Thực trạng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và giải pháp phát triển - Phạm Thị Bích Thủy

pdf 88 trang huongle 3880
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thực trạng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và giải pháp phát triển - Phạm Thị Bích Thủy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthuc_trang_ho_tro_xuat_khau_cho_cac_doanh_nghiep_vua_va_nho.pdf

Nội dung text: Thực trạng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và giải pháp phát triển - Phạm Thị Bích Thủy

  1. Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -  CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP Thực trạng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và giải pháp phát triển
  2. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng: cơ cấu kinh tế có chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng trưởng ổn định trong một thời gian khá dài. Kết quả đó có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thuộc các thành phần kinh tế ở nước ta. SME trong thời gian qua có bước phát triển nhanh về số lượng, tham gia vào các loại hình kinh tế và sự đóng góp vào sự tăng trưởng GDP của nước ta ngày một cao. Tuy nhiên trong xu thế hiện nay, với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trong khu vực và trên thế giới đã bước sang một giai đoạn phát triển với tốc độ hết sức nhanh chóng và sâu sắc, làm cho nền kinh tế thế giới ngày càng trở thành một chỉnh thể thống nhất, các quan hệ kinh tế được phát triển đa phương, đa dạng hoá dưới nhiều hình thức.Trong bối cảnh đó, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra những cơ hội cho các doanh nghiệp nói chung và những doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng như là mở rộng thị trường cho hàng xuất khẩu, tiếp nhận vốn và công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp, nhờ đó tạo ra công ăn việc làm và đảm bảo tăng trưởng kinh tế, học tập được công nghệ quản lý mới, nhưng mặt khác lại đặt các doanh nghiệp Việt Nam vào tình thế phải cạnh tranh khốc liệt hơn. Thêm vào đó, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu ở Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất cũng như tiêu thụ trên thị trường quốc tế. Việc khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu là một trong nội dung quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Qua thời gian tìm hiểu, thu thập và tham khảo tài liệu về các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam, nhận thấy tầm quan trọng của việc hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta trong thập kỷ tới, nên tôi đã mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: 1
  3. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - “Thực trạng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam và giải pháp phát triển”. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tập trung vào các vấn đề thực trạng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm qua đó đưa ra những giải pháp phát triển kinh doanh hàng xuất khẩu cho khối doanh nghiệp này trong nền kinh tế mở với những khó khăn, thách thức khi Việt Nam tham gia vào hội nhập kinh tế trong khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được đề cập trong khoá luận tốt nghiệp này được xác định theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/11/2001, trong đó quy định doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Nội dung của khoá luận tốt nghiệp bao gồm ba chương sau: Chương I: Khái quát chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ và chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Chương II: Doanh nghiệp vừa và nhỏ và các chính sách hỗ trợ xuất khẩu ở Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nhằm hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Do giới hạn về mặt thời gian cộng với trình độ còn hạn chế nên khoá luận tốt nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo trong Trường Đại học Ngoại thương cùng các bạn để khoá luận này được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo Thạc sỹ Phạm Thị Hồng Yến đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi nghiên cứu hoàn thành bản Khoá luận tốt nghiệp này. Sinh viên Phạm Thị Bích Thủy 2
  4. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ XUẤT KHẨU. I- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. 1- Tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ Việc đưa ra khái niệm chuẩn xác về doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghĩa rất lớn để xác định đối tượng được hỗ trợ. Vì vậy, hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, trên thế giới không có tiêu thức thống nhất để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thậm chí ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, địa bàn Có hai nhóm tiêu thức chủ yếu dùng để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ: Tiêu thức định tính và tiêu thức định lượng. - Tiêu thức định tính: Dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp vừa và nhỏ như không có vị thế độc quyền trên thị trường, chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít các tiêu thức này có ưu thế là phản ánh đúng của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, nó chỉ được làm cơ sở để tham khảo mà ít được sử dụng trên thực tế để phân loại. - Tiêu thức định lượng: Thường sử dụng các tiêu thức như là số lao động thường xuyên và không thường xuyên trong doanh nghiệp, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: - Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế, - Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản hay vốn cố định, giá trị tài sản còn lại - Doanh thu có thể là tổng doanh thu trong một năm, tổng giá trị gia tăng trong một năm(hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ tiêu này). 3
  5. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Ở các nước, tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh nghiệp rất đa dạng. Dưới đây là một số tiêu chí phân loại SME qua điều tra ở 12 nước trong khu vực APEC. Trong các nước này, tiêu chí số lao động được sử dụng phổ biến nhất (12/12 nước sử dụng). Còn một số chỉ tiêu khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước: vốn đầu tư (3/12), tổng giá trị tài sản (4/12), doanh thu (4/12) và tỷ lệ góp vốn (1/12). Số lượng tiêu chí chỉ có từ một đến hai và cao nhất là ba chỉ tiêu. Điều này được thể hiện một cách cụ thể dưới bảng 1.1 như sau: Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại SME ở các nước APEC. Nước Tiêu chí phân loại Australia Số lao động Canada Số lao động; Doanh thu Hongkong Số lao động Indonesia Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Japan Số lao động; Vốn đầu tư Malaysia Số lao động; Tỷ lệ góp vốn Mexico Số lao động Philippines Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Singapore Số lao động; Tổng giá trị tài sản Taiwan Vốn đầu tư; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu Thailand Số lao động; Vốn đầu tư USA Số lao động Nguồn: Ban thương mại và đầu tư, tiểu ban kinh doanh vừa và nhỏ của các nước APEC, 2001. Ở Indonesia; Tổng cục thống kê nước này phân loại dựa vào số lao động: Doanh nghiệp có dưới 19 lao động được coi là nhỏ, doanh nghiệp có trên 20 lao động được coi là vừa và lớn. Bộ công nghiệp xác định SME dựa trên vốn đầu tư vào máy móc: dưới 70 triệu rupi và tính bình quân trên một lao động có dưới 4
  6. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 625 nghìn rupi là doanh nghiệp nhỏ. Còn Ngân hàng Indonesia coi doanh nghiệp có tài sản dưới 100 triệu rupi là SME. Ở Hồng kông, doanh nghiệp có lao động dưới 200 người là SME. Ở Hàn Quốc; tiêu thức phân loại doanh nghiệp chủ yếu dựa vào số lao động và phân biệt theo hai lĩnh vực sản xuất và dịch vụ: trong lĩnh vực sản xuất dưới 1000 lao động, trong lĩnh vực dịch vụ dưới 20 lao động là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ở Đài Loan doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người và vốn đầu tư dưới 1,5 triệu USD là SME. Ở Malaysia; doanh nghiệp có vốn cổ đông dưới 500 nghìn USD hay tài sản ròng dưới 200 nghìn USD, số lao động dưới 20 người, doanh nghiệp có vốn cổ đông hay tài sản ròng từ 0,5- 2,5 triệu USD, lao động dưới 100 người là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ở Thái Lan; doanh nghiệp có số lao động tối đa 250 người và vốn đầu tư không quá 99.500 USD là SME. Theo các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thì SME là những công ty hạch toán độc lập không phải là các Công ty con của các Công ty lớn; tuyển dụng ít hơn một số lượng lao động đã được quy định. Số lượng này khác nhau giữa các hệ thống thống kê quốc gia. Giới hạn trần phổ biến nhất là 250 lao động tại các nước thuộc liên minh Châu Âu (EU). Tuy nhiên, một số nước đặt ra giới hạn ở mức 200 lao động, trong khi Mỹ coi SME bao gồm các Công ty có ít hơn 500 lao động.1 2. Các yếu tố tác động đến phân loại SME. Sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa, nhỏ hoàn toàn mang tính tương đối phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: - Trình độ phát triển kinh tế của một nước: trình độ phát triển càng cao thì chỉ số các tiêu chí càng tăng lên. Như vậy, ở một số nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn để phân loại SME sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Chẳng hạn, ở Nhật Bản, doanh nghiệp có 300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là SME, còn doanh nghiệp có quy mô như vậy ở Thái Lan lại là doanh nghiệp lớn. 1 Nguồn: Tổ chức lao động Quốc tế (ILO-SAAT): Chính sách vĩ mô và công nghiệp nhỏ-Bài học từ Châu Á và Châu phi, New Delhi, 2001. 5
  7. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - - Tính chất ngành nghề: do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt, may), có ngành sử dụng nhiều vốn ít lao động (như hoá chất, điện). Do đó, cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại SME giữa các ngành khác nhau. Chẳng hạn: các ngành sản xuất có tiêu chí thường cao hơn, còn các ngành dịch vụ có tiêu chí thấp hơn. - Vùng lãnh thổ: do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau nên số lượng và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Chẳng hạn, một doanh nghiệp ở thành phố được coi là nhỏ nhưng ở vùng miền núi, nông thôn lại được coi là lớn. Do đó, cần tính đến cả hệ số vùng để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau. - Tính chất lịch sử: một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng với quy mô như vậy, hiện tại hoặc tương lai có thể là nhỏ hoặc vừa. Chẳng hạn, ở Đài Loan năm 1967, trong ngành công nghiệp, doanh nghiệp có quy mô dưới130.000 USD (5 triệu đô la Đài Loan là doanh nghiệp vừa và nhỏ khi đó, năm 1989 tiêu chí này là 1,4 triệu USD (hay 40 triệu đô la Đài Loan). - Phụ thuộc vào mục đích phân loại: khái niệm SME sẽ có sự khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích phân loại. Chẳng hạn, nếu mục đích phân loại để hỗ trợ các doanh nghiệp yếu, mới ra đời, sẽ khác với mục đích là để làm giảm thuế cho các công nghệ sạch, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường. II- VAI TRÒ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ. Trên thế giới, người ta đã thừa nhận rằng khu vực SME đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội của mỗi nước. Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế mỗi nước mà vai trò cũng thể hiệ47n khác nhau. Đối với các nước công nghiệp phát triển cao như CHLB Đức, Nhật Bản, Mỹ, Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò hết sức quan trọng. Ở CHLB Đức, SME vẫn có vai trò quan trọng trên nhiều mặt. Ở Nhật Bản người ta coi SME là một nguồn lực bảo đảm cho sức sống của nền kinh tế, là bộ phận quan trọng của cơ cấu quy mô nhiều tầng của các doanh nghiệp. 6
  8. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển thì ngoài vai trò là bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế, SME còn có vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hành công nghiệp hoá đất nước, xoá đói giảm nghèo, giải quyết những vấn đề xã hội. Đối với các nước ở Châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Philippin, Inđônêsia, SME có vai trò tích cực trong việc chống đỡ các tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, góp phần đáng kể vào sự ổn định kinh tế - xã hội và từng bước khôi phục nền kinh tế. Vai trò của SME được cụ thể hoá bằng các chỉ tiêu chủ yếu sau đây: Thứ nhất: SME chiếm tỷ trong cao về số lượng trong tổng số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của các nước: Theo tiêu chí xác định SME thì số doanh nghiệp này ở các nước chiếm tỷ lệ từ 90-99% tổng số doanh nghiệp của các nước. Cụ thể: Nhật Bản: 99,1%, các nước Tây Âu: 99% (riêng Đức: 99,7%), Mỹ và lãnh thổ Đài Loan : 98%, Singapore: 90%, Thái Lan, Malaysia, Indonesia: 95-98%. Thứ hai: Thu hút lượng lao động của toàn xã hội. Tuy số doanh nghiệp của khu vực SME chiếm tỷ trọng cao nhưng do số lượng lao động của từng doanh nghiệp không nhiều, nên tổng số lao động làm trong SME không nhiều, nhưng vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể, từ 50-80%. Thứ ba: Đóng góp phần đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân và tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán của các nước thì SME góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước. Sở dĩ SME có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước vì nó có tính linh hoạt cao, thích ứng với sự biến động của thị trường, khả năng thay đổi mặt hàng, mẫu mã nhanh theo thị hiếu người tiêu dùng. Bên cạnh đó, nhu cầu đầu tư vốn ít và sử dụng nguyên liệu, vật liệu có ở địa phương, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật - công nghệ nhanh nhạy hơn, đào tạo người lao động và người quản lý ít tốn kém hơn, yêu cầu về quản lý kinh doanh không đòi hỏi quá cao. 7
  9. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Nhìn chung trên đây là những vai trò quan trọng của SME trong mỗi nền kinh tế các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, ngoài các chỉ tiêu quan trọng cơ bản nói trên, vai trò của SME còn thể hiện ở một vài chỉ tiêu khác như: gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh, góp phần giảm bớt chênh lệch trong xã hội, tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương, cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. III- NHỮNG BIỆN PHÁP HỖ TRỢ XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC. 1- Các biện pháp hỗ trợ: Trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu trở thành phương hướng chủ yếu của chính sách ngoại thương. Trong xu thế hiện nay, việc hỗ trợ đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cho SME nói riêng và các doanh nghiệp kinh doanh khác nói chung là vấn đề cấp bách đối với các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển nhằm đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhìn chung có một số biện pháp chính để hỗ trợ xuất khẩu cho SME như sau: 1.1- Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng để thực hiện chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu nói riêng chịu ảnh hưởng của cả tỷ giá hối đoái chính thức (TGHĐCT) và tỷ giá hối đoái thực tế (TGHĐTT). Tỷ giá hối đoái chính thức là tỷ giá do Nhà nước công bố tại một thời điểm nhất định như: TGCT giữa VND và USD ngày 23/3/2001 là 14.527 VND/USD. Nhưng tỷ giá hối đoái thực tế thì không phải như vậy mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát trong nước và tỷ lệ lạm phát của các nước có quan hệ thương mại. TGHĐTT và TGHĐCT có mối quan hệ như sau: TGHĐCT x Chỉ số giá trong nước 8
  10. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - TGHĐTT = Chỉ số giá cả nước ngoài Việc đưa ra chỉ số giá cả nước ngoài vào tính toán tỷ giá thực tế cần phải được cân nhắc kỹ bởi vì, một nước có quan hệ thương mại với nhiều nước khác. Để sử dụng có hiệu quả chính sách tỷ giá hối đoái có thể phải tính tỷ giá hối đoái song phương đối với từng bạn hàng thương mại quan trọng. TGHĐTT thay đổi ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu của SME nói riêng. Do đó, nó có thể gây tác động thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động xuất khẩu. Điều này thể hiện: nếu TGHĐTT quá cao có nghĩa là đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với đồng ngoại tệ thì hàng nhập khẩu trở nên rẻ tương đối so với sản phẩm nội địa mà chúng chịu chi phí tăng do lạm phát nhưng các nhà xuất khẩu trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán với tỷ giá chính thức cố định thấp. Nếu các nhà xuất khẩu tăng giá xuất khẩu để bù đắp chi phí thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề chiếm lĩnh thị trường. Như vậy, khi tỷ giá thực tế tăng so với tỷ giá chính thức thì sẽ khuyến khích nhập khẩu nhưng lại kìm hãm xuất khẩu. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt thúc đẩy xuất khẩu, Nhà nước cần có biện pháp giảm lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền nội địa và có tỷ giá chính thức hợp lý, phù hợp với mục tiêu chung trong chiến lược phát triển hướng ngoại. 1.2. Thực hiện các biện pháp tài chính tín dụng: Việc Nhà nước áp dụng các biện pháp tài chính tín dụng nhằm mở rộng xuất khẩu là rất quan trọng, nhất là đối với các nhà xuất khẩu có quy mô vừa và nhỏ. Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, thị trường mà ở đó cạnh tranh cực kỳ khốc liệt, nhà xuất khẩu phải thực hiện việc bán chịu, trả chậm, hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hoá với lãi suất ưu đãi cho người mua. Trong trường hợp này, sự hỗ trợ của nhà nước là rất cần thiết đối với SME. Sự hỗ trợ trong việc đảm bảo tài chính tín dụng được thể hiện qua các hình thức: 9
  11. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 1.2.1- Thực hiện biện pháp cấp tín dụng xuất khẩu: Vốn bỏ ra cho việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu thường rất lớn. Người xuất khẩu phải có vốn trước và sau khi giao hàng để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu cần phải có vốn để kéo dài khoản tín dụng ngắn hạn dành cho khách hàng. Đặc biệt đối với SME vấn đề vốn đang là vấn đề rất khó khăn nên cần có sự cung cấp tín dụng của nhà nước với lãi suất ưu đãi. Cấp tín dụng trực tiếp cho SME không chỉ đơn thuần là trợ giúp để thực hiện xuất khẩu mà còn giúp đỡ doanh nghiệp giảm chi phí về vốn cho hàng xuất khẩu và giảm giá thành xuất khẩu. Tín dụng xuất khẩu có hai hình thức chủ yếu: Thứ nhất: Tín dụng trước khi giao hàng. Trước khi giao hàng SME cần có một lượng vốn nhất định để trả cho phần nhập khẩu nguyên vật liệu và các đầu vào trung gian trong nước, các bộ phận cấu thành trong nước khác như: tiền lương, lãi vay, địa tô cần thiết cho sản xuất hàng xuất khẩu và tồn kho thành phẩm xuất khẩu thông thường được chấp nhận dựa theo đơn đặt hàng xuất khẩu và được cung trong thời gian nhất định. Nhiều khi SME phải bỏ ra một số vốn lớn để ứng cho nhà sản xuất hàng xuất khẩu. Lãi suất tín dụng xuất khẩu là yếu tố ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của SME. Lãi suất thấp cho phép SME bán được giá thấp để cạnh tranh với hàng khác, đặc biệt là các nhà xuất khẩu nước ngoài như Thái Lan, Trung Quốc Thứ hai: Tín dụng sau khi giao hàng. Đây là hình thức mua hối phiếu xuất khẩu hoặc tạm ứng theo chứng từ hàng hoá của Ngân hàng đối với SME. Loại tín dụng này thường để trả các khoản tín dụng trước khi giao hàng. 1.2.2. Biện pháp bảo lãnh tín dụng: Trong điều kiện cho phép, để chiếm lĩnh thị trường một số SME đã thực hiện bán chịu - trả chậm cho nước ngoài. Việc bán chịu như vậy thường có rủi ro dẫn đến mất vốn. Trong trường hợp này, để hỗ trợ xuất khẩu cho SME Nhà nước cần phải phát huy cao hơn hiệu quả của dịch vụ bảo hiểm xuất khẩu nhằm thực hiện đền bù vốn đã mất của SME cũng như các nhà kinh doanh khác để họ yên tâm hoạt động và giảm được rủi ro. Tuy nhiên, bản thân SME cũng sẽ quan tâm 10
  12. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - đến việc kiểm tra khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu và thu tiền bán hàng khi hết thời hạn tín dụng. Việc bảo lãnh tín dụng ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu còn nâng cao hiệu quả xuất khẩu vì: Nếu có vốn SME có thể thực hiện việc bán chịu mà giá bán chịu bao gồm cả giá cả bán trả ngay công với phí tổn đảm bảo lợi tức. 1.3- Biện pháp trợ cấp xuất khẩu: Mục đích của việc trợ cấp xuất khẩu là giúp SME tăng thu nhập nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu. Do đó đẩy mạnh được xuất khẩu. Có hai loại trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp trực tiếp và trợ cấp gián tiếp. Thứ nhất: Trợ cấp trực tiếp là áp dụng thuế suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu, miễn hoặc giảm thuế đối với các nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, cho nhà sản xuất được hưởng giá ưu đãi đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất (như điện nước, vận tải, thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu ). Đối với SME hình thức này rất có tác dụng và có hiệu quả. Thứ hai: Trợ cấp gián tiếp là hình thức trợ cấp của nhà nước thông qua việc Nhà nước dùng ngân sách của mình để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch xuất khẩu hoặc Nhà nước trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo chuyên gia. Trong điều kiện cạnh tranh cả trong lẫn ngoài nước như hiện nay nhất là cạnh tranh ngoài nước, SME rất cần sự giúp đỡ của Chính phủ trong việc nghiên cứu thị trường, cung cấp các thong tin về thị trường, giới thiệu triển lãm và quảng cáo mặt hàng xuất khẩu. Những vấn đề này, bản thân SME không có khả năng làm hoặc nếu làm thì không có hiệu quả cao. Việc trợ giúp kỹ thuật và chuyên gia, không ai khác ngoài Nhà nước phải đảm nhận. SME cần có sự giúp đỡ về đào tạo chuyên gia, về cả nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu và cả về chuyên gia sản xuất. 11
  13. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 1.4- Biện pháp hỗ trợ về thể chế - tổ chức: Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu bằng việc áp dụng các biện pháp thâm nhập thị trường và tạo điê kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá ở nước ngoài. Điều này thường được thể hiện như sau: - Lập các trung tâm cung cấp thông tin cho nhà xuất khẩu. - Đào tạo cán bộ, chuyên gia giúp các nhà xuất khẩu. - Lập các cơ quan Nhà nước ở nước ngoài để nghiên cứu tại chỗ tình hình thị trường hàng hoá, thương nhân và chính sách của chính phủ nước sở tại. - Nhà nước đứng ra ký kết các Hiệp định thương mại, Hiệp định hợp tác kỹ thuật, vay nợ, viện trợ trên cơ sở thúc đẩy xuất khẩu. 2- Kinh nghiệm hỗ trợ xuất khẩu cho SME của một số nước. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra những thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung đặc biệt là SME nói riêng trong mọi lĩnh vực và quan trọng nhất là lĩnh vực xuất khẩu. Với những khó khăn đó, SME sẽ phải quyết tâm rất lớn, bên cạnh đó thì sự hỗ trợ của Nhà nước trong là một điều rất cần thiết đối với họ. Một trong những biện pháp có ý nghĩa lúc này là những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các nước đi trước có thành tựu lớn trong phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá nhanh, có điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá tương đồng với chúng ta. Sau đây tác giả xin trình bầy kinh nghiệm của một số nước trong khu vực Châu Á. 2.1. Các biện pháp hỗ trợ của Đài Loan. Đài Loan là một quốc gia điển hình có nhiều SME. Sự thần kỳ của kinh tế Đài Loan cũng gắn với mức tăng trưởng cao và sự phồn vinh của SME. Quá trình phát triển này cũng gắn liền với nỗ lực của các xí nghiệp nhỏ và vừa trong sản xuất, tiết kiệm nhằm tăng sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu. Sự phát triển kinh tế Đài Loan luôn gắn chặt với hoạt động ngoại thương. Ngoại thương thực sự là động lực thúc đẩy các ngành sản xuất vươn lên, đáp ứng 12
  14. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - nhu cầu phong phú và đa dạng. Do nhận thức được những giới hạn của thị trường nội địa, từ những năm 60 Đài Loan đã coi mở rộng xuất khẩu như một chính sách chỉ đạo, một phương châm chiến lược. Ngay trong những năm đầu thực hiện chiến lược "hướng về xuất khẩu", ngành ngoại thương Đài Loan đã trở thành lực lượng nâng đỡ và nuôi dưỡng các ngành công nghiệp. Cuối những năm 50, công nghiệp tư nhân của Đài Loan đã phát triển khá mạnh, thị trường nội địa đã tới mức bão hoà, công nghiệp Đài Loan chuyển từ "thay thế nhập khẩu" sang "đẩy mạnh xuất khẩu". Lúc này khu vực tư nhân đã có cơ sở khá vững, chính quyền Đài Loan đã khuyến khích họ phát triển ngoại thương, xâm nhập thị trường quốc tế qua hàng loạt các biện pháp cải cách kinh tế như chuyển thống nhất tỷ giá hối đoái, nới lỏng những hạn chế nhập khẩu Năm 1965 Đài Loan đã mở "khu chế biến xuất khẩu" với nhiều ưu đãi về ngoại thương. Đồng thời các biện pháp tăng cường thực lực kinh tế và khả năng cạnh tranh, chính sách bảo hộ mậu dịch cũng dần được thay thế bằng chính sách tự do mậu dịch. Trong những năm cuối thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60, Đài Loan đã áp dụng phương châm "hy sinh thuế cao, đẩy mạnh kinh tế, bồi dưỡng nguồn thuế", liên tục ban hành các pháp lệnh "khuyến khích đầu tư", "đầu tư Hoa Kiều" Với nhiều ưu đãi dành cho SME thực hiện tái sản xuất mở rộng và đổi mới thiết bị. Chẳng hạn, Chính phủ miễn thuế 5 năm cho các xí nghiệp mới xây dựng, miễn thuế 4 năm cho các xí nghiệp đổi mới thiết bị tính từ lúc bắt đầu bán sản phẩm. Bên cạnh đó, Đài Loan còn thực hiện biện pháp "hạn chế lập xưởng", nghĩa là trên cơ sở đánh giá thị trường, chính quyền hạn chế khắt khe đầu tư vào một số ngành nào đó để đảm bảo có thị trường cho SME trọng điểm, tránh tình trạng sản xuất trùng lặp, gây lãng phí tiền lương, lao động và vốn. Trong thời gian 1970-1977 Đài Loan đã miễn giảm thuế, việc giảm thuế đã kích thích đầu tư. Do đó, số SME mới không ngừng tăng nên, SME cũ không ngừng gia tăng tài sản, khiến cho mức thuế cơ bản tăng lên, và giá trị tuyệt đối của thuế cũng không ngừng tăng lên. Cho tới những năm 80, Chính quyền Đài Loan ban hành một hệ thống chính sách tổng hợp hỗ trợ SME và ngay lập tức đã 13
  15. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của khu vực này, tạo nên một làn sóng phát triển SME. Hệ thống chính sách hỗ trợ SME của Đài Loan từ năm 2000 đến nay bao gồm: 1. Chính sách hỗ trợ về tài chính tín dụng 2. Chính sách hỗ trợ về công nghệ 3. Chính sách nghiên cứu và phát triển 4. Chính sách về kiểm soát chất lượng sản phẩm 5. Chính sách quản lý đào tạo 6. Chính sách an toàn công nghiệp 7. Chính sách hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế 8. Chính sách trợ giúp SME hợp tác lẫn nhau cùng phát triển 9. Chính sách trợ giúp SME thích ứng với hệ thống pháp luật Với hệ thống chính sách này, Đài Loan đã thành công trong phát triển SME . Các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan đóng góp bình quân mỗi năm tới 40% GNP, 60% kim ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho khoảng 68% lực lượng lao động cả nước.2 Ngoài những điểm nêu trên, về các phương tiện khai thác thăm dò tài nguyên, cung ứng nguyên liệu, mở rông thị trường, chuyển giao công nghệ, chính quyền Đài Loan đều căn cứ vào nhu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế, trực tiếp tham gia dẫn dắt, nâng đỡ khu vực SME ở các khu vực khác nhau. Về ngoại thương, Đài Loan tổ chức đặt trụ sở và mạng lưới mậu dịch ở hơn 50 nước và khu vực. Đồng thời còn tham gia triển lãm, hội trợ quốc tế, thường xuyên mời khách nước ngoài và các nhà kinh doanh đến Đài Loan tham quan, cử người đi nước ngoài để chào hàng. Để mở rộng mạng lưới mậu dịch quốc tế, Đài Loan đã xây dựng các trạm "phục vụ mậu dịch quốc tế"cung cấp cho SME các đường dây điện thoại và khuyến khích các cơ sở SME đặt đại lý ở nước ngoài Với những biện pháp nâng đỡ điển hình như trên, trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, kết hợp với sự nỗ lực của bản thân SME, viện trợ của Mỹ đã góp 2 Nguồn: vụ kinh tế Ngân hàng Đài Loan, 2002 14
  16. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - phần giúp Đài Loan đạt được những thành tựu lớn trong ngoại thương. Cụ thể xin xem dưới bảng 1.2 sau: BẢNG 1.2: TỶ LỆ XUẤT KHẨU CỦA SME Ở ĐÀI LOAN THỜI KỲ 1996-2001. Đơn vị:% Thời kỳ Doanh nghiệp lớn SME Tổng số 1996 43,2 56,8 100 1997 41,8 58,2 100 1998 40,9 59,2 100 1999 40,2 59,8 100 2000 33,3 66,7 100 2001 25,2 74,8 100 Nguồn:Vụ nghiên cứu kinh tế ngân hàng Đài loan, 2002 Nhìn vào bảng trên ta nhận thấy xuất khẩu của SME ở Đài Loan có vai trò to lớn trong thương mại của công cuộc thực hiện chiến lược "hướng về xuất khẩu". 2.2. Các biện pháp hỗ trợ của Hàn Quốc. Xem xét quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc từ cuối thập kỷ 50 đến nay, có thể nhận thấy nổi lên 3 giai đoạn phát triển với những ưu điểm phát triển khác nhau. Giai đoạn thứ nhất kéo dài cho đến thập kỷ 70 và trọng tâm ưu tiên phát triển là khuyến khích và thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu. Giai đoạn thứ hai kéo dài trong suốt thập kỷ 80, trong đó ưu tiên phát triển được dành cho công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất. Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ đầu thập kỷ 80 mà trọng tâm của nó đã chuyển sang khu vực SME. Các biện pháp khuyến khích và ưu đãi đầu tư ở Hàn Quốc đã thay đổi theo từng giai đoạn phát triển và nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn. Để thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu cho đến đầu thập kỷ 70, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chiến lược thúc đẩy xuất khẩu hơn là thay thế nhập khẩu. Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ mạnh mẽ cho các nhà xuất khẩu, với nhiều biện 15
  17. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - pháp khác nhau, gồm đối sử ưu đãi trong cấp vốn tín dụng và trong chế độ thuế khoá. Hệ thống cấp vốn tín dụng xuất khẩu đã đóng vai trò rất quan trọng nhằm hỗ trợ xuất khẩu cho đến giữa những năm 80 khi có được thặng dư về cán cân vãng lai. Bản chất của hệ thống này là chính sách tái chiết khấu của hệ thống ngân hàng để cung cấp tín dụng với lãi suất thấp thông qua các ngân hàng thương mại cho SME đã nhận được tín dụng thư. Các khoản cho vay chiết khấu của ngân hàng Trung ương Hàn Quốc cũng được mở rộng cho xuất khẩu trước khi giao hàng nhằm hỗ trợ cho việc mua nguyên liệu và các sản phẩm trung gian để sản xuất hàng xuất khẩu. Trước những năm 1980 lãi suất cho vay đối với xuất khẩu từ 6-10%/ năm, trong khi mức lãi suất chung là 17-23%/năm. Từ cuối những năm 1980, sự chênh lệch lãi suất mới được xoá bỏ. Nếu xem xét mức lãi suất trên thị trường tài chính phi chính thức tại thời điểm đó vào khoảng hơn 30%, thì sự ưu đãi đối với xuất khẩu qua tín dụng lãi suất thấp thật lớn. Hầu như mọi khoản tín dụng xuất khẩu đều được hỗ trợ thông qua cơ chế tạo tiền của Ngân hàng Trung ương dưới hình thức chiết khấu. Trong khoảng thời gian từ 1976-1986 tỷ lệ tín dụng của Ngân hàng Hàn Quốc trong tổng số khoản vay của Ngân hàng nội địa là 79,4%, đặc biệt vào những năm 1973-1981 tỷ lệ này lên tới 90,1%. Ngoài ra còn có rất nhiều biện pháp hỗ trợ khác của Chính phủ đối với hoạt động xuất khẩu của SME như chiết khấu thuế ra khỏi giá mua thiết bị và phương tiện đầu tư để sản xuất; trợ cấp cho việc cải tiến đóng gói và mẫu mã sản phẩm, mở rộng các phương tiện cung cấp dịch vụ kiểm tra hàng xuất khẩu, mở các trung tâm đào tạo tiếng nước ngoài, gửi các đoàn đến hội trợ triển lãm ở nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm ở nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm thương mại tại Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc cũng theo dõi chặt chẽ kết quả hoạt động xuất khẩu và hàng tháng hoặc hàng quý cung cấp các thông tin về các vấn đề kinh tế trong nước, về xu hướng của thị trường nước ngoài. Thông qua các cuộc họp thường kỳ do Tổng thống làm chủ tọa với sự tham dự của các quan chức cấp cao của 16
  18. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Chính phủ để thực hiện xem xét kết quả hoạt động xuất khẩu. Nếu kết quả hoạt động xuất khẩu là yếu kém, thì Tổng thống sẽ thúc giục các quan chức có liên quan của Chính phủ và các nhà ngân hàng phải cung cấp hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa đối với xuất khẩu nhằm đạt được khối lượng xuất khẩu đề ra theo kế hoạch. Bằng cách đó, những cản trở đối với xuất khẩu được xoá bỏ một cách kịp thời phục vụ cho việc hỗ trợ SME. Một đặc điểm khác trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Chính phủ Hàn Quốc là sự hỗ trợ của Chính phủ cho xuất khẩu căn cứ vào kết quả xuất khẩu thực sự đạt được. Các nhà xuất khẩu được quyền nhận hỗ trợ chỉ là những doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu hàng năm vượt một mức nhất định. Để nhận được sự ưu đãi lớn hơn, các nhà xuất khẩu phải làm việc chăm chỉ và chuyên cần hơn, để cạnh tranh với nhau và với nước ngoài. Chiến thuật buộc các doanh nghiệp Hàn Quốc phải cạnh tranh với các công ty nước ngoài đã mang lại những lợi ích lớn trong việc đẩy mạnh sự học hỏi, tiếp thu kiến thức mới qua làm việc, qua đó rút ngắn thời gian cần thiết cho học tập. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu toàn diện nói trên đã đóng vai trò cơ bản để SME của Hàn Quốc được mở rộng nhanh chóng và thu được kết quả mong muốn. Trên đây là những kinh nghiệm hỗ trợ cho SME trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu của một số nước trong khu vực Châu Á. Tuy nhiên, khi đưa ra những chính sách hỗ trợ xuất khẩu cho SME, quốc gia nào cũng khó có có khả năng áp dụng những chính sách, biện pháp hỗ trợ công khai khi muốn hoà nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới. Do vậy, các chính sách hỗ trợ xuất khẩu đưa ra phải phù hợp với thông lệ quốc tế, nếu không sẽ gây ra phản ứng đối phó từ phía các đối tác. Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm của các nước đã trình bày ở trên, có thể làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hỗ trợ xuất khẩu cho SME trong điều kiện hiện nay, tuy nhiên, chúng ta áp dụng những bài học này một cách có chọn lọc không dập khuân máy móc. 17
  19. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - CHƯƠNG II: DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM I- KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM. 1. Khái niệm về các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) ở Việt Nam. Ở Việt Nam, trước đây, khái niệm SME đã được sử dụng để phân loại doanh nghiệp nhà nước với mục đích xác định mức cấp phát trong cơ chế bao cấp, xác định mức lương cho các giám đốc doanh nghiệp: Doanh nghiệp cấp 1, Doanh nghiệp cấp 2, Doanh nghiệp cấp 3. Tiêu thức phân loại chủ yếu là số lao động trong biên chế và theo phân cấp Trung ương - địa phương. Hiện nay, khi chuyển sang cơ chế thị trường, mục đích, cách thức, tiêu thức phân loại và đối tượng cũng khác trước. Phương pháp phân loại thường được sử dụng theo các tiêu chí: lao động, vốn (pháp định, cố định và lưu động), doanh thu. Trong đó hai tiêu chí được thống nhất chung là số lao động và vốn để xác định SME. Trước yêu cầu thực tiễn kinh doanh, vấn đề này đã được giải quyết tạm thời bằng Công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/6/1998, theo đó doanh nghiệp nhỏ và vừa 18
  20. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 387.000USD)3. Tiêu chí này được xác định nhằm xây dựng một bức tranh chung về các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam phục vụ cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế, tiêu chí này không cho phép phân biệt doanh nghiệp nhỏ hay doanh nghiệp cực nhỏ, và nhất là đối với hộ kinh doanh cá thể hiện đang cần lưu tâm đặc biệt. Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/11/2001, các doanh nghiệp vừa và nhỏ được xác định như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Thông qua Nghị định này, Nhà nước ta đã thể hiện sự nhìn nhận tích cực về vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy vậy, cần có thời gian để đánh giá chính sách này và cần chuẩn bị các biện pháp kế hoạch cụ thể cho việc thực hiện chính sách. Chính sách hỗ trợ này không đi theo phương thức can thiệp trực tiếp vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa để tránh tình trạng SME phụ thuộc quá nhiều vào sự hỗ trợ của Nhà nước, mà phải khuyến khích tinh thần tự lực của SME. 2. Khái quát thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Như chúng ta đều biết, sự tồn tại và phát triển của khu vực tư nhân mới được chính thức thừa nhận từ năm 1990, khi luật doanh nghiệp và luật công ty được thông qua. Các bộ luật này đã được thay thế bởi Luật doanh nghiệp, có hiệu lực từ ngày 1/01/2000. Luật doanh nghiệp đưa ra 4 hình thức pháp lý cơ bản của doanh nghiệp: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh. Phần lớn các doanh nghiệp đăng ký dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Cho đến nay, việc phân loại các doanh nghiệp theo quy mô vẫn chưa được thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Những tiêu chí phân loại quy mô đôi khi cũng rất khác nhau khiến cho việc tổng hợp số liệu chưa thực hiện được một cách có 3 Theo tỷ giá giữa đồng Việt Nam và Đôla Mỹ tại thời điểm ngày 20/06/1998. 19
  21. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - hệ thống. Dưới đây là một số bảng phân loại doanh nghiệp theo quy mô từ nhiều nguồn khác nhau: Bảng 2.1: Phân loại doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân chính thức theo số lượng lao động, 2001: Đơn vị:% Chỉ tiêu 1-100 lao động Trên 100 lao động Tổng cộng Số lượng 25.399 622 26.021 Số phần trăm 97,6 2,4 100 Nguồn: Tổng cục thống kê: Kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2001, Nxb Thống kê, 2002 Bảng 2.2: Phân loại cơ sở kinh doanh phi nông nghiệp tại các vùng nông thôn theo quy mô (bao gồm các hộ kinh doanh cá thể) Đơn vị: % Chỉ tiêu 1-10 11-50 51-100 Trên 100 Tổng lao động lao động lao động lao động cộng Cơ sở kinh doanh 52,7 37,2 4,6 4,5 100 Hộ KD phi nông nghiệp 98,7 1,2 0,6 - 100 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Các ngành nghề nông thôn Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2002 Xét về ngành nghề kinh doanh, thì các đơn vị kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu hoạt động trong ba ngành: (I) dịch vụ thương nghiệp, sửa chữa xe động cơ, mô tô xe máy 46%; (II) trong công nghiệp chế biến (22%); và (III) khách sạn nhà hàng (13%). Điều đáng lưu ý là có 21% doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực thuỷ sản và 26% công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực tài chính tín dụng, riêng trong lĩnh vực công nghiệp chế biến có tới 37,3% số SME hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, 11% trong ngành dệt, may, da và 18,6% trong ngành sản xuất các sản phẩm kim loại. Biểu đồ 2.1sẽ chứng minh về cơ cấu ngành nghề kinh doanh của SME. 20
  22. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - BIỂU ĐỒ 2.1 CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ KINH DOANH CỦA SME: 1 13% 4 2 46% 19% 3 22% Chú thích: )1: Khách sạn, nhà hàng )2: Các ngành khác )3: Công nghiệp chế biến )4: Dịch vụ thương nghiệp Nguồn: Chương trình phát triển dự án Mêkông (MPDF): Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 10: Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trên đường tiến tới phồn vinh, Leila Webster, Hà Nội, 2002. Xét về doanh thu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực kinh tế tư nhân, thì cá nhân và nhóm kinh doanh chỉ chiếm 40% tổng doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, về khía cạnh này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đăng ký chính thức, gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, chiếm phần quan trọng hơn (khoảng 57%). Điều này có thể có khần do cá nhân và nhóm kinh doanh không khai báo đúng mức doanh thu của họ, mà khai báo thấp hơn thực tế là điều có thể xảy ra. Tuy vậy, nó phản ánh một thực tế là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có đăng ký chính thức có quy mô kinh doanh lớn hơn. Và nếu muốn kinh doanh quy mô lớn thì chắc chắn phải chuyển sang hình thức doanh nghiệp đăng ký chính thức, hoạt động theo nguyên tắc luật lệ của cơ chế thị truờng. Doanh thu của khu vực SME được thể hiện chi tiết dưới bảng sau: 21
  23. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - BẢNG 2.3:DOANH THU CÁC CƠ SỞ KINH TẾ THEO VÙNG LÃNH THỔ. Đơn vị:% Loại hình doanh nghiệp Phân theo vùng lãnh thổ DNTN Công ty Công ty Hợp Kinh tế TNHH cổ phần tác xã cá thể 1.Vùng núi và trung du 2,90 1,34 0,26 4,68 4,97 3,12 2.Đồng bằng sông hồng 2,97 15,89 7,48 12,90 12,07 11,73 3.Khu bốn cũ 4,38 0,62 0,12 25,39 4,48 3,05 4.Duyên hải miền Trung 6,19 4,37 1,34 9,03 7,91 6,12 5.Tây nguyên 1,98 1,85 0,05 4,53 3,22 2,43 6.Đông nam Bộ 41,44 68,05 86,01 31,98 38,96 51,46 7.Đồng bằng sông Cửu Long 40,14 7,43 4,73 11,49 28,39 22,08 Tổng số 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM), 2002 Theo bảng 2.3, điều đáng chú ý là doanh thu của khu vực miền Đông Nam Bộ, gồm cả thành phố Hồ Chí Minh, chiếm 51,46% tổng doanh thu của khu vực SME trên cả nước. Tiếp đến là Vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm 22,08%, và Vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 11,73%. Như vậy, xét theo doanh thu, thì hoạt động của khu vực SME ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở miền Nam Việt Nam. Vốn đầu tư thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam được thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng đáng kể. Tổng số vốn đang ký của hai loại hình doanh nghiệp này chiếm khoảng 60% tổng số vốn đăng ký của kinh tế tư nhân. cá nhân và nhóm kinh doanh chiếm khoảng 30%. Điều đáng chú ý là gần 50% vốn đăng ký của khu vực kinh tế tư nhân ở đồng bằng sông Hồng được thưc hiện dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, trong khi đó khoảng 60% vốn đăng ký ở Đồng bằng sông Cửu Long được thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân. 22
  24. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Nhìn vào bảng 2.4 dưới đây ta có thể thấy rằng vốn đầu tư phân bổ chủ yếu vào các ngành kinh tế như thương nghiệp, sửa chữa xe động cơ, mô tô chiếm 38,38% trong tổng số vốn đầu tư vào các ngành kinh tế của khu vực SME. Tiếp đến là ngành công nghiệp chế biến chiếm 26,98%, vận tải kho bãi và thông tin liên lạc chiếm 9,41%, ngành thuỷ sản chiếm 6,79%, xây dựng chiếm 6,17%. Như vậy, tổng số vốn đầu tư vào ngành thuỷ sản còn rất thấp trong khi kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của khu vực này chiếm tỷ lệ rất lớn cụ thể trong giai đoạn 1998-2002 chiếm tỷ trọng 25,1% trong kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. Để tăng kim ngạch xuất khẩu hải sản trong thời gian tới cần phải chú ý đến việc đầu tư vốn cho khu vực này nhiều hơn. Sự phân bố vốn của khu vực kinh tế nhìn chung được thể hiện dưới bảng sau: Bảng 2.4: Vốn các loại hình kinh doanh phân theo ngành kinh tế (đến ngày 31/12/2002) Đơn vị: % Phân theo Loại hình doanh nghiệp 23
  25. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - ngành kinh tế DNT Công ty Công ty Hợp Kinh tế N TNHH cổ phần tác xã cá thể 1. Nông nghiệp 0,04 0,27 0,09 0,18 0,22 0,17 2. Thuỷ sản 15,25 0,47 0,61 0,78 5,58 6,79 3. Công nghiệp khai 0,13 0,31 0,00 1,61 0,17 0,26 thác mỏ 4. Công nghiệp chế 30,41 26,51 23,03 26,71 24,38 26,98 biến 0,04 0,06 0,00 0,19 0,02 0,04 5. SX, phân phối điện, khí đốt và nước 3,48 15,57 7,94 3,98 0,10 6,17 6. Xây dựng 42,38 43,51 7,33 15,73 37,85 38,38 7. Thương nghiệp, sửa chữa xe động cơ mô 5,48 2,89 1,49 0,18 5,60 4,33 tô 0,53 3,83 0,69 47,49 20,24 9,14 8. Khách sạn 9. Vận tải kho bãi và 0,02 0,03 55,89 3,05 0,01 3,02 thông tin liên lạc 0,00 0,08 0,00 0,00 0,00 0,02 10. Tài chính tín dụng 11. Hoạt động khoa học 2,05 0,42 0,00 0,02 1,4 1,2 và công nghệ 12. Hoạt động phục vụ 0,19 6,04 2,94 0,08 4,42 2,44 cá nhân và cộng đồng 13. Ngành nghề khác Tổng số 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM), 2002. Khu vực SME là nơi tạo ra nhiều việc làm trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, sự phân bố lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn phụ thuộc vào phân bố địa lý của nước ta. Cụ thể xin xem thêm dưới bảng sau: 24
  26. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - BẢNG 2.5: LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ PHÂN THEO VÙNG LÃNH THỔ ( CÓ ĐẾN 31/12/2002). Đơn vị: % Loại hình doanh nghiệp Phân theo vùng lãnh thổ DNTN Công ty Công ty Hợp Kinh tế TNHH cổ phần tác xã cá thể 1. Vùng núi và trung du 7,43 4,03 0,06 5,34 7,40 6,98 2. Đồng bằng sông Hồng 7,49 23 12,15 34,99 19,06 19,38 3. Khu bốn cũ 4,71 2,54 0,18 9,49 11,86 10,52 4. Duyên hải miền Trung 17,17 6,13 2,96 14,81 10,95 11,01 5. Tây nguyên 2,95 1,09 0,10 3,17 2,93 2,77 6. Đông Nam Bộ 28,68 58,62 75,95 26,35 22,57 26,40 7. Đồng bằng sông Cửu 31,57 4,59 8,60 5,84 25,24 22,94 Long Tổng số 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW (CIEM ),2002 Như vậy theo bảng 2.4 thì khoảng gần một nửa (49,34%) số lao động của khu vực SME làm việc ở vùng miền Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tiếp đó là vùng đồng bằng sông Hồng (19,38%), Duyên hải miền Trung (11%), và vùng Khu Bốn cũ(10,52%). Trong đó, số lao động làm việc trong loại hình kinh tế cá thể chiếm 81,21%, tiếp đến là các công ty TNHH chiếm 7,98%, DNTN chiếm 5,54%. Từ quá trình xem xét thực trạng khu vực SME ở Việt Nam, như trình bày ở trên đây, có thể rút ra một số nhận xét tổng quát như sau: Một là, xét trên tất cả các tiêu chí, phần lớn hoạt động của khu vực SME ở Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung ở miền nam Việt Nam, đặc biệt là vùng Đông Nam Bộ (gần 50%). Hai là, xét về ngành nghề kinh doanh, thì hoạt động của khu vực SME ở Việt Nam hiện nay hoạt động chủ yếu trong hai ngành. Đó là thương mại, dịch vụ sửa chữa và công nghiệp chế biến (cả hai ngành này chiếm 69% tổng số doanh nghiệp). 25
  27. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Ba là, có thể nói, người Việt Nam vẫn chưa ưa chuộng sử dụng các hình thức doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn. Hình thức doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn năm 1997 chỉ chiếm 0,48% trong tổng số doanh nghiệp , trong khi đó hình thức kinh tế cá thể chiếm 98%. Điều này có thể xuất phát từ các nguyên nhân sau đây: - Phần nhiều trong số những người kinh doanh đều là người tự tìm việc làm cho mình. Họ khởi sự kinh doanh chỉ đơn giản là nhằm mục đích kiếm sống cho bản thân và gia đình họ, mà chưa suy nghĩ đến tương lai phát triển, cũng chưa có mục tiêu phát triển một cách rõ ràng. - Quy mô nhỏ, phạm vi giao dịch, quy mô giao dịch, số lượng giao dịch và tính chất của các giao dịch của họ cũng đơn giản; và bản thân người kinh doanh chưa có yêu cầu nhận biết và không nhận biết các rủi ro liên quan kinh doanh. - Hoạt động của họ chủ mang tính phi hình thức, vì vậy họ không có yêu cầu phải sử dụng luật lệ của nhà nước. Trong môi trường đó, sự tin cậy lẫn nhau, quen biết nhau là trên hết và chủ yếu. - Cho đến nay, kỹ năng và hiểu biết về quản trị kinh doanh của người Việt Nam mới bắt đầu xây dựng. Sự đào tạo về quản lý doanh nghiệp tại các trường đại học tập trung nhiều hơn vào các kiến thức chuyên môn quản lý bậc trung cho các công ty lớn, đặc biệt là nghiệp vụ kế toán, thống kê, quản lý tiền lương Các sinh viên có ít cơ hội được đào tạo thực tiễn về lập kế hoạch kinh doanh cũng như khuyến khích phát triển những kỹ năng quản trị như kỹ năng bán hàng, tiếp thị, quản trị nhân sự Nhiều doanh nghiệp hoạt động theo cách suy đoán của riêng họ. Có thể nói, trên đây là những vấn đề chung nhất về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Phần tiếp theo chúng ta sẽ nghiên cứu các vai trò của khối doanh nghiệp này. 26
  28. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong xuất khẩu và sự nghiệp phát triển kinh tế. 3.1- Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế: Ở nước ta SME có diện rộng, phổ cập chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội. Cùng với kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn, SME được xem như là những nhân tố đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, khai thác tận dụng hiệu quả tiềm năng về vốn, tay nghề và những nguồn lực tiềm ẩn trong dân cư. Nó còn góp phần phân bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau; giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn; bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống, thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc. Bảng 2.6 cho thấy phần đóng góp vào GDP của doanh nghiệp tư nhân chính thức thường xuyên giữ ở mức 7,5%. Phần đóng góp của hộ kinh doanh cá thể và trang trại vào GDP giảm một ít từ 36% năm 1997 xuống còn 33,18% năm 2001. Phần đóng góp của khu vực kinh tế nhà nước tăng lên 41,4% năm 1999 và giảm xuống 41% năm 2001. Đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 7% lên hơn 10% GDP trong 5 năm cuối. Thực tế phần đóng góp 40,5% vào GDP của hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân chính thức (năm 2001) bao gồm phần đóng góp của các trang trại nông nghiệp và hộ kinh doanh nông nghiệp. Ước tính phần đóng góp của hộ kinh doanh phi nông nghiệp là 19% GDP4. Do vậy, toàn bộ khu kinh tế tư nhân đóng góp 26,31% GDP. Bảng 2.6: Đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế trong giai đoạn 1997-2001 (so sánh 1996) Đơn vi: % Các thành phần Kinh tế 1997 1998 1999 2000 2001 Khu vực quốc doanh 40,1 40,8 41,4 41,3 41,1 Khu vực ngoài quốc doanh 59,9 59,2 58,6 58,7 58,9 4 Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Điều tra về các doanh nghiệp nhỏ và vừa”,2002. 27
  29. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - -Trong nuớc 53,2 51,9 50,4 49,5 48,9 -Hộ KD cá thể và trang trại 35,9 35,0 34,2 33,4 33,1 -Tư nhân chính thức 7,75 7,7 7,5 7,5 7,2 -Tập thể 9,7 9,1 8,7 8,5 8,6 -Đầu tư nước ngoài 6,7 7,3 8,2 9,2 10,4 Tổng cộng 100 100 100 100 100 Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2001, NXB. Thống kê, Hà Nội, 2002 Do số lượng SME tăng nhanh nên mặt hàng phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội, tính cạnh tranh tăng lên làm cho chất lượng hàng hoá và dịch vụ được nâng cao, thị trường sôi động hơn. SME còn góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế như tài nguyên, lao động, vốn thị trường, đặc biệt là tay nghề tinh xảo và truyền thống dân tộc. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân có ý nghĩa rất quan trọng trong vấn đề tạo công ăn việc làm, hiện nay khu vực này hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và vừa với số lượng ước tính khoảng 70.000 doanh nghiệp có đăng ký (Trong số này bao gồm các loại hình như: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, công ty cổ phần và công ty hợp danh) và 2,1 triệu hộ kinh doanh51. Một thức tế tồn tại là những quy chế, chính sách không rõ ràng, khó khăn trong tiệp cận vốn, công nghệ và thị trường đã hạn chế tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân. Vì vậy, đóng góp của doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam vào việc tăng số lượng việc làm mang ý nghĩa rất quan trọng, vì khoảng 64,8% tổng số lao động được trả lương (không kể lao động trong các tổ chức hành chính, sự nghiệp) được tạo ra bởi khu vực này. Con số này thật đáng kể nếu so với con số 22,5% lao động được tạo ra bởi khu vực kinh tế nhà nước (Xem biểu đồ 2.2). 5 Nguồn: Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam,2002 28
  30. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - BiÓu ®å 2.2: Tû lÖ lao ®éng ®−îc tr¶ l−¬ng trong khu vùc s¶n xuÊt n¨m 1993 - 1998 (%) 80 74.61 70 60 50 47.3 40 1993 30 22.5 1998 20 17.3 17.5 12.5 10 7.1 0.19 0.24 0.8 0 SOE Hîp t¸c x· Doanh nghiÖp t− Hé kinh doanh Doanh nghiÖp cã nh©n vèn ®Çu t− n−íc ngoμi Nguồn: Tổng cục thống kê: Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997-1998, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2001. Nếu xét từ góc độ tạo việc làm trên tổng số lao động thì hộ kinh doanh cá thể chiếm ưu thế trong khu vực kinh tế tư nhân (30,4%), nhưng đóng góp của chúng có xu hướng giảm vì số việc làm được tạo bởi cơ sở kinh doanh thuộc loại hình này rất ít. Tuy đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân chính thức vào GDP còn thấp (khoảng7.31% tập trung chủ yếu vào khối công nghiệp và dịch vụ), nhưng khu vực này lại tiềm tàng khả năng tạo nhiều công ăn việc làm hơn. Số liệu thống kê sơ bộ về thực trạng lao động ở Việt Nam năm 2001 cho thấy xu thế tương tự khi phân nhóm dân số từ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên theo ngành kinh tế và khu vực thành phần kinh tế (xem bảng 2.7): Bảng 2.7: Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên chia theo ngành kinh tế và khu vực thành phần kinh tế (năm 2001): Ngành kinh tế Đ.vị Tổng số Thành phần kinh tế quốc dân N.nước Tập thể Tư nhân và Cá thể Vốn hỗn hợp Đ.tư N.ngoài 29
  31. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Tổng số Người 3.769.151 6.144.862 1.361.376 26.048.291 353.750 -Trong đó: % 100 10 16,31 3,61 69,14 0,94 1. N.nghiệp, lâm Người 23.654.058 279.478 5.916.336 165.396 17.279.805 13.026 nghiệp và thuỷ sản % 62,78 0,74 15,70 0,44 45,86 0,03 2. Các ngành nghề Người 13.880.937 3.488.976 226.114 1.173.101 8.652.566 340.189 khác(phi N.nghiệp) % 37,22 9,26 0,61 3,17 23,28 0,91 Tỷ lệ LĐ ngành % 100 24,8 1,65 8,55 62,55 2,45 nghề phi N.nghiệp Nguồn: Ban chỉ đạo điều tra việc làm Trung ương: Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra lao động – việc làm, ngày 1/7/2001. Một vai trò nữa rất quan trọng của SME là làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn. Do số lượng doanh nghiệp tăng lên rất lớn nên động lực cạnh tranh làm cho nền kinh tế thêm năng động và hiệu quả. Hơn nữa, các doanh nghiệp này có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và hướng kinh doanh một cách nhanh chóng. Ngoài ra, do có nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một số mặt hàng nên sẽ giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế: khi một doanh nghiệp đổ vỡ thì có các doanh nghiệp khác thay thế. Mặc dù khái niệm “Doanh nghiệp nhỏ và vừa” mới được xuất hiện ở Việt Nam sau thời kỳ đổi mới (năm 1986) song khu vực này đã phát triển với số lượng rất nhanh (Từ một số lượng không đáng kể là 4.000 doanh nghiệp có đăng ký chính thức lên tới trên 70.000 doanh nghiệp trong vòng một thập kỷ)6, đóng góp đáng kể cho GDP nói chung và ngành xuất khẩu nói riêng. Phát triển SME, làm cho số lượng doanh nghiệp tăng lên, làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro, đồng thời tăng số lượng chủng loại hàng hoá, thoả mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Nhà nước ta chủ trương thực hiện công nghiệp hoá, coi trọng công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn; SME với mạng lưới rộng khắp đã có truyền thống gắn bó với nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nông thôn 6-Nguồn: Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam : “Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ” (TS.Phạm Thị Thu Hằng) 30
  32. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - phát triển, sẽ hình thành những tụ điểm, cụm công - nông nghiệp để tác động chuyển hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế như vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế để góp phần cải thiện cán cân thương mại Việt Nam trong thời gian qua, SME đã không ngừng tham gia kinh doanh xuất khẩu nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực này nói riêng và cả nước nói chung. Để đạt được những kết quả đó, là sự nỗ lực của mỗi bản thân các doanh nghiệp, kết quả đó được thể hiện dưới đây. 3.2-Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đối với ngành xuất khẩu Tuy gặp phải những cản trở không nhỏ trong việc thực hiện mở rộng hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhưng SME cũng đóng góp một phần tích cực vào sự nghiệp phát triển ngoại thương Việt Nam. Từ năm 1997- 2001, xuất khẩu của SME tăng rất nhanh và nhanh hơn rất nhiều so với các DNNN, trong hai năm 1998-1999, xuất khẩu không phải dầu thô của các DNNN tăng là 4,6%, thì SME tăng 72,5%. Do đó, mặc dù quy mô nhỏ, nhưng khu vực SME trong nước đã chiếm tỷ lệ 39,1% tăng trưởng xuất khẩu không phải dầu thô của giai đoạn này. Cụ thể sự đóng góp của SME vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam được thể hiện dưới đây: BẢNG 2.8:TỶ LỆ ĐÓNG GÓP CỦA SME VÀO TĂNG TRƯỞNG XUẤT KHẨU KHÔNG KỂ DẦU THÔ GIAI ĐOẠN 1997-2001. 1997 2001 Tăng XK Tỷ lệ đóng góp Tr USD Tr USD của 2 năm vào tăng trưởng (%) XK(%) DNNN 5.207 5.260 4,6 13,7 DN FDI 1.790 2.590 44,7 47,2 (khu chế xuất) 292 581 98,8 17 SME 915 1.578 72,5 39,1 Tổng số 7.732 9.428 21,9 100 Nguồn: Kết quả hoạt động xuất khẩu và dự báo năm tiếp theo. Theo báo cáo không chính thức của Ngân hàng thế giới, TP Đà Lạt, 2002. 31
  33. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Xuất khẩu của khu vực SME tăng mạnh mặc dù đầu tư năm 1997 giảm mạnh (xem sơ đồ 2.3), theo các nhà quản lý của SME định hướng xuất khẩu, điều này đạt được là do đầu tư trong những năm qua 1996-1997 đã dẫn đến việc dư thừa công suất vào năm 1998-1999, khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nổ ra. Do đó, tăng xuất khẩu trong những năm 1999 một phần lớn là do mức sử dụng công suất hiện có cao hơn. Các công ty cũng cho biết đã chuyển hướng khỏi việc xuất qua trung gian sang xuất khẩu trực tiếp (FOB) với giá trị tăng cao hơn hẳn. Xuất khẩu FOB tăng từ 30% trong tổng xuất khẩu năm 1998 lên 50% năm 1999. Hầu hết số xuất khẩu trực tiếp này là sang các thị trường mới thường là Châu Mỹ-Lating và Đông Âu. Giá trị gia tăng theo xuất khẩu FOB cao hơn hẳn so với xuất khẩu theo hình thức gia công, nhưng rủi ro cũng cao hơn do SME phải tự tìm kiếm khách hàng cho mình. Như đã trình bày ở trên tình hình đầu tư trong những năm qua đối với khu vực SME giảm rất mạnh vào năm 1997 (giảm 3,7%) và tăng dần vào những năm tiếp theo 1998 (2,5%) năm 1999 (2,4%). Điều này được thể hiện một cách rõ nét nhất dưới sơ đồ sau: SƠ ĐỒ 2.3: TỐC ĐỘ TĂNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG KHU VỰC SME NĂM 96-99 6.00% 4.00% 3.90% 2.00% 2.50% 2.40% 0.00% -2.00% -4.00% 1996 -3.70% 1999 1997 1998 -6.00% Nguồn: Theo báo cáo không chính thức của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, 6/2000 Bên cạnh đó, những cải cách nhằm mở rộng quyền thương mại và khả năng tiếp cận với thị trường xuất khẩu cho phép SME của Việt Nam đã có tác 32
  34. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - dụng tăng xuất khẩu trong thời gian qua. Nếu tiếp tục có những cải cách nhằm hỗ trợ tự do hoá khu vực SME và nếu khả năng tiếp cận bình thường với tất cả các thị trường trên thế giới được mở rộng, SME sẽ tiến hành đầu tư giúp duy trì tăng trưởng xuất khẩu cao cho Việt Nam. Hiện nay, SME tuy không chiếm một tỷ lệ lớn trong giá trị xuất khẩu, nhưng lại có một vị trí không kém phần quan trọng trong hoạt động xuất khẩu thông qua vai trò cung cấp nguồn hàng cho các công ty kinh doanh xuất khẩu, tạo ra công ăn việc làm đáng kể trong lực lượng lao động nhàn rỗi. Về cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Nhìn vào cơ cấu của các thành phần kinh tế trong GDP, có thể thấy các mặt hàng xuất khẩu chính của SME hiện nay bao gồm chủ yếu các loại hàng, nhóm hàng sau: - Hàng nông lâm, thuỷ hải sản chế biến và chưa chế biến. - Hàng thủ công, mỹ nghệ (đồ gỗ trạm, khắc, hàng thêu ren, mây tre, hàng mỹ nghệ, lụa tơ tằm ) - Hàng công nghiệp nhẹ (giày dép, may mặc, thảm ) Thật vậy, tuy chưa có sự thống kê riêng rẽ về tỷ lệ xuất khẩu các ngành hàng xuất khẩu của khu vực SME nhưng để chứng minh cho điều đó tôi xin được sử dụng số liệu của cuộc điều tra khảo sát được tiến hành thực hiện giữa Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) và Chương trình phát triển Dự án Mêkông (MPDF). Qua số liệu điều tra tại 457 SME đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp này xuất khẩu chiếm 3/4 sản lượng của mình (xem bảng 2.9). Điều này có nghĩa là SME đã định hướng xuất khẩu mạnh hơn các DNNN. BẢNG 2.9: CƠ CẤU HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA CÁC SME. Hàng hoá xuất khẩu Tỷ lệ xuất khẩu/tổng số lượng (%) Các sản phẩm da 85 Hàng may mặc 80,5 Chế biến gỗ 75,1 Cao su nhựa 75 33
  35. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Các sản phẩm phi kim loại 73,2 Thực phẩm đồ uống 63,2 Các sản phẩm hoá chất 20 Các sản phẩm khác 74,4 Nguồn:Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM),2002 Mặc dù, với số lượng 475 doanh nghiệp được chọn làm mẫu chiếm tỷ lệ không lớn so với số lượng SME trong khu vực hiện nay, nhưng kết quả thông qua cuộc khảo sát đã phản ánh phần nào về cơ cấu hàng hoá kinh doanh xuất khẩu của SME ở Việt Nam. Điều đáng lưu ý trong trường hợp hải sản có thể coi là đại diện cho những ngành hàng xuất khẩu của SME. Bảng 2.10, cho thấy rằng về hải sản khu vực quốc doanh chiếm phần lớn 73% xuất khẩu năm 2001 nhưng xuất khẩu của khu vực này lại tăng chậm hơn khu vực SME: 14% so với trên 50% của khu vực SME. Điều đó khẳng định rằng mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của SME ngày càng có hiệu quả trong công tác xuất khẩu. BẢNG 2.10: XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA SME GIAI ĐOẠN 1999 - 2002 Loại hình Doanh Gia tăng xuất Xuất khẩu Tỷ trọng nghiệp khẩu (%) tăng trưởng(%) 1999(%) DNNN 50,6 14,6 73,0 DN FDI 3,4 50 1,9 SME 46 50,7 25,1 Tổng số 100 22,5 100 Nguồn: Theo báo cáo không chính thức của Ngân hàng thế giới, TP Đà Lạt, 2002 Nhìn chung, hàng hoá mà SME kinh doanh xuất khẩu hiện nay chủ yếu là những mặt hàng cần ít vốn và công nghệ đơn giản, nhưng cần nhiều lao động. Giá trị gia tăng của một số mặt hàng không cao, nhưng điều quan trọng là việc 34
  36. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - sản xuất và tiêu thụ những mặt hàng này đã mang lại công ăn việc làm và thu nhập cho người sản xuất, mà phần lớn là các hộ kinh tế gia đình. Những mặt hàng do SME sản xuất có đặc điểm chung là sản phẩm của quy trình sản xuất nhỏ, sử dụng máy móc, kỹ thuật lạc hậu, thô sơ, tốn nhiều sức lao động. Gần đây nhờ quá trình cải cách kinh tế mở cửa, SME đã có mặt hàng sản xuất mang tính công nghiệp, nhưng thuộc loại công nghệ chưa thật cao và còn sử dụng nhiều lao động. Nhưng số SME có khả năng tiếp cận với loại hình này còn ít. Do vậy, trừ những mặt hàng sản xuất theo quy trình công nghiệp như dệt may, giày dép Thì quy cách phẩm chất của các hàng hoá nhìn chung không đồng đều, không ổn định, đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ, hàng mang tính chất nghệ thuật dân gian. Đặc điểm của hàng hoá, sản phẩm của khu vực SME tạo ra thường kém sức cạnh tranh trên thị trường, chi phí sản xuất cao, khó có thể thay đổi mẫu mã thường xuyên. Bản thân SME cũng khó thu thập thông tin về hàng hoá trên thị trường. Còn đối với những hàng hoá sản xuất công nghiệp như dệt may, giày dép thì hàng hoá thay đổi nhanh chóng theo mẫu mốt và thay đổi theo thị hiếu người tiêu dùng, mà các doanh nghiệp lại thiếu nguồn thông tin và cơ hội tiếp xúc với thị trường bên ngoài, hoặc là thiếu những kỹ năng thiết kế hàng hoá hiện đại. Nhưng loại hàng này, họ thường thụ động sản xuất theo mẫu mã, quy cách phẩm chất do khách hàng đưa ra. Với những đặc điểm trên đã làm cho hàng hoá của SME có khả năng cạnh tranh kém trên thị trường quốc tế, các mặt hàng có khả năng cạnh tranh kém là đó là những mặt hàng chế biến thực phẩm, hàng may mặc, sản phẩm nhựa, hàng nội thất, sản phẩm làm từ gỗ, đồ da và đồ gốm. Nói cách khác, tính cạnh tranh xem ra rất kém ở những ngành hàng đòi hỏi công nghệ cao, điều này phản ánh một hiện thực là phần lớn SME vẫn chưa sẵn sàng cạnh tranh với các doanh ngiệp nước ngoài một khi các doanh nghiệp này tham gia hội nhập khu vực và toàn cầu. Tin tưởng vào khả năng kinh doanh của người trực tiếp sản xuất, tin tưởng vào khả năng hợp tác, đoàn kết của họ trong hiệp hội mang tính tự nguyện để 35
  37. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - xoá bỏ cơ chế xuất khẩu có thể sẽ tạo điều kiện cho SME tăng cường khả năng xuất khẩu của mình nói riêng và cải thiện cán cân thương mại Việt Nam nói chung. II- LỢI THẾ VÀ THỰC TRẠNG HỖ TRỢ XUẤT KHẨU CỦA CÁC SME Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 1. Những lợi thế của SME so với các doanh nghiệp khác ở Việt Nam trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại và nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và sự thay đổi của kinh tế thị trường. SME có thể bước vào những thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn. Nó sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất, hoặc ở những khoảng trống vừa và nhỏ của thị trường, nơi mà các doanh nghiệp lớn thường không mấy quan tâm, bởi vì các doanh nghiệp lớn này thường chỉ chú ý đến marketing với khối lượng lớn. SME là loại hình sản xuất lấy quyền sở hữu phân tán thay cho địa điểm sản xuất tập trung, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ, do vậy nó có nhiều điểm mạnh: - Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường: SME chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt hàng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp. Vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng, tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hoặc doanh nghiệp gặp khó khăn, thì dễ dàng thay đổi tình thế nội bộ dễ thống nhất. - Dễ phát huy bản chất hợp tác: SME thường chỉ tiến hành một vài công đoạn của quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà công đoạn sản xuất thì cần phải kết hợp với nhau để tạo thành một sản phẩm hoàn chỉnh mới có thể xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến SME phải cung ứng đầu vào cho các doanh nghiệp lớn để sản xuất hàng xuất 36
  38. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - khẩu, do đó, để tham gia xuất khẩu trực tiếp SME phải tự hoàn thiện bản thân mình và phải tiến hành hợp tác sản xuất, nếu không sẽ bị đào thải. - Thu hút nhiều lao động, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp.: SME do nguồn vốn ít, vì vậy đầu tư vào tài sản cố định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là ở những nước có lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công thấp như ở nước ta, để tiến hành sản xuất kinh doanh phục vụ dân sinh, và họ thường đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Khai thác được lợi thế so sánh của đất nước đã tạo điều kiện cho SME hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Có thể duy trì tự do cạnh tranh: SME thường không có tình trạng độc quyền, họ dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phát huy mọi tiềm lực, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho SME tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Có thể phát huy tiềm lực thị trường trong nước: Phát triển SME ở giai đoạn đầu là phương thức tốt nhất để sản xuất một số mặt hàng thay thế nhập khẩu với mức chi phí và vốn đầu tư thấp, phù hợp với sức mua của khách hàng trong nước cũng như quốc tế. SME còn có khả năng tận dụng lợi thế so sánh về giá nhân công rẻ để lắp ráp, chế biến, gia công, sản xuất hàng xuất khẩu, ở những mặt hàng và lĩnh vực mà SME có khả năng xuất khẩu. - Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng và sự năng động trong kinh doanh xuất khẩu: SME có thể phát triển ở khắp mọi nơi, mọi vùng của đất nước, lấp vào khoảng trống và thiếu vắng của các doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng, tận dụng được lợi thế so sánh về tài nguyên, vị trí địa lý, lao động của đất nước, tạo ra sự năng động trong nền kinh tế phù hợp với tiến trình hội nhập trong thời gian tới. Đây là một chiến lược kinh tế xã hội quan trọng của đất nước. - Doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi đào luyện các nhà doanh nghiệp, và là cơ sở kinh tế ban đầu để phát triển thành doanh nghiệp lớn hoạt động xuất khẩu. Qua thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, một mạng lưới SME trên khắp mọi 37
  39. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - miền của đất nước đã đào tạo và sàng lọc các nhà doanh nghiệp. Có thể nói đây là trường đào tạo nhà doanh nghiệp hữu hiệu nhất. Mặt khác, quá trình phát triển SME cũng là quá trình tích tụ vốn, tìm kiếm mở mang thị trường để phát triển thành doanh nghiệp lớn hoạt động có hiệu quả hơn trong kinh doanh xuất khẩu. Nhìn lại lịch sử, hầu hết các doanh nghiệp lớn ở các nước phát triển đều trải qua quy mô nhỏ và vừa, trừ một số doanh nghiệp lớn của nhà nước. Với những lợi thế trên đây, hy vọng rằng trong tương lai SME ngày một phát triển và trở thành những doanh nghiệp lớn không ngừng tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất nước phục vụ thành công con đường công nghiệp hoá mà Đảng và nhà nước đã đề ra. 2. Thực trạng hỗ trợ xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. Trong hệ thống thống kê của Việt Nam hiện nay chưa có thống kê chi tiết các hoạt động của SME trong nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như trong hoạt động ngoại thương nói riêng. Mặc dù thống kê chưa cho phép tách biệt hoạt động thương mại giữa hai khu vực quốc doanh và (chủ yếu là các doanh nghiệp SME, nhưng thực tế cho thấy các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hiện vẫn chiếm ưu thế trong hoạt động xuất khẩu. Bởi chế độ độc quyền ngoại thương trước đây đã tồn tại trong một thời gian dài trong nền kinh tế đã phần nào cản trở SME tham gia vào các hoạt động xuất khẩu. Hơn nữa, các DNNN vẫn có ưu thế trong các ngành xuất khẩu, xuất phát từ những ưu thế về vốn, kỹ thuật, lao động và kinh nghiệm maketing. Ngày 31/7/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 57/NĐ-CP hướng dẫn thi hành chi tiết Luật thương mại. Theo Nghị định này, kể từ ngày 1/9/1998 các doanh nghiệp Việt Nam được kinh doanh xuất khẩu theo nội dung Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà không bị yêu cầu phải có giấy phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Tuy vậy, vẫn có nhiều SME phải tiến hành các hoạt động xuất khẩu thông qua các DNNN. 38
  40. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Việc ban hành nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 (sau đây được gọi tắt là Nghị định 90) nhằm trợ giúp phát triển cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã đáp ứng kịp thời cho sự phát triển của khối doanh nghiệp này. Nghị định được xây dựng với một loạt biện pháp hỗ trợ như: Khuyến khích đầu tư, thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ mặt bằng sản xuất, hỗ trợ thị trường và tăng khả năng cạch tranh, hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu, hỗ trợ về thông tin, tư vấn đào tạo nguồn nhân lực. Về tổ chức xúc tiến phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nghị định 90 quy định việc thành lập 3 cơ quan của Chính phủ: Cục xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, trung tâm hỗ trợ kỹ thuật tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hội đồng khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa với sự tham gia của đại diện cơ quan nhà nước, các tổ chức đại diện doanh nghiệp và các chuyên gia. Hội đồng này có nhiệm vụ tư vấn cho Chính phủ về cơ chế, chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nghị định doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay chỉ đưa ra biện pháp khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa chung, mà chưa ra biện pháp , mô hình hỗ trợ cụ thể, đòi hỏi việc tiếp tục đầu tư nghiên cứu và thử nghiệm. Mặc dù mới được ban hành nhưng công việc chuẩn bị soạn thảo Nghị định này cũng có những động tác nhất định đến sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cho đến nay, phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa đều tỏ ra lạc quan về kết quả kinh doanh trong tương lai. Kết quả điều tra cho thấy, có 85,1% số doanh nghiệp nhỏ và vừa được điều tra hy vọng công việc kinh doanh của mình sẽ ở mức tạm được hoặc tốt. Trong số 25,5% các doanh nghiệp hy vọng công việc sẽ tốt và rất tốt có 47,4% ý kiến nhấn mạnh đến tầm quan trọng của môi trường kinh doanh tốt nói chung 7. Nghị định doanh nghiệp nhỏ và vừa thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các thành phần kinh tế nói chung và với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. 7Điều tra của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam,2002 39
  41. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - 2.1- Khó khăn chính mà SME gặp phải trong hoạt động xuất khẩu. Qua các chính sách, biện pháp hỗ trợ của Chính phủ cho SME trong thời gian qua kết hợp với tình hình xuất khẩu được trình bày ở trên, có thể rút ra những khó khăn chính mà SME gặp phải như sau: a) Khó khăn về vốn hoạt động: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn gặp khó khăn về vốn, đặc biệt là vốn để đổi mới công nghệ, cơ sở vật chất, vốn để thực hiện hợp đồng xuất khẩu đã ký kết. Mặc dù việc xây dựng chính sách tín dụng của Nhà nước ta phần nào đã dựa trên nhận thức vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ, song kết quả các cuộc khảo sát gần đây cho thấy khó khăn về vốn vẫn SME coi là cản trở cơ bản trong phát triển doanh nghiệp. Những cản trở chính cho việc cung cấp tín dụng đó là: Trước hết, theo luật định mọi khoản vay đều phải có yêu cầu về tài sản thế chấp. Đối với SME đây là khó khăn hàng đầu trong quá trình tiếp cận các nguồn tín dụng. Tại tỉnh Thừa thiên- Huế, số doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng chiếm 98% tổng số, nhưng tỷ lệ này chỉ còn lại 57,6%khi yêu cầu có tài sản thế chấp1. Để giải quyết vấn đề tài sản thế chấp cho SME, Ngân hàng Công thương Việt Nam và tỉnh Bắc Giang đã tiến hành thí điểm “Quỹ tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ”. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về SME đã quyết định thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho SME, Quy chế hoạt động của Quỹ này được ban hành bằng Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/12/2001. Thứ hai, hoạt động có hiệu quả là nguyên tắc của bất cứ Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng nào. Theo nguyên tắc đó, các ngân hàng thương mại thường ngần ngại trước các khoản tín dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một phần do ngân hàng phải gánh chịu chi phí giao dịch mà họ cho rằng không tương xứng khi cho SME vay so với khi cho các doanh nghiệp lớn vay, mặt khác rủi ro trong kinh doanh của SME cũng khá cao. Thứ ba, trong khi ưu tiên dành cho SME còn rất hạn hẹp thì những quy định về đảm bảo tiền vay lại có khuynh hướng hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước – Những doanh nghiệp có quy mô lớn, hơn là hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân 40
  42. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - đa số có quy mô nhỏ. Các doanh nghiệp nhà nước nếu được cơ quan chủ quản bảo lãnh sẽ được phép vay tiền mà không cần tài sản thế chấp, do vậy họ sẽ được các tổ chức tín dụng quan tâm nhiều hơn. Nguồn tín dụng ưu đãi dành cho SME giải ngân qua các ngân hàng thương mại, do vậy lượng tín dụng này được đổ vào các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả nhưng có quan hệ tốt với nhân viên ngân hàng và cơ quan quản lý. Mặt khác, do không được khuyến khích cũng như không bị bắt buộc phải cho SME vay, các ngân hàng và các tổ chức tín dụng không có những nỗ lực tuyên truyền kinh doanh để tăng những khoản vay cho SME. Trong thời gian gần đây, một số ngân hàng đã nhận thức được tiềm năng của khối doanh nghiệp này nên đã bước đầu xây dựng chương trình tín dụng riêng cho khu vực này (Ví dụ: Tháng 10/2001, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã quyết định thành lập Chương trình tín dụng cho SME với tổng số vốn là 500 tỷ đồng). Ví dụ thực tiễn: Vụ án Minh phụng là một vụ án tham nhũng trong đó một tập đoàn tư nhân lớn và một số cán bộ tín dụng của một số ngân hàng thương mại nhà nước thông đồng với nhau để nhận những khoản vay bất hợp pháp mặc dù doanh nghiệp đang trong tình rạng không có khả năng chi trả. Vụ án đã gây thiệt hại trên 4000 tỷ đồng – Một khoản tiền đủ để cung cấp khoản tín dụng mơ ước 100.000.000 đồng cho 40.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mức độ nghiêm trọng của vụ án còn được nhân lên gấp nghìn lần bởi nó đã diễn ra trong bối cảnh: - Tại thời điểm xảy ra vụ án, sau 10 năm đổi mới (1998), trên cả nước Việt Nam chỉ có 40.000 doanh nghiệp tư nhân có đăng ký chính thức. - Chỉ có 58% các doanh nghiệp tư nhân được thành lập sau năm 1990 có vốn đầu tư ban đầu trên 100.000.000 đồng. - Chỉ có 6% số doanh nghiệp vừa và nhỏ vay được vốn đầu tư ban đầu từ ngân hàng. - Mọi khoản vay trên 3.000.000 đồng trong chương trình xoá đói giảm nghèo đều được yêu cầu phải có tài sản thế chấp. 41
  43. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Cuối cùng, một trong những điều kiện của bất kỳ khoản vay nào là doanh nghiệp phải có luận chứng khả thi. Trong khi khả năng xây dựng luận chứng khả thi của SME còn yếu thì dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh ở Việt Nam lại chưa được phát triển. Các nhân viên tín dụng thường chỉ chú ý vào tài sản thế chấp đã tạo nên thói quen coi thường chất lượng của luận chứng khả thi. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng khó tiếp cận với việc vay vốn từ các nguồn tài chính do những khó khăn và chi phí cho những thủ tục không rõ ràng, những quy định ngặt nghèo của chính sách tín dụng. Những chi phí đó có thể là: - Chi phí cơ hội - Chi phí công chứng tài sản thế chấp - Giá trị tài sản thế chấp bị ngân hàng đánh giá thấp so với giá thị trường. Điều này khiến cho SME không vay đủ số tiền cần thiết và phải tìm nguồn vay khác, do đó phải chi phí nhiều hơn cho các thủ tục thêm nay. Trong trường hợp mất khả năng thanh toán, khi phát mại, giá của tài sản thế chấp còn bị ép xuống tiếp gây thêm thiệt hại không nhỏ cho SME. - Ngân hàng không chịu các khoản “môi giới tín dụng” . Các khoản này do doanh nghiệp phải chịu, mặc dù trên nguyên tắc SME là khách hàng, người đã mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. - Các khoản chi phí tư vấn lập luận chứng khả thi - Các khoản phí bồi dưỡng cán bộ của các tổ chức tín dụng khi thanh tra tình hình hoạt động của doanh nghiệp và tiến độ trả nợ. Mặc dù lãi suất hàng tháng hiện nay khoảng từ 0,8-1,0% song các chi phí tín dụng khác không chính thức khác cộng lại đã vượt quá mức chịu đựng của SME. Điều này đã dẫn đến việc doanh nghiệp thường hạn chế hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn của mình. Đối với SME nguồn vốn từ bạn bè và gia đình dường như là phổ biến và dễ tiếp cận hơn cả (Xem bảng 2.11). Điều này càng cho thấy sự không tin tưởng của SME vào khả năng thành công khi tiếp cận các nguồn tài chính từ các ngân hàng. Mặt khác nó cũng cho thấy sự bất cập của chính sách tín dụng đối với sự phát triển của SME. 42
  44. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Bảng 2.11: Nhu cầu tín dụng và khả năng tiếp cận các nguồn tài chính Đơn vị: % Các nguồn vốn nói chung: 54,5% Tỷ lệ DN thử tiếp Tỷ lệ DN thành Trong đó: cận nguồn vốn công khi tiếp cận 1- Ngân hàng nhà nước và tư nhân 24,7 20,2 2- Quỹ tín dụng của Chính phủ 8,7 7,1 3- Dự án quốc tế 1,9 1,3 4- Bạn bè và gia đình 38,8 38,5 5- Cá nhân cho vay lấy lãi 11,2 10,6 6- Các nguồn khác 2,6 1,9 Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Báo cáo điều tra doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ năm 2001. Dường như các doanh nghiệp cực nhỏ dễ tiếp cận hơn với các khoản tín dụng trong chương trình xoá đói giảm nghèo. Nhưng trong các chương trình này, các đối tượng đi vay phần lớn là những hộ nghèo chứ không phải là các hộ kinh doanh . Sự hiện diện của Quỹ tạo việc làm cũng rất lu mờ. Chỉ có 6,7% số doanh nghiệp có quan hệ với quỹ này, trong đó các yếu tố về thời gian, thông tin, chi phí và yêu cầu báo cáo có ảnh hưởng tiêu cực hơn cả so với các yếu tố khác. Theo báo cáo, 2/3 nguồn quỹ này được phân bổ chủ yếu cho nông thôn với các hoạt động chăn nuôi, tiểu thủ công - Điều tra các doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam năm 2001 cho thấy: Tỷ lệ SME có đăng ký với Quỹ chỉ chiếm 1,7% số SME ở nông thôn, trong khi ở thành phố tỷ lệ này là 9,7%. b) Khó khăn về tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Đa phần các doanh nghiệp xuất khẩu đều phải tự tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Trong khi đó, Nhà nước mới bắt đầu hình thành một hệ thống xúc tiến thương mại hoàn chỉnh, mang tính quốc gia để hỗ trợ doanh nghiệp từ khâu nghiên cứu phong tục, tập quán kinh doanh đến việc xúc tiến bán hàng tại các thị 43
  45. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - trường trên thế giới. Hệ thống chuyên cung cấp thông tin về thị trường trong và ngoài nước phục vụ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu do Nhà nước cung cấp hiện nay còn mang tính chất rời rạc, không đáp ứng được nhu cầu của SME kinh doanh xuất khẩu. Qua số liệu điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam vừa qua ở Hà Nội, Hải Phòng và Đồng Nai thì có tới 26,4% số doanh nghiệp tư nhân và công ty tư nhân trong tổng số doanh nghiệp và 37,6% số công ty tư nhân trong tổng số công ty tư nhân gặp khó khăn về thị trường. Còn ở miền Đông Nam Bộ, theo điều tra của Bộ Lao động- Thương binh và xã hội thì có 44,4% số doanh nghiệp nhỏ và 29,2% số doanh nghiệp vừa gặp phải khó khăn về thị trường. Trong định hướng phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 của Bộ Thương mại (tháng11/2000) đã đưa ra nhận định: Bước vào thời kỳ 2001-2010, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải thiện đáng kể, thị trường xuất khẩu được mở rộng. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, GDP bình quân đầu người năm 2000 mới đạt gần 400 USD. Cơ cấu kinh tế và trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu, khả năng còn thấp ở cả cấp độ quốc gia, doanh nghiệp lẫn sản phẩm. Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất, ngành hàng chưa bám sát được thị trường thế giới nên nhiều sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Khả năng cạnh tranh của nhiều hàng hoá còn thấp do giá thành cao, chất lượng còn kém, mẫu mã chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Đầu tư vào khâu nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ chưa thoả đáng. Tỷ trọng hàng thô và sơ chế biến trong khâu suất khẩu còn khá cao. Trong số sản phẩm chế biến, hàng gia công còn chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí tuệ cao còn rất nhỏ. Xuất khẩu dịch vụ còn thấp xa so với tiềm năng. Sự hiểu biết về thị trường ngoài còn hạn chế. Nhà nước chưa cung cấp được thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp. Đối với một số thị trường, hàng xuất khẩu của SME còn phải qua một số khâu trung gian. Việc hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới còn không ít lúng túng. Cho tới nay chúng ta vẫn chưa hình thành được 44
  46. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - chiến lược tổng thể, chưa có lộ trình giảm thuế và hàng rào phi quan thuế dài hạn. c) Khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông tin. Việc SME không thể tiếp cận với thông tin đang là một trở ngại chính đối với các hoạt động kinh doanh của họ. Như vậy, về cơ bản, thông tin về thị trường và đối tác cạnh tranh vẫn do SME tự chủ động tìm kiếm thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo, tạp chí, Hiệp hội sản phẩm, mạng Internet. Mức độ phổ cập của mạng Internet khiến tỷ trọng của thương mại điện tử tăng nhanh, qua đó thay đổi hẳn phương thức kinh doanh (theo số liệu của UNCTAD thì năm 1995, giá trị thương mại điện tử mới có 100.000 USD thì năm 1999 đã là 130 tỷ USD và năm 2002 lên tới khoảng 1.234 tỷ USD). Tuy nhiên, đa số SME của Việt Nam vẫn chưa khai thác được tiềm năng to lớn của lĩnh vực này. Số doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ về thông tin của các tổ chức nhà nước như Bộ Thương mại và Sở Thương mại chiếm tỷ lệ nhỏ, vả lại nội dung thông tin nghèo nàn, giá trị thấp, không cập nhật thường xuyên và lạc hậu so với sự biến động của thị trường, thêm vào đó là Nhà nước chưa thực sự quan tâm đến việc cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp xuất khẩu , chỉ chú trọng phục vụ đối tượng là các DNNN. d) Sự cản trở của các chính sách thương mại. Các chính sách thương mại trong thời gian qua đã thông thoáng hơn rất nhiều, nhưng một điều dễ nhận thấy rằng các quy chế này mới chỉ thông thoáng đối với các DNNN, còn SME nằm ngoài sự hỗ trợ này. Cũng có những tiến bộ nhất định trong quá trình nhận thức về vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển kinh tế qua quá trình hình thành chính sách thương mại. Trong một thời gian dài trước năm 1998 để thực hiện kinh doanh xuất khẩu, doanh nghiệp phải có vốn pháp định trên 200.000 USD, có cán bộ có đầy đủ trình độ nghiệp vụ về xuất nhập khẩu vv quy định này được bãi bỏ đã tạo điều kiện huy động nguồn lực của các doanh nghiệp nhỏ và thúc đẩy phát triển thương mại trong nước cũng như quốc tế. 45
  47. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Tuy vậy, các nhà hoạch định chính sách thương mại còn chưa nhận thức được vai trò của các doanh nghiệp vùa và nhỏ, điều đó thể hiện các ưu đãi chỉ danhc cho các doanh nghiệp lớn của Nhà nước. Khối doanh nghiệp này thường nhận được trợ cấp và tín dụng từ rất nhiều các quỹ khác nhau, trong khi đó các quỹ này được hình thành từ nguồn thuế đóng góp của tất cả các doanh nghiệp không phân biệt doanh nghiệp lớn hay nhỏ, doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân. Tình trạng như vậy cũng đã xảy ra với cơ chế khen thưởng xuất khẩu dành cho các doanh nghiệp có thu nhập xuất khẩu đạt 100.000 USD đối với mặt hàng mới hoặc thị trường mới mà các doanh nghiệp khác không thực hiện được. SME rất khó có thể đạt được mức doanh thu này với vốn nhỏ và năng lực hạn hẹp của mình. Mặc dù nhà nước cho phép tất cả các doanh nghiệp được tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, nhưng do năng lực quá hạn chế vì quy mô nhỏ nên cho đến nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như vẫn đứng ngoài hoạt động này. Cơ chế cấp hạn ngạch xuất khẩu hiện hành ở Việt Nam, hiện đang được thực hiện bằng cách phân phối trực tiếp cho một số doanh nghiệp hoặc qua đấu thầu (khoảng 20 đến 30% hạn ngạch xuất khẩu được phân bố theo hình thức đấu thầu). Tuy nhiên, cho dù được phép tham gia đấu thẩu thì khả năng thắng thầu đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như không có, nếu như không có sự hỗ trợ để nâng cao năng lực trước khi tham gia đấu thầu. e) Hạn chế trong các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước. Các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước đối với SME trong thời gian qua còn rất nhiều hạn chế (hỗ trợ về tài chính, trợ cấp xuất khẩu, các chính sách hỗ trợ về thuế, quy chế thương mại ), việc thực hiện các biện pháp này còn nhiều vướng mắc, các thủ tục hành chính còn phức tạp, nội dung hỗ trợ chưa phong phú nên đa số các doanh nghiệp chưa được hưởng các biện pháp hỗ trợ này. Trong thực hiện các chính sách ưu đãi và hỗ trợ còn thiếu thống nhất giữa các cơ quan Nhà nước dẫn đến nhiều thủ tục gây phiền hà cho SME. Nguy hiểm hơn là chưa có sự phối hợp và thống nhất giữa cơ quan chức năng trong việc giải 46
  48. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - quyết cho SME được nhận hỗ trợ. Điều này gây tâm lý hoang mang, không tin vào các biện pháp hỗ trợ do nghĩ rằng chi phí để nhận được sự hỗ trợ còn cao hơn. g) Khó khăn trong chuyển giao công nghệ: Ngày 1/7/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/1998/NĐ-CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên , chính sách chuyển giao công nghệ dường như vẫn chỉ tập trung vào việc quản lý hoạt động chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp nhà nước. Quy định về các giá ghi trong hợp đồng theo một khung giá nhất định chỉ phù hợp với các doanh nghiệp nhà nưóc dùng kinh phí từ ngân sách để phục vụ hoạt động chuyển giao công nghệ. Doanh nghiệp nhỏ và vừa yêu cầu tính linh hoạt cao hơn. Hơn nữa, khi hệ thống chứng từ và sổ sách kế toán ở các các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất nghèo nàn thì những quy định về căn cứ để áp dụng khung giá là không khả thi. Mô hình hiện tại trong chính sách về công nghệ về cơ bản chỉ tạo điều kiện cho việc ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ theo chiều ngang – theo đó, hoạt động chuyển giao công nghệ được tiến hành giữa các chủ thể kinh doanh bình đẳng về năng lực tài chinhs cũng như trình độ tiếp nhận, sử dụng công nghệ. Do đó, công nghệ được chuyển giao chủ yếu từ doanh nghiệp lớn cho doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp nhà nước dường như vẫn nhận được sự ưu ái hơn là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều này có ảnh hưởng bất lợi không nhỏ đối với khả năng cạnh tranh của SME Việt Nam trên thị trường thế giới. h) Khó khăn về trình độ kiến thức và kinh nghiệm ngoại thương của SME: Ngoài các khó khăn đã nêu trên thì trình độ kiến thức và kinh nghiệm về ngoại thương còn thấp cũng là một nguyên nhân quan trọng kìm hãm xuất khẩu của SME ở Việt Nam hiện nay. Trong giai đoạn trước đây xuất khẩu chủ yếu do các Tổng công ty đảm nhận, SME chỉ đảm nhận khâu sản xuất, do vậy họ không đủ thông tin về thị trường quốc tế cũng như thiếu hẳn kiến thức và đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu. Để có thể từng bước nắm được kinh nghiệm, nhiều doanh nghiệp đã phải trả giá trong việc giao dịch thương mại 47
  49. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - hoặc thuê các chuyên gia hoặc phải trả khoản chi phí cao cho các công ty môi giới. Điều này làm cho tình hình tài chính của SME đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Trên đây là những đánh giá, nhận xét sơ bộ về khó khăn trong công tác xuất khẩu của SME trong thời gian qua. Những hạn chế trên, làm cho kết quả xuất khẩu của SME còn rất khiêm tốn, nhỏ bé so với tiềm năng và triển vọng đang mở ra đối với SME . Sự cần thiết phải đẩy nhanh tốc độ và mở rộng quy mô xuất khẩu là đòi hỏi cấp bách và có thể thực hiện được, nếu trong thời gian tới, Nhà nước có những biện pháp hỗ trợ tích cực cho SME để tháo gỡ những khó khăn trên, tạo ra một môi trường thông thoáng cho hoạt động xuất khẩu. 2.2- Các chính sách hỗ trợ xuất khẩu đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: 2.2.1. Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu đối với SME. a) Chính sách hỗ trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung: Qua hơn 10 năm đổi mới với chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần, SME ở nước ta đã được Nhà nước quan tâm hỗ trợ về nhiều mặt, trong đó có sự hỗ trợ về tín dụng. Giống như rất nhiều nước đang phát triển trên thế giới, ở Việt Nam thị trường vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường được phân ra hai kênh cơ bản: đó là kênh tài chính chính thức và kênh tài chính phí chính thức. Luật Ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng cho phép đa dạng hoá các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Cho đến thời điểm hiện nay, hệ thống các tổ chức tín dụng này bao gồm các loại hình như: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, công ty tài chính, công ty thuê tài chính. Các ngân hàng quốc doanh gần như thống trị thị trường vốn vay. Bên cạnh việc mở rộng các kênh tiếp cận nguồn vốn do các tổ chức tín dụng huy động, Nhà nước còn tập trung nguồn vốn ODA và ngân sách Nhà nước 48
  50. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - để hình thành nên các Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khuôn khổ các chương trình mục tiêu Nhà nước. Thông thường, khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các loại hình doanh nghiệp khác phải tuân thủ những quy định do Luật Ngân hàng và Luật Các tổ chức tín dụng quy định. Nhưng quy định này khá rõ ràng và cụ thể mà các doanh nghiệp có thể xác định ngay là mình có thể vay được từ nguồn vốn này hay không. Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp hầu như không có nỗ lực gì vì họ biết là họ không có hy vọng tiếp cận được các nguồn vốn đó. Chẳng hạn những quy định như: doanh nghiệp phải có uy tín với ngân hàng ( điều này không thể có đối với doanh nghiệp lần đầu đi vay) hay điều kiện tiên quyết đó là doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp. Một mặt, doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn trong việc thế chấp tài sản ở Việt Nam do thị trường bất động sản kém phát triển. Mặt khác, việc xác định giá trị tài sản thế chấp hoàn toàn phụ thuộc vào phía ngân hàng do không có cơ quan nào có khả năng đánh giá giá trị của tài sản thế chấp do vậy tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng hạ thấp giá trị của tài sản thế chấp so với giá trị thực trên thị trường. Chính sách tín dụng ở Việt Nam phần nào đã cũng có sự quan tâm đến vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một loại quỹ hỗ trợ được thiết lập phục vụ các chương trình quốc gia cho thấy sự ưu đãi khác nhau xét theo quy mô, mặc dù tiêu chí để nhận ưu đãi còn có sự không rõ ràng và lẫn lộn. Các quỹ đó là: - Quỹ xoá đói giảm nghèo. - Quỹ tạo công ăn việc làm. - Quỹ hồi hương Việt - Đức. - Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ( SME DF). - Quỹ hỗ trợ phát triển. - Quỹ bảo lãnh tín dụng Các chương trình nói trên được triển khai bởi nhiều cơ quan khác nhau nên mỗi cơ quan đưa ra một tiêu chí khác nhau về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các trình tự vay vốn, cũng như các quy định để tiếp cận nguồn vốn này cũng khác nhau. 49
  51. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME DF) của Liên minh châu Âu đặt tiêu chí cho doanh nghiệp vừa và nhỏ được vay vốn là: có số công nhân là từ 10 đến 500 người và có vốn đăng ký từ 50.000 USD đến 300.000 USD tại thời điểm đăng ký8. Tiền được cho vay qua một số ngân hàng có cam kết đồng cung cấp tín dụng với Quỹ. Như vậy, ngay trong việc cung cấp tín dụng từ một quỹ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phải vay những lãi suất khác nhau do lãi suất cho vay của các Ngân hàng đồng cấp tín dụng nói trên khác nhau. Quỹ hồi hương của Đức được giải ngân thông qua Ngân hàng Công thương Việt Nam, đưa ra tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 500 người, giá trị tài sản dưới 10 tỷ đồng, số dư vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 tỷ đồng9. Con đường mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến với các nguồn tín dụng còn khá gian nan. Không có những ưu đãi riêng biệt nào so với các doanh nghiệp nhỏ và vừa về mặt thủ tục. Để tiếp cận các nguồn tín dụng, thông thường các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tiến hành những thủ tục tối thiểu do pháp luật quy định, bao gồm các bước cơ bản sau: - Lập kế họach kinh doanh (dưới dạng luận chứng khả thi) - Xác nhận doanh nghiệp thuộc đối tượng ưu đãi (nếu như có nhu cầu tiếp cận nguồn tín dụng ưu đãi) - Công chứng tài sản thế chấp - Định giá tài sản thế chấp - Lập hồ sơ vay vốn - Hoàn thành thủ tục giải ngân Để hỗ trợ về vốn cho các các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20 tháng 12 năm 2001 “Về việc ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bão lãnh tín dụng cho các các doanh nghiệp vừa và nhỏ ”. Quỹ bảo lãnh tín dụng do Uỷ ban nhân dân các (8) -Nguồn: Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam : “Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ” (TS.Phạm thị Thu Hằng),2002. 9- Nguồn: Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam : “Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ” (TS.Phạm thị Thu Hằng),2002. 50
  52. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập và quản lý để cấp bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quỹ được miễn nộp thuế và các khoản nộp Ngân sách nhà nước đối với hoạt động bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong quy chế này cũng quy định rõ: Quỹ bảo lãnh tín dụng là một tổ chức tài chính hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo hoàn vốn và bù đắp chi phí. Quỹ bảo lãnh tín dụng có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ, có bảng cân đối, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc nhà nước, các ngân hàng thương mại trong nước. Quỹ bảo lãnh tín dụng cấp bảo lãnh tín dụng cho các khách hàng là những đối tượng sau: 1/ Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được xếp vào loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy định của pháp luật. 2/Các hợp tác xã, liên hợp tác xã. 3/ Các hộ gia đình kinh doanh cá thể theo quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. 4/ Các chủ trang trại, các hộ nông dân, ngư dân thực hiện dự án nuôi thủy sản, đánh bắt xa bờ, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi Điều kiện được bảo lãnh tín dụng : - Có dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả vốn vay. - Có tổng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố tại tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật tối thiểu bằng 30% giá trị khoản vay. - Không có các khoản nợ đóng thuế, nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức kinh tế khác. Như vậy, việc thành lập các Quỹ bảo lãnh tín dụng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu cấp bách về vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay. b) Các chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài , nhiều doanh nghiệp thực hiện việc bán chịu và trả chậm, hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hoá với lãi xuất ưu đãi đối với người mua hàng nước ngoài. Việc bán hàngnhư vậy thường có những rủi 51
  53. Khoá luận tốt nghiệp Chuyên ngành Kinh tế Ngoại thương Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - ro ( rủi ro do nguyên nhân kinh tế hoặc chính trị) dẫn đến sự mất vốn. Trong trường hợp đó, để khuyến khích cac doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng băng cách bán chịu, Nhà nước đứng ra bảo lãnh, đền bù nếu như mất vốn. Tỷ lệ đền bù có thể lên đến 100% vốn bị mất, nhưng thường thì tỷ lệ đền bù khoảng 60 – 70% khoản tín dụng để các nhà xuất khẩu phải quan tâm dến việc kiểm tra khả năng thanh toán của các nhà nhập khẩu và quan tâm đến việc thu tiền bán hàng sau khi hết thời hạn tín dụng. Hiện nay ở VIệt Nam, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp . Nhà nước đứng ra bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu, còn nâng được giá bán hàng vì giá bán chịu bao gồm cả giá bán trả tiền ngay và phí tổn đảm bảo lợi tức. Đây là một hình thức khá phổ biến trong chính sách ngoại thương của nhiều nước để mở rộng xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường. Nhà nước thực hiện cấp tín dụng xuất khẩu: Nhà nước trực tếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền do mua hàng của nước cho vay. Nguồn vốn cho vay thường lấy từ ngân sách Nhà nước. Việc cho vay này thường kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị cho nước cho vay. Hình thức này có tác dụng: - Giúp cho doanh nghiệp thúc đẩy mạnh xuất khẩu vì có sẵn thị trường. - Các nước cho vay thường là những nước có tiềm lực kinh tế. Hình thức Nhà nước cấp tín dụng cho nước ngoài trên khía cạnh nào đó giúp các nước này giải quyết tình trạng dư thừa hàng hoá ở trong nước. Nhà nước ta chưa có vốn để cho nước ngoài vay với khối lượng lớn. Tuy nhiên, khi có điều kiện, Chính phủ không nên bỏ qua hình thức cấp tín dụng gắn với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của ta. Một vấn đề cần lưu ý ở đây là: nếu tiếp nhận vay của nước ngoài mà phải mua hàng của họ thì phải cân nhắc đến việc bảo hộ sản xuất nội địa, không vì mua hàng bằng vốn đi vay dẫn tới phá hoại sản xuất trong nước và những ràng buộc chính trị bất lợi. Nhà nước cấp tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp trong nước: 52