyên qua địa bàn huyện Phổ Yên chủ yếu vận chuyển than và quặng sắt, đoạn qua huyện dài khoảng 19 km. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  51. 41 Có 2 tuyến giao thông thủy thuộc hệ thống sông: Sông Công (đoạn qua địa bàn huyện dài 68 km) và Sông Cầu (dài 17 km). * Thủy lợi Công trình đầu mối trên địa bàn huyện có 3 công trình lớn là Hồ Suối Lạnh, Bình Sơn và trạm bơm Cống Táo. Ngoài ra, còn có trên 20 trạm bơm lớn, nhỏ. Kênh Hồ Núi Cốc cấp I với tổng chiều dài trên 18 km đã được kiên cố hóa, kênh nhánh cấp 2 + 3 dài 240 km, kênh hồ đập dài 36 km kênh chính, 23 km kênh nhánh tập trung ở các xã Phúc Thuận, Minh Đức, Thành Công, Vạn Phái. Trong 5 năm qua đã bê tông hóa được 250 km kênh mương nội đồng, xây dựng thêm được một số trạm bơm dầu, bơm điện. Từ kết quả của công tác thủy lợi đã đưa diện tích 2 vụ lên gần 4.000 ha. * Hệ thống điện, thông tin, liên lạc Hiện nay, 100% số xã, thị trấn trong huyện đã được sử dụng điện lưới quốc gia, số hộ dùng điện đạt 100%. Mạng lưới điện hiện còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sản xuất và sinh hoạt. Hệ thống thông tin liên lạc và viễn thông của huyện khá hoàn chỉnh. Đến nay, mạng điện thoại cố định đã phủ 18/18 xã, thị trấn, sóng điện thoại di động phủ 13/15 xã, thị trấn. * Hệ thống giáo dục, y tế Sự nghiệp giáo dục – đào tạo của huyện Phổ Yên trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục THCS vào tháng 12/2003, sớm 1 năm so với kế hoạch. Phổ Yên luôn là đơn vị dẫn đầu của tỉnh trong công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia. Số trường đạt chuẩn quốc gia là 40, đạt 60% trên tổng số. Số lớp học được tầng hóa là 306 đạt 35%. Chất lượng giáo dục ở các cấp học được nâng lên rõ rệt. Trường Cao đẳng Công nghệ và kinh tế công nghiệp đẩy mạnh công tác đào tạo cho trên 5.200 học viên/năm. Trung tâm dạy nghề Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  52. 42 huyện đào tạo nghề cho 4.700 lao động, đưa tổng số lao động qua đào tạo toàn huyện chiếm 20% nguồn lao động của địa phương. Phổ Yên là huyện có hệ thống y tế tương đối hoàn chỉnh. Toàn huyện có 1 bệnh viện, 2 phòng khám đa khoa, 17 trạm y tế với tổng số 160 giường bệnh, 1.671 cán bộ y tế. Hiện nay có 2 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, ngành y tế huyện đang xây dựng chuẩn quốc gia về y tế xã để nâng cao hơn nữa chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Trong ba năm qua, y tế huyện đã thực hiện khám chữa bệnh cho 140.000 lượt người, giảm tỷ lệ sinh thô xuống còn 0,2‰/năm. 2.1.3. Tình hình phát triển kinh tế của huyện a. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế theo đường lối đổi mới, với sự nỗ lực vượt bậc của cấp uỷ, chính quyền và toàn dân, nền kinh tế của huyện đã có những chuyển biến tích cực. Giá trị sản xuất của các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ - thương mại đều tăng, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch, đời sống của đại bộ phận dân cư đã được cải thiện. Tổng giá trị sản xuất của huyện tăng từ 725.435 triệu đồng năm 2004 lên 1.693.163 triệu đồng năm 2008 (theo giá hiện hành), tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn 2004 - 2008 đạt 17,5%, trong đó ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân mỗi năm 56%, ngành thương mại - dịch vụ tăng 39 % và ngành nông nghiệp tăng 4,5 - 5%/năm. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế của xã thời gian qua có sự chuyển dịch tích cực phù hợp với xu thế chung của huyện và tỉnh, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, thuỷ sản trong tổng giá trị sản xuất (về giá trị vẫn tăng), tăng dần tỷ trọng công nghiệp, TTCN, xây dựng và thương mại, dịch vụ. Năm 2004, tỷ trọng nông nghiệp trong tổng giá trị sản xuất là 51,66 %, công nghiệp - TTCN - xây dựng 28,81 % và thương mại, dịch vụ 19,53 % Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  53. 43 (xem Bảng 2.3). Năm 2008, tỷ trọng nông nghiệp giảm xuống còn 33%, công nghiệp - TTCN - xây dựng tăng lên là 42 % và thương mại, dịch vụ tăng là 25%. Bảng 2.3: Giá trị sản xuất và cơ cấu kinh tế huyện Phổ Yên 2004 - 2008 (theo giá hiện hành) Đơn vị: triệu đồng,% Năm 2004 Năm 2006 Năm 2008 Chỉ tiêu GTSX CC GTSX CC GTSX CC Giá trị sản xuất 725.435 100 936.986 100 1.693.163 100 1. Nông lâm ngư nghiệp 374.740 51,66 436.635 46,60 558.744 33 2. Công nghiệp - XD 209.034 28,81 295.150 31,50 711.128 42 Trong đó : TTCN 43.379 5,98 54.180 5,78 65.990 3,89 3. Dịch vụ - thương mại 141.661 19,53 205.201 22,90 423.291 25 (Nguồn: Báo cáo của UBND huyện Phổ Yên, giai đoạn 2004 – 2008) Biểu đồ 2.3. Cơ cấu kinh tế huyện Phổ Yên năm 2008 25% 33% 1. Nông lâm ngư nghiệp 2. Công nghiệp - XD 3. Dịch vụ - thương mại 42% b. Tình hình phát triển một số ngành * Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  54. 44 Huyện Phổ Yên đã hoàn tất các thủ tục, tiến hành lập quy hoạch các khu công nghiệp nhỏ, quy hoạch Khu công nghiệp Nam Phổ Yên, hai khu đô thị, quy hoạch cụm cảng Đa Phúc, quy hoạch khu công nghiệp quốc phòng miền Bắc đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trong ba năm qua, Phổ Yên đã giải phóng được 800 ha mặt bằng liên quan đến 3.000 hộ. Thu hút được 18 doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn. Đầu năm 2008, Công ty VINAXUKI đã đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất phụ tùng và lắp ráp ô tô với tổng kinh phí cho ba giai đoạn là 300 triệu USD. Công ty VINAXUKI cũng đã được UBND tỉnh Thái Nguyên cấp giấy phép đầu tư Khu công nghiệp Tây Phổ Yên với diện tích đất đồi gần 400 ha thu hút các nhà đầu tư Nhật đầu tư sản xuất phụ tùng và lắp ráp ô tô. Một số ngành công nghiệp truyền thống của địa phương được tạo điều kiện thuận lợi phát triển như: sản xuất gạch ngói, khai thác cát sỏi, mây tre đan, chế biến nông sản thực phẩm, cơ khí Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện đạt 711, 128 tỷ đồng, tăng bình quân mỗi năm 56%. Trong đó ngà nh TTCN đạ t 65,99 tỷ đồng năm 2008 (tăng gấ p 1,52 lầ n so vớ i năm 2004), đó ng gó p từ 3,98 đến 5,98% trong tổ ng GDP huyệ n . * Ngành nông lâm thủy sản Đi đôi với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, Phổ Yên đã tập trung chỉ đạo đối với lĩnh vực nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn bằng đầu tư thêm cơ sở vật chất như: kiên cố hóa kênh mương, xây dựng mới và tu bổ các trạm bơm điện, bơm dầu, kiên cố hóa hệ thống đường giao thông liên huyện, liên xã, hệ thống lưới điện nông thôn phục vụ sản xuất và đời sống theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất; trợ giá đối với các cây con có giá trị kinh tế cao, nâng cao hiệu quả của công tác khuyến nông. Tốc độ tăng trưởng trong nông nghiệp trong 5 năm qua đạt 4,5 – 5%/năm. Nhờ làm tốt công tác phòng trừ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  55. 45 dịch bệnh, khuyến khích phát triển các trang trại chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp nên đàn gia súc, gia cầm của huyện phát triển tốt. Nhịp độ tăng bình quân là 7,5%, góp phần tăng nhanh tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nội bộ ngành nông nghiệp. Năm 2008, cơ cấu ngành nông nghiệp gồm: trồng trọt đạt 67%, chăn nuôi 29,2%, dịch vụ 3,8%. Hiện nay, toàn huyện có 2.500 ha bao gồm cả cây hàng năm và cây lâu năm đạt mức thu nhập 50.000 triệu đồng/năm. Nhiều mô hình sản xuất có giá trị thu nhập cao ở các xã Tiên Phong, Hồng Tiến, Ba Hàng, Đông Cao, Phúc Thuận đang được nhân rộng. Cơ sở vật chất phục vụ sản xuất được tăng cường, đời sống nông dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc. * Ngành thương mại, dịch vụ Dịch vụ thương mại, nhà hàng, khách sạn, dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông đều có bước phát triển mới góp phần tích cực vào phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân. Một số công ty đã bỏ vốn đầu tư các khu du lịch, thương mại như: khu du lịch sinh thái Suối Lạnh, khu du lịch Tân Hương, chợ Ba Hàng bước đầu làm thay đổi bộ mặt của địa phương. 2.1.4. Đánh giá về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Phổ Yên ảnh hƣởng đến sự phát triển của các nghề tiểu thủ công nghiệp * Điều kiện tự nhiên và tài nguyên - Vị trí địa lý: Huyện Phổ Yên nằm ở phía Nam của tỉnh Thái Nguyên, là cửa ngõ giữa thủ đô Hà Nội đi vào tỉnh Thái Nguyên và một số tỉnh thuộc khu vực phía Bắc và ngược lại. Phổ Yên tiếp giáp với các trung tâm kinh tế, văn hóa lớn như Thủ đô Hà Nội, Thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công, tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Giang. Huyện có hệ thống giao thông khá phát triển và thuận lợi (cả đường bộ, đường sắt và đường sông). Đó là những điều kiện tốt để phát triển kinh tế, mở rộng thị trường sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dễ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  56. 46 dàng hội nhập với thị trường trong vùng và cả nước, đặc biệt là nghê sản xuất gạch đất nung, một ngành có tiềm năng lớn của huyện. - Địa hình và phân vùng chính: Phổ Yên là huyện trung du miền núi có thể chia thành hai vùng chính với những lợi thế riêng về phát triển TTCN: + Vùng một gồm 10 xã và 2 thị trấn ở phía Đông sông Công, có thể gọi là vùng “đồng bằng” của huyện. Đây là vùng trọng điểm lúa và rau màu của huyện, có kinh nghiệm trong việc trồng lúa nước, sản xuất công nghiệp – TTCN, kinh doanh dịch vụ và làm nghề truyền thống. + Vùng hai gồm 5 xã và 1 thị trấn ở phía Tây sông Công. Đây là các xã vùng núi của huyện, có thế mạnh trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lâm nghiệp, khai thác chế biến lâm sản, vùng trồng cây nguyên liệu cho nghề mây tre đan, chăn nuôi gia súc Quỹ đất vùng này còn khá dồi dào. - Tài nguyên đất: Toàn huyện có khoảng 308 ha (chiếm khoảng 1,2% diện tích đất tự nhiên) diện tích đất có thể xây dựng vùng nguyên liệu để sản xuất gạch, ngói và đồ gốm dân dụng [23]. Tại Nghị quyết số 20/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006 - 2010) của Chính phủ cho phép huyện Phổ Yên sử dụng 15 ha cho vùng nguyên liệu, xây dựng cơ sở sản xuất gạch đất nung. - Tài nguyên khoáng sản: Ngoài cát, sỏi, đất sét làm gạch ngói, đồ gốm, Phổ Yên còn có các loại tài nguyên khoáng sản quý hiếm khác như Vàng sa khoáng, than Bùn thuộc các xã miền núi của huyện. - Nguồn nhân lực: Dân số trung bình năm 2008 là 138.608 người, có 69.789 nữ (chiếm 50,35%) [23]. Trình độ dân trí được đánh giá vào loại trung bình của khu vực, số lao động có trí, lực đạt ở mức khá. Theo dự báo đến năm 2010, tổng dân số toàn huyện vào khoảng 145.412 người, trong đó có khoảng 77.068 lao động. Đến năm 2015 tổng dân số toàn huyện vào khoảng 152.117 người, trong đó có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  57. 47 khoảng 80.622 lao động. Dự tính số lao động trong độ tuổi từ 18 đến 45 chiếm khoảng 52,3% tổng số lao động, trong đó có 85% là có trình độ phổ thông trung học và công nhân kỹ thuật, thợ thủ công có tay nghề cao. Đây là nguồn nhân lực dồi dào, hội tụ đầy đủ các yếu tố để thu hút các nhà đầu tư thúc đẩy sản xuất gạch đất nung với công nghệ hiện đại [23]. Hiện nay, hệ thống các trường đại học, kỹ thuật chuyên nghiệp, dạy nghề khá nhiều tạo điều kiện trong việc đào tạo tay nghề cho người lao động. Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có 5 trường Đại học, 4 trường cao đẳng, 7 trường trung học chuyên nghiệp và 5 trường dạy nghề, thu hút khoảng 35.000 sinh viên, học sinh mỗi năm. Đây là thế mạnh so với nhiều địa phương khác. - Hệ thống cơ sở hạ tầng: + Hệ thống đường giao thông: Huyện có 16 km đường sắt, 18 km đường quốc lộ 3, đi qua trung tâm huyện, có hơn 40 km đường thủy và hàng trăm km đường ô tô liên huyện, liên xã rất thuận lợi cho giao thông đi lại. + Hệ thống thông tin liên lạc: điện thoại hữu tuyến đã nối đến 100% các xã, mạng điện thoại di động đã phủ toàn huyện, 100% xã có bưu điện xã. + Hệ thống điện lưới quốc gia đã phủ đến 100% xã và hơn 90% hộ dân đã được sử dụng điện lưới quốc gia. Một trạm biến áp trung gian 110 KV đang thi công xây dựng tại xã Tân Hương để tăng cường nguồn điện trung thế cho huyện Phổ Yên. + Hệ thống cung cấp nước sạch: Huyện Phổ Yên hiện nay đang sử dụng hai nguồn nước sạch: một là của nhà máy nước Sông Công, hai là nhà máy nước sạch của huyện được đặt tại xã Nam Tiến do Nhật Bản tài trợ xây dựng. + Hệ thống tín dụng: Có Ngân hàng chính sách, Ngân hàng nông nghiệp và Phát tiển nông thôn [23]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  58. 48 2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN PHỔ YÊN , TỈNH THÁI NGUYÊN 2.2.1. Tình hình phát triển chung của các nghề tiểu thủ công nghiệp ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên * Về hình thức tổ chức sản xuất và số lao động tham gia ở một số nghề TTCN chủ yếu Đặc trưng riêng biệt của từng ngành nghề, và từng địa phương chi phối sự hình thành các hình thức sản xuất kinh doanh thích hợp. Thực tế, trong các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tồn tại các loại hình sản xuất kinh doanh rất đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen và cùng phát triển. Ta có thể kể đến nhiều hình thức tổ chức sản xuất như: hợp tác xã; tổ, nhóm hợp tác; hộ gia đình; các loại doanh nghiệp như doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn Đối với các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở huyện Phổ Yên, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu là: - Hộ kiêm: là hình thức tổ chức sản xuất khá phổ biến với quy mô nhỏ. Quá trình sản xuất kinh doanh không yêu cầu cao về phân công lao động, nhu cầu và khả năng đổi mới công nghệ không lớn, kinh doanh chủ yếu theo hướng tự sản, tự tiêu. Các hộ gia đình có sản xuất sản phẩm tiểu thủ công nghiệp vẫn còn sản xuất nông nghiệp. Do vậy hình thức sản xuất chính là hộ gia đình nông nghiệp kiêm làm nghề tiểu thủ công nghiệp. - Hợp tác xã: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các hộ gia đình, có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của HTX . Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  59. 49 - Làng nghề: đó là hình thức tổ chức sản xuất tiểu thủ công nghiệp phát triển với một tỷ lệ số hộ làm nghề nhất định trong làng và thu nhập từ nghề trở thành nguồn thu nhập quan trọng của hộ. Bảng 2.4. Hình thức tổ chức sản xuất và số lao động tham gia ở một số nghề TTCN của huyện Phổ Yên năm 2008 Số lƣợng lao động Các nghề Hình thức tổ chức SX tham gia 1. Mây tre đan HTX, làng nghề 3.000 2. Sản xuất gạch đất nung Hộ kiêm 700 3. Chế biến chè khô Hộ kiêm 14.383 (Nguồn: Phòng Công thương huyện Phổ Yên) Nghề mây tre đan có hai hình thức tổ chức sản xuất là hộ gia đình nông nghiệp kiêm làm nghề thủ công và các hộ xã viên Hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp mây tre đan Tiên Phong. Nghề này chủ yếu phát triển ở xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên. Hiện có khoảng 1.300 hộ làm nghề đan lát với trên 3.000 lao động tham gia. Trong tổng số 1300 hộ làm nghề mây tre đan thì có khoảng 120 hộ (chiếm 9,2%) là xã viên của hợp tác xã với tổng số 190 lao động. Về thực chất thì các hộ đan lát vẫn là các hộ gia đình nhưng vì giữa các hộ có sự liên kết với nhau và liên kết với HTX trong ký kết hợp đồng và tiêu thụ sản phẩm. Hợp tác xã đứng ra gom hàng, kiểm tra chất lượng và ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho cả các hộ xã viên và các hộ chưa phải là xã viên HTX. Đây là nghề phụ, sử dụng khoảng 90% thời gian nhàn rỗi của lao động nông nghiệp, sản xuất tại hộ gia đình nên có ưu thế nổ i bậ t là không cần nhà xưởng. Nghề sản xuất gạch đất nung được tổ thức sản xuất theo hình thức hộ kiêm. Tuy nhiên, thu nhập từ sản xuất gạch đất nung là nguồn thu nhập chính của các hộ. Đây là nghề đã được hình thành và phát triển từ khá lâu trên địa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  60. 50 bàn huyện. Hiện tại có khoảng 288 cơ sở tại các xã: Thuận Thành, Đông Cao, Đắc Sơn, Tiên Phong, Tân Phú, Minh Đức, Thành Công, Trung Thành, Hồng Tiến, Phúc Thuận, Đồng Tiến, Nam Tiến, Tân Hương, Bãi Bông, Ba Hàng, Vạn Phái. Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất tập trung chủ yếu ở 3 xã Đắc Sơn, Nam Tiến, Vạn Phái vì các xã này có tiềm năng về đất sét để sản xuất gạch nung (có khoảng 19 triệu m3), chất lượng tốt, đủ tiêu chuẩn sản xuất gạch nung. Nghề chế biến chè khô thủ công được tổ chức theo hình thức hộ kiêm. Đây là nghề thu hút đông nhất số lao động tham gia. Nghề này được phát triển ở các xã vùng một, phía Tây Sông Công, gồm 5 xã và thị trấn. Từ vài chục năm trở lại đây các xã này đã nổi tiếng với nghề trồng và chế biến chè khô. Có nhiều thôn, xóm, xã có tới 70 – 90 % các hộ tham gia trồng và chế biến chè như các xã Phúc Thuận, Thành Công và Minh Đức. Đây là nghề chính và nguồn thu nhập chủ yếu của nhân dân khu vực này. * Về giá trị sản xuất và số lượng một số sản phẩm TTCN của huyện Trong những năm qua, ngành TTCN trên địa bàn huyện phát triển tương đối nhanh, đặc biệt là những năm gần đây. Tổng giá trị sản xuất TTCN tăng dần qua từng năm. Năm 2004, giá trị toàn huyện đạt 43,379 tỷ đồng, đến năm 2008 tăng lên 65,990 tỷ đồng (tăng gấp hơn 1,5 lần). Tốc độ tăng giá trị sản xuất TTCN tăng bình quân 8,75% (thể hiện ở bảng 2.5). Sự tăng trưởng của ngành TTCN đã đóng góp quan trọng trong tổng giá trị sản xuất ngành công nghiệp và GDP của huyện. Ngành TTCN huyện Phổ Yên chiếm tỷ trọng khoảng 34% (giai đoạn 2006 – 2008) giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp của huyện, đa dạng về ngành nghề trong đó nhiều ngành nghề sử dụng nguồn nguyên liệu, tay nghề lao động địa phương như sản xuất gạch đất nung, chế biến chè khô, tơ tằm Tham gia vào phát triển các nghề TTCN của huyện có các loại hình kinh tế như HTX, kinh tế hộ, làng nghề. Trong những năm qua, kinh tế hộ vẫn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  61. 51 giữ vai trò chủ đạo trong phát triển TTCN của huyện, tổng giá trị sản xuất TTCN của khu vực này chiếm khoảng 80% tổng giá trị sản xuất TTCN của toàn huyện. Kinh tế HTX chỉ mới hình thành và phát triển từ năm 2006 trở lại đây nên chưa phát huy được ưu thế và vai trò của mình, tổng giá trị sản xuất TTCN của loại hình kinh tế này chỉ chiếm khoảng 2% trong tổng giá trị sản xuất TTCN của toàn huyện (thể hiện ở bảng 2.5). Bảng 2.5 : Giá trị sản xuất ngành TTCN phân theo loại hình kinh tế Đơn vị : Triệ u đồ ng và % 2004 2006 2008 Loại hình Tốc độ GTSX CC GTSX CC GTSX CC tăng BQ Tổng GTSX TTCN 43.379 100 54.180 100 65.990 100 8,75% 1. Hợp tác xã - - 1.080 1,97 1.230 1,86 8,92 % 2. Kinh tế hộ 35.579 82 45.000 83,00 54.970 83,30 7,31% 3. Làng nghề 7.800 18 8.100 15,03 9.790 14,84 9,77% (Nguồn: Phòng Công thương huyện Phổ Yên) Biểu đồ 2.4. Cơ cấu GTSX ngành TTCN phân theo loại hình kinh tế năm 2008 14,84% 1,86% Hợp tác xã Kinh tế hộ Làng nghề 83,30% Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  62. 52 Về phát triển làng nghề, trong những năm qua đã tiến hành khôi phục và phát triển các làng nghề như mây tre đan, nghề chế biến chè khô Tuy nhiên, tỷ trọng trong giá trị sản xuất của làng nghề trong tổng giá trị sản xuất TTCN cũng chỉ đạt từ 10 – 15% ( thể hiện ở biểu đồ 2.4). Sự phá t triể n củ a cá c loạ i hì nh kinh tế TTCN đã góp phần làm cho năng lực sản xuất TTCN của toàn huyện tăng lên, sản lượng nhiều sản phẩm TTCN tăng lên đáng kể (xem bảng 2.6). Bảng 2.6: Sản lƣợng một số sản phẩm TTCN qua các năm T Tốc độ Sản phẩm chủ yếu ĐVT 2005 2006 2007 2008 T tăng BQ 1 Mây tre đan 1000sp 1.117 1.189 1.265 1.345,552 6,16 % 2 Gạch đất nung Tr.viên 69 73,5 81,5 100 13,67 % 3 Chè khô Tấn 658 823 1028 1285 25 % (Nguồn: Phòng Công thương huyện Phổ Yên) Nhìn chung, thực trạng phát triển ngành TTCN trên địa bàn huyện có nhiều chiều hướng phát triển tốt. Tuy nhiên, nhữ ng năm qua lực lượng lao động lành nghề còn quá ít, vai trò tham mưu, trách nhiệm quản lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với lĩnh vực TTCN chưa thực sự mạnh, công nghệ sản xuất nhìn chung còn lạc hậu nhưng chậm được cải tiến. Nguồn vốn ưu tiên đầu tư phát triển TTCN còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Nhiều mặt hàng sản xuất ra nhưng chưa có thương hiệu, nhãn mác nên chưa tạo ra được uy tín cạnh tranh trên thị trường. Công tác quảng bá, tuyên truyền còn yếu, vai trò xúc tiến đầu tư của cơ quan chuyên môn chưa mạnh nên chưa tạo động lực thúc đẩy ngành TTCN phát triển. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
  63. 53 2.2.2. Thực trạng phát triển một số nghề TTCN ở huyện Phổ Yên 2.2.2.1. Nghề mây tre đan Nghề mây tre đan Phổ Yên đượ c phá t triể n tậ p trung ở cá c thôn như Thù Lâm , Hảo Sơn, Yên Trung , Nguyễ n Hậ u thuộ c đị a bà n xã Tiên Phong . Đây là nghề có truyề n thố ng lâu năm củ a đị a phương . Nghề mây tre đan được Trung tâm dạy nghề huyện Phổ Yên tổ chức dạy nghề cho lao động nông thôn nhằm tạo việc làm cho nhân dân trong huyện, đồng thời bảo tồn được nét truyền thống của dân tộc. Đến nay, huyện đã tổ chức 11 lớp dạy nghề cho trên 300 lao động (trong đó có 2 lớp dạy nghề cho người khuyết tật được 60 người), ngoài ra còn đưa người về Hà Tây, Hưng Yên để học làm hàng xuất khẩu. Đến nay đã có một bộ phận lao động sản xuất được những mặt hàng có kỹ thuật cao. Đặc biệt, được sự tài trợ và giúp đỡ của tổ chức INSA – ETEA Tây Ban Nha, Trung tâm hỗ trợ phát triển bền vững Việt Bắc – Đại học Thái Nguyên, Ban phát triển nông thôn (RDG Phổ Yên), năm 2006 Hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp Tiên Phong đã hoàn thành xây dựng nhà trưng bày giới thiệu sản phẩm, nhà xưởng với diện tích 180 m2. Mặ c dù nhậ n đượ c khá nhiề u sự quan tâm hỗ trợ nhưng hiệ n nay cá c hộ cũ ng chỉ sản xuất được những mặt hàng đơn giản , thiế t yế u. Tính đến hết năm 2008 có 1.300 hộ làm nghề đan lát (chiế m khoả ng 45% số hộ ) với trên 3.000 lao động tham gia tại xã Tiên Phong, trong đó có 120 hộ với 190 lao động là thành viên của hợp tác xã dịch vụ tiểu thủ công nghiệp Tiên Phong. Sản phẩm đan lát là những vật dụng phục vụ sản xuất và sinh hoạt như thúng, xảo, nia và sàng. Tình hình phát triển của nghề này được thể hiệ n ở cá c mặ t sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên