Luận văn Thử nghiệm ương nuôi cá xiêm

doc 59 trang huongle 3070
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thử nghiệm ương nuôi cá xiêm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_van_thu_nghiem_uong_nuoi_ca_xiem.doc

Nội dung text: Luận văn Thử nghiệm ương nuôi cá xiêm

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA THỦY SẢN LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: THỬ NGHIỆM ƯƠNG NUÔI CÁ XIÊM (BETTA SPLENDES) và CÁ BỐNGTƯỢNG (OXYELEOTRIS MARMORATA) BẰNG TRÙN GIẤM (TUBATRIX ACETI) NGÀNH: THUỶ SẢN KHOÁ: 2001 – 2005 SINH VIÊN THỰC HIỆN: ĐÀO NGỌC QUYÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 9/2005
  2. THỬ NGHIỆM ƯƠNG NUÔI CÁ XIÊM ( BETTA SPLENDES) và CÁ BỐNG TƯỢNG (OXUELEOTRIS MARMORATA) BẰNG TRÙN GIẤM (TUBATRIX ACETI) Thực hiện bởi: Đào Ngọc Quyên Luận văn được đệ trình để hoàn tất yêu cầu cấp bằng Kỹ Sư Thủy Sản. Giáo viên hướng dẫn: Phạm Văn Nhỏ Thành phố Hồ Chí Minh 9/2005 2
  3. CẢM TẠ Chúng tôi xin chân thành cảm ơn: Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Nông Lâm – Tp.HCM Ban Chủ Nhiệm Khoa Thủy Sản Trường Đại Học Nông Lâm – Tp.HCM. Cùng toàn thể quý thầy cô trong trường đã truyền đạt kiến thức cho chúng tôi trong suốt những năm học tại trường. Đặc biệt gởi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Phạm Văn Nhỏ đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ chúng tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài tốt nghiệp. Đồng thời chúng tôi gởi lời cảm ơn đến tất cả các anh chị, các bạn trong và ngoài lớp đã động viên, giúp đỡ chúng tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài. Do thời gian thực hiện đề tài còn có hạn, trang thiết bị còn thiếu thốn và lần đầu tiên làm quen với công việc nghiên cứu nên luận văn của chúng tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp ý của thầy cô và các bạn. 3
  4. TÓM TẮT Đề tài được thực hiện tại Trại Thực Nghiệm Khoa Thuỷ Sản Trường Đại Họcï Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh từ ngày 29/3/2005 đến ngày 31/7/2005, nhằm đánh giá ảnh hưởng của các khẩu phần thức ăn khác nhau lên tỷ lệ sống của cá xiêm, cá bống tượng. Nghiên cứu bao gồm 2 phần. Phần A: Kết quả trên cá xiêm Phần B: Kết quả trên trùn giấm Các thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lập lại cho mỗi nghiệm thức. Các nghiệm thức ứng với các khẩu phần thức ăn A, B, C, D. Nghiệm thức 1 (A): 1òng đỏ trứng gà Nghiệm thức 2 (B): tảo khô Spirulina Nghiệm thức 3 (C): thức ăn tổng hợp Nghiệm thức 4 (D): trùn giấm Ở cả 2 phần A và B, kết quả tỷ lệ sống của cá bột ở 4 khẩu phần thức ăn khác nhau thì giống nhau và không sai khác về mặt thống kê (P>0,05). 4
  5. ABSTRACT The study was conducted at Fisheries Experimental Farm Of Fisheries Faculty Nong Lam University in HCM city to assess impacts of various diets on survival rate of fry. From 29th March to 31st July in 2005. The study comprised two part with 4 diets: Part A: Result of experiments on Fightting Fish Treatment 1 (A): egg yolk Treatment 2 (B): dried algae Spirulina Treatment 3 (C): synthesis food Treatment 4 (D): Vinegar eel Part B: Result of experiments on Marble Gobby Treatment 1 (A): egg yolk Treatment 2 (B): algae Spirulina Treatment 3 (C): synthesis food Treatment 4 (D): Vinegar eel In part A and B, survival rate of fry fishes in A, B, C, D are similar and not significantly different (P>0,05). 5
  6. MỤC LỤC ĐỀ MỤC TRANG TRANG TỰAi CẢM TẠ ii TÓM TẮT iii ABSTRACT iv MỤC LỤCv DANH SÁCH ĐỒ THỊ viii DANH SÁCH CÁC BẢNG ix DANH SÁCH HÌNH ẢNHx I GIỚI THIỆU 1.1 Đặt Vấn Đề 1.2 Mục Tiêu Đề Tài II TỔNG QUAN TÀI LIỆU2 2.1 Đặc Điểm Sinh Học Của Cá Xiêm 2 2.1.1 Đặc điểm phân loại2 2.1.2 Đặc điểm hình thái và phân bố 3 2.1.3 Đặc điểm sinh thái 3 2.1.4 Tập tính sống 4 2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng 4 2.1.6 Đặc điểm sinh sản 5 2.1.7 Mùa vụ sinh sản 7 2.2 Đặc Điểm Sinh Học Của Bống Tượng 7 2.2.1 Đặc điểm phân loại 7 2.2.2 Đặc điểm hình thái 7 2.2.3 Phân bố8 2.2.4 Đặc điểm sinh thái 8 2.2.5 Đặc điểm dinh dưỡng 9 2.2.6 Tăng trưởng và kích thước tối đa 9 2.2.7 Đặc điểm sinh sản 10 2.3 Tình Hình Sản Xuất Giống Cá Bống Tượng 11 2.3.1 Trong nước 11 2.3.2 Trên thế giới 12 2.4 Thức Aên Sử Dụng Trong Quá Trình Ương Cá Bột Lân Cá Hương 13 2.4.1 Thức ăn chế biến 13 2.4.2 Thức ăn sống 16 III VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19 3.1 Thời Gian Và Địa Điểm Thực Hiện Đề Tài 19 6
  7. 3.1.1 Vật Liệu 19 3.1.2 Nguồn cá bột 19 3.1.3 Thức ăn và dụng cụ cho ăn 19 3.1.4 Hệ thống ương nuôi cá bột 20 3.2 Phương Pháp Nghiên Cứu 20 3.2.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm 20 3.2.2 Quản lý và chăm sóc 22 3.2.3 Các chỉ tiêu theo dõi 22 3.3 Phương Pháp Thu Thập Số Liệu 23 3.4 Phương Pháp Phân Tích Số Liệu 23 IV KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 24 Phần A: Kết Quả Thử Nghiệm Trên Cá Xiêm 24 4.1 Đánh Giá Tỷ Lệ Sống Của Cá Xiêm Ơû Các Lần Thử Nghiệm 24 4.1.1 Lần thử nghiệm thứ I (từ 24/4/2005 đến 4/5/2005) 24 4.1.2 Lần thử nghiệm thứ II (từ 11/5/2005 đến 27/5/2005) 25 4.1.3 Lần thử nghiệm thứ III (từ 14/6/2005 đến 20/6/2005) 26 4.1.4 Lần thử nghiệm thứ IV (từ 1/7/2005 đến10/7/2005) 28 Phần B: Kết Quả Thử Nghiệm Trên Cá Bống Tượng 31 4.1 Đánh Giá Tỷ Lệ Sống Của Cá Bống Tượng Ơû Các Lần Thử Nghiệm 31 4.1.1 Lần thử nghiệm thứ I (từ 14/4/2005 đến 20/4/2005) 31 4.1.2 Lần thử nghiệm thứ II (từ 8/6/2005 đến 12/6/2005) 32 4.1.3 Lần thử nghiệm thứ III (từ 22/7/2005 đến 31/7/2005) 33 4.2 So Sánh Tỷ Lệ Sống Trung Bình Giữa Các Nghiệm Thức 34 4.3 Các Yếu Tố Chất Lượng Nước Trong Quá Trình Nuôi 35 4.3.1 Chỉ tiêu pH trong suốt quá trình thí nghiệm 35 4.3.2 Chỉ tiêu nhiệt độ trong quá trình thí nghiệm 36 V KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 38 5.1 Kết Luận 38 5.2 Đề Nghị 38 7
  8. TÀI LIỆU THAM KHẢO 39 PHỤ LỤC 40 Phụ Lục 1: Một Số Hình Aûnh Minh Họa 40 Phụ Lục 2: Cách Bố Trí Thí Nghiệm 43 Phụ Lục 3: Kết Quả Phân Tích Thống Kê 46 Phụ Lục 4: Kết Quả Tỷ Lệ Sống 49 Phụ Lục 5: Các Chỉ Tiêu Môi Trường Nước 51 8
  9. DANH SÁCH CÁC ĐỒ THỊ ĐỒ THỊ NỘI DUNG TRANG 4.1 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Ơû Giai Đoạn I 24 4.2 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Ơû Giai Đoạn II 26 4.3 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Ơû Giai Đoạn III 27 4.4 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Ơû Giai Đoạn IV 28 4.5 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Bống Tượng Ơû Giai Đoạn III 33 4.6 Chỉ Tiêu pH Các Buổi Sáng Trong Quá Trình Thí Nghiệm 35 4.7 Chỉ Tiêu pH Các Buổi Chiều Trong Quá Trình Thí Nghiệm 36 4.8 Nhiệt Độ Trong Quá Trình Thí Nghiệm 36 9
  10. DANH SÁCH CÁC BẢNG BẢNG NỘI DUNG TRANG 4.1 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Có Mật Độ 20con/Lít (Lần IV) 29 4.2 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Có Mật Độ 50con/Lít (Lần IV) 30 4.3 Kết Quả Ương Nuôi Cá Bống Tượng Trong Bình Nhựa (Lần Thứ I) 31 4.4 Kết Quả Ương Nuôi Cá Bống Tượng Trong Bình Nhựa (Lần Thứ I) 32 4.5 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Bống Tượng (Lần III) 34 4.6 Yếu Tố Nhiệt Độ Trong Quá Trình Thí Nghiệm 37 10
  11. DANH SÁCH CÁC HÌNH ẢNH HÌNH ẢNH NỘI DUNG TRANG Hình 1 Hình Dạng Ngoài Của Trùn Giấm 40 Hình 2 Cá Bống Tượng 1 Ngày Sau Khi Nở 40 Hình 3 Cá Xiêm 2 Ngày Sau Khi Nở 41 Hình 4 Cá Xiêm 10 Ngày Tuổi (Lần III) 41 Hình 5 Cá Xiêm Trưởng Thành 42 Hình 6 Thức Aên Cho Cá Bột 42 11
  12. I. GIỚI THIỆU 1.1 Đặt vấn đề Trong những năm gần đây, ngành thủy sản nước ta đã không ngừng phát triển. Nhiều mặt hàng thủy hải sản đã có mặt trên thị trường thế giới như: cá basa, tôm sú và một số mặt hàng thủy hải sản khác. Để ngành thủy sản có thể ngày càng ổn định và phát triển hơn nữa thì cần phải chú ý đến ba vấn đề sau: con giống, kỹ thuật nuôi và thức ăn. Trong đó, thức ăn có thể coi là nhân tố quan trọng nhất. Các loại thức ăn có thể là nguồn gốc động vật hay thực vật, thức ăn tự nhiên hay thức ăn chế biến. Để duy trì sự sống và hoạt động của cơ thể, ngoài oxygen mọi sinh vật đều cần có thức ăn. Thức ăn là nguồn cung cấp nguyên liệu giúp cho cơ thể sinh trưởng và phát triển, là nguồn vật liệu tái tạo bổ sung những bộ phận hao mòn của cơ thể trong quá trình sống. Hơn nữa, thức ăn còn cung cấp nguồn năng lượng cần thiết cho cơ thể hoạt động. Cho nên, trong quá trình sống, động vật không ngừng lấy thức ăn từ môi trường bên ngoài. Thức ăn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và sự phát triển bình thường của động vật thủy sản. Nếu dinh dưỡng không hợp lý có thể gián tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của các bệnh khác nhau mà ngày nay người ta chưa kịp xác định hết. Vì vậy thức ăn đóng một vai trò nhất định trong nuôi trồng thủy sản đặt biệt là trong giai đoạn ấu trùng. Hiện nay, ở Việt Nam, có rất nhiều loại thức ăn sống được sử dụng để ương nuôi cá bột như : Rotifera, Moina, trùng chỉ, lăn quăn, Atermia nhưng không phải thức ăn nào cũng phù hợp cho tất cả mọi loài cá, đặc biệt là những loài cá có kích thước nhỏ như cá xiêm, cá bống tượng Tuy nhiên, trên thế giới, từ lâu, có một loại thức ăn sống rất phổ biến cho các loài cá đặc biệt là cá có kích cỡ nhỏ, đó là trùn giấm. Được sự phân công của Khoa Thuỷ Sản Trường Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài “Thử Nghiệm Ương Nuôi Cá Xiêm (Betta splendes) và Cá Bống Tượng (Oxyeleotris marmorata) Bằng Trùn Giấm (Tubatrix aceti). 1.1 Mục tiêu đề tài Mục tiêu đề tài nhằm: Nhằm đánh giá tỷ lệ sống của cá bột cá xiêm và cá bột bống tượng khi cho ăn trùn giấm. So sánh kết quả tỷ lệ sống của cá khi cho ăn trùn giấm và khi cho ăn các loại thức ăn khác. II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1 Đặc điểm sinh học của cá xiêm 2.1.1 Đặc điểm phân loại 12
  13. Bộ: Perciformes Bộ phụ: Anabantoidei Họ: Anabantidae Giống: Betta Loài: Betta splendes Tên tiếng Anh: Fighting fish. Tên tiếng Việt: Cá lia thia, cá đá, cá xiêm, cá chọi. Phân loại theo màu sắc và hình dáng - Cá lia thia đồng Gồm 2 loài: cá mang đỏ và cá mang xanh, thường thấy ở các đồng ruộng miền đông và miền tây Nam Bộ. Cá mang đỏ: toàn thân màu xanh da trời, đuôi màu tím nhạt, mang cá màu đỏ. Cá mang xanh: cũng có hình dáng giống cá mang đỏ nhưng màu sắc ở thân xanh đậm và nhanh nhẹn hơn. Cá xiêm (đuôi rẽ quạt) Hiện nay, loài này được coi là điển hình của loài cá đá. Màu sắc của cá đậm, sặc sỡ và lớn hơn cá lia thia đồng. Đặc biệt là vây đuôi của cá tròn xoe giống như hình rẽ quạt. Toàn thân đậm, ánh lên các màu xanh, đỏ pha vàng nhạt và có viền đỏ. Từ loài này có thể chia ra làm 4 loài như sau: Cá xiêm đỏ Cá xiêm xanh Cá xiêm đen Cá xiêm xám Cá phướn Cá có hình dáng khá hấp dẫn, vi dài với dáng vẻ tha thướt. Cá có vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi kéo dài rũ xuống như là lá cờ phướn nên mới gọi là cá phướn. Loài cá này đá không hay, không chịu được đòn nên ít dùng làm cá đá. Chủ yếu chúng được dùng làm cá cảnh nhờ dáng vẻ thướt tha khi bơi lượn. Ngoài ra, người ta còn lai tạo giữa cá xiêm với cá phướn hoặc cá xiêm thuần với cá xiêm lai, từ đó tạo ra nhiều giống cá và đặt tên khác nhau. 13
  14. 2.1.2 Đặc điểm hình thái và phân bố Cá có thân hình thoi. Cá thuần chủng có màu xanh biếc, lá mạ, màu đỏ của rượu chát, có hoặc không có hai sọc dọc đậm từ vây lưng tới cuốn đuôi. Cá có tia vi lưng màu đen, các vây xanh nhạt, các vân sẫm gợn sóng. Vi bụng, vi hậu môn của cá có màu đỏ. Những con cá được nuôi làm cảnh có các vây phát triển hơn cá ngoài tự nhiên. Do tập tính hung hăng hay đá nhau của nó nên người ta còn gọi nó là cá đá hay cá chọi. 2.1.3 Đặc điểm sinh thái Cá xiêm là loài cá sống trong môi trường nước ngọt. Do có cơ quan hô hấp phụ là mê lộ cho phép chúng sử dụng oxy từ không khí nên cá có thể sống được trong môi trường có ngưỡng oxy thấp hoặc trong những môi trường ô nhiễm Cá xiêm có sức sống mạnh. Vì vậy, đây là đối tượng dễ chăm sóc và có thể nuôi ở những nới chật hẹp. Điều này rất có ý nghĩa khi nuôi riêng cá đực trong những chai lọ để kích thích tính hung hăng, hiếu chiến của chúng. Dù ở ngoài tự nhiên hay trong những bể nuôi nhân tạo, cá xiêm luôn thích ẩn nấp trong hốc. Cá xiêm sống được trong mọi tầng nước. Các yếu tố môi trường sống thích hợp cho cá là: . Nhiệt độ: 240C (ngoài tự nhiên) 26 - 270C (môi trường nhân tạo) . pH: 6,5 -7,5 nhưng tốt nhất là từ 6,8 - 7,2. 2.1.4 Tập tính sống Ở loài cá này, dường như những ưu điểm về màu sắc và hình dáng cũng như tập tính sống đặc biệt đều tập trung ở con đực. Khi tiếp xúc với cá đực khác hoặc thấy ảnh của nó phản chiếu qua gương, cá đực thường phô trương những màu sắc tiềm ẩn và kỳ ảo. Điều thú vị nhất khi đề cập đến tập tính “đấu tranh sinh tồn” của loài cá này là khả năng chọi nhau của con đực. Trận đấu diễn ra khi hai con đực gặp nhau. Chúng sẽ giương vi, phùng mang và màu sắc sẽ chuyển đổi rực rỡ hơn. Cá quẩy mình qua lại, đầu hướng thẳng về phía đối thủ. Chúng giữ tư thế này ở vài giây đến vài phút và bất chợt lao vào nhau và dùng miệng để tấn công. Một trong những pha quyết định sự thắng bại thú vị làm bất ngờ người xem là hai đối thủ chận đầu nhau và bất ngờ tấn công với hai 14
  15. miệng cắn dính vào nhau. Thân cá bị căng ra. Cá chiến đấu bằng cách xoay tròn quanh trục thân và thường kéo dài từ 10 đến 20 giây, thường kết thúc khi cá chìm xuống đáy. Sau đó, chúng rời nhau ra và nhanh chóng trồi lên mặt nước để thở nhờ cơ quan hô hấp phụ. Sau đó, lại tiếp tục chiến đấu. Trận đấu kết thúc khi con yếu sức bỏ chạy, thậm chí có khi chết trận. Cả hai chiến sĩ cá sau trận đấu đều không tránh khỏi những tổn thương và các vi rách nát. 2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng 2.1.5.1 Tính ăn Cá xiêm là loài ăn tạp thiên về động vật. Chúng thích những mồi sống di động như: lăn quăn, trùng chỉ, ấu trùng muỗi lắc Theo kết quả khảo sát tính ăn của cá xiêm của Dương Thị Thuý Nga (1993), thì cơ quan tiêu hoá của cá xiêm gồm: miệng, hầu, thực quản với hai manh tràng khá dài, ruột ngắn và tận cùng là lỗ hậu môn nếu là con đực. Còn ở con cái thì tận cùng của ruột là lỗ huyệt. Đồng thời đo được tỷ lệ chiều dài ruột /chiều dài thân (Li/Ls) là 0.67 - 0.75. Vì vậy, đây là loài cá có cấu tạo cơ quan tiêu hoá thích hợp với tập tính ăn tạp thiên về động vật. 2.1.5.2 Thức ăn theo các giai đoạn tuổi Theo nhiều tài liệu tham khảo cùng kinh nghiệm của các nghệ nhân cá cảnh thì thức ăn và liều lượng cho ăn thay đổi theo từ giai đoạn tuổi. Từ 1 - 3 ngày tuổi, cá dinh dưỡng chủ yếu nhờ noãn hoàng. Cá bột mới nở trú ẩn dưới tổ cho đến khi tiêu hết noãn hoàng. Từ 4 - 7 ngày tuổi, cá bắt đầu ăn thức ăn ngoài. Loại thức ăn thích hợp cho cá là infusoria. Từ 8 - 14 ngày tuổi, cá được cho ăn Moina và lòng đỏ trứng gà. Ngoài ra, với cách nuôi dân gian, người ta còn cho cá ăn vài giọt mỡ heo. Với loại thức ăn này, tránh cho cá ăn quá nhiều vì sẽ tạo lớp ván mỡ bên trên mặt nước cản sự khuếch tán của oxy từ không khí vào nước. Từ 15 - 21 ngày tuổi, cá có thể ăn được Moina với kích cỡ lớn hơn và trùng chỉ. Theo Dr William T.innes (1990), khi cá khoảng ba tuần tuổi thì cơ quan hô hấp phụ chưa hình thành. Vì vậy, việc ương nuôi cá trong giai đoạn này phải chú ý đến mật độ cá và chất lượng nước nuôi. Mật độ cá phải vừa phải và phải đảm bảo oxy cần thiết cho cá. Nếu mật độ quá dày hoặc chất lượng nước quá xấu sẽ làm hàm lượng oxy hoà tan trong nước thấp. Lúc này, cá buộc phải sử dụng đến cơ quan hô hấp phụ chưa hoàn chỉnh, dễ làm cá bị tổn thương Lượng oxy đòi hỏi không được đáp ứng sẽ dẫn tới tình trạng chết ngạt ở cá. Từ 21 ngày tuổi trở đi, thức ăn là Moina trưởng thành, trùng chỉ, cung quăn Chúng đặc biệt ưa thích mồi sống chuyển động. Nếu cùng một lúc cho cá ăn cả thức ăn 15
  16. sống và thức ăn chết thì cá sẽ ăn mồi sống, còn lỡ nếu bắt mồi chết thì cá sẽ phun ra ngay. 2.1.6 Đặc điểm sinh sản Để phân biệt giới tính, người ta thường dựa vào màu sắc của cá. Màu sắc của cá đực không rực rỡ như cá cái nhưng khi phát dục, màu cá đực lại trở nên rất đẹp. Tuổi thành thục của cá : 3 tháng tuổi. Lúc này, cá có kích cỡ khoảng 4cm. Cá thường sinh sản vào buổi sáng kéo dài đến trưa. Thời gian đẻ từ 3 - 5 giờ. Nhiệt độ nước thích hợp cho cá sinh sản là 25 – 280C (Võ Văn Chi, 1993). Vào mùa sinh sản, sự chuẩn bị tổ và các cuộc giao hoan diễn ra rất thú vị. Khi muốn kết đôi với một con cá cái, cá đực sẽ chiếm một diện tích trong bể và nhả bọt khí ra làm tổ. Mỗi bọt khí được bao bọc bởi một màng chất nhờn tiết ra từ miệng. Chúng kết dính vào nhau tạo thành một khối bọt có đường kính từ 8 – 10 cm. Sau thời gian bị cá đực rượt đuổi, khi cá cái đã sẵn sàng đẻ thì chúng quần ổ và quấn vào nhau. Cá đực xoay quanh cá cái, ép và ôm lấy cá cái bằng các vây dài, toàn bộ cơ thể cong vòng một cách dịu dàng. Hành động này kéo dài khoảng một phút. Theo Bùi Hồng Phúc, 1992 thì hành động này là “sự va chạm có tác dụng kích thích”. Sau đó, cá đực buông dần cá cái ra. Sự tiết sẹ và trứng bắt đầu. Trứng tiết ra từng nhóm nhỏ, trung bình từ 15 – 25 trứng/lần, đôi lúc đạt 40 – 50 trứng/lần nhưng trường hợp này rất ít. Cũng ngay lúc ấy, cá đực tiết sẹ để thụ tinh. Sự thụ tinh diễn ra trong môi trường nước. Sau khi trứng được cá đẻ ra, nó sẽ chìm từ từ xuống đáy bể nuôi. Cá đực bơi theo và nhẹ nhàng ngậm trứng vào miệng rồi nhanh chóng trồi lên mặt nước, phun trứng vào tổ sao cho trứng dính vào cụm bọt nổi. Cá đực cứ tiếp tục như vậy cho đến khi thu lượm hết số trứng rơi dưới đáy. Sau đó, nó lại tiếp tục động tác cuộn thân, xoắn quanh con cái như mô tả trên, cứ thế khoảng vài chục lần cho đến khi con cái đẻ xong. Sự kết hợp giữa bơi lội và đẻ trứng xảy ra rất ngoạn mục. Trong thời gian ép đẻ, cá đực và cái ở gần mặt nước, ngay dưới đám bọt. Cá đực luôn giữ bọt, nếu bọt có tan đi, nó lại phun thành đám khác. Một đặc điểm khác ở loài cá này là khi sinh sản, con cái có đặc tính ăn trứng. Do đó, trong tự nhiên, sau khi đẻ xong, cá cái sẽ bị cá đực rượt đuổi đi xa một khoảng nào đó. Vì vậy, khi bố trí cá đẻ trong khạp, người ra bắt cá cái ra ngay sau khi nó đẻ xong, để tránh cá cái ăn trứng và bị tổn thương do cá đực rượt đuổi. Theo Võ Văn Chi, 1993 thì thời gian để trứng nở là 30 – 40 giờ ở nhiệt độ 28 – 290C. Cá bột mới nở vẫn ở dưới tổ cho đến khi tiêu hết noãn hoàng. Nếu con nào tách ra trước khi có đủ khả năng bơi lội thì cá đực sẽ hớp lấy vào miệng và nhẹ nhàng phun trở lại tổ. 16
  17. Trong suốt thời kỳ cá bột còn quá nhỏ, cá đực lại đều đặn việc ngậm cá con và phun chúng ra với những bọt mới. Như vậy, nó đảm bảo cho cá con có đủ lượng oxy để hô hấp. Theo Mody, 1932, lúc này, cá chưa mở miệng. Chúng hô hấp bằng oxy từ bọt khí. Như vậy, việc nhả thêm bọt khí của cá đực là nhằm để đảm bảo lượng oxy cần thiết cho con nó thở. Tầm quan trọng của cá đực trong việc ấp trứng và chăm sóc con được các nghệ nhân cá cảnh đánh giá rằng: “Nếu bắt cá đực ra khỏi tổ sau khi đẻ xong thì hầu hết hoặc toàn bộ trứng sẽ không nở. Chúng bị rơi xuống đáy khạp và bị ung. Sự phân hủy của những trứng ung này làm tiêu hao nhiều oxy hoà tan. Đồng thời, không có bọt khí do cá đực phun ra. Điều này dẫn tới việc môi trường nước nghèo oxy, khả năng sống sống của cá còn lại sẽ giảm xuống. Vì vậy, sự có mặt của cá đực rất quan trọng trong sự phát triển của trứng và cá nới nở”. Khi cá con được 5 ngày tuổi, sự có mặt của cá đực lúc này không còn cần thiết nữa. Bây giờ, nên bắt nó ra, nếu không sau một thời gian nó có thể ăn con. 2.1.7 Mùa vụ sinh sản Trong tự nhiên, cá xiêm có thể sinh sản quanh năm nhưng mùa sinh sản chính chỉ tập trung vào mùa nắng và các tháng đầu mùa mưa, là từ tháng 2 đến tháng 6. Vì theo kinh nghiệm của các cơ sở nuôi cá cảnh, mùa nắng nhiệt độ nước ấm áp thì tỉ lệ nở và tỉ lệ sống của cá bột sẽ cao. Còn vào mùa mưa và mùa lạnh, cá rất dễ bị nhiễm bệnh, thường gặp là bệnh nấm thuỷ mi. 2.2 Đặc điểm sinh học của bống tượng 2.2.1 Đặc điểm phân loại Bộ: Perciformes Bộ phụ: Gobioidei Họ: Eleotridae Giống: Oxyeleotris Loài: Oxyeleotris marmorata Bleeker 1952 Tên tiếng Anh: Marble goby. Tên tiếng Việt: Cá bống tượng. 2.2.2 Đặc điểm hình thái 17
  18. Cá bống tượng đầu to, rộng, dẹp bằng. Mõm dài nhọn, hướng lên trên, giữa mõm có một u nhô cao. Miệng trên rộng, hàm dưới dài hơn hàm trên và đưa ra phía trước. Răng nhọn, gốc răng to, xếp thưa thành nhiều hàng trên mỗi hàm. Không có râu. Mắt tròn, nhỏ lệch về phía đầu. Lưỡi rất phát triển, dẹp bằng, đầu lưỡi tròn. Lỗ mũi trước mở ra bằng một ống ngắn. Thân cá mập, phần trước hơi dẹp bằng, phần sau hơi dẹp bên. Đuôi thon dài, vẩy nhỏ phủ khắp thân và đầu từ mõm. Đầu và phần trước của thân phủ vẩy tròn, phần sau phủ vẩy lươc. Vây đuôi tròn, có màu hơi đỏ hoặc nâu vàng, có nhiều sọc đỏ và nâu hoặc xám tạo thành vân. Mặt lưng có ba đốm đen, một ở sau đầu, một ở gốc vi lưng thứ nhất và một ở gốc vi lưng thứ hai. Mặt bên của thân có nhiều đốm đen to, những đốm này không có hình dáng nhất định. 2.2.3 Phân bố Trong tự nhiên, cá phân bố ở khắp loại hình thuỷ vực nước ngọt từ ao hồ, ruộng, mương, kênh, rạch, sông Theo Lê Như Xuân và Phạm Đinh Thành (1994), cá bống tượng là loài cá đặc trưng cho vùng nhiệt đới. Trên thế giới, bống tượng được bắt gặp ở Thái Lan, Mã Lai, Brunei, Sumatra, Lào, Campuchia và Việt Nam. Ở miền Nam Việt Nam, cá xuất hiện nhiều ở các sông rạch thuộc hệ thống sông Cửu Long, Đồng Nai và sông Vàm Cỏ. 2.2.4 Đặc điểm sinh thái Theo tác giả Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994), cá bống tượng sống ở đáy thuỷ vực, hoạt động về đêm. Ban ngày, nó thường vùi mình xuống bùn đáy và có thể sống ở đó nhiều giờ. Trong ao, cá ưa ẩn nắp ven bờ, nơi có hang hốc, cỏ rong và thực vật thuỷ sinh thượng đẳng. Cá bống tượng là loài có cơ quan hô hấp phụ nên có thể sống được trong môi trường nước thiếu oxy trong một khoảng thời gian nhất định. Qua kết quả nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Dũng và Đỗ Khắc Xuân Diễm (1995), thì cá bống tượng có thể sống được trong môi trường nước có pH từ 4 - 9 nhưng tốt nhất là 6 - 8. Cá cần có dưỡng khí trên 3mg/l, song cá có thể chịu đựng ở môi trường dưỡng khí thấp vì cá có cơ quan hô hấp phụ (http//: www.vietlinh.com.vn - Đi cùng nhà nông). 18
  19. Khả năng thích ứng với độ mặn của cá bống tượng khá cao so với nhiều loài 0 cá khác. Cá bống tượng có thể sống được ở độ mặn 13 /00. Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994), cá bống tượng thích hợp sống trong môi trường nước ấm áp với nhiệt độ khoảng 25 - 300C 2.2.5 Đặc điểm dinh dưỡng Cá bống tượng trưởng thành có bộ máy tiêu hoá tiêu biểu cho loài cá dữ điển hình. Miệng lớn, răng hàm dài sắc (Lê Như Xuân, Phạm Minh Thành, 1994). Theo Nguyễn Văn Thạnh (1984), Nguyễn Tuần (1993), cá bống tượng là loài cá ăn động vật. Tỷ lệ chiều dài ruột trên chiều dài chuẩn là Li/Ls < 1. Cá bống tượng thì rình bắt mồi. Cá bống tượng ăn mạnh về đêm hơn ban ngày, nước rong ăn mạnh hơn nước kém, nước lớn ăn mạnh hơn nước ròng. Thức ăn của chúng chủ yếu là: tôm, tép, cá nhỏ, cua, ốc, ấu trùng của côn trùng thuỷ sinh Cá bống tượng không thích ăn những động vật đã ươn thối. Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994), cũng như những loài cá khác sau khi tiêu hết noãn hoàn, bống tượng bắt đầu ăn thức ăn ngoài (thường là từ 3 - 4 ngày sau khi nở). Kích cỡ miệng lúc này khoảng 0,08 - 0,2mm. Vì vậy, thức ăn cung cấp phải đảm bảo phù hợp với cỡ miệng của cá bống tượng. Và những loại thức ăn mà người ta thường sử dụng như: luân trùng (Branchionus spp), lòng đỏ trứng gà, bột đậu nành Sau 30 ngày tuổi, bống tượng có thể ăn nhiều loại thức ăn như: trùng chỉ (Tubifex), ấu trùng muỗi lắc, cá, tép, nhuyễn thể xay nhuyễn Theo Cheng Phen, 1994 những phân tích thành phần thức ăn trong dạ dày ác mẫu cá thu được ngoài tự nhiên cho thấy: Loài thức ăn Số dạ dày có chứa thức ăn Tần số xuất hiện(%) Tôm tép nhỏ 7 58.33 Cá nhỏ 4 33.33 Cua nhỏ 1 8.33 Kết quả khảo sát cho thấy cá bống tượng là loài cá có phổ thức ăn hẹp, đặc biệt cá chỉ ăn mồi động vật. Điều này phù hợp với kết quả của Nguyễn Văn Thạnh (1985). Theo Nguyễn Văn Thạnh (1985) thì tỷ lệ Li/Ls của cá bống tượng rất thấp (Li/Ls = 0.04 - 0.06), cho thấy đây là loài cá ăn động vật điển hình. 2.2.6 Tăng trưởng và kích thước tối đa Cá bống tượng là loài cá có tốc độ tăng trưởng chậm ở giai đoạn cá dưới 100g. Cá từ 100g trở lên tăng trưởng khá hơn. 19
  20. Trong điều kiện nhiệt độ 26-300C, trứng cá bống tượng nở sau 25 - 26 giờ. Lúc này, cá có chiều dài từ 2,5 - 3mm. Sau khi cá nở 1 ngày, chiều dài cá đạt 3,8mm. Cá chuyển động thẳng đứng và từ từ buông mình chìm xuống đáy. Cá nở sau 2 ngày, chiều dài đạt 3,8 - 4mm. Mắt có sắc tố đen. Vi ngực bắt đầu xuất hiện. Cá vẫn còn vận động thẳng đứng. Cá 3 ngày tuổi dài 4 - 4,2mm. Túi noãn hoàng đã tiêu biến. Cá 12 ngày tuổi đã xuất hiện đầy đủ các vây. Cá 18 ngày tuổi bắt đầu hình thành vảy và có hình dáng của cá trưởng thành. Cá 30 ngày tuổi dài khoảng 13mm. Cá 45 ngày tuổi dài khoảng 21mm. Cá 60 ngày tuổi dài khoảng 30mm. Cá 75 ngày tuổi dài khoảng 41mm. Cá 90 ngày tuổi dài khoảng 53mm. Ở giai đoạn từ cá bột lên cá hương, cá phải mất thời gian 2 - 3 tháng mới đạt chiều dài 3 - 4cm. Từ cá hương cần phải nuôi 4 - 5 tháng cá mới đạt kích cỡ của cá giống là 100g/con. Còn để có kích cỡ 100g/con từ lúc mới đẻ phải mất từ 7 - 9 tháng. Nếu cá giống có trọng lượng 100g/con, để có cá thương phẩm 400g trở lên, phải mất 5 - 8 tháng nếu nuôi ao, 5 - 6 tháng nếu nuôi bè. Kích thước tối đa của cá có thể đạt được là 500mm. 2.2.7 Đặc điểm sinh sản a Phân biệt giới tính Thông thường, sau khi nuôi vỗ được 1 - 2 tháng, cá đã phát dục và có thể phân biệt đực cái qua quan sát hình dạng bên ngoài. Cá đực có gai sinh dục nhỏ, đầu nhọn hình tam giác. Cá cái có gai sinh dục lớn nhưng không nhọn đầu như gai sinh dục của cá đực. b Tuổi và kích thước thành thục 20
  21. Theo nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước cùng Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994), trong tự nhiên, cá bống tượng thành thục sinh dục và tham gia sinh sản lần đầu sau 9-12 tháng tuổi. Trong nuôi và cho sinh sản nhân tạo, cá có thể thành thục sớm hơn 1-2 tháng. Kích cỡ cá lúc này khoảng 200g. c Đặc tính và môi trường sinh sản Nơi đẻ của cá bống tượng thường nằm ven bờ và chìm sâu trong nước, nơi có các cây cỏ thuỷ sinh hay các thân cây chìm. Cá đẻ trứng dính thành ô tròn ở dưới các gốc cây, hang hốc ven bờ. Trứng bống tượng giống hình quả lê, có chiều dài từ 1,2 - 1,4mm. Sau khi đẻ, cá bố mẹ bơi quanh tổ và dùng vây đuôi quạt nước để cung cấp đủ lượng oxy cho trứng cá phát triển. Và công việc này được chúng thực hiện cho đến khi toàn bộ trứng cá nở hết. d Mùa vụ sinh sản Mùa vụ đẻ ngoài tự nhiên kéo dài từ tháng 3 - 11. Cá có hệ số thành thục thấp. Cá cái thành thục chỉ đạt 1,5 - 2%, nhưng vì trứng có kích cỡ nhỏ nên sức sinh sản cao. Nhiều tác giả nghiên cứu và thấy rằng khả năng sinh sản của mỗi cá thể là khác nhau, dao động từ 2.000 – 30.000 trứng, với số lượng trứng trung bình của mỗi tổ là 24.000 trứng/tổ. Và mỗi cá thể cái đẻ ít nhất ba lần trong một năm. Thời gian tái phát dục của cá khoảng 30 ngày. 2.3 Tình hình sản xuất giống cá bống tượng 2.3.1 Trong nước Qua nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước thì mùa vụ sinh sản của cá bống tượng từ tháng 3 - 11. Tác giả Ngô Bá Thành và ctv (1988) đã kết luận cá đẻ tập trung vào tháng 5 - 6. Tan và Lam, 1973 (trích bởi Nguyễn Tuần, 1993), lần đầu tiên đã cho sinh sản nhân tạo cá bống tượng thành công bằng cách tiêm chế phẩm HCG với phương pháp thụ tinh ướt. Phương pháp này đã cho một kết quả hết sức khả quan. Tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở rất cao (90%). Nhưng tất cả cá bột đã chết sau đó vài ngày. Ở Việt Nam, từ những năm 1984-1985, các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu đã bắt đầu nghiên cứu đối tượng này. Khoa Thuỷ Sản Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh đã nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh sản nhân tạo (Nguyễn Văn Thạnh, 1984, Ngô Bá Thành và ctv, 1988), ương nuôi cá bột lên cá hương giống (Nguyễn Duy Hoà Và Huỳnh Thị Ngọc Anh, 1994), sản xuất giống và gây nuôi thức ăn tự nhiên (Nguyễn Tuấn Dũng và Đỗ Khắc Xuân Diễm, 1995). 21
  22. Nguyễn Tuần (1993), khoa Thuỷ Sản Trường Đại Học Cần Thơ cũng đã nghiên cứu cá bống tượng về: hình thái, giải phẫu, đặc điểm sinh thái cá con, đặc điểm tiền phôi và phôi, bệnh cá. Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II đã nghiên cứu: đặc điểm phân loại, đặc điểm sinh học, kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ, sinh sản nhân tạo, ương nuôi từ cá bột lên cá hương và cá giống Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Tỉnh An Giang bước đầu thành công trong nuôi thịt, nuôi vỗ cá bố mẹ trong bè và tiến hành kích thích sinh sản nhân tạo. Ngô Bá Thành và ctv (1988) đã thử nghiệm sản xuất giống và ương nuôi cá bống tượng với 3 loại thức ăn khác nhau. Tỷ lệ sống trung bình của các lô ương từ 3 - 60 ngày tuổi đạt được như sau: 21,78% đối với lô cho ăn lòng đỏ trứng gà; đối với lô cho ăn bột đậu nành thì đạt 13,43%; 12,15% đối với lô cho ăn thức ăn tự nhiên. 2.3.2 Trên thế giới Những báo cáo ban đầu của Tan (1973) và Phinal (1980) trích bởi Tavarutmaneegul và Lin (1988) cho thấy cá bống tượng ở giai đoạn cá bột có tỉ lệ tử vong rất cao, lên tới 100%. Nhưng với giá thể thích hợp, Tavarutmaneegul và Lin (1998) đã thành công trong việc thu trứng cá bống tượng và số lượng trứng thụ tinh hơn 80%. Với thức ăn là lòng đỏ trứng gà và luân trùng, cá bột vẫn chết nhiều với tỷ lệ là 90%. Có nhiều ý kiến xoay quanh hiện tượng này. Nguyên nhân có thể là cá chết đói do thức ăn không phù hợp (Tan và ctv, 1973), hay do mật độ các hạt thức ăn (Tavarutmaneegul và Lin, 1988). Tavarurmaneegul và Lin (1988) báo cáo rằng trong suốt 30 ngày kể từ sau khi nơ,û cá bống tượng đạt chiều dài trung bình là 1 cm với tỷ lệ sống từ 7 - 55%. Vào giai đoạn hai (từ 30 - 60 ngày sau khi nở), khi nuôi với mật độ 20 con/m 2 thì cá tăng trưởng cao hơn và tỷ lệ sống cũng cao hơn 75 - 100%. Thức ăn của chúng ở giai đoạn này là Moina.sp, ấu trùng của côn trùng Rojanapittaykul (2000) đã thực hiện những nghiên cứu về sự thích nghi của trứng và ấu trùng của cá bống tượng ở những độ mặn khác nhau (0, 10, 20 ppt). Kết quả cho thấy rằng tỷ lệ nở đạt cao nhất khi cá được nuôi trong môi trường nước ngọt. Sau 23 ngày tuổi, tỷ lệ tử vong khá cao. Nhưng sau 60 ngày tuổi, ở độ mặn 10 ppt tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ sống đạt rất cao (96,88%) và cá dài 1,94 cm. Thức ăn được sử dụng để ương cá bống tượng từ sau khi nở cho đến 30 ngày tuổi là Chlorella sp, Rotifer, Artemia sp và cuối cùng là Moina sp. Theo Nguyễn Tuần (1993), thì vào những năm cuối của thập niên 70, các vùng Đông Nam Aù đã bắt đầu nuôi và cho đẻ nhân tạo thành công như: Indonesia (1978), Singapore (1980) và Thái Lan (1980) 2.4 Thức ăn sử dụng trong quá trình ương cá bột lên cá hương 22
  23. 2.4.1 Thức ăn chế biến Thức ăn chế biến hay còn gọi là thức ăn khô, thức ăn nhân tạo do con người chế biến lại từ những dạng còn tươi sống rồi mới dùng làm thức ăn cho vật nuôi thuỷ sản. a Lòng đỏ trứng gà Trứng là loại thực phẩm vừa có nhiều chất béo, nhiều chất đạm đồng thời giàu vitamin và khoáng vi lượng. Trứng là món ăn tốt cho trẻ em đang tuổi mới lớn, bệnh nhân đang phục hồi sức khoẻ. Và đã từ lâu, trứng là thức ăn phổ biến được dùng để ương nuôi cá bột. Thành phần dinh dưỡng của trứng phụ thuộc vào thức ăn, giống, môi trường sống, trạng thái sức khoẻ và thời gian khai thác của gia cầm. Lòng đỏ trứng gà là khối nhũ tương hình cầu nằm trong màng lòng đỏ, một màng có tính đàn hồi và độ bền cao. Màu sắc lòng đỏ trứng phụ thuộc vào giống, thức ăn và khả năng chuyển hoá sắc tố của gia cầm. Lòng đỏ chiếm khoảng 30% khối lượng trứng với thành phần hoá học như sau: Nước: 47 – 50% Protein: 15 – 17% Lipid: 27 – 36% Glucid: 0.7 – 1% Khoáng: 0.7 – 1.6% Ngoài ra trong lòng đỏ trứng gà còn có các loại vitamin (trừ vitamin C) b Thức ăn tổng hợp Đây là một loại thức ăn công nghiệp với tên thương mại là Rotofier có dạng những hạt mịn, màu lục với nhiều thành phần đa dạng, phong phú. Thành phần của thức ăn bao gồm: bột cá, tôm, tảo Spirulina, dầu cá, protein động thực vật, vitamin, chất khoáng bổ sung và màu nhân tạo. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn được trình bày trên nhãn hộp như sau: Nước: 8% Protein: 50% Lipid: 27% Chất xơ: 2% Khoáng: 1% c Tảo khô Spirulina Spirulina là nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng, không độc, hàm lượng protein cao hơn bất cứ một loại thức ăn nào khác. Theo Lamg Switzer (1980) so sánh hàm lượng Protein có trong tảo và các thực phẩm khác. 23
  24. Nguyên liệu Trứng 47 Sữa 36 Bột đậu nành 37 Bột lúa mì 14 Cá 22 Thịt gà 24 Thịt bò 22 Spirulina sp 65 Trong tảo còn chứa đầy đủ thành phần các acid amin thiết yếu cho sức khoẻ con người, các acid amin quan trọng như Provitamin A, các vitamin nhóm B, E, H Các muối khoáng K, Na, Mg, Ca, Fe, Zn, Cu, Mn. K: cần cho hoạt động cơ tim. Mg: cần cho hoạt động của thần kinh trung ương và cơ tim. Fe: tạo hồng cầu, dễ hấp thụ với hàm lượng cao. Hàm lượng các kim loại thấp, ở giới hạn cho phép sử dụng làm thức ăn. Theo Yves Tasser, Beret (1971) thì Spirulina có hàm lượng acid nucleic thấp hơn 5%. Các chỉ tiêu trên chứng tỏ sự an toàn khi sử dụng tảo làm thức ăn, không làm tăng hàm lượng acid Urid trong máu. Tảo còn có nhiều ứng dụng trong đời sống con người và nuôi trồng thuỷ sản.  Đối với người Tảo Spirulina là thức ăn nhiều dinh dưỡng có tác dụng điều trị được nhiều bệnh như viêm gan, xơ gan, đái tháo đường, loét dạ dày, viêm tụy mãn tính, rụng tóc do rối loạn tiêu hóa, phát phì, đục nhân mắt ở người lớn tuổi. Theo Hiroshi Nakamra (1980), tảo Spirulina có thể sử dụng cho những người có triệu trứng sau: mệt mỏi, hay bị choáng, không ăn dễ hạ cân, không ăn rau, dễ bị cảm lạnh, mất cân đối về dinh dưỡng, dễ vỡ, gãy xương, phụ nữ có thai. Các kết quả nghiên cứu cho thấy có thể dùng tảo Spirulina làm thuốc với liều lượng 2 – 8,5g/24 giờ và có thể dùng nhiều ngày liên tiếp. Bột tảo Spirulina có thể chế biến thành thuốc cho trẻ sơ sinh non yếu, trẻ suy dinh dưỡng hoặc làm thuốc lợi sữa cho các bà mẹ bị mất sữa tự nhiên do thiếu Lactogel. Ngoài ra, từ Spirulina người ta ly trích được một chất có hoạt tính sinh học phycobiliprotein, là một loại sắc tố lam có vai trò quan trọng trong sự quang hợp của tảo. Người ta sử dụng tính chất huỳnh quang của nó để đánh dấu các kháng thể đơn dòng trong việc đoán và phát hiện một số bệnh (Allegari 1989, tài liệu USSI 1989). Mới đây, một nhóm các nhà khoa học ở trường Đại học Havard Mỹ nhận thấy chế biến “Phycotene” về bản chất là tập hợp các carotenoid và chlorophyll a chiết từ 24
  25. Spirulina có tác dụng rất tốt đối với hệ thống miễn dịch ở cơ thể người trong việc điều trị chống ung thư (Growth, 1989).  Đối với thuỷ sản Theo Ciffei (1983), khi cho cá chép đỏ ăn tảo Spirulina thì tăng trọng lượng cơ thể, tăng chiều dài cá và tạo màu sắc sặc sỡ cho cá chép đỏ (Durand Chastel.H.Sautilan San Chez.C, 1975). Tại Pháp, ở trung tâm quốc gia khai thác đại dương, thí nghiệm được tiến hành trên tôm cho thấy nhờ ăn tảo Spirulina mà tỷ lệ sống của tôm cao hơn 90%. Ở Việt Nam, những thí nghiệm đầu tiên của Nguyễn Hữu Thước, Đặng Đình Kim, Nguyễn Tiến Cư cùng Giáo Sư Mai Đình Yên (Đại Học Tổng Hợp Hà Nội) trên cá bột, cá hương cá mè trắng cho thấy dùng tảo tươi để nuôi cá làm môi trường tốt hơn, lượng oxy cao hơn giúp tăng mật độ cá từ 6 – 8 lần. Spirulina còn là nguồn thức ăn thích hợp giàu dinh dưỡng cho trai, sò, tằm, ong, làm thức ăn bổ sung cho lợn, gà vịt (Hứa Thị Thìa Ry, 1996). 2.4.2 Thức ăn sống Thức ăn sống là những cơ thể sinh vật còn sống có thể dùng làm thức ăn cho vật nuôi thuỷ sản. Ví dụ như: luân trùng, Moina, ấu trùng muỗi lắc Và loại thức ăn sống được chúng tôi sử dụng trong thử nghiệm là trùn giấm. a Nguồn gốc Borellus đã phát hiện ra trùn giấm năm 1656. Đây là một loại trùn sống tự do, không ký sinh và thích nghi trong môi trường có pH thấp. Trùn giấm được đánh giá là một loại thức ăn tuyệt vời cho cá hồi trong giai đoạn cá bột. (Feeding, Septemper 2002) Chúng được nuôi trong môi trường rượu táo và trong những quả táo bị thối, mận thối hay đất bùn (Practical Fishkeeping, July 2002). b Đặc điểm phân loại Nhóm: Aschelminthes Ngành: Nematoda Lớp: Secernentea Lớp phụ: Rhabditia Bộ: Rhabditida Bộ phụ: Cephalobina Trên họ: Panagrolaimoidea 25
  26. Họ: Panagrolaimidea Giống: Turbatrix (Peters, 1927) Loài: Tubatrix aceti (Mueller, 1783) c Đặc điểm hình thái Trùn có kích thước rất nhỏ từ 0,05 - 0,2mm. Đường kính thân là 50µm (Canadian feeders). Thân không màu và biến đổi theo màu sắc của môi trường. Chúng di chuyển rất nhanh. d Đặc điểm sinh thái Theo Cao Nguyên Trình (2005), trùn có thể phát triển tốt trong môi trường có pH từ 3 - 5. Trùn có khả năg sống được 24 giờ trong nước ngọt, mặn hay lợ. Chúng tăng trưởng tốt ở nhiệt độ 20 - 30 0C (Adrian R. Tappin, 2002). Theo Peter trong bài Rainbowfish Times, tạp chí The North American Rainbowfish study Group, 1996, nhiệt độ tốt nhất để chúng tăng sinh khối là 60 - 85 0F. Chúng có thể chịu đựng được sự thay đổi nhiệt độ lớn và thích nghi tốt với nhiệt độ phòng nhưng không được tiếp xúc với ánh nắng trực tiếp (Living Materials Infor, Science & Technology for Children). Trùn sống được trong mọi tầng nước vì vậy rất thuận lợi cho các loài cá sống đáy (Feeding, Adrian R.Tappin, 2002). e Đặc điểm sinh sản Sau một tuần từ khi bắt đầu nuôi, những con cái mang trứng sẽ xuất hiện. Và sẽ mất khoảng 8 ngày nữa kể từ khi trứng thụ tinh và được đẻ ra ngoài (Feeding, Adrian R.Tappin, 2002). f Thành phần dưỡng chất Trùn giấm đem lại cho vật nuôi một hàm lượng dinh dưỡng phong phú. So sánh các amoinoa acid giữa trùn giấm với Artemia như sau: Tubatrix aceti Artemia Protein 48.3 61.6 Amino acid ILE 5.1 3.8 LEU 7.7 8.9 MET 2.2 1.3 PHE 4.7 4.9 TYR 3.2 5.4 THR 4.7 2.5 26
  27. TRY 1.5 VAL 6.4 4.7 LYS 7.9 8.9 ARG 6.6 7.3 HIS 2.9 1.9 ALA 8.8 6.0 ASP 11.0 11.2 GLU 12.8 12.9 GLY 6.4 5.0 PRO 5.4 6.9 SER 3.7 6.7 g Tình hình sử dụng trùn giấm trên thế giới Trên thế giới, trùn giấm từ lâu đã được dùng làm thức ăn lý tưởng cho nhiều loài cá vì những ưu điểm: . Nó có thể sống lâu trong môi trường nước nuôi cá . Nó sống được trong mọi tầng nước . Nó không thở bằng oxy nên không cạnh tranh oxy với cá . Kích cỡ nhỏ phù hợp với mọi cỡ cá, mọi loài cá, đặt biệt là cá bột . Không mang bất cứ mầm bệnh hay vi khuẩn gây bệnh . Không đòi hỏi nhiều công chăm sóc. Ở Mỹ, trùn giấm được xem là thức ăn sống ưa thích của cá chép (Cyprio cyprio), cá mè trắng (Hypophthalmichthy molitrix), tôm càng xanh (Penaeus blebcjus) và Crangon crangon. Ở bang California của Mỹ, trùn giấm là thức ăn lý tưởng cho nhiều loài cá như: Blue eyes, Corydoras catfish (Adrian R.Tappin, 2000). Ở Canada, trùn giấm không những là thức ăn lý tưởng cho cá mà còn cho các loài lưỡng thê (Canadian feeders, 2000). III. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Thời gian và địa điểm 3.1.1 Thời gian: từ ngày 29/3/2005 đến ngày 31/7/2005 3.1.2 Địa điểm: Trại Thực Nghiệm Khoa Thuỷ Sản Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh. 3.2 Vật liệu 3.2.1 Nguồn cá bột 27
  28. 3.2.1.1 Cá bột bống tượng Trứng cá bống tượng có nguồn gốc từ Trại Sản Xuất Giống Cá Tám Tiếu (Huyện Châu Thành - Ấp Bình Đức - Tỉnh Tiền Giang). Trứng cá được vận chuyển về Trại Thực Nghiệm Khoa Thuỷ Sản Trường Đại Học Nông Lâm bằng phương pháp vận chuyển khô. 3.2.1.2 Cá bột cá xiêm Cá xiêm được cho sinh sản nhân tạo tại Trại Thực Nghiệm Khoa Thuỷ Sản Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh. Nên nguồn cá bột có sẵn tại chỗ. 3.2.2 Thức ăn và dụng cụ cho ăn 3.2.2.1 Thức ăn Đối với cá xiêm, chúng tôi sử dụng 4 loại thức ăn: lòng đỏ trứng gà, thức ăn tổng hợp, Spirulina và trùn giấm. Khi ương nuôi cá bống tượng trong những bình nhựa (V = 3 lít nước), chúng tôi sử dụng cả bốn loại thức ăn như đối với cá xiêm. Khi ương trong bể xi măng (V = 2000 lít nước), chúng tôi chỉ sử dụng 3 loại thức ăn là: lòng đỏ trứng gà, thức ăn chế biến và trùn giấm. 3.2.2.2 Dụng cụ cho ăn Tất cả các loại thức ăn cho cá bống tượng và cá xiêm đều được chúng tôi cà qua vợt có kích thước mắt lưới là 150µm. Riêng đối với trùn giấm, chúng tôi cho cá ăn trực tiếp mà không cần qua bất cứ loại dụng cụ nào. 3.2.3 Hệ thống ương nuôi cá bột Trong nuôi trồng thuỷ sản, hệ thống nuôi phù hợp và nguồn nước đạt chất lượng tốt là một trong những yếu tố quan trọng quyết dịnh thành công của nghề. Với nguồn nước máy đã được lắng kỹ lưỡng và đảm bảo không còn Chlorine, chúng tôi tiến hành công việc nghiên cứu của mình trong các hệ thống như sau. 3.2.3.1 Cá xiêm Cá xiêm được chúng tôi ương nuôi trong những bình nhựa với thể tích như nhau (V = 3lít nước/bình). 3.2.3.2 Cá bống tượng  Lần thử nghiệm thứ I (từ 14/4/2005 đến 20/4/2005) 28
  29. Cá được ương nuôi thí nghiệm trong những bình nhựa với thể tích như nhau (V = 3lít nước/bình)  Lần thử nghiệm thứ II (từ 8/6/2005 đến 13/6/2005) Cá cũng được ương trong những bình nhựa như lần đầu.  Lần thử nghiệm thứ III (từ 22/7/2005 đến 31/7/2005) Ở lần thử nghiệm cuối cùng của mình, chúng tôi đã thay những bình nhựa bằng những bể xi măng với thể tích lớn hơn (V = 2000 lít nước/bể). Mực nước trong mỗi bể cao khoảng 40cm. 3.3 Phương pháp nghiên cứu 3.3.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm a Trong ương nuôi cá xiêm  Lần bố trí thí nghiệm thứ I (24/4/2005 đến 4/5/2005) Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 8 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V=3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, A2, B2, C2, D2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C, D là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn tổng hợp và trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 10 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 50 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 10 con/lít nước và được cho ăn lòng đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 1.  Lần bố trí thí nghiệm thứ II (11/5/2005 đến 27/5/2005) Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 8 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V = 3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, A2, B2, C2, D2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C, D là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn chế biến và trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 10 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 50 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 10 con/lít nước và được cho ăn lòng đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 2.  Lần bố trí thí nghiệm thứ III (14/6/2005 đến 20/6/2005) Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 8 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V = 3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, A2, B2, C2, D2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C, D là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn tổng hợp và trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 10 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 50 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 10 con/lít nước và được cho ăn lòng đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 3.  Lần bố trí thí nghiệm thứ IV (1/7/2005 đến 10/7/2005) 29
  30. Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 10 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V = 3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, ĐC1, A2, B2, C2, D2, ĐC2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C, D và ĐC là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn tồng hợp trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 20 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 50 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 20 con/lít nước và được cho ăn lòng đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 4. b Trong ương nuôi cá bống tượng  Lần bố trí thí nghiệm thứ I (14/4/2005 đến 20/4/2005) Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 12 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V = 3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, A2, B2, C2, D2, a2, b2, c2, d2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, a; B, b; C, c; D, d là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn tồng hợp trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 100 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 500 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 100 con/lít nước và được cho ăn long đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 5.  Lần bố trí thí nghiệm thứ II (8/6/2005 đến 13/6/2005) Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 8 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V = 3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, A2, B2, C2, D2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C, D là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn tổng hợp và trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 100 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 500 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 100 con/lít nước và được cho ăn lòng đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 6.  Lần bố trí thí nghiệm thứ III (27/7/2005 đến 31/7/2005) Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 9 đơn vị thí nghiệm là những bể ximăng có thể tích như nhau (V = 2 m3 nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, A2, A3, B1, B2, B3, C1, C2, C3. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C là lòng đỏ trứng gà, trùn giấm và thức ăn tổng hợp. Có một mật độ duy nhất là 200con/bể. Phụ lục 2, bảng 7. 3.3.2 Quản lý và chăm sóc Để có được một kết quả tốt nhất đến mức có thể, chúng tôi đã hết sức chú trọng việc chăm sóc, cho cá ăn và thay nước hằng ngày để đảm bảo cá có một môi trường tốt nhất để sinh trưởng. Quản lý môi trường nước, thức ăn và cách cho ăn là những gì chúng tôi quan tâm. Để hạn chế sự ô nhiễm nước do thức ăn thừa tiùch tụ, chất thải và xác chết của cá, chúng tôi thực hiện việc thay nước mỗi ngày một lần vào lúc sáng sớm hpặc chiều tối. Lượng nước thay mỗi lần là 50%. 30
  31. Cá được cho ăn 3lần/ngày với lượng vừa phải để tránh ô nhiễm môi trường. 3.3.3 Các chỉ tiêu theo dõi 3.3.3.1 Chỉ tiêu chất lượng nước  pH pH được đo bằng máy, mỗi ngày 2 lần ( lúc sáng sớm và chiều tối).  Nhiệt độ Như ta đã biết, cá là động vật có máu lạnh. Nhiệt độ cơ thể chúng sẽ thay đổi theo sự thay đổi của nhiệt độ môi trường xung quanh. Nếu nhiệt độ cao quá hay thấp quá, vượt qua ngoài ngưỡng chịu đựng thì sẽ gây nguy hại cho cá. Vì vậy, nhiệt độ được chúng tôi theo dõi 2 lần/ ngày bằng nhiệt kế để xử lý kịp thời những trường hợp yếu tố này trở nên bất lợi đối với cá. 3.3.3.2 Tỷ lệ sống Dựa vào số cá thả và thu được sau thời gian nuôi, chúng tôi sẽ tính ra được tỷ lệ sống của từng đơn vị thí nghiệm như sau: Số cá thả x 100 Tỷø lệ sống (%) = Soá caù thu 3.4 Phương pháp thu thập sậ liậu Sau thôøi gian nuoâi, caù seõ ñöôïc vôùt ra ñeå ñeám soá löôïng con coøn soáng. 3.5 Phương pháp phân tích sậ liậu Chuùng toâi söû duïng chöông trình Statgraphics for windows 7.0 ñeå xöû lyù caùc soá lieäu nghieân cöùu nhö: tyû leä soáng. Söï khaùc nhau giöõa caùc nghieäm thöùc ñöôïc so saùnh theo traéc nghieäm Turkey vôùi P < 0.05. 31
  32. IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN PHẦN A: KẾT QUẢ THÍ NGHIỆM TRÊN CÁ XIÊM 4.1 Đánh giá tỷ lệ sống của cá xiêm ở các lần thử nghiệm. 4.1.1 Lần thử nghiệm thứ I (24/4/2005 đến 4/5/2005) Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 8 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V= 3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, A2, B2, C2, D2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C, D là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn chế biến và trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 10 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 50 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 10 con/lít nước và được cho ăn lòng đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 1. Sau khi kết thúc thí nghiệm, chúng tôi tiến hành xác định tỷ lệ sống của cá thí nghiệm. Kết quả về tỷ lệ sống của cá thí nghiệm giữa các nghiệm thức được biễu diễn ở đồ thị sau: Tỷ lệ sống (%) 90 80 70 60 50 10 con/l 40 50 con/l 30 20 10 0 A B C D Nghieäm thöùc Đồ thị 4.1 Tỷ lệ sống của cá xiêm khi kết thúc thí nghiệm * Chú thích: A: Lòng đỏ trứng gà B: Tảo khô Spirulina C: Thức ăn tổng hợp D: Trùn giấm Qua đồ thị ta thấy cá ở lô cho ăn lòng đỏ trứng có tỷ lệ sống thấp nhất (0%). Cá ở lô cho ăn trùn giấm có tỷ lệ sống cao hơn lô cho ăn tảo và thức ăn tổng hợp Rotofier. Cá ở lô có mật độ cao hơn có tỷ lệ sống thấp hơn cá của lô có mật độ thấp. 32
  33. Trong lần thử nghiệm đầu tiên, cá xiêm ở lô cho ăn lòng đỏ trứng đã chết hoàn toàn khi kết thúc đợt nghiên cứu. Theo nhận định của chúng tôi, tất cả là do thức ăn thừa và ô nhiễm môi trường. Lòng đỏ trứng gà là loại thức ăn được đánh giá rằng có hàm lượng lipid khá cao. Việc cho ăn dư thừa đã dẫn tới tình trạng lượng lipid tràn ngập trên mặt nước, ngăn cản phần nào sự khuếch tán của oxy từ không khí đi vào nước. Ngoài ra, việc phân huỷ các hạt thức ăn dư thừa cũng làm tiêu hao một lượng đáng kể oxy hoà tan có trong nước. Việc đó làm cho cá không đủ lượng oxy cần thiết để hô hấp và rồi chúng chết. Thức ăn quá nhiều còn làm tăng độ đục của nước và điều đó không hề có lợi cho môi trường nuôi. Độ đục không gây chết trực tiếp cho cá nhưng chúng làm ảnh hưởng đến hô hấp của cá. Nếu độ đục cao tức là các vật chất lơ lững trong nước quá nhiều. Các hạt lơ lững này có thể bám vào mang cá, ngăn cản sự hô hấp của chúng làm cho chúng chết vì ngạt. Hơn nữa, độ đục quá cao sẽ làm tăng tính cảm nhiễm của cá đối với môi trường bên ngoài. Thức ăn thừa sẽ ươn thối dẫn tới ô nhiễm môi trường. Quá trình phân huỷ các hợp chất hữu cơ như: thức ăn thừa, phân cá sẽ sinh ra nhiều khí độc gây hại đến cá bột như: NH3, NO2, H2S Từ đó, cá dễ nhiễm bệnh cà chết. Tóm lại, chúng tôi kết luận rằng tỷ lệ sống ở lô A thấp là do những nguyên nhân trên. Qua đồ thị chúng ta thấy, lô cho ăn trùn giấm có tỷ lệ sống cao nhất. Trùn giấm có thể sống được 24 giờ trong nước ngọt (Cao Nguyên Trình, 2005), vì thế nó không làm ô nhiễm môi trường. Và trùn giấm không thou bằng oxy nên nó không cạnh tranh oxy với cá, vì vậy không ảnh hưởng đến quá trình hô hấp của cá. Trùn giấm là mồi sống di động phù hợp với tập tính ăn động vật của cá xiêm nên chúng sẽ ăn nhiều hơn. Mà thức ăn sống thường chứa một hàm lượng dinh dưỡng rất cao nên đảm bảo cá sẽ tăng trưởng và phát triển tốt hơn, và khả năng cảm nhiễm với bệnh sẽ thấp hơn. Vì vậy, cá ở lô cho ăn trùn giấm có tỷ lệ sống cao hơn những lô khác. 4.1.2 Lần thử nghiệm thứ II (11/5/2005 đến 27/5/2005) Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 8 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V = 3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, A2, B2, C2, D2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C, D là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn tổng hợp và trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 10 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 50 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 10 con/lít nước và được cho ăn long đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 2. Sau khi kết thúc thí nghiệm, chúng tôi tiến hành xác định tỷ lệ sống của cá thí nghiệm. Kết quả về tỷ lệ sống của cá thí nghiệm giữa các nghiệm thức được biễu diễn ở đồ thị sau: Tỷ lệ sống (%) 33
  34. 120 100 80 10 con/l 50 con/l 60 40 20 0 A B C D Nghieäm thöùc Đồ thị 4.2 Tỷ lệ sống của cá xiêm khi kết thúc thí nghiệm * Chú thích: A: Lòng đỏ trứng gà B: Tảo khô Spirulina C: Thức ăn tổng hợp D: Trùn giấm Qua đồ thị chúng ta nhận thấy rằng cá ở tất cả các lô có tỷ lệ sống cao và tương đối đồng đều. Cá ở lô có mật độ khác nhau có tỷ lệ sống khác nhau không nhiều. Ở lần này, tỷ lệ sống giũa các lô tương đối đồng đều hơn do chế độ chăm sóc chu đáo hơn. Thức ăn được rải vừa phải và khuấy đều trong nước để cá dễ bắt mồi, tránh tình trạng cá thì đói còn thức ăn thì dư thừa. Nước được thay mỗi ngày nên tình trạng ô nhiễm môi trường nuôi đã không xảy ra, vì vậy tỷ lệ sống của các lô tương đối cao và đồng đều. 4.1.3 Lần thử nghiệm thứ III (14/6/2005 đến 20/6/2005) Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 8 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V = 3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, A2, B2, C2, D2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C, D là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn tổng hợp và trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 10 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 50 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 10 con/lít nước và được cho ăn long đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 3. Sau khi kết thúc thí nghiệm, chúng tôi tiến hành xác định tỷ lệ sống của cá thí nghiệm. Kết quả về tỷ lệ sống của cá thí nghiệm giữa các nghiệm thức được biễu diễn ở đồ thị sau: Tỷ lệ sống (%) 34
  35. 90 80 70 60 10 con/l 50 50 con/l 40 30 20 10 0 A B C D Nghieäm thöùc Đồ thị 4.3 Tỷ lệ sống của cá xiêm khi kết thúc thí nghiệm Chú thích: A: Lòng đỏ trứng gà B: Tảo khô Spirulina C: Thức ăn tổng hợp D: Trùn giấm Qua đồ thị 4.3 ta thấy cá ở lô cho ăn lòng đỏ trứng gà và lô cho ăn trùn giấm có tỷ lệ sống cao nhất. Cá ở lô cho ăn tảo Spirulina và lô cho ăn thức ăn tổng hợp Rotofier có tỷ lệ sống thấp. Cá ở các lô mật độï khác nhau có tỷ lệ sống tương đương nhau. Lần thử nghiệm này, tỷ lệ sống giữa các lô có phần chênh lệch. Chúng ta thấy rõ là lô cho ăn trùn giấm và lô cho ăn lòng đỏ trứng gà có tỷ lệ sống cao hơn những lô còn lại. Và một điều dễ nhận thấy nữa là tỷ lệ sống giữa các lô giống nhau có mật độ cá khác nhau cũng xấp xỉ nhau. Trong đó, cá bột ở lô cho ăn trùn giấm có tỷ lệ sống cao nhất là do những nguyên nhân sau: Trùn giấm có thể sống được 24 giờ trong nước ngọt (Cao Nguyên Trình, 2005), vì thế nó không làm ô nhiễm môi trường. Trùn giấm không thở bằng oxy nên nó không cạnh tranh oxy với cá, vì vậy không ảnh hưởng đến quá trình hô hấp của cá. Trùn giấm là mồi sống di động phù hợp với tập tính ăn động vật của cá xiêm nên chúng sẽ ăn nhiều hơn. Mà thức ăn sống thường chứa một hàm lượng dinh dưỡng rất cao nên đảm bảo cá sẽ tăng trưởng và phát triển tốt hơn, vì thế khả năng cảm nhiễm với bệnh sẽ thấp hơn. 35
  36. Do những nguyênnhân trên, cá ở lô cho ăn trùn giấm có tỷ lệ sống cao hơn những lô khác. 4.1.4 Lần thử nghiệm thứ IV (từ ngày 1/7/2005 đến 10/7/2005) Sau khi kết thúc thí nghiệm, chúng tôi tiến hành xác định tỷ lệ sống của cá thí nghiệm. Kết quả về tỷ lệ sống của cá thí nghiệm giữa các nghiệm thức được biễu diễn ở đồ thị sau: Tỷ lệ sống (%) 100 90 80 70 20 con/l 60 50 con/l 50 40 30 20 10 0 A B C D DC Nghieäm thöùc Đồ thị 4.4 Tỷ lệ sống của cá xiêm khi kết thúc thí nghiệm * Chú thích: A: Lòng đỏ trứng gà B: Tảo khô Spirulina C: Thức ăn tổng hợp D: Trùn giấm DC: không cho ăn Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 10 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V = 3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, ĐC1, A2, B2, C2, D2, ĐC2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C, D và ĐC là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn tổng hợp trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 20 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 50 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 20 con/lít nước và được cho ăn long đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 4. Qua đồ thị ta thấy cá ở lô bỏ đói có tỷ lệ sống thấp nhất. Cá ở lô cho ăn trùn giấm và cho ăn lòng đỏ trứng có tỷ lệ sống cao. Cá ở lô cho ăn tảo và thức ăn tổng hợp Rotofier có tỷ lệ sống thấp hơn. Cá ở các lô có mật độ khác nhau có tỷ lệ sống tương đương nhau. 36
  37. Lòng đỏ trứng gà và trùn giấm đều là những thức ăn có nguồn gốc động vật, mà cá xiêm là loài cá ăn mồi động vật nên chắc chắn lòng đỏ trứng gà và trùn giấm là thức ăn mà chúng ưa thích. Cá sẽ ăn mồi và tăng trưởng tốt hơn. Còn thức ăn tổng hợp và tảo khô Spirulina là thức ăn công nghiệp. Qua quá trình chế biến hàm lượng chất dinh dưỡng và vitamin sẽ giảm nên không cung cấp đầy đủ dưỡng chất cho cá tăng trưởng, phát triển và kháng bệnh. Cộng với tình trạng một số cá sẽ không ăn do không phải là thức ăn ưa thích của chúng. Vì vậy cá ở những lô ngày có tỷ lệ tử vong cao hơn. Khi so sánh tỷ lệ sống của cá xiêm ở lần thử nghiệm thứ IV, chúng tôi được kết quả ở bảng 4.1 và bảng 4.2 như sau: Bảng 4.1 Tỷ lệ sống trung bình của cá ở những lô có mật độ 20 con/lít nước Nghiệm thức Tỷ lệ sống A 0.79a ± 0.09 B 0.47a ± 0.1 C 0.53a ± 0.21 D 0.9a ± 0.03 DC 0.5a ± 0.4 37
  38. Bảng 4.2 Tỷ lệ sống trung bình của cá ở những lô có mật độ 50 con/lít nước Nghiệm thức Tỷ lệ sống A 0.87a ± 0.12 B 0.61a ± 0.21 C 0.67a ± 0.12 D 0.9a ± 0.15 DC 0.29a ± 0.5 Ghi chú: Các giá trị trên cùng một cột có ký tự a giống nhau là sai biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê (P > 0,05). Qua kết quả trên, chúng tôi nhận thấy rằng mọi sai biệt đều không có ý nghĩa kể cả khi mật độ cá cao hay thấp. Điều đó chứng tỏ các khẩu phần thức ăn khác nhau không hề có tác động lên tỷ lệ sống của cá xiêm ở giai đoạn cá bột. Mặc dù cá xiêm là loài ăn động vật nhưng tỷ lệ sống của nghiệm thức D (cho ăn trùn giấm) cũng không khác biệt gì so với các nghiệm thức khác. Theo chúng tôi nhận định do cá xiêm dễ nuôi, chúng có phổ thức ăn rộng nên có thể tiếp nhận dễ dàng các khẩu phần thức ăn khác nhau. Cho nên, vì thế chúng tôi không thể đưa ra kết luận gì về hiệu quả của việc sử dụng trùn giấm làm thức ăn cho cá bột. Tuy nhiên, việc sử dụng trùn giấm làm thức ăn cho cá vẫn đem lại vài thuận lợi đó là: không làm ô nhiễm môi trường nước nuôi, đảm bảo luôn sẵn sàng ở mọi tầng nước để cá ăn khi chúng đói. Không như những thức ăn khác: lòng đỏ trứng, tảo, thức ăn tổng hợp, một thời gian sau khi cho ăn, các hạt thức ăn sẽ chìm hết xuống đáy nhưng còn trùn giấm thì khác. Chúng luôn lơ lững trong nước trong vòng 24 giờ. Vì thế, đảm bảo cá có thể ăn bất cứ khi nào chúng đói trong vòng 24 giờ mà thức ăn lại không bị dự thừa và trở nên ươn thối như những loại thức ăn khác. Tóm lại, mặc dù qua đồ thị 4.4, ta thấy tỷ lệ sống của cá ở lô sử dụng trùn giấm là cao nhất nhưng về mặt thống kê thì tỷ lệ sống của cá khi cho ăn trùn giấm và khi cho ăn các loại thức ăn khác là không khác nhau (P > 0,05). 38
  39. PHẦN B: KẾT QUẢ THÍ NGHIỆM TRÊN CÁ BỐNG TƯỢNG 4.1 Đánh giá tỷ lệ sống của cá bống tượng qua các lần thử nghiệm 4.1.1 Lần thử nghiệm thứ I (từ 14/4/05 đến 20/4/05) Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 12 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V = 3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, A2, B2, C2, D2, a2, b2, c2, d2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, a; B, b; C, c; D, d là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn tổng hợp, trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 100 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 500 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 100 con/lít nước và được cho ăn long đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 5. Kết quả tỷ lệ sống của cá bống tượng được trình bày ở bảng sau: Bảng 4.3 Kết quả ương nuôi cá bột bống tượng trong bình nhựa (lần thứ I ) Khẩu phần ăn Kết quả Lòng đỏ trứng gà Cá chết toàn bộ sau 7 ngày Tảo khô Spirulina Cá chết toàn bộ sau 7 ngày Thức ăn tổng hợp Cá chết toàn bộ sau 7 ngày Trùn giấm Cá chết toàn bộ sau 7 ngày Qua bảng 4.3 ta thấy cá bột bống tượng đã chết toàn bộ sau 7 ngày nuôi ở tất cả các lô có mực nước khác nhau. Tức là cá được nuôi trong bình nhựa có thể tích V = 3 lít với mực nước 20cm, mặt thoáng hẹp và cá được nuôi trong những khay nhựa có thể tích V = 3 lít nước với mực nước 5 cm, mặt thoáng rộng có tỷ lệ tử vong như nhau. Theo chúng tôi, cá chết do những nguyên nhân sau: . Thức ăn và môi trường nước . Mật độ cá và quá trình sục khí Ta biết, cá bống tượng sau khi hấp thụ hết noãn hoàn mới bắt đầu ăn thức ăn ngoài, tức là khoảng 4 - 5 ngày sau khi nở cá mới bắt đầu ăn và cá bống tượng chỉ ăn mạnh vào buổi tối. Nhưng ở lần thử nghiệm thứ I này, cá 1 ngày sau khi nở đã được cho ăn, và cho ăn 3 lần/ngày. Lượng thức ăn vì thế trở nên dư thừa, các hạt thức ăn lơ lững quá nhiều làm ảnh hưởng đến quá trình hô hấp của cá bột. Ngoài ra, các khí độc NH 3, H2S sinh ra từ sự phân huỷ chất hữu cơ như: phân cá, thức ăn thừa sẽ không tốt cho cá bột. Môi trường ô nhiễm sẽ làm giảm sức đề kháng của cá với mầm bệnh, vì thế cá trở nên yếu dần và chết sau đó. Cá bột được bố trí trong những bình nhựa có thể tích nhỏ (V = 3 lít) với mật độ cá rất cao (500 – 1500 con/bình). Sự sục khí liên tục đã làm cho chúng không ngừng đảo trộn trong nước, cá luôn bị đặt trong tình trạng luôn hoạt động, không thể bắt mồi và không được nghỉ ngơi. Vì thế chúng yếu dần và chết đi nhanh chóng. Riêng đối với những lô cá được nuôi trong khay có mặt thóng rộng và sục khí ở một góc bể, cá chết là do mật độ cá quá nhiều, thức ăn dư thừa cộng với ô hiễm môi trường. 39
  40. 4.1.2 Lần thử nghiệm thứ II (từ 8/6/05 đến 13/6/05) Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 8 đơn vị thí nghiệm có thể tích như nhau (V = 3 lít nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, B1, C1, D1, A2, B2, C2, D2. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C, D là lòng đỏ trứng gà, tảo khô Spirulina, thức ăn tổng hợp và trùn giấm. Có 2 mật độ khác nhau, 100 con/lít nước là mật độ ứng với kí hiệu số 1 của các đơn vị thí nghiệm, 500 con/lít ứng với kí hiệu số 2. Ví dụ: A1 là lô có mật độ cá là 100 con/lít nước và được cho ăn long đỏ trứng gà. Phụ lục 2, bảng 6. Kết quả tỷ lệ sống của cá bống tượng được trình bày ở bảng sau: Bảng 4.4 Kết quả ương nuôi cá bột bống tượng trong bình nhựa (lần thứ II) Khẩu phần ăn Kết quả Lòng đỏ trứng gà Cá chết toàn bộ sau 7 ngày Tảo khô Spirulina Cá chết toàn bộ sau 7 ngày Thức ăn tổng hợp Cá chết toàn bộ sau 7 ngày Trùn giấm Cá chết toàn bộ sau 7 ngày Qua bảng 4.4, ta thấy cá cũng chết toàn bộ ở ngày thứ 7 sau khi nở như lần thử nghiệm thứ nhất. Ở lần này, dù mật độ cá đã giảm thấp (từ 150 – 300 con/bình), nhưng khi chúng được bố trí trong bình có thể tích nhỏ (V = 3 lít) thì mật độ như vậy còn khá cao. Cùng với vệc sục khí liên tục và cho ăn quá sớm khiến những nguyên nhân khiến cá chết hoàn toàn cũng giống như trên: . Thức ăn và môi trường nước . Mật độ cá và quá trình sục khí Ta biết, cá bống tượng sau khi hấp thụ hết noãn hoàn mới bắt đầu ăn thức ăn ngoài, tức là khoảng 4 - 5 ngày sau khi nở cá mới bắt đầu ăn và chỉ ăn mạnh vào buổi tối. Nhưng ở lần thử nghiệm thứ II này, cá 1 ngày sau khi nở đã được cho ăn và cho ăn 3 lần/ngày. Lượng thức ăn vì thế trở nên dư thừa, các hạt thức ăn lơ lững quá nhiều làm ảnh hưởng đến quá trình hô hấp của cá bột. Ngoài ra, các khí độc NH3, H2S sinh ra từ sự phân huỷ chất hữu cơ như: phân cá, thức ăn thừa sẽ không tốt cho cá bột. Môi trường ô nhiễm sẽ làm giảm sức đề kháng của cá với mầm bệnh, vì thế cá trở nên yếu dần và chết sau đó. Cá bột được bố trí trong những bình nhựa có thể tìch nhỏ (V = 3 lít) với mật độ cá rất cao (500 – 1500 con/bình). Sự sục khí liên tục đã làm cho chúng không ngừng đảo trộn trong nước, cá luôn bị đặt trong tình trạng luôn hoạt động, không thể bắt mồi và không được nghỉ ngơi. Vì thế chúng yếu dần và chết đi nhanh chóng. 4.1.3 Lần thử nghiệm thứ III ( từ 22/7/05 đến 31/7/05) Sau khi kết thúc thí nghiệm, chúng tôi tiến hành xác định tỷ lệ sống của cá thí nghiệm. Kết quả về tỷ lệ sống của cá thí nghiệm giữa các nghiệm thức được biễu diễn ở đồ thị sau: Tỷ lệ sống (%) 40
  41. 30 25 20 15 10 5 0 A B C Nghieäm thöùc Đồ thị 4.5 Tỷ lệ sống của cá bống tượng khi kết thúc thí nghiệm Chú thích: A: Lòng đỏ trứng gà B: Trùn giấm C: Thức ăn tổng hợp Cá thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên vào 9 đơn vị thí nghiệm là những bể ximăng có thể tích như nhau (V = 2 m3 nước), và được ký hiệu lần lượt là A1, A2, A3, B1, B2, B3, C1, C2, C3. Các khẩu phần thức ăn ứng với A, B, C là lòng đỏ trứng gà, trùn giấm và thức ăn tổng hợp. Cá được bố trí với một mật độ duy nhất là 200con/bể. Phụ lục 2, bảng 7. Qua đồ thị 4.5 ta thấy, cá đã sống sót qua ngày thứ 7 và tỷ lệ sống cũng cao hơn 2 lần thử nghiệm trước. Theo chúng tôi tỷ lệ sống cao hơn là do những nguyên nhân sau: . Mật độ cá và thể tích bể chứa . Mực nước . Thức ăn và môi trường nước Cá bột được bố trí trong bể ximăng có thể tích lớn (V = 2m3) với mật độ tương đối thấp (200/bể), cho nên quá trình sục khí liên tục không hề ảnh hưởng đến hoạt động của cá. Cá không bị xáo trộn như 2 lần thử nghiệm trước, cá khỏe hơn và đềi đó góp phần nâng cao tỷ lệ sống của cá. Mực nước cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá. Ta biết cá bống tượng là loài cá sống ở tầng đáy vì vậy bể xi măng rộng lớn với mực nước cao 40 cm phù hợp với tập tính sống của chúng. Ta biết, cá bống tượng sau khi hấp thụ hết noãn hoàn mới bắt đầu ăn thức ăn ngoài, tức là khoảng 4 - 5 ngày sau khi nở cá mới bắt đầu ăn và chỉ ăn mạnh vào buổi tối. Lần này, cá 5 ngày sau khi nở mới được cho ăn và chỉ cho ăn 41
  42. 1 lần /ngày vào buổi tối nên tình trạng thức ăn thừa và ô nhiễm môi trường nước đã không xảy ra. Vì những lý do trên, tỷ lệ sống của cá bống tượng lần thử nghiệm này đã cao hơn so với 2 lần thử nghiệm trước. 4.2 So sánh tỷ lệ sống trung bình của cá giữa các nghiệm thức Bảng 4.5 Tỷ lệ sống trung bình của cá thí nghiệm Nghiệm thức Tỷ lệ sống NT A 0.14a ± 0.13 NT B 0.27a ± 0.1 NT C 0.108a ± 0.06 Ghi chú: Các giá trị trên cùng một cột có ký tự a giống nhau là sai biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê (P > 0,05). Qua kết quả trên, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ sống của cá ở các lô có khẩu phần thức ăn khác nhau sai biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê. Điều đó chứng tỏ các khẩu phần thức ăn khác nhau không hề có tác động lên tỷ lệ sống của cá bống tượng ở giai đoạn cá boat và việc sử dụng trùn giấm làm thức ăn không làm cải thiện tỷ lệ sống của cá nhiều như mong đợi. Nhưng vấn đề này có thể dễ dàng lý giải. Mặc dù cá bống tượng là loài ăn động vật điển hình nhưng tỷ lệ sống của nghiệm thức B (cho ăn trùn giấm) không sai biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức khác. Cùng với tốc độ di chuyển quá nhanh của trùn giấm và môi trường nuôi rộng lớn đã hạn chế tần số bắt gặp con mồi của cá nên dù thức ăn đó là động vật sống vẫn không làm tăng tỷ lệ sống của cá. 4.3 Các yếu tố chất lượng nước trong quá trình ương nuôi 4.3.1 Chỉ tiêu pH trong suốt quá trình thí nghiệm Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Dũng và Đỗ Khắc Xuân Diễm (1995), thì cá bống tượng có thể sống được trong môi trường nước có pH từ 4 - 9 nhưng tốt nhất là 6 - 8. Tuy có sự dao động của pH giữa buổi sáng và buổi chiều và giữa các ngày nhìn chung không đáng kể, nên vẫn còn nằm trong phạm vi thích hợp cho sự sống và sinh trưởng của cá. Vì vậy, cá đảm bảo vẫn sống và tăng trưởng tốt và tỷ lệ sống của cá trong đợt thí nghiệm không phải do tác động của môi trường. Trong thời gian thử nghiệm, chúng tôi đã thường xuyên theo dõi pH vào 2 buổi sáng và chiều trong ngày và kết quả được trình bày qua đồ thị sau: pH 42
  43. 8 A1 7.9 A2 7.8 A3 7.7 B1 7.6 B2 7.5 B3 C1 7.4 C2 7.3 C3 7.2 7.1 1 2 3 4 5 6 7 8 Ngaøy Đồ thị 4.6 Giá trị pH vào buổi sáng qua thời gian thử nghiệm Chú thích: A: Lòng đỏ trứng gà B: Trùn giấm C: Thức ăn tổng hợp 1,2,3: số lần lập lại của mỗi nghiệm thức 43
  44. pH 8 A1 7.9 A2 7.8 A3 B1 7.7 B2 7.6 B3 C1 7.5 C2 7.4 C3 7.3 Ngaøy 1 2 3 4 5 6 7 8 Đồ thị 4.7 Giá trị pH vào buổi chiều qua thời gian thử nghiệm * Chú thích: A: Lòng đỏ trứng gà B: Trùn giấm C: Thức ăn tổng hợp 1,2,3: số lần lập lại của mỗi nghiệm thức 4.3.2 Chỉ tiêu nhiệt độ trong quá trình thí nghiệm T0C 27.5 27 26.5 26 25.5 Saùng 25 Chieàu 24.5 24 23.5 23 22.5 Ngaøy 1 2 3 4 5 6 7 8 Đồ thị 4.8 Nhiệt độ trong quá trình nuôi 44
  45. Yếu tố nhiệt độ được chúng tôi theo dõi mỗi ngày. Trong suốt quá trình nuôi nhiệt độ nước ao dao động từ 24 - 280C. Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994), cá bống tượng thích hợp sống trong môi trường nước ấm áp với nhiệt độ khoảng 25 - 300C. Vì vậy, nhiệt độ tuy có dao động trong những ngày mưa lạnh nhưng vẫn còn trong phạm vi cho phép. Kết quả đo yếu tố nhiệt độ được thể hiện trong bảng sau: Bảng 4.6 Yếu tố nhiệt độ trong quá trình thí nghiệm Nhiệt độ (0C) Thời gian Trung bình Max Min Từ ngày 1-9 25,75 28 24 Cuối cùng, qua nghiên cứu và khảo sát, chúng tôi thấy rằng các điều kiện môi trường nước trong đợt ương nuôi thử nghiệm này đều nằm trong phạm vi thích hợp cho cá tăng trưởng và phát triển. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.3 Kết Luận Qua những thử nghiệm đã tiến hành, chúng tôi rút ra những kết luận sau:  Đối với cá xiêm  Cá ở các lô có mật độ khác nhau có tỷ lệ sống tương đương nhau, tức là mật độ không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá xiêm.  Không nên cho cá ăn quá nhiều và phải thay nước mỗi ngày để hạn chế ô nhiễm môi trường nuôi, gây chết cá dẫn làm ảnh hưởng đến độ chính xác của thí nghiệm.  Kết quả tỷ lệ sống của cá khi cho ăn trùn giấm so với khi cho ăn các loại thức ăn khác không khác nhau về mặt thống kê (P > 0,05).  Đối với cá bống tượng  Không nên cho cá ăn quá sớm khi chúng chưa tiêu hết noãn hoàn.  Không nên nuôi cá bống tượng trong bình nhựa với mật độ cá dày đặc và sục khí liên tục sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tỷ lệ sống của cá.  Tỷ lệ sống của cá giữa các lô cho ăn trùn giấm với các lô cho ăn các loại thức ăn khác không khác nhau về mặt thống kê (P > 0,05). 45
  46. 5.4 Đề Nghị Từ kết quả trên, chúng tôi có những kiến nghị sau:  Cần có máy phát điện dự phòng để đề phòng những trường mất điện, dẫn tới việc máy sục khí ngưng hoạt động gây chết cá, làm cho kết quả thí nghiệm không hoàn toàn chính xác.  Cần tiến hành nhiều thí nghiệm so sánh tỷ lệ sống của cá bột khi sử dụng trùn giấm với khi sử dụng những loại thức ăn sống khác để có đánh giá chính xác hơn về hiệu quả sử dụng của trùn giấm. . TÀI LIỆU THAM KHẢO Trần Minh Tâm, 1997. Bảo Quản Chế Biến Nông Sản Sau Thu Hoạch. Nhà Xuất Bản Nông Nghiệp TP.HCM. Cheng Phen, 1994. Đặc điểm sinh học của cá bống tượng (Oxyeleotris marmorata Bleeker). Luận văn tốt nghiệp, trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh. Lâm Thị Út, 1995. Sản xuất giống cá bống tượng tại Trà Vinh. Luận văn tốt nghiệp, trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh. Đặng Hồng Đức, 1998. Sử dụng tảo Spirulina bổ sung vào thức ăn viên cho một số loài cá. Luận văn tốt nghiệp, trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Thanh Thuý, 1997. Aûnh hưởng của Methytestosterone đến sự chuyển đổi giới tính ở cá xiêm. Luận văn tốt nghiệp, trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Duy Hoà và Huỳnh Thị Ngọc Oanh, 1994. Thực Nghiệm Sản Xuất Cá Bống Tượng (Oxyeleotris marmorata Bleeker). Luận văn tốt nghiệp, trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh. Vũ Thị Tường Vi và Trần Thị Thu Vân, 1994. Khảo Sát Aûnh Hưởng Của Các Loại Thức Aên Lên Sự Tăng Trưởng Và Tỷ Lệ Sống Của 3 Loại Cá Trê Trong Giai Đoạn Từ Bột Lên Hương. Luận văn tốt nghiệp, trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh. 46
  47. PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HOẠ Hình 1 Hình dạng trùn giấm (Tubatrix aceti) Hình 2 Cá bống tượng 1 ngày sau khi nở 47
  48. Hình 3 Cá xiêm 2 ngày sau khi nở Hình 4 Cá xiêm được 10 ngày tuổi (lần thử nghiệm thứ III ) 48
  49. Hình 5 Cá xiêm trưởng thành Hình 6 Thức ăn cho cá bột 49
  50. PHỤ LỤC 2: CÁCH BỐ TRÍ THÍ NGHIỆM 1 Lần bố trí thí nghiệm thứ I trên cá xiêm ĐVTN Thể tích (lít) Mật độ (con/lít) Mực nước(cm) A1 3 10 20 B1 3 10 20 C1 3 10 20 D1 3 10 20 A2 3 50 20 B2 3 50 20 C2 3 50 20 D2 3 50 20 2 Lần bố trí thử nghiệm thứ II trên cá xiêm ĐVTN Thể tích (lít) Mật độ (con/lít) Mực nước(cm) A1 3 10 20 B1 3 10 20 C1 3 10 20 D1 3 10 20 A2 3 50 20 B2 3 50 20 C2 3 50 20 D2 3 50 20 3 Lần bố trí thử nghiệm thứ II trên cá xiêm ĐVTN Thể tích (lít) Mật độ (con/lít) Mực nước(cm) A1 3 10 20 B1 3 10 20 C1 3 10 20 D1 3 10 20 A2 3 50 20 B2 3 50 20 C2 3 50 20 D2 3 50 20 50
  51. 4 Lần bố trí thử nghiệm thứ II trên cá xiêm ĐVTN Thể tích (lít) Mật độ (con/lít) Mực nước(cm) A1 3 20 20 B1 3 20 20 C1 3 20 20 D1 3 20 20 ĐC1 3 20 20 A2 3 50 20 B2 3 50 20 C2 3 50 20 D2 3 50 20 ĐC2 3 50 20 5 Lần Thử Nghiệm Thứ I Trên Cá Bống Tượng ĐVTN Thể tích (lít) Mật độ (con/lít) Mực nước(cm) A1 3 100 20 B1 3 100 20 C1 3 100 20 D1 3 100 20 A2 3 500 20 B2 3 500 20 C2 3 500 20 D2 3 500 20 a3 3 500 5 b3 3 500 5 c3 3 500 5 d3 3 500 5 51
  52. 6 Lần Thử Nghiệm Thứ II Trên Cá Bống Tượng ĐVTN Thể tích (lít) Mật độ (con/lít) Mực nước(cm) A1 3 100 20 B1 3 100 20 C1 3 100 20 D1 3 100 20 A2 3 500 20 B2 3 500 20 C2 3 500 20 D2 3 500 20 Ghi chú A,a: cho ăn lòng đỏ trứng gà B,b: cho ăn tảo khô Spirulina C,c: cho ăn thức ăn tổng hợp D,d: cho ăn trùn giấm 7 Lần Thử Nghiệm Thứ III Trên Cá Bống Tượng ĐVTN Thể tích (m3) Số con/bể Mực nước(cm) A1 2 200 40 A2 2 200 40 A3 2 200 40 B1 2 200 40 B2 2 200 40 B3 2 200 40 C1 2 200 40 C2 2 200 40 C3 2 200 40 Ghi chú A: cho ăn lòng đỏ trứng gà B: cho ăn thức ăn tổng hợp D: cho ăn trùn giấm 52
  53. PHỤ LỤC 3: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH THỐNG KÊ 1. Kết quả phân tích tỷ lệ sống của cá bống tượng sau 9 ngày nuôi (lần thử nghiệm thứ III) Bảng ANOVA Nguồn biến Tổng BPĐL Độ tự do Phương sai Ftính Hệ số sai biệt (SV) (SS) (df) (MS) (α) Giữa các NT 4,37.10-5 2 2,19.10-5 2,11 0,2024 Trong các NT 6,22.10-5 6 1,04.10-5 Tổng 10,59.10-5 8 Bảng So Sánh Trung Bình Giữa Các Nghiệm Thức Bằng Turkey Phương pháp: số hiệu nhỏ nhất có ý nghĩa (Turkey) với độ tin cậy là 95% Mức độ Số mẫu Trung bình Nhóm tương đồng A 3 0,108 x B 3 0,268 x C 3 0,108 x Đối chiếu Sai biệt +/- Giới hạn A – B -0,132 0,333 A _ C 0,028 0,333 B _ C 0,16 0,333 Ghi chú: * sai khác có ý nghĩa thống kê 2. Kết quả phân tích tỷ lệ sống của cá Xiêm mật độ 20 con/lít (lần IV) Bảng ANOVA Nguồn biến Tổng BPĐL Độ tự do Phương sai Ftính Hệ số sai biệt (SV) (SS) (df) (MS) (α) Giữa các NT 0,95 4 0,24 3,75 0,0408 Trong các NT 0,64 10 0,064 Tổng 1,6 14 Bảng So Sánh Trung Bình Giữa Các Nghiệm Thức Bằng Turkey 53
  54. Phương pháp: số hiệu nhỏ nhất có ý nghĩa (Turkey) với độ tin cậy là 95% Mức độ Số mẫu Trung bình Nhóm tương đồng B 3 0,49 X DC 3 0,55 X C 3 0,57 X A 3 0,93 X D 3 1,14 X Đối chiếu Sai biệt +/- Giới hạn A – B 0,43 0,68 A _ C 0,35 0,68 A _ D - 0,21 0,68 A – DC 0,38 0,68 B – C - 0,07 0,68 B – D - 0,64 0,68 B – DC - 0,05 0,68 C – D - 0,56 0,68 Ghi chú: * sai khác có ý nghĩa thống kê 3 Kết quả phân tích tỷ lệ sống của cá Xiêm mật độ 50 con/lít (lần IV) Bảng ANOVA Nguồn biến Tổng BPĐL Độ tự do Phương sai Ftính Hệ số sai biệt (SV) (SS) (df) (MS) (α) Giữa các NT 1,43 4 0,36 2,66 0,0956 Trong các NT 1,34 10 0,13 Tổng 2,7 14 54
  55. Bảng So Sánh Trung Bình Giữa Các Nghiệm Thức Bằng Turkey Phương pháp: số hiệu nhỏ nhất có ý nghĩa (Turkey) với độ tin cậy là 95% Mức độ Số mẫu Trung bình Nhóm tương đồng DC 3 0,35 X B 3 0,68 X C 3 0,72 X A 3 1,09 X D 3 1,21 X Đối chiếu Sai biệt +/- Giới hạn A – B 0,41 0,98 A _ C 0,37 0,98 A _ D - 0,12 0,98 A – DC 0,74 0,98 B – C - 0,04 0,98 B – D - 0,53 0,98 B – DC 0,33 0,98 C – D - 0,49 0,98 Ghi chú: * sai khác có ý nghĩa thống kê 4 Bảng So Sánh Tỷ Lệ Sống Của Cá Trên 2 Mật Độ Khác Nhau Phương pháp: số hiệu nhỏ nhất có ý nghĩa (Turkey) với độ tin cậy là 95% Mức độ Số mẫu Trung bình Nhóm tương đồng 1 15 0,74 X 2 15 0,82 X Đối chiếu Sai biệt +/- Giới hạn 1 – 2 -0,07 0,19 PHỤ LỤC 4: KẾT QUẢ VỀ TỶ LỆ SỐNG 1. Tỷ lệ sống của cá xiêm ở lần thử nghiệm thứ I NGHIỆM THỨC I II A B C D A B C D Số cá thả30 30 30 30 150 150 150 150 Số cá thu0 19 8 23 0 2 8 25 Tỷ lệ sống(%) 0 63,33 26,67 76,67 0 1,33 5,33 16,67 55
  56. 2. Tỷ lệ sống của cá xiêm ở lần thử nghiệm thứ II NGHIỆM THỨC I II A B C D A B C D Số cá thả30 30 30 30 150 150 150 150 Số cá thu 26 28 28 29 127 117 49 104 Tỷ lệ sống (%) 86,67 93,33 93,33 96,67 84,67 78 32,67 69,33 3. Tỷ lệ sống của cá xiêm ở lần thử nghiệm thứ III NGHIỆM THỨC I II A B C D A B C D Số cá thả30 30 30 30 150 150 150 150 Số cá thu 20 5 15 24 103 43 77 120 Tỷ lệ sống (%) 66,67 16,67 50 80 68,67 28,67 51,33 80 4. Tỷ lệ sống của cá xiêm ở lần thử nghiệm thứ IV (%) NGHIỆM THỨC I II A B C D DC A B C D DC 79,45 47,22 52,78 90,56 87,33 87,33 61,33 66,89 89,11 29 5. Tỷ lệ sống của cá bống tượng ở lần thử nghiệm thứ III NGHIỆM THỨC A B C Lập lại I II III I II III I II III Số cá thả 200 200 200 200 200 200 200 200 200 Số cá thu54 2 26 31 59 71 9 23 33 Tỷ lệ sống 27 1 13 15,5 29,5 35,5 4,5 11,5 16,5 (%) 56
  57. PHỤ LỤC 5: CHỈ TIÊU MÔI TRƯỜNG TRONG SUỐT QUÁ TRÌNH ƯƠNG NUÔI THÍ NGHIỆM CÁ BỐNG TƯỢNG 1 Nhiệt độ của nghiệm thức A trong 9 ngày nuôi NHIỆT ĐỘ (0C) Lập lại I II III Ngày Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 26 28 26 28 26 28 2 26 26 26 26 26 26 3 25 26 25 26 25 26 4 26 26 26 26 26 26 5 25 26 25 26 25 26 6 25 26 25 26 25 26 7 25 26 25 26 25 26 8 25 25 25 25 25 25 TB 25,29 26,13 25,29 26,13 25,29 26,13 2 Nhiệt độ của nghiệm thức B trong 9 ngày nuôi NHIỆT ĐỘ (0C) Lập lại I II III Ngày Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 26 29 26 29 26 27 2 26 26 26 26 26 26 3 25 26 25 26 25 26 4 26 26 26 26 26 26 5 24 26 24 26 24 26 6 24 26 24 26 24 26 7 25 26 25 26 25 26 8 25 25 25 25 25 25 TB 25 26,25 25 26,25 25 26 57
  58. 3 Nhiệt độ của nghiệm thức C trong 9 ngày nuôi NHIỆT ĐỘ (0C) Lập lại I II III Ngày Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 26 27 26 27 26 27 2 26 26 26 26 26 26 3 25 26 25 25 25 26 4 25 26 25 25 25 26 5 24 26 24 25 24 26 6 24 26 24 25 24 26 7 25 26 25 25 25 26 8 25 25 25 25 25 25 TB 24,86 26 24,86 25,38 24,86 26 4 pH của nghiệm thức A trong 9 ngày nuôi pH Lập lại I II III Ngày Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 7,4 7,7 7,4 7,8 7,4 7,7 2 7,4 7,6 7,4 7,5 7,4 7,7 3 7,6 7,6 7,6 7,7 7,6 7,7 4 7,8 7,7 7,6 7,8 7,5 7,7 5 7,8 7,8 7,7 7,9 7,6 7,5 6 7,7 7,7 7,7 7,9 7,6 7,8 7 7,8 7,7 7,8 7,9 7,7 7,8 8 7,8 7,7 7,9 7,9 7,8 7,8 TB 7,7 7,69 7,67 7,8 7,6 7,7 58
  59. 5 pH của nghiệm thức B trong 9 ngày nuôi pH Lập lại I II III Ngày Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 7,5 7,8 7,4 7,6 7,5 7,9 2 7,5 7,5 7,4 7,6 7,5 7,6 3 7,6 7,5 7,5 7,5 7,6 7,5 4 7,6 7,6 7,5 7,7 7,4 7,7 5 7,8 7,9 7,7 7,9 7,7 7,9 6 7,8 7,9 7,8 7,9 7,7 7,7 7 7,7 7,9 7,7 7,9 7,7 7,7 8 7,9 7,9 7,8 7,9 7,7 7,7 TB 7,7 7,75 7,63 7,75 7,6 7,7 6 pH của nghiệm thức C trong 9 ngày nuôi pH Lập lại I II III Ngày Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 7,5 7,8 7,5 7,5 7,6 7,5 2 7,5 7,6 7,5 7,4 7,6 7,6 3 7,6 7,5 7,5 7,4 7,6 7,5 4 7,6 7,6 7,7 7,6 7,5 7,6 5 7,8 7,8 7,8 7,8 7,5 7,8 6 7,8 7,8 7,8 7,8 7,5 7,8 7 7,6 7,8 7,8 7,8 7,5 7,8 8 7,8 7,8 7,9 7,8 7,8 7,8 TB 7,67 7,7 7,7 7,64 7,57 7,68 59