Tiểu luận Đánh giá chính sách tỷ giá ở Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Đánh giá chính sách tỷ giá ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tieu_luan_danh_gia_chinh_sach_ty_gia_o_viet_nam_hien_nay.doc
Nội dung text: Tiểu luận Đánh giá chính sách tỷ giá ở Việt Nam hiện nay
- TIỂU LUẬN “ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ” 1
- MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 B. NỘI DUNG 4 Chương I: Tỷ giá và thực trạng tỷ giá ỏ Việt Nam hiện nay 4 I. Khái niệm về tỷ giá hối đoái 4 1. Khái niệm 4 2. Vai trò của tỷ giá trong nền kinh tế 4 II. Thực trạng tỷ giá ở Việt Nam trong thời gian qua 5 1. Chính sách tỷ giá ở VN trong thời gian qua 5 2. Thực trạng ở Việt Nam trong thời gian qua 6 Chương II: Các hệ thống chế độ tỷ giá hối đoái 9 Chương III. Giải pháp, đánh giá 15 1. Quan điểm chung 15 2. Lựa chọn chế độ tỷ giá 16 KẾT LUẬN 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO 20 2
- A. ĐẶT VẤN ĐỀ Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia. Diễn biến của TGHĐ giữa USD với Euro, giữa USD/JPY cũng như sự biến động tỷ giá giữa USD/VND trong thời gian qua cho thấy, tỷ giá luôn là vấn đề thời sự, rất nhạy cảm. Nó ra đời từ hoạt động ngoại thương và quay trở lại tác động lên hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thương mại cán cân thanh toán của mỗi quốc gia.Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng. Xây dựng thành công một chính sách điều hành tỷ giá thích hợp là một vấn đề vô cùng khó khăn phức tạp. Nghiên cứu vấn đề này là một đề tài mang tính cấp thiết trong thời gian gần đây. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Những tiến bộ nhanh chóng về khoa học kỹ thuật cùng với vai trò ngày càng tăng của các công ty đa quốc gia đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá cao độ. Trong bối cảnh đó, việc quản lý nền kinh tế của một nước không thể quyết định một cách biệt lập, và Việt Nam không phải một ngoại lệ. Thực trạng điều hành tỷ giá ở Việt Nam thời gian qua đã dặt ra một số vấn đề: Một là, có thể điều chỉnh TGHĐ theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trong bối cảnh một số nước Châu Âu đang rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công, còn Trung quốc lại nâng giá đồng nhân dân tệ? Hai là, Để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, thì xử lý TGHĐ có phải là biện pháp hữu hiệu? Ba là, có khắc phục được yếu tố kỳ vọng VND mất giá? Nhận thức được tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái trong tổng thể chính sách tài chính – tiền tệ của chính phủ trong suốt thời gian qua, Khái quát sự đổi mới hệ thống tài chính trên lĩnh vực tỷ giá nhằm làm sáng tỏ những ưu nhược điểm để từ đó có những điều chỉnh thích hợp. Góp phần vào những nghiên cứu, phân tích, trong bài tiểu luận này em cũng xin được trình bày về một vấn đề đa dạng, phức tạp và cũng vô cùng quan trọng này thông qua đề tài: “chính sách tỷ giá ở Việt Nam hiện nay “. Với kiến thức còn nhiều thiếu sót, cơ sở số liệu thống kê không đầy đủ và tính phức tạp của đề tài nên trong bài viết không tránh khỏi khiếm khuyết rất mong được sự góp ý của thầy giáo và các bạn. 3
- B. NỘI DUNG Chương I: Tỷ giá và thực trạng tỷ giá ỏ Việt Nam hiện nay I. Khái niệm về tỷ giá hối đoái 1. Khái niệm a.Khái niệm tỷ giá: Tỷ giá là giá cả một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằng tiền tệ của nước khác, hay là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền. b. Phân loại tỷ giá : Các nhà kinh tế thường đề cập đến hai loại tỷ giá là tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế. Tỷ giá danh nghĩa :là mức giá thị trường của môt đồng tiền tính bằng đồng tiền khác vào một thời điểm nhất định. Tỷ giá này thường được công bố hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng, do ngân hàng nhà nước công bố. Tỷ giá danh nghĩa không phản ánh tương quan thực sự giữa các đồng tiền do sự tác động của giá cả, lạm phát và các nhân tố khác. Tỷ giá thực tế: là tỷ giá phản ánh tương quan sức mua giữa hai đồng tiền, là tỷ giá danh nghĩa có tính đến yếu tố lạm phát. 2. Vai trò của tỷ giá trong nền kinh tế: Đối với từng quốc gia hay nhóm quốc gia (nếu có sự liên kết và có đồng tiền chung) thì tỷ giá hối đoái mà họ quan tâm hàng đầu chính là tỷ giá giữa đồng tiền của chính quốc gia đó ,hay nhóm các quốc gia đó (đòng nội tệ) với các đồng tiền của các quốc gia khác ( các đồng ngoại tệ) Tỷ giá giữ vai trò quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Sự vận động của nó có tác động sâu sắc mạnh mẽ tới mục tiêu,chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia thể hiện trên hai điểm cơ bản sau: Thứ nhất - TGHĐ và ngoại thương: Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với mỗi quốc gia vì trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu của chính quốc gia đó. Khi đồng tiền của một quốc gia tăng giá (Tăng trị giá so với đồng tiền khác)thì hàng hoá nước đó ở nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở nên rẻ hơn.Ngược lại khi đồng tiền một nước sụt giá,hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở nên rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở nên đắt hơn(các yếu tố khác không đổi). Tỷ giá tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế,gây ra thâm hụt hoặc thặng dư cán cân. Thứ hai - TGHĐ và sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát: Tỷ giá hối đoái không chỉ quan trọng là vì tác động đến ngoại thương, mà thông qua đó tỷ giá sẽ có 4
- tác động đến các khía cạnh khác của nền kinh tế như mặt bằng giá cả trong nước, lạm phát khả năng sản xuất, công ăn việc làm hay thất nghiệp Ngoài các nhân tố khác, vật giá trong một quốc gia còn chịu sự tác động của tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá giảm ,giá tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng nhập khẩu tăng lên kéo theo giá cả các mặt hàng trong nước có liên quan cũng tăng theo. Đồng thời do tác động giảm nhập khẩu nên cầu về các hàng hoá nhập khẩu cũng sẽ gia tăng, tất điều đó làm cho giá cả chung trong nền kinh tế cũng gia tăng. Ngược lại, khi tỷ giá tăng sẽ có tác động làm cho mức giá chung giảm. II. Thực trạng tỷ giá ở Việt Nam trong thời gian qua: 1. Chính sách tỷ giá ở VN trong thời gian qua: Từ năm 2000, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của VN điều chỉnh từ chỗ công bố tỷ giá chính thức theo tín hiệu thị trường với từng khoảng thời gian có hiệu lực tương đối dài, sang cơ chế công bố tỷ giá theo động thái hàng ngày của thị trường ngoại tệ. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện tốt chính sách điều hành tỷ giá theo định hướng của Chính phủ: vừa theo thị trường, vừa có can thiệp khi cần thiết. Việc điều chỉnh này đã tác động rất tích cực đối với thị trường tiền tệ. Tỷ giá giữa các ngoại tệ với VND đã được duy trì tương đối ổn định trong nhiều năm, theo 3 chế độ chủ yếu là: * Chế độ tỷ giá cố định trước khủng hoảng tài chính châu á * Chế độ tỷ giá cố định với biên độ dao động giai đoạn 1997-1999. * Chế độ tỷ giá linh hoạt từ sau năm 1999. Tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ ở VN đã có tính thị trường, nhưng còn hạn chế. Từ 1996 đến 2006, VND đã được điều chỉnh theo hướng hạ giá VND liên tục. Tuy nhiên, VND vẫn có những biểu hiện được đánh giá cao hơn thực tế. Đầu năm 2007 cho đến nay, VND có xu hướng lên giá liên tục do 2 nguyên nhân chính: nguồn cung ngoại tệ từ nước ngoài vào VN tăng mạnh và ứ đọng tại các NHTM; trên thế giới, đồng USD liên tục xuống giá kéo dài. Đến hết quý I năm 2008, tỷ giá VND/USD tiếp tục có chiều hướng giảm. Tuy nhiên, mức giảm của tỷ giá hay sự lên giá của tiền đồng VN vẫn chưa đủ lớn để giúp nền kinh tế kiềm chế lạm phát. Hiện nay, VN theo đuổi chính sách tỷ giá linh hoạt, với biên độ dao động chưa đáng kể, chưa đủ thích ứng với môi trường bên ngoài. 5
- Bảng 1: Biên độ dao động của tỷ giá trong thời gian qua Năm Mở rộng biên độ Biên độ mới 01/07/2002 0,15% ±0,25% 31/12/2006 0,25% ±0,50 24/12/2007 0,25% ±0,75% 07/03/2008 0,25% ±1,00% (Nguồn: Tổng hợp từ Internet) Chính sách tỷ giá hiện nay đã ảnh hưởng hạn chế nhất định đối với nền kinh tế. Nếu mở rộng biên độ dao động, làm cho tỷ giá linh hoạt hơn, đồng thời mở rộng các thành phần tham gia vào việc xác định tỷ giá, thì tính thị trường của tỷ giá sẽ cao hơn sẽ góp phần gia tăng hiệu quả kiềm chế lạm phát trong tình hình hiện nay 2. Thực trạng ở Việt Nam trong thời gian qua : Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USD/VND tăng mạnh, nhập siêu cao, lạm phát đứng trước áp lực tăng trở lại vào năm 2010, khan hiếm cục bộ USD, giá vàng sốt nóng, lãi suất ngân hàng lên kịch trần Tỷ giá chính thức giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần điều chỉnh, một lần vào tháng 3 (+2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% và lần gần nhất là vào tháng 11 (+3,4%). Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên thị trường không chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của Ngân hàng Nhà nước.Trên thực tế, điều này đã xảy ra từ đầu năm tới nay, cho thấy thị trường ngoại hối luôn căng thẳng(theo dõi biểu đồ dưới). Diễn biến tỷ giá USD/VNĐ 2008-2009 6
- Biểu đồ cho thấy càng về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng, đồng thời USD tín dụng thì thừa, USD thương mại thì thiếu. Các ngân hàng không có ngoại tệ để bán cho doanh nghiệp và nếu có bán thì mức tỷ giá cũng cao hơn mức tỷ giá trần do NHNN quy định. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh. Để thấy rõ sự biến động của chúng thi so sánh ở ba góc độ của thị trường là thị trường liên ngân hàng, thị trường tự do, tỷ giá bình quân liên ngân hàng trong 4 giai đoạn Tháng 1 - tháng 3 Tháng 4 - tháng 9 Tháng 10 - ngày 24/11 Và từ 25/11 đến hết năm 2009 Đầu tiên, xét trên thị trường liên ngân hàng Ở giai đoạn 1, tỷ giá dao động trong khoảng 17.450 đồng - 17.700 đồng, cách giá trần khoảng từ 0 - 200 điểm (một điểm tương đương một đồng), lúc đó tính thanh khoản thị trường kém, nguồn cung khan hiếm, ngoại trừ thời điểm thị trường được bổ sung từ doanh thu xuất khẩu vàng. Giai đoạn 2, tỷ giá liên ngân hàng sát giá trần của Ngân hàng nhà nước (Ngân hàng Nhà nước) trong khoảng 10 ngày sau khi Ngân hàng Nhà nước tăng biên độ tỷ giá (từ +/- 3% lên +/- 5% vào ngày 23/3/2009). Tuy nhiên đến 9/4, tỷ giá liên ngân hàng tăng mạnh và duy trì biên độ 200 - 600 điểm so với giá trần. Giai đoạn 3, từ cuối tháng 10/2009, tỷ giá tăng mạnh và đến ngày 10/11, cao hơn giá trần 1.000 điểm. Biến động tỷ giá rất dữ dội, có ngày tăng 200 – 300 điểm và đạt đỉnh ở mức 19.750 vào 24/11. Chỉ đến khi Ngân hàng Nhà nước cho phép nhập vàng trở lại, tỷ giá ở thị trường này giảm trong 2 ngày nhưng vẫn cao hơn 1.200 - 1.500 điểm so với giá trần. Giai đoạn 4, tỷ giá giao dịch liên ngân hàng giảm từ mức cao 19.800 đồng xuống 18.500 đồng, sát với giá trần. Ở thị trường tự do, tỷ giá biến động dữ dội hơn rất nhiều. Giai đoạn 1, chúng dao động trong khoảng 17.450 đồng - 17.800 đồng, cao hơn tỷ giá trên liên ngân hàng trên 100 điểm. 7
- Giai đoạn 2, từ 18.180 đồng - 18.250 đồng nhưng từ nửa cuối tháng 6/2009, tăng lên mức 18.450 đồng - 18.500 đồng. Sang giai đoạn 3, tỷ giá thị trường tự do tăng rất nhanh, đạt đỉnh 20.000 đồng rồi giảm nhanh về 18.700 đồng trước khi tăng trở lại và duy trì ở mức 19.000 đồng - 19.300 đồng Đến giai đoạn 4, tỷ giá thị trường này giảm mạnh. Nếu như tỷ giá hai thị trường trên biến động mạnh thì biến động của tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho tỷ giá thị trường biến động rất ít. ở giai đoạn 1, chúng biến động nhỏ và xoay quanh mức 16.980 đồng. Giai đoạn 2, sau khi nới biên độ, tỷ giá giảm từ 16.980 đồng xuống 16.935 đồng (- 0,26%) và duy trì đến hết tháng 5/2009. Từ tháng 6/2009, mặc dù Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng dần nhưng mức tăng thấp. Giai đoạn 3, nhịp độ tăng của tỷ giá bình quân liên ngân hàng vẫn không nhiều và tính đến 19/11/2009, mức tăng của chúng so với cuối 2008 chỉ 0,3%. Ở giai đoạn 4, kể từ 26/11, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 5,44% và so với cuối năm 2008, mức tăng của chúng chỉ 5,81%. Đến năm 2010,Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có quyết định nâng tỷ giá giữa USD/VND thêm 2.1%, từ 18,544 lên 18,932, với biên độ được giữ nguyên ở mức +/-3%, áp dụng từ ngày 18/08/2010. Với sự nới rộng tỷ giá này, tỷ giá trần USD/ VND có thể giao dịch sẽ tăng lên ở mức 19,500. Đây là đợt điều chỉnh thứ 2 trong năm 2010 và là đợt thứ 3 kể từ ngày 25/11/2009 NHNN điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng. Tính từ đầu năm 2010 đến nay, tỷ giá USD/VND đã được nới rộng tổng cộng thêm 5.27%. 8
- Chương II: Các hệ thống chế độ tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái như phân tích trên có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế. Do vậy, chính sách tỷ giá hối đoái của bất kỳ một quốc gia nào cũng được coi như một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia.Duy trì, giữ vững ổn định của nền kinh tế vĩ mô là yêu cầu cấp thiết để tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và tập trung của các chính sách kinh tế của Chính phủ, trong đó có chính sách tỷ giá. Một quốc gia tùy theo điều kiện hoàn cảnh và thời điểm sẽ xác định cho mình một chính sách tỷ giá thích hợp. Trên thế giới hiện nay các nước theo đuổi các cách điều hành tỷ giá khác nhau song rút lại đều đi theo xu hướng hoặc là chế độ tỷ giá cố định hoặc là chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn hoặc thả nổi có kiểm soát. Hệ thống tỷ giá thả nổi hoàn toàn : Do cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định tỷ giá. Không có sự can thiệp của chính phủ. Hệ thống tỷ giá cố định: đó là tỷ giá do ngân hàng trung ương ấn định ở một mức nào đấy. Tỷ giá cố định có thể caco hơn hay thấp hơn tỷ giá cân bằng trên thị trường ngoại hối. Để giữ vững được tỷ giá ở mức độ cố định ngân hàng trung ương phải mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Và như vậy, cung tiền tuột khỏi tay sự kiểm soát của ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương chỉ có thể đạt được một trong hai mục tiêu: hoặc giữ vững cho tỷ giá cố định hoặc là kiểm soát được mức cung tiền chứ không thể đồng thời thực hiện được hai mục tiêu đó. Hệ thống tỷ giá thả nổi có kiểm soát : năm giữa hai thái cực trên. Quan điểm của các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại coi trọng cả vai trò kinh tế của Chính phủ và quy luật “ bàn tay vô hình “. Tỷ giá được hình thành trên cơ sở thị trường theo quy luật cung cầu, cơ quan điều hành chính sách tiền tệ chỉ tác động lên tỷ giá bằng các công cụ mang tính thị trường tác động lên thị trường ngoại hối. Nhưng vấn đề đặt ra là cần phải xác định chế độ tỷ giá hối đoái nào: cố định, thả nổi hoàn toàn hay thả nổi có kiểm soát. Một cuộc tranh luận về những chế độ tỷ giá hối đoái đã nổ ra. Thế giới đã chuyển từ chế độ tỷ giá cố định được thực hiện từ sau chiến tranh thế giới II đến đầu năm 1973, sang chế độ tỷ giá thả nổi, linh hoạt thay đổi hàng ngày. Nhưng vào cuối những năm 80 chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn bộc lộ tác động tiêu cực đến các nền kinh tế và người ta bắt đầu nghĩ đến một chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết, nhằm hạn chế những tác động của chế độ tỷ giá linh hoạt. Hiện nay, các chính phủ điều muốn can thiệp để hạn chế những biến động mạnh mẽ lên xuống của tỷ giá, một mặt là cần thiết để cân bằng cung cầu trong thời gian 9
- ngắn, nhưng mặt khác lại gây ra những biến động không mong muốn cho giá cả và đầu ra ở trong nước . Chương III. Giải pháp, đánh giá 1. Quan điểm chung Thứ nhất: Chính sách tỷ giá phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Cụ thể: - Hoàn chỉnh cơ chế quản lý giao dịch ngoại hối và cơ sở pháp lý cho việc điều hành thị trường ngoại tệ. - Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với các chính sách và giải pháp bộ phận trong lĩnh vực tiền tệ (như lãi suất, cung ứng vốn) nhằm tác động có hiệu quả vào nội tệ từ nhiều góc độ. - Đưa dần các công cụ quản lý tiền tệ trên thế giới vào áp dụng thực tiễn. Bên cạnh đó, việc hiện đại hóa hệ thống các tổ chức tài chính cần xúc tiến với mục tiêu phát triển thị trường tài chính nói chung để nâng cao năng lực, mở rộng phạm vi điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước. - Phối hợp hiệu quả với các chính sách vĩ mô khác như ngoại thương, cán cân ngân sách, thuế, tín dụng, thu nhập người lao động. Thứ hai: Điều hành tỷ giá xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế; có nghĩa tại một thời điểm phải xác định rõ yếu tố nào cần ưu tiên và yếu tố nào có thể hy sinh để đạt lợi ích tổng thể tối đa. Ví dụ, quyết định tăng giá nội tệ để giảm nhẹ sức ép trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp (Chính phủ) và chấp nhận sự suy giảm tạm thời đối với xuất khẩu nếu điều này ít tạo khó khăn hơn cho nền kinh tế. Thứ ba: Xây dựng chính sách tỷ giá trên cơ sở hội nhập thị trường tiền tệ trong nước với quốc tế nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính hạn chế và tránh nguy cơ tụt hậu. Thứ tư: Không ngừng nâng cao uy tín của đồng Việt Nam trên cơ sở duy trì sự tương quan hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại của nội tệ, hướng dần tới mục tiêu đồng Việt Nam có khả năng chuyển đổi. Một đồng tiền mất uy tín tất yếu làm thương tổn đến tích lũy, đầu tư nội địa, tăng nguy cơ lạm phát, tạo điều kiện cho hội chứng “ngoại tệ hóa”. Thứ năm: Đấu tranh có hiệu quả với hiện tượng đầu cơ, tích trữ và kiềm chế tác động xấu của thị trường ngoại tệ chợ đen. 10
- 2. Lựa chọn chế độ tỷ giá . Thực trạng tài chính nước nhà vừa đòi hỏi một chế độ tỷ giá thả nổi, vừa ủng hộ chế độ tỷ giá cố định. Một chế độ tỷ giá bán thả nổi sẽ là sự lựa chọn hợp lý. Bên cạnh đó, cũng sẽ rất hữu ích nếu tồn tại song song các công cụ hành chính với mục đích can thiệp kịp thời đến biên độ dao động của tỷ giá, phục vụ cho các mục tiêu kinh tế lớn ở từng thời kỳ. Việc phá giá nội tệ một cách thận trọng sẽ đưa giá trị đồng Việt Nam trở về mức hợp lý hơn so với các đồng tiền khác trong khu vực, từ đó tăng sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu. KẾT LUẬN Xác định cơ chế điều hành tỷ giá và sử dụng tốt công cụ này đòi hỏi một sự phối hợp đồng bộ nhịp nhàng giữa chings phủ và toàn bộ các chủ thể trong nền kinh tế. Các chính sách thực hiện còn mang tính hánh chính cưởng ép. Các chính sách không thực hiện đồng nhất, kém hiệu quả, không dựa trên biến động thực tế của thị trường mà còn mang tính cảm tính của các nhà thực hiện chính sách. Nếu không thay đổi chính sách hợp lí thì có thể đánh giá xu hướng của chính sách tỷ giá trong thời gian tới sẽ là tăng tỷ giá và tăng biên độ dao động. điều này có thể có tác động tích cực tới xuất khẩu trong thời gian ngắn nhưng về dài hạn thì có nhiều tiêu cực hơn vì hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu nguyên liệu ví dụ như ngành giầy da, may mặc Do đó Việt nam cần chú trọng tới diễn biễn tình hình kinh tế Quốc tế đặc biệt sau thời kì khủng hoảng này để thực hiện các chính sách một cách hợp lí để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 11
- TÀI LIỆU THAM KHẢO www.Vn.economy.vn www.tailieu.vn www.tapchitaichinh.vn www.scribd.com www.khoahocphothong.com vi.wikipedia.org Giáo trình Tài chính Quốc tế PGS.TS NGUYỄN VĂN TIẾN Giáo trình kinh tế Quốc tế 12