Tài liệu Tỷ số giới tính khi sinh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Tỷ số giới tính khi sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tai_lieu_ty_so_gioi_tinh_khi_sinh.pdf
Nội dung text: Tài liệu Tỷ số giới tính khi sinh
- Tỷ Số Giới Tính Khi Sinh ở Châu Á và Việt Nam: Tổng quan tài liệu nhằm hướng dẫn nghiên cứu về chính sách Hà Nội, Tháng 10/2010
- UNFPA, Quỹ Dân số Liên hợp quốc, là một tổ chức phát triển quốc tế đang hoạt động nhằm thúc đẩy quyền cho mỗi phụ nữ, nam giới và trẻ em đều có được một cuộc sống dồi dào sức khoẻ và có cơ hội bình đẳng. UNFPA đang hỗ trợ các nước trong việc sử dụng số liệu dân số để xây dựng chính sách và chương trình nhằm xóa đói giảm nghèo và đảm bảo rằng mọi phụ nữ đều có thai theo ý muốn, trẻ em được sinh ra an toàn, thanh thiếu niên đều không mắc phải HIV/AIDS, trẻ em gái cũng như phụ nữ đều được tôn trọng và đối xử bình đẳng. Các quan điểm được trình bày trong báo cáo này là của nghiên cứu viên và không nhất thiết phản ánh quan điểm và chính sách của UNFPA, của các Tổ chức Liên Hợp Quốc và của các tổ chức thành viên khác.
- Giới thiệu Từ khi các phân tích số liệu của cuộc Điều tra biến động dân số năm 2006 đã cung cấp bằng chứng về sự gia tăng bất thường của tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam với 110 trẻ em trai trên 100 trẻ em gái, thì vấn đề tỷ số giới tính khi sinh đã thu hút sự quan tâm của các nhà nhân khẩu học, các nhà lập chính sách và các cơ quan truyền thông đại chúng. Tỷ số giới tính khi sinh được xác định bằng số trẻ em trai được sinh ra trên 100 trẻ em gái, là một chỉ số nhân khẩu học, phản ánh cơ cấu giới tính của một quần thể dân số. Tỷ số giới tính khi sinh ở mức sinh học bình thường là từ 104 - 106/100 trẻ em gái. Ở Việt Nam, theo số liệu của Tổng điều tra dân số 2009, tỷ số này đã vượt mức sinh học bình thường và đang ở ngưỡng đáng báo động là 110,5 trẻ em trai trên 100 trẻ em gái. Một số phân tích định lượng đã đưa ra một bức tranh chi tiết về xu hướng và quá trình tiến triển của chỉ số nhân khẩu học này. Đặc biệt, báo cáo có tựa đề “Những biến đổi gần đây về tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam: Tổng quan các bằng chứng” đã cung cấp cho độc giả một bức tranh toàn cảnh về tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đang diễn ra ở Việt Nam, dựa trên các phân tích định lượng số liệu từ các cuộc Điều tra biến động dân số trong những năm gần đây. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một tổng quan nghiên cứu nào tập hợp, tóm tắt và tổng hợp để xác định xem chúng ta đã biết những gì về tỷ số giới tính khi sinh, để đánh giá những khoảng trống trong kiến thức hiện nay về xu hướng nhân khẩu học quan trọng này. Đây tổng quan nghiên cứu đầu tiên về tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam và một số nước Châu Á. Tài liệu này tóm tắt một số tài liệu, công trình nghiên cứu chọn lọc ở Châu Á và Việt Nam, cũng đồng thời nhằm khơi gợi các ý tưởng nghiên cứu tiếp theo và cách thức để giải quyết có hiệu quả trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam. Đặc biệt, thông qua phân tích về khoảng trống trong kiến thức và các bằng chứng về tỷ số giới tính khi sinh, tài liệu này đã xác định được các câu hỏi nghiên cứu định tính nhằm bổ sung vào sự thiếu hụt về kiến thức hiện nay về các yếu tố xã hội và văn hóa ảnh hưởng đến tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam. Tổng quan nghiên cứu thực chất là “một công việc đang tiếp diễn” và sẽ tiếp tục được cập nhật nhằm bổ sung thông tin và bằng chứng về tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam, dựa trên các tài liệu và nghiên cứu liên quan. Cụ thể hơn, chúng tôi dự tính sẽ cập nhật tài liệu tổng quan này vào năm 2015, thời điểm Việt Nam bắt đầu dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các khung chính sách và kế hoạch khác. Với hướng tiếp cận này, tài liệu nghiên cứu tổng quan sẽ cần thiết cho các chương trình can thiệp, các giải pháp chính sách và nghiên cứu trong tương lai. Quỹ Dân số Liên hiệp quốc trân trọng cảm ơn Bà Elizabeth Krijgh và bà Khuất Thu Hồng đã xây dựng báo cáo. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tài liệu quý báu này tới các nhà lập chính sách, các nhà quản lý, các cán bộ chuyên môn, các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm đến lĩnh vực dân số, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản ở Việt Nam. Bruce Campbell Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên hiệp quốc tại Việt Nam Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 3
- Mục lục Danh mục các biểu đồ và các bảng PHẦN 1 4 Giới thiệu tổng quan và mục đích nghiên cứu PHẦN 2 Tóm tắt các tài liệu đã được rà soát 6 PHẦN 3 Các phát hiện chính 21 PHẦN 4 Những can thiệp về chính sách hoặc chương trình đã được thực hiện 31 PHẦN 5 Gợi ý các lĩnh vực cần nghiên cứu định tính sâu hơn và các phương pháp nghiên cứu có thể sử dụng 33 PHẦN 6 Danh lục tài liệu được rà soát 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO 106 4 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- Danh mục các biểu đồ và các bảng Bảng 1: Tóm tắt các tài liệu đã được nghiên cứu phân chia theo khu vực địa lý, loại hình nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và khuyến nghị chính sách 45 Bảng 2: Các yếu tố góp phần làm thay đổi thay đổi TSGTKS ở Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Việt Nam 50 Bảng 3: Can thiệp về chính sách và chương trình có thể tác động đến sự thay đổi các xu hướng và hành vi có liên quan đến TSGTKS 54 Bảng 4: Các câu hỏi tham khảo cho các phương pháp nghiên cứu sau này 67 Biểu đồ 1: Chiến lược nghiên cứu làm cơ sở cho việc giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh của quốc gia 12 Biểu đồ 2: Các giai đoạn khác nhau của TSGTKS 14 Biểu đồ 3: Những áp lực góp phần vào sức ép về hành vi lựa chọn giới tính 18 Biểu đồ 4: Các lĩnh vực cần được tiếp tục nghiên cứu định tính 34 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 5
- Phần 1: Giới thiệu tổng quan và mục đích nghiên cứu Mục đích chung của tổng nghiên cứu này thực chất là quan này là tóm tắt và “công việc đang tiếp diễn” tổng hợp một số các tài nhằm khơi gợi các ý liệu chọn lọc liên quan tưởng cho các nghiên đến sự thay đổi của tỷ cứu tiếp theo, đồng số giới tính khi sinh thời tiếp tục bổ sung (TSGTKS) ở Châu Á các thông tin có liên và Việt Nam. quan một khi các thông tin đó được Đây là tổng quan công bố. Một phần nghiên cứu đầu tiên của tài liệu tổng quan về chủ đề TSGTKS ở sẽ xác định các khoảng Việt Nam và một số trống về kiến thức hiện quốc gia Châu Á khác. tại. Dựa trên phân tích Mặc dù chủ đề tỷ số giới này, sẽ đưa ra các khuyến tính trẻ em và TSGTKS đã nghị về nghiên cứu định tính được các nhà nhân khẩu học, tiếp theo, kể cả các gợi ý về các các nhà nghiên cứu và các cơ quan phương pháp nghiên cứu thích hợp. chính phủ quan tâm tới rất nhiều trong thập kỷ vừa qua, cũng như có nhiều tài Hy vọng rằng tổng quan nghiên cứu liệu, công trình nghiên cứu khác nhau đã này sẽ được coi là một công cụ hữu ích viết về và được sử dụng để cảnh báo xu để tham khảo khi đề cập đến các định hướng gia tăng của TSGTKS tại các khu hướng chính sách và hoạt động liên quan vực khác nhau, nhưng đến nay vẫn chưa tới vấn đề TSGTKS có một tổng quan nghiên cứu tập hợp tất cả các tài liệu đó vào trong một văn bản. Định nghĩa các thuật ngữ Tổng quan này là nỗ lực đầu tiên trong liên quan việc cung cấp một danh sách các tài liệu nghiên cứu hiện có nhằm hỗ trợ các nhà Tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS): là nghiên cứu, các nhà hoạch định chính một chỉ số thống kê được xác định bằng sách và các đối tác phát triển để xác định số trẻ em trai được sinh ra trên một trăm xem chúng ta đã biết những gì và chúng trẻ em gái. Tỷ số này thông thường là ta đã làm cách nào giải quyết vấn đề gia từ 104-106 trẻ em trai trên 100 trẻ em tăng bất thường của TSGTKS gần đây ở gái và giá trị của tỷ số này thường rất ổn Việt Nam. Tổng quan hỗ trợ sự tiếp cận định qua thời gian. đến các dữ liệu và bài học kinh nghiệm Tỷ số giới tính trẻ em: là một chỉ số rút ra ở Việt Nam và khu vực Châu Á về thống kê được xác định bằng tỷ lệ số trẻ chủ đề này. Không thể nói là tổng quan em gái trên 100 số trẻ em trai trong độ này đã thâu tóm được tất cả các nghiên tuổi từ 0 tới 6. (Cần lưu ý chỉ số này phản cứu đã được thực hiện. Trên thực tế, ánh tỷ lệ tử vong của trẻ em sau sinh). trong khi tìm kiếm các tài liệu liên quan, đã nhận thấy rằng số tài liệu hiện có ít Phần lớn các tài liệu đã rà soát là các hơn, ít tổng hợp hơn và cũng ít chi tiết công trình nghiên cứu hiện có. Các tài hơn so với mong đợi. Đặc biệt, mặc dù liệu khác bao gồm các văn bản của các gần đây các số liệu định lượng tuyệt vời cơ quan nhà nước, các báo cáo dự án, đã được thiết lập và phân tích cho Việt các bài đăng tạp chí, và nhiều ấn phẩm Nam, nhưng những khoảng trống trong kinh tế xã hội khác. dữ liệu định tính đã không cho phép hiểu sâu hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến xu Ngoài mục đích cập nhật các tài liệu hướng của TSGTKS. Do vậy, tổng quan nghiên cứu ở khu vực và Việt Nam, tổng Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 7
- quan này xây dựng một cơ sở dữ liệu cho nghiệm tại cơ sở và các phỏng vấn viên giai đoạn tiếp theo của chiến lược nhằm cần được đào tạo trước khi tiến hành cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam: nghiên cứu. Việc thiết kế và thực hiện ví dụ như tổ chức làm việc với một nhóm nghiên cứu một cách chu đáo dự kiến sẽ kỹ thuật và xác định và cụ thể hóa các diễn ra trong nhiều tháng, sau khi việc vấn đề sau đó tiếp tục phát triển thành thu thập các số nghiên cứu được hoàn các câu hỏi nghiên cứu mà từ đó có thể tất sẽ tiến hành phân tích và chia sẻ xây dựng đề xuất nghiên cứu định tính. Đề xuất nghiên cứu này cần xác định thông tin với các đối tác liên quan. Đầu nhóm mẫu rõ ràng, các công cụ nghiên ra mong đợi của nghiên cứu sẽ chi tiết cứu và có hướng dẫn đào tạo phỏng vấn. hơn và các khuyến nghị chính sách, cùng Tiếp theo giai đoạn thiết kế, các công với kế hoạch hành động sẽ được thiết kế cụ nghiên cứu cần được tiến hành thử có mục tiêu cụ thể. Biểu đồ 1: Chiến lược nghiên cứu làm cơ sở cho việc giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh của quốc gia Tổng quan Phân tích tình huống của nghiên cứu Rà soát tác Hoàn thiện động của các can thiệp các câu hỏi chính sách nghiên cứu Sử dụng nghiên cứu để hỗ trợ cải thiện chính sách nhằm giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh ở Xác định thiết Khuyến nghị Việt Nam chính sách kế nghiên cứu và kế hoạch và công cụ hành động nghiên cứu Phân tích kết quả và tham Tiến hành thực khảo ý kiến hiện nghiên cứu với các đối tác liên quan 8 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- Phần 2: Tóm tắt các tài liệu đã được rà soát Việc lựa chọn kỹ càng các hiện nay. Bước cuối cùng tài liệu về chủ đề TSGTKS là phân tích từng tài liệu trong vòng 15 năm qua nhằm xác định xem tài ở Châu Á để tổng quan liệu đó có khuyến nghị nghiên cứu dựa trên trực tiếp, hay gián nội dung của các tài tiếp tới chính sách liệu này có đề cập và hay không, hoặc phân tích tới các yếu không thảo luận gì tố tác động đến sự về chính sách. Cho thay đổi của TSGTKS. đến nay, vẫn chưa Tổng số 37 tài liệu đã có một tài liệu nào được lựa chọn và phân được tìm thấy thảo loại thành các nhóm chủ luận cụ thể về các can đề liên quan đến TSGTKS thiệp để giải quyết vấn trong khu vực, đặc biệt ở đề TSGTKS ở Việt Nam. Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Do đó, tiếp theo tổng quan Quốc, và phần lớn các tài liệu đề này cần có một nghiên cứu cập đến chủ đề này ở Việt Nam. Trong chuyên sâu nhằm hỗ trợ các nỗ lực số các chủ đề được phân loại, 11 tài liệu xác định các can thiệp chính sách cụ thể thảo luận về TSGTKS trong khu vực, và có thể áp dụng và/hoặc nhân rộng trong 26 tài liệu bàn về TSGTKS ở Việt Nam. bối cảnh Việt Nam. Ngoài sáu tài liệu về chính sách và một văn kiện dự án, đa số các tài liệu khác là Bảng dưới đây trình bày tóm tắt các nghiên các công trình, báo cáo nghiên cứu được cứu đã được rà soát, bao gồm cả tên của phân nhóm theo phương pháp nghiên tác giả thứ nhất, năm xuất bản, địa bàn cứu gồm phương pháp nghiên cứu định nghiên cứu, gồm cả các tỉnh/thành phố lượng (có 17 tài liệu) hoặc định tính (có trong nước, loại hình nghiên cứu là định 11 tài liệu) hoặc kết hợp cả hai phương hay định lượng, cũng như cỡ mẫu nghiên pháp (có 2 tài liệu). Với những tài liệu cứu. Bảng này cũng trình bày phương có đủ thông tin, phương pháp nghiên pháp nghiên cứu đã sử dụng, và đánh cứu được mô tả chi tiết nhằm giúp hình dung cách nào phù hợp nhất để giải giá ngắn gọn xem liệu có khuyến nghị về quyết những thiếu hụt về kiến thức chính sách hay chương trình không. Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 9
- 10 Bảng 1: Tóm tắt các tài liệu đã được nghiên cứu phân chia theo khu vực địa lý, loại hình nghiên cứu, Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam phương pháp nghiên cứu và khuyến nghị chính sách Năm Loại hình Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách nghiên cứu bản Quy mô mẫu Châu Á Almond, Tỷ số giới tính 08 Người Hàn Quốc, Định lượng Tính toán các Xây dựng chiến lược nhằm hạn Douglas; and có xu hướng Trung Quốc, bảng số liệu chế việc quảng cáo thương mại Edlund, Lena nhiều nam hơn và Ấn Độ di cư tương quan của về các kỹ thuật xác định giới 1 nữ trong Tổng sang Mỹ Điều tra dân số tính trước khi sinh. điều tra Dân ở Mỹ năm 2000 số của Mỹ năm 2000 Chung, Tại sao sự ưa 07 Hàn Quốc Định lượng với Tần suất và Các can thiệp thúc đẩy bình Wonchin; and thích con trai ở cỡ mẫu 7.000 kiểm định thống đẳng giới; các chiến dịch tuyên Gupta, Das Hàn Quốc giảm phụ nữ tuổi từ kê Chi bình truyền rộng lớn nhằm nâng cao đi? Vai trò của 15 tới 49 năm phương, phân giá trị của trẻ em gái; chiến lược 2 sự phát triển và 1991 và 6.500 tích hồi quy đa chỉnh sửa hệ thống luật pháp; chính sách công phụ nữ năm biến, đơn biến; tài trợ các tổ chức của phụ nữ và ý nghĩa đối 1993 phương pháp tuyến cơ sở; chính sách hỗ trợ với Trung Quốc phân tách dữ tài chính khi nuôi con gái và Ấn Độ liệu Chung, Xu hướng giảm 07 Hàn Quốc Định tính: Tần suất và kiểm Nâng cao trình độ học vấn cho Wonchin; and ưa thích con trai Cỡ mẫu: 7.000 định thống kê bé gái; các cơ hội việc làm như Gupta, Das ở Hàn Quốc: phụ nữ tuổi từ Chi bình phương, nhau và những phúc lợi dành Vai trò của phát 15 tới 49 năm phân tích hồi cho phụ nữ; hệ thống lương hưu 3 triển và chính 1991 và 6.500 quy đa biến, đơn rõ ràng cho tất cả mọi người; kế sách công phụ nữ năm biến; phương hoạch an sinh tuổi già rõ ràng. 1993 pháp phân tách dữ liệu
- Năm Loại hình Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách nghiên cứu bản Quy mô mẫu Guilmoto, Thời kỳ quá độ 09 Đông Á (Trung Định lượng Rà soát so sánh Xây dựng các chiến lược nhằm Christophe của Tỷ số giới Quốc, Đài Loan, về đăng ký khai hạn chế việc cung cấp các dịch tính ở Châu Á Hàn Quốc, sinh/các ước vụ lựa chọn giới tính; các quy Singapore và Việt tính về lịch sử định của chính phủ về cấm lựa 4 Nam), Nam Á sinh từ các cuộc chọn giới tính; tổ chức các chiến (Pakistan, Ấn Độ) điều tra lớn và dịch truyền thông nâng cao và Tây Á (Armenia, số liệu tổng điều nhận thức Azerbaijan, Georgia tra và Albania) John, Mary Kế hoạch hóa 08 Các bang miền Kết hợp nghiên Phiếu điều tra Các chương trình nâng cao giá E.; Kaur, gia đình, kế Bắc của Ấn cứu định lượng chi tiết gồm hai trị trẻ em gái; hỗ trợ tiền mặt Ravinder; hoạch hóa về Độ: Haryana, và định tính: giai đoạn cho kịp thời chứ không trì hoãn; các Pairiwala, giới, tỷ số giới Punjab, và Cỡ mẫu: 4.500 các hộ gia đình; chương trình hướng vào tầng lớp Rajni; Raju, tính trẻ em đảo Himachal hộ gia đình ở hồ sơ khu vực trung lưu và các gia đình giàu Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam Saraswati; ngược ở một số Pradesh; các các bang phía đô thị - nông có; tách bạch kế hoạch hóa gia Sagar, Alpana huyện thuộc các bang miền Bắc; 2.000 thôn; 12 cuộc đình khỏi những sáng kiến nhằm bang Madhya trung: Rajasthan hộ gia đình ở phỏng vấn sâu, ngăn chặn lựa chọn giới tính; Pradesh, và Madhya- các bang miền quan sát có sự quy định rõ ràng về việc phá thai Rajasthan, Pradesh trung; phỏng tham gia sau khi siêu âm sàng lọc giới Himachal vấn sâu 12 hộ tính và phá thai không vì mục Pradesh, gia đình đích đó; mở rộng các cơ sở y tế 5 Haryana and công cộng để hạn chế các cơ sở Punjab y tế tư nhân; chương trình mở rộng và nâng cao giáo dục công; chương trình nhằm bình đẳng hóa cơ hội việc làm cho nữ giới; chiến dịch khuyến khích ở rể sau kết hôn; chương trình của nhà nước cho người cao tuổi; quy định rõ ràng của nhà nước cho 11 đối tượng cung cấp dịch vụ y tế và cận y tế có liên quan tới việc lựa chọn giới tính
- Năm Loại hình 12 Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách nghiên cứu Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam bản Quy mô mẫu Joseph, Nhận xét về 07 Chín bang ở Định tính Nghiên cứu tình Xây dựng chiến lược quốc gia đối Josantony; chiến dịch chống Ấn Độ trải dài Mẫu: “Quả huống; phương phó với xu hướng gia tăng của Mattam, lựa chọn giới trên ba vùng: bóng tuyết” pháp DELPHI; TSGTKS; đưa ra các quy định rõ Matthew; tính và thăm dò các bang miền tập trung thảo ràng và ngắn gọn của nhà nước Mathew, Sofy; các biện pháp Bắc ở Hamachal luận nhóm; về lựa chọn giới tính và phá thai Siradhna, đối phó trong Pradesh, rà soát số liệu lựa chọn giới tính; phát triển các Kavita;, tương lai Haryana, Punjab thứ cấp; đánh tài liệu truyền thông phù hợp với 6 Patkar, Rohini; và Delhi; các gía các tài liệu đặc thù của địa phương nhằm Kulkarni, Vidya; bang miền Tây truyền thông khuyến khích hành động chứ Radhakrishnan, ở Maharashtra, không chỉ nâng cao nhận thức; E.M. Gujarat và xây dựng chiến dịch có sự tham Rajasthan; các gia của cộng đồng y tế; xây bang miền Nam dựng kế hoạch giám sát trách gồm Karanataka nhiệm giải trình của các nhân và Tamil Nadu. viên y tế và cận y tế. Kim, Doo-Sub Tỷ số giới tính khi 04 Hàn Quốc, Định lượng Phân tích số liệu Xây dựng chiến lược nhằm làm sinh ở Hàn Quốc: Các xu hướng thống kê về sinh giảm các dịch vụ lựa chọn giới Các xu hướng trong khu vực tử giai đoạn tính 7 thay đổi và sự 1985-2000; hai khác biệt giữa phương pháp các vùng mô phỏng Li, Shuzhuo Sự mất cân 07 Trung Quốc, khu Định lượng Phân tích số liệu Các biện pháp xử phạt hành vi bằng tỷ số giới vực Mẫu: 1% tổng Tổng điều tra lựa chọn giới tính và phá thai lựa tính khi sinh và dân số dân số và các chọn giới tính; nới lỏng Chiến các biện pháp thống kê khác lược kế hoạch hóa gia đình; Các can thiệp phổ của chính phủ quy định nghiêm khắc về việc 8 biến ở Trung năm 1992-2005 đình chỉ thai nghén; hệ thống Quốc lương hưu và hỗ trợ gia đình nông thôn; các chương trình an sinh xã hội; chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức cho nam giới và mẹ chồng;
- Năm Loại hình Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách nghiên cứu bản Quy mô mẫu cải thiện hệ thống dịch vụ kế hoạch hóa gia đình toàn diện và lâu dài; chiến dịch quảng bá việc ở rể cho các cặp vợ chồng; Tổ chức các cuộc thi trong nước, chương trình thanh niên tình nguyện, xuất bản cẩm nang hướng dẫn; chiến lược huy động sự tham gia của các tổ chức báo chí trong cả nước; chiến lược đối với các tổ chức xã hội dân sự Mishra, U.S. Sự suy giảm tỷ 09 Ấn Độ Định tính Tổng quan và Cần có thêm nhiều nghiên cứu Dilip, T.R; số giới tính trẻ danh mục tóm định tính hơn nữa và tập trung Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam George, A; em (0-6 tuổi) tắt vào các chủ đề: sự phổ biến Kumar, VKA ở Ấn Độ . Tổng của chuẩn mực gia đình nhỏ quan tài liệu và và sự ưa thích con trai; sự ưa danh mục tóm thích con trai và mối liên hệ 9 tắt với sự thờ ơ với con gái; phá thai lựa chọn giới tính trong bối cảnh nhu cầu tránh thai không được đáp ứng; mối liên hệ giữa hành vi giết trẻ sơ sinh và phá thai lựa chọn giới tính Poston, Các mô hình và 03 Hàn Quốc Định lượng Phân tích thống Chiến lược hạn chế các khả Dudley L; biến thể của Tỷ kê thông qua năng lựa chọn giới tính và phá 10 Juan Wu, số giới tính khi việc sử dụng thai lựa chọn giới tính Julie; Han sinh ở Hàn Quốc các hộp và sơ 13 Gon, Kim đồ
- Năm Loại hình 14 Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách nghiên cứu Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam bản Quy mô mẫu Song, Jan Gia tăng tỷ số 09 Trung Quốc Định tính Phân tích hồ Chiến lược nâng cao nhận thức giới tính ở Trung sơ chính sách, về giới cho các nhà hoạch định Quốc: các biện Phỏng vấn tại chính sách và các nhà quản pháp đối phó và cơ sở lý; chiến lược cải thiện/sửa đổi ảnh hưởng của các luật hiện hành và cải thiện các chính sách các chính sách xã hội hiện có; 11 xã hội chiến lược thành lập một cơ quan điều phối độc lập chịu trách nhiệm hợp nhất các chính sách và các cơ quan trung ương để có sự thống nhất trong khi giải quyết vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh Ở Việt Nam Bang, Phân tích các 08 Việt Nam Định lượng Phân tích số Chiến lược quản lý việc xác định Nguyen thực hành y tế Định tính liệu thứ cấp của giới tính thông qua siêu âm; Pham; Hall, và chính trị- Điều tra biến chiến lược ngăn cấm nạo phá Wayne; Hill, xã hội có ảnh động dân số thai lựa chọn giới tính; chính Peter; Rao, hưởng đến Tỷ năm 2006 và sách giải quyết vấn đề bình 12 Chalapati số giới tính khi 2008; Phân tích đẳng giới; chiến dịch truyền sinh ở Việt Nam chính sách dân thông giáo dục nhằm nâng cao số và thực hành nhận thức về hậu quả của mất y tế cân bằng TSGTKS, và nâng cao vai trò của trẻ em gái. Barbieri, Công cuộc đổi 09 Việt Nam Định lượng: Phân tích thống Xây dựng chương trình thí điểm Magali mới và người Cơ số mẫu: kê của cuộc nhằm tạo điều kiện cho người cao tuổi: sự hỗ 4.800 người từ Tổng điều tra trẻ tuổi hỗ trợ cha mẹ họ khi trợ giữa các thế 60 tuổi trở lên dân số và nhà về già. 13 hệ dưới sức ép và bộ dữ liệu ở năm 1999 và của thời kỳ đổi gồm gần 3.000 Khảo sát mức mới người tuổi từ sống ở Việt 60 trở lên. Nam năm 1997- 1998
- Năm Loại hình Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách nghiên cứu bản Quy mô mẫu Bélanger, Nạo phá thai ba 09 Việt Nam/ các Định lượng Phân tích thống Chiến lược hạn chế dịch vụ Danielle; tháng giữavà bệnh viện tại kê số liệu Tổng phá thai ở tam cá nguyệt thứ Khuất Thị lựa chọn giới Hà Nội và thành điều tra dân số hai; chiến lược ngăn cấm các Hải Oanh K.; tính trẻ em ở Hà phố Hồ Chí Minh năm 1989 và cơ sở tư nhân cung cấp dịch 14 Jianye L.; Lê Nội, Việt Nam 1999, Khảo sát vụ phá thai ba tháng giữa. Thanh Thúy; về Mức sống ở Phạm Việt Việt Nam và các Thanh. số liệu nghiên cứu ở bệnh viện Bélanger, Sự khác biệt 09 Hà Nội, Định lượng Phiếu điều tra Chính sách giải quyết việc bất Danielle giữa các vùng Việt Nam Mẫu: 885 phụ ngắn dành cho bình đẳng về giới và sự ưa thích trong cơ cấu hộ nữ đối tượng là nữ, có con trai như là nguyên nhân gia đình và các những người chính hình thành hành vi lựa mô hình hình chuẩn bị phá chọn giới tính; chương trình bảo Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam thành gia đình ở thai trợ xã hội dành cho người cao Việt Nam tuổi, người không có con trai; chiến lược tạo công ăn việc làm 15 cho nữ giới; chiến dịch truyền thông tại cộng đồng nhằm thúc đẩy sự bình đẳng giữa con trai và con gái và nâng cao nhận thức của công chúng về ảnh hưởng lâu dài của sự mất cân bằng TSGTKS; sửa đổi chính sách hai con. Bélanger, Không thể thiếu 06 Tỉnh Hà Tây Định tính Phỏng vấn cá Chính sách nhằm giải quyết Danielle; con trai: thương (cũ), Việt Nam Mẫu: 25 gia nhân và phương vấn đề ưa thích con trai trong thuyết về mong đình và 74 các pháp quan sát bối cảnh quy mô gia đình nhỏ 16 15 ước sinh đẻ ở thành viên dân tộc học đã được chấp nhận. nông thôn Việt trong gia đình không chính Nam thức
- 16 Năm Loại hình Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách nghiên cứu bản Quy mô mẫu Bélanger, Gia tăng tỷ số Nông thôn phía Định tính Quan sát nhân Chính sách giải quyết việc phân Danielle; giới tính khi Bắc Việt Nam Mẫu: 25 gia chủng học; biệt đối xử với trẻ em gái sinh có xảy ra đình Thảo luận nhóm 17 03 ở Việt Nam hay tập trung; không? Phỏng vấn định tính Bélanger, Tuổi thơ, giới và Tỉnh Hà Tây Định tính Rà soát các Chính sách giải quyết vị trí thứ Danielle quyền lực ở Việt (cũ), Việt Nam tài liệu có sẵn, yếu của con gái trong gia đình Nam phân tích số liệu 18 02 nhân khẩu học thứ cấp; nghiên cứu dân tộc học tại thực địa Bélanger, Sự ưa thích con Việt Nam Định lượng: Phân tích số liệu Không có khuyến nghị chính Danielle trai ở một làng Cơ số mẫu: thứ cấp từ cuộc sách quê nông thôn 1.632 cặp Khảo sát về Mức 19 Việt Nam 02 vợ chồng trẻ sống ở Việt Nam trong đó người giai đoạn 1992- vợ trong độ 1993 tuổi 15-49 Bryant, John; Chế độ phụ hệ Việt Nam Định tính Rà soát số liệu Chiến dịch truyền thông nhằm và mô hình định nhân khẩu học nâng cao nhận thức về giá trị cư ở nhà chồng và nghiên cứu bình đẳng của con gái so với 20 và tỷ lệ sinh 02 dân tộc học con trai giảm ở Việt Nam
- Năm Loại hình Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách nghiên cứu bản Quy mô mẫu Chatterjee, Tình hình mất Việt Nam Định tính Phân tích mô tả Đề xướng chiến lược truyền Patralekha cân bằng giới các tài liệu thông toàn diện nhằm tập tính khi sinh trung thay đổi hành vi tại cấp 21 09 ngày càng gia cộng đồng; chiến lược từ nhiều tăng ở Việt Nam góc độ để nâng cao giá trị của con gái Gammeltoft, Tình trạng của Việt Nam Định tính: Mẫu: Quan sát người Chiến lược nhằm tổ chức/cải Tine; Nguyễn thai nhi và 30 phụ nữ tham gia; Phỏng thiện đào tạo cho cán bộ y tế; Thị Thúy Hạnh những quyết vấn với các câu tập huấn nâng cao nhận thức định sinh tử: hỏi đóng, mở; về TSGTKS; các phương pháp 22 vấn đề đạo đức 07 Thảo luận không nhằm tăng cường giám sát và Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam trong việc sử chính thức các quy trình chuyên môn tại dụng siêu âm ở các cơ sở y tế; dịch vụ tư vấn Việt Nam cho phụ nữ muốn sàng lọc giới tính và nạo phá thai Guilmoto, Các xu hướng Việt Nam Định lượng Phân tích thống Không có khuyến nghị chính Christophe gần đây về hiện kê số liệu Tổng sách tượng nam hóa điều tra Dân số sinh đẻ theo số và Nhà ở năm liệu điều tra Mẫu 2009 23 10 của cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009: Kết quả sơ bộ 17
- 18 Năm Loại hình Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách nghiên cứu bản Quy mô mẫu Guilmoto, Sự gia tăng gần Việt Nam Định lượng Phân tích thống Không có khuyến nghị chính Christophe; đây về Tỷ số giới Mẫu: 3% dân kê số liệu Dân sách Jang Xuyen; tính khi sinh ở số: 461,000 số năm 2000, Toàn, Ngô Văn Việt Nam phụ nữ trong dựa trên các độ tuổi 15-49 cuộc điều tra năm 1997 và 24 09 1999, các cuộc điều tra thực hiện năm 2007 về mức sinh của năm 2006; Phân tích thống kê theo vùng địa lý Hirschman, Cấu trúc gia Việt Nam Định tính: Phiếu điều tra Không có khuyến nghị chính Charles; Vũ đình và hộ gia Mẫu: 403 hộ hộ gia đình; sách Mạnh Lợi đình ở Việt gia đình 25 Nam: Một số 94 điểm lưu ý từ một cuộc điều tra gần đây Viện Nghiên Tỷ số giới tính Việt Nam Định tính Rà soát tài liệu; Tiến hành nghiên cứu chuyên cứu Phát triển khi sinh ở Việt Phân tích nội sâu, cụ thể bao gồm các cuộc Xã hội Nam cao: Thực dung các tài liệu phỏng vấn với các nhà cung tế hay chỉ là về văn hóa và cấp dịch vụ tại các cơ sở cung cường điệu? truyền thông; cấp dịch vụ tư nhân và phụ nữ 26 08 Phỏng vấn các là người đã từng nạo phá thai cán bộ nhân để lựa chọn giới tính. viên nhà nước; Nghiên cứu tình huống
- Năm Loại hình Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách nghiên cứu bản Quy mô mẫu Knodel, John; Vai trò giới Định tính Phân tích thống Không có khuyến nghị chính Loi, Vu Manh; trong gia đình: Mẫu: 1.296 kê số liệu từ các sách Jayakody, Thay đổi và tính nam giới và nữ cuộc điều tra có 27 Rukmalle; ổn định ở Việt 04 giới, chưa kết tính đại diện và Huy, Vu Tuan Nam hôn điều tra vùng, phân tích hồi quy Scornet, Nhà nước và gia Việt Nam Định tính Phân tích dữ Rà soát các chính sách dân Catherine đình: Các chính liệu thứ cấp, số hiện nay để đảm bảo chất sách và thực phân tích chính lượng cuộc sống cho các cá 28 09 hành về sinh sách, nghiên nhân và gia đình; xây dựng hệ sản cứu theo kinh thống an sinh xã hội nghiệm; Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam Quỹ dân số Những biến Việt Nam Định lượng Phân tích dữ Phân tích sâu số liệu của cuộc Liên hiệp đổi gần đây về liệu thứ cấp; Rà Điều tra biến động Dân số quốc Tỷ số giới tính soát tài liệu hàng năm nhằm đáp ứng nhu khi sinh ở Việt cầu cần có thêm các thông tin Nam: Tổng cụ thể về TSGTKS; cải tiến quan nghiên cứu Thống kê đăng ký dân sự; đề 29 09 dựa trên các xuất cần có nghiên cứu chuyên bằng chứng sâu về cơ chế lựa chọn giới tính từ góc độ cung và cầu; Chiến lược nâng cao việc chia sẻ thông tin; chiến dịch nâng cao nhận thức. Phụ nữ thế Luật pháp và Việt Nam Định tính Mô tả tóm tắt Không có khuyến nghị chính giới chính sách ảnh khung chính sách 19 30 hưởng đến cuộc 02 sách sống và vấn đề sinh sản
- 20 Năm Loại hình Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam nghiên cứu bản Quy mô mẫu Bộ Y tế, Việt Nghị định Việt Nam Tài liệu chính Nghị định chính phủ hướng Nam 20/2010/NĐ-CP, sách năm dẫn các trường hợp cụ thể về Việt Nam, năm 2003 sinh con nhưng không được coi 2010 là vi phạm Pháp lệnh Dân số 31 10 Quốc hội Pháp lệnh Việt Nam Tài liệu mô tả Công văn của Chính phủ quy Dân số về chính sách định về việc chỉnh sửa điều 10 năm 2008 trong Pháp lệnh Dân số 32 03 Quốc hội Chỉnh sửa điều Việt Nam Tài liệu về Nghị định số 114: Nghị định 10 trong Pháp chính sách của Chính phủ quy định về 33 lệnh Dân số 08 năm 2006 các hình thức xử phạt vi phạm hành chính về dân số Chính phủ Nghị định Việt Nam Tài liệu về Công văn của Chính phủ số Việt Nam 114/2006-NĐ/ chính sách năm 3121 quy định về các quy tắc CP do Chính phủ 2006 trong việc lạm dụng kỹ thuật ban hành quy cao để lựa chọn giới tính thai 34 06 định xử phạt nhi hành chính về dân số và trẻ em
- Năm Loại hình Phương pháp (Các) tác giả Tiêu đề xuất Khu vực địa lý nghiên cứu/ Khuyến nghị về chính sách nghiên cứu bản Quy mô mẫu Bộ Y Tế Công văn chính Việt Nam Tài liệu về Chính phủ ban hành quy định thức của Bộ Y chính sách năm về dự án can thiệp nhằm giảm Tế số 3121/ 2009 thiểu sự mất cân bằng giới tính BYT-BMTE ngày khi sinh 21/5/2009 về 35 09 việc nghiêm cấm lạm dụng kỹ thuật cao để lựa chọn giới tính thai nhi Tỷ sốGiới tính khi sinh ởChâu Ávà Việt Nam Bộ Y Tế Hướng dẫn quy Việt Nam Tài liệu chính Hướng dẫn của chính phủ về định về dự án sách năm 2008 việc tiếp tục thực hiện các hoạt can thiệp giảm động về dân số và kế hoạch 36 09 thiểu sự mất cân hóa gia đình. bằng giới tính khi sinh Chính phủ Hướng dẫn tiếp Việt Nam Tài liệu chính Hướng dẫn của chính phủ về Việt Nam tục thực hiện sách năm 2008 việc tiếp tục thực hiện các hoạt các hoạt động động về dân số và kế hoạch 37 về dân số và kế 08 hóa gia đình hoạch hóa gia đình 21
- Phần 3: Các phát hiện chính 3.1. Tổng quan về xu hướng của TSGTKS 3.1.1. TSGTKS ở Trung con số trung bình, hoặc tổng Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc số trẻ được sinh ra trong cả vùng thấp hơn, do đó, đã Ba quốc gia trong khu làm thiên lệch các số vực Châu Á là Trung liệu thu thập được. Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc là các quốc gia Nhìn chung, các tài đã từng chịu ảnh liệu hiện có cho rằng ở hưởng nghiêm trọng Hàn quốc hành vi lựa bởi sự mất cân bằng chọn sinh con trai là giới tính khi sinh. Mặc tương đối đồng nhất dù xu hướng mất cân không phụ thuộc vào bằng này ở Trung Quốc nơi cư trú, khu vực địa và Hàn Quốc đi theo một lý và hiện trạng kinh tế khuôn mẫu tương tự nhau, xã hội. Các nguyên nhân bắt đầu là sự tăng cao đột của sự khác biệt TSGTKS ngột, sau đó không đổi trong theo vùng tại Trung quốc và khoảng một thập kỷ và tiếp đó là xu Ấn Độ không được đề cập rõ ràng hướng quá độ từ từ và đi xuống. Ở Ấn Độ, trong các tài liệu được rà soát ngoại trừ tỷ số vẫn ở mức cao và không đổi theo dấu hiệu cho thấy rằng 5 vùng trong một nghiên cứu thực hiện tại Ấn Độ là những thời gian. Mặt khác, ở các nước này, điểm khu vực không có chương trình can thiệp xuất phát của quá trình gia tăng TSGTKS nào được thực hiện. Trong khi ở Trung cũng không giống nhau. Khác với Ấn Độ Quốc, giống như trường hợp của Hàn nơi mà sự gia tăng TSGTKS chỉ gây được Quốc, các vùng/hạt có tỷ số TSGTKS cao sự chú ý sau một thời gian, ở Trung Quốc nhất là những vùng được cho là bảo thủ và Hàn Quốc sự gia tăng bắt đầu gần như nhất về văn hóa. Hàn Quốc hiện đang đi cùng một lúc. Trong khi đó, ở mỗi nước, đầu trong việc hoàn thành thời kỳ quá độ TSGTKS giữa các vùng có sự khác biệt và TSGTKS đã chuyển hướng giảm dần và đáng kể, tuy nhiên những tài liệu được tiếp cận đến ngưỡng sinh học. Ở một số rà soát chưa thể làm sáng tỏ các nguyên vùng thuộc Trung Quốc và Ấn Độ, những nhân dẫn đến sự khác biệt giữa các vùng nơi mà TSGTKS bắt đầu gia tăng sớm hơn đó. Ở Hàn Quốc, một số vùng có TSGTKS một số vùng khác, cũng bắt đầu từ từ đi cao được cho là do các phong tục tập quán xuống, đặc biệt là ở các khu đô thị. Tuy văn hóa bảo thủ của họ và việc gia tăng nhiên, rất ít khả năng cho thấy ở các nơi nạo phá thai gái, ngược lại, các vùng có khác xu hướng đảo ngược của TSGTKS sẽ TSGTKS thấp bất thường lại là các vùng và có thể lặp lại tốc độ như đã xảy ra tại có số trẻ em trong một gia đình cao hơn Hàn Quốc. 22 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- Biểu đồ 2: Các giai đoạn khác nhau của TSGTKS Đông Nam Trung quốc Việt Nam? Ấn Độ Hàn Quốc TSGTKS thời gian 105 Nguồn: trích từ tài liệu của Guilmoto 2010 Đối với tất cả các khu vực, người ta đã truyền thống. Nhìn chung, mặc dù có sự chứng minh nhiều lần rằng sự gia tăng về thống nhất trong nhiều tài liệu về số các TSGTKS không thể chỉ do một hoặc thậm nguyên nhân trực tiếp, một nguyên nhân chí là vài yếu tố đơn thuần. cơ bản hoặc nguyên nhân gốc rễ của mất cân bằng giới tính khi sinh, tuy nhiên vai Xu hướng gia tăng TSGTKS được bắt trò quan trọng của các nguyên nhân này nguồn từ nhiều nguyên nhân phức tạp lại không được chỉ ra một cách rõ ràng ở liên quan tới nhau, trong đó có những các vùng. nguyên nhân căn bản, các nguyên nhân thứ yếu hoặc thậm chí là đối lập nhau ở Tuy nhiên, có sự thống nhất rằng “nguyên cấp độ cá nhân và xã hội. Một ví dụ về nhân trực tiếp” là sự tiếp cận ngày càng các yếu tố đối lập nhau ở cấp xã hội là dễ dàng tới công nghệ lựa chọn giới tính. trường hợp Hàn Quốc, TSGTKS đã giảm Các “nguyên nhân cơ bản” bao gồm việc đi bất chấp sự khuyến khích mạnh mẽ và thiếu hệ thống an sinh xã hội dành cho bảo hộ của chính phủ dành cho hệ thống người cao tuổi, và thiếu chính sách về gia đình Nho giáo. Ngoài ra, trường hợp công bằng giới. “Nguyên nhân sâu xa” ở Hàn Quốc cho thấy rõ hơn rằng việc áp được xác định là do nghèo đói, trình độ dụng và sự sẵn có của công nghệ siêu âm học vấn thấp và do những chuẩn mực và đã ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ số giới tính quan niệm truyền thống. mặc dù sự ưa thích con trai đang giảm 3.1.2. Quan sát tại Việt Nam dần. Mặt khác, sự tăng quyền của phụ nữ nhờ tác động lâu dài của hệ thống pháp Sự gia tăng nhanh chóng của TSGTKS ở luật cũng như những thay đổi trong cách một số quốc gia Châu Á trong những năm sống theo hướng giảm dần sự phụ thuộc 1990 đã khiến nhiều học giả (Belanger, vào con trai đã thúc đẩy những tiến bộ 2000, 2002, 2003; Bryant 2002) đặt ra trong tỷ số giới tính. Điều này cho thấy câu hỏi về TSGTKS ở Việt Nam vì có sự rằng những thay đổi cấu pháp luật và xã tương đồng về nhiều đặc điểm văn hóa xã hội này cuối cùng sẽ thắng “ảnh hưởng hội với các quốc gia khác trong khu vực. công nghệ”. Một ví dụ khác cho thấy ở cấp Số liệu Tổng Điều tra Dân số năm 1989 và độ cá nhân, một hiện tượng dường như là 1999 không cho thấy sự bất thường nào mâu thuẫn khi có những chứng cứ cho thấy của TSGTKS và do vậy, không có nhiều một mặt, học vấn cao của phụ nữ có thể bằng chứng về xu hướng này ở Việt Nam dẫn đến sự gia tăng của TSGTKS, nhưng trong thập kỷ đó. Tuy nhiên, một phân mặt khác lại giúp nâng cao vị thế của phụ tích chi tiết hơn về số liệu của các cuộc nữ và nhờ đó giảm sự phụ thuộc vào của điều tra và số liệu từ các bệnh viện phát họ vào các quy tắc và khuôn mẫu gia đình hiện ra rằng TSGTKS theo thứ tự sinh và Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 23
- giới tính của những đứa con được sinh cân bằng như ở các quốc gia Châu Á khác. trước đó cao hơn so với kỳ vọng và một Tuy vậy, nếu TSGTKS này giữ nguyên số nhóm xã hội - đặc biệt là các cán bộ hoặc tiếp tục tăng sau năm 2010, cơ cấu nhà nước có mức sống cao và cơ hội có giới tính của dân số sẽ bị ảnh hưởng rõ học vấn cao - có xu hướng chịu áp lực về rệt. Đoàn hệ của những bé trai được sinh việc phải lựa chọn giới tính của đứa con ra sau năm 2005 và bước vào tuổi lập được sinh ra. gia đình vào năm 2030 sẽ dư thừa so với số phụ nữ cùng lứa tuổi. Đến năm 2035, Các phân tích sâu hơn và đầy đủ hơn mức dư thừa nam giới trưởng thành sẽ trong những năm gần đây cho thấy rõ chiếm 10% tổng số nam giới và thậm chí ràng rằng sự thay đổi về TSGTKS tại Việt còn cao hơn nếu TSGTKS không trở lại Nam bắt đầu khi chuyển sang thiên niên mức bình thường trong vòng 20 năm tới. kỷ mới: mặc dù năm 2000, TSGTKS vẫn bình thường ở mức 106 bé trai trên 100 3.2. Các yếu tố góp phần làm bé gái, đến năm 2009, tỷ số này đã tăng lên mức 111 bé trai trên 100 bé gái. Dự thay đổi TSGTKS báo vào năm 2009 cho rằng với tốc độ Vì không có được một sự phân loại chung gia tăng như hiện nay, TSGTKS sẽ vượt về các yếu tố do các tác giả khác nhau ngưỡng 115 trong ba năm tới. Nghiên cứu nêu lên, nên báo cáo này đã sắp xếp năm sâu hơn cũng chỉ ra rằng phụ nữ có trình nhóm yếu tố được coi là có đóng góp/tác độ học vấn cao cũng như những người có động tới sự tăng TSGTKS ở các nước trong cuộc sống khá giả và sống ở những khu khu vực và Việt Nam. Năm nhóm yếu tố vực nông thôn có thuận lợi, hoặc những này bao gồm: 1) Quan niệm và các chuẩn vùng bán nông thôn ở Hà Nội và thành mực truyền thống; 2) Gia đình; 3) Những phố Hồ Chí Minh có xu hướng thực hành thay đổi về kinh tế xã hội; 4) Chính sách lựa chọn giới tính nhiều hơn. Ngoài ra, và 5) Tiếp cận tới công nghệ. có thể thấy TSGTKS cao hơn ở một số tỉnh chủ yếu là nông thôn thuộc đồng Ngoài ra để nhấn mạnh sự khác biệt về bằng sông Hồng và khu vực đô thị thuộc tác động của các yếu tố này tới TSGTKS, tỉnh miền Đông Nam Bộ ở Việt Nam. Tuy chúng có thể được phân thành nhóm các nhiên, mặc dù đã biết rằng, tương tự như yếu tố chính và các nhóm yếu tố phụ trợ. xu hướng ở các quốc gia khác trong khu Các yếu tố chính là các yếu tố trực tiếp và vực, sự giàu có, học vấn và đô thị hóa hoàn toàn làm tăng TSGTKS. Các yếu tố cũng như việc tiếp cận dễ dàng đến công phụ trợ là các yếu tố mà bên cạnh việc tác nghệ sàng lọc giới tính đã có ảnh hưởng động tích cực đối với cá nhân/xã hội lại tới TSGTKS ở địa phương, nhưng những cũng có thể làm tăng TSGTKS. Trong Bảng lý do cụ thể và định tính hơn của sự khác 2 các yếu tố chính tác động tới TSGTKS biệt giữa các các vùng cho đến nay vẫn được in nghiêng (tham khảo bảng 2) chưa được giải thích. Một hiện tượng khác cũng cần phải nghiên cứu kỹ hơn là hiện Bảng dưới đây trình bày tóm tắt các tượng di cư mạnh mẽ và cùng với nó là yếu tố cơ bản góp phần làm thay đổi các giá trị truyền thống của một số nhóm TSGTKS ở Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn dân cư có TSGTKS cao. Quốc và Việt Nam dựa trên các tài liệu đã được rà soát. Với mức TSGTKS như hiện nay, cơ cấu giới tính của dân số Việt Nam vẫn chưa bị mất 24 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- Bảng 2: Các yếu tố góp phần làm thay đổi thay đổi TSGTKS ở Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Việt Nam Các yếu tố tác động tới sự gia tăng TSGTKS ở Trung Quốc, Ấn Độ, H àn Quốc Quốc Trung Hàn Quốc và Việt Nam Ấn Đ ộ Việt Nam Các chuẩn mực và giá trị truyền thống/gia đình 1 Sự ưa thích con trai X X X X 2 Chi phí cao cho của hồi môn/chi phí nuôi dạy con gái học ở trình độ cao hơn và cho Không X Không Không con gái lấy chồng muộn hơn 3 Khuôn mẫu giới truyền thống X ? ? X Tích cực lựa chọn giới tính nhằm đạt được 4 X X X X quy mô gia đình mong muốn 5 Tuổi và số lần sinh của người mẹ X X X X Tác động của các thành viên trong gia đình 6 X X X X có nhiều thế hệ bao gồm cả cha mẹ chồng 7 Có chồng là con trai duy nhất ? X X ? 8 Mô hình phân công lao động truyền thống X X X ? Các thay đổi về kinh tế xã hội 9 Nâng cao học vấn và sự tham gia vào lực X X X X lượng lao động của nữ giới 10 Phụ nữ có học vấn cao hơn X X X X 11 Di cư ra sống ở thành thị X X X X Sự phát triển kinh tế xã hội và đô thị hóa 12 X X X X nhanh chóng Các thay đổi trong đời sống/vị thế được 13 ? X ? ? nâng cao do đô thị hóa Chinh sách 14 Khoảng trống trong chính sách xã hội, ví dụ trong chăm sóc người già, bình đẳng giới X X X X và các quy định luật pháp liên quan tới việc sàng lọc giới tính Hệ quả xã hội của việc áp dụng nghiêm 15 X X X X ngặt chính sách “có từ một đến hai con” Chính sách nghiêm ngặt nhằm giữ gìn mô 16 ? X Không ? hình gia đình truyền thống Chính sách kế hoạch hóa gia đình –một con 17 X Không Không Không quá cứng nhắc Các nhà hoạch định chính sách chưa có X X X ? 18 nhận thức đầy đủ Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 25
- Các yếu tố tác động tới sự gia tăng TSGTKS ở Trung Quốc, Ấn Độ, H àn Quốc Quốc Trung Hàn Quốc và Việt Nam Ấn Đ ộ Việt Nam Luật pháp hóa việc nạo phá thai ba tháng X ? ? X 19 giữa Tiếp cận công nghệ/thị trường Sự sẵn có và tiếp cận với các công nghệ X X X X 20 siêu âm hiện đại Tiếp thị tới người tiêu dùng về công nghệ X X X ? 21 lựa chọn giới tính Tư nhân hóa và thương mại hóa hệ thống 22 y tế tạo ra việc lạm dụng các thiết bị công X X ? X nghệ và các xét nghiệm hiện đại Tiếp cận dễ dàng và sự sẵn có của công 23 nghệ lựa chọn giới tính ở tất cả mọi nơi kể X X X X cả khu vực nông thôn Những người cung cấp dịch vụ y tế coi sàng 24 lọc giới tính là một ngành kinh doanh có lợi ? X ? ? nhuận cao 3.2.1 Các yếu tố liên quan tới sự thay con trai, do đó, không phải là bị áp đặt đổi TSGTKS ở Trung Quốc, Hàn Quốc hay bị ngăn cấm bởi những quan niệm và Ấn Độ đạo đức xuất phát từ trên tôn giáo mà là sự chấp nhận mang tính xã hội. Do Dựa trên các tài liệu đã được rà soát và vậy, TSGTKS đã trở thành một chỉ số bảng tóm tắt ở trên, có năm nhóm yếu đáng tin cậy đối với vị thế của phụ nữ tố cơ bản ảnh hưởng tới những thay đổi khi nói về bình đẳng giới. về xu hướng TSGTKS ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ. b. Các thay đổi nhanh chóng về kinh tế- xã hội ở tất cả các khu vực đều có mối a. Các giá trị và chuẩn mực truyền thống/ quan hệ nhất quán với sự gia tăng của Gia đình: Các giá trị truyền thống bắt TSGTKS. Tuy nhiên, khi số liệu được nguồn từ hệ tư tưởng chủ đạo đề cao phân tách ra theo các nhóm nhỏ, người con trai hơn con gái, nam giới hơn phụ ta thấy rõ ràng rằng bản thân sự sung nữ thường xuyên được trích dẫn như túc không hoàn toàn giải thích được là yếu tố ảnh hưởng lớn tới sự hình điều này. Ví dụ, ở Ấn Độ, người ta nhận thành nhu cầu mãnh liệt phải có con thấy rằng ở đô thị, TSGTKS cao nhất trai và tâm lý không chuộng con gái lại xẩy ra trong nhóm có thu nhập thấp vì cho rằng họ chỉ gây ra tốn kém mà nhất -những người đang cố gắng để không mang lại thu nhập cho gia đình. nâng cao địa vị của mình. Tương tự như Trong khi ở Trung Quốc và Hàn Quốc, vậy, ở Ấn Độ, những nơi có TSGTKS với việc thờ cúng tổ tiên và nối dõi tông cao là các khu vực vốn là nông nghiệp đường, Nho giáo được cho là hệ thống truyền thống, nhưng bản thân nông giá trị có tính quyết định. Ở Ấn Độ, sự nghiệp không mang lại cuộc sống no ưa thích con trai không bắt nguồn từ đủ cho hầu hết mọi người, khiến cho việc thờ cúng tổ tiên nhưng lại nằm người dân phải di cư để tìm việc, làm trong cội rễ của hệ thống gia trưởng, tăng sự thất nghiệp và một lần nữa, hôn nhân và thừa kế. Sự ưa thích có tìm kiếm cơ hội nâng cao vị thế xã hội 26 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- của mình. Tất cả các khu vực đều chia c. Chính sách: Ở các vùng của Hàn Quốc sẻ một đặc điểm chung là tỷ số giới và đặc biệt là Trung Quốc, việc ban tính cao cuối cùng sẽ lan rộng trong hành chính sách hạn chế nghiêm ngặt tất cả các tầng lớp thông qua một quy quy mô gia đình đã có ảnh hưởng mạnh trình khuếch tán: đô thị, bán đô thị và mẽ tới việc giảm mức sinh, nhưng cũng nông thôn, với sự khác biệt đặc trưng ảnh hưởng tới quá trình quyết định sử mang tính vùng miền và TSGTKS cao dụng việc lựa chọn giới tính như một xuất hiện ở “những điểm nóng”. Việc công cụ để có được kết quả mong muốn lan tỏa tâm lý, và sau đó là sự thể hiện của gia đình. nhu cầu có con trai, bao gồm cả việc cố gắng lựa chọn giới tính, ở tất cả các Trong những tình huống “bình thường”, khu vực, đều được bắt đầu ở các nhóm các yếu tố văn hóa có thể giải thích giàu có ở đô thị và sau một thời gian sẽ cho việc này. Tuy nhiên, ở những xã lan tới khu vực nông thôn. hội bắt buộc phải tuân thủ các chính sách nghiêm ngặt về quy mô gia đình, Một đặc điểm chung của Hàn Quốc và ảnh hưởng của nó rất lớn và gây ra Trung Quốc là trước khi và song song một hiện tượng được miêu tả như “áp với sự gia tăng của TSGTKS, ở các khu lực giảm sinh”. vực này đã có sự chuyển đổi nhanh chóng từ một nền kinh tế kế hoạch hóa Một lưu ý quan trọng ở đây là các bé tập trung sang nền kinh tế thị trường. gái có “biến mất” hay không được Ấn Độ thì không khởi đầu với một hệ quyết định bởi cơ cấu giới tính hiện có thống kế hoạch hóa tập trung như vậy trong gia đình nơi các bé gái đó được nhưng lại cũng chịu rất nhiều những thụ thai: Rõ ràng rằng ở tất cả các khu hậu quả tương tự từ quá trình thương vực, nơi mà xã hội đề cao nam giới, thì mại hóa và đô thị hóa nhanh chóng những thai gái trong các gia đình đã có trong xã hội. Ở tất cả các vùng đều có con gái, sẽ có nhiều khả năng bị hủy nhiều sự thay đổi trong lĩnh vực y tế: bỏ. Cơ cấu gia đình hiện tại và quy mô Bằng chứng từ các khu vực khác nhau gia đình mong muốn do vậy phụ thuộc cho thấy sự thiếu kiểm soát của chính vào quy mô gia đình lý tưởng bị áp phủ và thiếu các quy định luật pháp đặt. Cơ cấu của một gia đình lý tưởng rõ ràng trong khi xã hội đang chuyển không nhất thiết có nghĩa là KHÔNG mình theo định hướng thị trường và tư có con gái nếu mọi người được quyết nhân hóa đã tạo nên những “kẽ hở” định số con họ mong muốn, nhưng nếu trong hệ thống, cho mục đích có lợi phải tuân theo một quy định nghiêm của dịch vụ y tế và trong việc phiên ngặt rằng gia đình chỉ có thể có một giải các quy định của luật pháp. hoặc hai con trong khi hệ thống giá trị truyền thống chưa hoàn toàn được Ở tất cả các vùng được rà soát,có sự xóa bỏ hoặc vẫn đang tồn tại phổ tương quan đồng bộ giữa gia tăng biến, nhất là trong giai đoạn mà nhiều TSGTKS và học vấn cao của phụ nữ quá trình xã hội phát triển nhanh và trong giai đoạn tăng ban đầu, điều này cùng một lúc, thì những cố gắng để đồng nghĩa với việc tăng sự tiếp cận tác động đến kết quả đầu ra của việc với các thông tin về lựa chọn giới tính mang thai có rất nhiều khả năng xảy trong số phụ nữ có trình độ học vấn ra. Trong một xã hội đang chuyển đổi cao và dẫn tới sự sẵn sàng sử dụng các nơi mà con người bị ràng buộc cả với công nghệ hiện đại. Chính những điều gia đình lớn và các nghĩa vụ nhà nước này khiến họ trở thành những người thì những “giải pháp sáng tạo” sẽ được tạo ra xu hướng. Khi xu hướng đã được thực hiện để đáp ứng những mục tiêu hình thành, ý tưởng sàng lọc giới tính cá nhân của họ. trẻ em trở thành mong muốn tránh bị “gánh nặng” với con gái về sau. Ý Trong những nỗ lực vừa phải và những tưởng này lan truyền tới các nhóm phụ cố gắng mãnh liệt để các giải pháp sinh nữ khác và bức tranh về những người sản thực hiện được “nghĩa vụ kép” ở sử dụng công nghệ này trở nên khó Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc có cả xác định hơn. việc báo cáo không đầy đủ các ca sinh Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 27
- gái, thiếu quan tâm về dinh dưỡng và như chính sách gia đình chỉ có một con chăm sóc y tế đối với con gái, giết trẻ của Trung Quốc, tiền hồi môn nhiều ở Ấn sơ sinh (gái), và cho con gái đi làm con Độ, các khuôn mẫu hôn nhân phụ hệ ở nuôi. Tuy nhiên, phổ biến nhất ở tất cả cả ba quốc gia này, hay sự trông đợi vào các khu vực là việc cố gắng xác định giới sự hỗ trợ của con vào lúc tuổi già và an tính và phá thai vì mục đích lựa chọn sinh về vật chất. Với những quần thể này, giới tính. Ngoài ra các tài liệu cũng cho câu hỏi đặt ra có thể nằm ngoài những thấy những khoảng trống trong chính yếu tố cơ bản, ngoại trừ việc tiếp cận đến sách xã hội chẳng hạn như thiếu chính các phương pháp lựa chọn giới tính, sự sách an sinh xã hội cho người già và thương mại hóa và các chiến lược tiếp thị chính sách bình đẳng giới đã gây ra các các phương pháp này. tác động tiêu cực đối với TSGTKS 3.2.2 Các yếu tố cơ bản góp phần làm d. Tiếp cận với công nghệ xác định giới thay đổi TSGTKS ở Việt Nam tính và phá thai vì mục đích lựa chọn giới tính: Ở tất cả các khu vực khác Những nghiên cứu về TSGTKS trong thập nhau, có rất nhiều ý kiến ủng hộ quan kỷ vừa qua ở Việt Nam liên tục cho thấy điểm cho rằng việc ngày càng có nhiều rằng cũng như ở các quốc gia khác trong và dễ dàng tiếp cận tới các dịch vụ lựa khu vực, ở Việt Nam cũng có một số yếu chọn giới tính hiện đại và phá thai vì tố liên quan tới nhau có ảnh hưởng tới mục đích lựa chọn giới tính chính là TSGTKS: lý do gây ra việc gia tăng TSGTKS. Ở khắp nơi đều phát hiện mối tương quan Trong các tài liệu nghiên cứu, khái niệm mạnh mẽ giữa sự xuất hiện đầu tiên “áp lực”(squeeze) được sử dụng để chỉ ra của thiết bị siêu âm hiện đại, và tiếp áp lực mà gia đình, và sau đó là xã hội, theo đó là sự gia tăng “khả năng” tác trải qua khi có sự ảnh hưởng cùng một động đến cơ cấu giới tính của gia đình lúc của việc giảm mức sinh và nhu cầu, và sự bắt đầu gia tăng TSGTKS. Đồng khả năng và mong muốn của các cặp vợ thời cũng có những bằng chứng rõ ràng chồng về việc lựa chọn giới tính. rằng việc sử dụng thiết bị siêu âm ngày Sẽ có ích hơn khi chúng ta áp dụng khái càng phổ biến trong tất cả các tầng lớp niệm “áp lực” trong bối cảnh TSGTKS hiện kinh tế xã hội chứ không chỉ ở những nay bên cạnh khái niệm “áp lực về mức “điểm nóng”, là yếu tố quyết định của sinh” thấp hoàn toàn chỉ với mục đích so mất cân bằng TSGTKS. sánh các yếu tố cơ bản của TSGTKS trong Ngoài các yếu tố nêu trên, một phát bối cảnh ở Việt Nam với các quốc gia trong hiện quan trọng ở tất cả các khu vực cho khu vực, và để xác định những khoảng thấy: sự gia tăng TSGTKS liên quan một trống cần tiếp tục điều tra sâu hơn. cách nhất quán tới thứ tự sinh con cao a. Sự ưa thích cố hữu đối với con trai để hơn và độ tuổi của người mẹ, đặc biệt là nối dõi trong bối cảnh khái niệm gia với lần sinh thứ hai. Điều này cho thấy đình nhỏ đã được chấp nhận rộng rãi áp lực ngày càng tăng về vấn đề sinh hơn. Một số nghiên cứu cho thấy trong con trai nếu gia đình đã có con gái và do những năm gần đây, mô hình định cư vậy, đã xảy ra việc dựa vào phá thai với kiểu phụ hệ đã trở nên linh hoạt hơn và mục đích lựa chọn giới tính để tránh lặp ngày càng có nhiều cặp vợ chồng trẻ lại “sai lầm”. lựa chọn sống riêng sau khi kết hôn, Một mối quan tâm khác trong thảo luận đặc biệt là ở vùng đông bắc của Việt về các yếu tố ảnh hưởng tới TSGTKS là Nam. Xã hội Việt Nam do vậy có vẻ như các gia đình có nguồn gốc Ấn Độ, Trung “cởi mở” hơn và có lẽ ít bị bó buộc bởi Quốc và Hàn Quốc sinh sống ở Mỹ đã lâu các hệ thống giá trị truyền thống hơn nhưng trong những năm gần đây cũng các quốc gia khác trong khu vực trong có xu hướng gia tăng thực hành lựa chọn giai đoạn TSGTKS tăng nhanh. Đồng giới tính mặc dù ở đó không có các yếu tố thời, nghiên cứu cũng cho thấy trong biện minh cho sự ưa thích có con trai như những năm gần đây, mặc dù trình độ ở Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc, ví dụ học vấn của phụ nữ cao hơn, các quyết 28 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- định quan trọng trong gia đình vẫn chủ thuộc các nhóm kinh tế xã hội cao hơn. yếu thuộc về nam giới. Thậm chí, có vẻ Kết quả nghiên cứu cho thấy một quy như có xu hướng rằng người chồng, chứ trình lan truyền tương tự cũng xẩy ra không phải người vợ, ngày càng đưa ra ở Việt Nam giống như ở các quốc gia những quyết định quan trọng, đặc biệt trong khu vực: những người có mức là về tài chính. Xu hướng này cho thấy sống cao ở đô thị hoặc bán đô thị với sự trở lại với vai trò truyền thống trong trình độ học vấn cao hơn và tiếp cận gia đình, chứ không phải là sự phát dễ dàng hơn tới công nghệ, là những triển của bình đẳng giới. Nhìn chung, người “dẫn đường” trong việc sử dụng cho dù mô hình xắp xếp cuộc sống hiện lựa chọn giới tính như là một giải pháp nay có như thế nào, thì hệ tư tưởng để thoát khỏi sự tác động của các “áp truyền thống bắt nguồn từ Nho giáo và lực” đan xen với nhau. tầm quan trọng của việc thờ cúng tổ tiên thông qua sự nối dõi của con trai c. Dữ liệu được công bố gần đây nhất vẫn là chủ đạo trong cuộc sống ở cấp về TSGTKS đã khẳng định sự tiếp cận độ gia đình. Ngay cả khi sống riêng, các ngày càng dễ dàng tới công nghệ lựa cặp vợ chồng trẻ vẫn giữ mối liên lạc chọn giới tính chất lượng cao đang cho thường xuyên với các thành viên của phép nhiều cặp vợ chồng điều chỉnh gia đình lớn của mình, nhất là với gia hành vi sinh sản để có thể sinh con trai đình bên chồng. Đồng thời, sự hỗ trợ như mong ước. Để đạt được mục tiêu người già vẫn được coi là trách nhiệm sinh sản của mình, ví dụ như có gia của các cặp vợ chồng trẻ và do vậy duy đình nhỏ nhưng có ít nhất một con trai, trì áp lực thường xuyên về việc sinh con các cặp vợ chồng chủ động tìm kiếm và trai, kể cả áp lực “từ xa”. sử dụng công nghệ lựa chọn giới tính chất lượng cao và phá thai vì mục đích Mặc dù tâm lý ưa thích con trai đã được lựa chọn giới tính; Chúng ta biết rằng thừa nhận, ở Việt Nam, một vài chỉ số dịch vụ kiểm tra giới tính và phá thai như sự tham gia lực lượng lao động cho rất rẻ và sẵn có. Ước tính trung bình thấy rõ ràng sự tiến bộ của đất nước một phụ nữ Việt Nam có ít nhất 2 lần về bình đẳng giới trong mặt xã hội. Ở phá thai trong suốt cuộc đời sinh sản cấp độ gia đình, nơi phụ nữ có quyền của mình. ra các quyết định cá nhân, thì truyền thống vẫn là quan trọng và có ít thay Giống như ở các quốc gia khác trong đổi. Có thể đưa ra một bức tranh về áp khu vực, tư nhân hóa và thương mại lực đối với từng cá nhân phụ nữ từ hai hóa hệ thống chăm sóc y tế đã dẫn phía: áp lực của gia đình - (the “family đến việc sử dụng quá mức các thiết bị squeeze”), và áp lực từ hệ tư tưởng của công nghệ để sàng lọc giới tính. Việc Nho giáo trong xã hội - dù áp lực này này, kết hợp với thực tế rằng việc phá có vẻ yếu hơn, áp lực này gọi là “áp lực thai ba tháng giữa là hợp pháp, đã tạo về quan niệm (“ideological squeeze”). ra áp lực cho phụ nữ phải đạt được đầu ra “đúng” cho việc mang thai của mình b. Mặc dù nghiên cứu cho thấy, giống như là có con trai. Sự sẵn có của dịch vụ xu hướng ở các quốc gia trong khu vực, và khả năng tiếp cận chúng dễ dàng sự khá giả, học vấn cao và đô thị hóa trên thị trường “tự do” phản ánh quyền nhanh đã có ảnh hưởng tới TSGTKS ở tự do lựa chọn và cơ hội của cá nhân các vùng của Việt Nam. Các lý do định nhưng sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tính và cụ thể hơn về sự khác biệt vùng tiếp thị sẽ có thể có tác động tiêu cực: miền tới nay vẫn chưa giải thích được. điều đó có thể được coi là “áp lực của Chúng ta cũng còn biết rất ít về những thị trường” (market squeeze”). Quyết quần thể trong nhóm khá giả và có học định tiếp sau việc tiết lộ giới tính của vấn cao, và các mối liên hệ giữa sự bào thai dẫn tới việc phá thai có thể cố gắng để nâng cao vị thế của mình cũng phải chịu áp lực bởi hoạt động trong nhóm thu nhập thấp hoặc trung kinh doanh ngày càng phát triển của bình và việc họ tìm kiếm giải pháp để hệ thống y tế: Các nghiên cứu cho lựa chọn giới tính so với những người đến nay cũng chưa xem xét về các Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 29
- tác động tiềm tàng mạnh mẽ của các con hiện có của một phụ nữ ở các quốc chiến lược tiếp thị (marketing) từ các gia khác với Việt Nam, một hiện tượng nhà sản xuất các công nghệ sàng lọc đặc thù ở Việt Nam là: không chỉ TSGTKS giới tính cũng như của các nhân viên tăng lên cùng với số con hiện có và tuổi trong ngành y tế tới quá trình ra quyết của người mẹ, đặc biệt là ở khu vực đô định của cá nhân người phụ nữ. thị, mà việc quyết định và lựa chọn giới d. Một yếu tố khác có thể góp phần làm tính của con đầu lòng cũng ngày càng trở tăng TSGTKS ở Việt Nam là việc thực nên phổ biến. Ở các khu vực khác, hiện hiện không bình đẳng chính sách mỗi tượng này chưa thấy rõ. Đồng thời, mặc gia đình chỉ có “một hoặc hai con” giành dù TSGTKS cho con thứ hai có vẻ rất cao, cho tất cả mọi người. Các nghiên cứu đặc biệt là ở Trung Quốc và Ấn Độ, tỷ số cho thấy rằng trong khi trên cả nước này không đến mức như vậy ở Việt Nam. các cặp vợ chồng được khuyến khích là Với những phân tích trên, chúng ta có thể chỉ có tối đa là hai con thì chính sách này lại được áp dụng nghiêm ngặt hơn lập luận rằng “áp lực từ mức sinh thấp” ở với Đảng viên và cán bộ nhà nước. Vì Việt Nam ngày nay có vẻ như ở một giai có học vấn cao hơn và điều kiện kinh đoạn sớm hơn, mãnh liệt hơn và xảy ra do tế tốt hơn, những người trong nhóm những bất cập ngày càng lớn giữa truyền này dường như đã rơi vào tình huống thống và phát triển hơn bất cứ nơi nào. dẫn họ đến thực hành các dịch vụ để Hình dung khái quát qua sự quan sát cụ lựa chọn giới tính: tiếp cận dễ dàng với thể ở Việt Nam về TSGTKS là hình ảnh của dịch vụ sức khỏe sinh sản kể cả những dịch vụ mà có thể được sử dụng để lựa một người phụ nữ đứng ở ngã ba đường, chọn giới tính đồng thời với áp phải đang phải chịu không phải chỉ một mà là thực hiện các quy định nghiêm ngặt về một loạt các áp lực bên ngoài lên quyết quy mô gia đình. Áp lực từ phía chính định của chị ấy, và các áp lực này lại đối sách, trong báo cáo này, chỉ với mục chọi lẫn nhau. Trước những áp lực xã hội, đích làm rõ, có thể được coi như “áp gia đình, hệ tư tưởng và kinh tế, sự lựa lực từ chính sách”. chọn cá nhân và quyền của người phụ nữ đang bị đe dọa. Ngoài ra, khi so sánh kết quả quan sát về việc TSGTKS tăng lên theo độ tuổi và số Biểu đồ 3: Những áp lực góp phần vào sức ép về hành vi lựa chọn giới tính Các chuẩn mực và giá trị truyền thống/Gia đình H à n h v i lựa chọn giới tính của cá nhân T i ế p c ậ n đ ế n Mức sinh giảm c ô n g n g h ệ và các chính l ự a c h ọ n sách liên quan giới tính 30 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- Phần 4: Những can thiệp về chính sách hoặc chương trình đã được thực hiện Nhằm mục đích đương đầu với thuyết phục về tình bền vững. hoặc đảo ngược lại xu thế Các hình thức khuyến khích của TSGTKS, có rất nhiều bằng tiền tương tự cho chiến lược khác nhau phụ nữ quyết định đình đã được áp dụng trong sản cũng là vấn đề bàn khu vực, từ việc ban cãi về tác động của nó hành các quy định, đến quyền sinh sản luật pháp và nghị của mỗi con người. định của chính phủ, cho đến những sáng Một số nhà nghiên kiến của địa phương cứu đã đặt ra những và từ các chiến dịch câu hỏi về những kết vận động nhằm nâng quả cuối cùng có được cao nhận thức cho đến từ biện pháp xử phạt các biện pháp trừng phạt khắt khe là gì nếu mọi mạnh. người vẫn tiếp tục cố tình tìm cách lách luật. Mặt khác, Từ các tài liệu trên chúng ta có thể có lý do để tin rằng, các hình thức thấy rõ ràng rằng tất cả các chiến lược xử phạt đối với hành vi lựa chọn giới tính đều đem lại một số hiệu quả nhất định ở Hàn Quốc đã tích cực góp phần vào quá nhưng trong đó có một số chiến lược có trình xây dựng một chiến lược quốc gia triển vọng và tác dụng lâu dài hơn một tổng thể đa chiều, hoặc những hoạt động số chiến lược khác. Một số chiến lược có đặt bẫy và giăng lưới nhằm phát hiện và thể thực hiện được trong khi một số chỉ xử phạt hành vi lựa chọn giới tính ở Ấn Độ dừng lại là “các dự định trên giấy”. Một số cũng được coi như là một trong nhiều cố chiến lược nhằm đạt được kết quả nhanh gắng của quốc gia này trong việc đối phó chóng, trong khi một số khác dự kiến giải với tình trạng gia tăng giới tính khi sinh, quyết các mục tiêu dài hạn. Một số không tạo ra hiệu ứng gây “sốc” nhằm nâng cao đủ sức thực hiện dù dài hạn hay ngắn hạn nhận thức thông qua việc thu hút sự quan vì thiếu tính rõ ràng hoặc không gắn với tâm của báo chí. Có thể thấy, không dễ trách nhiệm giải trình. Có thể đưa ra một mà tìm ra một giải pháp đơn giản cho việc số ví dụ cụ thể: Các hình thức khuyến thiết kế chiến lược về TSGTKS. khích bằng tiền cho việc sinh con gái lúc đầu có vẻ hấp dẫn nhưng không đủ sức Bảng 3: Can thiệp về chính sách và chương trình có thể tác động đến sự thay đổi các xu hướng và hành vi có liên quan đến TSGTKS Can thiệp về Chính sách và Chương trình Tổng quát 1 Xây dựng các chính sách công và các can thiệp cụ thể tập trung vào bình đẳng giới 2 Xây dựng và ban hành các hệ thống an sinh xã hội, đề án quỹ hưu trí và phúc lợi kinh tế, dành cho mọi đối tượng, và đặc biêt là cho phụ nữ 3 Nâng cao hơn nữa trình độ học vấn cho phụ nữ Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 31
- Can thiệp về Chính sách và Chương trình 4 Tạo ra một hệ thống nhằm đảm bảo công việc cho phụ nữ 5 Xây dựng quy trình phê chuẩn nghiêm ngặt cho việc đình chỉ thai nghén Ở Trung Quốc 6 Ban hành chính sách một con/KHHGĐ nghiêm ngặt 7 Phát động chiến dịch trong cả nước về chủ đề “Hãy quan tâm đến Con gái” 8 Phát động chiến dịch nhằm nâng cao nhận thức cho nam giới và mẹ chồng 9 Tổ chức các cuộc thi trên toàn quốc 10 Thực hiện Chương trình Thanh niên Tình nguyện trên toàn quốc 11 Chiến lược nhằm phổ biến cuộc sống ở rể cho nam giới 12 Tổ chức chiến dịch truyền thông đại chúng ở quy mô lớn 13 Hoạt động tiến tới việc nới lỏng Chính sách KHHGĐ nghiêm ngặt 14 Áp dụng cách tiếp cận lồng ghép và cải cách toàn diện kế hoạch hóa gia đình 15 Chính sách khuyến khích phụ nữ đình sản 16 Ban hành luật pháp nhằm tăng quyền của phụ nữ ví dụ Luật bảo vệ Quyền và Lợi ích của phụ nữ; Luật cấm các hình thức xác định giới tính phi y tế và cấm bỏ thai bằng các biện pháp phi y tế 17 Năm 2003: Xây dựng hệ thống hỗ trợ xã hội cho các gia đình nông thôn có thực hiện kế hoạch hóa gia đình theo quy định của chính phủ; nhận tiền thưởng khi 60 tuổi 18 Năm 2006: Đưa việc xác định và nạo phá thai lựa chọn giới tính là một tội phạm vào Luật Hình sự Ở Ấn Độ 19 Định hướng, đào tạo và đào tạo lại các cán bộ y tế và các cấp có thẩm quyền phù hợp 20 Thực hiện kiểm toán y tế và kiểm toán xã hội: Tổng Điều tra về máy siêu âm; theo dõi các khách hàng đi siêu âm xem họ có sinh con gái không; kiểm tra lại các hồ sơ tại các cơ sở y tế để phát hiện các thông tin không đầy đủ và không chính xác và xác định các trường hợp có đăng ký 21 Giám sát quá trình mang thai: khuyến khích đăng ký sớm khi mang thai, tăng cường theo dõi qua điện thoại 22 Các biện pháp trừng phạt/hình thức phạt tiền cho việc cung cấp/ tham gia thực hành lựa chọn giới tính và nạo phá thai lựa chọn giới tính 23 Xác định các cơ sở có nguy cơ: các cơ sở có cung cấp dịch vụ cho 10 phần trăm hoặc nhiều hơn cho phụ nữ ở ngoài khu vực, những người tự nguyện tới hoặc phụ nữ đã có 1 hoặc 2 con gái 32 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- Can thiệp về Chính sách và Chương trình 24 Chỉnh sửa lại pháp luật nhằm xác định hành vi bất hợp pháp: cán bộ y tế tiết lộ giới tính thai nhi; không thường xuyên cập nhật lại hồ sơ; quảng cáo dịch vụ lựa chọn giới tính thai nhi 25 Tổ chức chiến dịch truyền thông mạnh mẽ và rộng khắp 26 Tăng cường hỗ trợ các sáng kiến khuyến khích cho phụ nữ cấp cơ sở 27 Thực hiện chính sách khuyến khích tiền mặt cho các cặp vợ chồng sinh con gái thông qua các hình thức khác nhau, đặc biệt nhắm vào các gia đình sống dưới mức nghèo ví dụ chương trình Phát triển nhi đồng lồng ghép yêu cầu công nhân ở Anganwadi có trách nhiệm chăm sóc trẻ em trước khi tới trường hay chương trình Ladli với cách thức chuyển tiền hỗ trợ cho trẻ em gái. 28 Thực hiện các biện pháp trừng phạt nhằm ngăn cấm sàng lọc giới tính 29 Kiểm tra giám sát để phát hiện các hoạt động sàng lọc giới tính bất hợp pháp Ở Hàn Quốc 30 Sửa đổi luật pháp/các quy định của chính phủ liên quan đến tổ chức gia đình theo kiểu truyền thống và nghiêm ngặt 31 Có các biện pháp mạnh để ngăn cấm các hoạt động sàng lọc và nạo phá thai 32 Chính phủ ban hành các quy định ngăn cấm việc xác định giới tính thai nhi và nạo phá thai lựa chọn giới tính 33 Từ năm 1992 đến nay, có các biện pháp mạnh để phạt các hoạt động vi phạm pháp luật, kể cả tịch thu giấy phép hành nghề y của bác sĩ và truy tố trước pháp luật 34 Tổ chức chiến dịch truyền thông rộng rãi từ năm 1991 đến nay 35 Thực hiện các chính sách lâu dài nhằm giảm tình trạng phân biệt giới tính đối với phụ nữ và đem lại những thay đổi về vai trò giới, ví dụ 1) Tòa án tối cao năm 2005 công bố phụ nữ vẫn có thể là thành viên của gia đình mình sinh ra sau khi kết hôn + phụ nữ có trách nhiệm và quyền công bằng như nam giới trong việc chăm sóc tổ tiên và 2) bãi bỏ chế độ chủ hộ là nam giới 36 Tăng cường hiệu quả các chương trình giáo dục và việc làm cho phụ nữ Ở Việt Nam 37 Pháp lệnh Dân số năm 2003 và sửa đổi vào năm 2008 38 Ban hành nghị định 114/2006/ND-CP tháng 10 năm 2006 về hình thức và mức xử phạt lựa chọn giới tính thai nhi phạt tiền từ 500.000 - 15.000.000 đồng cho bất kỳ một hành vi liên quan đến nạo phá thai lựa chọn giới tính. 39 Bộ Y tế ban hành văn bản cấm siêu âm vì mục đích lựa chọn giới tính 40 Hướng dẫn của chính phủ về việc tiếp tục thi hành các hoạt động Dân số Kế hoạch hóa gia đình năm 2008 41 Dự án can thiệp giảm TSGTKS ở 18 tỉnh thành trong giai đoạn 2009-2010 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 33
- Tuy nhiên, nhìn chung trong một cuộc đối 4.1. Các can thiệp chính sách thoại cởi mở tiếp tục về TSGTKS, có thể cụ thể nào đã được áp dụng ở rút ra được 3 kết luận từ các bài học về chính sách trong khu vực: Thứ nhất, càng Việt Nam? tăng cường sự phối hợp giữa các chiến Tháng 10 năm 2006, nhằm giải đáp những lược khác nhau và các mối liên kết giữa quan ngại ngày càng lớn của công chúng những cơ quan hoạt động nhằm đối phó về lựa chọn giới tính, Chính phủ đã ban với tình trạng gia tăng của TSGTKS, càng hành Nghị định 114/2006/ND-CP quy định có thể nâng cao tính trách nhiệm nhờ đó về hình thức xử phạt số tiền từ 500.000 tác động càng hiệu quả hơn. Một chính đồng đến 15.000.000 đồng (khoảng 30- sách trung tâm, toàn diện được điều phối 937 đô la Mỹ) đối với những người có hành bởi một cơ quan độc lập có thể sẽ thành vi khuyến khích hoặc thực hành nạo phá công hơn là có nhiều sáng kiến riêng lẻ thai với mục đích lựa chọn giới tính, hoặc của chính phủ và một loạt các cơ quan những người khám chữa bệnh truyền khác nhau. Yếu tố quan trọng nhất là sự thống (bắt mạch, ) để xác định giới tính. cam kết về chính trị. Nghị định này xem ra không có tính khả Thứ hai, các chiến lược hoặc các chiến dịch thi và khó có thể thực hiện được trong khi tuyên truyền vận động nhằm nâng cao việc tiếp cận kỹ thuật siêu âm ngày càng nhận thức tại các vùng có TSGTKS cao dễ dàng và dịch vụ nạo phá thai được coi sẽ thành công ở mức cao hơn nếu có sự là hợp pháp. Pháp lệnh dân số năm 2003 tham gia của tất cả các thành viên cộng quy định một điều khoản là nghiêm cấm đồng với tư cách là tác nhân tạo nên sự hành vi lựa chọn giới tính dưới bất kỳ hình thay đổi. Có thể nêu một ví dụ ở Hàn Quốc thức nào. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa là việc mở rộng tuyên truyền nâng cao ghi nhận được trường hợp nào đã thực thi nhận thức thông qua các thanh niên tình điều khoản này cũng như chưa ghi nhận nguyện, những người mà bản thân chưa được bất kỳ hậu quả nào về việc vi phạm từng phải đối mặt với vấn đề lựa chọn giới điều luật này để đưa ra trước công chúng tính. Một ví dụ khác ở Ấn Độ là sáng kiến và cộng đồng những người làm việc trong sử dụng khái niệm “cộng đồng phản đối”, ngành y tế. Hơn nữa, mặc dù đã tịch thu đầu tiên thông qua việc giáo dục cho các được khoảng 30.000 cuốn sách, đóng cửa thành viên trong cộng đồng về mối nguy bẩy trang web, nhưng vẫn chưa có bằng hại nếu TSGTKS bị mất cân bằng, và sau chứng trực tiếp nào chứng tỏ TSGTKS đã đó giao trách nhiệm cho tất cả mọi người có chiều hướng thay đổi dưới tác động trong cộng đồng đó phải báo cáo về bất của luật pháp. kỳ trường hợp nào họ phát hiện là đến các cơ sở nạo phá thai và sàng lọc giới 4.2. Định hướng đối thoại tính. Một chiến lược khác là “cộng đồng từ chính sách và chương trình chối” dựa trên việc tập hợp các nhóm phụ nữ cộng đồng để công khai “than khóc” trong tương lai ở Việt Nam cho những bé gái bị bỏ đi trước cửa nhà Có lý do để tin rằng ở Việt Nam nếu có của người phụ nữ mới đi nạo thai vì mục kế hoạch can thiệp tốt ở giai đoạn này, sẽ đích lựa chọn giới tính. Tuy nhiên, việc áp có nhiều khả năng thành công trong việc dụng những chiến lược như vậy ở những đảo ngược kịp thời tình thế của TSGTKS bối cảnh văn hóa xã hội khác cần phải hết hiện tại so với các nước khác ở trong khu sức thận trọng để không tạo ra sự phản vực. Rất hy vọng rằng Chính phủ Việt cảm và sự vi phạm quyền sinh sản và tự Nam một khi đã cam kết đây chính là do thân thể của cá nhân, ưu tiên để phát triển, thì sẽ có sự hỗ trợ Ngoài ra, các chiến lược truyền thông và mạnh mẽ. các sáng kiến thường thành công hơn nếu tính đến những khác biệt vùng miền Tuy nhiên, nhìn chung các tài liệu đều chỉ và tính địa phương trong xu hướng của ra rằng để cải thiện tình trạng TSGTKS ở TSGTKS. Việt Nam, đòi hỏi cấp bách là phải có cái nhìn bao quát có tính đến các khía cạnh xã hội và văn hóa. 34 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- Một yêu cầu cấp bách khác gắn liền với về tác động của các can thiệp này nhưng việc tiếp tục nâng cao bình đẳng giới việc đánh giá các biện pháp can thiệp đó như mục tiêu chung để giải quyết tình chắc chắn sẽ mang lại những thông tin trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, là quý giá cho các đối thoại chính sách tiếp xây dựng các chính sách khác nhau, các theo. Về chính sách dân số, cần phải duy chương trình giáo dục, và các chiến dịch trì đối thoại tích cực về việc nới lỏng chính toàn quốc hoặc địa phương, dựa trên các sách “ 1-đến 2 con”, như là một phần của nguồn lực và Các chương trình Mục tiêu Chiến lược Dân số/Sức khỏe Sinh sản giai quốc gia ở tất cả các bộ ngành liên quan. Hiện nay Tổng cục Dân số và Kế hoạch đoạn 2010-2021 hiện đang trong giai hóa gia đình đang thực hiện thí điểm một đoạn dự thảo lần hai. Tính tới thời điểm vài hoạt động can thiệp tại 18 tỉnh nhằm này, các nội dung của chiến lược chưa giải quyết mức TSGTKS hiện tại. Mặc dù thay đổi và vẫn giữ nguyên chính sách từ hiện nay chúng ta cũng chưa chắc chắn một đến hai con. Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 35
- Phần 5: Các lĩnh vực cần nghiên cứu định tính sâu hơn và các phương pháp nghiên cứu có thể sử dụng Dựa trên việc phân tích số liệu Về điểm 1) Đối với cá nhân của cuộc Tổng Điều tra Dân phụ nữ và gia đình, các số và Nhà ở năm 2009, giờ mục tiêu nghiên cứu đây, chúng ta biết được trước mắt có thể bao nhiều hơn trước đây về gồm: tìm hiểu những những nơi đang diễn các yếu tố “cầu” chi ra việc lựa chọn giới phối quá trình đi đến tính cũng như về các quyết định lựa chọn biến xã hội-kinh tế và giới tính, đặc biệt lưu các biến nhân khẩu ý đến các cộng đồng học khác nhau có liên hoặc nhóm dân số nơi quan đến thực hành có TSGTKS cao nhất, lựa chọn giới tính ở Việt ví dụ như ở đồng bằng Nam. Tuy nhiên, vẫn còn sông Hồng và các tỉnh tồn tại nhiều câu hỏi chưa phía Đông-Nam. Bên cạnh được giải đáp về nguyên nhân đối tượng đích là phụ nữ đã tại sao lựa chọn giới tính đã tăng kết hôn trong độ tuổi từ 15-49, lên nhanh chóng ở một số vùng, và nghiên cứu cũng nên tập trung vào trong một số quần thể dân cư nhất định đối tượng thanh niên dưới hai mươi và trong khi những vùng khác, nhóm khác phụ nữ chưa kết hôn cũng như nam giới không tăng nhanh như vậy. đã kết hôn và những người ở độ tuổi cao hơn. Cần tập trung cụ thể vào các yếu tố Thực tế chỉ ra rằng chỉ khi nào xu hướng dẫn đến mong muốn có con trai của các TSGTKS hiện tại đã được khẳng định ở thành viên trong cộng đồng, cần nghiên Việt Nam, được coi như một vấn đề cấp cứu xem mong muốn này có thay đổi sau bách của quốc gia và cần có những quan khi lập gia đình hay không ví dụ hôn nhân tâm kịp thời đến những nguyên nhân trực có ảnh hưởng tới mong muốn có con trai tiếp của vấn đề, cũng như cần đưa ra hay không và liệu/hoặc ở giai đoạn nào các biện pháp dài hạn giải quyết những thì nhất thiết phải có con trai. nguyên nhân sâu xa, thì các chiến lược can thiệp do đó cũng có thể được phân Về điểm 2) Phần nghiên cứu này cần tập chia như vậy để giải quyết vấn đề. trung nêu bật các động cơ/tác nhân và các dạng thức của mối tương tác giữa Hơn nữa, nghiên cứu định tính nhằm hiểu khách hàng và người cung cấp dịch vụ, rõ hơn về những nguyên nhân khác nhau, trách nhiệm, các nhu cầu và sự lo lắng của về mức độ của những “áp lực” được nêu những người cung cấp dịch vụ y tế trong ở các phần trên và về những xu hướng hệ thống y tế nhà nước lẫn với tư nhân hiện tại có thể tập trung vào: 1) cá nhân hiện nay với tư cách là có liên quan đến người phụ nữ, gia đình, thành viên trong các yếu tố “cầu” trong sàng lọc giới tính. cộng đồng, bao gồm cả người cao tuổi; 2) Nếu có thể, phần nghiên cứu này cần đi các nhà cung cấp dịch vụ y tế và cận y tế sâu vào các vấn đề đạo đức trong ngành trong các phòng khám sản khoa khu vực y, chẳng hạn như những rủi ro lâu dài có công và tư nhân; và nếu có thể cả người thể tiên lượng và không tiên lượng được sản xuất, nhập khẩu và chuyên viên tiếp từ việc siêu âm và nạo phá thai nhiều lần, thị máy móc thiết bị và nguyên vật liệu những lợi ích tài chính, vai trò và trình độ xét nghiệm sàng lọc giới tính; 3) các nhà của các nhân viên lâm sàng khác ngoài hoạch định chính sách – những người xây các bác sĩ y khoa trong việc đưa ra quyết dựng và đảm bảo việc thực thi luật pháp. 36 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- định, trách nhiệm của các nhà cung cấp Nam trong tương quan với việc phổ cập dịch vụ trong việc đảm bảo rằng khách sàng lọc giới tính trên toàn cầu. hàng có sự lựa chọn với đầy đủ hiểu biết khách hàng về việc sử dụng công nghệ Về điểm 3) Ở góc độ này nghiên cứu cần sàng lọc giới tính, về mâu thuẫn lợi ích tập trung vào một cuộc đối thoại cởi mở giữa việc kinh doanh và những khía cạnh và thu thập các thông tin chi tiết về điểm từ thiện của lĩnh vực chăm sóc y tế. mạnh và điểm yếu của các chính sách hiện tại từ quan điểm của các nhà hoạch định Từ một góc độ khác, cần tiến hành phỏng chính sách, kể cả về tính khả thi hoặc lý vấn các đơn vị cung cấp cho thị trường do của sự bất khả thi của các nghị định và công nghệ sàng lọc giới tính mới nhất để điều luật về nạo phá thai hiện hành, cũng đưa ra những vấn đề liên quan đến quy như các chính sách dân số mới. Đối thoại trình cơ học của việc phân phối và tiếp này phải bao quát được những quan điểm thị công nghệ sàng lọc giới tính, về các lý cụ thể về đặc trưng và cách tiếp cận của do mà các công nghệ này đã xâm nhập Việt Nam đối với chính sách dân số, khi so dễ dàng vào các bộ phận dân cư cũng sánh với các cách tiếp cận đã được thực như các khía cạnh kỹ thuật của vấn đề thi ở các nước và khu vực khác, những nơi tại sao sàng lọc giới tính lại dễ dàng trở cũng có TSGTKS gia tăng, cũng như xem thành một phần của thị trường dịch vụ y xét những lợi ích và rủi ro của các quy tế ở một mức độ rộng lớn như vậy tại Việt định xử phạt. Biểu đồ 4: Các lĩnh vực cần được tiếp tục nghiên cứu định tính Xác định tầm quan trọng của các giá trị truyền thống Hành vi lựa chọn giới tính của cá nhân Vai trò của người cung cấp dịch Chính sách và vụ, tác động của vai trò của nhà thị trường, việc lập chính sách dễ dàng tiếp cận công nghệ sàng lọc giới tính Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 37
- Để tiếp tục xác định rõ hơn lỗ hổng kiến nghiên cứu. Ngoài ra bên cạnh các công thức của chúng ta về vấn đề trên, và xác cụ phổ biến phù hợp cho việc thực hiện định các can thiệp chính sách nào là tối nghiên cứu như phỏng vấn sâu, nghiên ưu nhằm ổn định TSGTKS ở Việt Nam, cứu tình huống, quan sát và thảo luận bảng biểu sau sẽ trình bày tổng quan sơ nhóm tập trung, các nhà nghiên cứu cần bộ về nhiều vấn đề và những ví dụ về cân nhắc các phương pháp nghiên cứu các câu hỏi nghiên cứu. Cần lưu ý rằng các nội dung được liệt kê sau đây không khác để có thể đảm bảo cho các cuộc phải là các công cụ điều tra mà là các chủ phỏng vấn mang tính bí mật và riêng tư đề mà cần phải được điều chỉnh và mở khi tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi rộng trước khi xây dựng các phương pháp nhạy cảm. Bảng 4: Các câu hỏi tham khảo cho các phương pháp nghiên cứu sau này Các phương Ví dụ về các câu hỏi Vấn đề/Lỗ hổng pháp nghiên nghiên cứu có thể được Hỏi ai? kiến thức cứu có thể đề xuất áp dụng 1 Nhận thức và kinh Mức độ tác động của các hệ Các nhà Phỏng vấn nghiệm của các thống luật pháp hiện hành cung cấp người thạo nhà cung cấp dịch về công nghệ lựa chọn giới dịch vụ của tin, thảo luận y tế về các quy tính đối với người cung cấp các cơ sở y nhóm định pháp luật đối dịch vụ lâm sàng tế tư nhân với dịch vụ lựa Quan niệm về vai trò của và nhà nước chọn giới tính. “Áp người cung cấp dịch vụ trong lực của thị trường việc hướng dẫn và giải thích y tế/ “Áp lực chính cho việc sàng lọc giới tính và sách” nạo phá thai lựa chọn giới tính 2 Sự phát triển của Mức độ và cơ chế của sự Các nhà Phỏng vấn sâu, thị trường công “thương mại hóa” công nghệ cung cấp quan sát có sự nghệ lựa chọn giới lựa chọn giới tính dịch vụ, tham gia trong tính Các đặc điểm của khách Phụ nữ - các phòng hàng tiềm năng và động cơ khách hàng khám sản sử dụng công nghệ này và gia đình “Áp lực thị trường” của họ Các hình thức chuyển tuyến Vai trò của tiếp thị 3 TSGTKS của lần Quá trình ra quyết định và Phụ nữ lập Nghiên cứu sinh đầu tiên động thái sử dụng lựa chọn gia đình tình huống, giới tính trong lần sinh đầu có con từ quan sát các tiên 10 tuổi phòng khám trở xuống, sản “Áp lực sinh thấp”/ các cặp vợ “Áp lực gia đình” chồng mới kết hôn 38 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- Các phương Ví dụ về các câu hỏi Vấn đề/Lỗ hổng pháp nghiên nghiên cứu có thể được Hỏi ai? kiến thức cứu có thể đề xuất áp dụng 4 Quyết định có liên Sự thương thuyết và động Các cặp vợ Phỏng vấn sâu quan đến lựa chọn thái của quá trình ra quyết chồng, phụ sinh sản định về số con và giới tính nữ và nam của con giới Trình độ của người cung cấp dịch vụ sàng lọc giới tính Sự sẵn có và chất lượng của dịch vụ tư vấn trước và sau khi “Áp lực gia đình” thực hành lựa chọn giới tính Cân nhắc của gia đình và các yếu tố xã hội tác động tới quyết định sử dụng các công nghệ lựa chọn giới tính 5 Tiếp cận đến công Tuổi và giới tính của các Các cặp vợ Phỏng vấn sâu nghệ lựa chọn giới thanh thiếu niên chưa lập gia chồng, phụ tính đình khi lần đầu biết về công nữ và nam nghệ lựa chọn giới tính. giới Vai trò của các phương tiện “Áp lực thị trường” thông tin đại chúng kể cả Internet - mặc dù đã có chế độ xử phạt các trang web có liên quan đến lựa chọn giới tính 6 Sự ban hành, tính Sự minh bạch, tính trách Các nhà Phỏng vấn khả thi và thực thi nhiệm và tính hiệu quả hoạch định người thạo tin các chính sách của trong việc thực hiện các chính sách Chính phủ chính sách dân số và nạo phá thai hiện hành “Áp lực chính Khả năng xây dựng chính sách”/ “Áp lực thị sách mới và sửa đổi các chính trường” sách hiện hành cũng các kế hoạch thực hiện nhằm hạn chế việc sử dụng sai mục đích của các công nghệ sàng lọc giới tính 7 Từ việc lựa chọn Mối quan tâm, chiến lược và Phụ nữ Phỏng vấn sâu giới tính đến việc động thái cá nhân trong quá nạo phá thai trình dẫn tới quyết định phá thai “Áp lực gia đình” Các biện pháp khác nhằm tác động đến giới tính của thai nhi. Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 39
- Các phương Ví dụ về các câu hỏi Vấn đề/Lỗ hổng pháp nghiên nghiên cứu có thể được Hỏi ai? kiến thức cứu có thể đề xuất áp dụng 8 Hành vi xã hội bị Mong muốn lúc tuổi già của Phụ nữ và Phỏng vấn sâu chi phối bởi các cha mẹ đối với con gái và nam giới quan niệm truyền con trai cao tuổi thống và sự thay Mong muốn về các giải pháp đổi chậm chạp an sinh xã hội khác ngoài việc dựa vào con cái Sự thay đổi giữa các thế hệ về việc con cái chăm sóc cha “Áp lực gia đình” mẹ Thay đổi vai trò của con gái so với vai trò của con trai về mô hình sinh sống và việc giữ gìn truyền thống gia đình 9 Áp lực của gia đình Những băn khoăn về quyết Gia đình chỉ Phỏng vấn/ và truyền thống định đẻ con gái và việc nuôi có con gái nghiên cứu dưỡng con gái trong gia tình huống đình mở rộng/nhiều thế hệ 10 Vấn đề thị trường Các quy định và động thái Nhà sản Phỏng vấn chi phối việc xác của việc nhập khẩu, phân xuất, cung định giới tính phối, và các thủ tục đăng ký cấp, và các thiết bị công nghệ sàng chuyên gia lọc giới tính thị trường Hoạt động quảng bá và tiếp thị cho các phương pháp xác định giới tính khác nhau Nhận thức về tính bất hợp “Áp lực thị trường” pháp của hoạt động sàng lọc giới tính và lý do sử dụng các công nghệ khác nhau Khả năng lưu giữ hồ sơ và kết quả chụp của từng khách hàng 40 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- Phần 6: Danh lục tài liệu được rà soát 6.1. Châu Á 1. Almond Châu Á 2008 Tác giả: Almond, Douglas; Edlund, Lena Tựa đề sách: Tỷ số giới tính thiên về con trai trong năm 2000, Tổng Điều tra dân số Hoa Kỳ Nơi xuất bản: Khoa Kinh tế, Trường Đại học Columbia, New York; Ủy ban Quốc gia về Nghiên cứu Kinh tế, Boston, Hoa Kỳ; Viện Khoa học Quốc gia, Hoa Kỳ Mục tiêu nghiên cứu: Ghi nhận tỷ số giới tính thiên về con trai sinh tại Hoa Kỳ có cha mẹ là người gốc Trung Quốc, Hàn Quốc và Ấn Độ trong cuộc tổng điều tra năm 2000. Địa điểm: Hoa Kỳ Nhóm nghiên cứu: Các tác giả Thiết kế nghiên cứu/các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: Phân tích các số liệu Tổng Điều tra Dân số năm 2000 Mẫu: Năm phần trăm trong tổng số các hộ gia đình mà cả cha mẹ đều là người Hàn Quốc, Trung Quốc hay Ấn Độ, không có con nuôi dưới 12 tuổi và tập trung vào ba lần sinh đầu với số lượng 18.557 em trong 11.553 gia đình. Tóm tắt sơ lược nội dung của tài liệu: Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu về tỷ số giới tính trẻ em trong các gia đình của Hoa Kỳ mà cả cha và mẹ có nguồn gốc là người Hàn Quốc, Trung Quốc và Ấn Độ để đối chứng với tỷ số giới tính cao được ghi nhận tại các quốc gia Hàn Quốc, Trung Quốc và Ấn Độ. Các kết quả chính: Tỷ số giới tính thiên về nam giới trong các cộng đồng dân số này trùng lặp với những mô hình đã quan sát được ở các quốc gia Châu Á tương ứng trong đó có thể thấy rõ sự thiên lệch về con trai ở những lần sinh cao hơn, đặc biệt là từ đứa con thứ ba trở lên với tỷ số là 1,51 so với 1. Sự thiên lệch ở các lần sinh cao hơn này đúng đối với người mẹ ở bất kỳ quốc tịch nào và mặc dù vẫn còn thiếu nhiều yếu tố để có thể giải thích được sự thiên lệch về con trai ở Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc ví dụ như chính sách có một con của Trung quốc, giá trị món của hồi môn cao ở Ấn Độ, phong tục sống cùng gia đình chồng sau khi kết hôn cả ở ba quốc gia này, hay phong tục dựa vào con cái hỗ trợ lúc về già. Do sự thiên lệch về sinh con trai là một hiện tượng mới xảy ra gần đây nên sự mất cân bằng thiên về con trai được hiểu là bằng chứng cho việc lựa chọn giới tính từ khi mang thai, và thậm chí được coi là kết quả của việc tiếp thị tới khách hàng các công nghệ lựa chọn giới tính qua xét nghiệm máu tại những giai đoạn đầu của thời Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 41
- 2. Chung Asia 2007 (Các) Tác giả: Chung, Woojin and Das Gupta, Monica Nhan đề: Tại sao xu thế ưa thích con trai lại giảm ở Hàn Quốc? Vai trò của chính sách phát triển và chính sách công, ý nghĩa đối với Trung Quốc và Ấn Độ Nhà xuất bản: Ngân hàng Thế giới Mục đích nghiên cứu: Nhằm phân tích mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội và sự ưa thích con trai ở Hàn Quốc; nhằm làm rõ một số triển vọng trong việc đạt được TSGTKS cân bằng hơn ở các khu vực khác của Châu Á. Địa bàn: Hàn Quốc Thiết kế nghiên cứu/các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: 1) Tần suất và phương pháp Chi-square tests; 2) Phân tích hồi quy logic đa biến cho từng năm 1991 và 2003 có sử dụng đồng biến, chỉ phân tích các biến của năm 1991 và các số liệu gộp của cả hai năm; 3) Phân tích hồi quy logic không biến cho từng đặc điểm được lựa chọn của phụ nữ; 4) Phương pháp phân tách cấu trúc. Nguồn thông tin được sử dụng: Kết quả điều tra Mức sinh và Sức khỏe gia đình quốc gia của Hàn Quốc năm 1991 và 2003 Mẫu: 7.000 phụ nữ trong độ tuổi từ 15-49 đã từng lập gia đình tại thời điểm năm 1991, và 6.500 phụ nữ trong năm 2003 Miêu tả sơ lược hoặc tóm tắt nội dung chính của tài liệu: Hàn Quốc là một nước mở đầu cho xu thế phát triển của khu vực Châu Á và giờ đây cũng là nước mở đầu cho xu thế đảo ngược tỷ lệ giới tính khi sinh. Trung tâm của hệ tư tưởng Đạo Khổng nhằm xây dựng một quốc gia với chế độ độc tài vững mạnh từ năm 1932 trở đi chính là một hệ thống gia đình gia trưởng, thay thế cho hệ thống mối quan hệ họ hàng song phương trước đây. Trong hệ thống khuyến khích việc thờ cùng tổ tiên và giành thừa kế cho con trai nối dõi này, phụ nữ thường bị gạt ra ngoài lề và bị cô lập với xã hội do các quy định nghiêm ngặt về việc chỉ được kết hôn với người ngoài dòng tộc. Với vai trò của con trai trưởng trong việc duy trì dòng giống, hệ thống quan hệ họ hàng này đã nuôi dưỡng tâm lý ưa thích con trai. Từ giữa những năm 1950 tới khi dân chủ được ra đời năm 1987, chính phủ Hàn Quốc đã củng cố các truyền thống của Đạo Khổng thông qua việc chính thức công nhận về mặt luật pháp các quy định về tổ chức xã hội phụ hệ. Kể từ những năm 1960 trở đi, các chính phủ kế tiếp tại Hàn Quốc đã tiếp tục sử dụng các quyền lực độc đoán nhằm mang lại sự phát triển kinh tế xã hội nhanh chóng trong khi vẫn tích cực trấn áp các nhu cầu đòi dân chủ của người dân và ủng hộ các cam kết duy trì các vai trò gia đình truyền thống. Tuy nhiên, với quá trình công nghiệp hóa và sự phát triển giáo dục đầy kịch tính, người dân ngày càng băn khoăn về tính phù hợp của các truyền thống này. Các tổ chức phụ nữ đã được thành lập và các phong trào của xã hội dân sự đã mang lại những thành công trong việc gây áp lực lên chế độ quân sự độc tài thông qua các phán quyết của tòa án nhằm dọn đường cho dân chủ và các thay đổi về luật pháp liên quan tới việc tổ chức gia đình. Cuối cùng vào năm 2005, quy định nam giới đứng đầu hộ gia đình đã được chính phủ bãi bỏ. Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng đã mang lại chế độ hưu 42 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- trí và các lợi ích kinh tế khác và vì thế tăng thêm khả năng cho các thành viên trong gia đình sống độc lập hơn. Cuộc sống thành thị và việc chuyển cư ngày càng nhiều đã làm giảm đi đáng kể nhu cầu về cuộc sống dựa vào con trai vì con gái ngày nay có thể sống gần hơn và có thể hỗ trợ nhiều hơn. Phụ nữ có học vấn và có việc làm cũng củng cố giá trị tiềm năng của con gái. Nhiều thập kỷ với những sự thay đổi lũy tích này đã làm giảm đi áp lực phải có con trai. Các kết quả chính: Sự ưa thích con trai ở Hàn Quốc đã giảm đáng kể do sự thay đổi về quan niệm và chuẩn mực nhờ những thay đổi cơ bản về các điều kiện kinh tế xã hội ở cấp độ xã hội hơn là ở cấp độ cá nhân. Yếu tố chính dẫn đến sự giảm bớt tâm lý ưa thích con trai là xu thế thay đổi các chuẩn mực xã hội trong tất cả các nhóm kinh tế xã hội. Sự suy giảm mức độ ưa thích con trai bắt đầu từ các thành phần trí thức ưu tú có học vấn cao cư trú tại thành thị, là nhóm người được tiếp cận với thông tin đầu tiên và sau đó lan nhanh sang phần còn lại của dân số và các nhóm cư dân nông thôn được cho là bảo thủ nhất lại có một sự suy giảm tối đa. Sự sụp đổ của các quan niêm truyền thống được thể hiện bằng một thực tế là TSGTKS hiện nay ít phụ thuộc vào sự tác động của năm sinh trong khi trước đây cha mẹ sẽ tránh sinh con gái vào những năm xấu (mang lại rủi ro), ngày nay cha mẹ không còn quan tâm tới những điều như thế này nữa. Một kết quả khác trong trường hợp của Hàn Quốc là các thay đổi xã hội đó vẫn diễn ra bất chấp các chính sách của chính phủ nhằm gìn giữ các hệ thống gia đình truyền thống. Vai trò của các chính sách công thường có hai mặt. Một mặt các chính sách này thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nâng cao trình độ học vấn của phụ nữ và khuyến khích sự tham gia của họ vào lực lượng lao động chính quy, nhưng mặt khác các chính sách này lại gạt họ ra ngoài các vai trò gia đình và xã hội cho tới tận những năm gần đây. Rất có thể là nếu không có những cố gắng mà chính phủ thực hiện thì TSGTKS giờ đây vẫn bình thường. Các lý do sau đây khiến người ta tin rằng có thể TSGTKS đang ở mức rất cao của Trung Quốc và Ấn Độ, nơi mà nguyên nhân sâu xa của sự ưa thích con trai bắt rễ từ một hệ thống quan hệ họ hàng tương tự như Hàn Quốc, sẽ có thể đi theo lộ trình khác và bắt đầu trở lại bình thường trước khi đạt tới mức phát triển cao cân bằng: 1) Tại các quốc gia này đang có một sự thay đổi nhanh chóng ngay cả ở các khu vực nông thôn chứ không riêng gì ở các khu vực đô thị; 2) Cả chính phủ Trung Quốc và Ấn Độ đều tập trung mạnh vào các chính sách công và các biện pháp can thiệp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và tìm cách thay đổi các chuẩn mực và quan niệm xã hội, bao gồm cả các chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông; cải tổ lại hệ thống luật pháp; tài trợ cho các tổ chức xã hội của phụ nữ ở cấp cơ sở; kể cả các biện pháp khuyến khích về tài chính để nuôi dạy con gái. Các chính sách này sẽ thúc đẩy nhanh quá trình thay đổi. 3. Chung Asia 2007 (Các) Tác giả: Chung, Woojin; Das Gupta, Monica Nhan đề: Sự suy giảm tâm lý ưa thích con trai tại Hàn Quốc. Vai trò của các chính sách phát triển và chính sách công cộng Nơi xuất bản: Đánh giá Dân số và Phát triển, Quyển 33, số 4 Địa bàn: Hàn Quốc Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 43
- Thiết kế của nghiên cứu/các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: 1) Tần suất và phương pháp Chi-square tests; 2) Phân tích hồi quy logic đa biến cho từng năm 1991 và 2003 có sử dụng đồng biến, chỉ phân tích các biến của năm 1991 và các số liệu gộp của cả hai năm; 3) Phân tích hồi quy logic không biến cho từng đặc điểm được lựa chọn của phụ nữ; 4) phương pháp phân tách cấu trúc. Mẫu: 7000 phụ nữ độ tuổi từ 15-49 đã từng lập gia đình tại thời điểm năm 1991, và 6500 phụ nữ trong năm 2003 Các kết quả chính: Bằng chứng rõ rệt nhất của việc giảm bớt tâm lý ưa thích con trai ở Hàn Quốc là việc phụ nữ (với các đặc điểm cá nhân tương tự) thể hiện sự ưa thích con trai ít hơn nhiều trong năm 2003 so với năm 1991 với tỷ lệ chỉ còn một nửa. Nghiên cứu này cho thấy trình độ học vấn cao của phụ nữ là yếu tố kinh tế xã hội chính dẫn đến sự giảm bớt tâm lý ưa thích con trai, trong khi đó mối liên quan này không thể hiện rõ rệt ở người chồng. Các yếu tố khác liên quan tới việc giảm sự ưa thích con trai đối với phụ nữ và ở mức độ ít hơn hoặc hoàn toàn không với các ông chồng bao gồm việc cư trú ở các khu vực đô thị với mức ảnh hưởng rõ rệt hơn nữa nếu sống ở các thành phố lớn so sống ở các thành phố nhỏ; theo đạo Phật và cũng như vậy trong số những nhóm người trung thành nhất với các giá trị của đạo Khổng thường có TSGTKS cao hơn; tương tự như vậy là những gia đình mà người chồng là con trai duy nhất. Nhìn chung các kết quả cho thấy ngay cả sau khi đã kiểm soát rất nhiều các đặc điểm kinh tế xã hội thì gần ba phần tư mức giảm sự ưa thích con trai lại là nhờ những thay đổi của các chuẩn mực xã hội trong dân cư và trong tất cả các nhóm kinh tế xã hội, và chỉ có một phần tư là do sự tăng tỷ lệ nhóm dân cư có trình độ học vấn cao và sống ở đô thị. Tuy nhiên xu hướng giảm sự ưa thích con trai đó lại bắt đầu từ các nhóm có trình độ học vấn cao ở các khu vực đô thị và lan nhanh chóng tới các bộ phận dân cư còn lại của Hàn quốc. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra vì Hàn Quốc có lợi thế là một nước nhỏ và đồng nhất nơi mà các ý tưởng có thể phổ biến nhanh chóng trong nhân dân. Hàn Quốc cũng vượt xa Ấn Độ và Trung Quốc về mức độ công nghiệp hóa và đô thị hóa và vì thế họ cũng ở một vị trí thuận lợi hơn trong việc giảm tỷ số giới tính trẻ em. Tuy nhiên dựa trên kết quả của nghiên cứu này có thể thấy khả năng tỷ số giới tính trẻ em của Trung Quốc và Ấn Độ sẽ trở lại mức bình thường trước khi hai quốc gia này đạt được mức phát triển tương tự như Hàn Quốc vì ở hai quốc gia này đang chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng ở các khu vực nông thôn với nhiều việc làm phi nông nghiệp hơn, nguồn thu của gia đình đa dạng hơn và vì thế góp phần làm giảm tỷ lệ người phụ thuộc vào các áp lực gia đình. Ngoài ra tỷ lệ người di cư con lắc cao cũng góp phần làm lan rộng cách suy nghĩ của người đô thị. Không giống như chính phủ Hàn Quốc cố gắng thúc đẩy các giá trị truyền thống trong một giai đoạn dài, các chính phủ Ấn Độ và Trung Quốc lại tập trung vào các biện pháp can thiệp nhằm thay đổi các chuẩn mực xã hội thay vì chỉ tập trung vào các biện pháp như tăng cường giáo dục cho phụ nữ. 4. Guilmoto Châu Á 2009 Tác giả: Guilmoto, Christophe Z. Nhan đề: Giai đoạn Quá độ của Tỷ số giới tính khi sinh ở Châu Á Nơi xuất bản: Tổng quan về Dân số và Phát triển 44 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- Mục đích nghiên cứu; Xem xét các xu thế và các yếu tố quyết định của sự sự gia tăng TSGTKS ở Châu Á; nhằm đưa ra cơ sở xây dựng một khung làm việc toàn diện nhằm lý giải sự gia tăng của TSGTKS trong những năm gần đây; nghiên cứu ý nghĩa của hiện tượng nam hóa nhanh chóng ở Châu Á có thể là sự thể hiện của một chu kỳ quá độ với các giai đoạn: sự bắt đầu, gia tăng nhanh chóng, ổn định và cuối cùng là giai đoạn giảm dần. Địa bàn: Các nước Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore và Việt Nam), các nước Nam Á (Pakistan và Ấn Độ) và các nước Tây Á (Armenia, Azerbaijan, Georgia và Albania) Thiết kế của nghiên cứu/các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: Nghiên cứu so sánh Nguồn thông tin sử dụng: Đăng ký khai sinh, ước tính lịch sử sinh đẻ từ các cuộc điều tra lớn và các số liệu tổng điều tra dân số về tuổi và các ca sinh gần đây. Tóm tắt sơ lược nội dung: Trong khi chúng ta đã biết rõ rằng trong vòng vài thập kỷ qua TSGTKS ở một vài vùng của khu vực Châu Á đã tăng hơn mức bình thường là 105, có sự khác biệt giữa điểm khởi đầu và quá trình tăng của TSGTKS theo từng khu vực và trong từng quốc gia. Ví dụ trong khi mức tăng TSGTKS tại Trung Quốc và Hàn Quốc đã xuất hiện từ những năm 80 hoặc sớm hơn nhưng ở Việt Nam, TSGTKS chỉ bắt đầu tăng sau năm 2000 và tại khu vực Tây Á, sự gia tăng nhanh chóng của TSGTKS đã trở nên rõ ràng trong những năm 90 ở tất cả các quốc gia mới giành độc lập. Các yếu tố dẫn tới sự mất cân bằng nhân khẩu học về giới tính chính là bối cảnh mức sinh giảm kết hợp với sự ưa thích con trai cố hữu và sự đổi mới trong các công nghệ xác định giới tính hiện đại và việc tiếp cận dễ dàng với các công nghệ này. Ban đầu các công nghệ này được sử dụng bởi tầng lớp giàu có ở đô thị và sau này do các chi phí giảm đi nên việc ứng dụng các công nghệ này trở nên rộng rãi hơn. Các kết quả chính: Sự gia tăng của TSGTKS lần đầu tiên gây sự chú ý gắn với việc sàng lọc giới tính xẩy ra từ những năm. Hiện tại hoàn toàn có thể xác định những điểm chung trong xu hướng này đang diễn ra tại các nước khác nhau. Có ba điều kiện tiên quyết cần thiết cho sự phát triển đảo ngược này: 1) “sự sẵn sàng” sử dụng các công nghệ lựa chọn giới tính, 2) Khả năng để sử dụng các công nghệ lựa chọn giới tính hiện đại do tiếp cận dễ dàng và 3) Áp lực về quy mô gia đình nhỏ: ‘áp lực”: lý do tại sao trong một số trường hợp cụ thể cha mẹ mong muốn, có thể và cần phải lựa chọn giới tính cho thế hệ tiếp theo của mình. Việc thiếu các dữ liệu so sánh đã gây khó khăn cho việc nghiên cứu sâu các yếu tố này, nhất là là các dữ liệu liên quan tới việc tiếp cận với các phương pháp lựa chọn giới tính hiện đại, và trong nhiều trường hợp không thể chỉ rõ tác động riêng của từng yếu tố. Các số liệu thống kê giám sát cho thấy dường như TSGTKS sẽ không tăng hơn 140, sau đó chững lại/ổn định và bước sang thời kỳ quá độ sau đó sẽ dần dần đi xuống tới mức sinh học bình thường dưới tác động của các thay đổi về kinh tế xã hội và các can thiệp của chính phủ. Tuy nhiên sự giảm nhanh chóng TSGTKS đang ở mức cao hiện tại vẫn còn rất hạn chế và sự tăng TSGTKS ở một vài khu vực của Châu Á mà tới nay vẫn chưa thể kiểm soát là điều hoàn toàn có khả năng xảy ra. Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 45
- Khuyến nghị: Hành động của chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự bao gồm cả việc hạn chế cung cấp các dịch vụ lựa chọn giới tính, thực hiện các chiến dịch tuyên truyền nâng cao nhận thức và ban hành các quy định pháp luật sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc xóa bỏ những hậu quả của việc mất cân bằng này. 5. John Châu Á 2008 (Các) Tác giả: John, Mary E.; Kaur, Ravinder; Palriwala, Rajni; Raju, Saraswati; Sagar, Alpana. Nhan đề: Kế hoạch gia đình, Kế hoạch giới, và Tỷ số giới tính khi sinh đảo ngược tại một số huyện/vùng thuộc các bang Madhya Pradesh, Rajasthan, Himachal Pradesh, Haryana và Punjab Nơi xuất bản: Action Aid India, Văn phòng Nam Á, thuộc Trung tâm nghiên cứu và phát triển quốc tế - Cananda Mục đích nghiên cứu: Mục đích của nghiên cứu này là nhằm giải thích các động lực về kinh tế xã hội khác nhau đã tạo nên sự thay đổi động thái trong gia đình về số con và cơ cấu giới tính của các con cũng như sự suy giảm đồng thời của tỷ số giới tính trẻ em ở 5 bang của Ấn Độ; nhằm phân tích xem tỷ số giới tính trẻ em có thể bị tác động như thế nào bởi mức sống và khác nhau như thế nào giữa một số tầng lớp trong xã hội; nhằm xác định các đặc điểm và xu hướng dẫn tới việc ác cảm với con gái và ưa thích con trai. Địa bàn: Các bang phía bắc của Ấn Độ: Haryana, Punjab, và Himachal Pradesh; các bang ở trung tâm của Ấn Độ: Rajasthan và Madya-Pradesh Nhóm nghiên cứu: 5 nhà nghiên cứu; 60 cán bộ làm việc tại địa bàn và một vài điều phối viên làm việc tại địa bàn Thiết kế của nghiên cứu/Phương pháp nghiên cứu được sử dụng Kết hợp cả phương pháp định lượng và định tính. Các số liệu về hộ gia đình được thu thập theo hai giai đoạn: các bảng hỏi chi tiết cho hai giai đoạn và các làng/các phường ở đô thị trong năm 2003 và nghiên cứu định tính với 12 hộ gia đình được lựa chọn năm 2005. Quan sát tham gia liên tục của hai nghiên cứu viên tại địa bàn nghiên cứu. Mẫu: 200 hộ gia đình đã được lựa chọn ngẫu nhiên trong tổng số 4.500 hộ gia đình ở các bang miền Bắc và 200 hộ gia đình khác cũng được lựa chọn ngẫu nhiên từ 2000 hộ gia đình ở miền Trung. Biến số đầu tiên là tất cả các làng trong mỗi huyện được lựa chọn phải có ít nhất là 100 trẻ em trong độ tuổi từ 0-6, các làng này được phân loại thành các hạng mục có chỉ số giới tính trẻ em “thấp”, “vừa” và “cao” đồng thời tính đến yếu tố đẳng cấp và và trình độ học vấn của phụ nữ như là biến số thứ hai và thứ ba. 46 Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam
- Tóm tắt sơ lược nội dung/các điểm chính Trong khi mức trung bình về tỷ số giới tính trẻ em trên toàn quốc ở Ấn Độ là rất thấp nhưng sự khác biệt giữa các khu vực khá rõ ràng cho thấy sự phức tạp và tương tác lẫn nhau của nhiều yếu tố gây ra các xu hướng tiêu cực. Đặc biệt cần lưu ý rằng mức giảm tỷ số giới tính trẻ em nhìn chung ở khu vực thành thị lớn hơn rất nhiều. Những điểm tương đồng chính giữa các địa bàn nghiên cứu là chúng đều có lịch sử lâu đời trong việc phân biệt đối xử với con gái và ưa thích con trai và các gia đình từ lâu nay đã sử dụng nhiều sách lược khác nhau để đạt được quy mô gia đình và cơ cấu giới tính mong muốn. Một điểm chung nữa là tất cả các địa bàn này đều có nền kinh tế nông nghiệp mà đất đai luôn là một nguồn kiếm sống quan trọng và việc phân chia đất đai và gia tài thông qua của hồi môn là điều nên tránh. Tuy nhiên ở các khu vực này thì bản thân nông nghiệp đã không còn mang lại cuộc sống no đủ cho hầu hết mọi người dẫn đến sự gia tăng trong tỷ lệ thất nghiệp, di cư đi nơi khác và tình trạng nam thanh niên không đủ điều kiện kết hôn vì càng ngày càng không đáp ứng được mong đợi truyền thống là đóng vai trò quan trọng trong các nghi thức gia đình và trong kinh tế. Một hiện tượng có vẻ bất thường là các địa bàn có tỷ số giới tính trẻ em thấp nhất chính lại là những nơi có con số lớn nhất các em gái có học vấn cao hơn. Kết quả này cũng được củng cố bởi các kết quả tương tự được tổng hợp từ các số liệu thống kê với cơ số mẫu lớn hơn. Việc tăng nhanh sự tiếp cận tới giáo dục, và tỉ lệ cao hơn của các em gái, chủ yếu ở các khu vực đô thị khá giả, tới giáo dục đại học, cao đẳng, cũng như sự nâng cao tuổi kết hôn và với một thị trường hôn nhân mang tính cạnh tranh hơn đã khiến gánh nặng của các em gái trở nên nặng nề hơn vì giờ đây số năm cha mẹ phải sử dụng để chăm sóc các em kéo dài hơn trong khi họ vẫn phải có trách nhiệm truyền thống là đảm bảo hôn nhân “phù hợp” và chuẩn bị của hồi môn. Về sự giàu có thịnh vượng, nghiên cứu này cho thấy có sự khác biệt lớn giữa các vùng và tỷ số giới tính thấp trong tất cả các nhóm kinh tế ở khu vực nông thôn. Ở các địa bàn đô thị, tỷ số giới tính cao nhất xảy ra trong các nhóm dân cư có mức sống thấp, cho thấy rằng sự phấn đấu thoát khỏi đói nghèo cùng với sự sẵn có của các công nghệ lựa chọn giới tính đã hiệp lực để chống lại sự chấp nhận sinh con gái. Các kết quả chính: Nghiên cứu cho thấy rằng bất luận lịch sử trước đây của việc ưa thích con trai và lãng quên con gái trong các địa bàn nghiên cứu khác nhau, đã có một sự thay đổi từ nhận thức sang các chiến lược với chủ đích đạt được quy mô gia đình nhỏ hơn: ngày càng có nhiều gia đình mong muốn có ít con gái và con trai hơn, tuy nhiên các phương án lựa chọn ở đây vẫn là: có một con trai, hai con trai, một con trai và có lẽ một con gái, nhưng hiếm khi các gia đình lựa chọn có toàn con gái. Chính điều này làm tăng thêm xu thế nam hóa và tăng sự ác cảm với con gái. Kinh tế càng phát triển thì các gia đình càng “ý thức” trong việc lập kế hoạch và càng chủ tâm sử dụng các công nghệ để đạt mục đích này. Đặc biệt, công nghệ siêu âm và sự sẵn có của công nghệ này đối với tất cả các tầng lớp dân chúng chính là tác nhân quan trọng tạo nên sự phổ biến của thực hành lựa chọn giới tính. Những người giàu hơn thì sử dụng can thiệp của công nghệ tại những giai đoạn đầu của thai kỳ còn những người nghèo hơn thì có thể làm tương tự nhưng ở những giai đoạn muộn hơn hoặc cảm thấy nuối tiếc vì không có đủ phương tiện. Quyết định bỏ thai nhi gái có thể là một quyết định phức tạp trong đó không chỉ là quyết định của hai vợ chồng mà các thành viên khác của gia đình mở rộng đặc biệt là gia đình chồng và người cung cấp dịch vụ, cũng đóng vai trò quan trọng. Một kết quả khá thống nhất trong tất cả các địa bàn nghiên cứu là mặc dù chính phủ Ấn Độ đã phát động rất nhiều các chính sách và chương trình nhằm nâng cao giá trị của các em gái trong thời gian gần đây đặc biệt là các chương trình khuyến khích bằng tiền mặt nhưng chính phủ lại chưa thực hiện bất kỳ một chương trình nào nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ và các em gái tại 5 địa bàn lựa chọn cho nghiên cứu nơi có tỷ số giới tính trẻ em cao nhất. Thiếu sót của các chương trình hiện tại là ở chỗ các chương trình này chỉ tập trung vào các gia đình nằm dưới ngưỡng nghèo đói; và phần lớn số tiền thưởng chỉ được chuyển tới gia đình sau khi cô gái trì hoãn việc lập gia đình tới năm 18 tuổi; và các chương trình này được thực hiện qua một nỗ Tỷ số Giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam 47