Tìm hiểu về nhận thức, thái độ và hành vi của người dân về ô nhiễm môi trường trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt

pdf 177 trang huongle 3500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tìm hiểu về nhận thức, thái độ và hành vi của người dân về ô nhiễm môi trường trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftim_hieu_ve_nhan_thuc_thai_do_va_hanh_vi_cua_nguoi_dan_ve_o.pdf

Nội dung text: Tìm hiểu về nhận thức, thái độ và hành vi của người dân về ô nhiễm môi trường trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG KHOA XÃ HỘI HỌC Tìm hiểu về nhận thức, thái độ và hành vi của người dân về ô nhiễm môi trường trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt 1
  2. Tóm Tắt Đề Tài “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau bao quanh con người có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”. Trong những năm gần đây, vấn đề ô nhiễm môi trường luôn là mối quan tâm của toàn xã hội. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường; Trong đó, rác thải sinh hoạt chưa được phân loại, thu gom và xử lý thích hợp của người dân và chính quyền địa phương là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu cho thấy, rất nhiều người dân quan tâm đến vấn đề môi trường và nhận thức được tầm quan trọng của môi trường đối với đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, đa số người dân tại phường Phú Thọ chưa thật sự chú ý đến việc phân loại, thu gom rác thải sinh hoạt và việc xử lý rác của chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền, phổ biến và tập huấn cho người dân vẫn chưa được các cơ quan quản lý của phường chú trọng. Cần thiết phải có các biện pháp tuyên truyền, hướng dẫn nhằm nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt từ đó thay đổi hành vi của người dân trong việc bảo vệ môi trường. Rác thải sinh hoạt là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí và ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị. Việc giải quyết rác thải sinh hoạt (thu gom, phân loại và xử lý) là một yêu cầu bức thiết, quan trọng cần sự tham gia của tất cả mọi người, đồng thời cần sự phối hợp của cơ quan chức năng (sở giao thông công chánh, sở tài nguyên môi trường ). Kết quả nghiên cứu cho thấy, vấn đề môi trường rất được người dân quan tâm. Đa số người dân có nhận thức tốt về việc ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt nhưng 2
  3. thái độ và hành vi còn chưa đúng. Đặc biệt trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. Chính quyền đã cố gắng giải quyết vấn đề rác thải nhưng chưa triệt để và chưa triển khai tốt các biện pháp tuyên truyền cho người dân. Người dân cần thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi để phù hợp với cuộc sống đô thị. 3
  4. LỜI CẢM ƠN Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn khoa Xã Hội Học Trường Đại học Bình Dương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhóm hoàn thành bài báo cáo này. Chúng tôi xin cảm ơn giáo viên hướng dẫn ThS. Nguyễn Thị Kim Loan và các thầy cô đã tận tình hướng dẫn chúng em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn UBND và người dân phường Phú Thọ đã giúp đỡ chúng tôi trong thời gian nghiên cứu tại thực địa. Nhóm tác giả cũng chân thành cảm ơn các bạn trong lớp đã nhiệt tình trao đổi kinh nghiệm và góp ý kiến giúp cho đề tài của chúng tôi được hoàn thiện hơn. Do lần đầu tiên làm đề tài nên không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn. 4
  5. CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT Phó giáo sư PGS Tiến sỹ TS Thạc Sỹ ThS Cử nhân CN Kỹ Sư KS Thành phố Tp Thành phố Hồ Chí Minh Tp HCM Khoa học và Công nghệ KH & CN Nhà xuất bản NXB Nghị định NĐ Quyết định QĐ Chính phủ CP Bảo vệ môi trường BVMT Thông tư TT 5
  6. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Lý do chọn đề tài. 6
  7. 1.2 Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu. 1.3 Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu. 1.4 Mô tả về mẫu. 1.5 Mô tả địa bàn nghiên cứu. 1.6 Phương pháp nghiên cứu. 1.7 Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài. 1.8 Kết cấu đề tài. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1: Cơ sở lý luận 1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu. 1.1.1.Về lĩnh vực môi trường. 1.1.2. Về lĩnh vực thu gom, phân loại và xử lý rác thải. 1.2. Lý thuyết áp dụng. 1.3. Các khái niệm. 1.4 Khung phân tích và giả thuyết. 1.4.1 Mô hình khung phân tích. 1.4.2. Giả thuyết nghiên cứu. Chương 2: Thực trạng việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt của người dân và chính quyền phường Phú Thọ - Thị xã Thủ Dầu Một – Bình Dương. 2.1 Thực trạng việc phân loại, thu gom rác thải sinh hoạt của người dân phường Phú Thọ. 2.2 Thực trạng việc xử lý rác thải sinh hoạt của người dân và chính quyền phường Phú Thọ. Chương 3: Nhận thức, thái độ của người dân phường Phú Thọ trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. 7
  8. 3.1 Nhận thức, thái độ của người dân trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. Chương 4. Vai trò của các cơ quan quản lý trong việc hướng dẫn và quản lý người dân phân loại, thu gom và xử lý rác. 4.1 Tìm hiểu về chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý. 4.2 Các chương trình vận động sự tham gia của người dân. 4.3 Sự tham gia của người dân phường Phú Thọ trong các chương trình, hoạt động bảo vệ môi trường của chính quyền địa phương. 4.4 Hướng dẫn và giám sát của các cơ quan quản lý. Chương 5: Giải pháp. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 8
  9. PHẦN MỞ ĐẦU 9
  10. 1.1 Lý do chọn đề tài Môi trường luôn đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống con người. Nó đảm nhận 3 chức năng chính: Cung cấp tài nguyên, cung cấp không gian sống và là nơi chứa đựng rác thải. Môi trường xanh sạch không chỉ đơn thuần tạo nên vẻ mỹ quan cho xã hội mà còn ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe của con người. Tuy nhiên, trong hoạt động sống thường ngày con người đã thải ra môi trường một khối lượng rác rất lớn và ngày càng nhiều. Điều này đã làm cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Theo thống kê mới nhất của Hội thảo xây dựng chiến lược kiểm soát ô nhiễm ở Việt Nam vào tháng 12 năm 2004, trung bình tổng lượng chất thải hàng năm trên 49 ngàn tấn thì trong đó có 55% chất thải công nghiệp, 1% chất thải y tế và 44% chất thải gia cưi. Bên cạnh đó, ở Đô thị trong cả nước số chất thải rắn mỗi năm là 9.939.103 tấn rác thải rắn, trong đó có tới 76,31% là chất thải rắn sinh hoạt từ các khu dân cưii. Điều này cho thấy, ngoài tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải từ các khu công nghiệp, nhà máy, khu chế xuất thì một vấn đề đáng báo động hiện nay là tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt chưa được phân loại, thu gom và xử lý theo đúng quy định. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu dân cư, khu đô thị. Những năm gần đây, Bình Dương là một trong những tỉnh thuộc khu vực phía Nam đi đầu trong việc phát triển công nghiệp, cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, xu hướng đô thị hóa đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ, tỉ lệ dân cư gia tăng làm tăng lượng rác thải sinh hoạt, tạo khó khăn cho công tác thu gom và xử lý. Theo thống kê của Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Bình Dương thì : Mỗi ngày trên địa bàn tỉnh có khoảng 800 tấn chất thải các loại, tuy nhiên trong số này thì chỉ có 70% – 75% được thu gom và xử lý, số còn lại thì không thể kiểm soát được. Ở Thị xã Thủ Dầu Một, trung bình mỗi ngày có 20%( khoảng 20 tấn) lượng rác thải chưa được xử lý, thu gom. Tại một số vùng trong 10
  11. tỉnh, do ý thức bảo vệ môi trường của người dân chưa cao, việc phân loại rác chưa được thực hiện và hành vi vứt rác bừa bãi không đúng nơi quy định đã gây rất nhiều khó khăn trong việc thu gom của đội ngũ nhân viên môi trường. Ô nhiễm môi trường từ rác thải sinh hoạt không phải là một đề tài mới được nêu ra để gây sự chú ý cho xã hội, mà nó đã là một vấn đề rất nghiêm trọng cần được sự quan tâm của cả cộng đồng. Không cần các phương tiện kỹ thuật để đo lường hay các nhà chuyên môn mà ngay cả người dân cũng nhận thấy được tình trạng ô nhiễm đang ngày càng trầm trọng hơn. Chính vì vậy, nhóm chúng tôi chọn đề tài : “Tìm hiểu nhận thức, thái độ và hành vi của người dân về ô nhiễm môi trường trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt”. Đề tài tập trung vào “ tìm hiểu về thái độ, nhận thức và hành vi của người dân trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt”, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của người dân, đồng thời, từng bước thay đổi thái độ, hành vi của người dân trong việc thu gom, phân loại và xử lý rác thải sinh hoạt hàng ngày góp phần bảo vệ môi trường đất, nước và không khí tại phường Phú Thọ, Thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương. Trên cơ sở nghiên cứu, nhóm tác giả có thể đưa ra một bức tranh chung về nhận thức, thái độ và hành vi của người dân trong vấn đề môi trường. 1.2. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức, thái độ và hành vi của người dân về vấn đề phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. Khách thể nghiên cứu: Người dân đang sống ở phường Phú Thọ, Thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Phạm vi nghiên cứu: 11
  12. Đề tài chỉ dừng lại ở việc khảo sát và đánh giá thái độ, nhận thức của người dân phường Phú Thọ – Thị xã Thủ Dầu Một- tỉnh Bình Dương trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. Qua đó nhóm tác giả muốn chứng minh việc nâng cao nhận thức của người dân đối với vấn đề phân loại, thu gom và xử lý rác thải là một điều rất cần thiết và cấp bách. Do hạn chế về thời gian và kinh nghiệm nhóm tác giả chưa thể nghiên cứu sâu vào nhiều khía cạnh của ô nhiễm môi trường mà chỉ có thể nghiên cứu một mảng nhỏ. Với mong muốn đề tài này sẽ được mở rộng hơn trong tương lai. 1.3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu: Đề tài tập trung chủ yếu vào việc tìm hiểu nhận thức và thái độ của người dân trong vấn đề phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt, trên cơ sở đó làm rõ vai trò của các cơ quan chức năng, cơ quan truyền thông trong việc quản lý môi trường. Đề ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao nhận thức từ đó góp phần thay đổi hành vi của người dân. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Tìm hiểu thái độ nhận thức của người dân trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. - Thực trạng phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt của người dân. - Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải của người dân. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt ở phường Phú Thọ. 1.4 Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu xã hội học, cụ thể là: Phương pháp nghiên cứu định lượng và phương pháp nghiên cứu định tính. 12
  13. - Phương pháp nghiên cứu định lượng: Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Đây là phương pháp sử dụng bảng câu hỏi dưới dạng viết và các câu trả lời tương ứng. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 11.5 với 2 loại câu hỏi là câu hỏi mở và câu hỏi đóng thể hiện qua hai dạng bảng chủ yếu là bảng mô tả và bảng kết hợp - Phương pháp nghiên cứu định tính: Phương pháp chính được sử dụng trong nghiên cứu định tính là phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp này sử dụng bảng câu hỏi mang tính chất gợi mở. Nhấn vào mô tả thực trạng của việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt, bối cảnh nghiên cứu cho thấy được đặc trưng của cộng đồng mà nhóm nghiên cứu quan tâm. Nhóm tiến hành phỏng vấn một số đối tượng là cán bộ và người dân trong phường nhằm tìm hiểu về thực trạng phân loại, thu gom và xử lý rác của người dân. Phương pháp phỏng vấn sâu được kết hợp với phương pháp điều tra bằng bảng hỏi trong nghiên cứu định lượng để bổ sung và lý giải cho những con số mà phương pháp điều tra bằng bảng hỏi thu thập được, từ đó thấy được thực trạng xử lý và phân loại rác thải sinh hoạt để đưa ra những đề xuất phù hợp. - Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: Nghiên cứu và phân tích các tài liệu có sẵn liên quan đến đề tài. Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn chính sau: Các báo cáo và công trình nghiên cứu trước đây và các tài liệu có sẵn được đăng tải trên báo, tạp chí (Báo Tuổi Trẻ, Báo Thanh Niên, tạp chí Xã Hội Học,Vietnam.net, và những công trình có liên quan) - Phương pháp quan sát: Quan sát địa bàn và các khu phố thuộc khu vực phường Phú Thọ nhằm tìm hiểu về việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt của các hộ gia đình. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp liên ngành khác như: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp diễn dịch, quy nạp 13
  14. 1.5 . Mô tả về mẫu - Nguyên tắc chọn mẫu định lượng: Biến số độc lập: Tuổi, giới tính, học vấn, nghề nghiệp, tôn giáo của người trả lời và thu nhập gia đình. Biến số phụ thuộc: Những biểu hiện về nhận thức, thái độ, hành vi và tình hình phân loại, thu gom rác trong gia đình của người trả lời thể hiện trong nội dung nghiên cứu. Nguyên tắc chọn mẫu định tính : Chọn mẫu phi xác suất theo chỉ tiêu. Từ đó các mẫu được chọn như sau: - Mẫu chính : 44 hộ gia đình - Mẫu phụ : 10 hộ gia đình - Đề tài khảo sát 4 khu phố : khu phố 3; khu phố 2; khu phố 7 và khu phố 8 của phường Phú Thọ, Thị xã Thủ Dầu Một - Tỉnh Bình Dương. Mỗi khu phố chọn 14 hộ gia đình (trong đó 11 hộ thuộc mẫu chính và 3 hộ thuộc mẫu phụ) Theo các tiêu chí sau: . Gia đình công nhân viên chức( làm trong các công ty, tổ chức ) 4 hộ . Gia đình trí thức: 4 hộ . Gia đình làm nghề tự do: 4 hộ . Gia đình hưu trí: 2 hộ . Về phỏng vấn sâu: Chọn ngẫu nhiên trong 4 khu phố: 1 cán bộ môi trường; 2 nhân viên vệ sinh môi trường (là nhân viên thu gom rác do Phường thuê); 3 hộ gia đình trong đó: 1 hộ là công nhân viên chức(trí thức), 1 hộ làm kinh tế tự do, 1 hộ gia đình công nhân. 2 trưởng khu phố. 14
  15.  Như vậy số lượng mẫu được khảo sát trong 4 khu phố của phường Phú Thọ - Thị xã Thủ Dầu Một là : 54 mẫu ; phỏng vấn sâu : 8 mẫu Để tìm hiểu về nhận thức, thái độ của người dân về việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt tại phường Phú Thọ - Thị xã Thủ Dầu Một – Bình Dương, nhóm tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu trong 4 khu phố bao gồm: khu phố 2, khu phố 3, khu phố 7 và khu phố 8. Trong đó, tác giả đề tài chọn ngẫu nhiên 49 hộ gia đình để làm mẫu nghiên cứu, những hộ trong mẫu nghiên cứu của nhóm tác giả được lựa chọn dựa trên các đặc điểm về nghề nghiệp. Số liệu trong bảng dưới đây là đặc điểm của mẫu nghiên cứu trong đề tài của nhóm tác giả: Bảng 1.1 : Giới tính của người tham gia phỏng vấn Giới tính N Tỷ lệ Nam 23 46.9 Nữ 26 53.1 Tổng 49 100.0 Bảng 1.2: Độ tuổi của người tham gia phỏng vấn Độ tuổi N Tỷ lệ % Từ 20- 30 8 18.2 Từ 31 – 40 12 27.3 Từ 41 – 50 15 34.1 Từ 51 – 60 9 20.5 Tổng 44 100.0 Bảng 1.3: Trình độ học vấn của người tham gia phỏng vấn 15
  16. Trình độ học vấn N Tỷ lệ % Biết đọc, biết viết 2 4.2 Tiểu học 2 4.1 Trung học cơ sở 15 31.3 Trung học phổ thông 12 25.0 Trung cấp/ cao đẳng 8 16.7 Đại học/ trên đại học 9 18.8 Tổng 48 100.0 Bảng 1.4: Nghề nghiệp của người tham gia phỏng vấn Nghề nghiệp N Tỷ lệ % Cán bộ, công viên chức nhà nước 19 38.8 Tiểu thủ công nghiệp 2 4.1 Nghề tự do 20 40.8 về hưu, già yếu, không làm việc 8 16.3 Tổng 49 100.0 (kết quả điều tra của nhóm tác giả , thực hiện tháng 9/2009) 1.6 Mô tả địa bàn nghiên cứu Bình Dương là tỉnh thuộc vùng Miền Đông Nam Bộ, được tách ra từ tỉnh Sông Bé (cũ) nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa Nam Trường Sơn, giữa các tỉnh như Tây Ninh, Bình Phước, Đồng Nai với các tỉnh còn lại của Nam bộ. Là một trong các tỉnh đi đầu về phát triển kinh tế. Trung tâm tỉnh – Thị xã Thủ Dầu Một cách TP. HCM 30km, nằm trên quốc lộ 13 nối vào quốc lộ 14 đi Tây Nguyên và các tỉnh Miền Trung.[Thủ Dầu Một – Bình Dương đất lành chim đậu, tr.7; 29] Tại Thị xã Thủ Dầu Một có 14 đơn vị hành chính, gồm 3 xã (Tân An, Chánh Mỹ, Tương Bình Hiệp) và 11 phường (Phú Cường, Hiệp Thành, Chánh Nghĩa, Phú Thọ, 16
  17. Phú Hòa, Phú Lợi, Phú Mỹ, Định Hòa, Hiệp An, Hòa Phú, Phú Tân). Trong đó phường Phú Thọ nằm phía Nam Thị xã Thủ Dầu Một có diện tích tự nhiên là 475,04ha. Phường Phú Thọ được chia thành 7 khu phố (khu 2,3,4,5,6,7,8), tổng số hộ 4.763 hộ với 16.423 người. Hiện nay, hầu hết rác sinh hoạt tại địa bàn thị xã nói chung và phường Phú Thọ nói riêng, do phòng Quản Lý Đô Thị phối hợp với công ty Công Trình Đô Thị tỉnh Bình Dương thu gom. Trong tỉnh có một bãi trung chuyển Truông Bồng Bông ở Chánh Phú Hòa – Bình Dương. Sau khi rác thải sinh hoạt được đưa đến bãi trung chuyển thì việc xử lý được giao lại cho Công ty Cấp Thoát Nước – Môi Trường của tỉnh. Hình 1: Bãi rác trung chuyển Truông Bồng Bông 1.7 Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài. - Ý nghĩa lí luận: Việc nghiên cứu “Tìm hiểu nhận thức, thái độ và hành vi của người dân về ô nhiễm môi trường trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt”. Trường hợp nghiên cứu phường Phú Thọ, Thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Trong bối cảnh kinh tế cũng như xã hội ngày càng phát triển, mong muốn của nhóm sinh viên thực hiện: 17
  18. Học được phương pháp nghiên cứu, cách nêu vấn đề và giải quyết vấn đề theo cách hiểu. Thông qua những khía cạnh nghiên cứu việc thực hiện đề tài nhằm thu thập những thông tin định tính và định lượng về nhận thức và thái độ của người dân trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. Đóng góp một phần nào đó cho hệ thống lí luận và phương pháp luận về nhận thức, thái độ và hành vi trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác của người dân đối với môi trường. Qua các số liệu thu thập từ cuộc khảo sát thực tế của nhóm tác giả thông qua việc sử dụng các công cụ như: Bảng hỏi, phỏng vấn sâu Thông qua việc xử lý và phân tích dựa trên số liệu thu thập được cho thấy thực trạng việc xử lý, thu gom và phân loại rác thải sinh hoạt của người dân hiện nay. Từ đó phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của người dân trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. Cho thấy được ý thức cộng đồng của người dân hiện nay qua nhận thức, thái độ và hành vi của người dân về việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt nói chung. Thông qua các số liệu đã thu thập được giúp cho người dân nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng có những chỉnh đốn kịp thời phù hợp hoàn cảnh đất nước hiện nay. - Ý nghĩa thực tiễn: Việc nghiên cứu đề tài là một cơ hội để nhóm tác giả được thực tập và hiểu rõ hơn về phương pháp nghiên cứu xã hội học. Đề tài này cho thấy rõ thái độ, nhận thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường thông qua việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải. Cung cấp những thông tin và giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường. Đề tài mang tính chất thăm dò nhận thức và thái độ của người dân về vấn đề ô nhiễm môi trường thông qua việc phân loại, thu gom rác thải sinh hoạt hàng ngày và qua công tác xử lý rác thải sinh hoạt. Đề tài cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai muốn tìm hiểu vấn đề này sâu hơn và cho các sinh viên khoá sau. 18
  19. Qua đề tài nhóm tác giả cũng đề ra những biện pháp giúp địa phương tham khảo trong việc quản lý và hướng dẫn người dân trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải.Và điều quan trọng nhất là thông qua đề tài này nhóm tác giả có thêm được nhiều kinh nghiệm cho mình để phục vụ cho các cuộc nghiên cứu sau. Qua đó cũng đề xuất một số khuyến nghị để địa phương tạo điều kiện và cung cấp một số kiến thức về môi trường giúp cho người dân nâng cao nhận thức, có trách nhiệm với môi trường qua những hành động cụ thể. 1.8. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Phần mở đầu, bao gồm các nội dung: Lý do chọn đề tài, mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng – khách thể và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn. Phần nội dung chính gồm 5 chương, có kết cấu như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận. Chương này có 4 mục. Nội dung của chương này: Tổng quan nghiên cứu, cách tiếp cận, các khái niệm, mô hình khung phân tích và các giả thuyết. Chương 2: Thực trạng việc phân loại và xử lý rác thải sinh hoạt của người dân phường Phú Thọ - Thị xã Thủ Dầu Một – Bình Dương. Chương này có 2 mục bao gồm các nội dung: Thực trạng việc phân loại rác thải sinh hoạt của người dân phường Phú Thọ; Thực trạng việc xử lý rác thải sinh hoạt của người dân phường Phú Thọ. Chương 3: Nhận thức, thái độ của người dân phường Phú Thọ trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. Chương 4: Vai trò của các cơ quan quản lý trong việc hướng dẫn và quản lý người dân phân loại, thu gom và xử lý rác. Chương này có 4 mục bao gồm các nội dung: Tìm hiểu về chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý; Các chương trình vận động sự tham gia của người dân; Sự tham gia của người dân phường Phú Thọ trong các chương trình, hoạt 19
  20. động bảo vệ môi trường của chính quyền địa phương; Hướng dẫn và giám sát của các cơ quan quản lý. Chương 5: Giải pháp. Phần Kết luận và khuyến nghị. Ngoài 3 phần chính đề tài có thêm các phần phụ như danh mục các bảng biểu và phần phụ lục (các công cụ thu thập thông tin và hình ảnh minh họa) 20
  21. PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 21
  22. Chương 1: Cơ sở lý luận: 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1 Về lĩnh vực môi trường 1.1.2 Về lĩnh vực thu gom, phân loại và xử lý rác thải 1.2 . Lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu 1.2.1 Lý thuyết hành động xã hội 1.2.2 Lý thuyết lối sống 1.2.3 Lý thuyết kiểm soát xã hội 1.3. Các khái niệm 1.3.1/ Nhận thức 1.3.2/ Thái độ 1.3.3/ Ý thức 1.3.4/ Hành vi 1.3.5/ Đô thị 1.3.6/ Môi trường 1.3.7/ Ô nhiễm Môi trường 1.3.7.1/ Ô nhiễm không khí 1.3.7.2/ Ô nhiễm môi trường đất 1.3.7.3/ Ô nhiễm nước 1.3.8/ Rác thải( chất thải) 1.3.9/ Quản lý rác thải 1.3.10/Vệ sinh 1.3.11/Tiêu chuẩn môi trường 1.3.12/Vi phạm tiêu chuẩn môi trường 1.3.13/Quản lí môi trường 22
  23. 1.4. Mô hình khung phân tích và Giả thuyết nghiên cứu. 1.4.1 Mô hình khung phân tích. 1.4.2 Giả thuyết nghiên cứu. 23
  24. 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1.Về lĩnh vực môi trường: Trong những năm vừa qua, môi trường luôn là vấn đề được nhiều cá nhân, tổ chức quan tâm, nghiên cứu, tìm hiểu; nhiều cuộc hội thảo và nhiều công trình khoa học được công bố. Cho đến thời điểm này có thể kể một số công trình sau: Tác giả Nguyễn Thị Phương, Khoa Phụ nữ học đại học mở TPHCM.khoá 3 năm 1994-1998, trong đề tài “Môi trường TP Quy Nhơn và các hoạt động bảo vệ môi trường của phụ nữ Quy Nhơn” Các vấn đề môi trường (báo cáo khoa học tại hội thảo các vấn đề môi trường năm 1982) Tác giả Lê Văn Khoa trong tác phẩm “Môi Trường và Ô Nhiễm”, Nhà xuất bản giáo dục, năm 1995. Tác phẩm “Ô nhiễm môi trường - sự cảnh báo”, Nhà xuất bản phụ nữ. Tác giả Hoàng Hưng và tác giả Nguyễn Thị Kim Loan trong tác phẩm “Con người Môi trường”, Nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh 1.1.2. Về lĩnh vực thu gom, phân loại và xử lý rác thải: Tác giả Đinh Xuân Thắng, Viện Môi Trường và Tài Nguyên thuộc trường Đại học Quốc gia TP.HCM với đề tài “Dự án thu gom, phân loại và xử lý chất rắn tại nguồn”. Đề tài được thực hiện tại hai địa bàn : Phường 3, Thị xã Bến Tre và xã Tân Trạch, huyện Châu Thành. Trong đề tài, tác giả đã đánh giá hiện trạng phân loại, thu gom chất thải rắn trên 2 địa bàn nghiên cứu, cho thấy rằng tình trạng ô nhiễm do rác thải sinh hoạt còn nhiều phức tạp, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng. Nhưng chưa có biện pháp xử lý hữu hiệu, nhất là ở những khu vực đông dân cư, chợ, thị trấn. Việc thu gom, phân loại, xử lý chất rắn tại nguồn còn nhiều bất cập, khó khăn do ý thức người dân còn thấp, kinh phí đầu tư còn ít. Thông qua phương pháp nghiên cứu lý thuyết thu thập 24
  25. thông tin, dự báo, tham khảo ý kiến các chuyên gia kết hợp với phương pháp nghiên cứu thực nghiệm như tìm hiểu thực địa, tham vấn cộng đồng, liên doanh, liên kết tập hợp lực lượng và phân tích tổng hợp, xử lý số liệu. Đồng thời, đề xuất 3 mô hình thu gom, phân loại, xử lý rác sinh hoạt tại nguồn; xử lý chất thải rắn tối ưu cho cấp thị xã, cấp huyện, cơ sở y tế và mô hình thu gom, ủ rác thành phân hữu cơ cho hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh. Trong đó tác giả nhấn mạnh biện pháp nâng cao nhận thức của người dân trong vấn đề bảo vệ môi trường. ThS. Hoàng Thị Kim Chi cùng nhóm tác giả: KS. Đào Thị Hồng Hoa, Ths. Trần Phi Hùng, Ths.Võ Thị Thanh Hương, CN.Trần Nhật Nguyên, Ths.Lê Văn Thành, CN. Nguyễn Thị Tường Vân trong đề tài “Các hình thức thu gom rác sinh hoạt trên địa bàn TP.HCM – thực trạng và các đề xuất bổ sung”. Qua đề tài nhóm tác giả đưa ra các mặt tích cực và hạn chế của các hình thức thu gom rác tại địa bàn TP.HCM, cụ thể là: Mức độ thu gom rác thải còn rất hạn chế, khả năng thu gom rác thải của một số đơn vị có thể bị thu hẹp do việc thực hiện sắp xếp lại theo hướng cổ phần hóa trong thời gian tới; Số lượng hợp tác xã thu gom rác đã hình thành còn rất ít; Phần lớn phương tiện thu gom rác không đạt yêu cầu vệ sinh; Công tác kiểm tra giám sát xử lý các vi phạm về vệ sinh môi trường, đặc biệt là các vi phạm của người dân và lực lượng thu gom rác chưa được quan tâm đúng mực, việc quản lý thu gom rác còn mang nặng biện pháp hành chính, chưa chú ý đến quyền lợi của người lao động nên kết quả mang lại còn nhiều hạn chế Đồng thời đề xuất một số mô hình tổ chức và cơ chế chính sách phù hợp để quản lý thu gom rác sinh hoạt. Tác giả Bàng Anh Tuấn trong đề tài “Sự tham gia của lực lượng thu gom rác dân lập và hệ thống quản lí rác thải ở Tp.HCM”, năm 2002. Bằng phương pháp phương pháp quan sát, nghiên cứu tư liệu, báo cáo, phân tích tổng hợp. Nghiên cứu này đã tập trung vào các điểm chính sau: Những thuận lợi và khó khăn của hệ thống thu gom rác dân lập, quá trình tổ chức thu gom rác dân lập tại một số quận, phường ở Tp.HCM, cải 25
  26. thiện điều kiện việc làm và sức khoẻ của lực lượng thu gom rác dân lập. Xử lý thành phần hữu cơ của rác sinh hoạt theo hướng sản xuất phân loại. Tác giả Đỗ Xuân Biên trong đề tài“ Tìm hiểu hệ thống thu gom rác dân lập và vấn đề tái tổ chức lực lượng thu gom rác tại Tp.HCM ”, luận văn tốt nghiệp năm 2000, Sinh viên khoa Địa lí chuyên ngành Môi trường, Trường Đại học KH - XH và Nhân Văn. Trong đề tài tác giả đã dùng phương pháp quan sát thực tế, phỏng vấn lực lượng thu gom rác thải và một số vấn đề liên quan. Thông qua các phương pháp, nghiên cứu này đã nêu lên được thực trạng của hệ thống quản lý rác thải tại Tp.HCM, trong đó có phần nghiên cứu về nhận thức, thái độ của người dân. Nhưng do đây là luận văn tốt nghiệp chuyên ngành môi trường nên tác giả quan tâm đến lĩnh vực môi trường và đi sâu vào nghiên cứu các mảng rác thải và hệ thống quản lý rác thải tại Tp.HCM nói chung. Đồng thời tác giả cũng tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến nhận thức, thái độ của người dân trong việc xử lý và phân loại rác thải tại Tp.HCM. Tuy nhiên luận văn chỉ đi nghiên cứu một cách sơ bộ và khái quát chứ không mang tính chất đi sâu vào thực tế. Tác giả Hà Thị An “Tìm hiểu về hệ thống thu gom rác dân lập và việc thể chế hoá lực lượng này” - luận văn tốt nghiệp cử nhân xã hội học, khoa xã hội học trường đại học Mở bán công, 2004 tại quận 12 Tp.HCM. Ở đề tài này, Tác giả dùng phương pháp định tính và định lượng : thu thập thông tin, số liệu cụ thể chính xác, có những buổi tiếp xúc, quan sát, phỏng vấn (bán cơ cấu và không cơ cấu) để hiểu được quan niệm và thái độ vủa các đối tượng nhằm tìm hiểu và đánh giá thực trạng hệ thống thu gom rác thải tại Tp.HCM. Tìm hiểu các mặt hoạt động của lực lượng thu gom rác, vai trò và những khó khăn của lực lượng này. Tìm hiểu đánh giá về vấn đề thể chế hoá lực lượng thu gom rác thải dân lập: Cụ thể là nghiên cứu tình hình thực hiện nghị quyết, nghiệp đoàn công nhân vệ sinh dân lập, định hướng để lực lượng thu gom rác thải hoạt động có tổ chức, có tư cách pháp nhân. Ngoài ra, đề tài còn đề cập đến vấn đề nhận thức của người dân và vai trò của họ trong việc xây dựng và bảo vệ một môi trường sạch đẹp nhưng cũng chỉ là 26
  27. đóng góp một phần nhỏ trong việc nâng cao nhận thức của người dân hoặc là chỉ mới đứng trên khía cạnh xã hội mà chưa đi sâu vào thực tế. Vì vậy mà nhóm tác giả nghiên cứu đề tài này muốn thử nghiên cứu đi sâu hơn vào thực tế trong quá trình thể hiện nhận thức và thái độ của người dân trong việc phân loại và xử lý rác thải. Tác giả Tăng Thị Chính trong đề tài “Mô hình xử lý rác thải sinh hoạt nông thôn tại Hà Tây”, Viện công nghệ môi trường, Viện KH&CN Việt Nam. Trong đề tài, tác giả đề xuất mô hình xử lý rác thải sinh hoạt tại xã Kim Chung, tỉnh Hà Tây, bằng phương pháp đồng tham gia, tác giả kết hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động cho người dân từ khâu phân loại, bỏ rác vào thùng đến thói quen đổ rác như ở các thành phố và đóng góp kinh phí xây dựng trạm xử lý rác cho nông thôn theo quy trình công nghệ của các nhà khoa học Viện Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam. Tác giả Vũ Thế Long trong bài viết “ Về tập quán xử lý rác thải sinh hoạt người Việt”, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, trên trang PCDA.ORG.VN, cho rằng tại xã hội nông thôn truyền thống rác thải sinh hoạt được người dân xử lý bằng cách tận dụng tối đa vào sinh hoạt hằng ngày, cụ thể như: Thức ăn thừa thì cho gia súc gia cầm, rác thực vật ủ phân bón cho cây, chai lọ, vỏ đồ hộp như lon sữa bò tận dụng làm đồ đong, gáo múc Người Việt vốn có một tập quán xử lý rác hợp lý, tiết kiệm giữ môi trường sạch sẽ, phân loại và tìm cách tái sử dụng rác một cách hợp lý. Cùng với sự phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa nhanh, nảy sinh ra những mâu thuẫn cần giải quyết giữa lối sống nông nghiệp chuyển sang lối sống công nghiệp, giữa lối sống trong môi trường thành thị và lối sống trong môi trường nông thôn. Việc thu gom rác hợp lý và sự tự giác tham gia của cộng đồng trong các khâu thải rác và thu gom rác là những vấn đề cần đặt ra cho tất cả mọi hệ thống xã hội ở mọi nơi trong cả nước. Ngoài ra, nhóm tác giả cũng đã tìm được một đề tài nghiên cứu một cách khá cụ thể về nhận thức của cộng đồng trong vấn đề bảo vệ môi trường: 27
  28. TS. Nguyễn Văn Đúng trong đề tài “ Giải pháp nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường”, liên hiệp các khoa học và kỹ thuật tỉnh Đồng Tháp. Tham luận tại “Hội nghị thông báo kết quả nghiên cứu Khoa học Xã hội Nam Bộ 2008”. Đề tài đưa ra tình trạng ô nhiễm môi trường do khâu xử lý rác thải chưa hợp lý của cơ quan phụ trách. Hầu hết rác được thu gom về đều được mang ra các bãi rác lộ thiên, không được quy hoạch thiết kế hợp vệ sinh gây ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến sức khỏe người dân. Tác giả sử dụng phương pháp phân tích tài liệu; Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, liên ngành; Phỏng vấn theo phiếu khảo sát đã soạn sẵn, với số lượng mẫu 3050 phiếu tại phường 1 và 2 thành phố Cao Lãnh và xử lý thông tin bằng phần mềm Microsoft Excel, tác giả đã đưa ra những kết quả định lượng nhằm đánh giá sự quan tâm của người dân Tp.Cao Lãnh đối với vấn đề môi trường, đồng thời đề xuất những giải pháp nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường của người dân nơi đây. Nhìn chung, các đề tài trên đã đi sâu vào nghiên cứu, tập trung vào các hoạt động, chính sách liên quan đến lực lượng thu gom, phân loại rác thải sinh hoạt, đồng thời đã phần nào đề cập đến nhận thức của người dân trong việc phân loại thu gom và xử lý rác thải hàng ngày. Tuy nhiên các đề tài trên chỉ đi sâu vào nghiên cứu về lực lượng thu gom rác, các chính sách thể chế hoá hay môi trường xanh đô thị nên đóng góp của các đề tài về nghiên cứu nhận thức, thái độ và hành vi của người dân về ô nhiễm môi trường chỉ ở mức độ tổng quát và sơ bộ. Như vậy trong nghiên cứu này nhóm tác giả sẽ kế thừa những thành quả khoa học từ các cuộc nghiên cứu trước; Đồng thời trong nghiên cứu sẽ cố gắng đi sâu vào thực trạng thái độ, nhận thức và hành vi của người dân về ô nhiễm môi trường hiện nay với các phương pháp và cách tiếp cận lý thuyết khác hơn. 1.2. Lý thuyết áp dụng: Đề tài nghiên cứu áp dụng 3 lý thuyết: Lý thuyết hành động xã hội; Lý thuyết lối sống và lý thuyết kiểm soát xã hội. 28
  29. 1.2.1 Lý thuyết hành động xã hội : Hành động xã hội mà chủ thể gắn cho ý nghĩa chủ quan nhất định. Trong hành động xã hội bao giờ cũng phải có sự tham gia của ý thức, mà theo M.Werber đó là ý nghĩa chủ quan và sự định hướng mục đích. Khởi điểm của hành động xã hội là nhu cầu và lợi ích cá nhân, đó là những động cơ thúc đẩy hành động hay nói cách khác mọi người hành động đều có mục đích. Sự tác động của môi trường, hoàn cảnh tới hành động tùy theo hoàn cảnh hoạt động mà các chủ thể hành động sẽ lựa chọn phương án tối ưu nhất đối với mình. Sơ đồ thể hiện: Hoàn cảnh Nhu cầu Động cơ Chủ thể Phương Mục tiện đích công cụ Lý thuyết này cho rằng ở xã hội phát triển, hành động của con người sẽ tuân theo hành động hợp lý về giá trị và hợp lý về mục đích, thay vì hành động theo truyền thống hay theo cảm xúc. 29
  30. Lý thuyết hành động xã hội thể hiện, một người dân bỏ rác ra khỏi nhà mình mà không quan tâm bỏ có đúng nơi quy định hay không với những suy nghĩ chỉ cần trong nhà sạch sẽ và không có rác là được nhưng gia đình họ vẫn có thể bị ô nhiễm bởi mùi hôi thối từ rác thải họ bỏ không đúng nơi quy định bay vào nhà và làm cho gia đình họ cũng phải chịu ô nhiễm. Hay đó là một hành động tuân theo khi thấy mọi người xung quanh ai cũng vứt rác bừa bãi, không đúng nơi quy định hay không bao giờ phân loại rác thì họ không bao giờ tự mình thực hiện mà làm theo đám đông. Qua lý thuyết hành động xã hội cho ta biết được để giảm bớt những hậu quả không chủ định thì cần tăng cường hiểu biết về bản thân đồng thời cần phải biết chú ý hơn về hoàn cảnh, điều kiện, môi trường hành động, chỉ có như vậy chúng ta mối giảm bớt được tính duy ý chí trong hành động người dân nhờ đó sẽ tăng cường sự phù hợp giữa chủ thể hoan cảnh và hoàn cảnh và hoàn cảnh trên thực tế. Từ lý thuyết và thực tế là Thị xã Thủ Dầu Một là một đô thị đang phát triển về nhiều mặt kinh tế, văn hóa và xã hội nhóm đưa ra giả thuyết người dân trong phạm vi nghiên cứu sẽ thực hiện giữ gìn vệ sinh môi trường để đàm bảo mục đích của họ (một đời sống khỏe mạnh, sạch sẽ) và hợp với giá trị của họ, tức hợp với địa vị xã hội mà họ đang có. 1.2.2 Lý thuyết lối sống : Lối sống là một khái niệm có tính đồng bộ và tổng hợp. Nó gồm quan hệ kinh tế, xã hội, tư tưởng, tâm lý, đạo đức, văn hóa và quan hệ khác, đặc trưng sinh học của họ trong những điều kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất định (theo PGS. Lê Như Hoa) Lối sống được qui định bởi các điều kiện khách quan và chủ quan. Điều kiện khách quan: Điều kiện kinh tế xã hội, chính trị xã hội, tư tưởng và văn hóa, điều kiện về nhân khẩu, điều kiện về sinh thái. 30
  31. Lối sống là phương thức hoạt động của con người bao gồm: Nếp sống, thói quen, phong tục, tập quán, cách sống, cách làm, cách ăn, cách mặc, cách ở, cách sinh hoạt Điều kiện chủ quan: Điều kiện tâm lý xã hội, tình trạng chung của ý thức con người, thái độ của họ đối với môi trường xung quanh trực tiếp. Hoạt động sống của con người là tổng thể các khối cơ bản: Lao động, sinh hoạt, văn hóa xã hội, chính trị xã hội. Khi xem xét một mảng trong tổng thể các khối cơ bản thì không thể bỏ qua các khối khác. Bởi vì, giữa các khối có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau, chúng chịu sự tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung và hoàn thiện cho nhau. Khi tìm hiểu các hoạt động về vệ sinh môi trường trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, thì cần xem xét các hoạt động sống khác có liên quan. Đồng thời, phân tích các điều kiện khách quan, chủ quan để thấy được vì sao người dân có nhận thức, thái độ và hành vi như vậy trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt đảm bảo vệ sinh môi trường. 1.2.3 Lý thuyết kiểm soát xã hội Kiểm soát xã hội có thể là sự bố trí chuẩn mực, các giá trị cùng những chế tài ép buộc việc thực hiện chúng. Sự kiểm soát sẽ quy định hành vi của cá nhân, các nhóm vào các chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận là đúng, cần phải làm theo để đảm bảo xã hội luôn phát triển và bền vững. Áp dụng lý thuyết này thể hiện việc áp dụng các hệ thống chính sách của nhà nước cho người dân về vấn đề phân loại, thu gom và xử lý rác thải nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường. Bằng sự thuyết phục và áp dụng các chế tài như mức hình phạt về hành chính để nâng cao nhận thức của người dân và đẩy những hành động lệch lạc vào khuôn mẫu, đồng thời giúp xem xét việc thực hiện chính sách của nhà nước đã hợp lý và hiệu quả chưa để góp phần bổ sung chính sách . 1.3. Các khái niệm : 1.3.1/ Nhận thức: 31
  32. - Theo Từ điển Tiếng Việt Phổ Thông, viện Ngôn ngữ học, NXB Tp.HCM của TS. Chu Bích Thu, PGS.TS Nguyễn Ngọc Trâm, TS Nguyễn Thị Thanh Nga, TS Nguyễn Thúy Khanh,TS Phạm Hùng Việt) Nhận thức: 1. (danh từ) Quá trình và kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy, quá trình con người nhận biết, hiểu biết thế giới khách quan hoặc kết quả của quá trình đó 2. (động từ) Nhận ra và biết được. - Theo sách Tâm lý học đại cương, Khoa Giáo dục học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn: Nhận thức: Nhờ hoạt động nhận thức mà con người phản ánh hiện thực xung quanh ta và các hiện thực của bản thân ta, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ tình cảm và hành động. Trong việc nhận thức thế giới, con người có thể đạt tới mức độ nhận thức khác nhau, từ thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp. 1.3.2/ Thái độ: - Theo Từ điển Tiếng Việt Phổ Thông, viện Ngôn ngữ học, NXB Tp.HCM của TS. Chu Bích Thu, PGS TS Nguyễn Ngọc Trâm, TS Nguyễn Thị Thanh Nga, TS Nguyễn Thúy Khanh,TS Phạm Hùng Việt) Thái độ: (danh từ) 1. Tổng thể nói chung những biểu hiện ra bên ngoài (bằng nét mặt, cử chỉ, hành động, lời nói) của ý nghĩ, tình cảm của người nói đối với người hoặc việc. 2. Cách nghĩ, cách nhìn và cách hành động theo một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình hình. 1.3.3/ Ý thức: - Theo Từ điển Tiếng Việt Phổ Thông, viện Ngôn ngữ học, NXB TP.HCM của TS. Chu Bích Thu, PGS TS Nguyễn Ngọc Trâm, TS Nguyễn Thị Thanh Nga, TS Nguyễn Thúy Khanh,TS Phạm Hùng Việt) 32
  33. Ý thức: 1. Là khả năng của con người phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy. 2. Sự nhận thức trực tiếp, nhất thời về hoạt động tâm lý của bản thân mình, sự hiểu biết trực tiếp về những việc bản thân mình làm 3. Sự nhận thức đúng đắn, biểu hiện bằng thái độ, hành động cần phải có. 1.3.4/ Hành vi: - Theo Từ điển Tiếng Việt Phổ Thông, viện Ngôn ngữ học, NXB Tp.HCM của TS. Chu Bích Thu, PGS TS Nguyễn Ngọc Trâm, TS Nguyễn Thị Thanh Nga, TS Nguyễn Thúy Khanh,TS Phạm Hùng Việt) Hành vi (danh từ): Toàn bộ nói chung những phản ứng, cách ứng xử, biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định. 1.3.5/ Đô thị: - Theo nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 5 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ Việt Nam về việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị: Đô thị là khu dân cư tập trung có những đặc điểm sau: - Về cấp quản lý, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập; - Về trình độ phát triển, đô thị phải đạt được những tiêu chuẩn sau: - Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như: Vùng liên tỉnh, vùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành phố trực thuộc Trung ương; Vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện. 33
  34. - Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; Cơ Sở Hạ Tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mô dân số ít nhất là 4000 người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km². 1.3.6/ Môi trường: Theo luật bảo vệ môi trường đã được nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa IX. Kỳ họp thứ 4 (từ ngày 6 đến 30 – 12 – 1993) định nghĩa khái niệm môi trường như sau: Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau. Bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên. ( Điều 1- Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam ) Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại: * Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú. * Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo. Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí đất, nước, ánh sáng, môi trường xã hội 34
  35. 1.3.7/ Ô nhiễm Môi trường : "Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường".1 1.3.7.1/ Ô nhiễm không khí: “Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự toả mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa (do bụi)". 2 1.3.7.2/ Ô nhiễm môi trường đất : "Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện tượng làm nhiễm bẩn môi trường đất bởi các chất ô nhiễm". Người ta có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo các nguồn gốc phát sinh hoặc theo các tác nhân gây ô nhiễm. Nếu theo nguồn gốc phát sinh có: - Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt. - Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp - Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp. 1.3.7.3/ Ô nhiễm nước : Hiến chương Châu Âu về nước đã định nghĩa: "Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các loài hoang dã". Ô nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên: Do mưa, tuyết tan, gió bão, lũ 1 Theo luật bảo vệ môi trường đã được nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa IX. Kì họp thứ 4 từ ngày 6 đến 30 /12 /1993 (Theo Hoàng Hưng, Nguyễn Thị Kim Loan, sách “Con người và môi trường”, Nhà Xuất Bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2005) 2 Theo luật bảo vệ môi trường đã được nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa IX. Kỳ họp thứ 4 thông qua từ ngày 6 đến 30 / 12/ 1993. 35
  36. lụt đưa vào môi trường nước chất thải bẩn, các sinh vật và vi sinh vật có hại kể cả xác chết của chúng. Ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo: Quá trình thải các chất độc hại chủ yếu dưới dạng lỏng như các chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vào môi trường nước. Theo bản chất các tác nhân gây ô nhiễm, người ta phân ra các loại ô nhiễm nước: Ô nhiễm vô cơ, hữu cơ, ô nhiễm hoá chất, ô nhiễm sinh học, ô nhiễm bởi các tác nhân vật lý. 1.3.8/Rác thải Theo từ điển bách khoa toàn thư: Rác thải là những chất được loại ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất hoặc trong các hoạt động khác. Có nhiều loại rác thải khác nhau và có nhiều cách phân loại rác thải như sau: 1.3.8.1/ Phân loại theo nguồn gốc phát sinh, có: a) Rác thải công nghiệp: Tất cả các loại vật liệu, hoá chất, đồ vật được tạo thành không theo ý muốn trong các quá trình sản xuất công nghiệp. Rác thải công nghiệp có thể ở dạng rắn, lỏng, quánh, các loại chất thải nguy hại. b) Rác thải sinh hoạt: Tất cả các loại chất, vật liệu, đồ vật được tạo ra không theo ý muốn từ các hoạt động sống của con người như ăn, ở, vui chơi, giải trí, các loại vật liệu dùng làm túi bao gói, vv. c) Rác thải bệnh viện: Tất cả các loại rác thải được tạo ra trong các quá trình chẩn đoán, chữa trị và tiêm chủng miễn dịch cho người và động vật như: Các loại hộp, kim tiêm, gạc, bông, vật liệu bao gói và các loại mô động vật, vv. Rác thải bệnh viện thường ở dạng rắn. 36
  37. d) Rác thải phóng xạ: Các loại chất phóng xạ được tạo ra trong các nhà máy điện nguyên tử, các quá trình có liên quan đến năng lượng nguyên tử mà con người không thể kiểm soát được. Chất thải phóng xạ rất nguy hiểm do đặc tính tự phân rã và khó kiểm soát được của chúng cũng như những ảnh hưởng rất có hại của chúng đối với sức khoẻ người và vật. 1.3.9. Quản lý rác thải Theo bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Quản lý rác thải là hành động thu gom, phân loại và xử lý các loại rác thải của con người. Hoạt động này nhằm làm giảm các ảnh hưởng xấu của rác vào môi trường và xã hội. 1.3.10. Vệ sinh: - Theo Từ điển Tiếng việt phổ Thông, viện Ngôn ngữ học, NXB Tp.HCM của TS Chu Bích Thu, PGS.TS Nguyễn Ngọc Trâm, TS Nguyễn Thị Thanh Nga, TS Nguyễn Thúy Khanh, TS Phạm Hùng Việt) Vệ sinh: 1. (danh từ) Những biện pháp phòng bệnh, giữ gìn và tăng cường sức khỏe. 2. (tính từ) Không chứa chất bẩn hoặc những yếu tố gây hại cho sức khỏe. 1.3.11.Tiêu chuẩn môi trường: "Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mức, giới hạn cho phép, được quy định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường". 3 Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng các chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường. 1.3.12. Vi phạm tiêu chuẩn môi trường. 3 Theo Luật bảo vệ môi trường đã được nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa IX. Kỳ họp thứ 4 thông qua từ ngày 6 đến 30/12/1993 37
  38. 1.3.13. Quản lý môi trường. Theo Lê Văn Khoa, sách “Khoa học môi trường”, Nhà Xuất Bản Giáo Dục,2000. "Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia". 1.4. Mô hình khung phân tích và các giả thuyết. 1.4.1. Mô hình khung phân tích. Việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải. Trình độ học vấn Nhận thức, thái độ và Các cơ Môi trường hành vi của người dân về quan ô nhiễm môi trường quản lý Phương Điều kiện tiện truyền kinh tế thông Sức khoẻ, các nguồn bệnh, mĩ quan 38
  39. 1.4.2 Giả thuyết nghiên cứu Ý thức của một bộ phận người dân tại phường về việc phân loại và xử lý rác thải sinh hoạt còn kém. Công tác quản lý chưa tốt, tuyên truyền về vệ sinh môi trường tại phường chưa hiệu quả dẫn đến lượng rác thải chưa được thu gom, phân loại và xử lý hiệu quả. Lượng rác thải không được thu gom sẽ nhiều hơn, gây ô nhiễm môi trường hơn nếu không có sự can thiệp và giải quyết kịp thời. 39
  40. Chương 2: Thực trạng việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt của người dân phường Phú Thọ - Thị xã Thủ Dầu Một – tỉnh Bình Dương 2.1 Thực trạng việc phân loại, thu gom rác thải sinh hoạt của người dân phường Phú Thọ. 2.2 Thực trạng việc xử lý rác thải sinh hoạt của người dân phường Phú Thọ. 40
  41. 2.1 Thực trạng việc phân loại rác thải sinh hoạt. Với một tỉnh đang trong quá trình công nghiệp hóa – đô thị hóa, dân cư ngày càng đông, việc phân loại chất thải sinh hoạt trong các hộ gia đình ở tỉnh Bình Dương nói chung và phường Phú Thọ nói riêng hiện nay là hết sức cần thiết. Việc phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn mang lại lợi ích rất lớn giúp cho việc thu gom dễ hơn, tái sử dụng và tái chế lại những loại rác có thể sử dụng được. Phân loại rác thải tại nguồn sẽ tiết kiệm được ngân sách trong việc thu gom, xử lý, giảm diện tích bãi rác đồng thời giảm ô nhiễm môi trường không khí, môi trường đất và nước ngầm, việc làm phân bón hữu cơ sẽ hiệu quả hơn, tiết kiệm nguồn tài nguyên, chi phí khai thác nhiên liệu. Ngoài ra phân loại rác tại nguồn giúp cho việc quản lý rác tốt hơn, hạn chế sự ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt, góp phần bảo vệ môi trường sống. Kết quả khảo sát về thực trạng phân loại rác thải sinh hoạt của người dân cho thấy, đây là vấn đề được nhiều người quan tâm, nhưng mức độ quan tâm trong cộng đồng có khác nhau theo tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp và trình độ học vấn 41
  42. Bảng 2.1 : Đánh giá tầm quan trọng của việc phân loại rác chia theo nhóm tuổi (N = 49) Nhóm Đánh giá việc phân loại rác thải sinh hoạt Tổng tuổi Rất quan Quan Không Khó trả trọng trọng quan lời trọng Nhóm N 3 5 8 tuổi từ Cột % 37,5% 62,5% 100,0% (20-30) Nhóm N 6 5 1 12 tuổi từ Cột % 50,0% 41,7% 8,3% 100,0% (31-40) Nhóm N 8 7 15 tuổi từ Cột % 53,3% 46,7% 100,0% (41-50) Nhóm N 4 3 1 8 tuổi từ Cột % 50,0% 37,5% 12,5% 100,0% (51-60) Trên 60 N 2 1 2 5 Cột % 40,0% 20.0% 40,0% 100,0% Tổng N 23 22 2 2 49 Cột % 46,9% 44,9% 4,1% 4,1% 100,0% (nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả) Kết quả nghiên cứu mức độ quan trọng về vấn đề phân loại rác thải được trình bày trong bảng 2.1. Có đến 45/49 (91,8%) người trả lời cho rằng việc phân loại rác là rất quan trọng và quan trọng trong khi đó chỉ có 4/49 (8,2%) số người cho rằng là không quan trọng và khó trả lời . Điều này có thể nhận định rằng người dân trong phường có kiến thức và đã hiểu được tầm quan trong của việc phân loại rác sinh hoạt. Nhìn chung sự đánh giá về mức độ quan trọng của việc phân loại rác sinh hoạt trong gia đình có sự thay đổi theo tuổi tác. Bảng số liệu trên cho thấy trong 27 người thuộc các nhóm tuổi (31 – 40) và nhóm tuổi (41 – 50) được hỏi có tới 26 người chiếm trên 50% cho rằng việc phân loại là rất quan trọng và quan trọng, như vậy có thể nói đa số nhóm người ở tuổi trung niên đều đánh 42
  43. giá việc phân loại là quan trọng và rất quan trọng. Theo nhận định chủ quan của nhóm tác giả, có thể đây là nhóm tuổi mà công việc của họ đã ổn định hoặc có thể tuổi trẻ với tinh thần cầu tiến, năng động và nhạy cảm đối với những vấn đề đang xảy ra xung quanh họ, quan tâm đến những vấn đề xảy ra cho môi trường trong tương lai. Trong khi đó người cao tuổi( trên 60) có 5 người tham gia trả lời thì 3( 6.1%) người cho rằng việc phân loại là quan trọng và rất quan trọng mặc dù ít năng động, ít tiếp xúc với những thay đổi trong xã hội hơn nhóm trẻ nhưng qua đánh giá tầm quan trọng của việc phân loại của người dân trong nhóm tuổi này cho thấy vấn đề phân loại rác sinh hoạt không chỉ có người trẻ quan tâm mà người cao tuổi cũng rất quan tâm. Chỉ có 2/49 hộ chiếm 4,1% cho rằng việc phân loại là không quan trọng có thể do tốn thời gian, thiếu dụng cụ để phân loại hoặc họ cho rằng việc phân loại rác là không cần thiết. Kết quả nghiên cứu cho thấy đánh giá mức độ quan trọng trong việc phân loại rác sinh hoạt của người dân chia theo giới tính có sự khác biệt như sau: Bảng 2.2: Đánh giá tầm quan trọng của việc phân loại rác thải sinh hoạt chia theo giới tính( N= 49) Đánh giá việc Giới tính Tổng phân loại rác Nam Nữ N Tỷ lệ % 43
  44. N Tỷ lệ % N Tỷ lệ % Rất quan trọng 12 52.2% 11 42.3% 23 46.9% Quan trọng 9 39.1% 13 50.0% 22 44.9% Không quan trọng 2 7.7% 2 4.1% Khó trả lời 2 8.7% 2 4.1% Tổng 23 100.0% 26 100.0% 49 100.0% (Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả) Qua bảng số liệu trên cho thấy, có 21/23 nam chiếm 91.3% cho rằng việc phân loại là quan trọng và rất quan trọng, có 8.7% số nam cho rằng khó trả lời. Trong số những người nữ tham gia trả lời có 24/26 người chiếm 92.3% cho rằng việc phân loại là rất quan trọng và quan trọng, số nữ cho rằng không quan trọng chỉ chiếm 7.7%. So sánh mức độ quan tâm giữa nam và nữ ta thấy được, đa số cả nam và nữ đều đánh giá tầm quan trọng của việc phân loại rác thải sinh hoạt là rất quan trọng và quan trọng. Điều đó cho thấy, nam giới đang ngày càng có xu hướng quan tâm đến vấn đề môi trường nói chung và việc phân loại rác thải sinh hoạt của gia đình nói riêng. Cụ thể là trong số người tham gia trả lời thì có 2 hộ gia đình là nữ trả lời không quan trọng vấn đề phân loại rác và cũng có 2 hộ tham gia trả lời là nam đánh giá việc phân loại là khó trả lời. Từ phân tích trên nhóm tác giả có nhận xét, tuy có đôi chút khác biệt trong việc đánh giá mức độ quan trọng của việc phân loại rác sinh hoạt giữa nam và nữ nhưng nhìn chung đều đánh giá là rất quan trọng và quan trọng, chỉ một số ít hộ trong những hộ tham gia trả lời tỏ ra không quan tâm đến vấn đê phân loại mà thôi. Qua quá trình khảo sát tại địa bàn phường, kết quả cho thấy, việc phân loại rác thải sinh hoạt tại các hộ gia đình ở phường Phú Thọ hiện nay chưa được thực hiện triệt để thể hiện qua bảng số liệu từ kết quả khảo sát như sau: Bảng 2.3: Số hộ dân phân loại rác thải sinh hoạt hàng ngày trước khi xử lý (N = 49) Số hộ phân loại rác N Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) thải sinh hoạt Có 22 44,9% 45.8% 44
  45. Không 24 49,0% 50% Khó trả lời 2 4,1% 4.2% Tổng 48 98,0% 100% Số người không trả 1 2,0% lời Tổng 49 100,0% (nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả) Số liệu trên cho thấy trong tổng số 48/49 hộ gia đình được hỏi trả lời chiếm 98.0% thì có 22/48 hộ chiếm 45.8% trả lời có phân loại rác trước khi được thu gom và xử lý. Trong đó có đến 24/48 hộ trả lời chiếm 50% cho biết là họ không phân loại rác thải sinh hoạt hàng ngày. Điều này chứng tỏ rằng: Có một số hộ dân trong phường thường phân loại rác thải sinh hoạt hàng ngày còn đa số hộ dân thì chưa phân loại. Qua đó cho thấy việc phân loại rác sinh hoạt của người dân tại địa bàn phường chưa đồng bộ, vẫn còn mang tính tự phát và không triệt để. Để làm rõ điều này chúng tôi có phỏng vấn sâu người dân sống tại phường thì nhóm khảo sát nhận được trả lời như sau: Hỏi: Chú có thấy người dân địa phương có phân loại rác không ạ? Đáp:Người dân địa phương không có phân loại rác, thường thì cứ đem vứt đại ra đường.(PVS người dân) Như vậy có thể nhận định rằng việc phân loại rác sinh hoạt ở các hộ gia đình tại phường Phú Thọ chưa được xem trọng. Vấn đề phân loại rác chưa được người dân quan tâm thực hiện. Theo như khảo sát của nhóm tác giả thì đa số các hộ dân không phân loại rác tại gia đình. Điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho bộ phận thu gom khi phải thu gom với một lượng rác thải lớn, lãng phí nguồn rác thải có thể sử dụng để tái chế, nếu nguồn rác thải này được phân loại thì sẽ tiết kiệm được nguồn nguyên liệu để tái chế. Mặt khác khâu xử lý cũng gặp nhiều khó khăn. 45
  46. Lợi ích của tái chế là tiết kiệm được nguồn tài nguyên, giảm thiểu được một lượng rác thải ra môi trường. Ngoài ra, nó còn giảm nhu cầu đất đai cần thiết để chôn lấp rác thải. Vì vậy, nếu người dân thường xuyên phân loại rác và phân loại đúng cách sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho xã hội, đồng thời giảm thiểu được nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Khi điều tra về số hộ có biết cách phân loại rác thì nhóm tác giả nhận được kết quả như sau: Bảng 2.4: Số hộ có biết cách phân loại rác sinh hoạt (N = 49) Số hộ biết cách phân N Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) loại rác Biết 37 75,5% 77.1% Không biết 11 22,4% 22.9% Tổng 48 97,9% 100,0% Số người không trả lời 1 2,1% Tổng 49 100,0% (Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả) Có đến 37/48 hộ tham gia trả lời chiếm 77.1% trả lời có biết cách phân loại rác thải sinh hoạt. Chứng tỏ, đa số các hộ dân trong khu vực đều biết cách phân loại rác sinh hoạt, có kiến thức khá tốt trong việc phân loại rác. Tuy nhiên việc thực hiện việc phân loại rác lại không chỉ phụ 46
  47. thuộc vào kiến thức mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Theo kết quả khảo sát ở bảng 2.3 cho thấy chỉ có 45,9% số hộ là có phân loại rác và một thực trạng không thể xem nhẹ là ở phường có đến 22,9% hộ tham gia trả lời cho biết rằng họ không biết cách phân loại rác. Điều này phản ánh tình trạng một số hộ dân trong phường không quan tâm nhiều đến việc phân loại rác sinh hoạt của gia đình mình. Cần nâng cao nhận thức của người dân, quan tâm hướng dẫn cho người dân biết cách phân loại rác thải sinh hoạt tại gia đình và có những biện pháp nhằm thay đổi hành vi của họ một khi đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phân loại rác. Khi được hỏi về người thường xuyên phân loại rác thải sinh hoạt hàng ngày trong gia đình nhóm tác giả nghiên cứu nhận được kết quả như ở bảng dưới đây: Bảng 2.3: Người thường xuyên phân loại rác sinh hoạt hàng ngày trong gia đình (N = 49) Người thường xuyên phân loại N Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) rac sinh hoạt hàng ngày trong gia đình Chồng 2 4,1% 8.3% Vợ 13 26,5% 54.2% Con 3 6,1% 12.5 Người khác 6 12,2% 25% Tổng số người trả lời 24 49,0% 100,0% Số người không trả lời 25 51,0% Tổng số người được hỏi 49 100,0% (nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả) 47
  48. Qua bảng số liệu trên cho thấy, có 24 hộ gia đình tham gia trả lời. Trong đó, chiếm 54.2% hộ cho biết việc phân loại rác sinh hoạt của gia đình thường xuyên là do người vợ làm. Ngoài ra, một số hộ được hỏi cũng trả lời người chồng 8.3% hộ tham gia trả lời, con 3/24 (12.5%) hộ và người khác 6/24 hộ (25%) tham gia trả lời có tham gia vào việc phân loại rác của gia đình. Như vậy, tuy số hộ tham gia trả lời câu hỏi này không nhiều nhưng cũng cho thấy một thực trạng chung là đa số việc phân loại rác sinh hoạt hàng ngày của gia đình là do người vợ đảm nhận, bên cạnh đó còn có sự tham gia của người chồng và con hoặc người khác trong gia đình thực hiện việc phân loại cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ. Nhưng khi so sánh giữa người chồng và người vợ thì cho thấy vợ là người thường xuyên phân loại hơn là người chồng. Qua kết quả khảo sát trên nhóm tác giả có một số nhận định sau: Người vợ với chức năng chăm sóc gia đình và làm những công việc chính trong gia đình như nội trợ, dọn dẹp nhà cửa nên họ quan tâm đến công tác vệ sinh và làm sạch môi trường cũng như việc phân loại rác trong gia đình họ hơn là những người chồng. Việc phân loại rác sinh hoạt ngay trong gia đình rất quan trọng và cần phải thường xuyên thực hiện, nhưng việc thu gom cũng không kém phần quan trọng vì trong quá trình xử lý có phân loại nhưng cũng không thể thiếu hoạt động thu gom. Vì vậy, nhóm đã tiến hành khảo sát đối với vấn đề thu gom rác tại địa bàn phường Phú Thọ và thu nhận được một số kết quả như sau: Ngày và giờ thu gom rác tại các Tổ trong các khu phố của phường không thống nhất với nhau. Ở một số tổ trong phường Phú Thọ, rác thải được thu gom vào hai ngày thứ năm và chủ nhật hàng tuần, giờ lấy rác khoảng 6g sáng và 17g chiều, bình quân mỗi ngày có khoảng 20 xe của công ty Công trình đô thị đi thu gom, tổng khối lượng rác sinh hoạt các loại được thu gom khoảng 110-120 tấn/ngày, sau đó đưa về bãi trung chuyển Truông Bồng Bông, tại đây sẽ có 3 xe thường trực để chuyển về bãi rác tập trung của tỉnh ở Chánh Phú Hòa để bàn giao cho công ty Cấp thoát nước - Môi trường xử lý. Theo kết quả điều tra của nhóm tác giả thì dịch vụ thu gom rác thải sinh hoạt trên địa bàn phường Phú Thọ trước tháng 9/ 2009 chưa có, Ủy Ban Nhân Dân phường Phú Thọ chỉ hợp 48
  49. đồng với Công ty Công Trình Xanh Đô Thị đến thu gom trong các khu phố của phường. Địa phương mới chỉ hình thành và đi vào hoạt động tổ thu gom rác dân lập vào tháng 9 năm 2009. Trong khi đó nguồn rác thải mà người dân thải ra ngày càng nhiều và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Để làm rõ hơn vấn đề này nhóm tác giả phỏng vấn một cán bộ môi trường ở phường. Trả lời câu hỏi của nhóm nghiên cứu cán bộ môi trường cho biết : Hỏi:Ở địa phương có các tổ chức thu gom rác thải không ạ? Đáp: Ở địa phương nói chung là nhiều năm nay thì tổ chức này do ủy ban nhân dân thị xã tổ chức, thông qua phòng quản lý đô thị, có đội rác của công trình đô thị, thì nó đã tổ chức nhiều năm rồi. Còn ở địa phương mình thì do tốc độ phát triển dân ngày càng nhiều, đường xá của nhân dân bây giờ phát triển. Như vậy phát triển đô thị về đường giao thông nông thôn mình, dân cư phát triển, thì hiện nay phường Phú Thọ và các phường khác của thị xã thì đang hình thành đội thu gom rác, đội quản lý thu gom rác dân lập của địa phương. Trên cơ sở đó thì tổ chức này sẽ triển khai đến nhân dân, đến từng khu phố, mỗi khu phố có một tổ lấy rác. Chính cái tổ lấy rác đó mới gom rác đưa về bãi tập kết rác, đã thống nhất cùng lãnh đạo của ủy ban nhân dân phường. Hiện nay từ tháng 9 là bắt đầu đi vào hoạt động rồi. Mới bắt đầu hoạt động đây thôi, chứ còn trước đây chưa có sự chỉ đạo chung thì mình phải sử dụng lực lượng thu gom rác của công trình đô thị.(pvs cán bộ môi trường) 49
  50. Thông tin trên cho biết, trước đó (trước tháng 9 năm 2009), việc tiến hành hoạt động thu gom rác tại các hộ dân trong các khu phố của phường Phú Thọ chủ yếu là do đội thu gom rác của công ty Công trình đô thị đảm nhận thông qua phòng Quản lý đô thị do Ủy ban nhân dân Thị xã tổ chức. Mãi cho tới tháng 9 vừa qua phường mới hình thành tổ thu gom rác dân lập trong từng khu phố, để các tổ thu gom đi thu gom và tập trung về bãi tập kết. Việc thành lập được các đội thu gom rác dân lập của phường tuy có hơi muộn so với tình hình chung và nhu cầu thu gom rác trong các tổ dân phố của phường hiện nay nhưng cũng đã thể hiện được một bước tiến mới trong lĩnh vực quản lý và thu gom rác của phường, tạo điều kiện chủ động hơn trong việc thu gom rác của các hộ dân cư trong từng khu phố. Những phân tích ở mục 2.1 được tóm tắt như sau: Vấn đề môi trường đang là mối quan tâm của nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau. Hầu hết mọi người đều nhận thức được tầm quan trọng của việc phân loại rác sinh hoạt đối với việc bảo vệ môi trường, việc phân loại rác thải sinh hoạt hàng ngày được đánh giá ở mức độ rất quan trọng và quan trọng, đánh giá này không chỉ riêng những người phụ nữ vốn là những người hay nội trợ, đảm nhận việc chăm sóc gia đình, là những người thường hay trực tiếp tiếp xúc với nguồn rác sinh hoạt của gia đình. Qua đó cũng cho thấy người nam thể hiện mối quan tâm của mình đối với vấn đề môi trường không kém người phụ nữ. Tuy việc phân loại rác thải sinh hoạt phần lớn là do người vợ hoặc là người khác trong gia đình nhưng đa số người nam tham gia trả lời câu hỏi “đánh giá về tầm quan trọng của việc phân loại rác”, đều đánh giá là rất quan trọng và quan trọng và qua đó ta cũng có thể thấy được xu hướng quan tâm của người nam trong gia đình đối với vấn đề môi trường ngày càng gia tăng. Từ đó sẽ tạo được nhiều thuận lợi trong việc nâng cao nhận thức của người dân đối với vấn đề bảo vệ môi trường sống thông qua việc phân loại và thu gom rác thải sinh hoạt của người dân và chính quyền địa phương. 50
  51. 2.2 Thực trạng việc xử lý rác thải sinh hoạt Xử lý rác thải trong sinh hoạt hàng ngày là việc được nhiều người quan tâm hiện nay. Xử lý rác thải tốt sẽ làm giảm ô nhiễm môi trường và làm giảm phát sinh các mầm bệnh, tiết kiệm tài nguyên. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có biện pháp xử lý hữu hiệu nên nguy cơ gây ô nhiễm môi trường ngày càng cao. Thu gom và xử lý chất thải rắn đã thật sự là nỗi bức xúc của con người. Quy trình xử lý rác ở Thị xã hiện tại có thể được tóm tắt như sau: Một số được đem đi chôn lấp, một số tái chế, một số làm phân bón. Hiện nay chất thải sinh hoạt của người dân chủ yếu được xử lý bằng phương pháp chôn lấp, đốt tại các bãi chôn lấp, chỉ một phần nhỏ được xử lý bằng phương pháp ủ sinh học (kết quả nghiên cứu khoa học cấp bộ: Nghiên cứu nâng cao hiệu quả xử lý chất thải rắn hữu cơ bằng phương pháp ủ sinh học phù hợp với điều kiện ở Việt Nam). Theo thống kê của Sở Tài Nguyên Môi Trường cho biết mỗi ngày trên địa bàn tỉnh Bình Dương có khoảng 800 tấn chất thải các loại. Tại Thị xã Thủ Dầu Một, mỗi ngày có chừng 20% lượng rác thải sinh hoạt chưa được thu gom xử lý, trong số này phần lớn là do người dân tự hủy bằng cách thu gom rồi đốt tại chỗ. Việc xử lý rác sinh hoạt đối với người dân ở tỉnh Bình Dương nói chung và phường Phú Thọ nói riêng đóng vai trò rất quan trọng và cần thiết. Quá trình xử lý rác thải sinh hoạt của người dân bao gồm các giai đoạn: Phân loại, thu gom và xử lý. Do đó người dân thường trực tiếp tham gia vào công việc phân loại và thu gom rác thải của gia đình còn công việc xử lý rác sau khi phân loại và thu gom là nhiệm vụ của chính quyền và cơ quan có trách nhiệm (công ty Cấp thoát nước – Môi trường). Có thể có một số hộ sẽ tự chôn hoặc đốt rác trong các khu đất trống hoặc sau vườn của gia đình họ nhưng không phải hộ dân nào trong phường cũng có thể làm được như vậy và cách xử lý bằng cách chôn, đốt của một số hộ dân đó thì chưa thể đảm bảo vệ sinh môi trường và không gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến 51
  52. sức khỏe của người xung quanh. Vì vậy, vấn đề xử lý như chôn, đốt, tái chế, làm phân bón chủ yếu là công việc của nhà nước người dân không thể thực hiện được. Theo kết quả điều tra ý kiến người dân về tầm quan trọng của việc xử lý rác thải sinh hoạt cho thấy: Bảng 2.6: Ý kiến người dân về tầm quan trọng của việc xử lý rác thải sinh hoạt. ( N = 49) Mức độ N Tỷ lệ (%) Rất quan trọng 26 53,1% Quan trọng 18 36,7% Không quan trọng 2 4,1% Khó trả lời 2 4,1% Tổng 48 98,0% Số người không trả lời 1 2,0% Tổng 49 100,0% (Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả) Trong 48 hộ gia đình tham gia trả lời tại phường Phú Thọ có 44 hộ chiếm 89.8% cho rằng việc xử lý là rất quan trọng và quan trọng vì người dân cho rằng không ai có một cuộc sống tốt nếu môi trường bị ô nhiễm. Điều này cho thấy người dân nơi đây coi việc xử lý rác là rất quan trọng mặc dù công việc xử lý sau khi đã thu gom và phân loại thì không phải là của người dân mà là của các cơ quan chức năng và chính quyền. Vì trong thực tế rác thải có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sống của người dân, nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, môi trường sinh hoạt hàng ngày của họ. Trong địa bàn Thị xã Thủ Dầu Một việc xử lý rác thải là do công ty Cấp thoát nước – Môi trường chịu trách nhiệm. Hiện nay việc xử lý rác của các cơ quan chính quyền địa phương còn gặp nhiều khó khăn vì khâu phân loại người dân ít khi thực hiện như phân tích ở trên. Thông thường người dân trong phường chỉ bỏ tất cả các loại rác vào bọc nilon rồi đem ra nơi bỏ rác và nếu có phân loại thì cũng chỉ phân loại theo hình thức những loại có thể bán được cho ve chai 52
  53. như chai, lon nhựa và những loại có thể phân hủy dùng để chăm sóc cây cảnh, tận dụng cho heo ăn như nước thải, rau củ quả dư Có thể do người dân nghĩ việc xử lý rác sau khi phân loại và thu gom không thuộc trách nhiệm của họ, mà đây là công việc của bên lực lượng thu gom rác và chính quyền địa phương. Qua phỏng vấn một nhân viên vệ sinh môi trường là người tình nguyện thu gom rác của khu phố nơi chú đang sinh sống, nhóm nghiên cứu thu thập được một số thông tin như sau: Hỏi: Người ta có kiến thức về phân loại và xử lý rác không chú? Đáp: Ở đây nói thẳng là chẳng biết đâu, các nhà ở đây chủ yếu là nhà trọ, chú không có ở đây. Phần công nhân, tứ xứ nơi khác đến ở, người ta không phân loại, để rác trước nhà. Nếu mà chật quá thì người ta vứt ra đường. Mình mà không làm khéo thì người ta vứt đầy ra đường. Vận động khéo nói chủ nhà, có cách thức nói cho người ta đúng ngày mang rác ra thì nó sẽ giảm đi nhiều. Dạo trước ngày nào cũng như ngày nào, rác vứt đầy ra đường, lại 2, 3 ngày xe rác mới vào, rác ở ngoài đường mặc kệ nó. Chứ không có người dọn dẹp thì nó vẫn nằm đó. Hai năm về trước con đường này, xe máy không đi nổi, rác được vứt đầy đường, chẳng ai nói ai được. Mình không nói chẳng ai làm, người ta nói thấy đường phố sạch có trách nhiệm thì nó lờ đi chứ như người khác thì nói chung nó trung lập ở đây thì không ai hốt.(PVS lực lượng thu gom rác) Theo đánh giá của người được phỏng vấn đa số người dân đều không có kiến thức gì về việc xử lý rác sinh hoạt. Hơn nữa, tại một số khu vực trong địa bàn phường tập trung nhiều công nhân sinh sống làm ăn với một không gian sống chật hẹp thì việc vứt rác ra đường là điều không thể tránh khỏi. Một điều đáng chú ý ở đây là việc vận động đến các chủ nhà không nên vứt rác thì lượng rác thải vứt ra đường được giảm đáng kể. điều này cho thấy công tác vận động của chính quyền địa phương đem lại nhiều hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi vứt rác bừa bãi ra đường của người dân. 53
  54. Trong quá trình nghiên cứu nhóm tác giả nhận thấy, công việc xử lý rác thải của các hộ dân cư chủ yếu là do chính quyền địa phương và các cơ quan có trách nhiệm. Trong quá trình khảo sát tại địa bàn phường nhóm tác giả nhận thấy, tại một số hộ nằm sâu trong các con hẻm nhỏ có thể xử lý rác sinh hoạt của gia đình mình như có đất vườn rộng họ thường tự xử lý nguồn rác bằng cách chôn, đốt Bảng dưới đây thể hiện cách thức xử lý rác thải sinh hoạt của các hộ gia đình Bảng 2.7: Cách thức xử lý rác thải sinh hoạt của các hộ gia đình( N = 49) Cách xử lý rác thải N Tỷ lệ (%) Để trước nhà công nhân vệ sinh 21 42,9% đến thu gom Để vào thùng rác công cộng 24 49,0% Vứt rác ở gần nhà 1 2,0% Đào hố chôn, đốt 2 4,1% Khác 1 2,0% Tổng 49 100,0% (Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả) Kết quả khảo sát 49 hộ gia đình cho thấy đa số người dân bỏ rác vào thùng công cộng. Có 49,0% hộ tham gia trả lời để vào thùng rác công cộng, 42,9% hộ cho biết họ để rác trước nhà công nhân vệ sinh đến thu gom, chỉ có 2/49 hộ chiếm 4,1% cho biết họ có đào hố để chôn và đốt. Theo quan sát của nhóm tác giả, các thùng rác công cộng thường để cho những người qua đường bỏ vào, rác của các hộ dân thì đã có các lực lượng dến thu gom. Qua quan sát, nhóm tác giả nhận thấy đa số các hộ gia đình bỏ rác vào thùng công cộng là những hộ sống gần các con đường có phân bổ thùng rác, nhưng tất cả các hộ này đều phải trả tiền phí thu gom rác. Còn những hộ đào hố để chôn và đốt thì thường là những hộ sống ở trong các con hẻm có khu đất rộng, đây thường là những hộ nằm sâu trong các con hẻm nhỏ của các khu phố và lực lượng thu gom không tới thu gom rác thải của họ nên các hộ này cũng chưa phải 54
  55. đóng tiền phí thu gom rác, việc đóng tiền phí thu gom rác chỉ mới phải thực hiện từ đầu tháng 9 vừa qua khi lực lượng thu gom rác dân lập được thành lập và đã đi vào hoạt động. Chôn và đốt là hai phương pháp truyền thống. Cách xử lý này tuy làm giảm lượng rác thải có trong môi trường, các chất thải sau khi chôn lấp sẽ thối rữa mục nát trong một thời gian ngắn, nhưng những chất vô cơ như bịch nilon, thuỷ tinh, nhựa, sắt vv hàng chục năm cũng khó phân huỷ hết, nó sẽ là nguyên nhân phát sinh các mầm bệnh. Trong một nguồn thải có thể có một hay nhiều chất thải rắn khác nhau. Tuy nhiên chất thải ở các hộ gia đình chủ yếu bao gồm: Thực phẩm thừa không ăn được sinh ra trong khâu chuẩn bị, dự trữ, nấu ăn Đặc điểm quan trọng của các loại chất thải này là phân huỷ nhanh trong điều kiện thời tiết nóng ẩm. Quá trình phân huỷ thường gây ra mùi hôi thối khó chịu. Ngoài ra còn có chất thải cháy như giấy, bìa nhựa, vải, cao su, gỗ Và chất thải không cháy như thuỷ tinh, vỏ hộp kim loại đây là những chất thải rất khó phân huỷ. Các loại chất thải có thể đốt cháy sẽ làm giảm lượng rác thải thải ra môi trường nhưng cũng có mặt còn tồn tại. Các loại rác sau khi đốt sẽ sinh ra khói bụi độc hại, những chất độc hại sẽ làm ô nhiễm bầu không khí và có thể gây ra các loại bệnh cho con người. Số hộ thực hiện theo cách này rất ít. Cả hai cách làm này nếu không đúng quy định và hợp lý đều góp phần làm ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng hơn. Do đó công việc chính của người dân để đóng góp vào việc bảo vệ môi trường là chỉ nên tham gia vào việc thu gom và phân loại rác thải sinh hoạt cách hợp lý. Còn việc xử lý rác thải thì nên để các cơ quan có trách nhiệm tiến hành như vậy sẽ giảm được nguy cơ gây ô nhiễm môi trường sống và không gây hại cho sức khỏe của người dân. Để làm rõ hơn điều này nhóm tác giả có phỏng vấn một người đang sinh sống tại phường: Hỏi: Chú có thấy người ta đốt rác rác nhiều không ạ? Đáp: Rác thì người ta chỉ đem đi bỏ chứ không xử lý. Tại vì mình cấm không cho đốt. Tại vì các hộ gia đình có nhiều hộ người ta đất rộng mình nói người ta đốt ảnh hưởng đến môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe, người ta đốt cháy lên bốc mùi trẻ em hít phải sẽ gây ra nhiều bệnh khác nhau như các cháu biết đấy cứ đi chợ một món hàng là một cái bịch ni lông, người dân 55
  56. ý thức là không có đốt, người ta tự đem cho xe hốt.(PVS người dân) Hỏi: Người dân thường hay đổ rác ở đâu nhất ạ? Đáp:Thường thì tập trung ra các đầu hẻm, hoặc là tập trung trong một địa điểm thường hay đổ, nhưng đa số thường tập trung ở các đầu hẻm.(PVS người dân) Khi hỏi người dân về cách xử lý rác thải sinh hoạt của chính quyền địa phương thì đa số người dân trả lời là không biết. Bảng 2.8: Chính quyền địa phương xử lý rác sau khi thu gom bằng cách (N= 49) Địa phương xử lý rác N Tỷ lệ (%) sau khi thu gom Chôn rác 6 12,2% Đốt 8 16,3% Tái chế 4 8,2% Không biết 31 63,4% Tổng 49 100,0% (Nguồn: kết quả khảo sát của nhóm tác giả) Kết quả khảo sát của nhóm tác giả cho thấy đa số người dân không biết chính quyền địa phương xử lý rác như thế nào. Trong tổng số 49 hộ chiếm 100% có tới 31 hộ chiếm 63,4% trả lời là không biết, chỉ có một số hộ biết địa phương xử lý bằng cách chôn đốt hoặc tái chế. Việc xử lý rác của chính quyền địa phương là kết hợp các hình thức chôn, đốt, tái chế chứ không 56
  57. phải sử dụng riêng biệt một hình thức xử lý nhất định nào, có loại rác có thể tái chế được thì tận dụng để tái chế nhưng cũng có những loại rác phải dùng biện pháp khác như: Chôn hoặc đốt Điều này nói lên rằng người dân ít chú ý đến việc xử lý rác của địa phương mà họ chỉ quan tâm đến việc làm cho gia đình mình hết rác còn rác sau khi đem đi bỏ, chính quyền địa phương sẽ làm gì với nó thì họ không quan tâm, không biết? Tuy nhiên khi hỏi một số cán bộ địa phương rằng: Rác sau khi được thu gom sẽ xử lý như thế nào? Và đem đi đâu để xử lý? Thì họ cho biết: Địa phương có hợp đồng với công ty Công trình xanh đô thị để thu gom còn đem đi đâu để xử lý thì họ cũng không biết. Có thể nói rằng vấn đề xử lý rác trên địa bàn phường Phú Thọ hiện nay đang ngày càng trở thành mối lo ngại cho các hộ dân. Dân số hiện nay lại đang ngày càng gia tăng nhanh chóng và kéo theo đó lượng thải cũng sẽ ngày càng nhiều sẽ tác động ngược trở lại làm cho môi trường sống của con người bị đe doạ. Hiện nay, tình trạng xử lý rác thải sinh hoạt ở phường cũng đang gặp nhiều khó khăn do chưa có bãi chứa rác, không có các điểm trung chuyển rác. Theo đánh giá của nhiều người dân trong phường thì công tác xử lý rác của các hộ dân trong địa bàn sinh sống là chưa được tốt. Bảng 2.9.: Ý kiến của người dân về cách xử lý rác hiện nay. (N= 49) Mức độ N Tỷ lệ (%) Rất tốt 4 8,2% Tốt 18 36,7% Chưa tốt 24 49,0% Khó trả lời 3 6,1% Tổng 49 100,0% (Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả) Khảo sát 49 hộ gia đình. Những người biết người dân trong phường mình xử lý rác như thế nào? thì có 44.9% cho rằng việc xử lý rác hiện nay là rất tôt và tốt. Có tới 55.1% số hộ cho rằng chưa tốt và khó trả lời. Kết quả khảo sát đưa ra một thực trạng là người dân rất quan tâm đến 57
  58. việc phân loại rác nhưng việc thực hiện xử lý rác thì chưa tốt. Tình hình quản lý môi trường cũng chưa được chính quyền địa phương quan tâm đúng mức. Bảng 2.10: Đánh giá về mức độ xử lý rác của người dân trong phường hiện nay (N = 49) Nghề nghiệp N (%) Mức độ Tổng Rất tốt Tốt Chưa Khó trả tốt lời Buôn bán, dịch vụ N 3 2 5 Cột % 60,0% 40,0% 100,0% Cán bộ viên chức nhà N 3 4 12 19 nước Cột % 15,8% 21,1% 63,2% 100,0% Công nhân N 2 5 1 8 Cột % 25,0% 62,5% 12,5% 100,0% Tiểu thủ công nghiệp N 1 1 2 Cột % 50,0% 50,0% 100,0% Về hưu già yếu không làm N 5 1 1 7 việc Cột % 71,4% 14,3% 14,3% 100,0% Không nghề, không việc N 1 1 Cột % 100,0% 100,0% Nghề khác N 3 3 1 7 Cột % 42,9% 42,9% 14,3% 100,0% Tổng N 4 18 24 3 49 Cột % 8,2% 36,7% 49,0% 6,1% 100,0% (Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm tác giả) 58
  59. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 44,9% hộ tham gia trả lời cho rằng việc xử lý rác của địa phương hiện nay là tốt và rất tốt và có 27 người chiếm 55,1% cho biết việc xử lý rác là chưa tốt và khó trả lời. Đánh giá thể hiện sự khác nhau trong các nghề nghiệp của người dân. Trong tổng số 100%( 24) hộ trả lời tốt và rất tốt có 29.2% số hộ là cán bộ công nhân viên chức, nghề tự do bao gồm( buôn bán dịch vụ, thủ công nghiệp, công nhân và nghề khác) chiếm 45.8%, Về hưu già yếu và không nghề không việc chiếm 25%. Trong khi đó, trong tổng số 27 hộ (100%) trả lời chưa tốt và khó trả lời thì có 44.4% là cán bộ công nhân viên chức, nghề tự do chiếm 48.1%, về hưu và không nghề không việc chiếm 7.5%. Kết quả trên cho thấy việc xử lý rác của địa phương vẫn chưa tốt và nhiều người dân chưa thực sự quan tâm đến việc xử lý rác của địa phương. Lượng rác thải chưa được xử lý, hầu hết đều xả vào các kênh rạch hoặc đổ đống ở đầu các con hẻm, công nhân vệ sinh của công ty Công trình đô thị đến thu gom, “Trong khi đó số lượng rác thải thì ngày càng gia tăng do quá trình tăng dân số và sự phát triển của nền kinh tế, GDP tăng 1%, chất thải tăng 3%. Nếu tiếp tục tình trạng này, chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt trong hiện tại cũng như mai sau ” Ý kiến của Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường (KH-CN &MT). Ngoài việc người dân không ý thức được việc phân loại, cộng thêm công nghệ xử lý rác lạc hậu, chưa có quy trình xử lý mà chỉ xử lý theo phương pháp truyền thống là chôn và đốt nên càng gia tăng tình trạng ô nhiễm. Tình trạng rác thải bỏ ra đường, nơi đất trống vẫn xảy ra. Nguyên nhân một phần do ý thức của người dân còn kém, mặt khác do công tác quản lý, thu gom và xử lý rác ở địa phương còn thiếu đồng bộ, triệt để. Lượng rác lớn nhưng thời gian xe đến thu gom khá lâu nên rác chóng đầy và tràn ra ngoài. Vì vậy chính quyền địa phương cần phải tuyên truyền, cung cấp những kiến thức cần thiết về môi trường cho người dân. Tập huấn bài bản về cách xử lý rác để người dân nâng cao trách nhiệm và có ý thức bảo vệ môi trường hơn, làm cho họ thấy trách nhiệm của mình. Bởi chính từng người dân, từng hộ gia đình luôn đóng vai trò quyết định trong việc bảo vệ môi trường. Vì gia đình là tế bào của xã hội, nếu gia đình không biết trân trọng, giữ gìn môi trường sống xung quanh thì cảnh quan môi trường sẽ dễ dàng bị phá vỡ. 59
  60. Trong nhiều năm qua, rác thải sinh hoạt do người dân đổ ra đường đã và đang trở thành nỗi bức xúc, gây ô nhiễm môi trường. Mặc dù vấn đề này đã được người dân và công luận nhiều lần lên tiếng, phản ánh nhưng tình trạng trên cứ tồn tại như một sự thách thức Rác thải, đặc biệt là nhựa phế liệu, đang trở thành gánh nặng cho xã hội. Ai cũng biết rác là chất thải, là thứ bỏ đi. Nhưng không phải ai cũng biết, rác thải ngày càng nhiều và là hiểm hoạ đối đối với con người và nguy hại gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ô nhiễm môi trường từ rác sinh hoạt là vấn đề bức xúc trong giai đoạn công nghiệp hóa, đô thị hóa hiện nay, từ đó làm thế nào quản lý và xử lý rác sinh hoạt một cách hợp lý, bảo đảm vệ sinh môi trường, an toàn cho sức khỏe cộng đồng là mục tiêu của các cấp chính quyền. Tuy nhiên, để bảo đảm hiệu quả công tác quản lý và xử lý rác, cần phải thực hiện đồng bộ từ khâu phân loại, thu gom, vận chuyển cho đến xử lý rác. Đây là công việc rất khó khăn, cần tuyên truyền rộng rãi để nhân dân có thể hiểu và thực hiện. 60
  61. Chương 3: Nhận thức, thái độ của người dân trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. 61
  62. 3.1. Nhận thức và thái độ của người dân trong việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt. Điều tra việc nhận thức và thái độ của người dân trong việc bảo vệ môi trường là một việc hết sức phức tạp đòi hỏi người làm điều tra phải khách quan và có những hiểu biết căn bản về môi trường và các vấn đề của nó. Nhận thức và thái độ là vấn đề khó đo lường, vì vậy rất khó đưa ra thước đo chính xác. Do đó, nghiên cứu sẽ đánh giá một cách tương đối ở từng đối tượng dựa vào các tiêu chí như: Sự quan tâm đến các vấn đề môi trường qua các phương tiện truyền thông đại chúng, hiệu quả của việc tổ chức và tham gia các hoạt động về môi trường trong cuộc sống, thái độ của mọi người với các hành vi gây ô nhiễm môi trường được phân theo trình độ học vấn, nghề nghiệp, giới tính, ý thức bảo vệ môi trường trong sinh hoạt hàng ngày, đánh giá nhận thức môi trường của những người xung quanh, đánh giá của cộng đồng về nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường hiện nay. Tương ứng với các tiêu chí, nhóm tác giả tiến hành phân tích đánh giá mức độ nhận thức và thái độ của các đối tượng được nghiên cứu, so sánh để tìm ra nguyên nhân và giải pháp. 62
  63. Bảng 3.1: Nguyên nhân bỏ rác và đổ rác không đúng nơi qui định ( N =49) Nguyên nhân N Tỷ lệ % Do thói quen 27 55.1 Sợ tốn tiền đổ rác 1 2.0 Giờ lấy rác không hợp lý 3 6.1 Thiếu thùng rác 8 16.3 Do thuận tiện 1 2.0 Làm theo người xung quanh 1 2.0 Do hàng rong, xe ôm thải ra 1 2.0 Khác 5 10.2 Tổng 47 95.9 Không trả lời 2 4.1 Tổng 49 100.0 (Nguồn : Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả) Từ kết quả khảo sát trên của nhóm tác giả đối với các đối tượng được khảo sát cho thấy: Nguyên nhân chủ yếu của việc đổ rác không đúng quy định phần lớn là do thói quen, có 27 hộ trả lời chiếm tỷ lệ cao nhất 55.1% cho thấy được ý thức của người dân về việc vệ sinh công cộng còn yếu. Nguyên nhân bỏ rác không đúng nơi quy định là do thiếu thùng rác, trong tổng số 49 hộ được hỏi thì có 8 hộ cho rằng thiếu thùng rác chiếm 16, 3%. Việc bỏ rác không đúng nơi qui định của người dân địa phương có một phần là do thói quen người dân và qui định giờ lấy rác chưa được hợp lý. 63
  64. Bảng 3.2: Nguyên nhân bỏ rác và đổ nước thải không đúng qui định Theo tiêu chí thu nhập(N = 49) Thu nhập 1 đến 3 4 đến 6 7 đến 9 Trên 9 Nguyên nhân triệu triệu triệu triệu Do thói quen 7 10 3 Sợ tốn tiền đổ rác 4 1 Giờ lấy rác không hợp lý 3 3 1 Thiếu thùng rác 4 9 1 1 Do thuận tiện 1 3 2 Làm theo người xung 3 5 3 quanh Không xử phạt kịp thời 1 1 1 1 Do các công trình đang xây 1 dựng Do hàng rong xe ôm thải ra 1 2 Rác theo kênh rạch đến từ 1 1 nơi khác Mức xử phạt chưa hợp lý 3 Khác 3 4 2 ( Nguồn: Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả) Bảng 3.2 cho thấy các hộ có thu nhập thấp (1- 3 triệu) và thu nhập cao (trên 9 triệu) ở địa phương đều cho rằng lý do sợ tốn tiền đổ rác không phải là nguyên nhân chính. Trong khi đó đa số các hộ cho rằng việc đổ rác không đúng nơi qui định là do thói quen thể hiện: Có 20 hộ trả lời trong đó có 7 hộ thu nhập thấp (1- 3 triệu), 13 hộ thu nhập trung bình (4- 9 triệu). Nhưng những hộ có thu nhập cao nhất (trên 9 triệu) thì không cho rằng thói quen là nguyên nhân bỏ rác và nước thải không đúng nơi qui định. Các hộ có thu nhập từ thấp nhất đến cao nhất đều trả lời là thiếu thùng rác. Trong 15 hộ tham gia trả lời, có 4 hộ thu nhập thấp (1-3 triệu), 10 hộ thu nhập trung bình (4-9 triệu) và 1 hộ thu nhập trên 9 triệu. Như vậy, thiếu thùng rác là một trong những nguyên nhân chính của việc người dân trong phường bỏ rác và đổ nước thải không đúng nơi qui định. 64
  65. Qua phỏng vấn sâu một người dân sinh sống tại khu phố 7 nhóm tác giả thu được một số thông tin đáng chú ý như sau: Hỏi: Các thùng rác có để đúng nơi quy định không chú? Đáp: Những thùng có là đúng nơi quy định, những địa điểm đã mất nguyên nhân là do ve chai lấy mất, tại vì bảo quản là những người gần nhà mình mới bảo quản được. Đâu có nhân viên nào bảo quản đâu.( PVS Nam – viên chức nhà nước – khu phố 7) Theo trả lời của người được phỏng vấn, nhóm tác giả được biết tại địa bàn phường thùng rác công cộng vốn không thiếu và phân bổ đúng nơi quy định. Nguyên nhân của việc thiếu một số thùng rác tại địa bàn phường hiện nay là do bị mất cắp thường xuyên, một số người thu lượm ve chai đã vì một chút lợi ích trước mắt của bản thân mà không cần nghĩ đến lợi ích của cộng đồng. Về phía các cơ quan quản lý, mặc dù tình trạng này vẫn hay xảy ra tại nhiều nơi trên địa bàn phường nhưng vẫn chưa có biện pháp thích hợp để ngăn chặn kịp thời và hạn chế tình trạng này. Từ đó dẫn đến thùng rác ngày càng thiếu và phân bổ lại không hợp lý. Một thực tế mà nhóm nghiên cứu đề tài thu thập được trong quá trình quan sát tại địa bàn phường là ở một số khu phố người dân thiếu thùng rác công cộng, trong khi đó có một số khu đất trống đã được chính quyền địa phương bố trí đến 2 thùng rác công cộng để người dân vừa tiện việc bỏ rác vừa tiện cho việc phân loại nhưng người dân sống ở đó lại không hề bỏ rác vào thùng mà lại vứt rác bừa bãi xung quanh thùng rác.( trường hợp nhóm nghiên cứu thu thập ở khu phố 3 của phường, có hình minh họa phần phụ lục) Khảo sát về việc tìm hiểu thông tin về môi trường qua các nguồn của người dân, nhóm nghiên cứu nhận thấy có một số sự khác biệt rõ rệt trong cách tiếp nhận thông tin về môi trường và sự khác biệt giữa nam và nữ được thể hiện trong kết quả ở bảng sau. Bảng 3.3: Tìm hiểu các chương trình bảo vệ môi trường qua các nguồn( N = 49) 65
  66. Nguồn tìm hiểu các Giới tính Tổng chương trình bảo Nam Nữ N Tỷ lệ % vệ môi trường N Tỷ lệ % N Tỷ lệ % Pano, áp phích, tờ 11 47.8% 7 26.9% 18 36.7% rơi, biểu ngữ Gia đình 2 8.7% 5 19.2% 7 14.3% Bạn bè 1 4.3% 2 7.7% 3 6.1% Nhà trường 2 8.7% 4 15.4% 6 12.2% Phương tiện truyền 15 65.2% 24 92.3% 39 79.6% thông Chính quyền cơ sở 10 43.5% 9 34.6% 19 38.8% Khác 3 11.5% 3 6.1% (Nguồn: Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả) Qua số liệu trên cho thấy người dân biết các chương trình bảo vệ môi trường qua các nguồn: Pano, áp phích, tờ rơi, biểu ngữ, gia đình, phương tiện truyền truyền thông, chính quyền bạn bè, nhà trường, chính cơ sở và các nguồn khác. Trong đó phương tiện truyền thông có nhiều ý kiến trả lời nhất, tổng số cả nam và nữ có 39 ý kiến trả lời chiếm 79.6%. Chính quyền cơ sở có 19 ý kiến trả lời chiếm 38.8% và pano, áp phích, tờ rơi, biểu ngữ có 18 ý kiến trả lời chiếm 36.7%. So sánh cách tìm hiểu về thông tin về môi trường giữa nam và nữ, nhóm tác giả nhận thấy. Đa số nữ giới tìm hiểu thông tin về môi trường trên phương tiện truyền thông đại chúng như Ti vi, báo đài là chủ yếu, còn đối với nam giới ngoài việc tìm hiểu qua nguồn thông tin đại chúng họ còn chiếm đa số trong việc tìm hiểu qua các nguồn khác như pano, áp phích và qua chính quyền địa phương. Điều đó cho thấy đặc trưng chung của xã hội Việt Nam hiện nay mặc dù đã có sự thay đổi theo chiều hướng hiện nay là nam và nữ đều tham gia vào các công việc ngoài xã hội nên có nhiều cơ hội và nguồn để tìm hiểu thông tin về môi trường. Nhưng người nam vẫn còn mang vai trò là trụ cột trong gia đình, thường xuyên tham gia các hoạt động xã hội và là người hay tham gia các cuộc họp tổ dân phố của phường nên nguồn tiếp nhận thông tin nhiều hơn. Nữ giới hiện nay, mặc dù đã tham gia vào hoạt động kinh tế gia đình và cũng tham gia vào trong các hoạt động xã hội nhưng đó chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định, còn lại đa số là đảm nhận công việc nội trợ, chăm sóc gia đình nên nguồn thông tin chính vẫn là từ thông tin đại chúng. Khi khảo sát người dân về việc biết nơi rác thải sinh hoạt được đưa đến sau khi thu gom phân theo trình độ học vấn nhóm tác giả thu được kết quả sau: 66
  67. Bảng 3.4 : Khảo sát về việc biết nơi rác sau khi thu gom được đưa đến theo trình độ học vấn. ( N = 49) Trình độ học vấn Rác sau khi được thu gom Tổng được đưa đi đâu Biết Không biết Biết đọc biết N 2 2 viết Tỷ lệ % 6.5% 4.2% Tiểu học N 2 2 Tỷ lệ % 6.5% 4.2% Trung học cơ sở N 5 10 15 Tỷ lệ % 29.4% 32.3% 31.3% Trung học phổ N 3 9 12 thông Tỷ lệ % 17.6% 29.0% 25.0% Trung cấp/ cao N 3 5 8 đẳng Tỷ lệ % 17.6% 16.1% 16.7% Đại học hoặc N 6 3 9 trên đại học Tỷ lệ % 35.3% 9.7% 18.8% Tổng N 17 32 49 Tỷ lệ % 100.0% 100.0% 100.0% (Nguồn: Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả) Khi hỏi người dân có biết nơi rác được đưa đến sau khi thu gom không thì có đến 32/49 hộ tham gia trả lời không biết chiếm 65.3% trong khi đó chỉ có 17/49 hộ trả lời là có biết chiếm 34.7%. Số người không biết nơi rác được đưa đến chiếm gần gấp đôi số người biết. Số liệu chỉ ra rằng: Cùng trình độ Phổ thông cở sở (15 người tương ứng 100.0%, số người không biết (10/15 người chiếm 66.7%) gấp 2 lần số người biết ( 5/15 người chiếm 33.3%), cùng trình độ Phổ thông trung học số người không biết (9/12 người chiếm 75.0%) gấp 3 lần số người biết (3/12 người chiếm 25.0%). Chỉ có Cao đẳng và Đại học là có số người trả lời biết nhiều hơn số người trả lời không biết (6/9 người chiếm 66.7% biết và 33.3% không biết. 67
  68. Qua số liệu trên cho thấy có rất ít người biết nơi rác thải sinh hoạt sau khi thu gom sẽ được đưa đến, những người trả lời biết đều là những người có trình độ từ Trung học cơ sở trở lên. Số liệu trên cũng cho thấy có sự khác biệt trong trả lời của những người có cùng trình độ học vấn. Điều đó phần nào cho thấy người dân càng có trình độ học vấn cao thì mức độ quan tâm đến vấn đề môi trường càng nhiều và không đều nhau. Số người biết được nơi rác thải sinh hoạt sau khi thu gom sẽ được đưa đến chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Thực tế này cho thấy mức độ quan tâm của người dân trong phường chưa cao, cần có những biện pháp để người dân có thể quan tâm nhiều hơn. Tìm hiểu về phản ứng của người dân trong phường khi nhìn thấy người khác xả rác bừa bãi nhóm nhận được những thông tin quan trọng, kết quả được thể hiện ở bảng sau: Bảng 3.5 : Phản ứng khi thấy người khác bỏ rác bừa bãi( N = 49) Nghề N (%) Phản ứng khi nhìn thấy người khác xả rác Tổng nghiệp Không Khó Nhắc Tự nhặt Báo Khác phản chịu nhở rác bỏ chính ứng vào quyền thùng Buôn N 1 3 1 5 bán, Tỷ lệ % 4.8% 21.4% 50.0% 10.2% dịch vụ Cán bộ N 1 11 3 3 1 19 viên Tỷ lệ % chức 25.0% 52.4% 21.4% 42.9% 100.0% 38.8% nhà nước Công N 3 2 2 1 8 68
  69. nhân Tỷlệ % 14.3% 14.3% 28.6% 50.0% 16.3% Tiểu thủ N 1 1 2 công Tỷ lệ % 7.1% 14.3% 4.1% nghiệp Về hưu N 1 2 4 7 già yếu, Tỷ lệ % không 25.0% 9.5% 28.6% 14.3% làm việc Không N 1 1 nghề, Tỷ lệ % không 14.3% 2.0% việc Nghề N 2 4 1 7 khác Tỷ lệ % 50.0% 19.0% 7.1% 14.3% Tổng N 4 21 14 7 1 2 49 Tỷlệ % 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% (Nguồn: Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả) Bảng số liệu trên thể hiện số hộ không phản ứng chỉ chiếm 4/49 ( 8%) hộ. Số hộ có phản ứng là 45/49 chiếm đến 92%. Trong số những người có phản ứng thì mức độ và cách phản ứng cũng khác nhau. Phần lớn các hộ được hỏi thì có phản ứng khi nhìn thấy người khác vứt rác bừa bãi là khó chịu có 21(42.9%) hộ trả lời, trong đó có 11 hộ cán bộ nhân viên nhà nước trả lời là khó chịu chiếm 52.4%, cho thấy nhận thức về vệ sinh công cộng cao hơn các hộ dân khác và họ nhắc nhở là 3 hộ trả lời chiếm 21.4% trong tổng số 19 hộ trả lời. Còn lại, phần lớn các hộ trả lời là nhắc nhở là 14(28.6%) hộ trả lời t,rong đó hộ buôn bán, dịch vụ có 3 hộ trả lời chiếm 21.4%, về hưu già yếu không việc làm có 4 hộ trả lời chiếm 28.6%. Số liệu trên cho biết người dân đều có phản ứng khi thấy người khác xả rác bừa bãi chứng tỏ người dân rất quan tâm đến môi trường. Đó là một trong những thói quen tốt đem lại nhiều hiệu quả trong việc điều chỉnh những hành vi gây mất vệ sinh môi trường của những người xung quanh, góp phần nâng cao ý thức của cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên thói quen xả rác thải bừa bãi của nhiều người Việt Nam nói chung và người dân ở phường Phú Thọ nói riêng vẫn đang là một vấn đề cần có sự quan tâm và tìm những biện pháp điều chỉnh hợp lý 69
  70. không chỉ là công việc của các cơ quan quản lý mà chính là công việc cần có sự tham gia của cả cộng đồng dân cư. 70
  71. Bảng 3.6: Đánh giá về các chương trình vệ sinh môi trường mà địa phương đã đưa ra ( N =49) Nghề nghiệp Đánh giá về các chương trình vệ sinh môi trường mà địa phương đã đưa ra Rất hiệu quả Hiệu quả Bình thường Không hiệu quả Tổng Buôn bán dịch N 4 1 5 vụ Tỷ lệ % 22.2% 16.7% 11.1% Cán bộ, viên N 4 2 7 3 16 chức nhà nước Tỷ lệ % 66.7% 11.1% 46.7% 50.0% 35.6% Công nhân N 1 3 4 8 Tỷ lệ % 16.7% 16.7% 26.7% 17.8% Tiểu thủ công N 1 1 2 nghiệp Tỷ lệ % 5.6% 16.7% 4.4% Về hưu, già N 5 1 6 yếu không có Tỷ lệ % việc làm 27.8% 16.7% 13.3% Không nghề, N 1 1 không việc Tỷ lệ % 5.6% 2.2% Nghề khác N 1 2 4 7 Tỷ lệ % 16.7% 11.1% 26.7% 15.6% N 6 18 15 6 45 Tổng Tỷ lệ % 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% (Nguồn: Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả) Kết quả trên cho thấy, trong tổng số 45 hộ (100.0%) tham gia trả lời thì có 24 hộ chiếm 53.3% đánh giá các chương trình bảo vệ môi trường mà địa phương đưa ra là rất hiệu quả và hiệu quả, trong khi đó có 15/45 hộ chiếm 33.3% đánh giá ở mức dộ bình thường và 6/45 hộ chiếm 13.4% thì cho rằng không hiệu quả. Kết quả đánh giá trên cho thấy được đa số các hộ dân trong phường đều đánh giá cao hiệu quả các chương trình nhằm bảo vệ môi trường mà phường đã đưa ra và thực hiện, thể hiện sự quan tâm của người dân đối với các hoạt động bảo vệ môi trường. việc đánh giá này cũng thể hiện sự khác biệt trong các nghề nghiệp. Đánh giá về các chương trình vệ sinh môi trường mà địa phương đưa ra, thì đa số các hộ trả lời là “rất hiệu quả”có 6 hộ trả lời trên tổng số 45 hộ được hỏi, có 4 hộ cán bộ nhân viên nhà nước 71
  72. trả lời chiếm 66.7% và công nhân cùng với nghề khác đều có 1 hộ trả lời chiếm 16.7%. Việc đánh giá các chương trình “có hiệu quả” thì có 18 hộ trả lời trên tổng số 45 hộ được hỏi. Trong đó đánh giá “hiệu quả” và “bình thường” là các hộ cán bộ nhân viên nhà nước chiếm 46.7%. Qua những số liệu đã được phân tích, nhóm tác giả nhận thấy nguyên nhân chủ yếu của việc bỏ rác không đúng nơi quy định tại phường Phú Thọ là do thói quen bỏ rác bừa bãi của người dân. Người có trình độ học vấn cao (Trung học cơ sở và Trung học phổ thông) nhưng vẫn không quan tâm việc rác sau khi thu gom được đưa đi đâu. Điều này cho thấy nhận thức của người dân về việc quan tâm đến vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường còn chưa được tốt. Phần lớn người dân cho rằng các chương trình vệ sinh môi trường mà địa phương đã đưa ra thì “hiệu quả”. 72
  73. Chương 4. Vai trò của các cơ quan quản lý trong việc hướng dẫn và quản lý người dân thu gom và xử lý rác. 4.1 Tìm hiểu về chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý. 4.2 Các chương trình vận động sự tham gia của người dân. 4.3 Sự tham gia của người dân phường Phú Thọ trong các chương trình, hoạt động bảo vệ môi trường của chính quyền địa phương. 4.4 Hướng dẫn và giám sát của các cơ quan quản lý. 4.1 Tìm hiểu về chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý môi trường Phường Phú Thọ -Thị xã Thủ Dầu Một -Tỉnh Bình Dương. Việc tìm hiểu về chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý môi trường, nhóm tác giả chỉ đi sâu vào tìm hiểu chức năng và nhiệm vụ của cơ quan quản lý môi trường tại địa 73
  74. phương cụ thể là tìm hiểu chức năng nhiệm vụ của cơ quan quản lý môi trường tại Phường Phú Thọ. Do đó nhóm tác giả chỉ dừng lại ở góc độ đưa ra một số vấn đề và những nhận xét liên quan đến địa bàn nghiên cứu. Trong những năm qua các cơ quan chức năng của phường đã có nhiều quan tâm trong việc cải tiến về phương tiện thu gom rác như tăng thêm thùng rác công cộng, trang bị đồ bảo hộ cho công nhân vệ sinh (đội thu gom rác dân lập: quần áo, bao tay ), tăng thời lượng đi thu gom rác và tăng thêm xe lấy rác đến từng hộ dân (Theo báo cáo kết quả công tác quản lý của UBND phường về môi trường năm 2009), cũng như tiến hành đổi mới tăng cường tổ chức quản lý điều hành về môi trường tại phường Phú Thọ - Thị xã Thủ Dầu Một – tỉnh Bình Dương. Phường tiến hành thành lập các đội rác dân lập tại từng khu phố đồng thời hỗ trợ kinh phí cho các đội rác dân lập. (theo báo cáo kết quả công tác quản lý của phường về môi trường năm 2009 – UBND phường Phú Thọ) Hiện nay, hầu hết các khu phố của phường đều đã có đội thu gom rác dân lập. Mỗi khu phố thành lập 4 tổ lấy rác, có 18 người để đảm bảo thu gom rác trong ngày tại các hộ dân trên địa bàn của phường. Phường tổ chức các hoạt động về môi trường như: Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường cho các cán bộ công nhân viên chức của phường. Công tác quản lý các hoạt động bảo vệ môi trường do ban điều hành khu phố phối hợp với ban mặt trận và đoàn thể chính trị xã hội thực hiện. Chính quyền địa phương tổ chức cho người dân học tập luật bảo vệ môi trường, nắm bắt hiểu biết yêu cầu bảo vệ môi trường trong khu dân cư, địa bàn khu phố. Chính quyền địa phương kiểm tra việc bảo vệ môi trường trong các lĩnh vực hoạt động chăn nuôi của các hộ gia đình, xả nước thải sinh hoạt ảnh hưởng đến ô nhiễm môi trường và sản xuất kinh doanh dịch vụ của các cơ sở hiện có trên địa bàn của phường. 74
  75. Theo kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả qua cuộc phỏng vấn sâu một cán bộ môi trường của phường Phú Thọ - Thị xã Thủ Dầu Một – tỉnh Bình Dương, được trích dẫn như sau: Hỏi: ở địa phương có quy định xử phạt những hành vi vi phạm luật bảo vệ môi trường không ạ? Đáp: Có chứ, mình áp dụng luật bảo vệ môi trường này, nghị định của chính phủ về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường rồi xử phạt về xả nước thải, rác thải, nước xả sinh hoạt môi trường làm gây ô nhiễm môi trường và ngăn chặn các thành viên đó, các tổ chức đó không thực hiện thì sẽ áp dụng xử phạt hành chánh, phạt hành chánh thì nó có mức độ tùy theo thẩm quyền, theo mức độ vi phạm: nước xả thải 50m3/ngày phạt 300.000đ trở lại. Theo nghị định cũ thì thẩm quyền xử phạt thuộc UBND Xã, Phường thì vừa phạt cảnh cáo, vừa phạt tiền từ 500.000đ.( pvs cán bộ môi trường phường phú thọ: Giới tính: Nam; Trình độ học vấn 10/12( trước 1975); Tuổi: 49) Tuy nhiên, những hoạt động về công tác tuyên truyền và hướng dẫn người dân phân loại Comment [TH1]: Phan tích thêm rác và cách xử lý rác thải sinh hoạt hàng ngày thì chưa có. Một số dẫn chứng từ cuộc khảo sát của nhóm tác giả: Hỏi: ở địa phương có tập huấn cho người dân về cách phân loại rác và xử lý rác thải sinh hoạt hàng ngày không ? Đáp: Về cái đó, theo quy trình xử lý rác vệ sinh vậy đó, thì nói chung chưa có tập huấn được, nhưng mà chỉ có truyền thông, thông qua hội họp để mình xây dựng ý thức của người ta. Rác sinh hoạt phải vào bịch nilong và đem đến thùng rác để lực lượng thu gom rác(dội ngũ thu gom rác của công ty công trình đô thị - Thị Xã Thủ Dầu Một) qua thu gom. Cái đó mình mới tuyên truyền cho người ta, còn ý thức của người dân là rác cơ hay rác rắn là những loại về phân loại rác chất rắn, các chất thải đó được nói chung người dân chưa được tuyên truyền phần này.( pvs cán bộ môi trường phường Phú Thọ) 75
  76. Theo báo cáo của phường Phú Thọ về môi trường năm 2009 và kế hoạch bảo vệ môi trường cho năm 2010 cho thấy trong thời gian qua các cơ quan chức năng đã thực hiện được một số việc: - Về tổ chức tuyên truyền: Tổ chức 3 cuộc tuyên truyền với 96 người tham dự, triển khai ra nhân dân trên 7 khu phố. Ban điều hành khu phố phối hợp với ban mặt trận và đoàn thể chính trị xã hội phường, tổ chức phổ biến luật bảo vệ môi trường 21 cuộc tuyên truyền với 840 người tham gia. Tổ chức các cuộc thi “Tìm hiểu luật môi trường” nhân ngày Môi trường thế giới 05/06/2009 nhằm nâng cao kiến thức hiểu biết cho học sinh - thanh thiếu niên, hội viên, nhân dân về luật bảo vệ môi trường, nghị định số 21/2008/NĐ – CP, thông tư 05/2008/TT – BVMT và quyết định 68/2008/QĐ – UBND đã có 250 người trong phường tham dự trong đó 170 học sinh - thanh thiếu niên và 80 người dân. - Làm tốt các công tác kiểm tra việc bảo vệ môi trường trong lĩnh vực chăn nuôi hộ gia đình, xả nước thải sinh hoạt ảnh hưởng đến ô nhiễm môi trường của người dân trong phường như: Tiếp nhận đơn khiếu nại, kiểm tra xác minh, vận động và xử phạt nghiêm khắc các trường hợp vi phạm. - Kiểm tra nhắc nhở người dân giữ gìn vệ sinh sạch đẹp nơi ở và yêu cầu các hộ dân không được xả nước thải, rác thải ra môi trường, nơi khu vực sinh hoạt cũng như buôn bán. Thành lập được ở mỗi khu phố một đội thu gom rác dân lập và đã đi vào hoạt động từ tháng 9 năm 2009, hỗ trợ kinh phí ban đầu cho đội rác dân lập là 30.800.000 đông (kinh phí do Thị xã cấp). - Một số đánh giá của lãnh đạo phường được thể hiện trong báo cáo: Thiếu cán bộ quản lý môi trường , việc phát hiện xử lý các vi phạm chưa kịp thời nên tình trạng ô nhiễm môi trừng trên địa bàn phường vẫn còn xảy ra - Trong kế hoạch bảo vệ môi trường của phường năm 2010 thể hiện: 76
  77. Thường xuyên kiểm tra các cơ sở kinh doanh, các hộ chăn nuôi để nhắc nhở bảo vệ môi trường. Thường xuyên theo dõi và chỉ đạo kịp thời chấn chỉnh hoạt động tổ rác dân lập hoạt động từng bước đi vào nề nếp nâng cao hiệu quả. Điều tra lập bộ phận thu rác mới trên địa bàn phường, vận động nhân dân ý thức giữu gìn vệ sinh môi trường và bảo vệ môi trường đúng theo luật bảo vệ môi trường quy định Vấn đề môi trường từ lâu đã là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các cơ quan quản lý môi trường cũng như hầu hết mọi người dân trong phường Phú Thọ, đã có rất nhiều các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức của người dân, giáo dục, tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường cho cán bộ và người dân trong phường nhiều lĩnh vực về môi trường được cải thiện như phương tiện thu gom rác, tổ chức tuyên truyền người dân Những hoạt động đó của địa phương đã góp phần nào nâng cao nhận thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường sống. Tuy nhiên những hoạt động đó chưa hoàn toàn mang lại kết quả tốt, vấn đề về hướng dẫn người dân cách phân loại và xử lý rác thải sinh hoạt hàng ngày vẫn còn rất ít được chú trọng thậm chí có nơi hoàn toàn không có. Do đó vấn đề về nâng cao công tác vận động hướng dẫn người dân phân loại rác trước khi xử lý đang là nhu cầu cần thiết trong công tác bảo vệ môi trường của phường. 4.2 Các chương trình vận động người dân tham gia bảo vệ môi trường của chính quyền địa phương. Qua khảo sát của nhóm tác giả ở 4 khu phố tại phường Phú Thọ cho thấy: Địa phương có tổ chức một số chương trình vận động người dân tham gia vào giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường hay giúp cho người dân ý thức bảo vệ môi trường như: Tổ chức kêu gọi người dân dọn vệ sinh khu phố, tổ chức trồng cây xanh nơi công cộng, hay tổ chức các buổi họp tổ dân phố để người dân phản ánh về tình trạng môi trường tại địa bàn . Theo kết quả khảo sát của nhóm tác giả cho thấy như sau: 77