Luận văn Sự biến đổi và hội nhập với văn hóa biển trong tục thờ cúng, nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Hải Phòng
Bạn đang xem tài liệu "Luận văn Sự biến đổi và hội nhập với văn hóa biển trong tục thờ cúng, nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
luan_van_su_bien_doi_va_hoi_nhap_voi_van_hoa_bien_trong_tuc.doc
Nội dung text: Luận văn Sự biến đổi và hội nhập với văn hóa biển trong tục thờ cúng, nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Hải Phòng
- Sự biến đổi và hội nhập với văn hóa biển trong tục thờ cúng, nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Hải Phòng. TS. Lê Thanh Tùng Trường Đại học Dân lập Hải Phòng In the spiritual life of people living by the sea in Haiphong, the belief in Tứ Vị Thánh Nương plays an important role. The transmitted memories, cultural features and remains about Tứ Vị Thánh Nương have confirmed that this is one form of maternal worshipping in Haiphong. That is the variation of the original belief, and the marine cultural integration of Haiphong marine people. The new naming of Tứ Vị Thánh Nương, on one hand, confirms her role in seagoing career and on the other hand, reflects the meeting between Tứ Vị Thánh Nương and the Goddesses of the local people so that in the duration of life. Hải Phòng có 125 km bờ biển với diện tích ngư trường khoảng 50.000 km 2. Cư dân Việt có mặt tại nơi đây đã vài thế kỷ trước. Có một bộ phận người Việt đã chọn nghề biển để mưu sinh từ thủa xưa cho đến nay. Sự hình thành nối tiếp và phát triển nghề biển đã là môi trường duy trì, tiếp nối và sản sinh các tín ngưỡng, sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng - một bộ phận quan trọng trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân biển. Một trong những tín ngưỡng đó là Tứ Vị Thánh Nương, được dân biên gọi tắt là Bà Đại Càn. Trong đời sống tâm linh cư dân ven biển Hải Phòng, tín ngưỡng Tứ Vị Thánh Nương có vị trí rất quan trọng. Những ký ức được trao truyền, những bản sắc phong, những dấu tích về Tứ Vị Thánh Nương đã khẳng định đây là một dạng thờ Mẫu ở Hải Phòng. Sự trường lưu của tín ngưỡng này hình như độc lập với sự thay đổi, biến thiên của thời cuộc và nghề đi biển. Từ trung tâm đền Cờn/lạch Cờn Tứ Vị Thánh Nương đã cùng lưu dân Việt xuôi về biển, mà Hải Phòng là một bến đỗ trên bước đường tiến ra biển của dân tộc Việt. Dừng chân tại vùng đất ven biển Hải Phòng, Tứ Vị Thánh Nương đã gắn bó với cư dân nơi đây, nhất là cộng đồng cư dân làm nghề biển. Sự mưu sinh bằng đường nước khiến việc thờ phụng Tứ Vị Thánh Nương của cư dân Việt ở Hải Phòng, có phần giản dị, so với trung tâm. Ở Hải Phòng, tín ngưỡng Tứ Vị Thánh Nương được lưu truyền theo con đường dân dã, đậm yếu tố của cuộc sống “đi khơi, đi lộng, ra cửa vào lạch”. Do đó, bốn vị Thánh Nương đã được gọi theo cách của dân biển – Bà Đại Càn/Bà Dàng Lạch. Danh xưng mới của Tứ Vị Thánh Nương, môt mặt xác tín vai trò “ngư nghiệp” của các Bà, mặt nữa như phản ánh sự gặp gỡ giữa Tứ Vị Thánh Nương với các nữ thần của cư dân thổ trước ở nơi đây, để rồi trong tiến trình phát triển cuộc sống, tất cả đã hoà kết vào trong hình mẫu truyền thống, sâu đậm trong tâm thức cư dân biển Hải Phòng. Các kết quả nghiên cứu của sử học, văn hoá học cũng như sự tự nhận của các tộc họ ở vùng đất cửa biển đã cho biết: phần lớn cư dân Hải Phòng có nguồn gốc từ vùng Hải Dương, Thanh Hoá - Nghệ An. Cùng với lớp cư dân người Việt từ các vùng quê khác nhau của đất Bắc, đến đất Hải Phòng sinh sống khoảng từ thế kỷ XVI. Phần đông lớp cư dân này sinh sống ở vùng ven biển. Bối cảnh môi sinh của vùng đất, vùng biển mới khiến người Việt phải sớm thích ứng để sinh tồn và phát triển. Các làng nông, ngư, hoặc kết hợp giữa nông và ngư được hình thành. Làng vạn chài hình thành còn là môi trường để các tài sản văn hoá tinh thần của cư dân Việt mang từ vùng quê gốc Hải Dương, Thanh - Nghệ tiếp tục phát huy để phục vụ cuộc sống cộng đồng trên địa bàn mới. Tín ngưỡng Tứ Vị Thánh Nương mà trung tâm phát tích tại đền Cờn của làng Kẻ Cờn, nay là làng Phương Cần, xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là một trong những di sản tinh thần 1
- được tiếp nối ở các làng xã ven biển Hải Phòng. Để tìm ra sợi dây liên hệ giữa cư dân ven biển Hải Phòng và Bà Đại Càn thì phải ngược về vùng biển Lạch Cờn – nơi tích tụ và “phát tán” niềm tin, trung tâm của sự thờ phụng. Lạch Cờn là một trong những cửa biển lớn ở xứ Nghệ. Từ các lễ và hội tại đền Cờn xưa và nay, có thể thấy việc thờ phụng Tứ vị nơi đây chính là thờ các nữ thần cai quản cửa lạch - cửa biển và bảo hộ nghề biển. Hầu hết các chư phái tộc các làng biển Hải Phòng đều cho rằng nghề biển là do ông cha họ mang từ vùng quê gốc Thanh - Nghệ. Qua đó có thể nhận ra mối liên hệ giữa cư dân ven biển đất Hải Phòng và tín ngưỡng Tứ Vị Thánh Nương từ góc độ khởi nguyên. Theo đó, khi từ vùng quê gốc di cư ra Hải Phòng, người dân Thanh Nghệ đã đặt niềm tin vào sự bảo trợ của Tứ Vị Thánh Nương - Nữ thần Biển hộ trì cho những thuyền nhân vượt bão tố cập bến an toàn, cũng giống như Thiên hậu – Thánh Mẫu của người Hoa vậy. Có thể, sự thờ phụng Tứ Vị Thánh Nương ở giai đoạn đầu là cốt bày tỏ lòng biết ơn sâu nặng với các nữ thần có công cưu mang trên biển nước. Khi cập vùng đất, vùng biển mới, một bộ phận cư dân lại tiếp tục nghề biển, tiếp tục công việc chèo ghe đi từ những cửa lạch - cửa biển để ra khơi vào lộng. Mà nghề biển là nghề rất vất vả, bấp bênh. Người đi biển càng sợ hơn, bởi hơn ai hết, họ hiểu mình rất dễ rơi vào cảnh này. Biển cả mêng mông, bất trắc xảy ra đã khó bảo toàn tính mạng nhưng cũng không đáng sợ bằng xác rơi vào miệng cá hay bị tan biến giữa biển khơi. Trải qua nhiều đời định cư và làm biển ở vùng đất, vùng biển này khiến các thế hệ người dân đất Hải Phòng suy tôn Tứ Vị Thánh Nương là các Nữ thần cai quản cửa lạch, cửa sông, độ trì cho thuyền ghe ra vào cửa lạch an toàn. So với vùng trung tâm của tín ngưỡng thờ Tứ Vị Thánh Nương thì ở Hải Phòng, việc thờ phụng Tứ Vị Thánh Nương đậm tính thực tế, mang nhiều ý nghĩa do xuất phát từ chính cuộc sống mưu sinh của cộng đồng dân biển. Tại đây, những phần thuộc về “bác học” của Tứ vị không xuất hiện. Nếu ở đền Cờn, Tứ Vị Thánh Nương là gốc người Trung Quốc, được thiêng hoá do công trạng có ý nghĩa lịch sử lớn lao đối với hai triều đại phong kiến Việt Nam là triều Trần và triều Lê, thì ở Hải Phòng, qua khảo sát, chúng tôi không hề gặp truyền thuyết, thần tích về Tứ vị như ở vùng đền Cờn/lạch Cờn; đồng thời cũng không gặp truyền thuyết về Tứ vị mang màu sắc Việt, gắn với cư dân buổi đầu dựng nước - thời các vua Hùng. Sự biến đổi và hội nhập với văn hóa biển trong tục thờ cúng, nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương ở Hải Phòng là vấn đề quan trọng trong phát triển và bảo tồn giá trị di sản văn hoá. Việc nghiên cứu vấn đề có ý nghĩa thực tiễn về phát huy nguồn di sản văn hoá đặc sắc ở Hải Phòng và đất nước trong giai đoạn phát triển kinh tế biển đảo. Tứ vị Thánh nương, như tên gọi, là để chỉ 4 vị thánh nữ. Bốn vị thánh này có nguồn gốc từ Trung Quốc và được thờ ở nhiều nơi của nước ta, nhiều nhất là ở vùng Thanh Hóa và Nghệ An. Theo thống kê của Ninh Viết Giao, chỉ riêng huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), ngoài đền Cờn còn có tới 30 nơi khác thờ, ở huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa) cũng có tới 20 làng thờ bốn vị thánh nữ Trung Quốc, theo cuốn Thanh Hóa chư thần lục thì ở Thanh Hóa có tới 81 nơi thờ. Một số công trình nghiên cứu của các tác giả khác cho biết, tục thờ này có ở Quảng Ninh, Quảng Bình, Huế, Quảng Nam, Sài Gòn và các tỉnh miền Tây Nam bộ như, Bến Tre, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cần Thơ, Cà Mau, Sóc Trăng. Truyền thuyết lưu truyền ở các địa phương có thờ Tứ vị Thánh nương họ là ai thì cư dân địa phương đều kể rằng, họ có bốn người, trong số đó, nhân vật chính là mẹ của vị vua cuối cùng của nhà Tống, ba người còn lại thường không thật thống nhất theo cách kể của từng vùng, gồm các công chúa và cung nữ, có khi lại là nhà sư (Trung Quốc hoặc Việt Nam). Vậy thực ra, Tứ vị Thánh nương, họ là ai? Trước hết chúng ta trở lại tìm hiểu trong các bộ chính sử có ghi chép nhân vật thờ. Tống sử chép về chung cục của nhà Nam Tống như sau: “Thừa tướng Lục Tú Phu ngậm ngùi nước mắt cõng vị hoàng đế nhỏ mới 8 tuổi nhảy xuống biển tự tử. Dương Thái Hậu biết tin con trai đã 2
- chết, bèn khóc than rằng: “Ta từ ngàn dặm xa xôi đến đây, cũng là vì cốt nhục của nhà Triệu, hôm nay chết rồi, ta còn sống được nữa ư?”. Nói rồi cũng nhảy xuống biển tự tử theo con trai. Trương Thế Kiệt và hoàng thất Nam Tống Triệu Nhược Hòa phiêu dạt trên biển, không ngờ gặp sóng thần nên cũng bị dìm chết. Hôm sau trên biển nổi lên hơn 100 nghìn thi thể. Vị hoàng đế cuối cùng của Nam Tống đã chết, cuối cùng triều Tống cũng bị tiêu diệt. Sau khi Triệu Bính chết, xác nổi lên mặt biển. Ngư dân nhìn thấy một xác chết trẻ con, người mặc long bào, chân đi tất đen, đi hài, đầu đội vương miện, còn có ấn vua. Dưới chân sặc mùi chân hôi. Mọi người nhận ra xác chết đó là Triệu Bính, bèn đưa về mai táng ở lăng Tống Thiếu Đế - làng Xích Loan – Triều Châu ngày nay”. Một tài liệu khác viết về giai đoạn này của nhà Tống cũng chép tương tự: “Lục Tú Phu ngồi cùng thuyền với Vệ Vương Gia, thuyền của Vương Gia lớn, và các thuyền lại gần sát với nhau, nên không thể đi, cuối cùng đã cõng Vệ Vương Gia Triệu Bính nhảy xuống biển, hậu cung và quần thần đều nhảy xuống theo, bảy ngày sau, hơn 100 nghìn xác chết nổi trên mặt biển. Dương Thái Hậu biết tin con trai đã chết, bèn khóc than rằng: “Ta từ ngàn dặm xa xôi đến đây, cũng là vì cốt nhục của nhà Triệu, hôm nay chết rồi, ta còn sống được nữa ư?”. Nói rồi cũng nhảy xuống biển tự tử theo con trai. Trương Thế Kiệt chôn cất bà ở bờ biển. Và Trương Thế Kiệt cũng bị dìm chết dưới biển. Triều Tống cũng bị tiêu diệt”. Về sự hiển linh của Tống phi, Đại Việt sử kí toàn thư chép: “Hưng Long thứ 19 (1311), mùa đông, tháng 12, vua thân đi đánh Chiêm Thành vì chúa nước ấy là Chế Chí phản trắc. Hưng Long thứ 20 (1312), mùa hạ, tháng 5, dụ bắt được chúa Chiêm Thành Chế Chí đem về Tháng 6, vua từ Chiêm Thành về (đến kinh đô) lập đền thờ thần ở cửa biển Cần Hải. Trước đây, vua đi đánh Chiêm Thành, đến cửa biển Cần Hải (trước là Càn, tránh tên húy đổi là Cần) đóng quân lại, đêm mơ thấy một thần nữ khóc lóc nói với vua: “Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp phải sóng gió, trôi giạt đến đây. Thượng đế phong thiếp làm thần biển đã lâu. Nay bệ hạ mang quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập công”. Tỉnh dậy, vua cho gọi các bô lão tới hỏi sự thực, cho tế, rồi lên đường. Biển vì thế không nổi sóng. Quân nhà vua tiến thẳng tới thành Đồ Bàn, bắt được chúa Chiêm đem về. Đến nay, sai hữu ty lập đền, bốn mùa cúng tế”. Khảo sát các truyền thuyết có được qua các nguồn thư tịch và tài liệu điền dã, chúng tôi thấy rằng, các bản kể có chung một điểm tương đồng là: các nhân vật chính của câu chuyện đều là nữ, liên quan đến cung đình nhà Tống (hoàng hậu, công chúa, thị nữ), họ đã đi bằng đường biển vào Việt Nam sau khi nhà Tống thất thủ. Sự khác biệt giữa các bản kể, theo thời gian của thư tịch, tập trung ở hai điều: một là số lượng nhân vật và hai là nhân thân của họ. Nếu trong Đại Việt sử ký toàn thư, số lượng chỉ mới có một người: “Đêm mơ thấy một thần nữ khóc lóc với vua” thì đến bản Cần hải môn từ trong phần Tục biên Việt điện u linh của Nguyễn Văn Chất (1422-?) thì số lượng các nhân vật đã là ba, gồm có hoàng hậu và hai công chúa, “phu nhân họ Triệu là công chúa nước Nam Tống, tất cả có ba mẹ con, phu nhân là con gái út”. Bản này kể rằng, nước Nam Tống đại bại, thừa tướng Lục Tú Phu ôm vua Tống Đế Bính nhảy xuống biển, ba mẹ con phu nhân (không rõ gồm Thái hậu và em vua hay hoàng hậu và công chúa?) ôm cột buồm dạt đến một ngôi chùa ven bờ biển. Do nhà sư (Trung Quốc) có tà tâm, bị cự tuyệt nên tự tử, ba mẹ con ân hận cũng nhảy xuống biển tự vẫn, sau đó xác trôi vào đến cửa Cờn, sắc mặt tươi nguyên, dân chài lập đền thờ. “Phàm những thuyền đi bể, gặp khi sóng gió nguy hiểm, kêu cầu đều được thoát nạn. Sau các nơi cửa bể đều lập đền thờ, đền nào cũng có tiếng thiêng”. Như vậy, theo bản kể này, số lượng nhân vật là 3, cách thức chết cũng là chết trên biển, thời gian chết thì chậm hơn Tống sử vài tháng, nghĩa là có vài tháng trú ngụ tạm tại một ngôi chùa bên bờ biển Trung Quốc. 3
- Trong Lĩnh Nam chích quái liệt truyện (bản A. 2107) có Càn hải thần truyện, bản Lĩnh Nam chích quái (bản A. 1572 và VHv. 1266) có Càn hải tam vị phu nhân truyện, trong đó, số nhân vật là 3 người. Lịch triều hiến chương loại chí chép lại truyện của Việt điện u linh, nói là có 3 người (ba mẹ con công chúa nhà Tống). Nhân vật ở Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái gồm “tất cả có ba mẹ con, phu nhân là con gái út” đến Ô châu cận lục (do Dương Văn An nhuận sắc) ở thế kỉ XVI đã là bốn người, gồm “mẹ và ba người con, phu nhân là út, phu nhân họ Triệu, là công chúa đời Nam Tống”. Đáng chú ý là, trong Ô châu cận lục, còn có thêm một truyền thuyết khác về các vị thần này, tổng số vẫn là 4 người nhưng nhân thân của từng nhóm lại không giống nhau: Họ là hoàng hậu thứ 13 của Hùng Vương cùng với hai công chúa và một hoàng tử (do bị thứ thiếp ghen ghét, hoàng tử đã bị cắt dương vật lúc mới sinh, vua đày ba mẹ con ra biển, bị dạt vào cửa Cờn. Thượng đế cho làm thần. Ngư dân nằm mộng thấy thần hiển linh cho đánh nhiều cá nên lập đền thờ). Như vậy, tên gọi Tứ vị dùng để chỉ các vị thần ở tín ngưỡng này có lẽ bắt nguồn từ các bản kể ở tài liệu của Dương Văn An. Tạ Chí Đại Trường cho rằng, việc “thêm một” này là sự “nho giáo hóa” chất thần biển của các vị thần và cùng với nó là dấu hiệu của ảnh hưởng văn hóa Chàm do xuất hiện tục thờ linga ở đây, tuy nhiên, xem ra việc “thêm một” này không liên quan gì đến tục thờ thần biển của người Chăm cả. Con số bốn lại tiếp tục xuất hiện ở Đại Nam nhất thống chí (bộ sách 28 tập được biên soạn từ năm 1864-1875, bản thảo được hoàn thành 1882). Đại Nam nhất thống chí chép: “Khoảng niên hiệu Tường Hưng nhà Tống, quân Tống bị quân Nguyên đánh vỡ ở Nhai Sơn, Thái hậu họ Dương cùng ba công chúa chạy ra biển, chợt bão nổi, bị chết đuối, xác trôi dạt vào đền cửa Cờn, nhan sắc vẫn như lúc sống, người địa phương lập đền thờ”. Trong sách này, 4 vị Thánh nương đó là “Thái hậu họ Dương cùng ba công chúa”, giống như cách kể của Ô châu cận lục. Các tác giả sách Địa chí Quảng Ninh dựa vào Đại Nam nhất thống chí nhưng lại cho rằng, Tứ vị gồm hoàng hậu, hai công chúa và một nhũ mẫu. Đơn cử một số điểm thờ Đại Càn Thánh Mẫu, hoặc Tứ Vị Thánh Nương ở Hải Phòng để chúng ta tìm hiểu về nguyên nhân cũng như ảnh hưởng của Tứ Vị Thánh Nương đối với cộng đồng dân tộc Việt. Có thể có sự đồng cảm bởi Vương hậu, Vương phi nhà Tống vì kháng chiến chống kể thù chung Mông – Nguyên. Có thể bởi đức độ giữ chữ tiết nghĩa mà ngọc phả dẫn, phù hợp với chất đạo lý dân tộc, hoặc do sự âm phù vua Trần Anh Tông cho nên biển lặng, sóng yên giúp quân Trần nhanh chóng chinh phạt kẻ thù phương Nam thành công, hay có sự anh linh, một niềm tin nào đó cho sĩ, công, nông, thương Đại Việt trước kia, Đại Nam, Việt Nam chúng ta ngày nay cầu được ước thấy, mưa thuận gió hoà, thuận buồm xuôi gió dẫn đến đời sống ấm no, hạnh phúc mà dân gian hết lòng tôn kính, lập đền thờ tự. Hoặc do dân quê thuần phác, đời sống khó khăn, trong công cuộc khai hoang lấn biển, gặp nhiều khó khăn khi phải tồn tại trên mảnh đất mới, môi trường đánh bắt hải sản luôn rình rập rủi ro, nguy hiểm dân làng không còn cách nào hơn là lập đền ở các vung ven biển Hải Phòng như Tiên Lãng, Thủy Nguyên, Đồ Sơn, Cát Hải, Kiến Thụy thờ Tứ Vị Thánh Nương mong sự cứu độ và đây là liều thuốc an thần, giúp dân khai phá thành công, thiết lập làng xã với một nếp sống nông thôn nghĩa tình. Các di tích thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Hải Phòng khá lớn, khá nhiều, thường có hai hoặc ba toà chính, có hệ thống tường hoa, cột trụ vây quanh tạo khuôn viên nội chữ đinh, hoặc nội chữ công, ngoại chữ quốc, quy mô hoành tráng như ở một số làng ở quận Đồ Sơn: đền Vạn Ngang, huyện Tiên Lãng: đình Giang Khẩu xã Đại Thắng, miếu làng Nhuệ Ngự xã Tự Cường, miếu làng Phú Kê thị trấn Tiên Lãng, đình Nêu xã Tiên Minh, miếu và đình làng Cẩm Khê xã Toàn Thắng và đình Lao Chử làng Chữ Khê xã Hùng Thắng, đình Chanh Dưới, Tam Đa, Vĩnh Bảo; Miếu Tràng, Cổ Am- Vĩnh Bảo, Đoan Lễ, Tam Hưng, Thủy Nguyên. Có thể nói về phần địa lý nơi thờ tự các vị thần này hầu hết được thờ tại những vùng đất ven biển 4
- xưa và nay của Hải Phòng. Phần thư tịch, câu đối đều có nhắc tới nạn xâm lăng của quân Nguyên – Mông, triều đình Nam Tống bị diệt vong, thái hậu cùng ba con bị nạn trôi đến Càn Môn - Quỳnh Lưu - Nghệ An, nên dân gian coi đền Cờn - Nghệ An là nơi phát tích, hàng năm vẫn có người đến đền Cờn dâng lễ để tỏ rõ lòng thành, ngưỡng mộ thần phù trợ. Lễ hội ở đây, ngoài việc tế lễ, ngày 7 tháng giêng có lệ thi trâu béo, khoẻ. Để làm việc này, ngay từ ngày 6 tháng giêng các giải pháp tắm rửa cho trâu, cho trâu ăn no, lại trang trí trên đầu, trên sừng trâu. Các giáp góp gạo thổi xôi làm lễ, tối mồng 6 thắp đuốc rước trâu. Người cưỡi trên lưng trâu giơ cao ngọn đuốc và đoàn người trống chiêng hối hả theo sau. Đoàn rước có tới hàng chục con trâu béo, trâu đẹp được tập trung để dự thi, con nào đạt thì được giải. Lệ này được duy trì cho đến ngày nay, vừa khích lệ tinh thần chăn nuôi tạo sức kéo, vừa nhớ lại chuyện xưa. Như vậy, tục thờ, nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương đã hội nhập với tín ngưỡng bản địa của hầu hết cư dân ven sông biển ở Hải Phòng. Điều đó đã được nhận định thần như một vị thần bản địa hốn dung văn hóa với vùng đất mới bên cạnh việc thờ phụng những vị thần biển khác. Tục thờ, nghi lễ Tứ Vị Thánh Nương đã được dân ven sông biển Hải Phòng công nhận như một vị thần biển bảo vệ cho cư dân đi biển đánh được nhiều cá tôm trong các mùa bội thu. Qua khảo cứu sắc phong, người ta nhận thấy có một thực tế là ở Hải Phòng, Tứ Vị Thánh Nương đã gia nhập vào hệ thống Thần đình để bảo trợ dân chúng, có vị thế quan trọng trong ngôi đình đất Hải Phòng. Phần lớn Tứ Vị Thánh Nương giữ địa vị là chủ thần của đình ở những nơi này, Đại Càn Tứ Vị Thánh Nương gắn bó với cuộc sống bình an của dân chúng. Lễ đình làng hàng năm diễn ra vào 2 kỳ xuân thu được gọi là lễ Cầu an, mà vị thần số một được cung thỉnh khấn cầu, được trân trọng hô mời đầu tiên trong bản văn tế chính là Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương. Qua các bải văn tế đó, ta nhận thấy hiển diện một tập thể đông đảo thần linh hỗ trợ dân biển, mà đứng đầu là bà Đại Càn Tứ Vị Thánh Nương. Đây là dấu hiệu khẳng định: Ở Hải Phòng, Tứ Vị Thánh Nương vẫn là Nữ Thần Biển, Chúa Nước, Bà Mẹ Nước của người Việt làm biển. Thực tế cho thấy, nghề biển là nghề gặp nhiều rủi ro về tính mạng nhất, nên một đặc trưng trong hệ tín ngưỡng cộng đồng dân biển là họ sùng bái rất nhiều thần linh. Đối với họ, chỉ có bổ sung thêm các Thần chứ không bao giờ bớt đi. Cho nên ngày nay, mặc dù đã có Ông Ngư - Thần Nam Hải, Đông Hải bảo hộ nhưng người dân biển vẫn không quên Nữ thần biển Đại Càn Tứ Vị Thánh Nương. Bản chất thờ phụng không thay đổi, có chăng chỉ là hình thức đổi thay. Trong các ngày lễ lệ, lễ hội của cộng đồng dân biển Hải Phòng hiện nay. Bà Đại Càn Tứ Vị Thánh Nương bao giờ cũng được cung thỉnh, hô mời với đầy đủ mỹ tự do nhà Nguyễn phong tặng: “Hàm Hoằng Quảng Đại Chí Đức Phổ Bác Hiển Hoá Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương Vương Thượng đẳng thần”. Tính phổ biến của tín ngưỡng Tứ Vị Thánh Nương (đã được xác tín là một dạng tín ngưỡng ngư nghệp biển). Tuy nhiên, từ một vài “quan sát trực quan” trên một vài tư liệu, chúng tôi có cảm nhận, tín ngưỡng biển dạng nữ thần này hình như còn mang tính khu vực, ở đây muốn nói đến các nước thuộc khu vực Đông Á. Vấn đề chúng ta cần tiếp cận thêm là từ những nghi thức cúng lễ ở Hải Phòng nói đến vấn đề hội nhập với địa phương ven biển. Từ đó, làm rõ ý nghĩa văn hóa của những nghi lễ ấy trong lịch sử và phát huy những giá trị lành mạnh về văn hóa biển như du lịch biển, xây dựng môi trường sinh thái biển, khai thác các tiềm năng khác của biển (ngoài đánh cá), trong chiến lược về kinh tế biển của Việt Nam ở thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./. 5
- Tài liệu tham khảo 1. Dương Văn An biên soạn, Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn Nguyên dịch nghĩa & chú thích (1997), Ô châu cận lục, Nxb. KHXH, Hà Nội. 2. Phan Huy Chú, Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực dịch (1972), Lịch triều hiến chương loại chí, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài gòn. 3. Đại Nam nhất thống chí (1970), Tập 2, Viện sử học, Nxb. KHXH, Hà Nội. 4. Đại Việt sử kí toàn thư (1998), Tập 1, Nxb. KHXH, Hà Nội. 5. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Ngô Đức Thịnh chủ biên (2000), Văn hóa dân gian làng ven biển, Nxb. VHDT, Hà Nội. 7. Nguyễn Hữu Thông (2006), Hải Cát đất và người, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 8. Tống sử, Chương.47 (Bộ sử này được biên soạn dưới đời Nguyên, do một nhóm tác giả 30 người, gồm 496 tập, được biên soạn từ năm 1343 đến 1345) – Trần Quỳnh Hương dịch. 7