Xây dựng Trung tâm Hỗ trợ Xúc tiến Thương mại điện tử - Đề tài KC.01-05-03

pdf 90 trang huongle 3140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Xây dựng Trung tâm Hỗ trợ Xúc tiến Thương mại điện tử - Đề tài KC.01-05-03", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfxay_dung_trung_tam_ho_tro_xuc_tien_thuong_mai_dien_tu_de_tai.pdf

Nội dung text: Xây dựng Trung tâm Hỗ trợ Xúc tiến Thương mại điện tử - Đề tài KC.01-05-03

  1. Xây dựng Trung tâm Hỗ trợ Xúc tiến Thương mại điện tử - Đề tài KC.01-05-03
  2. Đề tài KC.01-05-03 MỤC LỤC MỤC LỤC 1 LỜI GIỚI THIỆU 3 NHÓM THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 5 PHẦN I : TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI 6 I.1. Một số khái niệm cơ bản trong TMĐT 6 I.2. Tình hình xu hướng sử dụng, truy cập và các ứng dụng phục vụ kinh doanh trên Internet 8 I.3. Tình hình phát triển TMĐT nói chung trên thế giới 13 I.4. Một số giải pháp phát triển TMĐT ở các nước 17 I.4.1. Hoa Kỳ 17 I.4.2. Canada 18 I.4.3. Nhật Bản 20 I.4.4. Trung Quốc 23 I.4.5. Tình hình TMĐT tại Hàn Quốc 24 I.5. Tình hình thương mại điện tử tại Việt Nam 31 I.5.1. Yêu cầu của thực tế 35 I.5.2. Tình cần thiết của việc thực hiện đề tài 37 PHẦN II: MÔ HÌNH TRUNG TÂM HỖ TRỢ VÀ XÚC TIẾN TMĐT CỦA THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC. 39 II.1. Mô hình Trung tâm xúc tiến và hỗ trợ TMĐT của Phần Lan (Finland) 39 II.1.1. Giới thiệu về E-Finland 39 II.1.2. Các dịch vụ của E-Finland 39 II.1.3. Một số nhận xét cơ bản về E-Finland 40 II.2. Mô hình Trung tâm hỗ trợ công nghệ TMĐT của Virgnia 40 II.2.1. Giới thiệu về VECTEC 40 II.2.2. Các dịch vụ của VECTEC 41 II.2.3. Nhận xét về VECTEC 42 II.3. Mô hình International Center for Electronic Commerce (ICEC) của Hàn Quốc 42 II.3.1. Giới thiệu về ICEC 42 II.3.2. Mục tiêu và dịch vụ của ICEC 42 II.3.3. Nhận xét về ICEC và hệ thống giao dịch TMĐT tại Hàn Quốc 43 II.4. Chương trình “Tâm điểm mậu dịch” (của UNCTAD) (UNCTAD Trade Point Programme) 43 PHẦN III : ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH TỔ CHỨC HOẠT ĐÔNG CỦA TRUNG TÂM HỖ TRỢ VÀ XÚC TIẾN TMĐT 50 III.1. Mô hình Trung tâm Xúc tiến và Hỗ trợ TMĐT 50 III.1.1. Tại sao cần có Trung tâm Hỗ trợ và Xúc tiến TMĐT ở nước ta 50 III.1.2. Mô hình Trung tâm Xúc tiến và Hỗ trợ TMĐT 52 III.2. Các giải pháp kỹ thuật 58 III.2.1. Mô hình hệ thống mạng của Trung tâm Hỗ trợ và Xúc tiến TMĐT 58 III.2.2. Giải pháp kỹ thuật kết nối 59 III.3. Các công nghệ cần có để xây dựng hệ thống Thương mại điện tử 61 PHẦN IV : NGHIÊN CỨU, LỰA CHỌN, QUẢNG BÁ, TƯ VẤN VỀ KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ HỖ TRỢ TMĐT. 66 IV.1. Một số các kết quả nghiên cứu về giải pháp xây dựng TMĐT dành cho các doanh nghiệp 66 IV.1.1. Giải pháp vận dụng Linux, các công cụ mở và một vài thành phần thương mại 66 IV.1.2. Giải pháp vận dụng các sản phẩm của Microsoft và một vài thành phần thương mại dành cho các doanh nghiệp 72 PHẦN V : KẾT QUẢ TRIỂN KHAI THỬ NGHIỆM WEBSITE VÀ ĐÀO TẠO NÂNG CAO NHẬN THỨC CHO CÁC DOANH NGHIỆP 75 V.1. MỘT SỐ KẾT QUẢ THỬ NGHIỆM THỰC TẾ QUA MẠNG ECOM 75 Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 1
  3. Đề tài KC.01-05-03 V.2. Một số các kết quả nghiên cứu về xây dựng bài giảng trực tuyến 80 V.2.1. E-learning là gì ? 80 V.2.2. Tại sao E-Learning cần cho doanh nghiệp? 80 V.2.3. Lợi ích của E-Learning 81 V.2.4. Kiến trúc hệ thống Đào Tạo Trực Tuyến 82 V.2.5. Tính Năng Hệ Thống 82 V.2.6. Yêu cầu hệ thống 84 V.2.7. Thực thi E-Learning 84 III.1. Kết luận 85 IV.2. Đề xuất và kiến nghị 87 Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 2
  4. Đề tài KC.01-05-03 LỜI GIỚI THIỆU Ngày nay cuộc cách mạng công nghệ thông tin và viễn thông (ICT) diễn ra một cách sôi động đang tác động trực tiếp và sâu sắc đến mọi hoạt động kinh tế xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới đồng thời nó đang mở ra một thời kỳ mới của nhân loại trước khi bước vào thiên niên kỷ thứ 3. Càng về những năm gần đây, tại các nước công nghiệp phát triển cũng như ở các nước NICs, xuất hiện ngày càng nhiều loại hình kinh doanh mới hoạt động trên các mạng truyền thông số và đặc biệt là trên mạng Internet, đó là các doanh nghiệp thương mại điện tử. Sự xuất hiện của mô hình kinh doanh này không chỉ làm đa dạng hoá hoạt động doanh nghiệp của con người mà còn thực sự trở thành một cuộc cách mạng kinh tế - xã hội có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước đột phá mới về kinh tế của nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba. Thương mại điện tử sử dụng hệ thống mạng truyền thông số toàn cầu để tạo ra một thị trường điện tử cho tất cả các loại hình sản phẩm, dịch vụ, công nghệ và hàng hoá; bao hàm tất cả các hoạt động cần thiết để hoàn tất một thương vụ, trong đó có đàm phán, trao đổi chứng từ, truy cập thông tin từ các dịch vụ trợ giúp (thuế, bảo hiểm, vận tải ) và ngân hàng, tất cả được thực hiện trong các điều kiện an toàn và bảo mật. Trong thương mại điện tử, người ta sử dụng các phương tiện chủ yếu như máy điện thoại, fax, hệ thống thiết bị thanh toán điện tử, mạng nội bộ (Inttranet), mạng ngoại bộ (Extranet) và mạng toàn cầu (Internet). Đặc trưng nổi bật nhất của thương mại điện tử là các hoạt động kinh doanh như mua, bán, đầu tư và vay mượn được thực hiện và chuyển giao giá trị qua các mạng thông tin điện tử. Bởi vậy, thương mại điện tử còn được gọi với những tên khác nhau như: "nền kinh tế ảo", "nền kinh tế .com" v.v Tuy chỉ mới bắt đầu hình thành nhưng thương mại điện tử đã nhanh chóng khẳng định được vị thế của mình trong đời sống kinh tế quốc tế bởi sức hấp dẫn và sự phát triển khá ngoạn mục xét cả về dung lượng cũng như phạm vi và đối tượng. Chỉ tính riêng tại Mỹ, sự gia tăng doanh số của các hoạt động kinh doanh trên mạng đã dẫn tới sự ra đời của một thị trường chứng khoán mang tên Nasdaq dành cho những công ty có tên gọi tận cùng bằng tiếp vị ngữ ".com". Những diễn biến trong vận hành của thị trường chứng khoán này luôn kéo theo những tác động trực tiếp và nhạy cảm đến chỉ số Dow Jones tại New York cùng các chỉ số chứng khoán khác tại hầu như tất cả các thị trường chứng khoán hàng đầu thế giới. Các số liệu thống kê gần đây cho thấy thương mại điện tử có bước phát triển rất nhanh và với tốc độ ngày càng cao. Năm 1997, tổng doanh số thương mại điện tử trên thế giới mới đạt xấp xỉ 18 tỷ USD thì đến năm 1999 đã đạt gần 80 tỷ USD, năm 2000 là 180 tỷ và năm 2001 con số đó vượt qua mức 400 tỷ USD. Tổ chức hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC) đưa ra số liệu đến năm 2002, doanh số của hoạt động kinh doanh trên mạng toàn cầu có thể lên tới 1000 tỷ USD; riêng của các nước APEC là 600 tỷ USD. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 3
  5. Đề tài KC.01-05-03 Nhìn tổng quát, việc sử dụng các phương tiện điện tử và các dịch vụ mạng trong hoạt động của doanh nghiệp tạo điều kiện cập nhật được thông tin nhanh chóng, đa dạng, giảm được các chi phí giao dịch, tiếp thị do vậy hạ được giá thành sản xuất, dịch vụ và điều quan trọng hơn cả là tiết kiệm được thời gian, rút ngắn chu kỳ sản xuất, nhanh chóng tạo ra sản phẩm mới, tăng tính hiệu quả kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp, hoạt động thương mại điện tử, ngoài việc giảm chi phí còn đưa lại nhiều lợi ích thiết thực. Trước hết, họ có thể hợp lý hoá khâu cung cấp nguyên vật liệu, sản phẩm, bảo hành; tự động hoá quá trình hợp tác kinh doanh; cải thiện quan hệ trong công ty - xí nghiệp và với bạn hàng - đối tác, tăng năng lực phục vụ khách hàng. Từ đây, tăng được sức cạnh tranh của doanh nghiêp, mở rộng phạm vi cũng như dung lượng kinh doanh. Từ góc độ của người tiêu dùng, thương mại điện tử tạo sự thuận tiện hơn, tăng khả năng lựa chọn do tiếp cận dễ dàng các mặt hàng, các dịch vụ. Còn đối với chính phủ, mô hình kinh doanh này đưa lại khả năng cải tiến quản lý kinh tế và kiểm soát được việc thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước của các doanh nghiệp, nhất là nghĩa vụ thuế, phân phối thu nhập, hải quan Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích kể trên, thương mại điện tử cũng đặt ra hàng loạt vấn đề bức xúc và những thách thức đối với doanh nghiệp của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Để phát triển thương mại điện tử đòi hỏi phải tăng cường xây dựng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin hiện đại, hạ tầng về tiền tệ với hệ thống thanh toán tự động; nguồn nhân lực trình độ cao; các định chế về an toàn bảo mật, sở hữu trí tuệ, môi trường kinh tế, pháp lý Đây là một bài toán phức tạp mà Chính phủ Việt Nam đang từng bước giải quyết. Việc thực hiện một đề tài KC.01.05.03 với mục đích tập hợp các nhà khoa học, các nhà quản lý và các nhà kinh doanh đưa ra các giải pháp hợp lý cho Thương mại điện tử trong môi trường Việt Nam nhằm từng bước hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam ngày một phát triển. Việc đưa các thông tin, kiến thức đến với các doanh nghiệp là điều cần thiết, đặc biệt trong vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp có được các nhận thức đúng đắn về thương mại điện tử. “Trung tâm Hỗ trợ Xúc tiến Thương mại điện tử” được nghiên cứu và vận hành nhằm giải quyết các nhu cầu trên và hy vọng Trung tâm này sẽ thực sự là cầu nối giữa các doanh nghiệp với Chính phủ đồng thời doanh nghiệp cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ của Trung tâm trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến kỹ thuật và công nghệ. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 4
  6. Đề tài KC.01-05-03 NHÓM THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Cơ quan chủ quản đề tài : Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại Cơ quan chủ trì đề tài nhánh : Hội Tin học Viễn thông Hà Nội Các cơ quan phối hợp chính : • Trung tâm tin học, Bộ KHCNMT • Trung tâm thông tin thương mại, Bộ thương mại • Công ty điện toán và truyền số liệu VDC • Công ty VNET • Công ty VASC • Một số doanh nghiệp ở Hà Nội và các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định v.v. Những người thực hiện chính : • Tiến sĩ Mai Anh - Chủ tịch Hội Tin học Viễn thông Hà Nội • Thạc sĩ Lê Hồng Hà - Tổng thư ký Hội Tin học Viễn thông Hà Nội • Kỹ sư Dương Anh Đức - Tổng Giám đốc Công ty VNET • Kỹ sư Ngô Tố Nhiên - Hội Tin học Viễn thông Hà Nội. • Kỹ sư Nguyễn Vinh Thọ - Hội Tin học Viễn thông Hà Nội • Kỹ sư Ngô Quốc Thái - Hội Tin học Viễn thông Hà Nội Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 5
  7. Đề tài KC.01-05-03 PHẦN I TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI I.1. Một số khái niệm cơ bản trong TMĐT Quan điểm của nhóm thực hiện đề tài về một số khái niệm cơ bản về TMĐT. Các khái niệm này sẽ được sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu của đề tài. a. Thư điện tử : Các đối tượng tham gia TMĐT (người tiêu dùng, doanh nghiệp, các cơ quan Chính phủ) sử dụng hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua hệ thống mạng, thư điện tử còn được phổ biến dưới cái tên e-mail. Thông qua e-mail người ta có thể gửi và nhận được thông tin ở dạng «phi cấu trúc» (unstructured form), đây là dạng thông tin không phải tuân thủ một cấu trúc đã thoả thuận trước, đây chính là sự khác biệt giữa e-mail và FEDI. b. Thanh toán điện tử Thanh toán điện tử (electronic payment) là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử (electronic message). Sự hình thành và phát triển của TMĐT đã hướng thanh toán điện tử mở rộng sang các lĩnh vực mới là : • Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data Interchange - FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử. • Tiền mặt Internet (Internet Cash) là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành (ngân hàng hoặc một tổ chức tín dụng) sau đó được chuyển đổi tự do sang các đồng tiền khác thông qua Internet, tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hoá, vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “tiền mặt số hoá” (Digital Cash), công nghệ đặc thù chuyên phục vụ mục đích này có tên gọi là “mã hoá khoa công khai/bí mật” (Public/Private key Crypto-graphy). Thanh toán bằng tiền mặt Internet đang trên đà phát triển nhanh, vì có hàng loạt ưu điểm nổi bật. - Có thể dùng cho thanh toán những món hàng giá trị nhỏ ; - Có thể tiến hành giữa hai con người hoặc hai công ty bất kỳ mà không đòi hỏi phải có một quy chế được thoả thuận trước các thanh toán là vô hình ; - Tiền mặt nhận được đảm bảo là tiền thật, tránh được nguy cơ tiền giả. • Ví tiền điện tử (electronic purse hoặc electronic wallet) còn gọi là “ví điện tử”, nói đơn giản hơn là nơi để tiền mặt Internet mà chủ yếu là thẻ thông minh (Smart card, còn có tên gọi là thẻ giữ tiền, stored value card), tiền được trả cho bất cứ ai Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 6
  8. Đề tài KC.01-05-03 đọc được thẻ đó ; kỹ thuật của túi tiền điện tử về cơ bản là kỹ thuật “mã hoá công khai/bí mật” tương tự như kỹ thuật áp dụng cho “tiền mặt Internet”. • Thẻ thông minh (smart card) nhìn bề ngoài thương tự như thẻ tín dụng, nhưng ở mặt sau của thẻ, thay vì cho dải từ, lại là một chip máy tính điện tử có một bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số hoá, tiền ấy chỉ được “chi trả” khi người sử dụng và thông tin (ví dụ xác nhận thanh toán hoá đơn) được xác nhận là “đúng” • Giao dịch ngân hàng số hoá (digital banking), và giao dịch chứng khoán số hoá (digital securities trading). Hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng là một đại hệ thống, gồm nhiều tiểu hệ thống : - Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng (qua điện thoại, tại các điểm bán lẻ, các kiốt, giao dịch cá nhân tại nhà, giao dịch tại trụ sở khách hàng, giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng ) - Thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị ) - Thanh toán giữa hệ thống ngân hàng này với hệ thống ngân hàng khác. c. Trao đổi dữ liệu điện tử Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange - EDI) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” (Structured form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác trong nội bộ công ty hay giữa các công ty hay tổ chức đã thoả thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người (gọi là dữ liệu có cấu trúc, vì các bên đối tác phải thoả thuận từ trước khuôn dạng cấu trúc của các thông tin). Uỷ ban Liên hiệp Quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) đã được ra định nghĩa pháp lý sau đây : “trao đổi dữ liệu điện tử” (EDI) là việc chuyển giao thông tin từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác bằng phương tiện điện tử mà sử dụng một tiêu chuẩn đã được thoả thuận về cấu trúc thông tin. EDI ngày càng được sử dụng rộng rãi trên bình diện toàn cầu, và chủ yếu được thực hiện thông qua các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ. TMĐT qua biên giới (Cross border electronic commerce) về bản chất là trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) giữa các doanh nghiệp được thực hiện giữa các đối tác ở các quốc gia khác nhau, với các nội dung : giao dịch kết nối, đặt hàng, giao dịch gửi hàng (shipping), thanh toán. d. Giao gửi số hoá các dung liệu Dung liệu (content) là các hàng hoá mà cái người cần đến là nội dung của nó (hay nó cách khác chính nội dung là hàng hoá) mà không phải là bản thân vật mang Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 7
  9. Đề tài KC.01-05-03 nội dung, ví dụ như :tin tức, sách báo, nhạc, phim, các chương trình phát thanh, truyền hình, các chương trình phần mềm. Các ý kiến tư vấn, vé máy bay, vé xem phim xem hát, hợp đồng bảo hiểm Nay cũng được đưa vào danh mục các dung liệu. Đồng thời, trên góc độ kinh tế-thương mại, các loại thông tin kinh tế và kinh doanh trên Internet đều có ở mức phong phú, do đó một nhiệm vụ quan trọng của công tác thông tin ngay nay là khai thác trực tiếp được lượng thông tin trên Web và phân tích tổng hợp. e. Bán lẻ hàng hoá hữu hình Để tận dụng tính năng đa phương tiện (multimedia) của môi trường Web và Java, người bán xây dựng trên mạng các “cửa hàng ảo” (vitual shop) để thực hiện việc bán hàng. Người sử dụng Internet/Web tìm trang Web của cửa hàng phải dùng tới các phương tiện gửi hàng truyền thống để đưa hàng đến tay khách, điều quan trọng nhất là: khách có thể mua hàng tại nhà (home shopping), mà không cần phải đích thân đi tới cửa hàng. TMĐT đang phát triển rất nhanh, theo các dự báo TMĐT hiện nay và trong một vài năm tới chủ yếu được ứng dụng trong lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng, tiếp đó đến du lịch kinh doanh bán lẻ, và quảng cảo TMĐT trong lĩnh vực buôn bán hàng hữu hình ngày càng phát triển. I.2. Tình hình xu hướng sử dụng, truy cập và các ứng dụng phục vụ kinh doanh trên Internet Với tình hình kinh tế như trên, hiện nay các hoạt động dịch vụ internet cũng đang tăng nhanh, đặc biệt là ở khu vực các nước đang phát triển. Số lượng người dùng Internet chỉ là một khía cạnh nhỏ, không phản ánh rõ đầy đủ bức tranh về công nghệ thông tin trên toàn thế giới nhưng nó lại là yếu tố cơ bản để nhận định về việc phát triển kinh doanh TMĐT dựa trên dịch vụ Internet. Số lượng người truy cập Internet sẽ ảnh hưởng lớn đến các hoạt động kinh doanh e-business, nó là con số minh chứng cho việc phát triển công nghệ thông tin nói chung và việc phát triển kinh doanh thương mại điện tử nói riêng. Số lượng người truy cập Internet trên toàn thế giới trong năm 2000 đến 2002 được thể hiện ở bảng dưới đây : Bảng 5 : Số lượng người dùng Internet theo khu vực, 2000-2002 Đơn vị tính : 1000 người 2002 2001 2000 % tỷ lệ % tỷ lệ 2001-2002 2000-2001 Africa 7 943 6 510 4 559 22.0 42.8 Asia 201 079 150 472 109 257 33.6 37.7 Europe 166 387 143 915 110 824 15.6 29.9 Latin America & Caribbean 35 459 26 163 17 673 35.5 48.0 Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 8
  10. Đề tài KC.01-05-03 North America 170 200 156 823 136 971 8.5 14.5 Oceania 10 500 9 141 8 248 14.9 10.8 Developing countries 189 882 135 717 93 161 39.9 45.7 Developed countries 401 686 357 307 294 371 12.4 21.4 World 591 567 493 024 387 531 20.0 27.2 Nguồn : ITU (2003a) và UNCTAD. Nhìn vào tỷ lệ số người sử dụng Internet năm 2002/2000 ta nhận thấy các nước đang phát triển đã có một bước nhảy vọt đáng kể trong quang thời gian này. Nó đánh dấu sự phát triển về hạ tầng công nghệ thông tin và nhận thức của người dân sống tại đây đã có sự thay đổi lớn. Đồ thị dưới đây sẽ phác hoạ rõ hơn số lượng người dùng theo khu vực của giai đoạn 2000 - 2002. Số lượng người dùng Internet giai đoạn 2000 - 2002 (1000 người) Nguồn : UNCTAD elaboration of ITU (2003a). Nguồn : UNCTAD elaboration of ITU (2003a) Theo báo cáo của UNCTAD năm 2003, số lượng người dùng Internet đã được điều tra chi tiết từng nước trên thế giới. Các con số dưới đây được UNCTAD công nhận và sẽ dùng làm tài liệu cơ bản để đánh giá tình hình phát triển Internet của các nước trên thế giới. Bảng 4 : Số lượng người sử dụng Internet (1000 người) tính theo mỗi nước, 2000-2002 % Tỷ lệ % Tỷ lệ 2002 2001 2000 2001-2002 2000-2001 Africa 7 943 6 510 4 559 22.01 42.81 Algeria 500 200 150 150.00 33.33 Egypt* 600 600 450 33.33 Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 9
  11. Đề tài KC.01-05-03 % Tỷ lệ % Tỷ lệ 2002 2001 2000 2001-2002 2000-2001 Kenya* 500 500 200 150.00 Morocco 500 400 200 25.00 100.00 Nigeria 200 115 80 73.91 43.75 South Africa 3 100 2 890 2 400 7.27 20.42 Togo 200 150 100 33.33 50.00 Tunisia 506 400 250 26.38 60.00 Zimbabwe 500 100 50 400.00 100.00 Others 1 337 1 155 679 15.76 70.21 Latin America & Caribbean 35 459 26 163 17 673 35.53 48.04 Argentina 4 100 3 650 2 600 12.33 40.38 Brazil 14 300 8 000 5 000 78.75 60.00 Chile* 3 102 3 102 2 537 22.26 Colombia 1 982 1 154 878 71.75 31.44 Mexico 4 663 3 636 2 712 28.27 34.04 Peru* 2 000 2 000 800 150.00 Venezuela 1 274 1 153 820 10.58 40.55 Khác 4 037 3 469 2 325 16.37 49.18 North America 170 200 156 823 136 971 8.53 14.49 United States 155 000 142 823 124 000 8.53 15.18 Canada 15 200 14 000 12 971 8.57 7.93 Asia 201 079 150 472 109 257 33.63 37.72 China 59 100 33 700 22 500 75.37 49.78 Hong Kong (China) 2 919 2 601 1 855 12.21 40.22 India 16 580 7 000 5 500 136.86 27.27 Indonesia 4 000 4 000 2 000 100.00 Israel 2 000 1 800 1 270 11.11 41.73 Japan 57 200 48 900 38 000 16.97 28.68 Korea, Rep.of 26 270 24 380 19 040 7.75 28.05 Malaysia 6 500 6 500 4 000 62.50 Philippines 2 000 2 000 1 540 29.87 Singapore 2 247 1 700 1 300 32.18 30.77 Taiwan P. of China 8 590 7 820 6 260 9.85 24.92 Thailand 4 800 3 536 2 300 35.75 53.74 Others 8 873 6 534 3 692 35.80 77.00 Europe 166 387 143 915 11 824 15.61 29.86 France 18 761 15 653 8 460 19.86 85.02 Germany 35 000 30 800 24 800 13.64 24.19 Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 10
  12. Đề tài KC.01-05-03 % Tỷ lệ % Tỷ lệ 2002 2001 2000 2001-2002 2000-2001 Italy 17 000 15 600 13 200 8.97 18.18 Netherlands 8 590 7 900 7 000 8.73 12.86 Poland 3 800 3 800 2 800 35.71 Russia 6 000 4 300 2 900 39.53 48.28 Spain 7 856 7 388 5 486 6.33 34.67 Sweden 5 125 4 600 4 048 11.41 13.64 Turkey 4 900 4 000 2 000 22.50 100.00 United Kingdom 24 000 19 800 15 800 21.21 25.32 Others 35 355 30 074 24 330 17.56 23.61 Oceania 10 500 9 141 8 248 14.87 10.83 Australia 8 400 7 200 6 600 16.67 9.09 New Zealand 1 908 1 762 1 515 8.29 16.30 Others 192 179 133 7.43 34.97 Developing countries 189 882 135 717 93 161 39.91 45.68 Developed countries 401 686 357 307 294 371 12.42 21.38 World 591 567 493 024 387 531 19.99 27.22 Nguồn : ITU (2003a) và UNCTAD. Qua bảng trên ta thấy số lượng người dùng Internet tiếp tục tăng vào năm 2002 là 591 triệu người vào thời điểm cuối năm. Tỷ lệ tăng từ 20% - 27.3% trên toàn cầu trừ khu vực Oceania, nơi tỷ lệ tăng trưởng chỉ đạt từ 10.8% đến 14.9%. Các nước đang phát triển tiếp tục có kinh nghiệm phát triển nhanh số lượng người dùng Internet, một phần bởi vì tính chất đặc biệt về con người (số lượng người trẻ tuổi, dân số phát triển nhanh). Vào cuối năm 2002, các nước đang phát triển chiếm 32% tổng số người dùng Internet trên toàn cầu, trong khi năm 2001 mới chỉ đạt 28%. Nếu xu hướng này tiếp tục phát triển, số lượng người dùng Internet ở các nước đang phát triển có khả năng chiếm 50% trong 5 năm tới. Theo báo cáo của ITU, số lượng Internet host giảm dần vào năm 2002, cũng theo thông tin từ Internet Domain Survey, hãng Internet Software Consortium, tổng số host trên thế giới được tạo mới có tỷ lệ tăng là 16.48% trong khoảng thời gian từ tháng 1/2002 đến tháng 1/2003 (Internet Software Consortium 2003). Trong khi đó từ 1/2001 đến tháng 1/2002, tốc độ tăng số host Internet đạt 34%, nhưng nhìn chung Internet vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Số lượng Internet host có ý nghĩa lớn trong việc đánh giá sự phát triển về công nghệ thông tin cũng như các dịch vụ trên thế giới nói chung. Đồ thị dưới đây sẽ đưa ra các thông số về Internet hosts trên toàn cầu. Trong đó Bắc Mỹ và Châu Âu Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 11
  13. Đề tài KC.01-05-03 chiếm 89% số lượng host Internet trên toàn thế giới. Internet hosts chia theo khu vực, 2002 Bảng 6 : Số lượng Internet hosts theo khu vực 2000–2002 Đơn vị tính : 10.000 người Nguồn: ITU (2003) và UNCTAD Netscraft Web Server Survey bổ sung thêm thông tin cung cấp bới ITU với thông tin chi tiết về sự phát triển của World Wide Web servers trong năm 2002. Tháng 5/2003, toàn cầu có 40.936.076 sites, tăng 15.17% tính từ tháng 12/2002, trong khi đó con số tỷ lệ số lượng Website tăng của năm 2002/2001 là 3.12% (Netcraft.com 2003). Ngoài ra theo thông tin chi tiết của Netcraft (bảng 1.7) thì số lượng địa chỉ Internet Protocol sử dụng một số ngôn ngữ Script cũng tăng 52.1%, con số này thể hiện trình độ hoạt động và người dùng ngày càng có nhiều kinh Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 12
  14. Đề tài KC.01-05-03 nghiệm. Tương tự, cũng có 14% số lượng site đã sử dụng công nghệ bảo mật secure sockets layer (SSL). Bảng 7 : Tình hình World Wide Web năm 2002 Nguồn: Netcraft (2003). Bảng 8 : Băng thông đường truyền Internet quốc tế (Mbps), tính theo khu vực, 2000–2002a Đây là dữ liệu mô tả tốc độ đường truyền Internet (không phải lưu lượng) kết nối trực tiếp đến đường quốc tế. Nguồn : TeleGeography (2002). Đường truyền Internet quốc tế năm sau luôn tăng gấp đôi so với năm trước, năm 2001 tăng 122%, năm 2002 phát triển chậm đạt đến 40%, (Tele-Geography 2002). Đặc biệt tại Châu Mỹ Latinh (nơi mà tốc độ đuờng truyền tăng 471% trong năm 2002, trong khi đó năm 2001 chỉ tăng có 65%), tiếp đến là Châu Âu (tốc độ tăng từ 191% năm 2001, giảm xuống 35% năm 2002), Bắc Mỹ (tốc độ đường truyền 143% năm 2001, giảm xuống còn 40% năm 2002), Asia (từ 122% đến 55%) và Châu Phi, tốc độ đường truyền tăng đến 90% năm 2001 sau đó lại giảm xuống còn 72% năm 2002. I.3. Tình hình phát triển TMĐT nói chung trên thế giới Thương mại điện tử (TMĐT), một yếu tố hợp thành của nền kinh tế số hóa là hình thái hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử. Theo quan điểm trong luật mẫu về thương mại điện tử thì "Thương mại điện tử là việc sử dụng các công nghệ mạng Internet trong các hoạt động giao dịch thương mại". Với quan điểm Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 13
  15. Đề tài KC.01-05-03 này ta có thể hiểu TMĐT bao gồm một chu trình hoàn chỉnh của một phiên giao dịch thương mại như : chào hàng, chọn hàng, ký kết hợp đồng, giao hàng, thanh toán, bảo hành và các dịch vụ sau bán. TMĐT mang lại nhưng lợi ích tiềm tàng, nhờ các phương tiện của TMĐT, các doanh nghiệp có được thông tin nhanh chóng, phong phú về thị trường; các chi phí văn phòng, bán hàng, giao dịch giảm đi nhiều lần, rút ngắn chu thời sản xuất, nhanh chóng tạo ra nhiều sản phẩm mới. Ngày nay cùng với sự phát triển của TMĐT và đặc tính toàn cầu không biên giới của nó mà các nước, các khu vực và các tổ chức quốc tế đang có rất nhiều nỗ lực nhằm tạo ra một môi trường thống nhất cho TMĐT phát triển. Sự hợp tác toàn cầu, sự thống nhất về mặt chính sách là những vấn đề được đề cao trong mục tiêu phát triển TMĐT. Chính vì vậy việc tạo ra một môi trường áp dụng chung một định hướng quốc tế các quy chế là hết sức quan trọng. Với vai trò là một tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, Liên hiệp quốc đã giúp TMĐT quốc tế hình thành nên một bộ khung pháp lý nhằm tạo thuận lợi cho sự phát triển thương mại điện tử, giúp các nước định hướng cho những quy định về TMĐT và giúp các doanh nghiệp vượt qua được những trở ngại pháp luật của các nước. UNCITRAL Model Law on Electronic Commerce (1996) - Luật mẫu UNCITRAL về thương mại điện tử - gọi tắt là luật mẫu được Ủy ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1996. Đại hội đồng liên hiệp quốc đã ra nghị quyết khuyến nghị các Chính phủ phổ biến rộng rãi và áp dụng đạo luật mẫu này. Luật mẫu tạo thuận lợi cho việc sử dụng TMĐT, tạo sự bình đẳng cho những người sử dụng tài liệu trên cơ sở giấy tờ và những người sử dụng thông tin trên cơ sở máy tính. Cấu trúc luật mẫu được chia làm hai phần : phần một liên quan đến những vấn đề chung về thương mại điện tử, phần còn lại liên quan đến vấn đề TMĐT ở một số lĩnh vực xác định. Năm 1998, APEC thông qua "Chương trình hành động về TMĐT của APEC". Tiểu ban điều phối về TMĐT của ASEAN cũng đã hoàn tất bản "Các nguyên tắc chỉ đạo về TMĐT của ASEAN". Vấn đề này được đề cập trong hầu hết các hội nghị và hội thảo quốc tế ngày nay. Internet đã trở thành một yếu tố không thể thiếu được trong một xã hội văn minh, lợi ích của Internet ngày càng được khẳng định qua các con số thông kê về ICT và E-Commerce. Trong báo cáo về E-Commerce và sự phát triển năm 2003 (E- Commerce and Development report 2003) của UNCTAD đã phác hoạ một bức tranh cơ bản về tình hình ICT và E-Commerce toàn cầu năm 2003. Trong báo cáo nhấn mạnh về lợi ích, tiềm năng hứa hẹn của nền kinh tế Internet ngày càng cao. Trong lĩnh vực máy tính lớn sử dụng cho e-business: năm 2001 được nhìn nhận sự phát triển ở 6,2%, thì năm 2002 là 11% và trong năm 2003 đã tiếp tục tăng 4%, dựa vào các con số trên chúng ta có thể nhận thấy nhu cầu sử lý thông tin cho e-business ngày càng tăng mạnh. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 14
  16. Đề tài KC.01-05-03 Các con số thống kê về số lượng người sử dụng Internet trên toàn thế giới năm 2003 là 591 triệu người, số lượng người sử dụng tiếp tục tăng 20%. Vào cuối năm 2002, các nước đang phát triển chiếm 32% số lượng người sử dụng Internet trên toàn thế giới, bên cạnh đó Bắc Mỹ và Châu Âu chiếm 89% Internet hosts. Theo báo cáo thống kê của tổ chức OECD (Organisation for Economic Co- operation and Development) về các nước thành viên thì số lượng người sử dụng Internet để mua bán trực tuyến cao nhất là ở các nước Nordic, ở United Kingdom và United States thì 38% người dùng chi trả online, nhưng ở Mexico thì số lượng người chi trả trực tuyến rất thấp chỉ chiếm 0.6%. Việc bán hàng đến tận nhà chiếm 30% lượng giao dịch tại các nước Finland và Luxembourg, nhưng lại chỉ chiếm 1% tại Singapore. Số lượng giao dịch online của United States là 43.47 tỷ, Châu Âu là 28.29$ tỷ, Asia-Pacific là 15$ tỷ, Latin America là 2.3$ tỷ và Africa chỉ có một số ít khoảng 4 triệu là giao dịch trực tuyến. Hiện nay phần lớn các hoạt động thương mại điện tử là các giao dịch dưới dạng B2B. Năm 2001, giao dịch B2B online tại United States là 995 tỷ, chiếm 93,3% số lượng giao dịch thương mại điện tử. Các giao dịch dạng B2B cũng khá lớn, gần 185 – 200 tỷ vào năm 2002. Ở các nước Đông Âu các giao dịch dạng B2B là 4 tỷ vào năm 2003. Các nước ở vùng Asia-Pacific, cũng phát triển mạnh loại hình giao dịch này, năm 2002 có 120 tỷ và có 200 tỷ trong năm 2003 dự tính năm 2004 sẽ có khoảng 300 tỷ sử dụng hình thức giao dịch B2B. Tại Latin America có 6.5 tỷ sử dụng hình thức giao dịch dưới dạng B2B trong năm 2002 và con số này đã tăng đến 12.5 tỷ trong năm 2003. Các giao dịch điện tử dưới dạng B2B cũng được sử dụng ở các nước African, năm 2002 số lượng giao dịch là 0.5 tỷ và là 0.9 tỷ năm 2003, trong do 80 – 85% số lượng tiền giao dịch dạng này là của các nước South Africa. Sự phát triển của TMĐT một mặt là kết quả của xu hướng tất yếu, khách quan của quá trình "số hóa", một mặt khác là kết quả của các nỗ lực chủ quan của từng nước, từng nhóm nước và toàn thế giới nói chung, đặc biệt là trên bình diện tạo môi trường pháp lý và đường lối chính sách cho kinh tế số hóa nói chung và TMĐT nói riêng. Theo các số liệu của biểu đồ trên ta nhận thấy mức độ sử dụng Internet của Mỹ gần gấp đôi các nước châu Âu. Song song với sự phát triển của các nước công nghiệp thì hiện nay các nước đang phát triển cũng dần nhận ra ích lợi của TMĐT và cũng bắt đầu tham gia. Trong các nước ASEAN, các hoạt động TMĐT cũng rất sôi động, các nước thành viên ASEAN đều nhận thức rằng việc thực thi một cách có hiệu quả các sáng kiến về TMĐT và không gian điện tử eASEAN sẽ đảm bảo vai trò tương xứng của ASEAN trong thế kỷ 21. Các vấn đề then chốt để phát triển TMĐT trong khu vực được các nước xác định là các vấn đề về chính sách luật pháp, bảo mật và an toàn dữ liệu và riêng tư cá nhân, bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người dùng, các vấn đề thanh toán, giao dịch điện tử. Về tính sẵn sàng đối với TMĐT, các nước ASEAN được chia thành 4 tốp. Dẫn đầu là Singapore, nước được xếp ngang hàng với Mỹ và Canada. Tiếp theo là Thái Lan, Malaixia, các nước này có hạ tầng cơ sở cho phát triển TMĐT tốt và đã tích lũy được một số kinh nghiệm về giải quyết các vấn đề kỹ thuật và công nghệ trong triển khai TMĐT. Tốp áp chót Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 15
  17. Đề tài KC.01-05-03 gồm có Philippine, Indonesia, Bruney đó là các nước có cơ sở hạ tầng kém nhưng đã tiếp cận với TMĐT và hơn tốp cuối cùng là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar. Các nước thuộc tốp cuối cùng chủ yếu là còn trong giai đoạn nhận thức về TMĐT. Có thể nói, ở Việt Nam cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào về hỗ trợ, xúc tiến kỹ thuật và công nghệ của TMĐT. Sự phát triển gần đây của Internet đã tạo ra một cuộc cách mạng về thương mại và kỹ thuật khắp trên thế giới. Internet với ưu điểm rút ngắn khoảng cách giữa các công ty và các khách hàng, nó đã tạo ra một thị trường toàn cầu cạnh tranh không giống các thị trường khác. Nhiều nước đang cạnh tranh để đóng vai trò chính trong cuộc chơi có lợi tiềm tàng này. Các nước phương tây thực sự đã có một lợi thế đáng kể trong cuộc đua này, từ việc Internet bắt nguồn từ Bán cầu phương tây. Hiện nay, với một tiềm năng thị trường khổng lồ của Châu Á các doanh nghiệp trực tuyến của một số nước trong khu vực Á cũng đã và đang từng bước bắt kịp tới các nước phương Tây. Các con số dưới đây sẽ mang lại một bức tranh tổng thể về tình hình phát triển dịch vụ Internet tại Châu Á Bảng 9 : Tình hình phát triển dịch vụ Internet tại Châu Á Nước/Lãnh thổ Internet Ước đoán tỷ lệ sử dụng PC Người dùng Số người Số lượng Tỷ lệ trên 1000 người (1000 người) dùng/10,000 người (1000 cái) Brunei 35 1,023.39 25 7.31 Cambodian 30 21.76 20 0.15 Indonesia 4,000 191.23 2,300 1.10 Lao 15 27.11 18 0.33 Malaysia 6,500 2,731.09 3,000 12.61 Myanmar 10 2.07 55 0.11 Philippines 2,000 255.69 1,700 2.17 Singapore 2,247 5,396.64 2,100 50.83 Thailand 4,800 775.61 1,700 2.78 Vietnam 1,500 184.62 800 0.98 Trung bình 2,113.7 1,060.92 7.84 China 59,100 460.09 25,000 1.90 Hong Kong 2,919 4,309.46 2,600 38.66 Taiwan 8,590 3,825.09 8,887 39.57 India 16,580 159.14 6,000 0.58 Japan 57,200 4,492.62 48,700 38.25 Korea 26,270 5,518.91 26,458 55.58 Nguồn : International Telecommunication Union Trên thực tế, một số chuyên gia đã dự đoán rằng sẽ có 374 triệu người dùng truy nhập Internet nằm ở khu vực Thái Bình Dương vào năm 2005. Thế giới ngày càng quan quan tâm đến tiềm năng của thị trường Internet tại Châu Á. Bảng số liệu Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 16
  18. Đề tài KC.01-05-03 trên cũng cho ta thấy các nước dẫn đầu hiện nay về sử dụng dịch vụ Internet là : Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Nhưng trong lĩnh vực phát triển TMĐT tại Châu Á lại nổi lên năm nước dẫn đầu, đó là : Nhật bản, Trung Quốc, HongKong, Singapore và Hàn Quốc. Mỗi nước đều có thế mạnh riêng của mình trong việc cuộc chạy đua về phát triển thương mại điện tử. Ví dụ, Nhật Bản là một nước có nền kinh tế lớn nhất trên thế giới, điều này chứng tỏ quốc gia này có tiền và những tài nguyên để tạo ra những cơ sở hạ tầng đáng tin cậy cho sự phát triển thương mại điện tử. Trung Quốc cũng đã trở thành quốc gia phát triển thương mại điện tử ở Châu Á, thế mạnh của Trung Quốc là con người. Hơn nữa, HongKong một lãnh thổ tư bản của Trung Quốc hiện thời là một trong những trung tâm tài chính và thương mại quốc tế mạnh nhất trên thế giới. Với cơ sở hạ tầng kỹ thuật và kinh tế được phát triển, nó cũng có tiềm năng để trở thành là quốc gia dẫn đầu về phát triển thương mại điện tử. Singapore là một quốc gia có tỷ lệ người dân biết sử dụng máy tính và phát triển hệ thống mạng viễn thông tốt nhất trên thế giới. Sự phát triển thương mại điện tử và Internet đã thúc đẩy việc Chính phủ Singapore có chiến lược lâu dài trong việc biến Singapore trở thành trung tâm phát triển thương mại điện tử của Châu Á. Với các lợi thế khác nhau của các quốc gia này, việc trở thành các nước dẫn đầu trong việc tận dụng được các lợi ích của Internet không phải là không gặp trở ngại. Trong báo cáo này chúng tôi sẽ đưa ra những kinh nghiệm thực tế về xã hội, chính trị, địa chỉ IP, tên miền và các vấn đề liên quan đến bản quyền trong TMĐT, cuối cùng là đưa ra các nhân tố cơ bản ảnh hướng đến sự phát triển của TMĐT. I.4. Một số giải pháp phát triển TMĐT ở các nước I.4.1. Hoa Kỳ Hoa Kỳ là nước có nền tảng kỹ thuật số rất tiên tiến, trên thực tế đang nắm quyền khống chế ba nhánh của hạ tầng công nghệ TMĐT: máy tính, truyền thông và bảo mật. Hoa Kỳ là người khởi xướng TMĐT, chủ động đưa ra một hệ thống các nguyên tắc cơ bản của TMĐT và ra sức cổ vũ, xúc tiến TMĐT trên toàn cầu. Hoa Kỳ là nước có nền CNTT phát triển rất cao, trong các năm 1995 - 1997 đã đóng góp 28 - 42% tổng số gia tăng của GDP. Riêng về máy tính điện tử, hiện nay có 100 gia đình người Hoa Kỳ thì có 38 gia đình có máy, đạt tỷ lệ cao nhất trên thế giới. Theo các số liệu ước tính gần đúng, Hoa Kỳ đang chiếm tỷ trọng trên 70% trong tổng doanh số TMĐT của toàn thể giới. Trong tình huống đó, TMĐT có ý nghĩa kinh tế sống còn đối với nước Hoa Kỳ: nhờ nó chi phí giao dịch có thể giảm đi nhiều chục, thậm chí hàng trăm lần. Đấy là lý do vì sao Hoa Kỳ là nước đi tiên Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 17
  19. Đề tài KC.01-05-03 phong, hiện nay Hoa Kỳ chiếm trên một nửa tổng doanh số TMĐT toàn thế giới (chủ yếu là trong nội địa nước Hoa Kỳ). Phân tích trên cho thấy mặc dù TMĐT đã phát triển cao ở nước này, nhưng các cá nhân và các doanh nghiệp trong nước Hoa Kỳ vẫn tiếp tục nêu ra ba vấn đề gây trở ngại cho hình thức buôn bán này, đó là: thiếu một môi trường pháp lý có thể tiên liệu được (predictable legal environment); Lo ngại rằng Chính phủ sẽ đánh thuế quá mức, kiểm soát quá mức, hoặc kiểm duyệt Internet; Lo ngại về năng lực hoạt động, độ tin cậy và tính an toàn của Internet. Xem xét các vấn đề trên, tháng 7.1997, chính phủ Hoa kỳ công bố bản “Khuôn khổ cho thương mại điện tử toàn cầu” (Framework for Golbal Electronic Commerce). Bản văn kiện “Khuôn khổ cho thương mại điện tử toàn cầu” phác hoạ chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ nhằm nâng cao hơn nữa sự tin tưởng của giới doanh nghiệp và người tiêu dùng trong việc sử dụng các mạng điện tử vào mục đích thương mại. Tư tưởng chỉ đạo của 5 nguyên tắc đó là : Tự do tuyệt đối (kể cả phi thuế); Chính phủ không can thiệp mà chỉ tạo điều kiện cho TMĐT; đề cao vai trò tiên phong, chủ động của khu vực kinh tế tư nhân trong tiến triển TMĐT ở Hoa Kỳ. Văn kiện này đã được lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các nhà công nghiệp, các nhóm người tiêu dùng và cộng đồng các nhà sản xuất, sử dụng Internet. Song song với 5 nguyên tắc chỉ đạo, Chính phủ Hoa Kỳ cũng khuyến nghị với thế giới 3 nguyên tắc : (1) TMĐT trên Internet cần phải được tự do, phi quan thuế; (2) Thế giới cần có một luật chung để điều tiết hình thức có thể tiên liệu được; (3) Sở hữu trí tuệ và bí mật riêng tư phải được tôn trọng và bảo vệ trong khi tiến hành TMĐT. Sau 10 năm (1990 - 1999) TMĐT được thử nghiệm ứng dụng và phát triển rộng rãi, với những kinh nghiệm và thực tiễn thu được, khi TMĐT đã đạt trình độ phát triển cao, với quy mô áp dụng rộng rãi thì Hoa Kỳ mới hoạch định chiến lược phát triển TMĐT (Báo cáo cuối cùng về chiến lược phát triển TMĐT của Hoa Kỳ được chuẩn bị xong vào cuối năm 1999). Điều đó cho thấy, mặc dù là nước khởi xướng TMĐT nhưng về phương diện quản lý Nhà nước thì Chính phủ Hoa Kỳ cũng rất thận trọng và cơ chế chính sách để đảm bảo tính liên tác trên Internet, khu vực tư nhân yêu cầu thiết lập những tiêu chuẩn cần thiết. I.4.2. Canada Từ năm 1997, Chính phủ Canada đã bắt đầu xây dựng một chính sách và chương trình lập pháp trong vòng 2 năm để định hình và phát triển TMĐT nhằm bắt kịp với tốc độ phát triển của hình thức thương mại này. Kế hoạch được triển khai đầu tiên là kế hoạch có mục tiêu “trực tuyến hoá” các dịch vụ chính phủ. Chiến lược TMĐT của Canada đưa ra các thử thách và các cơ hội cho TMĐT và người tiêu dùng, xác định 4 nhóm với 10 vấn đề ưu tiên hành động. Nhằm đặt Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 18
  20. Đề tài KC.01-05-03 được mục tiêu của chiến lược TMĐT của Canada là đến năm 2000, Canada trở thành một nước hàng đầu thế giới về phát triển và sử dụng TMĐT. Chiến lược TMĐT dựa trên sự công tác chặt chẽ giữa khu vực tư nhân và Chính phủ. Trong đó, khu vực tư nhân có vai trò chủ đạo trong phát triển và áp dụng TMĐT, vai trò của Chính phủ là hỗ trợ khu vực tư nhân. Vai trò của Chính phủ Canada trong quá trình triển khai phát triển TMĐT ở Canada được xác định ở 4 lĩnh vực cơ bản là : (1) Chính phủ Canada đóng vai trò chủ chốt trong việc quảng bá các lợi thế của việc cung cấp dịch vụ bằng con đường điện tử, tạo điều kiện để nhiều người quan tâm và tạo lòng tin cho người tiêu dùng, đi đầu thí điểm các công nghệ mới; (2) Chính phủ Canada đi đầu trong việc thực hiện các dự án thí điểm về quản lý điều hành các cơ sở hạ tầng công cộng then chốt, một loạt dự án đang được tiến hành ở khắp các cơ quan thuộc Chính phủ. Khu vực nhà nước Canada đang đi đầu trong việc sử dụng các cơ sở dữ liệu điện tử để mua sắm hàng hoá và dịch vụ. (3) Chính phủ Canada đi đầu thực hiện các ứng dụng an toàn và dịch vụ quản lý then chốt (dịch vụ tin học và viễn thông Chính phủ). Các chính quyền bang, vốn trước đây đã sử dụng EDI và các kiot công cộng để cung cấp dịch vụ bằng con đường điện tử, nay chuyển sang dùng mạng Internet với giá rẻ hơn. Chế độ quản lý cơ sở hạ tầng công nghệ then chốt (GOC PKI) của Canada sẽ tạo cho Chính phủ liên bang phương tiện để đảm bảo chắc chắn việc cung cấp các dịch vụ của mình đến người dân Canada bằng điện tử, thông qua sử dụng các dịch vụ quản lý và chứng nhận đồng bộ. Dự án này sẽ tác động lớn tới tương lai TMĐT của Canada, không chủ đối với Chính phủ mà còn đối với mọi người dân Canada. Thông qua GOC PKI, Chính phủ sẽ đưa ra một mô hình làm chuẩn mực cho các cơ quan chứng nhận thông qua những thoả thuận chứng nhận ký chéo với các cấp Chính quyền và với khu vực kinh tế tư nhân; (4) Chính phủ Canada đi đầu trong việc thực hiện các dự án lưu trữ điện tử (điện tử hoá công tác lưu trữ) và hoạch định thực thi chiến lược an ninh và bảo mật mạng. Có thể nhận định rằng: nếu như nền TMĐT của Hoa Kỳ được hình thành và phát triển một cách tự nhiên, phát sinh từ sự chín muồi của hệ thống cơ sở hạ tầng cho TMĐT hoạt động), Chính phủ chỉ tạo môi trường thuận lợi về luật pháp, chính sách cho TMĐT hoạt động thì sự ra đời với phát triển TMĐT của Canada phụ thuộc rất lớn vào vai trò của Chính phủ, Chính phủ chủ động và thực sự đóng vai trò của một “Bà đỡ”. Đặc điểm chung của Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Canada trong vấn đề TMĐT là cùng ra sức cổ vũ, xúc tiến TMĐT trên toàn cầu. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 19
  21. Đề tài KC.01-05-03 I.4.3. Nhật Bản Với lợi thế là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới sau Hoa Kỳ, và lớn nhất trong khu vực Châu Á. Nhật bản chiếm 60% kinh tế Châu Á. Thực vậy, dù có sự khủng hoảng kinh tế vào năm 1990, nhưng với sự cạnh tranh liên tục Nhật Bản vẫn tiếp tục là một nền kinh tế có tầm cỡ trong kinh tế toàn cầu với vai trò nổi bật trong công nghiệp công nghệ cao. Đánh giá được tầm quan trọng của Internet và lợi ích tiềm tàng của nó, Nhật Bản đã nghiên cứu và triển khai các công nghệ mạng mới. Nhật Bản đã nhanh chóng khai thác tiềm năng lợi ích của Internet đối với xã hội và trong lĩnh vực tài chính, Chính phủ Nhật cũng tạo ra những hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển mạng máy tính. Do đó, sự phát triển cơ sở hạ tầng và kỹ thuật mạng máy tính của Nhật bản đã thực sự mang lại lợi ích lớn. Nhật Bản đã chiếm từ 10% đến 20% của thị trường Internet của thế giới. Số lượng các trang Web cũng ngày càng tăng và ngày càng đa dạng. Trên thực tế, nhờ có sự phát triển của Internet mà Nhật Bản từ một dân tộc bảo thủ cực đoan đã chuyển biến thành một xã hội văn minh hiện đại Vấn đề đặt ra là bây giờ hoặc không bao giờ Nhật Bản có thể xây dựng một cơ sở hạ tầng Internet và thương mại điện tử đủ nhanh để chiến thắng một số nước được coi là "Siêu cường quốc Internet của Châu Á". Tất nhiên, việc này dẫn đến một nhu cầu tất yếu về pháp lý đối với vấn đề sở hữu trí tuệ, bản quyền, đăng ký tên miền Cho đến gần đây, Nhật Bản vẫn luôn được coi là đất nước có một khoảng cách an toàn với thế giới trong hai vấn đề kinh tế và chính trị. Được điều khiển bởi một Chính phủ cực đoan - bảo thủ, Nhật bản chọn hướng đi cô lập và chủ yếu phát triển nội lực của đất nước. Rất nhiều năm về trước các sản phẩm của Nhật Bản chủ yếu chỉ để phục vụ nội địa chứ không tính đến xuất khẩu. Một vấn đề cơ bản dẫn đến sự tách biệt giữa Nhật Bản và các nước khác trên thế giới chính là văn hoá và ngôn ngữ của người Nhật. Sự bảo thủ, tâm lý tự bảo vệ thể hiện qua phương pháp chỉ đạo kinh doanh của người Nhật. Các công ty nước ngoài gần như không bao giờ được đặt chân đến các tỉnh, và việc kinh doanh của các công ty nước ngoài được theo dõi rất chặt chẽ. Vấn đề thuế quan thương mại đối với hàng nhập khẩu chính là rào cản lớn, đối với hàng nhập khẩu Chính phủ đã đưa ra mức thuế quá cao và được cơ quan thuế quan theo dõi và hạn chế các hoạt động kinh doanh. Nói một cách khác, Nhật Bản không có các chính sách khuyến khích việc các công ty nước ngoài thâm nhập vào thị trường kinh doanh tại Nhật Bản. Chính sách này cũng không có nghĩa là Chính phủ bảo trợ tất cả các công ty nội địa. Một số công ty lớn được hưởng các ưu đãi đặc biệt của chính phủ sau một Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 20
  22. Đề tài KC.01-05-03 thời gian đã quay trở lại làm thành viên của Chính phủ. Các doanh nghiệp người Nhật, đặc biệt là những hãng nhỏ đều tự hạch toán kinh doanh, họ không nhận được sự hỗ trợ nhỏ nào về vốn từ phía Chính phủ. Do đó việc thúc đẩy các dịch vụ Internet và TMĐT gặp rất nhiều khó khăn, lý do cơ bản là vì doanh nghiệp chưa nhận thấy được lợi ích khi tham gia TMĐT. Bị bao trùm bởi không khí bảo thủ đã dẫn đến thiếu tính đa dạng trong xã hội. Các doanh nghiệp chủ yếu chỉ tìm kiếm và phát triển thị trường với các bạn hàng có sự bảo trợ về chính sách từ Chính phủ Nhật Bản. Trên thực tế trong vài năm gần đây những mối quan hệ này đã làm lẫn lộn giữa kinh doanh và chính trị. Phụ nữ được loại bỏ ra khỏi nền công nghiệp Nhật Bản, đa số họ sống ở nhà, phục vụ chồng con và làm vai trò người quản gia. Giống hệt như cách phân biệt đối xử với phụ nữ của xã hội Nhật Bản, những doanh nghiệp nước ngoài cũng không muốn hợp tác với các doanh nghiệp Nhật Bản. Đây chính là bức tranh về môi trường kinh tế - xã hội Nhật Bản trước năm 1990, một “Nhật Bản già nua”. Với xu thế phát triển theo hướng toàn cầu hoá thì việc tự cô lập nền kinh tế kỹ thuật hiện nay thực sự nguy hiểm hơn rất nhiều so với 20 năm trước đây. Trên thực tế Nhật Bản đủ tiềm năng chắc chắn để xây dựng một nền kinh tế cạnh tranh, mạnh nhất trên thế giới. Với các hãng khổng lồ như Sony, Panasonic và Hitachi, Nhật Bản chắc chắn cũng không phải là nước thiếu tiềm lực về kỹ thuật. Do vậy, tuy chỉ bắt đầu phát triển từ năm 1980 nhưng nền kinh tế của Nhật bản thực sự đã vươn đến đỉnh cao của thế giới. Vào những năm 1990, nền kinh tế Nhật Bản bị khủng hoảng trong khi các nền kinh tế khác lại bùng nổ phát triển chưa từng thấy. Từ năm 1991 đến 1996, Nhật Bản phát triển trung bình 1,3%, trong khi đó nền kinh tế của các nước G7 đạt con số 1,9% và một điều kinh ngạc là các nước Châu Á đã đạt 8,7% Bức tranh nền kinh tế - xã hội đã không tương xứng. Qua các con số thăm dò cuộc sống của người dân ở Nhật Bản, 40% dân chúng cảm thấy không có thì giờ nhàn rỗi, 17% cảm thấy cuộc sống ngày một xấu đi. Các chính sách của Nhật Bản cũng chưa chú trọng đến người già, những người tàn tật và trẻ em hoặc các trách nhiệm khác. Với chất lượng cuộc sống như thế, Chính phủ Nhật Bản nhận thấy cần có một sự thay đổi khẩn cấp đối với nền kinh tế. Vấn đề không chỉ là cơ sở hạ tầng kinh tế mà còn là văn hoá, nó tạo ra xu thế phát triển kinh tế. Trong báo cáo về tầm nhìn thế kỷ 21 của các Bộ Bưu chính và Viễn thông Nhật Bản đã bắt đầu như sau: “Cần cải cách khẩn cấp 6 vấn đề chính trong nền kinh tế xã hội của Nhật Bản, quản lý, tài chính công cộng, quỹ an ninh xã hội, kinh tế, hệ thống tài chính và đào tạo”. Với các cải cách này nền kinh tế xã hội Nhật Bản được hy vọng sẽ hồi phục nhanh chóng. Thông qua các cải cách trên Nhật Bản hy vọng sẽ phát triển được hệ thống thông tin - viễn thông như một cánh cửa đến với thị trường toàn cầu. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 21
  23. Đề tài KC.01-05-03 Vào thời điểm các nước như Hoa Kỳ và một số nước Châu Á đang tăng trưởng kinh tế nhanh, thì Nhật Bản lại lâm vào tình trạng khủng hoảng, tăng trưởng chậm chạp. Nhật Bản đã quy kết việc phát triển chậm này là do hệ thống thông tin - viễn thông. Việc này đã tác động trực tiếp đến Chính phủ Nhật Bản, nhắc Chính Phủ xem xét nghiêm túc vấn đề phát triển dịch vụ Internet và cạnh tranh Thương mại điện tử Từ những năm 1990, Nhận Bản đã bắt đầu xây dựng lại cơ sở hạ tầng kinh tế và công cộng từ con số không. Chỉ trong 12 tháng, Chính phủ Nhật Bản đã đổ hơn 830 tỷ vào những dự án phục hồi kinh tế, và số tiền đó đã tạo một tác động quan trọng đến nền kinh tế của Nhật Bản. Các dự án cộng đồng và các toà nhà văn phòng đã mọc nên như nấm, bên cạnh đó Chính phủ đã hào phóng hỗ trợ các công ty bên bờ vực phá sản được vay các khoản tiền để kinh doanh. Chính phủ thậm chí đã chuyển 6 tỷ ra dạng các phiếu mua hàng để động viên các khách hàng tiêu nhiều tiền hơn và kích thích tiêu dùng nội địa. Chính phủ Nhật Bản chấp nhận một chiến lược về việc xây dựng một cơ sở hạ tầng kỹ thuật toàn diện. Internet thông thường được coi như một công cụ cải cách của Nhật bản. Sự khủng hoảng kinh tế vào năm 1990 đã cản trở nền công nghiệp Nhật Bản đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao như dây cáp mạng, routers, switches và hubs. Kết quả, Nhật bản đã thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật để có thể thúc đẩy hệ thống mạng để bước vào thế kỷ 21 như một số nước Châu Á và phương Tây. Nhận thức rõ được vấn đề này, Chính phủ Nhật bản đã công bố hai vấn đề chính thúc đẩy phát triển kỹ thuật. Năm 1995 Bộ Thương mại quốc tế và công nghiệp đã đưa ra một kế hoạch thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng thông tin và chính sách hỗ trợ phát triển thông tin và viễn thông. Điểm mấu chốt của kế hoạch này là lắp đặt hệ thống mạng cáp quang trên toàn quốc tới năm 2010. Tháng 8 năm 1994, Chương trình thúc đẩy phát triển thông tin và viễn thông được chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng. Chương trình triển khai thực hiện việc thiết lập các chính sách tổng thể về thông tin và viễn thông đồng thời hỗ trợ phát triển các dịch vụ thông tin - viễn thông. Đầu năm 1995, Chính phủ Nhật Bản đưa ra chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT hiện đại, lập ra Hội đồng xúc tiến thương mại điện tử (Electronic Commerce Promotion Council) với nhiệm vụ xây dựng phương hướng và hỗ trợ phát triển các cơ sở hạ tầng công nghệ và xã hội cần thiết cho TMĐT. Hội đồng được cấp 300 triệu USD, 1/3 dùngcho xúc tiến phát triển TMĐT hàng tiêu dùng bán lẻ, 2/3 cho TMĐT giữa các doanh nghiệp. Hội đồng xúc tiến TMĐT của Nhật Bản đang hỗ trợ cho các dự án xây dựng các cửa hàng ảo, các tiêu chuẩn cho thông tin sản phẩm, vấn đề bảo mật và an toàn, công nghệ thể thông minh, các trung tâm xác thực và chứng nhận chữ ký điện tử và chữ ký số. Việc truy nhập vào Internet ở Nhật Bản lần đầu tiên vào tháng 9 năm 1993. Năm 1995 có sự bùng nổ về Internet khắp toàn quốc, ở Nhật gọi là “Năm Internet đầu tiên”. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 22
  24. Đề tài KC.01-05-03 Xét về số người sử dụng Internet thì Nhật Bản hiện có 57.200 triệu người dùng (theo nguồn của Internetional Telecomunication Union), số lượng người dùng tính bình quân trên 10.000 người là 4.492,62 người, số lượng máy tính sử dụng trên toàn quốc là 48,7 triệu và tỷ lệ bình quân trên 1000 người là 38.25 máy. Mặc dù các con số thống kê của Nhật Bản khá lạc quan, nhưng chi phí sử dụng Internet còn cao (đắt gấp nhiều lần so với Hoa Kỳ) nên việc mở rộng giao dịch TMĐT vẫn còn gặp trở ngại. Theo dự báo của Hội đồng xúc tiến TMĐT, tổng giao dịch TMĐT qua Internet trong giai đoạn 1999 - 2002 mới đạt khoảng 126.05 tỷ USD, bằng 1% tổng giá trị giao dịch thương mại nói chung của Nhật Bản. Ở Nhật Bản khu vực kinh doanh chiếm 58,8% địa chỉ vùng, trong khi khu vực giáo dục đào tạo chỉ chiếm 14,0%. Khoảng cách này còn lớn hơn ở Hoa Kỳ với khu vực kinh doanh chiếm 82,0% còn khu vực giáo dục đào tạo chỉ chiếm 4,3%. Đi sâu vào các lĩnh vực nhỏ, lĩnh vực tài sản cố định chiếm vị trí đầu bảng với 20,9% số công ty nối Internet, sau đó đến lĩnh vực công nghiệp dịch vụ chiếm 19,2%, lĩnh vực tài chính và bảo hiểm chiếm 16,2%. nếu kể cả số liệu điều tra các công ty quyết định nối Internet thì số liệu phân bố tổng hợp sẽ là: tài sản cố định 42,7%, tài chính và bảo hiểm 39,2%, dịch vụ 37,3% và sản xuất 37,1%. Vai trò của Chính phủ Nhật Bản trong TMĐT thể hiện trước hết ở việc đầu tư kinh phí cho các hoạt động xúc tiến và hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng TMĐT. I.4.4. Trung Quốc Trung Quốc là nước lớn nhất trên thế giới, có 30% dân số cư trú trong những thành phố công nghiệp chính. trải qua nhiều năm xây dựng và phát triển, Chính phủ chuyển mục tiêu phát triển nông nghiệp mở rộng sang công nghiệp ở các thành phố lớn. Hiện nay, công nghệ Internet đã và đang trở thành mục tiêu phát triển trọng tâm của cả nước, với nỗ lực tập trung chủ yếu vào xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT. Trong thập kỷ 90, Trung Quốc đã sức xây dựng công nghiệp chế tạo máy tính điện tử, công suất sản xuất máy tính điện tử cá nhân năm 1998 đạt tới 8,5 triệu cái/năm (gấp 18 lần năm 1990), thực tế sản xuất năm 1998 khoảng 2,2 triệu cái, năm 1997 xuất khẩu máy tính điện tử đạt 8,4 tỷ USD, 4 công ty máy tính điện tử hàng đầu (Liên Tưởng, Đông Sáng, Trường Thành, Phương Chính) đều đã có sức cạnh tranh với IBM, Compaq, HP, DEC trên thị trường nội địa. Trong một năm, số người dùng Internet tăng lên ba lần ở Trung Quốc. Vào năm 1998 có 2.1 triệu người dùng, và vào khoảng cuối 1999, số lượng người dùng đã tăng thêm tới 8.9 triệu. Những năm gần đây, công nghệ phần cứng đạt tốc độ tăng khoảng 45%/năm. Đã bắt đầu sản xuất siêu máy tính, và đã chế tạo thành công máy tính lớn Ngân Hà 3 (tốc độ xử lý 13 tỷ phép tính/giây). Công nghiệp phần mềm đang phát triển với tốc độ tăng trên 20%/năm; doanh thu bán phần mềm năm 1997 là 11,2 tỷ nhân dân tệ (1.4 tỷ USD), công nghiệp phần mềm bắt đầu vào giai đoạn phát triển Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 23
  25. Đề tài KC.01-05-03 nhanh, át hẳn nhiều nước khác trong khu vực và trên thế giới, gần đuổi kịp xu hướng phát triển toàn cầu. Từ năm 1991, các Viện và các trường Đại học Trung Quốc đã xây dựng một loạt mạng máy tính cục bộ và nối kết chúng với nhau. Từ năm 1993 Trung Quốc bắt đầu nối vào Internet và hình thành hệ thống mạng các Viện Hàn lâm Khoa học đầu tiên của Trung Quốc. Việc kết nối với các mạng của các nhà khoa học của Hoa Kỳ và Châu Âu đã có tác động quan trọng đến các công tác nghiên cứu và triển khai của Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ như CNTT, công nghệ sinh học, vật liệu mới và tự động hoá. Trung Quốc bước vào TMĐT rất chậm nhưng tốc độ tăng trưởng lại cao, cuối năm 1997 mới chính thức gia nhập mạng Internet, ngay sau đó tốc độ phát triển tăng rất cao, tháng 3/1998 Internet đã phủ trên 30 thành phố, số thuê báo Internet là 0,6 triệu, tới cuối tháng 6 lên 1.17 triệu, cuối năm lên 2,1 triệu, năm 1999 lên 3.6 triệu, và tới năm 2000 lên tới trên 4,5 triệu. Dự báo năm 2005 lên đến 100 triệu. Với mức tăng trưởng này, sự phát triển của thương mại điện tử của Trung Quốc còn phụ thuộc vào sự điều chỉnh bắt buộc bởi Chính phủ và mục tiêu tăng trư- ởng của kinh tế. Trung Quốc có kế hoạch lớn nhằm thiết lập hệ thống liên kết trong nước với cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu. Dự án liên quan đến việc lập kế hoạch và thực hiện phát triển cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu (GII) được Chính phủ coi là dự án ưu tiên (dự án bao gồm cả những dự án nghiên cứu và triển khai liên kết với các chuyên gia nước ngoài). Đầu tư nước ngoài dành cho kế hoạch GII của Trung Quốc vai trò quan trọng. Chính phủ Trung Quốc cũng đã có những sự điều chỉnh về pháp luật để đẩy mạnh và bảo vệ những công ty trực tuyến. Trước hết, Chính phủ giảm bớt chi phí kết nối Internet nhằm khuyến khích người dân sử dụng Internet vì chi phí kết nối Internet được coi là một rào cản đối với người dân có thu nhập trung bình tại Trung Quốc. Bây giờ chi phí đó đã được giảm bớt, nhiều người hơn có thể có đủ khả năng đăng nhập và trở thành là những khách hàng tiềm tàng của TMĐT. I.4.5. Tình hình TMĐT tại Hàn Quốc Để cạnh tranh trong một môi trường hướng đến toàn cầu hoá, các doanh nghiệp ở khắp nơi trên thế giới thực sự đang đứng giữa sự sống - hoặc - cái chết, và các nước EU cũng như các nước khác như Mỹ và Nhật Bản cũng đang giao tranh dữ dội trong việc dẫn đầu trong thương mại điện tử. Chính phủ của các nước phát triển đang đưa ra các dự án mới nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng và thu hút nhân lực lành nghề từ các nước khác trên thế giới Trong hoàn cảnh này, các công ty Hàn Quốc cũng đang tăng tốc để thực hiện việc đơn giản hoá hoạt động thương mại, bên cạnh đó Chính phủ Hàn Quốc cũng nỗ lực khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tham gia Thương mại điện tử thông Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 24
  26. Đề tài KC.01-05-03 qua các chương trình như “Chương trình hành động cơ bản về Thương mại điện tử năm 1999” và “Chính sách toàn diện cho sự phát triển Thương mại điện tử” năm 2000 và “Sáng kiến kinh doanh điện tử tại Hàn Quốc” vào năm 2001. Tại Hàn Quốc, dự kiến tốc độ phát triển thị trường thương mại điện tử sau năm 2003 sẽ đạt trên 150 ngàn tỷ WON và đạt 4,2 ngàn tỷ Won (chiếm 0,87% của GDP) thêm vào đó giá trị sẽ được gia tăng hàng năm. Với những kết quả trên Hàn Quốc đã coi là một nước tiên tiến trong kỷ nguyên số. Trong phần này sẽ đưa ra những con số cơ bản về khả năng tăng trưởng của Thương mại điện tử tại Hàn Quốc bằng việc xem xét lại hiện trạng của thị trường thương mại điện tử của Hàn Quốc. Trước hết, báo cáo sẽ đánh giá khảo sát cơ sở hạ tầng TMĐT theo thực trạng của các vùng thương mại điện tử, các ngành nghề triển khai TMĐT và cuối cùng là chìa khoá để phát triển thương mại điện tử tại Hàn Quốc. Thương mại điện tử đã phát triển lượng người dùng Internet đồng thời cũng tăng tốc phát triển ngành công nghệ thông tin. Với các giao dịch B2B chủ yếu vào năm 2000, các dự án TMĐT đã phát triển ngày một nhanh cả về số lượng cũng như chất lượng giao dịch. Internet cũng đã trở nên được quan tâm nhiều hơn, lượng máy tính tiêu thụ hàng năm ngày một tăng song song với sự phát triển này các nhà công nghệ cũng đưa ra các giải pháp về băng thông Internet. Với sự hỗ trợ về mặt chính sách của Chính phủ Hàn Quốc, ngành công nghệ thông tin nói chung cũng như hệ thống mạng viễn thông nói riêng đã được vực dậy và phát triển nhanh chóng. Sự phát triển của băng thông rất quan trọng nó giúp người dùng truy cập Internet nhanh và đơn giản hơn, đồng thời nó cũng đưa đến cho người dùng chất lượng cao về cả dịch vụ và nội dung, trên cơ sở đó nó đã góp phần đưa Hàn Quốc trở thành siêu cường quốc về thông tin. Trên cơ sở “new economy” (quản lý mới) dựa trên nền tảng Internet và hệ thống cơ sở hạ tầng, năng lực công nghiệp TMĐT tại Hàn Quốc đã và đang được đánh giá cao và được coi là hướng kinh doanh mới. Trong khi loại giao dịch B2C đang được chú ý phát triển, thì tình trạng phát triển loại hình kinh doanh B2B và B2G được đánh giá là yếu. Chính phủ Hàn Quốc và đặc biệt là các nhà kinh doanh cũng đang đưa ra các định hướng cơ bản và các chính sách hỗ trợ đế TMĐT ngày càng phát triển. Tổng số các giao dịch TMĐT tại Hàn Quốc đạt 47.93 tỷ USD vào năm 2000 và 99.15 tỷ USD vào năm 2001, số lượng các giao dịch tăng 250% trong vòng 1 năm. B2B là loại giao dịch trong TMĐT, đồng thời loại hình B2C cũng đang từng bước phát triển. Cả hai loại giao dịch bán lẻ thông thường và bán lẻ đặc biệt đều hoạt động mạnh. Trong đó các loại giao dịch bán lẻ đặc biệt đạt (84,8% vào tháng 2 năm 2002). Tổng cộng có 1.529 công ty cung cấp dịch vụ trực tuyến và không trực tuyến khi chỉ có 747 công ty thực hiện cung cấp trực tuyến. Gần 20% tổng số người dùng Internet tại Hàn Quốc được coi là khách hàng thương mại điện tử tiềm năng dạng B2C. Theo một khảo sát về nhu cầu của khách hàng trên Internet của 1000 người dân sống tại Thủ đô Seoul được thực hiện bới Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 25
  27. Đề tài KC.01-05-03 KISDI (Korea Information Society Development Institute) trong tháng 12/2000, khoảng 18,2% số dân đã thường xuyên mua sắm trên Internet. và trong một báo cáo khảo sát khác thì 18,9% số dân đã mua sắm trên Internet ít nhất một lần. Tính đến tháng 2/2002, khối lượng giao dịch bằng hình thức bán lẻ trên Internet là 2.276 lần trị giá 278 triệu USD tăng 142 triệu USD so với 136 triệu vào tháng 2/2001. Con số tăng trưởng đầy ấn tượng về lợi tức nhưng thực ra các công ty kinh doanh trên Internet chưa hề có lãi trên các con số này, lý do vì chi phí thẻ, chi phí hoạt động và các chi phí khác còn quá cao. Theo những khảo sát của KISDI, chỉ 3,8% cửa hàng trên Internet là hoà vốn trong năm 2000. Trong khi đó, sự cạnh tranh từ các công ty nước ngoài ngày càng gay gắt. Những trang Web nổi tiếng trên Internet như Yahoo và Lycos đã ngày càng phố biến rộng rãi tại Hàn Quốc. Trang Web Amazon.com là một ví dụ cụ thể. Amazon.com đã lập chiến lược liên kết với Công ty SAMSUNG để thiết lập hệ thống bán sách trên Internet. Thị trường thương mại điện tử ngày càng được khuyến khích phát triển và cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty trong nước và các công ty quốc tế. Một yếu tố khác rất quan trọng điều khiển sự tăng trưởng thương mại điện tử tại Hàn Quốc là chiến lược kinh doanh thương mại điện tử của những doanh nghiệp lớn. Các công ty lớn tại Hàn Quốc theo đuổi hoạt động thương mại điện tử mà không hề phân biệt giữa B2C và B2B đã thực sự kích thích thị trường. Trong thời điểm này Công ty SAMSUNG đã trở thành một doanh nghiệp lớn có khối lượng hàng hoá giao dịch trên Internet cao nhất. Công ty này cũng đã nhanh chóng hình thành một bộ phận chuyên kinh doanh điện tử. Dựa trên các quan hệ sẵn có của nó với Amazon, SAMSUNG đã tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử của mình bằng cách liên doanh với trực tuyến với hãng AOL (Mỹ). Ngay lập tức SAMSUNG đã trở thành công ty hàng đầu về kinh doanh thương mại điện tử tại Hàn Quốc. Theo đánh giá khảo sát các doanh nghiệp thương mại điện tử tại Hàn Quốc vào quý 3 năm 2002, khối lượng các giao dịch dưới dạng B2B đạt tới 22,74 tỷ USD, tăng 22,4% (4,16 tỷ USD) so với quý trước (18,58 tỷ USD). Các giao dịch từ chủ động từ phía người mua chiếm 76,5% (17,4 tỷ USD) của tổng số giao dịch dạng B2B ở quý 3 năm 2001. Con số này đã tăng 19,5% (2,83 tỷ USD) so với quý trước. Các giao dịch dựa trên cơ sở đối tác truyền thống là 14 tỷ chiếm 80,6%. Các giao dịch thương mại trên cơ sở đối tác truyền thống chủ yếu trao đổi các mặt hàng như điện tử, máy móc, dầu khí , dựa trên nền tảng mối quan hệ đã có sẵn từ trước nên các giao dịch này hoàn toàn đứng trên yếu tố tin tưởng và tiết kiệm. Tổng cộng các giao dịch mở là 3,38 tỷ USD chiếm 19,4% tổng số các giao dịch, chủ yếu là do người mua chủ động. Con số này cho thấy các giao dịch mở thực sự dựa vào sự cạnh tranh giữa những nhà cung cấp với các dịch vụ MRO (bảo trì, sửa chữa, hoạt động) và các tiêu chuẩn khác. Các giao dịch do người bán chủ động đạt 4,55 tỷ USD chiếm 36,9% tăng 1,22 tỷ USD so với quý trước. Đặc biệt hơn, các giao dịch dựa trên nền tảng đối tác truyền thống đạt tới 4,2 tỷ USD và các giao dịch Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 26
  28. Đề tài KC.01-05-03 mở đạt tới 350 triệu USD. Các giao dịch thông qua môi giới đang dần dần thâm nhập vào thị trường nó đạt tới 790 triệu USD, chiếm 3,4% các giao dịch thương mại dạng B2B. Loại giao dịch này tăng 14,3% (110 triệu USD) so với quý trước. Khối lượng giao dịch dạng B2G trong quý 3 năm 2001 thực hiện từ 56 đơn vị của chính phủ (trong đó 37 đại lý của Chính phủ tại trung ương và 19 tổ chức Chính phủ tại địa phương) đạt 1,11 tỷ USD. Hầu hết là các hoạt động giao dịch giữa các tổ chức Chính phủ trung ương. Vật liệu và thiết bị máy móc là hai loại giao dịch chủ yếu của các hợp đồng thương mại điện tử B2G. Không giống như các giao dịch TMĐT dạng B2B và B2C, B2G mới bắt đầu vào quý 1/2001 với tỷ lệ 10%, nó thực sự phát triển vào quý 2 với chỉ số 89% (theo báo cáo Korea National Statistical Office, ngày 20/12/2001). Loại giao dịch này tăng trưởng một cách bất ngờ và rất khả thi nó mang lại cơ hội để phát triển môi trường e- government và nhiều chương trình khác của Chính phủ trong môi trường thương mại điện tử. Tuy nhiên, quay trở lại với việc thực hiện giao dịch dạng B2G trên thực tế nó được thực hiện bằng lời nói nhiều hơn bằng các hành động thực tế. Vấn đề khó khăn lớn nhất không phải là việc phát triển hệ thống mà là hoạt động của các hệ thống thông tin, vấn đề quản lý và chương trình tính toán. Nói một cách khác, Chính phủ Hàn Quốc đang muốn có thêm thời gian để thực sự thích nghi với các giao dịch kinh doanh với các nhà cung cấp. Thực tế, Chính phủ đã ưu tiên các hợp đồng với các nhà cung cấp được chọn dựa vào các mối quan hệ sẵn có nhiều hơn là các hợp đồng dựa trên giá cả, đây thực sự là một vấn đề lớn trong giao dịch B2G. • Thương mại điện tử chính sách và những trở ngại của Hàn Quốc - Chính sách về bảo mật cá nhân Theo một báo cáo (KRNIC 2001) khảo sát đối với 125 công ty, có 107 công ty (chiếm 86%) có chính sách bảo mật riêng. Trong đó, 106 công ty (chiếm 98%) đã đưa ra những chính sách của họ trên Websites, họ đảm bảo về việc giữ bí mật các thông tin cá nhân. Nhưng khi hỏi liệu họ có thực sự thực hiện các những chính sách của họ về việc bảo mật thông tin cá nhân, thì chỉ 33 công ty (35%) trả lời khẳng định là có. Nói một cách khác người dùng có thể khó có thể có được quyền lợi trách nhiệm của các công ty đối với các thông tin cá nhân mà các công ty có được từ những người tham gia TMĐT. Hơn nữa, 100 công ty, hoặc 80% câu trả lời của các công ty nói rằng họ có nhân viên để quản lý các thông tin cá nhân. Trong đó 63 công ty (65%) có tạo ra các mức quản lý bảo mật thông tin cá nhân. Còn lại 34 công ty (35%) vẫn không hề có các bước bảo đảm thực hiện bảo mật thông tin cá nhân hoặc có nhân viên đảm trách nhiệm vụ này. Điều này chỉ ra rằng các công ty vẫn còn tồn tại các nhược điểm về vấn đề bảo mật thông tin cá nhân của các khách hàng. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 27
  29. Đề tài KC.01-05-03 Mặc dù Hàn Quốc có những quy định cụ thể về việc bảo mật các thông tin cá nhân của các khách hàng tham gia giao dịch thương mại điện tử từ độ tuổi 14 trở lên nhưng theo khảo sát thì có đến 33 công ty báo cáo rằng họ chưa hề thiết lập các chương trình như vậy. Đây là một bất cập gây trở ngại trong các giao dịch TMĐT tại Hàn Quốc. Nó thực sự khiến người sử dụng dịch vụ lo ngại và không dám sử dụng các giao dịch TMĐT trực tuyến. Xâm phạm thông tin cá nhân. Theo như Hãng bảo mật thông tin của Hàn Quốc thì họ đã nhận được 12.329 lời than phiền vào tháng 11/2001, tăng xấp xỉ 530% so với cùng kỳ năm trước. Với tình hình này, sẽ có từ 18.000 đến 20.000 lời than phiền dạng này vào năm 2002. Thiệt hại, xâm phạm và lạm dụng thông tin cá nhân đã được báo cáo khảo sát vào năm 2000 theo những luồng thông tin không mong muốn, không đúng theo yêu cầu, những yêu cầu thay đổi hoặc xoá bỏ thông tin cá nhân chưa có sự ưng thuận của người dùng. Chủ yếu các than phiền này điều được sửa chữa và hoà giải giữa các đối tác. - Bảo vệ khách hàng Bảo vệ khách hàng thực sự là một cuộc cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ khách hàng chính là giải quyết tranh chấp liên quan đến thương mại điện tử. Trong môi trường cạnh tranh lành mạnh này, những vấn đề chính như đưa sai các thông tin hoặc quảng cáo phóng đại trên Internet, tranh chấp tên miền, kết nối mạng gian lận, và cạnh tranh không công bằng xuất phát từ các hành động không công bằng khác. Để giải quyết vấn đề này Hàn Quốc đã lập ra Uỷ ban điều đình TMĐT. Với việc bảo vệ hơn 2000 trang web bán lẻ với 39 loại yêu cầu thực sự là vấn đề lớn đối với việc thiết lập chính sách phù hợp của Chính phủ Hàn Quốc. Làm thế nào để có thể bảo mật được các thông tin cá nhân, các hợp đồng đã được ký kết, các thông tin về giá cả và thông tin về việc giao hàng, các hình thức thanh toán, đây thực sự là một bài toán lớn với các nhà làm chính sách và các công ty thực thi chính sách tại Hàn Quốc. So sánh với kết quả khảo sát vào tháng 5/2001 thì hiện nay các yêu cầu này đã được xử lý dần dần với chiều hướng tốt, việc bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng cho thấy việc kinh doanh thương mại điện tử đã hướng về lợi ích của khách hàng nhiều hơn so với trước. Tuy nhiên, vẫn còn có một số Websites hoàn toàn không tuân theo chính sách bảo vệ khách hàng. Một số công ty đã cung cấp dịch vụ bảo mật thông tin cá nhân trên chính Websites của mình, số lượng các công ty này chiếm 54,5%, nhưng trên thực tế việc bảo mật thông tin trên mạng là thực sự khó khăn và phức tạp nên chỉ 26,5% các công ty này đảm bảo rằng họ đã hoàn toàn thực sự cung cấp dịch vụ này với khách hàng. Đây cũng là một vấn đề trở ngại trong việc thúc đẩy Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 28
  30. Đề tài KC.01-05-03 giao dịch thương mại điện tử. Việc quản lý thông tin khách hàng và có các chính sách bảo mật thông tin hợp lý đang là vấn đề lớn đặt ra đối với không ít các Websites tại Hàn Quốc. - Giải quyết các tranh chấp TMĐT Với tốc độ tăng trưởng của TMĐT, các con số về vấn đề tranh chấp được gửi đến Uỷ ban điều đình về TMĐT ngày càng tăng, từ 308 trường hợp vào năm 2000 lên đến 1310 trường hợp vào năm 2001. Đồng thời việc giải quyết các tranh chấp này cũng đã tăng gấp 5,5 lần từ 83 trường hợp năm 2000 đến 457 trường hợp năm 2001, con số trường hợp giải quyết dứt điểm được tăng từ 62 trường hợp năm 2000 đến 346 trường hợp năm 2001, tỷ lệ giải quyết dứt điểm tăng từ 87,3% lên đến 95,8%. - Sở hữu tri thức Thủ tướng Hàn Quốc đã ra sắc lệnh thi hành các đạo luật về TMĐT bao gồm cả vấn đề sở hữu vào ngày 27/3/2001. Trong đạo luật mới được sửa đổi này, Bộ Văn hoá và Du lịch Hàn Quốc đã chỉ rõ phạm vi sao chép máy tính, sách, và các giao diện trên màn hình. Ngoài ra còn có sắc lệnh bổ sung chỉ ra những vấn đề cụ thể về bản quyền trong các chương trình máy tính vào ngày 16/7/2001 do Bộ trưởng Bộ Thông tin và Viễn thông ký. Do có quá nhiều các tranh chấp thường xuyên về tên miền, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập lập Văn phòng giải quyết các tranh chấp tên miền vào tháng 8/2001. Văn phòng này đã tiến hành phân xử các vụ tranh chấp tên miền từ tháng 10/2001, nó là trung gian xử lý các vụ tranh chấp tên miền có đuôi .kr và hồi phục các tên miền. - Bảo mật và chứng nhận Tại Hàn Quốc, đạo luật cơ bản về TMĐT và chữ ký điện tử có quy định chi tiết về bảo mật và chứng nhận. Trong luật cơ bản về TMĐT, Chính phủ Hàn Quốc cũng đã đưa ra các quy định cụ thể trong việc trao đổi tài liệu điện tử trong TMĐT. Chữ ký điện tử được chấp nhận chính thức kể từ tháng 2/1999, nó được công nhận như một phương tiện đảm bảo tính xác thực tài liệu điện tử. Cả hai hoạt động TMĐT và chữ ký điện tử đều được đi vào chính thức hoạt động từ ngày 1/7/1999. Theo Bộ Thông tin và Viễn thông, đến ngày 14/5/2002 đã có 3.031.000 người được cấp chứng nhận chữ ký điện tử. Con số đã tăng 26 % so với số lượng 2,409,065 người sử dụng ở quý đầu tiên. Số lượng người dùng được cấp chứng chỉ ngày càng tăng chứng tỏ việc sử dụng chữ ký điện tử ngày càng trở nên quan trọng. Trung tâm cấp chứng nhận Hàn Quốc (Korea Certification Authority Central - Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 29
  31. Đề tài KC.01-05-03 là nơi chỉ đạo việc quản lý chứng chỉ chữ ký điện tử trong việc sử dụng . Mặt khác, vào tháng 4/2002 sáu nước Asian bao gồm cả Hàn Quốc và Nhận Bản cũng đã thống nhất đưa ra hệ thống xác thực chứng chỉ giữa các nước với nhau mở ra một kỷ nguyên mới trong giao dịch thương mại. Hoạt động của Liên minh thương mại điện tử Châu Á (PAA) đã liên kết với hệ thống KTNET tại Hàn Quốc với các nước thành viên khác như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, HongKong, Singapore và Malaysia. Dự án thử nghiệm dịch vụ tài liệu điện tử được vận hành dựa trên cơ sở chứng chỉ xác thực được ra đời từ ngày 2/4/2002. - Thanh toán điện tử trong giao dịch dạng B2B Các ngân hàng như Shinhan, Choheung, Hana, Korea Exchange, và Ngân hàng công nghiệp Hàn Quốc đều đã phát triển và đưa ra các sản phẩm phù hợp với các khách hàng, cho phép các khách hàng thực hiện việc thanh toán trực tuyến thông qua các hợp đồng giao dịch dạng B2B. Hơn nữa, hệ thống còn có thể chuyển hoá đơn từ doanh nghiệp này đến doanh nghiệp khác, giữa 8 ngân hàng với nhau bao gồm Hàn Quốc Exchange, Choheung, và Woori dưới sáng kiến của Korea Financial Telecommunications and Clearings Institute. Hệ thống này ra đời vào tháng 3/2002, tính đến nay hầu như tất cả các ngân hàng đều đã và đang thực hiện kết nối vào hệ thống này. - Thanh toán quốc tế trong giao dịch dạng B2B Bolero.net được ra đời vào năm 1994 với 50 % quyền sở hữu của SWIFT, thành viên của hệ thống ngân hàng công nghiệp có mạng thanh toán toàn cầu và câu lạc bộ thanh toán, một hiệp hội bảo hiểm lẫn nhau toàn cầu đối với công nghiệp hàng hải. Dịch vụ B2B, được bắt đầu nhằm mục đích thay thế toàn bộ các hợp đồng giao dịch trên giấy bằng các giao dịch điện tử. Đa số các ngân hàng trong Hàn Quốc bao gồm sự Hàn Quốc Exchange, Choheung, và Woori đã rất thú vị với các đơn đặt hàng từ nước ngoài được thông qua bolero.net. Giữa chúng, Ngân hàng Woori đã thực sự trở thành thành viên của dịch vụ bolero.net. Vào thời điểm này các tập đoàn lớn như Tập đoàn SAMSUNG, POSCO, và Hanjin Shipping cũng đã tham gia bolero.net nhằm xây dựng hệ thống quản lý dây chuyền cung cấp của chính mình trên toàn cầu. TradeCard hỗ trợ thương mại giữa các nước. Các nước đã sử dụng hệ thống TradeCard bao gồm Australia, Austria, Belgium, Brazil, Canada, Denmark, Finland, France, Germany, Hong Kong, Ireland, Italy, Japan, the Netherlands, Norway, Portugal, Singapore, Hàn Quốc, Spain, Sweden, Switzerland, Taiwan, U.K., và U.S. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 30
  32. Đề tài KC.01-05-03 Korea Hàn Quốc Exchange Bank và Choheung Bank cũng đã tham gia hệ thống TradeCard và được tham gia cung cấp các dịch vụ xuất nhập khẩu thông qua hệ thống TradeCard đến với các công ty là thành viên của hệ thống. Thông qua các con số trên đây về TMĐT của Hàn Quốc, chúng ta thấy rõ bức tranh thực tế và những cố gắng từ phía Chính phủ Hàn Quốc. Hàn Quốc thực sự là một nước có các bước đi vững chắc nhưng độc đáo và hiệu quả trong kinh doanh TMĐT mà Việt Nam đáng xem xét. I.5. Tình hình thương mại điện tử tại Việt Nam Trong xu hướng phát triển kinh tế tri thức hiện nay, thông tin - tri thức khoa học, công nghệ và quản lý ngày càng đóng vai trò chủ đạo, quyết định đối với đời sống kinh tế con người. Kinh tế tri thức trong thế kỷ XXI sẽ dựa trên trụ cột hàng đầu là công nghệ thông tin. Vì lẽ đó, bất kỳ quốc gia nào nếu không chú trọng lĩnh vực này sẽ không thể có cơ may tham gia đầy đủ vào kinh tế tri thức và tất yếu sẽ bị đẩy tới trước thách thức nghiệt ngã của nguy cơ tụt hậu về trình độ phát triển. Thương mại điện tử với tính cách là hoạt động trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại, đóng vai trò động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Từ cách tiếp cận này, thương mại điện tử hiện đang giành được sự quan tâm sát sao của tất cả các nước, các tổ chức quốc tế và các khối liên kết kinh tế trên mọi qui mô, góc độ: tiểu khu vực- khu vực - liên khu vực - châu lục đến toàn cầu. Liên hiệp châu Âu (EU) và các nước OECD đã soạn vạch và tích cực thực thi các kế hoạch nhằm xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin hiện đại phục vụ phát triển kinh tế tri thức. Tỷ lệ đầu tư bình quân của OECD cho tri thức đã đạt mức 8% GDP, tương đương với đầu tư cho thiết bị vật chất. Tiếp theo Mỹ, các nước EU cũng đã ấn định các nguyên tắc hoạt động thương mại điện tử cho tổ chức của mình. Theo quan điểm của EU thì tầng nền của hạ tầng cơ sở của kinh tế trên mạng là tài nguyên nhân lực bao gồm văn hoá tri thức, tiếp đó là hạ tầng cơ sở xã hội và hạ tầng cơ sở viễn thông. Năm 1997, APEC đã thành lập "Nhóm công tác chuyên trách về thương mại điện tử" và năm 1998 thông qua "Chương trình hành động về thương mại điện tử". Cho đến nay, APEC đang hoàn tất chương trình hành động chung để thực hiện thương mại điện tử vào năm 2005 đối với các thành viên là các nước phát triển và vào năm 2010 đối với các thành viên là các nước đang phát triển. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) cũng đã thành lập Tiểu ban Điều phối về thương mại điện tử nhằm xác định những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của lĩnh vực này của Hiệp hội. Đầu năm 2000, Tiểu ban đã được sát nhập với Nhóm Công tác về hạ tầng cơ sở thông tin để thành lập Nhóm Công tác về E- ASEAN. Sau một thời gian đàm phán, Hiệp định E- ASEAN đã được chính thức ký kết cuối tháng 11/2000 tại Hội nghị cấp cao không chính thức ASEAN họp tại Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 31
  33. Đề tài KC.01-05-03 Singapore. Tháng 2- 2001, Malaysia đã được chọn làm địa điểm tiến hành Hội nghị quốc tế bàn về các biện pháp thúc đẩy công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Các tổ chức quốc tế, trước hết là Liên hợp quốc cũng rất coi trọng đến thương mại điện tử và đã bước đầu có những đóng góp quan trọng. Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) đã soạn thảo luật mẫu về thương mại điện tử. Đại hội đồng Liên hợp quốc đã ra nghị quyết khuyến nghị các chính phủ phổ biến rộng rãi và áp dụng luật này. Đáng chú ý là chương trình Trade Point của UNCTAD được xây dựng nhằm giúp các công ty xuất nhập khẩu nhỏ và vừa ở các nước đang phát triển tham gia nhiều hơn vào buôn bán quốc tế, trong đó, nhấn mạnh sự cần thiết hỗ trợ cho các công ty từng bước gia nhập mạng điện tử toàn cầu. Với những nỗ lực nêu trên, các nước trên thế giới đang tích cực và rất khẩn trương triển khai, phát triển thương mại điện tử. Cho đến nay, ở hầu hết các nước phát triển, lĩnh vực này đã chiếm một tỷ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế quốc dân. Điều đó cho thấy, bước sang thế kỷ XXI, sự phát triển thương mại điện tử sẽ là một trong những xu thế kinh tế chủ đạo, có sức lôi cuốn và tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia, tạo ra những thay đổi căn bản không chỉ trong đời sống kinh tế và xã hội mà cả trong tương quan lực lượng cũng như ngôi vị của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Điều đó đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam chúng ta - những nước mà cơ sở hạ tầng thông tin còn lạc hậu và yếu kém. Bởi vậy, chú trọng đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao và chủ động tham gia kinh tế mạng trở thành vấn đề cốt tử đối với các nước đang phát triển, nếu họ không muốn tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế. Giờ đây, khi công nghệ thông tin phát triển, người ta đã có thể nghĩ đến cảnh chỉ cần ngồi ở nhà bấm nút là mua được thứ mình muốn. Nói chính xác hơn là nhờ công nghệ thông tin mà chúng ta sẽ có thể buôn bán hàng hóa và dịch vụ, cũng như thực hiện tất cả các dạng hoạt động kinh tế khác trong nước và quốc tế mà không phải tốn nhiều công sức. Nhiều chuyên gia tin học dự đoán việc chấp nhận và áp dụng thương mại điện tử sẽ dẫn đến những thay đổi trong các hoạt động xã hội ở Việt Nam. Trước năm 2002, TMĐT là một khái niệm còn mới ở Việt Nam thì giờ đây các doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước bắt đầu làm quen với phương thức thương mại tiên tiến này. Đó là điều đáng mừng, song theo đánh giá của các chuyên gia, TMĐT của Việt Nam mới tồn tại ở cấp độ nhận thức. Về cơ sở hạ tầng viễn thông, cả nước đã có ba triệu máy điện thoại thuê bao, là một trong mười nước dẫn đầu thế giới về tốc độ phát triển máy điện thoại. Tuy vậy, lượng kết nối Internet còn thấp, mới có 868 nghìn đăng ký thuê bao Internet. Lý do chính là giá cước được xem là cao so với mặt bằng thu nhập. Cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại điện tử, thanh toán qua mạng hầu như chưa có. Do vậy, có thể hiểu vì sao thương mại điện tử chưa phát triển được ở Việt Nam trong thời gian qua. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 32
  34. Đề tài KC.01-05-03 Năm 1998, có một siêu thị điện tử đầu tiên của Việt Nam xuất hiện trên Internet để bán hàng qua mạng nhưng không thành công. Hàng hóa bày bán trong siêu thị điện tử này ít, phương thức mua bán và thanh toán vẫn phải dựa trên cơ sở của thương mại truyền thống. Người vào xem thường không phải do nhu cầu mua bán. Thất bại trên do nhiều lý do, chủ yếu là do hình thức mới, tâm lý mua sắm vẫn quen với lối "trông tận mắt, bắt tận tay". Để phá vỡ rào cản tâm lý này, phải mất một thời gian khá lâu. Hơn nữa, hàng hóa trên thị trường Việt Nam hiện nay vừa phong phú, quá đa dạng, lại theo nhiều tiêu chuẩn nên người tiêu dùng chỉ thật sự tin tưởng khi tự tay mua sắm. Các "thượng đế" lại có thời gian rảnh rỗi để mua. Hiện nay, các doanh nghiệp bắt đầu quan tâm và sử dụng lợi thế của Internet để giới thiệu sản phẩm, tìm bạn hàng và có trên 1000 doanh nghiệp Việt Nam mở trang web, tham gia quảng cáo trên mạng. Sự ra đời của 2 sàn giao dịch VNemart và VNet E-Market đã kéo theo hàng ngàn Doanh nghiệp tham gia TMĐT. Thanh toán trên mạng là một trong những vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. Nhiều ý kiến đánh giá rằng đây là một trong những rào cản cản trở TMĐT phát triển ở Việt Nam. Trong lĩnh vực này, các ngân hàng của Việt Nam đang bắt tay vào cuộc để chuẩn bị hệ thống cơ sở thanh toán qua mạng. Hiện nay, chín chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thử nghiệm chuyển tiền điện tử qua mạng và ngày 20/10/2002, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) - chi nhánh Hà Nội đã khai trương hệ thống ngân hàng bán lẻ. Hệ thống này có thể đáp ứng yêu cầu của khách hàng (đổi tiền, nhận tiền, thanh toán séc ) tại một quầy; quản lý vốn, trả lương và chuyển tiền tự động. Trên cơ sở mạng hoạt động trực tuyến và quản lý dữ liệu tập trung, khách hàng có khả năng mở tài khoản ở một nơi và thực hiện giao dịch tại tất cả các chi nhánh khác của ngân hàng, đồng thời cung cấp thông tin về mọi hoạt động trên tài khoản mở tại ngân hàng. Ngân hàng Cổ phần Á Châu (ACB) là vượt trội hơn cả, ngoài E-Banking, phát hành thẻ ACB còn hợp tác với VASC Payment cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến trên Internet và Mobile-Banking cho phép thanh toán qua hệ thống điện thoại di động. Nhưng đó chỉ giống như thử nghiệm mà chưa đầu tư triệt để cho việc phát triển khách hàng, có lẽ cũng vì sự liên thông của các hệ thống Ngân hàng và chính sách của NH nhà nước cùng vấn đề pháp lý của các lệnh thanh toán điện tử. Từ nhận thức đến nền kinh tế thương mại điện tử thật sự còn một khoảng cách mà yếu tố quyết định là cơ sở pháp lý. Để phù hợp với những cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM, nước ta đã tham gia "Chương trình hành động chung" của APEC phấn đấu thực hiện "Thương mại phi giấy tờ" vào năm 2010; Tháng 11 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ nước ta đã ký Hiệp định khung e- ASEAN, cam kết tạo thuận lợi cho sự phát triển của TMĐT nước ta và các nước ASEAN trong những năm tới. Để tạo điều kiện cho TMĐT phát triển và thực sự trở thành một phương thức đem lại nhiều lợi ích phải có một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, minh bạch điều chỉnh hoạt động này. Trong khi ở hầu hết các nước ASEAN (trừ Việt Nam, Lào, Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 33
  35. Đề tài KC.01-05-03 Campuchia và Myanma) và nhiều nước trên thế giới đã có hệ thống khuôn khổ pháp lý về thương mại điện tử, nước ta mới chỉ có một số quy định liên quan đến máy tính, tin học rải rác trong các văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực chuyên ngành. Đây cũng chính là rào cản khó thúc đẩy được việc tham gia TMĐT của doanh nghiệp. Trong điều kiện khó khăn và có nhiều thách thức như kinh tế thế giới phục hồi chậm, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của chiến tranh Iraq, bệnh SARS, hạn hán và lũ lụt gây thiệt hại không nhỏ ở nhiều vùng, nhưng nền kinh tế Việt Nam năm 2003 vẫn tiếp tục phát triển ổn định. Hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế-xã hội đều đạt và vượt kế hoạch mà Nghị quyết của Quốc hội đề ra. Chính phủ Việt Nam ngày càng có nhiều chính sách phù hợp nhằm khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển. Coi trọng nguồn lực trong nước là chính với nhiều biện pháp thích hợp để phát huy các nguồn lực đó; đồng thời hết sức tranh thủ các nguồn ngoại lực để tăng không ngừng cho đầu tư phát triển. Ðể thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã vận dụng tổng hợp các biện pháp, chính sách kinh tế trong điều hành vĩ mô bao gồm kế hoạch, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Thông qua các biện pháp kế hoạch bảo đảm sự cân bằng kinh tế, điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu, thực hiện chính sách tài chính tích cực và chính sách tiền tệ ổn định là động lực quan trọng tạo điều kiện cho nền kinh tế ổn định và tăng trưởng với tốc độ cao. Thực hiện có hiệu quả những biện pháp kích cầu, nhất là kích cầu trong đầu tư phát triển mạnh thị trường trong nước cùng với việc mở rộng thị trường ngoài nước, đặc biệt là đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ và EU. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế năm 2003 vẫn chủ yếu là phát triển theo chiều rộng, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế còn thấp; các chi phí bất hợp lý trong quá trình sản xuất, kinh doanh còn cao, làm cho nhiều sản phẩm giá thành cao, chất lượng thấp so với hàng nước ngoài. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước và vốn đầu tư toàn xã hội còn thấp. Môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh còn nhiều bất cập, do chưa tạo đủ khung pháp lý về thể chế kinh tế thị trường. Công tác quản lý trong xây dựng cơ bản còn nhiều yếu kém, thất thoát lớn và chậm được khắc phục. Nguồn thu ngân sách nhà nước còn thiếu vững chắc và hoạt động tín dụng chưa thật sự lành mạnh. Các ngành dịch vụ tăng chậm hơn tốc độ tăng GDP không phù hợp xu hướng phát triển của kinh tế thế giới. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa theo kịp yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh thuận lợi, khó khăn của hai năm còn lại của kế hoạch 5 năm (2001-2005) rất nặng nề. Mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2004 là phải có bước phát triển mới của sự tăng trưởng kinh tế cả về nhịp độ, chất lượng và tính bền vững. Do vậy, vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu. Bước phát triển mới đòi hỏi phát triển kinh tế phải đi liền với nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh; thực hiện sự tiến bộ công bằng xã hội trong Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 34
  36. Đề tài KC.01-05-03 từng bước tăng trưởng kinh tế; tạo lập đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tạo môi trường cạnh tranh và hợp tác bình đẳng cho mọi hoạt động kinh tế đối với mọi thành phần kinh tế. Cùng với xu hướng phát triển và hội nhập kinh tế thế giới, Chính phủ Việt Nam cũng đã đưa ra các định hướng mới giúp các doanh nghiệp của Việt Nam mở rộng thị trường cũng như định hướng phát triển kinh doanh ra tầm quốc tế. Một trong những chủ trương đổi mới của Chính phủ hiện nay là tập trung phát triển mở rộng hướng kinh doanh dựa trên công nghệ mới, đặc biệt là hình thức "Thương mại điện tử". I.5.1. Yêu cầu của thực tế Với yêu cầu tình hình mở cửa, hội nhập nền kinh tế Việt Nam với thị trường tài chính thế giới Việt Nam sẽ gặp không ít trở ngại trong khu vực kinh tế thế giới cũng như trong nước. Xét dưới góc độ tác động trực tiếp thì việc ký kết, thực hiện các hiệp định hội nhập trong những năm qua sẽ khiến môi trường kinh doanh trong nước có nhiều biến đổi đáng kể trong năm 2004. Cụ thể, việc cắt giảm thuế nhập khẩu cùng với các yêu cầu bãi bỏ trợ cấp cho doanh nghiệp (DN), bãi bỏ ưu đãi tỷ lệ nội địa hoá sẽ gây khó khăn hơn cho các DN trong cạnh tranh ngay trên chính thị trường nước mình, nhất là với những ngành lâu nay vốn được bảo hộ bằng thuế suất nhập khẩu cao. Nói vậy không có nghĩa mở cửa, hội nhập chỉ mang lại những khó khăn, thách thức. Chi phí giao dịch của các DN sẽ được giảm bớt phần nào qua việc môi trường kinh doanh đã có những chuẩn mực chung (mọi hàng hoá cùng chủng loại lưu thông trong ASEAN sẽ đều có cùng tên gọi và mã số). Hơn nữa, danh mục và thuế suất CEPT không chỉ dùng cho năm 2003 như mọi năm, mà được áp dụng cho cả giai đoạn 2003 – 2006, nên DN sẽ có điều kiện lường trước những khó khăn, phát huy thuận lợi để xây dựng kế hoạch phát triển kinh doanh dài hạn hơn. Ngoài ra, sang năm 2004 còn là năm các nước ASEAN 6 (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan) hoàn tất việc thực hiện cắt giảm thuế để thực hiện AFTA (cắt giảm thuế suất mọi mặt hàng xuống 0-5%, trừ những mặt hàng thuộc danh mục nhạy cảm và danh mục loại trừ hoàn toàn). Không những thế, một số nước ASEAN cũ đã công bố mức ưu đãi thuế quan thấp hơn so với thuế suất CEPT đối với từ hàng chục đến hàng trăm nhóm mặt hàng cho những thành viên ASEAN mới, trong đó có Việt Nam. Chẳng hạn, Malaysia công bố ưu đãi thuế quan 0% đối với 172 mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang như thuỷ sản, các loại quả và hạt, cao su, kính, một số máy móc thiết bị Tương tự, Thái Lan cho phép 19 mặt hàng của Việt Nam như quế, hồi, than đá, giấy ảnh, đồ phụ trợ may mặc, một số sản phẩm kính nhập khẩu vào với thuế suất thấp hơn 5% so với biểu thuế suất CEPT. Những ưu đãi này nếu được tận dụng sẽ là cơ hội để các DN Việt Nam mở rộng xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường các nước ASEAN. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 35
  37. Đề tài KC.01-05-03 Với số lượng người sử dụng dịch vụ Internet là 3.512 triệu người, chiếm tỷ lệ 4,31% dân số với tổng dung lượng kết nối Internet quốc tế là 1038 Mbps (1/2004 - VNNIC). Những con số này không có nhiều ý nghĩa trong việc xã hội hoá Internet nhưng nó cũng thể hiện rằng Việt Nam không hề đứng ngoài cuộc. Các doanh nghiệp tại Việt Nam đã phần nào nhận thức được tầm quan trọng của thông tin trong kinh doanh, do vậy họ đã đầu tư vào việc tiếp cận thông tin và nguồn tri thức nhân loại trên Internet. Nếu vào đầu năm 2000, khi nhắc đến TMĐT thì đa số các doanh nghiệp Việt Nam gần như không có khái niệm cơ bản thì nay họ đã phần nào hiểu được TMĐT là cơ hội tốt để họ có thể tiếp cận với các khách hàng trong nước cũng như quốc tế. Số lượng các doanh nghiệp có trang Web giới thiệu về doanh nghiệp mình ngày càng tăng. Nhà nước đã có các hình thức hỗ trợ các doanh nghiệp có điều kiện tham gia TMĐT bằng nhiều cách gián tiếp như nâng cao cơ sở hạ tầng hệ thống mạng Internet tại Việt Nam, giảm dần giá cước truy cập mạng Internet, thiết kế nhiều dịch vụ cung cấp đường truyền Internet mới như ADSL, Wireless, Hostpot . Các doanh nghiệp có điều kiện tham gia cung cấp các dịch vụ viễn thông cũng ngày càng đưa ra các dịp khuyến mại nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp nói chung và nhiều tầng lớp nhân dân tham gia sử dụng mạng Internet. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng Internet mới chỉ có mặt tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố lớn khác. Còn tại các tỉnh thì đây vẫn còn là một dịch vụ trong tương lai. Do đó việc triển khai kênh TMĐT B2B giữa các tỉnh sẽ là một vấn đề cần phải có thêm một số điều kiện cơ bản về đường truyền Internet mới có thể thực hiện được. Với sự kiện thành lập Bộ Bưu chính, Viễn thông đã khiến cho nhiều nhà kinh doanh CNTT và viễn thông trên thế giới cảm nhận được sự quan tâm của Chính phủ Việt Nam đối với lĩnh vực này. Vấn đề quy hoạch và đưa ra các chiến lược phát triển cơ bản về CNTT và viễn thông sẽ là một bài toán lớn đối với Bộ này. Bởi vì cho đến nay, các chỉ tiêu cơ bản để có thể phân tích một hệ thống cơ sở hạ tầng cũng như phản ứng từ thị trường đối với lĩnh vực này là chưa có. Để có thể có nhiều nhà đầu tư về lĩnh vực này thì những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá về cơ sở hạ tầng nói riêng và nền kinh tế xã hội Việt nam nói chung là thực sự rất cần thiết. Trên thực tế, nếu một doanh nghiệp nước ngoài muốn tham gia vào thị trường này thì họ phải có các thông số về các chỉ tiêu cơ bản của cơ sở hạ tầng để phân tích thị trường, nhu cầu người sử dụng nhằm đáp ứng đúng nhu cầu, kích thích sự phát triển của lĩnh vực này. Tương tự như vậy, nếu một doanh nghiệp muốn đầu tư về TMĐT vào Việt Nam, họ cũng cần phải có các thông tin về mặt bằng dân trí sử dụng Internet, văn hoá của những người dân khi mua hàng là gì và thể chế pháp lý cho việc kinh doanh TMĐT tại Việt Nam. Đây thực sự là một vấn đề trở ngại lớn. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 36
  38. Đề tài KC.01-05-03 Các ngân hàng tại Việt Nam cũng đã nhận thấy TMĐT sẽ là một yếu tố không thể thiếu được trong một xã hội văn minh. Do đó các dự án đầu tư về thanh toán trực tuyến đã được coi trọng và triển khai thử nghiệm tại một số ngân hàng ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Văn hoá sử dụng tiền tệ khi giao dịch cũng sẽ là một rào cản lớn đối với việc kinh doanh TMĐT. Người dân chưa có ý thức sử dụng tiền điện tử, đồng thời văn hoá mua hàng của người Việt Nam cũng sẽ là một vấn đề lớn thách thức dịch vụ TMĐT. I.5.2. Tình cần thiết của việc thực hiện đề tài Đây là thời điểm thuận lợi để Việt Nam hội nhập phát triển kinh tế kỹ thuật số, môi trường này sẽ dẫn tới sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của thương mại điện tử và tăng trưởng kinh tế. Ở Việt Nam các doanh nghiệp cũng đã dần dần nhìn nhận việc hội nhập là điều tất yếu, trên cơ sở đó họ bắt đầu đánh giá TMĐT một cách nghiêm túc hơn, thiết thực hơn và đang dần trở thành công cụ hữu dụng trong công cuộc làm ăn của họ. Thực tế hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ 71/82 nước được xem xét về mức độ sẵn sàng tham gia TMĐT năm 2003. Nước ta cũng được xếp trong nhóm 13 nước tụt hậu về CNTT và năm 2001 ta lên vị trí 58/60 nước; năm 2002 đứng vị trí 56/60 nước. Trong số 10 nước ASEAN, Việt Nam nằm trong số 4 nước chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh cho TMĐT. Tính đến tháng 6.2003, số người dùng Internet ở nước ta mới đạt 1,903 triệu người, chiếm 2,38% dân số. Trong khi đó, tỷ lệ này ở các nước như sau: Hồng Kông (Trung Quốc): 61,64%; Hoa Kỳ: 60,39%; Hàn Quốc: 54,36%; Singapore: 53,5%; Malaysia: 34,42%. Các số liệu trên cho thấy, việc đưa tên Việt Nam vào vị trí trung bình trong bảng xếp hạng về ứng dụng TMĐT của các nước khu vực và trên thế giới đòi hỏi phải có những nỗ lực hết sức lớn lao từ phía Chính phủ, các bộ, ngành lẫn các doanh nghiệp. Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh TMĐT, khung pháp lý hoàn chỉnh đóng vai trò quan trọng nhưng vấn đề hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn và giải quyết các rắc rối thường gặp xung quanh vấn đề kinh doanh TMĐT cũng là một động thái hỗ trợ có ích rất nhiều đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Tham gia thương mại điện tử, các doanh nghiệp cần phải có những cán bộ hiểu biết sâu về CNTT, có thể kiểm soát, quản lý các giao dịch trên mạng. Đặc biệt, lãnh đạo doanh nghiệp cũng cần phải hiểu cách thức vận hành của một tổ chức thương mại điện tử để có thể nắm vững hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình, từ đó đưa ra những quyết sách đúng đắn để phát triển kinh doanh. Ngoài ra, trước khi tham gia thương mại điện tử, các doanh nghiệp phải xem xét và điều chỉnh lại quy trình kinh doanh của mình cho phù hợp với hoạt động của Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 37
  39. Đề tài KC.01-05-03 một doanh nghiệp áp dụng thương mại điện tử, cho dù điều này có thể sẽ dẫn đến sự xáo trộn trong doanh nghiệp, liên quan đến lao động, việc làm, sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức, quản lý Để làm được điều này, doanh nghiệp cần có sự tư vấn của các chuyên gia về CNTT và thương mại điện tử. Vấn đề đặt ra là đơn vị nào có khả năng giải đáp các thắc mắc cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp xử lý các tình huống khó khăn về công nghệ, kỹ thuật và pháp lý trong TMĐT Hiện nay ở Việt Nam chưa có đơn vị giải quyết vấn đề này. Xuất phát từ nhu cầu trên thực tế, đề tài KHCN 01.05 đã tiến hành nghiên cứu để giải quyết các vấn đề này. Việc hình thành một Trung tâm tư vấn, hỗ trợ và xúc tiến TMĐT tại Việt Nam đã đến lúc cần phải có. Nhiệm vụ Trung tâm này là hỗ trợ các doanh nghiệp trong kinh doanh TMĐT : - Hỗ trợ cho các doanh nghiệp về trình độ CNTT. - Tư vấn pháp lý trong kinh doanh TMĐT. - Hoạt động dựa trên Cổng TMĐT Việt Nam thừa kế kết quả của các đề tài nhánh tạo hạ tầng cần thiết hỗ trợ Doanh nghiệp. - Trung tâm này có khả năng tư vấn kỹ thuật, công nghệ trong kinh doanh TMĐT nhằm giúp các doanh nghiệp lựa chọn công nghệ phù hợp trong thanh toán, bảo mật - Các vấn đề về tư vấn sở hữu trí tuệ cũng sẽ là nhiệm vụ của Trung tâm. - Trung tâm cũng sẽ là cầu nối giữa các doanh nghiệp và Chính phủ, đưa các chính sách của Chính phủ đến gần với các doanh nghiệp hơn, đồng thời cũng đưa các ý kiến của doanh nghiệp, các vấn đề phát sinh trong quá trình tham gia TMĐT của doanh nghiệp đến với Chính phủ nhằm ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp lý về TMĐT cho thích hợp với yêu cầu thực tế. Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 38
  40. Đề tài KC.01-05-03 PHẦN II MÔ HÌNH TRUNG TÂM HỖ TRỢ VÀ XÚC TIẾN TMĐT CỦA THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC. Hiện nay, hầu như các quốc gia đều quan tâm đến việc phát triển nền kinh tế của nước mình thông qua các giao dịch buôn bán đa chiều. TMĐT sẽ là công cụ hữu hiệu để rút ngắn khoảng cách giao dịch giữa các công ty trên thế giới. Do vậy việc đánh giá cao nhiệm vụ thúc đẩy hoạt động giao dịch TMĐT được các quốc gia chú trọng và để đặt nền móng vững chắc cho giao dịch TMĐT, các quốc gia thường thành lập ra các Trung tâm Xúc tiến và Hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ trong giao dịch TMĐT. Dưới đây nhóm thực hiện đề tài xin được lướt qua một số tổ chức phi lợi nhuận của một số Chính phủ như : Phần Lan, Virgnia, Hàn Quốc II.1. Mô hình Trung tâm xúc tiến và hỗ trợ TMĐT của Phần Lan (Finland) II.1.1. Giới thiệu về E-Finland Trung tâm dịch vụ TMĐT – Ecommerce Service Center ( finland.org) là tổ chức phi lợi nhuận và là diễn đàn công bằng, nó được hình thành nhằm hỗ trợ thúc đẩy hình thức giao dịch TMĐT ở trong và ngoài lãnh thổ Phần Lan. Mục đích của nó là theo đuổi, xúc tiến, hỗ trợ phát triển thương mại điện tử ở Phần Lan, ngoài ra nó còn cung cấp thông tin về TMĐT đến với mọi khách hàng, công ty và các đơn vị đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực TMĐT. Trung tâm này được thành lập vào tháng 3 năm 2000, nó là một phần kết quả của “Internet Festival 2000” được tổ chức tại Phần Lan. Đây là một tổ chức hợp tác chặt chẽ với rất nhiều tổ chức khác hiện đang hoạt động trong lĩnh vực TMĐT ở Phần Lan. Hiện nay E-Finland.org là nơi cung cấp các kênh hỗ trợ cơ bản về thông tin và hạ tầng kỹ thuật TMĐT của Phần Lan. II.1.2. Các dịch vụ của E-Finland Trung tâm E-Finland dựa trên nền cơ sở hạ tầng mạng Internet hỗ trợ một số dịch vụ về TMĐT cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế đã và đang kinh doanh bằng hình thức TMĐT như sau : - Các bản tin liên quan đến giao dịch TMĐT - Các sự kiện giao dịch TMĐT - Luật TMĐT - Các hệ thống mạng - Chính sách - Các chương trình - Bảo mật - Phần mềm Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 39
  41. Đề tài KC.01-05-03 - Thống kê - Đào tạo Các dịch vụ này được hỗ trợ trực tuyến rất hiệu quả. Nếu một công ty bất kỳ nào muốn được thực hiện các giao dịch TMĐT, thì E-Finland luôn sẵn sàng hỗ trợ từ việc phân tích kinh doanh, đến việc xây dựng, thiết kế Website, hỗ trợ các công cụ kỹ thuật cơ bản để doanh nghiệp có thể xây dựng được trang Web cung cấp dịch vụ TMĐT. II.1.3. Một số nhận xét cơ bản về E-Finland Đây là mô hình tổ chức hoạt động phi lợi nhuận do vậy nó hoàn toàn được Chính phủ Phần Lan cung cấp nguồn kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của E-Finland. Sau quá trình 4 năm hoạt động E-Finland đã đóng góp không nhỏ vào kết quả đẩy mạnh kinh doanh, kinh tế giữa các doanh nghiệp trong và ngoài Finland bằng các giao dịch TMĐT. Với các dịch vụ mà E-Finland thực hiện thì một doanh nghiệp nếu có nhu cầu thực hiện các giao dịch điện tử sẽ được hỗ trợ hoàn toàn vô điều kiện. Với sự đơn giản trong giao tiếp hỗ trợ, E-Finland thực sự đã và đang là kênh thông tin hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp của Phần Lan II.2. Mô hình Trung tâm hỗ trợ công nghệ TMĐT của Virgnia II.2.1. Giới thiệu về VECTEC Trung tâm hỗ trợ công nghệ TMĐT Virgnia – Virgnia Electronic Commerce Technology Center ( thành lập tháng 10/1994, là đơn vị chuyên thực hiện việc hỗ trợ đưa ra các giải pháp cho hoạt động giao dịch thương mại điện tử. Đây là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập nhằm thúc đẩy việc triển khai thương mại điện tử tại Virgnia. Tổ chức này được sự bảo trợ của USDOL và bang Maryland, trong đó về mặt tài chính nó được sự hỗ trợ của Affiliated Computer Services và Trường đại học Maryland. Hoạt động chính của Trung tâm Hỗ trợ Công nghệ TMĐT Virgnia là nghiên cứu chiều sâu về công nghệ tự động hoá và hệ thống viễn thông. Nhiệm vụ của VECTEC là thúc đẩy cạnh tranh kinh tế và mở rộng quảng cáo, phát triển và triển khai các hoạt động thương mại điện tử và thực hiện việc thúc đẩy vùng nông thôn trở thành một khối thịnh vượng chung của Virgnia. VECTEC là trung tâm có tầm quan trọng trong việc hỗ trợ công nghệ TMĐT và thúc đẩy các hoạt động TMĐT của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Virgnia. Cơ cấu hoạt động của VECTEC bao gồm một giám đốc và ban cố vấn và trên 20 chuyên gia kỹ thuật trong lĩnh vực thiết kế, phát triển cơ sở dữ liệu, bảo mật và marketing. VECTEC có các chuyên gia về : Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 40
  42. Đề tài KC.01-05-03 - Công cụ Internet và thương mại - Các công nghệ thương mại điện tử - Mạng không dây - Thư viện số - Nghiên cứu cáp và cáp quang - Nghiên cứu Mobile và sóng vô tuyến - Mạng Internet tại Virgnia - Dịch vụ đa phương tiện trên mạng Internet - Đào tạo công nghệ thông tin. II.2.2. Các dịch vụ của VECTEC • Tư vấn thương mại điện tử : VECTEC giúp người dùng xác định TMĐT là phù hợp với việc kinh doanh của người dùng. Các tư vấn chủ yếu là : - Những vấn đề cơ bản về kỹ thuật, công nghệ trong TMĐT - Đánh giá thị trường kinh doanh của doanh nghiệp - Tư vấn giải pháp phù hợp về kỹ thuật công nghệ - Tư vấn giải pháp về thị trường TMĐT của doanh nghiệp - Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng hệ thống search engine trên Website TMĐT của doanh nghiệp và tư vấn triển khai cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. • Hỗ trợ thiết kế và phát triển Website : Giúp đỡ các doanh nghiệp thành công trong việc kinh doanh off-line. Các chuyên gia thiết kế sẽ chuyển tải các thông tin mà bạn mong muốn được quảng cáo lên các trong website. • Phát triển cơ sở dữ liệu khách hàng và hệ thống giỏ hàng : VECTEC hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng hệ thống đặt hàng và hỗ trợ các công ty cập nhật các thông tin hàng hoá của doanh nghiệp mình một cách trực tuyến. Các vấn đề liên quan VECTEC có khả năng hỗ trợ như sau : - Hệ thống đặt hàng cơ bản và theo nhu cầu đặc biệt của doanh nghiệp - Theo dấu khách hàng - Xác nhận của khách hàng sau khi đặt hàng - Các chức năng bắt buộc của shopping cart - Phương pháp thanh toán và các vấn đề bảo mật trong kinh doanh - Số lượng đơn hàng - Bảo mật thông tin khách hàng - Tự động hoặc thoả thuận hạ giá cho khách hàng mua số lượng nhiều - Trạng thái của các đơn hàng trong quá trình xử lý Hội Tin học Viễn thông Hà Nội 41