Bài giảng Môn bệnh lý học thú y

ppt 48 trang huongle 5610
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Môn bệnh lý học thú y", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pptbai_giang_mon_benh_ly_hoc_thu_y.ppt

Nội dung text: Bài giảng Môn bệnh lý học thú y

  1. Môn bệnh lý học thú y (Chuyên ngành Chăn nuôi Thú y) 1. Tên môn học: Bệnh lý học thú y Veterinary Pathology 2. Số đơn vị học trình: 4 3. Giáo viên phụ trách: TS. Nguyễn Hữu Nam. 4. Mục tiêu của môn học: Mục tiêu của môn học nhằm trang bị cho học viên những nguyên lý chung nhất, phương pháp suy luận tổng hợp và khả năng vận dụng những hiểu biết đã được học trong phần kiến thức cơ bản, cơ sở để giải thích tại sao và do đâu mà có những triệu chứng ở cơ thể bệnh, nhằm cung cấp các thông tin cơ sở cho việc chăm sóc lâm sàng và điều trị bệnh.
  2. Các chương ◼ - Các khái niệm cơ bản ◼ - Rối loạn tuần hoàn cục bộ ◼ - Rối loạn chuyển hoá các chất ◼ - Viêm ◼ - Sốt ◼ - Bệnh lý học hệ hô hấp ◼ - Bệnh lý học hệ tiêu hoá ◼ - Bệnh lý học chuyên khoa + Bệnh chung giữa người và động vật + Bệnh lợn + Bệnh gia cầm
  3. CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM CƠ BẢN ◼ Trong quá trình phát triển của khoa học nói chung, y học và thú y học nói riêng bao giờ cũng hình thành một số khái niệm cơ bản. Đây là những vấn đề lớn, khái quát hoá các mối quan hệ giữa các hiện tượng bệnh lý, các quy luật đúc kết từ thấp đến cao. ◼ Những khái niệm cơ bản bao gồm khái niệm về bệnh, về yếu tố bệnh nguyên, về cơ chế sinh bệnh, quá trình lành bệnh, tử vong và bệnh lý miễn dịch. ◼ Nắm vững các khái niệm cơ bản có vai trò quan trọng việc chẩn đoán và điều trị bệnh.
  4. ◼ I.KHÁI NIỆM VỀ BỆNH ◼ Người thày thuốc muốn chữa bệnh có hiệu quả thì phải hiểu rõ đối tượng của mình tức là phải có quan niệm đúng đắn về bệnh. Vậy bệnh là gì? Câu hỏi này đã được đặt ra từ ngàn xưa, khi con người có mặt trên trái đất, nhưng câu trả lời lại luôn luôn thay đổi qua các thời đại. Nó phản ánh sự tiến bộ của khoa học và các quan điểm triết học đương thời, phản ánh trình độ hiểu biết giới tự nhiên của con người.
  5. ◼ 1. 1. Sơ lược khái niệm về bệnh qua các thời đại ◼ Trong thời đại nguyên thuỷ ◼ Vào buổi sơ khai con người con hoàn toàn bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên, mọi thứ đều ghê gớm, thần bí, với ông sấm, bà sét, ông thiện ông ác, với ma tà và quỷ dữ, với thiên đường và địa ngục. Do đó quan điểm mắc bệnh là do trời đánh, thánh vật, do quỷ tha, ma bắt. Và tất nhiên với quan điểm như vậy thì việc chữa bệnh phải cần đến thày cúng, thày phù thuỷ hoặc phải cầu xin thượng đế phù hộ.
  6. ◼ Nền văn minh cổ đại ◼ Nhân loại đã trải qua những nền văn minh cổ đại phát triển khá cao, đặc biệt là về lĩnh vực y học như ở Trung Quốc, Ai cập, Ấn Độ, Hylạp - La mã. ◼ Trong thời kỳ cổ Trung Hoa, quan điểm về vũ trụ là vạn vật đều do hai lực âm - dương và năm nguyên tố (kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ) hình thành. Âm và Dương đã được coi như 2 lực đối kháng và bổ cứu cho nhau trong sự hình thành vạn vật như đực với cái, nóng với lạnh, sống với chết. Ngũ hành tuân theo quy luật tương sinh, tương khắc (Tương sinh: Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Tương khắc: Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ).
  7. Vòng tròn âm dương
  8. ◼ Trong vũ trụ và vạn vật, mọi trạng thái đều phụ thuộc vào tình trạng cân bằng giữa hai lực Âm - Dương và ngũ hành, khi có rối loạn cân bằng Âm - Dương hoặc có thay đổi trong quy luật tương sinh, tương khắc của ngũ hành sẽ sinh ra bệnh tật. Chính vì vậy các thuật ngữ âm thịnh dương suy, chân thuỷ, chân hoả, thể hàn thể nhiệt thường được dùng trong y học cổ đại. ◼ Về mặt triết lý thì khoẻ mạnh là nhờ tình trạng cân bằng hoà hợp của vật chất trong cơ thể nên quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm duy vật biện chứng, tuy còn thô sơ song quan điểm cổ đại này cũng rất tiến bộ và y học cổ truyền cũng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm chữa bệnh quý báu.
  9. ◼ Quan niệm cổ Ai cập cho rằng: sự sống là do chất "khí"(pneuma) và hô hấp là thu chất khí đó vào trong cơ thể. Khi chất khí trong sạch thì khoẻ mạnh còn khi chất khí nhơ bẩn thì sinh ra bệnh tật. ◼ Triết lý về sự sống thời cổ của Ấn Độ là triết lý của đạo phật và sống - chết chỉ là luân hồi, chết chỉ là một giai đoạn của sống, cơ thể vật chất vô tri vô giác mà trong đó linh hồn vận động, đảm bảo sự thống nhất các bộ phận của cơ thể, sự lành mạnh bình thường của các chức phận. Khi linh hồn rời cơ thể để sang một thế giới khác thì đó là sự chết. Vậy bệnh chính là sự đấu tranh của linh hồn nhằm duy trì hoạt động bình thường của cơ thể.
  10. Nền văn minh Hy lạp - La mã cổ cũng có nhiều nhà bác học nổi tiếng trong lĩnh vực y học. Hypocratus (460- 377 tr.cn) xây dựng thuyết thể dịch cho rằng chức năng của cơ thể do hoạt động cân bằng của 4 loại dịch là: Đỏ do máu của tim tiết ra và biểu hiện tính nóng; Đen do máu của lách quyết định biểu hiện tính ẩm; Mật Vàng ở gan biểu hiện tính khô và dịch Trắng ở não biểu hiện tính lạnh. Từ đó rút ra nguyên lý điều trị bệnh là phục hồi lại sự cân bằng nhờ các toa thuốc mát hay thuốc nóng. Đây chính là những cơ sở lâm sàng đầu tiên trong y học.
  11. Thời kỳ trung cổ - Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 12, khoa học nói chung hầu như không phát triển. Đó là một thời kỳ trì trệ, tôn giáo và phong kiến đã kìm hãm mọi phát triển khoa học. Y học nằm trong tay các thày dòng, cha cố, Nhà thờ thiên chúa giáo cho rằng bệnh tật là sự trừng phạt của đấng tối cao đối với những tội lỗi mà con người và chúng sinh đã mắc phải, muốn khỏi bệnh thì phải cầu nguyện cho đức chúa buông tha.
  12. ◼ Thời kỳ phục hưng: Cuối thời kỳ trung cổ nhiều nhà khoa học đã dũng cảm NCKH nên Y học có nhiều tiến bộ vượt bậc, năm 1543 Andre Vesale, người Bỉ đã xuất bản quyển sách " Cấu trúc cơ thể người“ - đặt nền móng cho các môn hình thái học. ◼ Năm 1616, William Harvey đã phát minh ra tuần hoàn của máu. Harvey cho rằng cơ thể bị bệnh là khi bộ máy sinh vật bị hư hỏng giống như máy hết nhiên liệu hoặc các bánh răng mòn, gãy ◼ Sylvius nghiên cứu các dịch lại cho rằng bệnh tật là do rối loạn hoá học trong cơ thể.
  13. ◼ Đến thế kỷ 18 - 19: Kính hiển vi đã ra đời và ngày càng hoàn thiện, thuốc nhuộm TB cũng được sử dụng rộng rãi trong NC hình thái vi thể, do đó nảy nở khái niệm giải phẫu cục bộ về bệnh, NC về bệnh cảnh lâm sàng được so sánh với tổn thương thấy được khi mổ khám xác chết. ◼ Wirchov đã cho rằng nguyên nhân của bệnh là do TTTB: bệnh sẽ chỉ xuất hiện tại các chỗ mà tác nhân gây bệnh làm TTTB, theo ông thì không phải toàn bộ cơ thể phản ứng với các yếu tố gây bệnh mà chỉ cục bộ các nhóm TB tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh. Quan niệm này coi cơ thể đa bào chỉ là sự liên kết đơn thuần chứ không phải là một khối thống nhất toàn vẹn.
  14. ◼ Clot Becna (1865) nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa nội môi và ngoại môi. Ngoại môi luôn luôn thay đổi nên để giữ cho nội môi không thay đổi, cơ thể sống phải có hàng loạt các chức năng bảo vệ và điều hoà, bệnh và chết chỉ là sự tan vỡ hoặc rối loạn cơ chế điều hoà đó. ◼ Đến nửa sau của thế kỷ 19, nhờ những đóng góp to lớn của Pasteur (1821- 1895), Koch (1843 - 1900), Metnhicop, Eclich (1854 - 1915), tìm ra vai trò gây bệnh của nhiều loại vi sinh vật.
  15. ◼ Đến thể kỷ 20 - Thế kỷ của điện tử và cũng là thế kỷ của sinh học, các ngành sinh học phát triển mạnh mẽ như: di truyền học, MD học, sinh học phân tử nên cũng có rất nhiều khái niệm về bệnh. ◼ Pavlov đưa ra học thuyết TK của bệnh. Theo thuyết này nội môi và ngoại cảnh là một khối thống nhất mà trong đó hoạt động của TK cao cấp đóng một vai trò quyết định khả năng thích ứng của cơ thể (tức nội môi) đối với những thay đổi của bên ngoài, theo Pavlov: trong mỗi bệnh có hai quá trình tồn tại song song, quá trình bảo vệ sinh lý và quá trình huỷ hoại bệnh lý; " Bệnh là do rối loạn hoạt động phản xạ của hệ TK; rối loạn tương quan giữa những khu vực khác nhau của hệ TK.", quan niệm này quá nhấn mạnh vai trò của TKTW.
  16. Hans Selye cho rằng bệnh là sự rối loạn khả năng thích nghi. Trong khi NC phản ứng không đặc hiệu của cơ thể chống lại các tác nhân stress bên ngoài, Selye nhận thấy bao giờ cơ thể cũng đáp ứng bằng sự thay đổi hoạt động của hệ nội tiết - thần kinh hạ não - thượng thận; kết quả là có sự đối kháng giữa 2 loại hormon corticoit, loại thứ nhất tiết ra nhằm dồn nguyên liệu trong cơ thể tới chỗ bị đe doạ, nó ức chế quá trình viêm và quá trình phát triển tổ chức xơ, còn loại thứ hai có tác dụng làm vết thương mau lành bằng cách tăng sinh chất keo và phát triển TCLK. Hai hệ thống này hoạt động cân bằng nhau nhằm bảo vệ cơ thể, khi mất cân bằng sẽ sinh ra bệnh - dạng bệnh thích nghi.
  17. Mỗi quan điểm chỉ giải thích được cơ chế sinh bệnh của một nhóm bệnh mà thôi. Từ những quan niệm như vậy về sinh vật, chúng ta có thể nêu lên một khái niệm về bệnh một cách tương đối như sau: " Bệnh là sự rối loạn đời sống bình thường của cơ thể sinh vật do tác động của các yếu tố gây bệnh khác nhau, gây ra một quá trình đấu tranh phức tạp giữa hiện tượng tổn thương bệnh lý và hiện tượng phòng vệ sinh lý, làm hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể đối với ngoại cảnh"
  18. ◼ 1.2. Những điều cần chú trọng trong khái niệm về bệnh Bệnh có TC một cân bằng mới kém bền vững ◼ Cơ thể sống là một cân bằng động. Khi có yếu tố gây bệnh tác động vào cơ thể thì cân bằng bị phá vỡ, nhưng lập tức cơ thể đó có phản ứng bảo vệ, sẽ có những hoạt động nhằm khôi phục tình trạng cân bằng bị nhiễu loạn bởi yếu tố ấy. Chính cuộc đấu tranh này tạo ra một cân bằng mới (vì có thêm yếu tố bệnh lý, phản ứng bảo vệ và các sản phẩm của chúng), nhưng cân bằng mới này không kéo dài, thường có xu hướng phục hồi về cân bằng cũ tức là lành bệnh, khi không thể phục hồi được thì tiến triển càng bất lợi cho cơ thể, vượt quá khả năng bảo vệ của cơ thể dẫn đến tử vong. Đó cũng là tính kém bền vững của cân bằng mới. Như vậy: sống và chết; lành và bệnh là hai mặt của hiện tượng sinh học.
  19. ◼ Bệnh hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể Trong khi ngoại môi luôn luôn thay đổi mà nội môi lại đòi hỏi một tình trạng hằng định tương đối thì cơ thể luôn luôn phải tìm cách thích ứng với biến đổi của ngoại cảnh. Trước những thay đổi mạnh mẽ của môi trường bên ngoài, cơ thể phải vận dụng những cơ chế thích ứng mạnh mẽ, thậm chí có thể dẫn đến một tình trạng bệnh lý mà Selye đã coi như “bệnh thích nghi”. ◼ Khi yếu tố gây bệnh tạo nên tình trạng bệnh lý, khả năng thích nghi của cơ thể sống vẫn còn nhưng đã bị hạn chế, Thí dụ khi sốt, khả năng điều hoà nhiệt của cơ thể vẫn còn nhưng rất hạn chế chứ không thể như cơ thể khoẻ mạnh. Trong công tác điều trị người thày thuốc phải tìm cách phát huy tối đa khả năng thích nghi của cơ thể để mang lại hiệu quả điều trị cao.
  20. ◼ II. KHÁI NIỆM VỀ NGUYÊN NHÂN BỆNH ◼ NGUYỜN NHÕN BỆNH HỌC LÀ MỤN KHOA HỌC NGHIỜN CỨU NGUYỜN NHÕN GÕY BỆNH VÀ ĐIỀU KIỆN PHỎT SINH RA BỆNH. VIỆC NGHIỜN CỨU NGUYỜN NHÕN BỆNH CÚ Ý NGHĨA RẤT LỚN TRONG CỤNG TỎC PHŨNG TRỊ BỆNH CHO GIA SỲC, GIA CẦM. VỠ CÚ NẮM ĐƯỢC NGUYỜN NHÕN BỆNH THỠ MỚI ĐỊNH RA ĐƯỢC PHƯƠNG PHỎP ĐIỀU TRỊ BỆNH CHỚNH XỎC VÀ CÚ BIỆN PHỎP HỮU HIỆU NGĂN NGỪA SỰ XÕM NHẬP CỦA CHỲNG VÀO CƠ THỂ. ◼ 2.1. MỘT SỐ QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ NGUYÊN NHÂN BỆNH HỌC
  21. ◼ Thuyết nguyên nhân đơn thuần cho rằng VK là nguyên nhân của mọi bệnh, cứ có VK là có bệnh, với thái độ cực đoan quá nhấn mạnh đến vai trò gây bệnh của VK, thuyết này đã bỏ qua vai trò và ảnh hưởng của các yếu tố khác trong quá trình phát sinh bệnh, cũng không quan tâm đến cơ chế bảo vệ của cơ thể. Trong thực tế hiện nay nhiều bệnh không phải do VK gây ra và nhiều khi tiêm VK vào cơ thể cũng không gây được bệnh. ◼ Thuyết điều kiện đơn thuần cho rằng bệnh tật là do kết quả tác động tổng hợp của một số điều kiện và những điều kiện đó có thể gây bệnh mà không cần nguyên nhân bệnh đặc hiệu.
  22. Quan niệm này hoàn toàn sai lầm, vì các điều kiện chỉ làm cho các quá trình phát sinh bệnh dễ dàng hơn chứ không thể thay thế được nguyên nhân bệnh. Học thuyết này mang tính tiêu cực, gây trở ngại cho công tác phòng trị bệnh. Thuyết thể tạng cho rằng nguyên nhân bệnh không phải từ bên ngoài tới mà là do đặc điểm của cơ thể, do thể tạng của con vật. Đây là quan niệm của thuyết di truyền máy móc, nó không đề cập tới các yếu tố ngoại cảnh, như vậy nó chống lại khâu vệ sinh phòng bệnh nhằm ngăn ngừa bệnh tật.
  23. ◼ 2.2. Quan niệm khoa học về nguyên nhân bệnh học Quan niệm đỳng đắn về nguyờn nhõn bệnh học phải nờu lờn được mối quan hệ chặt chẽ giữa nguyờn nhõn bệnh và điều kiện gõy bệnh. ◼ Nguyờn nhõn bệnh cú vai trũ quyết định và điều kiện thỡ phỏt huy tỏc dụng của nguyờn nhõn bệnh. Nguyờn nhõn bệnh là yếu tố cú hại, khi tỏc động lờn cơ thể sẽ quyết định bệnh phỏt sinh và cỏc đặc điểm phỏt triển của bệnh. Yếu tố gõy bệnh phải đạt tới một cường độ nhất định (độc lực, liều lượng ) mới gõy bệnh được.
  24. ◼ Như vậy, khi có nguyên nhân bệnh thì bệnh sẽ phát ra trong những điều kiện nhất định, ngược lại, nếu có đầy đủ các điều kiện mà không có nguyên nhân bệnh thì bệnh cũng không thể phát ra được. ◼ Trong những điều kiện nhất định thì nguyên nhân bệnh có thể trở thành điều kiện gây bệnh, thí dụ: nuôi dưỡng kém là nguyên nhân của bệnh suy dinh dưỡng, thiếu Vitamin là nguyên nhân của bệnh thiếu Vitamin, nhưng nó lại là điều kiện để con vật bị nhiễm khuẩn, là điều kiện của các bệnh truyền nhiễm.
  25. ◼ Đặc điểm của bệnh chính là do nguyên nhân bệnh quyết định nên dựa vào đặc điểm của bệnh có thể khám phá ra nguyên nhân bệnh để từ đó xác định phương pháp điều trị hữu hiệu. Song nguyên nhân bệnh chỉ có thể phát huy tác dụng trong những điều kiện cơ thể nhất định, thí dụ: bệnh Tụ huyết trùng do vi khuẩn Pasteurella gây ra nhưng nó chỉ phát bệnh trong khi sức đề kháng của con vật bị giảm sút. Cường độ của nguyên nhân bệnh cũng là một điều kiện gây bệnh.
  26. ◼ Mối quan hệ nhân quả trong NNB học: ◼ Mỗi bệnh (tức là hậu quả) đều do một nguyên nhân gây ra như vậy nguyên nhân có trước hậu quả. Nguyên nhân bệnh dù từ ngoài vào hay từ trong ra đều tác động lên cơ thể mà sinh ra hậu quả là bệnh. ◼ Bất cứ bệnh nào cũng đều có nguyên nhân của nó; mặc dù vậy, hiện nay còn nhiều bệnh chưa tìm được nguyên nhân, song đó là do trình độ phát triển của khoa học còn hạn chế, chưa cho phép tìm ra nhưng nguyên nhân ấy, dần dần khi khoa học càng phát triển thì càng nhiều nguyên nhân bệnh phức tạp sẽ được tìm ra.
  27. ◼ Cùng một nguyên nhân có thể sẽ có nhiều hậu quả khác nhau tuỳ theo điều kiện phát triển của bệnh, tụ cầu khuẩn có thể gây ra các ổ apse ở da, gây nhiễm trùng huyết khi vào máu. ◼ Mặt khác, cùng một hậu quả cũng có thể do nhiều nguyên nhân gây ra; Viêm, Sốt là những quá trình bệnh lý do rất nhiều nguyên nhân gây ra. Chính đây là khó khăn thường gặp khi đi từ triệu chứng tới xác định nguyên nhân bệnh, đòi hỏi phải có phương pháp suy luận đúng đắn và logic để phân biệt giữa hiện tượng và bản chất
  28. ◼ Như vậy một quan niệm khoa học về nguyên nhân bệnh học phải toàn diện, nhìn nhận cả vai trò của nguyên nhân bệnh và điều kiện gây bệnh, xác định đúng đắn tầm quan trọng và vị trí nhất định của mỗi yếu tố trong quá trình gây bệnh. Ngăn ngừa nguyên nhân bệnh, hạn chế tác dụng của điều kiện gây bệnh và tăng cường hoạt động tốt của thể tạng là phương pháp điều trị bệnh hữu hiệu, là những mặt tích cực của công tác phòng chống bệnh.
  29. ◼ 2.3. Phân loại nguyên nhân bệnh ◼ 2.3.1. Yếu tố bên ngoài ◼ Yếu tố cơ học: Chủ yếu là do chấn thương, tai nạn Gây tổn thương các cơ quan, làm hư hại các tổ chức của cơ thể ◼ Yếu tố lý học: + Nhiệt độ cao trên 50OC gây tác động cục bộ làm đông vón protít của tế bào, đặc biệt là phá huỷ các men, tuỳ theo nhiệt độ cao thấp và thời gian tác động khác nhau có thể gây nên mức độ tổn thương khác nhau từ ban đỏ đến bỏng, khi nhiệt độ tác động đến toàn thân có thể gây cảm nóng. ◼ + Nhiệt độ thấp dưới 0oC cũng gây tổn thương các men của tế bào, tác động cục bộ gây giá thương, gây hoại tử móng, tai, đuôi tác động tới toàn thân gây cảm lạnh, thường gặp ở những động vật sống ở các vùng giá rét hoặc trong những mùa đông lạnh giá.
  30. + Tia phóng xạ từ nguồn phóng xạ công nghiệp hoặc trong chiến tranh gây phá huỷ các men và gây các phản ứng oxy hoá làm tổn thương tế bào sống. Các động vật khác nhau có thể chịu đựng được phóng xạ ở các mức khác nhau. + Dòng điện, tác dụng của dòng điện phụ thuộc vào điện thế và tính chất của dòng điện; dòng điện một chiều tác dụng nhanh hơn dòng xoay chiều, điện thế càng cao càng nguy hiểm. Cơ chế gây tổn thương của dòng điện là gây co cứng cơ nhất là cơ tim, có thể làm tim ngừng đập, gây bỏng và gây hiện tượng điện ly vì cơ thể là một môi trường điện giải.
  31. ◼ Yếu tố hoá học ◼ Tác động của các chất hoá học phụ thuộc vào liều lượng và thành phần các chất đó, thường gây ngộ độc cho gia súc, gia cầm như axit, kiềm, kim loại nặng, chì, thuỷ ngân, asen các alcaloit từ cây cỏ, độc tố nấm mốc, ◼ Yếu tố sinh học ◼ + Vi khuẩn, rất nhiều bệnh do vi khuẩn gây ra, bao gồm cả bệnh truyền nhiễm và bệnh nhiễm trùng. ◼ + Virus, hầu hết các loại virus đều gây bệnh trong các bệnh truyền nhiễm Newcastle, dịch tả lợn, LMLM ◼ + Ký sinh trùng bao gồm cả các loài giun sán ký sinh, nội, ngoại ký sinh trùng và các loại Protozoa ◼ + Các loại động thực vật khác như: rắn cắn, ong đốt, các cây độc
  32. ◼ 2.3.2. Yếu tố bên trong ◼ + Yếu tố di truyền: đó là những biến đổi bệnh lý thông qua cơ chế di truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau qua tế bào sinh dục mang gen bệnh; Thí dụ: một số bệnh phát sinh là do thiếu gen chỉ huy quá trình tổng hợp một số loại men, khi thiếu men đó thì sẽ phát sinh bệnh ◼ Yếu tố di truyền cũng có thế là điều kiện để cho bệnh phát sinh. ◼ + Yếu tố thể tạng: thể tạng có thể được coi như là tổng hợp các đặc điểm chức năng và hình thái của cơ thể. Những đặc điểm này được hình thành trên cơ sở tính di truyền và quyết định tính phản ứng của cơ thể đối với tác động bên ngoài trong quá trình sống. Trước một yếu tố gây bệnh những cơ thể có thể tạng khác nhau sẽ có phản ứng khác nhau.
  33. ◼ III. SINH BỆNH HỌC (Pathogenesis) ◼ Sinh bệnh học là môn khoa học nghiên cứu những quy luật cơ bản của sự phát sinh, phát triển, diễn biến và kết thúc của một quá trình bệnh lý hay còn gọi là cơ chế sinh bệnh. Nắm được cơ chế sinh bệnh là yêu cầu cơ bản trong công tác phòng trị bệnh, trên cơ sở đó có thể ngăn chặn sớm những diễn biến xấu, hạn chế được tác hại của bệnh.
  34. ◼ 3.1. Vai trò của nguyên nhân bệnh ◼ NNB đóng vai trò quan trọng trong diễn biến của bệnh. Tuỳ theo cường độ, vị trí và thời gian tác động mà diễn biến của bệnh có thể khác nhau. ◼ - Khi cường độ của NNB lớn thì bệnh diễn biến cấp tính, nhanh và nguy hiểm, còn khi cường độ nhỏ thì bệnh diễn biến nhẹ, ít nguy hiểm. ◼ - Thời gian tác dụng của NNB phụ thuộc vào cường độ của NNB và sức đề kháng của cơ thể. ◼ - Vị trí tác dụng của NNB cũng có ảnh hưởng rõ rệt đến quá trình phát triển của bệnh, khi NNB tác động ở những nơi có ái lực với nó thì bệnh diễn biến nặng hơn những nơi khác, ví dụ: VK lao có ái lực với phổi, VK Brucella có ái lực với màng nhung nhau thai
  35. ◼ Đường lây lan của NNB: đường lây lan thường phụ thuộc vào tính chất của NNB, thông thường NNB lây lan theo 3 đường chính là: ◼ + Lan theo tổ chức, từ nơi phát bệnh lan ra xung quanh do tiếp xúc. ◼ + Lan theo thể dịch, các loại VK, virus và độc tố thường theo máu và dịch lympho lan rộng đến các cơ quan khác nhau. ◼ + Lan theo thần kinh, một số loại virus như virus dại, độc tố uốn ván có thể lan theo dây thần kinh. Trong thực tế khi bệnh phát sinh, NNB có thể đồng thời lan theo nhiều đường khác nhau, song tuỳ từng loại NNB có những đường lây lan chính và đường lây lan phụ, dựa vào đặc tính chúng ta có thể đề ra các biện pháp ngăn chặn kịp thời.
  36. 3.2.Quan hệ giữa cục bộ và toàn thân trong quá trình sinh bệnh ◼ - Cơ thể là một khối thống nhất, các cơ quan, mô bào có sự liên hệ chặt chẽ với nhau và chịu sự điều tiết chung của hệ TKTW, vì vậy các QTBL dù xảy ở cơ quan nào cũng phụ thuộc vào trạng thái chung của của cơ thể và ngược lại, thông qua cung phản xạ nó ảnh hưởng tới toàn thân. ◼ - Ảnh hưởng của toàn thân tới cục bộ: toàn thân khoẻ mạnh thì sức đề kháng tại chỗ cũng tốt, yếu tố gây bệnh khó xâm nhập và khi đã xâm nhập thì việc loại trừ cũng rất nhanh chóng. Như vậy chế độ dinh dưỡng tốt sẽ đảm bảo sức khoẻ cho cơ thể. ◼ - Ảnh hưởng của cục bộ tới toàn thân: bất kỳ một tổn thương nào ở cục bộ cũng ảnh hưởng tới toàn thân, các kích thích đau tác động tới thần kinh, các độc tố ngấm vào máu rồi tác động tới chức năng của các cơ quan trong cơ thể.
  37. ◼ 3.3. Vòng xoắn bệnh lý ◼ Trong QTPT, bệnh thường diễn biến qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn như vậy được gọi là một khâu; các khâu này thường kế tiếp nhau theo một trình tự nhất định và có liên quan mật thiết với nhau. Trong một số trường hợp, những khâu sau tác động ngược trở lại khâu trước làm cho tình trạng bệnh lý nặng thêm, sự tác động như vậy gọi là vòng xoắn bệnh lý. ◼ Thí dụ: trong bệnh lợn đóng đấu mãn tính; vi khuẩn lợn đóng dấu gây viêm nội tâm mạc, van tim bị loét sùi, do đó ảnh hưởng đến tuần hoàn chung gây thiếu oxy; từ thiếu oxy lại gây rối loạn chuyển hoá các chất rồi tác động trở lại gây phì đại tim, gây suy tim; khi suy tim lại càng thiếu oxy, lặp lại thành một vòng tròn nhưng với cung bậc lớn hơn, cứ như vậy gọi là vòng xoắn bệnh lý.
  38. 3.4. Các giai đoạn phát triển của bệnh ◼ Trong QTPT của bệnh, cơ thể có những biến đổi khác với khi ở trạng thái bình thường. Các biến đổi đó gọi là triệu chứng. ◼ TC của bệnh thì muôn màu muôn vẻ, nó bao gồm những biến đổi về chức năng của các hệ thống như hô hấp, tuần hoàn , biến đổi về chuyển hoá vật chất, biến đổi về thân nhiệt, đến những thay đổi về thành phần của máu, nước tiểu và cả thay đổi về hình thái của một số cơ quan ◼ Sự biểu hiện của TC, cường độ thể hiện của chúng thường thay đổi trong từng giai đoạn của bệnh, trong mỗi bệnh và trong các cá thể khác nhau.
  39. ◼ Nhìn chung, QTPT của bệnh không những diễn biến theo những quy luật nhất định mà còn có tính giai đoạn, người ta thường chia ra 4 thời kỳ cơ bản trong quá trình phát triển của bệnh. Sự phân chia này có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu và giúp cho quá trình chẩn trị bệnh dễ dàng hơn. Tuy nhiên, việc phân chia các thời kỳ cũng chỉ là tương đối trong quá trình phát triển liên tục của bệnh.
  40. ◼ Thời kỳ nung bệnh ◼ Thời kỳ nung bệnh hay còn gọi là thời kỳ ủ bệnh, bắt đầu từ khi tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể và bắt đầu phát huy tác dụng đến khi cơ thể có những triệu chứng đầu tiên. Ở thời kỳ này khả năng thích ứng của cơ thể còn mạnh, nên các rối loạn chưa thể hiện. Thời kỳ này dài hay ngắn là phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài, trạng thái cơ thể, đặc tính của NNB và vị trí tác động của NNB, thí dụ: Nhiệt thán nung bệnh 1 - 5 ngày; Uốn ván 7 - 15 ngày, Dại 1 - 3 tháng,
  41. ◼ Thời kỳ tiền phát ◼ TKTP bắt đầu từ khi con vật có TC đầu tiên đến khi con vật xuất hiện những TC điển hình. Ở giai đoạn này NNB tác động mạnh, khả năng thích ứng của cơ thể giảm, các rối loạn chức năng đã rõ rệt biểu hiện thành các TC chủ yếu của bệnh. Nhờ có các TC này chúng ta có thể chẩn đoán sơ bộ và đưa ra phác đồ điều trị kịp thời. ◼ Thời kỳ toàn phát ◼ Thời kỳ này bắt đầu từ khi con vật có những TC rõ rệt đến khi bệnh chuyển biến đặc biệt. Ở thời kỳ này các rối loạn chức năng biểu hiện rõ ràng nhất, điển hình nhất, sự rối loạn trao đổi chất và TTBL nặng nề. Dựa trên các TC và bệnh tích điển hình nhất chúng ta có thể đưa ra chẩn đoán lâm sàng xác định để phòng chống bệnh cho bầy đàn.
  42. ◼ Thời kỳ kết thúc Thời kỳ này dài hay ngắn chủ yếu phụ thuộc vào từng loại bệnh và trạng thái cơ thể; thường có các dạng kết thúc bệnh như sau: ◼ + Khỏi hoàn toàn: các NNB hết tác dụng, bệnh dần dần thuyên giảm, cường độ các TC giảm dần rồi mất hết, chức năng các cơ quan trở lại bình thường, khả năng lao động và tính năng sản xuất được phục hồi hoàn toàn, với một số bệnh truyền nhiễm phát sinh trạng thái miễn dịch tốt. ◼ + Khỏi không hoàn toàn: Các NNB dã ngừng hoạt động, các TC chủ yếu đã đã hết, song về cấu tạo và chức năng thì chưa được khôi phục hoàn toàn (Thí dụ: trâu bò bị viêm khớp đã điều trị khỏi nhưng bị xơ cứng khớp, bò bị viêm vú đã điều trị khỏi nhưng lại mất khả năng tiết sữa.
  43. ◼ Một số trường hợp lành bệnh chỉ là biểu hiện bề ngoài, nhưng NNB chưa bị tiêu diệt hoàn toàn mà khu trú ở cục bộ một số cơ quan nào đó trong cơ thể, khi cơ thể giảm sức đề kháng thì mầm bệnh trỗi dậy, tăng độc lực gây bệnh tái phát. Đây cũng chính là nguồn lây bệnh nguy hiểm đối với các bệnh truyền nhiễm. ◼ + Chết: Chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống, khi cơ thể không thể thích nghi được với biến đổi của điều kiện tồn tại. Dấu hiệu của chết là ngừng tim, ngừng hô hấp. Quá trình chết bao gồm các pha như sau: Thời kỳ ngưng cuối cùng: tim và hô hấp ngừng tạm thời khoảng 0,5 đến 1,5 phút, mất phản xạ mắt, đồng tử dãn rộng, vỏ não bị ức chế, các hoạt động sống đều bị rối loạn.
  44. Thời kỳ hấp hối: xuất hiện hô hấp trở lại – thở ngáp cá, tim đập yếu, phản xạ có thể xuất hiện trong thời kỳ này, hoạt động của tuỷ sống ở mức tối đa để duy trì các chức năng sinh lý (< 30 phút). ◼ Chết lâm sàng: hoạt động tim, phổi đều ngừng, thần kinh trung ương bị ức chế hoàn toàn. Thời gian chết lâm sàng kéo dài 5 – 6 phút, khi tế bào não chưa bị tổn thương thì có thể hồi phục được. ◼ Chết sinh vật: hoạt động tim, phổi đều ngừng hẳn, tế bào não bị tổn thương, mọi khả năng hồi phục không còn nữa. Sau khi chết sinh vật các mô lần lượt chết theo, tuỳ thuộc vào khả năng chịu đựng với sự thiếu oxy của từng loại mô; mô nào trong khi sống cần nhiều oxy thì sẽ chết trước, mô nào cần ít oxy khi sống thì sẽ chết sau.
  45. ◼ 3.5. Cơ chế phục hồi sức khoẻ ◼ Sau một QTBL thì cơ thể có thể hồi phục sức khoẻ. Sức khoẻ chỉ có thể phục hồi khi NNB ngừng tác động, trạng thái cơ thể trở lại bình thường, tính hoàn chỉnh và giá trị kinh tế của nó được phục hồi. ◼ Chức năng thích ứng phòng ngự: Trong cơ chế phục hồi sức khoẻ, chức năng thích ứng phòng ngự có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bao gồm: ◼ - Sản sinh kháng thể ◼ - Phản ứng thực bào ◼ - Chức năng giải độc của gan ◼ - Đào thải các nhân tố gây bệnh, các độc tố ra ngoài cơ thể (nôn mửa, phân, nước tiểu, mồ hôi, niêm dịch ) ◼ - Tăng sinh tế bào.
  46. Chức năng bù đắp: đây là một hình thức phòng ngự phổ biến rất quan trọng trong quá trình hồi phục sức khoẻ. Trong thực nghiệm nếu cắt bỏ hoàn toàn tuyến thượng thận thì con vật sẽ chết nhưng nếu để lại 1/10 thể tích của tuyến thì con vật vẫn sống; hoặc nếu cắt bỏ hoàn toàn tuyến giáp sẽ phát sinh bệnh phù, song nếu chỉ để lại 0,2% thể tích của tuyến đó thì con vật vẫn bình thường. Trong thực tế nếu cắt bỏ một bên phổi, một bên thận hoặc một phần lớn gan thì con vật vẫn có thể sống bình thường.
  47. Trạng thái ức chế: Trong cơ chế hồi phục sức khoẻ, hiện tượng ức chế có mức độ của vỏ não là một phản ứng phòng ngự chống lại những kích thích quá mạnh hoặc kéo dài, tránh cho vỏ não khỏi bị tiêu hao quá độ. Đây cũng chính là cơ sở khoa học trong các thủ thuật điều trị bệnh sử dụng phương pháp gây tê, gây mê, dùng thuốc ngủ, thuốc an thần