Giáo trình Điền kinh

pdf 234 trang huongle 4240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Điền kinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_dien_kinh.pdf

Nội dung text: Giáo trình Điền kinh

  1. Dự Án Phát Triển Giáo Viên Tiểu Học GIÁO TRÌNH ĐIỀN KINH Ebook.moet.gov.vn, 2008
  2. Chủ đề 1 NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MÔN ĐIỀN KINH; KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI CÁC MÔN ĐIỀN KINH; NGHIÊN CỨU NGUYÊN LÍ ĐI VÀ CHẠY; TÌM HIỂU KĨ THUẬT ĐI THƯỜNG, KĨ THUẬT CHẠY CỰ LI NGẮN. (3 tiết LT + 10 tiết TH) I. MỤC TIÊU * Kiến thức - Hiểu biết sự phát triển điền kinh thế giới và trong nước, khái niệm, cách phân loại các môn Điền kinh, nguyên lí kĩ thuật đi và chạy. Ý nghĩa, tác dụng của luyện tập kĩ thuật đi và chạy cự li ngắn đối với học sinh Tiểu học. - Phân tích được các động tác bổ trợ kĩ thuật môn Điền kinh, các trò chơi và bài tập phát triển sức nhanh của học sinh Tiểu học. - Thể hiện được cách đánh giá kết quả học tập của học sinh; cách tổ chức luyện tập ngoại khoá đi và chạy cự li ngắn cho học sinh Tiểu học. * Kĩ năng - Thực hiện khá chính xác kĩ thuật cơ bản của các giai đoạn kĩ thuật trong đi và chạy cự li ngắn, các bài tập bổ trợ kĩ thuật và các bài tập phát triển sức nhanh. - Có khả năng dạy học kĩ thuật đi và chạy cự li ngắn, hướng dẫn tập luyện cho đội tuyển. - Có khả năng lập kế hoạch, thực hành công tác trọng tài, tổ chức thi đấu đi, chạy cự li ngắn trong một giải với quy mô trường Tiểu học. * Thái độ, hành vi - Thể hiện ý thức tích cực, tự giác tập luyện kĩ thuật đi và chạy cự li ngắn. - Phát triển các tố chất thể lực, sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo; nâng cao ý thức phát triển thể lực chuyên môn. II. HOẠT ĐỘNG Hoạt động 1. NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN MÔN ĐIỀN KINH; KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI CÁC MÔN ĐIỀN KINH (1 tiết) THÔNG TIN HOẠT ĐỘNG
  3. - Khái niệm điền kinh Điền kinh là một trong những môn thể thao cơ bản có vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục thể chất và huấn luyện thể thao; bao gồm các nội dung đi bộ, chạy, nhảy, ném đẩy và nhiều môn phối hợp. Từ “điền kinh” thường dùng ở nước ta thực chất là một từ Hán - Việt, được dùng để biểu thị những hoạt động tập luyện và thi đấu ở trên sân (điền) và trên đường chạy (kinh). Theo tiếng Trung Quốc, “điền” có nghĩa là “ruộng” còn “kinh” có nghĩa là “đường”. “Điền kinh” là tên gọi chung cho các môn thể thao được tiến hành trên “sân” và trên “đường”. Cách gọi của nhiều nước khác cũng được hiểu theo nghĩa này. Tuy nhiên, tên gọi đó chỉ có thể phù hợp với thời kì ban đầu bởi lẽ ngày nay người ta còn sáng tạo ra rất nhiều môn thể thao khác thuộc điền kinh mà không chỉ tiến hành ở “sân”, ở “đường”. Trong tiếng Hi Lạp cổ, từ “điền kinh” có nghĩa tương ứng với từ “aletic” và từ “athletics” trong tiếng Anh. Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới đều lấy “Điền kinh” làm tên gọi của các môn thể thao cơ bản. - Phân loại các môn hoạt động trong sân vận động Các nội dung của điền kinh vừa có thể là các bài tập, vừa có thể là các nội dung thi đấu. Ở các đại hội lớn như Đại hội Ôlympic, người ta chỉ chọn một số nội dung điền kinh tiêu biểu tham gia thi đấu. Bảng 1. Thống kê các nội dung điền kinh có trong chương trình thi đấu của các giải quốc gia và quốc tế lớn Ngoài trời Trong nhà Nội dung thi Nam Nữ Nam Nữ 1 20 km + + 5 km 3 Đi bộ thể km thao 2 50km + + Chạy 3 100m + + 60m 60m 4 200m + + + + 5 400m + + + +
  4. 6 800m + + + + 7 1500m + + + + 8 3000m + + + 9 5000m + + 10 10.000m + + 11 42,195km + + 12 100m + 60m 60m Chạy v- 13 110m + ượt rào 14 400m + + Chạy 15 3000m + + vượt chướng ngại vật Chạy tiếp 16 4 x 100m + + sức 17 4 x 400m + + + + 18 Nhảy cao + + + + 19 Nhảy sào + + + + Nhảy 20 Nhảy xa + + + + 21 Nhảy3 + + + + bước 22 Ném lao + + 23 Ném đĩa + + Ném đẩy 24 Ném tạ + + xích 25 Đẩy tạ + + + + 26 7 môn + Nhiều phối hợp môn phối hợp 27 10 môn + phối hợp
  5. Điền kinh là môn thể thao có nội dung rất phong phú. Để thuận tiện cho việc giảng dạy, huấn luyện và tổ chức quản lí, người ta phân loại điền kinh theo các cách chủ yếu sau: * Cách thứ nhất: Phân loại theo nội dung Điền kinh được phân chia thành năm nội dung chính: đi bộ, chạy, nhảy, ném đẩy và nhiều môn phối hợp. Những năm gần đây chạy, đi bộ các cự li dài, nhảy 3 bước, nhảy sào và ném tạ xích mới được đưa vào thi đấu của nữ và nay tiến hành thi 7 môn phối hợp thay vì 5 môn trước đây gồm: 100m rào, nhảy cao, đẩy tạ, 200m, nhảy xa, ném lao và 800m; 10 môn phối hợp của nam gồm: 100m, nhảy xa, đẩy tạ, nhảy cao, 400m, 110m rào, ném đĩa, nhảy sào, ném lao và 1500m. * Cách thứ hai: Phân loại theo tính chất hoạt động Điền kinh được phân theo tính chất hoạt động có chu kì gồm đi bộ, chạy và hoạt động không có chu kì gồm ném đẩy và các môn phối hợp. Trong mỗi nội dung có rất nhiều môn cụ thể được phân biệt theo cự li hoặc theo đặc điểm vận động. Đi bộ thể thao Đi là phương pháp di chuyển quen thuộc, phổ biến của con người, là một hoạt động có chu kì, là loại bài tập thể lực có thể dùng cho mọi lứa tuổi và mọi giới tính. Cự li tập luyện và thi đấu từ 3km đến 50km là những môn thi trong các đại hội thể dục thể thao. Khi đi, hầu hết các cơ bắp của cơ thể đều tham gia hoạt động, tăng cường hoạt động của cơ quan tuần hoàn, hô hấp và các hệ thống cơ quan khác của cơ thể. Do vậy, tập luyện đi bộ có lợi cho cơ thể, tác dụng tốt tới sức khoẻ. Đi bộ thể thao có yêu cầu cao hơn hẳn so với đi thường về cường độ vận động và sự tiêu hao năng lượng. Chính vì vậy, tập luyện đi bộ thể thao có tác dụng lớn đến cơ thể, củng cố các cơ quan nội tạng, tăng cường khả năng làm việc của các hệ thống cơ quan, phát triển các tố chất thể lực, đặc biệt là phát triển sức bền và giáo dục phẩm chất, ý chí. Đặc điểm cơ bản của kĩ thuật đi bộ thể thao là suốt quá trình đi, cơ thể không được bay trên không mà luôn luôn có một hoặc cả hai chân cùng chạm đất và từ khi chân chống trước đến khi kết thúc đạp sau, chân phải luôn giữ thẳng. Tập luyện và thi đấu đi bộ có thể tiến hành được trên mọi loại đường khác nhau. Đi bộ có thể không đi theo cự li mà đi theo thời gian. Chạy Chạy là hoạt động tự nhiên có chu kì, là bài tập không thể thiếu của vận động viên ở các môn thể thao, chạy luôn có trong nội dung của tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Chạy lâu với tốc độ không lớn trong điều kiện không khí trong lành rất có tác dụng đối với việc tăng cường sức khoẻ. Môn Chạy trong tập luyện và thi đấu được phân chia thành các loại: Chạy trong sân vận động có: - Chạy cự li ngắn 100m; 200m; 400m là nội dung thi trong Đại hội thể thao Ôlympic.
  6. - Chạy cự li trung bình (gồm các cự li 500m đến 2000m, trong đó môn Chạy 800m và 15000m là nội dung thi trong Đại hội thể thao Ôlympic). - Chạy cự li dài (gồm các cự li từ 3000m đến 30000m, trong đó môn Chạy 3000m (nữ), 5000m (nam) và 10.000m (nam) là nội dung thi trong Đại hội thể thao Ôlympic. Chạy trong các điều kiện tự nhiên có: - Chạy cự li từ 500m đến 50000m. Trong đó có môn Chạy Marathon với cự li 42195m là nội dung thi trong Đại hội thể thao Ôlympic. Chạy vượt chướng ngại vật: Chạy vượt rào từ 80m đến 400m và chạy 3000m vượt chướng ngại vật. Trong đó môn Chạy vượt rào 100m (nữ), 110m (nam), 200m và 400m rào, 3000m vượt chướng ngại vật là nội dung thi trong Đại hội thể thao Ôlympic. Chạy tiếp sức: Chạy tiếp sức cự li ngắn từ 50m đến 400m; tiếp sức cự li trung bình từ 800m đến 1500m và chạy tiếp sức hỗn hợp 800m + 400m + 200m + 100m. Trong đó chạy tiếp sức 4 x 100m và 4 x 400m là nội dung thi trong Đại hội thể thao Ôlympic. Nhảy Nhảy là phương pháp vượt qua chướng ngại vật, đòi hỏi phải dùng sức mạnh để khắc phục độ cao và độ xa càng cao, càng xa càng tốt. Nhảy có tác dụng tốt để rèn luyện và phát triển các tố chất thể lực. Trong Điền kinh, các nội dung nhảy chia làm hai loại: - Nhảy qua xà ngang, tức là vượt qua chướng ngại thẳng đứng (mức xà) càng cao càng tốt bao gồm nhảy cao và nhảy sào (dùng sào chống khi nhảy). - Nhảy theo phương nằm ngang khắc phục chướng ngại nằm ngang càng xa càng tốt, bao gồm nhảy xa và nhảy 3 bước. Khi nhảy 3 bước được giậm nhảy 3 lần. Ở các môn nhảy khác mỗi lần nhảy chỉ được giậm nhảy một lần. Các loại nhảy trên đều có chạy đà. Thành tích nhảy được đo bằng thước với đơn vị là mét (m) hoặc centimet (cm). Các bài tập nhảy cao, nhảy xa được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Ví dụ như dùng làm bài tập thể lực hoặc làm bài kiểm tra đánh giá sức mạnh tốc độ. Nhảy cũng là một nội dung thi đấu của điền kinh. Ném đẩy Ném đẩy gồm có Ném bóng, Ném lựu đạn, Ném đĩa, Ném lao, Ném tạ xích và Đẩy tạ. Trong đó Ném lao, Ném đĩa, Ném tạ xích và Đẩy tạ là những môn thi trong Đại hội Ôlympic.
  7. Ném đẩy là dùng sức làm cho các dụng cụ có trọng lượng nhất định bay xa. Tập luyện ném đẩy có tác dụng phát triển hệ cơ toàn thân. Dựa vào vào kĩ thuật ném, đẩy, trong điền kinh người ta chia làm các loại sau: a) Ném từ sau đầu Gồm ném bóng (150g), ném lựu đạn (500 - 800g) và ném lao (600 - 800g). Để ném xa, các vận động viên đều chạy đà thẳng. b) Đẩy Đẩy tạ. Tạ có trọng lượng từ 3kg đến 7,257kg. Do chỉ được tạo đà trong vòng tròn có đường kính 2135m nên vận động viên chỉ có trượt đà mà không thể chạy đà. c) Ném với quay vòng Gồm ném đĩa. Đĩa có trọng lượng từ 1kg đến 2kg. d) Ném tạ xích Gọi là “tạ xích” vì ngoài dụng cụ tạ còn gắn thêm một đoạn dây nối với tay cầm. Tạ xích có trọng lượng từ 5kg đến 7,257kg. Để đĩa và tạ xích bay xa các vận động viên phải quay vòng tạo đà thực hiện trong 1 vòng tròn được Luật quy định (như đẩy tạ). Ném đẩy thuộc môn hoạt động sức mạnh và sức mạnh - tốc độ, đòi hỏi thể lực chuyên môn và kĩ thuật tốt mới phát huy được sức mạnh tổng hợp toàn thân nhằm đưa dụng cụ đi xa và đúng hướng. Nhiều môn phối hợp Bao gồm nhiều môn được phối hợp lại dùng trong thi đấu. Việc đánh giá thành tích nhiều môn phối hợp được tiến hành cộng điểm các nội dung thi đấu với nhau. Có thể có 3, 4, 5, 7 và 10 môn phối hợp, trong đó 7 môn phối hợp của nữ (chạy 100m rào, đẩy tạ, nhảy cao, chạy 200m, nhảy xa, ném lao, chạy 800m) và 10 môn phối hợp của nam (chạy 100m, nhảy xa, đẩy tạ, nhảy cao, chạy 400m, chạy 110m rào, ném đĩa, nhảy sào, ném lao và chạy 1500m) là những môn thi đấu chính thức trong Đại hội thể thao Ôlympic. Trong thi đấu nhiều môn phối hợp, thành tích các nội dung được quy thành điểm. Bảng điểm sẽ quy định từng lứa tuổi và giới tính. Tổng điểm mà vận động viên đạt được sẽ quyết định thứ bậc của họ trong thi đấu. Cách ghép môn trong thi đấu nhiều môn phối hợp - Ba môn phối hợp: đẩy tạ, một môn nhảy nào đó và chạy 300m. - Bốn môn phối hợp của thiếu niên: chạy 60m, ném bóng 150g, nhảy xa và nhảy cao. - Bốn môn phối hợp: + Chạy 100m, nhảy xa, ném đĩa, ném lao. + Chạy 100m rào, nhảy cao, chạy 100m và đẩy tạ. - Năm môn phối hợp nam: nhảy xa, ném lao, chạy 200m ném đĩa và chạy 1500m.
  8. - Năm môn phối hợp - nữ trẻ: chạy 100m rào (rào cao 76,2cm), đẩy tạ (3kg), nhảy cao, nhảy xa và chạy 800m. - Sáu môn phối hợp: chạy 100m, nhảy xa, ném đĩa (1,5kg), chạy 110m rào, đẩy tạ (5kg) và nhảy sào. Thi trong 2 ngày. - Bảy môn phối hợp: chạy 60m, nhảy xa, đẩy tạ, nhảy cao, chạy 60m rào, nhảy sào và chạy 1000m. (Với nam trẻ: đẩy tạ (6kg), nhảy cao, chạy 60m rào (rào cao 100cm). Thi trong 2 ngày. - Bảy môn phối hợp - nữ: chạy 100m rào, đẩy tạ, nhảy cao, chạy 200m, nhảy xa, ném lao và chạy 800m. - Tám môn phối hợp: chạy 100m, nhảy xa, nhảy cao, chạy 100m rào (rào cao 91,4cm), nhảy sào, ném đĩa (1,5kg) và chạy 1500m. Thi trong 2 ngày. - Mười môn phối hợp - nam trẻ: chạy 100m, nhảy xa, đẩy tạ (6kg), nhảy cao, chạy 400m, chạy 110m rào (rào cao 100cm), ném đĩa (1,5kg), chạy 1500m. Thi trong 2 ngày. - Mười môn phối hợp - nam: chạy 100m, nhảy xa, đẩy tạ, nhảy cao, chạy 400m, chạy 110m rào, ném đĩa, nhảy sào, ném lao, chạy 1500m. Thi trong 2 ngày. Tập luyện nhiều môn phối hợp là con đường phát triển thể lực toàn diện cho các vận động viên trẻ. Sự khác biệt về nội dung thi của vận động viên nữ và vận động viên nam tới nay đang là sự khác biệt về trọng lượng dụng cụ trong môn Ném đẩy và chiều cao của rào. - Trong chạy vượt rào: nữ chạy 100m, nam chạy 110m. - Trong nhiều môn phối hợp: nữ 8 môn, nam 10 môn. Người ta gọi thành tích thi đấu cao nhất trong điền kinh là “kỉ lục”. Tuỳ tính chất cuộc thi, thành tích và quốc tịch của vận động viên mà thành tích đó được gọi là “kỉ lục thế giới”, “kỉ lục châu”, “kỉ lục khu vực ”, “kỉ lục quốc gia” hoặc “kỉ lục đại hội” Riêng chạy Maraton và chạy việt dã - vì không thể có được điều kiện sân bãi đường chạy thi đấu như nhau nên người ta không gọi là kỉ lục mà gọi là thành tích cao nhất. - Các nội dung chạy trên đường bằng phẳng Tuỳ theo độ dài của cự li chạy người ta còn phân thành các nội dung: Chạy cự li ngắn (các cự li dài từ 20m đến 400m): Trong đó chạy 100m, 200m, 400m là các môn thi trong Đại hội thể thao Ôlympic. Khi chạy cự li ngắn mỗi vận động viên chạy theo một ô riêng. Chạy cự li trung bình (các cự li từ trên 400m đến 2000m): Trong đó chạy từ 800m đến 1500m là các môn thi trong các Đại hội thể thao Ôlympic. Riêng trong thi đấu ở cự li 800m, các vận động viên phải chạy 300m đầu theo ô riêng, sau đó mới chạy theo ô tuỳ ý. Chạy cự li dài (các cự li từ trên 2000m đến 30km) Trong đó các môn chạy 3000m (nữ), 5000m và 10,000m (nam) là các môn thi trong Đại hội thể thao Ôlympic. - Chạy vượt chướng ngại vật
  9. Chạy vượt rào Từ 80m đến 400m và chạy 3000m vượt chướng ngại vật. Trong đó, chạy vượt rào 100m (nữ), 110m rào (nam), 200m, 300m rào và 3000m vượt chướng ngại vật là các môn thi trong Đại hội thể thao Ôlympic. Chạy vượt chướng ngại vật Cự li chạy 1500m – 3000m. Trên đường chạy, vận động viên phải vượt qua hố nước và các rào cản. Thành tích trong chạy vượt rào và chạy vượt chướng ngại vật đều là thời gian vượt qua cự li quy định. - Chạy tiếp sức - Chạy theo đội. Mỗi vận động viên chỉ được chạy một đoạn của cự li quy định. Tín gậy được vận động viên cầm khi xuất phát, sau đó chuyển tới vận động viên cuối cùng để mang về đích. Độ dài của các cự li chạy tiếp sức gồm: - Chạy tiếp sức cự li ngắn từ 50m đến 400m. - Chạy tiếp sức cự li trung bình từ 800m đến 1500m. - Chạy tiếp sức hỗn hợp (800m + 400m + 200m + 100m; 400m + 300m + 200m + 100m ). Trong đó Chạy tiếp sức 4 x 100m và 4 x 400m là các môn thi trong Đại hội thể thao Ôlympic. - Chạy trên địa hình tự nhiên (và điều kiện tự nhiên) Chạy trên địa hình tự nhiên có thể từ 500m đến 50000m. Trong đó môn Chạy Maraton (42195m) là môn thi trong các Đại hội thể thao Olympic. Ngoài ra các cuộc thi chạy việt dã, chạy Marathon còn được tổ chức riêng cho từng khu vực hoặc các quốc gia trong hệ thống thi đấu của Liên đoàn Điền kinh nghiệp dư quốc tế. Đường chạy được sử dụng có thể là các loại đường hiện có, nhiều khi phải chạy lên dốc, chạy băng đồng v.v Mặc dù có những khác nhau về cự li, tốc độ chạy và điều kiện đường chạy nhưng các môn chạy nói chung và các nhóm môn chạy trên địa hình tự nhiên nói riêng vẫn có những điểm chung. Đó là: - Chạy là hoạt động có tính chu kì. - Chạy cự li ngắn (cả vượt rào) là hoạt động của hệ thống thần kinh cơ. - Chạy cự li trung bình và cự li dài đòi hỏi sự hoạt động tích cực của hệ thống tim mạch và hô hấp. Cơ sở của chạy là sức mạnh và sức bền. - Tần số bước chạy là thành phần của tốc độ chạy được quyết định bởi năng lực hoạt động thần kinh cơ và sức mạnh cơ bắp.
  10. - Độ dài bước chạy cũng là thành phần của tốc độ chạy được quyết định bởi tính đàn hồi của cơ, dây chằng và biên độ hoạt động của các khớp. - Tần số bước chạy và độ dài bước chạy là yếu tố quyết định đến thành tích chạy. - Kĩ thuật chạy là khả năng phối hợp hoạt động của các bộ phận cơ thể phù hợp với việc phát huy tốc độ chạy ở cự li tương ứng. Kĩ thuật chạy tốt nhằm đảm bảo tận dụng tối đa năng lượng tiêu hao. Bảng 2. Yêu cầu về tốc độ và sức bền các cự li khác nhau Tốc Sức bền Sức bền TT Cự li chạy độ anaerobic aerobic 1 100m 85% 14% 1% 2 200m 80% 18% 2% 3 400m 35% 60% 5% 4 800m 25% 40% 35% 5 1500m 10% 40% 50% 6 5000m 5% 15% 80% 7 10, 000m 3% 7% 90% 8 Maraton 1% 1% 98% (42,195km) - Sơ lược lịch sử phát triển môn Điền kinh Sự ra đời và phát triển Đi, chạy, nhảy và ném đẩy là những hoạt động vận động tự nhiên của con người ngay từ xưa. Nếu như ngày xưa các hoạt động đi, chạy, nhảy và ném đẩy chỉ được coi là cách di chuyển để săn bắt mồi, cách tự vệ hoặc tấn công, cách chạy trốn hoặc đuổi bắt kẻ thù thì về sau, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, các hoạt động đó được hoàn thiện và có ý nghĩa thiết thực hơn đối với cuộc sống con người. Thời kì nô lệ và phong kiến hoạt động chạy, nhảy, ném đã là những hoạt động rèn luyện thể lực, nâng cao khả năng chiến đấu của bọn quan lại và phục vụ mục đích thống trị. Trong xã hội tư bản, các nội dung điền kinh bắt đầu có trong ch- ương trình giáo dục. Từ nửa sau của thế kỉ XIX, điền kinh mới thực sự phát triển như một môn thể thao, có vai trò nhất định không chỉ trong trường học, mà còn cả trong việc rèn luyện thể lực cho quân đội. Môn Điền kinh phát triển sớm nhất ở Anh, từ năm 1937 đã có thi chạy gần 2km ở thành phố Rebi. Sau đó ở Ôcpho, Kembrit và Luân Đôn cũng tổ chức thi đấu với nội dung phong phú hơn (thêm chạy cự li ngắn, chạy vượt chướng ngại vật và ném). Từ năm 1851, trong các cuộc
  11. thi đấu điền kinh ở Anh còn có bật xa tại chỗ và nhảy xa có chạy đà. Năm 1851, Câu lạc bộ Điền kinh Luân Đôn được thành lập. Đây cũng là câu lạc bộ điền kinh đầu tiên thế giới. Năm 1880, Hội Điền kinh Anh được thành lập trên cơ sở hợp nhất các tổ chức điền kinh của đế quốc Anh) Tại Pháp, môn Điền kinh bắt đầu phát triển từ những năm 70 của thế kỉ XIX. Từ năm 1880, việc thi chạy được tổ chức thường xuyên tại các trường THPT. Cuối những năm 80 của thế kỉ XIX Tổng hội Điền kinh Pháp được thành lập. Tại Mĩ, năm 1868, Câu lạc bộ Điền kinh New York được thành lập. Các trường đại học là các trung tâm điền kinh mạnh của Mĩ. Những năm 1880 – 1890, liên đoàn điền kinh nghiệp dư của nhiều nước đã được thành lập. Đặc biệt từ năm 1896, Đại hội Ôlympia được tái tổ chức theo chu kì 4 năm 1 lần. Trong ch- ương trình đại hội, điền kinh có một vị trí xứng đáng. Điều đó kích thích môn Điền kinh phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới. Năm 1912, Liên đoàn Điền kinh Nghiệp dư Quốc tế (International Amateur Athletic Fedration; viết tắt là IAAF) được thành lập. Đây là tổ chức quốc tế có chức năng điều hành sự phát triển môn thể thao Điền kinh trên thế giới. Tới nay, IAAF có 209 nước thành viên (53 n- ước châu Phi, 49 nước châu Âu, 45 nước châu Mĩ, 44 nước châu Á và 18 nước châu Đại Dương). IAAF có 6 uỷ ban: - Uỷ ban kĩ thuật: đảm nhiệm mọi vấn đề liên quan tới luật lệ thi đấu. - Uỷ ban phụ nữ : phụ trách thi đấu điền kinh của phụ nữ (việc phụ nữ được tham gia thi đấu ở cả những nội dung điền kinh từ lâu chỉ dành cho nam là một thành công không nhỏ của Uỷ ban này). - Uỷ ban về môn Đi bộ thể thao: phụ trách môn Đi bộ thể thao. - Uỷ ban về môn Chạy việt dã: phụ trách về chạy việt dã - Uỷ ban y học: nghiên cứu ảnh hưởng của điền kinh đối với cơ thể vận động viên, kiểm tra thể lực vận động viên trước khi thi đấu và nghiên cứu những phương pháp kiểm tra chống sử dụng các chất doping và kiểm tra giới tính. - Uỷ ban chuyên trách về thi đấu của các vận động viên điền kinh lão thành. Căn cứ vào chức năng của các uỷ ban, có thể thấy IAAF rất quan tâm tới việc nâng cao thành tích thể thao cũng như tính nhân đạo, tính khoa học và quan tâm tới vận động viên khi trẻ và cả khi họ về già. Ngoài ra, IAAF còn rất quan tâm đến hoạt động của phụ nữ. Năm 1956, Hiệp hội Huấn luyện viên Điền kinh Quốc tế (ITFKA) được thành lập. Hiệp hội này đã xác lập quan hệ và trao đổi kinh nghiệm giữa các huấn luyện viên (HLV) điền kinh; thông tin khoa học kĩ thuật điền kinh; hợp tác với liên đoàn điền kinh quốc gia và IAAF.
  12. Điền kinh là một trong những phương tiện hoạt động vui chơi, giải trí, thi đấu; là các bài tập có hiệu quả nhằm nâng cao sức khoẻ và là môn cơ sở cho nhiều môn thể thao khác Điền kinh được tôn vinh là “Nữ hoàng” của các môn thể thao. Ngày nay, ngoài chương trình đại hội thể dục thể thao ở các quốc gia và quốc tế, trên phạm vi toàn thế giới, cứ 2 năm (vào những năm lẻ) Giải Vô địch Điền kinh thế giới lại được tổ chức một lần; cứ 2 năm một lần (vào các năm chẵn) có Giải Vô địch Điền kinh Thanh niên thế giới và nhiều quốc gia còn tổ chức hoạt động điền kinh mùa đông vào dịp này. Điền kinh là một hoạt động dễ phổ cập đến tất cả mọi người. Vì thế cho tới nay thi đấu điền kinh chỉ theo giới tính và lứa tuổi mà không phân biệt về chiều cao hay trọng lượng cơ thể. Với sự bình đẳng về trình độ khoa học kĩ thuật, khoảng cách về thành tích trong điền kinh (cũng như ở nhiều môn thể thao khác) của châu Á so với các châu lục khác đang xích lại, chứng minh sự cố gắng vươn lên của các nước đang phát triển. - Hoạt động đi, chạy, nhảy, ném là hoạt động thuộc môn Điền kinh Hoạt động đi, chạy, nhảy, ném, đẩy là hoạt động tự nhiên cơ bản của con người, bắt nguồn từ lao động sản xuất và từng bước được xây dựng, hoàn thiện các kĩ năng vận động cơ bản để phát triển thành các môn Điền kinh thi đấu trong nước và quốc tế, nhằm phục vụ sức khoẻ, lao động sản xuất, giao lưu văn hoá giữa các quốc gia. Sự phát triển kĩ thuật trong điền kinh Kĩ thuật là một trong các yếu tố quyết định đến thành tích của vận động viên. Đi bộ, chạy, nhảy và ném đẩy là các hoạt động phổ biến, quen thuộc của con người; nhưng trong thi đấu rất cần đến yếu tố kĩ thuật thì mới có thể giành được thành tích cao. Vì vậy, kĩ thuật các môn Điền kinh luôn được các vận động viên, huấn luyện viên và các nhà khoa học hết sức quan tâm cải tiến. Mặt khác, việc thay đổi luật lệ thi đấu và những tiến bộ trong trang thiết bị dụng cụ, sân thi đấu cũng đòi hỏi phải có những cải tiến kĩ thuật cho phù hợp. Thí dụ: - Năm 1837 – 1838, đường chạy bằng đất được thay thế bằng đường chạy rải xỉ. - Từ năm 1967, việc cải tiến phủ mặt đường bằng chất dẻo tổng hợp thay cho đường chạy phủ bằng xỉ trước đây đã rút ngắn thành tích chạy của vận động viên. Tính đến năm 1971, có 8 trong số 12 kỉ lục thế giới trong chạy vượt rào và chạy tiếp sức được lập trên đường chạy bằng chất dẻo. Cụ thể chạy 800m rút ngắn được 1s, 1500m được 3s, 5000m được 15s v.v Tính đàn hồi của mặt đường bằng chất dẻo tổng hợp làm cho phản lực chống trước giảm, giảm thiểu tổn thất phản lực đạp sau. - Việc dùng đệm thay cho cát ở các hố nhảy cao, nhảy sào cũng đảm bảo an toàn hơn cho các vận động viên, từ đó mà phát huy khả năng nỗ lực cơ bắp trong thi đấu. Trong lịch sử phát triển điền kinh đã có những cải tiến kĩ thuật chính như sau: - Năm 1837 - 1838: thay đường chạy bằng xỉ than cho đường chạy bằng đất. - Năm 1858: Ở nước Anh, lần đầu người ta dùng sào gỗ trong nhảy sào.
  13. - Năm 1866: Vận động viên Đ. Uller (Anh) nhảy sào dùng một nhịp để qua xà (sau khi giậm nhảy, tiếp tục đưa người qua xà luôn). - Năm 1887: Lần đầu tiên vận động viên Tr. Serill (Mĩ) dùng kĩ thuật xuất phát thấp trong thi đấu chạy cự li ngắn. - Năm 1895: Vận động viên U. Suihêy (Mĩ) dùng kĩ thuật nhảy cao kiểu “cắt kéo”. Chạy đà chính diện, khi qua xà, chân đá lăng qua xà trước nhưng chân giậm lại tiếp đất trước. - Năm 1898: Vận động viên M. Prinstein (Mĩ) nhảy xa kiểu “cắt kéo”. Sau khi giậm nhảy 2 chân làm động tác như chạy trên không, 2 tay thẳng đánh vòng tròn, so le với chân. - Năm 1900: Vận động viên R. Bauer (Hunggari) tạo đà bằng quay vòng trong ném đĩa. - Năm 1908: Vận động viên A. Đzinbert (Mĩ) dùng sào tre trong nhảy sào và dùng 2 nhịp để qua xà. Sau khi giậm nhảy làm động tác thả 2 chân xuống dưới về sau rồi mới đưa người lên cao, về trước để qua xà. - Năm 1912: Vận động viên Đ. Horine (Mĩ) nhảy cao kiểu nằm nghiêng còn gọi là kiểu Horin. Khi qua xà, vận động viên có tư thế như nằm nghiêng trên xà, vận động viên A. Taipalê (Phần Lan) quay vòng ném đĩa kiểu “làn sóng”. Khi quay vòng, đĩa không chuyển động theo một vòng tròn trên một mặt phẳng mà có lên xuống nhịp nhàng như những làn sóng. - Năm 1920: Vận động viên V. Tuulôs (Phần Lan) nhảy xa với kiểu “ưỡn thân”. - Năm1926: Các vận động viên Mĩ bắt đầu dùng bàn đạp trong xuất phát thấp. - Năm 1928: Tăng độ dài của bước thứ 2 trong nhảy 3 bước - trước đó, bước này ngắn vì chỉ được coi như một bước đệm. - Năm 1952: Vận động viên P. Obraiem (Mĩ) đẩy tạ kiểu “lưng hướng ném”. - Năm 1960: Ở Mĩ bắt đầu có sào bằng chất dẻo để dùng trong nhảy sào - nhờ có thể uốn cong sào nên điểm giậm nhảy gần điểm chống sào hơn, tận dụng được sức mạnh giậm nhảy hơn. Nhờ lực duỗi thẳng của sào mà vận động viên có thể đưa người lên cao hơn để qua xà ở mức cao hơn. - Từ năm 1960: mặt vòng ném đĩa, tạ xích và đẩy tạ được phủ bằng xi măng. - Từ năm 1962: dùng đệm mút thay cát trong hố nhảy cao và nhảy sào. - Năm 1967: bắt đầu sử dụng đường chạy phủ bằng chất dẻo tổng hợp (tartan, kortan, stortan ). - Năm 1968: Vận động viên R. Phôtsberi (Mĩ) nhảy cao kiểu “lưng qua xà” - qua xà ở tư thế nằm ngửa. Các kỉ lục nhảy cao hiện nay đều do các vận động viên dùng kĩ thuật này lập. Kiểu nhảy này còn có tên của vận động viên sáng tạo ra nó là “R. Phôtsberi” (Mĩ). - Năm 1970: Vận động viên A. Barsnhicôp (Liên Xô) tạo đà bằng quay vòng trong đẩy tạ (năm 1976, lập kỉ lục thế giới với thành tích 22m).
  14. - Năm 1986: đổi trọng tâm của lao với lao dùng cho nam giới. Sự phát triển về phương pháp tập luyện - Khi tham gia tập luyện điền kinh, người ta thường chú ý đến mục đích chủ yếu: tập vì sức khoẻ và tập vì mong muốn trở thành vận động viên để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong thi đấu. - Nói tới phương pháp tập luyện là nói về các phương pháp nhằm nâng cao thành tích cho vận động viên. Từ thời Hi Lạp cổ đại đã tồn tại phương pháp chuẩn bị cho vận động viên tham gia thi đấu ở các Đại hội Ôlimpic theo chu kì lớn với thời gian dài: 11 tháng liên tục. Các chu kì nhỏ là chu kì tuần, chỉ tập 4 ngày mỗi tuần nhưng nhiệm vụ của từng buổi tập rất cụ thể. Người ta đã biết dùng phụ tải trong tập luyện: dùng các dụng cụ có trọng lượng nặng hơn quy định ở các môn Ném đẩy: cầm tạ đôi, nhảy xa ; biết sử dụng các bài tập phong phú hơn và biết xoa bóp, tắm hơi sau khi tập luyện. Từ khi phong trào Ôlimpic được khắc phục (1896), hoạt động thi đấu thể thao nói chung và thi đấu ở môn Điền kinh nói riêng như được tiếp thêm sức sống. Công tác đào tạo vận động viên ở các môn thể thao trong đó có Điền kinh ngày càng được chú ý phát triển và hoàn thiện. Ngày nay công tác đó cũng được công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong thể thao người ta đã làm quen với cụm từ “quy trình công nghệ đào tạo vận động viên”. Người ta chia quá trình lịch sử phát triển điền kinh thành các giai đoạn như sau: - Cho đến 20 năm đầu thế kỉ XX: sự phát triển điền kinh vẫn mang tính tự nhiên. - Tiếp đến thập kỉ 50 của thế kỉ XX: tập trung vào cải tiến, phát minh về kĩ thuật. - Tiếp đến thập kỉ 70 của thế kỉ XX: chuyển sang sử dụng lượng vận động lớn trong tập luyện. (Các vận động viên Maraton ưu tú của Trung Quốc mỗi tháng chạy khoảng 780 - 800km. Một nữ VĐV chạy CLTB xuất sắc của Rumani trung bình mỗi năm chạy 1600 - 5000km; mỗi tuần chạy khoảng 126 - 135km, mỗi ngày tập từ 2 - 4 buổi). - Tiếp đến hết thập kỉ 80 của thế kỉ XX: Xu hướng chuyên môn hóa kế hoạch huấn luyện phát triển mạnh. Sớm khai thác sử dụng tổng hợp các tác động của nhiều ngành khoa học khác: xã hội hoá giáo dục học, tâm lí học, y sinh học Người ta đã biết tận dụng các điều kiện thiên nhiên: tập trên núi cao, tập trong môi trường nước Họ cũng đã chế tạo ra nhiều loại dụng cụ tập luyện (nhất là để phát triển thể lực). Các môn tập cũng được kiểm tra bằng máy móc hiện đại để theo dõi diễn biến sức khoẻ của vận động viên trong quá trình tập luyện, đánh giá khá chính xác trình độ tập luyện của vận động viên, giúp họ có những điều chỉnh tập luyện phù hợp. - Chuyên môn hoá sớm được áp dụng trong tất cả các môn thể thao đã có nhiều thành công, nhưng cũng có không ít những thất bại. Do không có điều kiện thể hình phù hợp nên thành tích các vận động viên đó không được nhắc tới.
  15. - Từ nửa đầu những năm 90 có thêm nhiều cố gắng mới trong việc tăng cường năng lực thể thao và quá trình hồi phục của VĐV bằng hoá chất và các chất có nguồn gốc từ thảo dược (các chất không thuộc danh mục, các chất bị Uỷ ban Ôlimpic quốc tế (IOC) cấm và cả các chất doping). Vì tính nhân đạo, vì sự bình đẳng trong thi đấu cho các VĐV, người ta đã bỏ ra không ít tiền của và trí tuệ để tìm các biện pháp hữu hiệu trong việc phát hiện VĐV có sử dụng doping. Nhiều vận động viên đã bị tước quyền thi đấu vì bị phát hiện đã dùng chất kích thích bị cấm. - Sự hình thành phát triển, ý nghĩa và tác dụng của đi và chạy cự li ngắn Sự hình thành và phát triển Cự li ngắn là các cự li từ 30m đến 400m. Có thể nói rằng cự li ngắn là cự li được dùng trong thi đấu sớm nhất. Ngay từ thời Ai Cập cổ đại người ta đã tổ chức một cuộc thi đấu lớn giữa những binh sĩ trong quân đội (sau đó mở rộng cho cả các đối tượng khác). Sau Ai Cập, người ta còn thấy ở Hi Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc, cũng có các cuộc thi tương tự. Người Hi Lạp đã sớm biết dùng các bài tập chạy, nhảy, ném để rèn luyện thể lực cho binh sĩ và cũng là người Hi Lạp từ năm 776 trước Công nguyên đã tổ chức các Đại hội Ôlimpic cổ đại - theo chu kì 4 năm một lần. Ban đầu trong những đại hội đó, các lực sĩ chỉ được chạy ở cự li bằng chiều dài của sân vận động, là 192,27m. Về sau nội dung thi được bổ sung thêm, trong đó có nội dung đòi hỏi các lực sĩ phải toàn diện nhất trong tất cả các hoạt động. Đó là môn có tên gọi là “Pentalon” (tạm dịch là 5 môn phối hợp) bao gồm chạy 192,27m; nhảy xa; ném đĩa; ném lao và vật. Sau Công nguyên, lần đầu tiên thi đấu chạy cự li ngắn được tổ chức vào năm 1860 tại nước Anh với cự li 100 Yat (Yard là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 91,4m). Kỉ lục thế giới chạy 100m: Thành tích đầu tiên được IAAF công nhận kỉ lục thế giới ở chạy 100m là 10”6 do D. Lipinkôt (Mĩ) đạt trong lần chạy bán kết tại Đại hội Ôlimpic lần thứ 5 (năm 1912 tại Sitôckhôm - Thuỵ Điển). Năm 1930, vận động viên P. Uyliam (Canada) rút kỉ lục đó xuống còn 10”3. Ngày 20 tháng 6 năm 1936, J. Ôoen (Mĩ) lập kỉ lục mới: 10”2. Người thầy tu da đen này đã trở nên nổi tiếng tại Đại hội Ôlimpic năm 1936 ở Beclin. Anh đã giành 4 huy chương vàng cho đội Mĩ ở các nội dung 100m với 10”3; 200m với 20”7; nhảy xa với 8,07m và trong tiếp sức 4 x100m với 39’’8. Phải 20 năm sau kỉ lục đó mới được giảm 0,1” do công của V. Uyliams (Mĩ). Vận động viên đầu tiên của thế giới chạy 100m vừa tròn 10” là AHary (Cộng hoà Liên bang Đức). Ngày 21 tháng 6 năm 1960, tại Muynic, trong ba đồng hồ của trọng tài thì hai chiếc có kim dừng ở đúng 10” và một chiếc là 9”9. Nười ta còn nói rằng Hary đã phải chạy lần thứ hai để khẳng định khả năng của mình vì các trọng tài không tin rằng anh có thể chạy được như vậy. Năm 1968, J. Hines (Mĩ) trở thành vận động viên đầu tiên trên thế giới chạy 100m dưới 10”- chỉ với 9”9. Cũng trong năm 1968, tại Đại hội Ôlimpic ở Mêhicô kỉ lục thế giới của Đ. Hain được công nhận là 9”95 theo hệ thống xác định thời gian điện tử. Ngày 3 /7/1983, Kainsinmit lập kỉ lục thế giới mới với 9”93. Sau đó kỉ lục được giảm từng 0,01”. Ngày 16/6/1999, tại Aten, Morins Grin (Mĩ) lập kỉ lục mới với 9”79.
  16. Tính đến hết năm 2002, kỉ lục thế giới 100m là 9”78 do vận động viên da đen người Mĩ Tim Montgomeri (sinh ngày 28/01/1975, cao 1,78cm và nặng 69kg) lập ngày 14/9/2002 tại Pari. Kỉ lục thế giới chạy 200m: Ban đầu người ta chạy 200m bằng cách chạy đi 100m rồi chạy về 100m, sau này mới có đường chạy 100m đầu là đường vòng và 100m sau là đường thẳng. Kỉ lục thế giới ở chạy 200m được ghi nhận từ năm 1951 với 20”6. Năm 1966, T. Smit (Mĩ) nâng kỉ lục đó thành 20”. Tại Đại hội Ôlimpic Mêhicô 1968, kỉ lục chạy 200m là 19”83. Năm 1979, P. Mennêa (Italia) lập kỉ lục mới với 19”72. Kỉ lục thế giới ở chạy 200m, hiện nay là 19”32 do vận động viên da đen người Mĩ Maikơl Johnson lập ngày 01/8/1966. M. Johnson sinh ngày 13/9/1967; cao 1,85cm, nặng 78kg. Không chỉ giữ kỉ lục ở chạy 200m, anh còn giữ kỉ lục thế giới ở cự li 400m. Tới năm 32 tuổi anh đã 9 lần vô địch thế giới và 7 lần lập kỉ lục thế giới mới. Kỉ lục thế giới ở chạy 400m Năm 1864, Đerbisi (Anh) đã chạy 440 Yat (bằng 402,25m) với 56”. Năm 1880, Guttera (Pháp) lập kỉ lục mới là 51”6. Trong những năm tiếp theo, các vận động viên Anh và Mĩ thay nhau vượt lên dẫn đầu, tới năm 1889, kỉ lục là 48”5. Sau đó tới năm 1950, kỉ lục được lập mới 3 lần do Đ. Rôđen (Iamaika) 45”8 và L. Đzôns (Mĩ) 45”4 và 45”2. Năm 1960, trong đợt chạy chung kết 400m tại Đại hội Ôlimpic Rôma, O. Đêvit (Mĩ) và K. Kaufman (Cộng hoà Liên bang Đức) đều về đích 44”9. Tới năm 1964 mới có 2 người lập lại được kỉ lục trên, đó là 2 vận động viên người Mĩ A. Plammer và M. Larrabi. Tới năm 1967, T. Smit lập kỉ lục 44”5. Sau đó vào năm 1968, V. Mêtiuz - 44”4; L. Đzims - 44”1 và L. Êvans - 44”0. Cũng trong năm 1968, L. Êvans đã chạy 400m chỉ trong 43”86 - tức là trung bình chưa tới 10”0 để vượt qua 100m; Kỉ lục thế giới hiện nay là 43”18 lập ngày 26/8/1999 cũng của M. Johnson sau 21 năm tập luyện của vận động viên này. Phụ nữ được thi đấu chạy ở cự 100m trong Đại hội Ôlimpic khá muộn, từ năm 1928; Nữ vận động viên về nhất là E. Rôbinsơn (Mĩ) với thành tích 12”2. Hai mươi năm sau thêm 2 cự li 200m. Còn cự li 400m phải chờ tới năm 1964. Năm 1934, S.Vlasêvit (Ba Lan) chạy 100m với 11”7 và 200m với 23”6. Năm 1948, F. Blanker - Kun (Hà Lan) chạy 100m với 11”5. Bốn năm sau, M.Đ zêksơn (Áo) chạy100m với 11”4 và 200m với 23”4. Người phụ nữ đầu tiên trên thế giới chạy 100m với 11”0 là V. Taiec (Mĩ) trong Đại hội Ôlimpic ở Mêhicô 1968. Cũng từ năm 1968 người ta bắt đầu công nhận kỉ lục chạy theo thời gian xác định bằng hệ thống điện tử tự động. Theo cách xác định thành tích đó kỉ lục của V. Taiec chỉ là 11”08. Năm 1977, M. Oelsner (Cộng hoà Dân chủ Đức) chạy 100m với 11”0 rồi năm 1977 với 10”88. Năm 1983, E. Esford (Mĩ) chạy nhanh hơn M. Oelsner 9/100”. Kỉ lục thế giới chạy 100m thế giới của nữ hiện nay thuộc về vận động viên da màu người Mĩ PhG. Joyner là 10”49, lập ngày 16/7/1988 trong điều kiện không có gió. Kỉ lục thế giới chạy 200m cũng thuộc về PhG. Joyner với 21”34 (Ôlimpic Seul ngày 29/9/1988). Joyner đã qua đời năm 1988, nhưng đến nay, các ngôi sao chạy tốc độ của nữ chưa ai tiếp cận được các kỉ lục của cô.
  17. So với các kỉ lục 100m và 200m, kỉ lục chạy 400m của nữ tồn tại lâu hơn, từ ngày 06/10/1985, thuộc về Mrita Kốc - vận động viên của Cộng hoà Dân chủ Đức cũ. Trong cuộc đời vận động viên của mình, vận động viên Kốc đã 3 lần lập kỉ lục thế giới chạy 200m và 7 lần ở cự li 400m. - Sự phát triển điền kinh ở Việt Nam Đi, chạy, nhảy và ném đĩa là các hoạt động tự nhiên, quen thuộc với người Việt từ thuở xa xưa. Các hoạt động đó đã giúp ích rất nhiều cho người Việt trong đấu tranh với thiên nhiên, với ngoại xâm để tồn tại và phát triển; Cũng từ rất lâu người Việt đã có những cuộc thi chạy, nhảy hoặc ném và dùng các hoạt động này để rèn luyện sức khoẻ nâng cao thể lực Nói cách khác là ở Việt Nam đã sớm tiềm ẩn một động lực để phát triển điền kinh trong lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, điền kinh với địa vị một môn thể thao hiện đại, lại chỉ hiện diện ở nước ta, từ khi theo chân của đội quân xâm lược Pháp (1858) và cũng phải qua nhiều năm, sau khi chính quyền thực dân đã củng cố được ách đô hộ trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, việc tập luyện và thi đấu điền kinh (cùng một số môn thể thao hiện đại khác như Bóng đá, Thể dục dụng cụ, Bơi lội, Quyền anh, Xe đạp) mới được phổ biến rộng ra cho người Việt Nam, với ý đồ đào tạo những người Việt làm tay sai đắc lực trong bộ máy cai trị và trong việc rèn luyện thể lực cho những binh lính. Ngày 21 – 12 - 1919, trường thể dục thể thao đầu tiên, tên viết tắt là EDEP (theo tiếng Pháp: Ecole d’ Education Physique), do một nhóm trí thức, đứng đầu là ông Nguyễn Quý Toản - một giáo viên đứng ra thành lập. Ông là con của một nhà nho tiến bộ và đã từng học ở trường Pháp bảo hộ, ông say mê thể dục thể thao từ thủa nhỏ. Với ước mong đào tạo được một thế hệ thanh niên mới có học vấn cao, có sức khoẻ và lòng yêu nước, ông cùng bạn bè làm đơn xin được lập trường. Trong các điều kiện, trang thiết bị của trường có đường chạy, hố nhảy, sân ném đẩy cho điền kinh. Đầu tháng 4 năm 1924, Tổng cục Thể thao Bắc Kì chính thức tổ chức giải vô địch điền kinh đầu tiên. Người Việt Nam chỉ giành được giải nhất ở chạy 100m - 11,3s và chạy 110m rào 16,35giây; các giải nhất còn lại đều thuộc vào tay người Pháp với các thành tích 400m 55,35giây; nhảy cao 170cm; chạy 1500m với 4 phút 56 giây 45 và ném lao xa 37,45m. Năm 1925, ở Bắc Kì có một cuộc thi 10 môn Điền kinh phối hợp mang tên “Lực sĩ toàn năng” (Athlete complet). Điều kiện dự thi là phải có thành tích tối thiểu ở các môn: - Chạy 100m (13 giây); Chạy 400m (70 giây); Chạy 110m rào (22 giây); Nhảy cao - 130cm; Nhảy xa - 4,5m; Nhảy sào - 2m; Đẩy tạ (7,250kg) - 7m; Ném đĩa - 18m; Ném lao - 20m. Đã có 52 vận động viên dự thi. Nhất giải là vận động viên người Pháp đạt 208 điểm. EDEP cũng có vận động viên Việt Nam dự thi; Ông Nhuận được xếp thứ 12 với 142 điểm; Ông Lan xếp thứ 22 với 90 điểm và ông Quỳnh xếp thứ 42 do chỉ đạt 71 điểm. Cuối năm 1930, ở Bắc Kì rộ lên phong trào đi bộ: Học sinh trường tư Trí - Đức ở phố Hàng Cót đã đi bộ từ Hà Nội lên Tam Đảo. Còn có 4 cô gái Hà Nội đã đi từ Hà Nội xuống Đồ Sơn - Hải Phòng. Đây là hành động dũng cảm thôi thúc, lôi cuốn phụ nữ vùng lên thoát khỏi lối sống phong kiến cổ hủ để tham gia vào phong trào “Đời sống mới” đang lan rộng. Ngày 28 -
  18. 11 - 1930, hai học sinh của EDEP bắt đầu chuyến đi bộ du lịch từ Hà Nội vào Huế. Năm 1934, EDEP đổi tên thành Hội Thể dục (viết tắt theo tiếng Pháp là SEPTO), phạm vi hoạt động không chỉ ở Hà Nội mà mở rộng ra toàn xứ Bắc Kì. Mặc dù có thêm nhiều môn thể thao khác, nhưng hai môn chủ yếu cho học sinh của trường vẫn là Điền kinh và Thể dục. Những năm 1924 – 1934, Bắc Kì được coi là nơi có phong trào thể dục thể thao nói chung và Điền kinh, Thể dục nói riêng - mạnh nhất Việt Nam. Ảnh hưởng của SEPTO lan khắp cả nước; tại Huế đã thành lập Hội Thể dục Huế (SEPH). Tại Nam Kì, trong các năm 1920 - 1930, điền kinh (và thể dục) chưa phát triển như ở Bắc Kì. Trung tâm Thể dục thể thao của Nam Kì là Sài Gòn. Một số sân vận động được xây dựng, như sân Cerle (sau đổi tên thành sân Tao Đàn) nhưng không có đường chạy; sân “Stade Militaire” dành cho binh lính nhưng đường chạy không đúng quy cách. Sau vụ ẩu đả giữa hai đội bóng người Việt và người Pháp, “Hội các câu lạc bộ của người An Nam” được thành lập. Câu lạc bộ này đã xây dựng sân Mayer ở quận 3 - sân này có điều kiện để tập nhiều môn của điền kinh. Ngoài ra, sân Reynaud (là sân Thống Nhất hiện nay và được mở rộng vào những năm 1939 -1940 tạo điều kiện tốt để điền kinh phát triển). Mặc dù các vận động viên Việt Nam tập luyện và thi đấu khá quyết liệt do cân tài cân sức nhưng nhìn chung thành tích chưa cao do tập luyện thiếu khoa học, các phương tiện còn hạn chế. Phải dùng còi hoặc lời hô để ra khẩu lệnh xuất phát, thành tích chỉ xác định chính xác đ- ược đến 1/5 giây, phải chạy chân đất - mãi tới năm 1933 –1934, một số vận động viên mới có giày để chạy do nhà hàng Quảng Thái ở phố Hàng Điếu - Hà Nội sản xuất. Với chạy 100m, thành tích cao nhất chỉ là 11,1 giây; 400m nhanh nhất là 57 giây; 800m là 2,20 giây; 1500m là 4,32 giây; 5000m là 16,43,4/5 giây. Vào những năm cuối của thập kỉ 30, tại Hà Nội đã tổ chức thi chạy việt dã (CVD): xuất phát từ phố Tô Hiến Thành qua phố Huế, sang Trần Hưng Đạo, lên sông Hồng, xuống bãi sông rồi về đích ở SEPTO. Môn nhảy cao được đưa vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX; ban đầu sân không đúng quy cách đường chạy đà ngắn, khu vực giậm nhảy mềm và hố cát hẹp, kĩ thuật qua xà chỉ là “bước qua” và “cắt kéo”. Sau năm 1936, kiểu nhảy “nằm nghiêng” của Horine có từ 1912 mới được vận động viên Việt Nam sử dụng nhưng thành tích cao nhất vẫn thuộc các vận động viên nhảy bằng kiểu “cắt kéo” với mức xà 170 - 173cm. Môn nhảy xa: Các vận động viên đã biết nhảy bằng các kĩ thuật tiên tiến (“ưỡn thân” và “cắt kéo”), thành tích cao nhất là 6m. Nhảy xa nhất ở Việt Nam hồi đó là một vận động viên người Pháp với thành tích 6,8m. Từ đầu thập kỉ 30, nhảy sào đã có ở nước ta. Với sào tre dài 3,5m (có độ cao tay nắm chỉ là 2,5m - 3m) và hố cát, các vận động viên xuất sắc chỉ vượt được qua mức xà 2,9m. Những năm 1935 - 1940 được coi là thời kì phát triển thứ hai của điền kinh Bắc Kì. Không kể ở các tỉnh thành khác, tại Hà Nội đã có ba lực lượng vận động viên đua tranh quyết liệt. Đó là đội tuyển của SEPTO, đội “Atlat” của Trường Trung học Anbesaro và đội tuyển của Trung đoàn Bộ binh thuộc địa số 1 và số 3 mà phần lớn binh sĩ là người Việt.
  19. Giữa năm 1939, Pháp bị Đức chiếm đóng. Chính phủ mới của Pháp vẫn duy trì ách cai trị các thuộc địa. Bằng mọi cách, chúng lôi kéo thanh niên bản xứ vào các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao (TDTT) hòng làm cho họ quên nỗi nhục mất nước, xa rời phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Tại Việt Nam, trung tá hải quân Đuycôroa được cử làm Tổng uỷ TDTT toàn Đông Dương. Đuycôroa đã triệt để thi hành chính sách trên, hoạt động TDTT nhờ vậy khá sôi động. SEPTO trở thành trung tâm TDTT lớn nhất Việt Nam tại Trung Kì. Trường Cao đẳng TDTT Phan Thiết được thành lập với cơ sở vật chất kĩ thuật khá đầy đủ. Để được vào học tr- ường này cũng phải qua kiểm tra. Chủ yếu là kiểm tra những nội dung điền kinh, đánh giá trình độ các tố chất thể lực nhanh, mạnh, bền Năm 1940, Pháp tổ chức Giải Vô địch Điền kinh Quốc tế tại sân Cột Cờ - Hà Nội. Dự thi có tới 100 vận động viên người Việt, Pháp và người Hoa. Tại giải này một số vận động viên đã có những thành tích cao nhất trong thời kì Pháp đô hộ nước ta. Năm 1942, Đuycôroa còn mở thêm hai trường: Trường cán bộ Thanh niên Đông Dương và Trường Cao đẳng TDTT nữ Đà Lạt. Do các trường được lập chỉ nhằm đào tạo một lớp viên chức phục vụ guồng máy cai trị của thực dân, mà không đào tạo vận động viên có thành tích thể thao cao, nên số người Việt đạt thành tích cao không nhiều. Năm 1940, nhờ có kĩ thuật “úp bụng” một vận động viên mới qua được mức xà 175cm. Năm 1940, ở Nam Kì có Trương Văn Kí chạy 100m với 11,1s và 200m với 23,2s. Cho đến năm 1940, ở Việt Nam tạ dùng trong thi đấu của nam giới vẫn chỉ là 5kg. Sau này khi có tạ 7,257kg cũng có người Việt đẩy tạ xa tới 13m. Phần lớn các vận động viên đẩy tạ cũng là vận động viên ném đĩa. Cho tới năm 1943 thành tích cao nhất ném đĩa là 32m, đến năm 1944 mới có người Việt nhảy sào qua mức xà 3,45m. Ném lao là môn ít được người Việt Nam yêu thích. Trước năm 1945 chỉ có 1 vận động viên Việt Nam đạt thành tích 47m. Đó là những thành tích cuối cùng của phong trào vui khoẻ, trẻ trung ngắn ngủi của thời Đuycôroa. Tháng 8 năm 1945, Cách mạng thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Độc lập dân tộc chẳng được bao lâu, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đã phải tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Lần thứ hai dân tộc ta lại phải chống quân xâm lược Pháp. Thời gian này hoạt động TDTT (gồm cả điền kinh) đã chuyển hướng góp phần vào cuộc kháng chiến của cả nước. Cả nước hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch tập luyện TDTT vì: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công” bởi lẽ “Mỗi một người dân yếu ớt tức làm cả nước yếu ớt ” và vì “luyện tập thể dục bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Trong kháng chiến, việc tập luyện và nội dung tập đều gắn liền với mục đích rèn luyện sức khoẻ, trực tiếp phục vụ sản xuất, chiến đấu. Việc tập luyện nâng cao thành tích nhằm đoạt giải cao trong thi đấu (kể cả các môn Điền kinh) tạm thời không được nhắc tới. Ngày 20 – 7 - 1957, hoà bình được lập lại trên đất nước ta, nhưng Tổ quốc vẫn còn bị chia cắt. Những năm 1955 - 1975, thể dục thể thao là một bộ phận của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp đấu tranh giành thống nhất đất nước. Đảng và Nhà nước có nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm phát triển nền TDTT xã hội chủ nghĩa (XHCN). Cùng với việc tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, phát động toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tham gia luyện tập
  20. thể dục, thể thao, chú ý đến phát triển cả thể dục thể thao quần chúng và cả thể thao thành tích cao, việc đào tạo một đội ngũ các cán bộ thể dục, thể thao có trình độ nghiệp vụ cao cũng đư- ợc chú ý đúng mức. Các trường đào tạo cán bộ thể dục thể thao của ngành Thể dục thể thao và của các ngành khác lần lượt được thành lập. Ban đầu chưa đủ khả năng tự lập, chúng ta đã mời khá nhiều chuyên gia của Liên Xô, Trung Quốc cùng tham gia giảng dạy. Trong đào tạo, số cán bộ chuyên về điền kinh luôn có tỉ lệ lớn trong từng khoá học. Chạy, nhảy, ném đẩy có trong tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Điền kinh có trong chương trình môn Thể dục của các trường phổ thông, các trường trung học, dạy nghề, cao đẳng và đại học; Ở miền Bắc có nhiều tỉnh thành, ngành có đội tuyển điền kinh mạnh. Do vậy điền kinh cũng có điều kiện phát triển. Năm 1964, đế quốc Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, công tác thể dục thể thao được chuyển hướng, lấy phục vụ quốc phòng làm trọng tâm mà nội dung chủ yếu là “Chạy, nhảy, bơi, bắn, võ”. Thế hệ trẻ có phong trào “Luyện vai trăm cân, luyện chân ngàn dặm” để “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”; Các phong trào đó đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, giải phóng miền Nam giành độc lập, thống nhất Tổ quốc năm 1975. Dưới thời thống trị của Mĩ - Nguỵ một số tổ chức thể thao miền Nam cũng đã tham gia các tổ chức thể thao quốc tế (kể cả của IAAF) và cũng cử các vận động viên tham dự các cuộc thi đấu thể thao quốc tế (kể cả Đại hội Ôlimpic). Tổ quốc thống nhất, cả nước cùng sát vai xây dựng chủ nghĩa xã hội. Gần 30 năm đã qua, cùng với những thành tựu về mọi mặt nền thể dục thể thao Việt Nam cũng có những bước tiến vượt bậc. Trình độ thể chất của người Việt Nam không ngừng được nâng cao, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và tiêu chuẩn đẳng cấp vận động viên điền kinh Việt Nam cũng có những bước tiến vượt bậc. Ngày 01/9/1962, Hội Điền kinh Việt Nam, sau đổi tên thành Liên đoàn Điền kinh Việt Nam (Việt Nam Athletic FEDE RAION, viết tắt là VAF) đã được thành lập và trở thành thành viên của IAAF. Điền kinh là một trong ba môn thể thao có tổ chức xã hội sớm nhất sau Liên đoàn Bóng bàn Việt Nam có từ 23 - 5 - 1959 và Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam VFV có từ 10 - 6 - 1961. Công tác đào tạo vận động viên điền kinh của chúng ta ngày càng có tính khoa học và hiệu quả cao. Các kỉ lục quốc gia ở môn Điền kinh cũng không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, cho tới nay các kỉ lục điền kinh của Việt Nam còn thấp hoặc rất thấp. Phong trào tập luyện các môn của Điền kinh không đồng đều, các môn cần có trang bị dụng cụ chuyên biệt thường kém phổ biến (Vượt rào, Nhảy sào). Với các môn Ném đẩy nhất là các môn dụng cụ có trọng lư- ợng nặng, để có thành tích cao phải có tầm vóc và thể lực đặc biệt (Đẩy tạ, Ném đĩa, và Tạ xích), đội ngũ vận động viên của chúng ta rất ít và sự tiến bộ thành tích khá chậm. Riêng môn Tạ xích hơn 30 năm trở lại đây không có trong các cuộc thi đấu điền kinh. Thành tích tuy còn hạn chế nhưng các vận động viên điền kinh Việt Nam đã mang về cho Tổ quốc những tấm huy chương từ các SEA Games: - Tại SEA Games XVI (1991): 1 huy chương bạc và 1 huy chương đồng.
  21. - Tại SEA Games XVII (1993): 1 huy chương đồng. - Tại SEA Games XVIII (1995): 1 huy chương vàng và 1 huy chương đồng; huy chương vàng: Vũ Bích Hường về nhất chạy 100m rào với 13,69s. - Tại SEA Games XIX (1997): 4 huy chương bạc và 1 huy chương đồng. - Tại SEA Games XX (1999): 2 huy chương vàng, 4 huy chương bạc, 8 huy chương đồng; huy chương vàng: Phan Văn Hoá (Quảng Trị) về nhất chạy 800m với 1’50”52. Phạm Đình Khánh Đoan về nhất chạy 800m với 2’06”81. - Tại SEA Games XXI (2001): 3 huy chương vàng, 4 huy chương bạc, 10 huy chương đồng; huy chương vàng: Phạm Đình Khánh Đoan (Khánh Hoà) về nhất 2 cự li 800m và 1500m. Phạm Thu Loan (Khánh Hoà) nhất nhảy xa. - Tại SEA Games XXII (2003): 8 huy chương vàng, 16 huy chương bạc, 8 huy chương đồng; huy chương vàng: Nguyễn Thị Tình với 2 nội dung – 200m và 400m nữ; Nguyễn Lan Anh – 1500m nữ; Nguyễn Thị Thu Cúc – 7 môn phối hợp; Đoàn Nữ Trúc Vân – 10000m nữ; Đỗ Thị Bông – 800m nữ; Lê Văn Đương – 800m nam. - Tại SEA Games XXIII (2005): 8 huy chương vàng; 8 huy chương bạc, 4 huy chương đồng; huy chương vàng: Bùi Thị Nhung (Hải Phòng) - nhảy cao nữ; Vũ Thị Hương (Thái Nguyên) – 100m nữ; Đỗ Thị Bông (Thừa thiên – Huế) – 800m nữ; Trương Thị Thanh Hằng (TP. HCM) – 1500m nữ; Nguyễn Thu Cúc (Cần Thơ) – 7 môn phối hợp nữ; Vũ Văn Huyên (Quân đội) – 10 môn phối hợp nam; Lê Văn Dương (Kiên Giang) – 800m nam; Nguyễn Duy Bằng (Bến Tre) – nhảy cao nam. Chúng ta tin tưởng rằng với tiềm năng về mọi mặt của người Việt Nam, với việc không ngừng đẩy mạnh công tác giáo dục thể chất trong các trường phổ thông, sẽ đóng góp, bồi dưỡng, phát hiện được nhiều tài năng thể thao (trong đó có cả tài năng về điền kinh) để đào tạo lên. Với lòng tự hào dân tộc, với quyết tâm, khổ luyện của vận động viên, cùng với trí tuệ và sự tận tuỵ của các huấn luyện viên, các nhà khoa học, lại thêm sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, thành tích điền kinh Việt Nam sẽ có tiến bộ nhanh chóng. Để đạt được điều đó rất cần có sự tham gia đóng góp của mỗi người dân Việt Nam, trong đó có học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp dạy nghề và học sinh các cấp. Thành tích chạy ở cự li ngắn của Việt Nam Trong các môn thể thao hiện đại của thế giới được du nhập vào Việt Nam, điền kinh là một trong những môn được phát triển rộng rãi hơn cả. Tháng 4 năm 1924, Tổng cục Thể thao Bắc Kì tiến hành tổ chức được một giải điền kinh. Người Việt Nam duy nhất giành được chức vô địch có tên là Thái - một hạ sĩ quan thuộc Trung đoàn Bộ binh thứ nhất của quân đội Pháp đóng tại Hà Nội - ở chạy 100m với thành tích 11”3 (và nhất ở chạy 110m rào với 16”35). Tr- ước 1945, kỉ lục của Việt Nam ở chạy 100m và 200m là 11”2 và 23”2 đều do Trương Văn Kí lập. Kỉ lục ở chạy 400m thuộc về Nguyễn Ngọc Long là 57”. Cả ba kỉ lục trên đều được lập ở dưới chế độ dân chủ - cộng hoà rồi chế độ cộng hoà XHCN, nền thể dục thể thao Việt Nam
  22. không ngừng phát triển - cả về thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao. Nhiều vận động viên ưu tú xuất hiện, các kỉ lục quốc gia liên tục được nâng cao, trong đó có các kỉ lục ở chạy cự li ngắn. Chúng ta không quên những vận động viên đã đóng góp nhiều công sức cho công việc khó khăn đó: Trần Tú Thi, Trần Bá, Trần Hữu Chỉ, Hà Văn Canh, Nguyễn Trung Hoa, Nguyễn Đình Minh, Cù Thành Giang, Lương Tích Thiện, Nguyễn Thanh Hải, Vũ Ngọc Thái Các vận động viên nữ: Nguyễn Thị Minh, Trần Thanh Hương, Nguyễn Trần Lam Thanh, Trương Hoàng Mĩ Linh, Nguyễn Lan Hương, Nguyễn Thanh Hoa, Nguyễn Thị Tĩnh Cùng với những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, mặc dù cũng có những tiến bộ đáng khích lệ, nhưng so với kỉ lục thế giới, kỉ lục ở chạy các cự li ngắn của Việt Nam còn bị bỏ khá xa. Bảng 3. Kỉ lục quốc gia và kỉ lục hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc của lứa tuổi học sinh THCS ở chạy cự li ngắn (tính đến tháng 03 /2003) C Nữ Nam ự l Quốc gia THCS Quốc gia THCS i V Hoàng Thị Vũ Thị Ph- NguyễnTrun Nguyễn Khắc Đ Lan Anh ượng g Hoa Hoàng V Đ Hà Nội Hà Nội Thanh Hoá TP Hồ Chí ơ Minh n 1 vị 0 0 kỉ 11"75 12"2 10"58 10"6 m lụ c N 13-10- 1967 Tháng4- Tháng 4 -2000 ă 2000 m lậ p 2 V Nguyễn Thị Vũ Thị Ph- NguyễnThan NguyễnKhắcH 0 Đ Tĩnh ượng h Hải oàng 0 V
  23. m Đ Hà Nội Hà Nội Nghệ An TP Hồ Chí ơ Minh n vị kỉ 24"06 25"6 21"27 22"07 lụ c N 21- 11- 2002 Tháng 4 - 21- 11- 2002 Tháng 4 -2000 ă 2000 m lậ p V NguyễnThịTĩ Vũ NgọcThái Đ nh V Đ Hà Nội Quân đội ơ n 4 vị 0 0 kỉ 53"86 48"41 m lụ c N Tháng 11- 18- 11- 2002 ă 2002 m lậ p Từ năm 1983, cứ 4 năm một lần, nước ta lại tổ chức Hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc cho học sinh các trường phổ thông. Hội khoẻ thi đấu theo ba lứa tuổi: từ 11 tuổi trở xuống, từ 15 tuổi trở xuống và từ 18 tuổi trở xuống. Như vậy, học sinh Tiểu học thuộc lứa tuổi thứ nhất. Cho tới nay đã có 5 Hội khoẻ Phù Đổng được tổ chức. - Vị trí, ý nghĩa, nội dung điền kinh trong giáo dục thể chất ở trường phổ thông Điền kinh là môn thể thao phong phú về nội dung, ai cũng có thể tìm thấy trong điền kinh nội dung tập luyện phù hợp với mình (sức khoẻ yếu, không có năng khiếu vận động cũng có thể tập được các nội dung tự chọn phù hợp như đi bộ). Tập luyện điền kinh đảm bảo phát triển con người toàn diện, phát triển các tố chất thể lực quan trọng.
  24. Điều kiện để tập điền kinh đơn giản, không đòi hỏi trang bị phức tạp, đắt tiền. Nếu không có sân tiêu chuẩn, người ta vẫn có thể tập điền kinh ở mọi nơi, mọi lúc. Nếu có điều kiện, người ta tập ném đẩy với các dụng cụ tiêu chuẩn (kích thước, hình dạng, trọng lượng). Nếu không có điều kiện, người ta có thể tập với những dụng cụ tự tạo . Trong điều kiện cho phép, với mỗi môn điền kinh cần có một loại giày phù hợp, nếu không có vẫn có thể đi giày vải để tập mọi nội dung điền kinh, thậm chí chân đất cũng được, (trong thi đấu Giải Vô địch Quốc gia, có những vận động viên chạy chân đất mà vẫn đạt thành tích cao). Điều kiện để tổ chức thi đấu điền kinh cũng không cầu kì, không có dụng cụ đúng tiêu chuẩn quốc tế, các cuộc thi đấu điền kinh cơ sở vẫn được thực hiện. Nhiều nội dung điền kinh không hề có một đòi hỏi đặc biệt nào. Chạy Maraton có thể dùng ngay đường ô tô. Chạy cự li dài còn đơn giản hơn, chỉ cần có đường là được Rèn luyện các năng lực vận động bằng các môn Điền kinh không chỉ cần thiết cho cuộc sống bình thường hàng ngày của mỗi người mà còn có nhiều hoạt động mang tính nghề nghiệp. Cùng với sự nâng cao dân trí, số người hiểu được ý nghĩa, tác dụng của tập luyện điền kinh ngày càng đông và số người tự giác luyện tập ngày càng tăng lên. Để đánh giá trình độ phát triển thể chất của mỗi người, người ta phải sử dụng những bài tập kiểm tra, trong đó có các bài tập điền kinh. Chính vì vậy, trong hệ thống tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho người Việt Nam từ khi đủ tuổi cắp sách đến trường đã bao gồm các nội dung điền kinh. Mỗi học sinh phổ thông dù học ở lớp nào, cấp nào cũng cần học tốt các nội dung điền kinh nội khoá vì sẽ có tác dụng thiết thực ở mỗi lần tham gia kiểm tra theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Đối với các môn thể thao khác, vai trò môn thể thao “cơ sở” của điền kinh không chỉ do vận động viên của mọi môn thể thao dù ít, nhiều đều phải tập điền kinh mà tập để phát triển thể lực chung và tập để phát triển thể lực chuyên môn. Tập tốt kĩ thuật các môn Điền kinh cũng tạo điều kiện tập tốt kĩ thuật các môn thể thao khác. Thực tế không thiếu các vận động viên điền kinh giỏi ở các môn thể thao khác và ngược lại. Vai trò “cơ sở” của điền kinh còn thể hiện trong việc thông qua tập luyện điền kinh mà tài năng thể thao của các vận động viên trẻ được bộc lộ, trên cơ sở đó người ta chọn các môn thể thao phù hợp với tiềm năng của từng vận động viên, cho họ có điều kiện phát huy sở trường. Điền kinh tạo nguồn vận động viên cho các môn thể thao khác. Tập luyện điền kinh còn tạo điều kiện để người ta rèn luyện nhiều phẩm chất, tinh thần tốt đẹp cho cuộc sống: tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tính cần cù khổ luyện, lòng dũng cảm Bảng 4. Các độ tuổi để vận động viên đạt thành tích lần đầu tiên cao Tuổi có thành Tuổi có thành Môn Điền kinh tích cao đầu tích cao nhất Nam Nữ Nam Nữ Chạy 100m và 200m 19 - 17 - 19 22 -
  25. 21 24 400m 19 - 18 - 20 23 - 23 - 24 21 25 800 và 150m 21 - 19 - 21 23 - 22 - 26 23 26 3000m và 3000m chướng ngại 21 - 20 - 22 23 - 25 - 28 vật 23 28 5000m và 10.000m 21 - 20 - 25 25 - 25 - 30 23 29 Maraton 22 - 25 - 30 25 - 25 - 30 24 30 chạy vượt rào 19 - 18 - 20 24 - 21 - 24 21 26 Đi bộ thể thao 20 - 20 - 23 23 - 23 - 28 23 30 Nhảy cao 19 - 17 - 18 22 - 19 - 22 20 24 Nhảy xa 20 - 18 - 18 23 - 20 - 22 21 25 Nhảy ba bước 20 - Chưa 24 - Chưa 22 tổng 27 tổng kết kết Nhảy sào 19 - 23 - 20 26 Đẩy tạ và Tạ xích 21 - 20 - 24 25 - 23 - 28 25 30 Ném đĩa 21 - 20 - 21 25 - 22 - 24 23 26 Ném lao 18 - 17 - 20 25 - 24 - 29 21 27 Nhiều môn phối hợp 20 - 19 - 21 23 - 23 -25 22 26
  26. Tập luyện điền kinh rất có tác dụng cho lứa tuổi học sinh phổ thông. Vì đây là lứa tuổi có nhiều thời điểm nhạy cảm để phát triển về sức nhanh, mạnh và các tố chất thể lực. Người ta đã kết luận: - Muốn phát triển sức bền aerobic cần tập trung vào lứa tuổi 9 đến 12 và 17 đến 18 tuổi. - Muốn phát triển sức bền chuyên môn trong chạy cự li ngắn cần tuổi: từ 14 đến 16 tuổi. - Muốn phát triển sức bền chuyên môn trong chạy cự li trung bình và chạy cự li dài cần: từ 16 đến 19 tuổi. - Để phát triển tần số động tác: từ 9 đến 13 tuổi. - Để phát triển tốc độ phản xạ: từ 9 đến 12 tuổi. - Để phát triển tố chất sức mạnh - tốc độ: từ 9 đến 10 tuổi và từ 14 đến 17 tuổi. - Để phát triển khả năng mềm dẻo: từ 7 đến 10 tuổi và từ 13 đến 14 tuổi. - Để phát triển khả năng khéo léo vận động: từ 7 đến 10 tuổi và từ 16 đến 17 tuổi. Người ta cũng đã xác định các vùng tuổi mà vận động viên điền kinh đạt thành tích xuất sắc lần đầu tiên và lần đạt thành tích cao nhất (kỉ lục cá nhân). Chính vì những lí do trên nên trong chương trình giáo dục thể chất cho học sinh, nội dung điền kinh chiếm vị trí đáng kể. Các nội dung không chỉ trang bị làm phong phú vốn kĩ năng vận động cần thiết trong cuộc sống, mà còn có tác dụng nhất định nâng cao thể lực toàn diện cho học sinh. Điều đó được thể hiện trong chương trình môn học Thể dục học sinh từ lớp 1 đến lớp 12, các nội dung Điền kinh luôn được bố trí phù hợp (bảng 5). Trong chương trình lớp 1, 2 và 3 tuy chưa thấy các nội dung đi, chạy, nhảy hoặc ném đẩy, nhưng chắc chắn nội dung đó đã có trong nội dung “trò chơi vận động” hoặc “kĩ năng vận động”. Bảng 5. Nội dung điền kinh trong chương trình môn Thể dục Nội Tiểu học THCS THPT TT dung 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 Trò chơi + + + vận động. 2 Chạy + + 8 8 8 8 nhanh. 3 Chạy 6 100m. 4 Chạy tiếp 6 6
  27. sức. 5 Chạy 6 6 6 6 5 4 6 bền. 6 Bật nhảy. + + 10 12 7 Nhảy 8 10 cao kiểu “Bước qua”. 8 Nhảy cao 8 6 kiểu “Nằm nghiêng”. 9 Nhảy xa 8 kiểu “ngồi”. 10 Nhảy xa 8 6 8 kiểu “- Ưỡn thân”. 11 Ném + + 6 6 6 bóng. 12 Đẩytạ"vai 10 hướng ném”tự chọn. 13 Đẩy tạ 10 (môn tự chọn). 14 Đẩy tạ 10 (môn tự chọn). Tác dụng của môn Điền kinh có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giáo dục thể chất cho học sinh. Do vậy, ở trường phổ thông cần đẩy mạnh phong trào luyện tập thường xuyên và
  28. không ngừng nâng cao chất lượng, trên cơ sở đó phát hiện các tài năng trẻ về thể dục thể thao cho đất nước. Ý nghĩa tác dụng của tập luyện đi và chạy - Đi và chạy là hình thức vận động di chuyển tự nhiên của con người, là phương tiện giáo dục thể chất nâng cao sức khoẻ trong điều kiện không đòi hỏi sự phức tạp về cơ sở vật chất và mọi lứa tuổi đều có thể tham gia tập luyện. Đi bộ thể thao là hình thức di chuyển đặc biệt nhằm đạt được tốc độ di chuyển nhanh nhất nhưng vẫn giữ được đặc tính cơ bản của đi bộ. - Đi và chạy là hoạt động cơ bản trong đời sống sinh hoạt, học tập, lao động sản xuất và bảo vệ Tổ quốc. - Đi và chạy là một trong những nội dung dạy học thể dục ở trường phổ thông, có tác dụng trực tiếp trong quá trình rèn luyện tư thế, tăng cường sức khoẻ, phát triển toàn diện và nâng cao một số tố chất vận động cơ bản cho các em học sinh. Mục đích tác dụng của môn Đi và Chạy - Nhằm rèn luyện tư thế cơ bản của cơ thể, tăng cường sức khoẻ cho học sinh, phát triển sức mạnh cơ chân và sự chịu đựng của cơ quan nội tạng. Rèn luyện đi, chạy làm cho hoạt động cơ bắp, các hệ thống cơ quan nội tạng được đẩy mạnh, quá trình trao đổi chất và năng lượng được nhanh hơn. Các tố chất nhanh nhẹn, khéo léo được phát triển, làm cơ sở tốt cho việc hình thành các kĩ năng vận động phức tạp khác. - Giúp học sinh hiểu biết và rèn luyện tư thế đi đúng, đẹp, tự nhiên, khắc phục các tư thế đi sai lệch như : đi chân chữ bát, đi vòng kiềng, đi hay cúi đầu, đi thân hay lắc lư, lệch vai, gù lưng Trên cơ sở đó mà các em sửa đổi tốc độ và bước đi dài ngắn cho thích hợp, để nâng dần khả năng hoạt động tự nhiên, phục vụ cuộc sống. Cần quan tâm và bảo đảm các yêu cầu kĩ thuật, để học sinh thực hiện được tư thế đi chính xác. NHIỆM VỤ 1. Cá nhân đọc các thông tin sau - Khái niệm môn Điền kinh. - Sự ra đời và phát triển môn Điền kinh (thế giới và Việt Nam). - Phân loại môn Điền kinh. - Ý nghĩa của hoạt động điền kinh trong giáo dục thể chất ở trường phổ thông. - Sinh viên viết thu hoạch qua thực hiện nhiệm vụ 1. 2. Thảo luận theo nhóm với câu hỏi - Khái niệm thế nào là Điền kinh? - Tại sao người ta nói hoạt động đi, chạy, nhảy, ném là hoạt động thuộc môn Điền kinh? - Hãy phân loại các môn chạy trong sân vận động.
  29. - Mô tả thành tích của vận động viên chạy, nhảy, ném, đẩy qua các thời kì phát triển của thế giới và Việt Nam. - Sinh viên viết thu hoạch qua thực hiện nhiệm vụ 2. 3. Hoạt động cả lớp và đại diện các nhóm thể hiện sự hiểu biết của mình trước tập thể - Mô tả và thể hiện sự hiểu biết các nội dung chạy trên đường bằng phẳng, chạy vượt chướng ngại vật và chạy trên địa hình tự nhiên. - Tại sao người ta nói hoạt động đi, chạy, nhảy, ném là hoạt động thuộc môn Điền kinh? - Tìm hiểu thành tích của vận động viên chạy, nhảy, ném, đẩy qua các thời kì phát triển của thế giới và Việt Nam. - Ý nghĩa hoạt động điền kinh trong giáo dục thể chất ở trường phổ thông. - Sinh viên viết thu hoạch qua thực hiện nhiệm vụ 3. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG 1 Đánh dấu x vào ô trống trước những nội dung và phương án đúng. 1. Môn Điền kinh thế giới phát triển sớm nhất ở nước nào? a. Nước Anh; b. Nước Mĩ; c. Nước Pháp 2. Liên đoàn Điền kinh Nghiệp dư Quốc tế (IAAF) thành lập năm nào? a. Năm 1900; b. Năm 1908; c. Năm 1910; d. Năm 1912 3. Tính đến năm 2004 (IAAF) có bao nhiêu nước tham gia? a. 200 nước; b. 208 nước; c. 209 nước; d. 210 nước 4. Tổ chức (IAAF) có bao nhiêu uỷ ban? a. 4 uỷ ban; b. 5 uỷ ban; c. 6 uỷ ban; d. 7 uỷ ban 5. Hãy chọn các uỷ ban của tổ chức (IAAF). a. Uỷ ban kĩ thuật. b. Uỷ ban phụ nữ. c. Uỷ ban về môn Đi bộ thể thao. d. Uỷ ban về môn Chạy việt dã. e. Uỷ ban y học. h. Uỷ ban chuyên trách về thi đấu của các vận động viên lão thành. i. Uỷ ban chăm sóc sức khoẻ.
  30. 6. Giải Vô địch Điền kinh đầu tiên Việt Nam được tổ chức năm nào? a. Năm 1920; b. Năm 1922; c. Năm 1924 Hoạt động 2. NGUYÊN LÍ KĨ THUẬT ĐI VÀ CHẠY (2 tiết) THÔNG TIN CƠ BẢN - Tìm hiểu giới hạn của thời kì chống trước, chống sau, chuyển sau, chuyển trước trong đi và chạy * Chống trước: bắt đầu từ khi chân chống chạm đất ở phía trước điểm dọi trọng tâm cơ thể đến khi trọng tâm cơ thể đi qua điểm chống trước. * Chống sau (đạp sau): từ khi điểm dọi tổng trọng tâm cơ thể đi qua điểm chống trước đến khi chân chống rời khỏi đất phía sau. * Chuyển sau (lăng sau): từ khi chân chống rời đất phía sau đến khi chân vượt qua hình chiếu trọng tâm cơ thể. * Chuyển trước (lăng trước): từ khi chân vượt qua hình chiếu trọng tâm cơ thể đến khi chân chạm đất phía trước. - Tìm hiểu lực phản điểm tựa trong đi và chạy, sự ảnh hưởng của lực phản điểm tựa đến thành tích trong đi và chạy. Lực phản điểm tựa: Lực phản điểm tựa luôn luôn bằng với độ lớn cùng phương nhưng ngược chiều với lực tác dụng (đạp chân). Lực này phụ thuộc vào trọng lượng cơ thể của vận động viên, vào tốc độ di chuyển, vào lực co cơ mà vận động viên huy động trong khi đi và chạy. Lực chuyển động: Khi cơ thể đứng yên tại chỗ phản lực điểm tựa của chân chống sau P1 và của chân chống trước P2 tạo thành hợp lực P. Hợp lực P này cùng phương, ngược chiều và cân bằng với trọng lực cơ thể T. Nếu ta tăng áp lực của chân đạp sau và giảm áp lực của chân chống trước thì hợp lực P của phản lực điểm tựa ở hai chân sẽ có hướng lên trên về trước. Hợp lực P cùng trọng lực T tạo ra một hợp lực khác C. Hợp lực C này có hướng về trước lên trên và thành phần nằm ngang Đ của hợp lực C, chính là lực giúp cho cơ thể di chuyển về trước (Hình 1a [3]). Như vậy, khi hiệu lực đạp sau càng tăng, lực cản chống trước càng giảm thì lực đẩy cơ thể về trước càng lớn. Từ sự phân tích trên, ta có thể rút ra kết luận: Muốn tăng tốc độ đi, chạy cần phải tăng hiệu lực đạp sau và giảm lực cản chống trước. Hiệu lực của chân đạp sau được tăng lên bằng hai cách: - Tăng sức mạnh đạp sau. - Đạp sau với góc độ nhỏ. Lực cản của chân chống trước được giảm xuống bằng hai cách: - Đặt chân chống gần với điểm dọi của trọng tâm cơ thể.
  31. - Thực hiện hoãn xung khi chân chạm đất. Hình 1(a). Phản lực điểm tựa; (b). Chống trước và đạp sau Các yếu tố quyết định đến hiệu quả đạp sau (chống sau) Lực đạp sau phải nhanh, mạnh, đạp sau phải duỗi hết khớp, phương hướng đạp sau phải nhất trí với phương hướng vận động, góc độ đạp sau phải hợp lí. - Hoạt động của chân Hoạt động của chân liên quan trực tiếp tới hiệu quả di chuyển khi đi và chạy. Hoạt động của hai chân là như nhau và luân phiên. Do vậy, khi phân tích chỉ cần phân tích hoạt động của một chân là đủ. Khi chạy, mỗi chân luân phiên chống và đá lăng (khi cả hai chân cùng ở trên không thì cơ thể bay). Khi chân chống trên mặt đất lại gồm: Chống trước – Thẳng đứng và Đạp sau – tuỳ theo vị trí của điểm đặt chân với điểm dọi của trọng tâm cơ thể để tìm hiểu các tình huống trên. - Chống trước: Chống trước được bắt đầu từ khi chân chạm đất phía trước điểm dọi của trọng tâm cơ thể. Khoảng cách giữa hai điểm đó (trọng tâm cơ thể và điểm chống trước, càng xa, lực cản do chống trước càng lớn thì thời gian chuyển từ chống trước qua thẳng đứng để sang đạp sau càng lâu, làm cho tốc độ chạy giảm. Tốc độ chạy càng lớn thì thời gian để vượt qua giai đoạn đó cũng càng nhanh, hạn chế được lực cản do chống trước. Vì vậy, khi chạy không nên cố với chân về phía trước mà chủ động đặt chân gần điểm dọi của trọng tâm cơ thể (khi tập nhiều động tác bổ trợ chuyên môn chạy việc yêu cầu đó có động tác miết bàn chân từ trước ra sau khi chạy bước nhỏ hay khi chạy đạp
  32. sau cũng là nhằm mục đích tạo thói quen chủ động miết bàn chân về gần điểm dọi của trọng tâm cơ thể). Sau khi chạm đất có động tác hoãn xung. Đó là động tác nhằm giảm chấn động khi chống chân – thông qua việc giảm tốc độ các khớp ở cổ chân, gối và hông, phản lực bị phân tán và chỉ còn một lực không lớn tác động lên cơ thể. Hoãn xung tốt, bước chạy nhẹ hơn, thời gian chuyển từ chống trước sang đạp sau cũng nhanh hơn, việc đạp sau tiếp theo cũng hiệu quả hơn do các cơ có độ căng ban đầu nhất định, nhờ đó mà tăng hoặc duy trì được tốc độ chạy. - Thẳng đứng: là khi điểm đặt chân trùng với điểm dọi của trọng tâm cơ thể - cũng là thời điểm kết thúc chống trước. Trong một chu kì, đây là lúc trọng tâm cơ thể ở điểm thấp nhất. Thực ra đây chỉ là thời điểm chuyển từ chống trước sang đạp sau. Tốc độ chạy càng nhanh, trọng tâm cơ thể càng thấp thì sự chuyển đó cũng càng nhanh. - Đạp sau: là khi điểm đạp chân ở phía sau của điểm dọi trọng tâm cơ thể. Chỉ đạp sau mới có tác dụng đưa cơ thể tiến về phía trước. Đạp sau tốt là đạp nhanh, mạnh, với góc độ phù hợp và đẩy được hông về trước. Trong mỗi chu kì, chỉ có giai đoạn này mới có lực để đẩy cơ thể di chuyển về trước. Muốn chạy nhanh, phải khai thác triệt để hiệu quả của giai đoạn này. Hiệu quả đạp sau tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố + Trước hết là sức mạnh đạp sau của chân (trực tiếp là sức mạnh của các cơ tham gia động tác duỗi chân; để tận dụng được sức mạnh của chân, đạp sau phải duỗi được hết các khớp cổ chân, gối và hông). Sức mạnh đó càng lớn, đạp sau càng mạnh càng nhanh. Sức mạnh các cơ càng lớn khi mặt cắt sinh lí của nó càng lớn (mặt cắt sinh lí của một cơ là mặt cắt ngang qua hết các sợi cơ của cơ đó). Thông thường nếu không là người béo thì chu vi đùi và chu vi cẳng chân của một người càng lớn thì sức mạnh đạp sau của người đó càng lớn. Người ta cũng đã tổng kết rằng, những vận động viên chạy cự li ngắn xuất sắc đều có gân Asin dài và chu vi cổ chân nhỏ. Gân Asin càng dài, cổ chân càng nhỏ thì đạp sau càng mạnh, tốc độ đạp sau càng nhanh - những yếu tố rất có ý nghĩa đối với thành tích chạy. + Góc độ đạp sau (góc tạo bởi trục dọc của chân đạp sau với đường chạy tại điểm kết thúc đạp sau). Góc đó càng nhỏ, hướng đạp sau càng gần hướng chuyển động, hiệu quả đạp sau càng lớn (xuất phát thấp nhanh hơn xuất phát cao cũng vì lí do này). Khi chạy, góc độ đạp sau nhỏ: , 45 – 550 còn khi đi bộ góc độ đó lớn hơn: 55 – 650. + Cấu trúc của chân cũng ảnh hưởng tới hiệu quả đạp sau. Chân chữ bát hoặc chân vòng kiềng đều khó chạy nhanh vì lực đạp sau bị phân tán. + Chất lượng đường chạy cũng ảnh hưởng tới hiệu quả đạp sau. Mặt đường mềm, xốp hoặc trơn sẽ triệt tiêu lực đạp sau, hiệu quả đạp sau giảm. (Chính vì vậy, người ta phải chuẩn hoá đường chạy và cho các vận động viên chạy được sử dụng giày đinh ). Ngoài ra, khi chạy hai chân luân phiên đạp sau; nếu hai chân có sức mạnh như nhau thì nhịp điệu chạy ổn định, nhưng thông thường ở mỗi người, luôn có một tay thuận và một chân thuận. Tay chân thuận thường khoẻ hơn tay, chân không thuận. Sức mạnh của hai chân không đều là nguyên nhân của độ dài bước chạy không đều, cản trở việc phát huy tốc độ chạy. Bởi vì
  33. cứ sau bước của chân thuận tốc độ được tăng thì lại bị giảm vì bước của chân không thuận sau đó. Để chạy tốt cũng cần phải khắc phục tình trạng trên. Khi chạy, khớp hông không cố định, khi đạp sau có sự xoay quanh trục dọc, khi chân ở vị trí thẳng đứng: hông bên chân đá lăng thấp hơn – dẫn đến hiện tượng đầu gối của chân này thấp hơn gối chân chống (Hình 2). Hình 2. Chuyển động của khớp hông khi chạy. Giai đoạn đạp sau (a), giai đoạn thẳng đứng (b) Khác với chạy, trong đi bộ, chân chống trước phải luôn thẳng từ khi chạm đất cho tới khi đạp sau và rời khỏi mặt đất. Do phải chống trước với chân thẳng và phải đặt từ gót chân, nên khả năng hoãn xung hầu như không có, lực cản do chống trước là lớn. Để từ chống trước sang đạp sau, cơ thể chỉ có thể nhờ vào sức mạnh đạp sau của chân kia và quán tính. Để hỗ trợ, chân chống trước phải tì vững trên đất, làm điểm tựa để kéo hông về trước. Khi chân trước chạm đất, cơ thể từ trạng thái một chân chống đất chuyển sang trạng thái hai chân chống đất. Thời gian đó kéo dài bao lâu là do chân sau hoàn thành đạp sau và rời đất nhanh hay chậm. Trong chạy có thời gian cả hai chân đều ở trên không, ngược lại trong đi bộ có thời gian cả hai chân cùng chống đất. Nếu khi đi bộ cũng có lúc hai chân cùng ở trên không thì tức là đã chuyển qua chạy và phạm quy. Thời gian chống và đưa lăng khi đi và chạy với tần số bước khác nhau. Khi đi bộ thường (với tần số 113 bước mỗi phút, thời gian hai chân cùng chạm đất trong các chu kì đi kéo dài trên 0,1s. Khi đi với tần số 141 bước mỗi phút, thời gian trên giảm xuống dưới 0,1s. Khi đi với tần số 195 bước mỗi phút là ta đã bắt đầu chuyển từ đi sang chạy, thời gian cả hai chân cùng chạm đất rất ngắn, thậm chí là không có. Bằng kĩ thuật đi bộ thể thao hoàn chỉnh, người ta vẫn có thể đi với tần số trên 195 bước mỗi phút (cụ thể là 200 bước mỗi phút) nhưng vẫn đảm bảo luôn có một hoặc hai chân chạm đất (tức là không có lúc nào cơ thể bay trên không, không phạm quy). Thời gian hai chân cùng chạm đất chỉ bằng 1/3 đến 1/2 thời gian đó khi đi với tần số 113 – 141 bước mỗi phút. Khi chạy với tần số càng lớn thì thời gian cho chân chạm đất
  34. càng ngắn. Đi với chân chống luôn thẳng là đặc điểm kĩ thuật của đi bộ thể thao. Khi chưa quen với kĩ thuật này, khi hoạt động của hai chân chưa thành tự động hoá thì người đi rất vất vả, ưu việt của kĩ thuật chưa được phát huy. Kết thúc đạp sau, chân rời khỏi mặt đất và chuyển qua giai đoạn đưa lăng – giai đoạn chân ở trên không. Tuỳ thuộc vào vị trí của đùi chân lăng với đường thẳng từ trọng tâm cơ thể hạ vuông góc với đường chạy mà chân đưa lăng cũng bao gồm các giai đoạn nhỏ: đưa lăng sau, thẳng đứng và đưa lăng trước. “Thẳng đứng” là thời điểm đùi chân đưa lăng chuyển từ đưa lăng sau sang đưa lăng trước, cũng là khi chân kia ở vị trí chống thẳng đứng. Kết thúc đưa lăng trước lại trở về giai đoạn chống trước; hoàn thành một chu kì. Cũng theo nguyên tắc lực học, khi kết thúc đạp sau, bàn chân đạp sau rời khỏi mặt đất, chân kia còn đang đưa lăng ở phía trước, chưa “chống trước” toàn thân ở trên không, bay về trước theo quán tính, với tốc độ chậm dần đều. Tốc độ chạy lại được tăng khi chân chống chuyển qua đạp sau và đạp sau tích cực. Động tác đá lăng (sau và trước) không có tác dụng làm tăng tốc độ chạy do hướng của chuyển động đó ngược với hướng chạy – thậm chí còn cản trở do tạo lực cản lớn của không khí. Động tác đưa lăng càng mạnh, càng giật thì lực cản đó càng tăng. Tuy nhiên, khi đưa lăng nếu cẳng chân được thu về gần sau đùi một cách tự nhiên vẫn có tác dụng tốt. - Đá lăng từ sau – về trước là một chuyển động tròn, có tâm là trục ngang của khớp hông. Việc thu cẳng chân về gần đùi có tác dụng giảm bán kính của chuyển động do vậy rút ngắn được thời gian đá lăng, đồng thời hạn chế được hậu quả của động tác không thể thiếu đó. - Động tác thu cẳng chân nếu được thực hiện một cách tự nhiên – như một chuyển động theo quán tính – còn có tác dụng thả lỏng các cơ của chân vừa tham gia động tác đạp sau, nhờ vậy hoạt động của chúng có hiệu quả và duy trì được trong khoảng thời gian dài hơn. - Hoạt động của tay Trong kĩ thuật chạy, hoạt động của tay cũng đóng vai trò quan trọng nhất định: Phải đánh tay để giữ thăng bằng, giữ cho trọng tâm ổn định và đánh tay cùng với nhịp thở còn có tác dụng điều chỉnh tần số bước chạy. Tốc độ chạy càng cao, nhu cầu thăng bằng càng lớn. Khi đã mệt mỏi, hiệu quả hoạt động của chân đã giảm, khi đó nhịp đánh tay và nhịp thở tăng có tác dụng đối với việc duy trì hoặc tăng hoạt động của hai chân theo tần số cần thiết – tức là vai trò của tay càng tăng. Trong trường hợp chạy với tốc độ chậm, nguy cơ mất thăng bằng không lớn, nhu cầu hỗ trợ để duy trì nhịp điệu chạy cần thiết không cao (thường chỉ ở chạy các cự li dài và quá dài), người chạy có thể thả lỏng hai vai và buông thả hai tay như bình thường. Khác với chạy, khi đi bộ thể thao vai trò của tay rất lớn, tới mức không thể ngừng đánh tay. Vì suốt quá trình chạm đất, chân chống luôn phải giữ thẳng, người đi không tận dụng được hết sức mạnh của chân trong đạp sau, bù vào đó cần có sự hỗ trợ của tay. - Hoạt động của thân trên
  35. Trong chạy, thân trên không trực tiếp tác động làm tăng tốc độ di chuyển của cơ thể, tuy nhiên tư thế thân trên phù hợp lại có ý nghĩa tận dụng triệt để hiệu quả hoạt động của các bộ phận khác, gián tiếp làm tăng tốc độ chạy. Có tư thế của thân trên đúng sẽ tạo điều kiện để cơ bắp và các cơ quan nội tạng được hoạt động như bình thường. Do vậy, cần tìm hiểu đúng và củng cố tư thế đó. Dù thế nào đi nữa, khi chạy không được để tụt hông vì nếu vậy hiệu quả đạp sau sẽ giảm. - Sự di chuyển của trọng tâm cơ thể khi đi và chạy Khi chạy, tức là đã chuyển trọng tâm cơ thể của mình từ vị trí này tới vị trí khác. Khi chạy hết một cự li nào đó cũng có nghĩa là trọng tâm cơ thể của người chạy đã di chuyển được một cự li tương ứng – thường là dài hơn cự li đã chạy. Bởi vì khi chạy trọng tâm cơ thể không di chuyển trên một đường thẳng. Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, khi chạy, di chuyển của trọng tâm cơ thể có thể ví như một viên bi lăn ở một lòng máng để úp. Trọng tâm cơ thể ở vị trí thấp nhất. Muốn có thành tích chạy tốt ta cần chú ý giảm các giao động sang hai bên và giao động lên xuống của trọng tâm cơ thể. Để giảm giao động của trọng tâm cơ thể sang hai bên, khi chạy phải đặt trên một đường thẳng hoặc hai bên của đường thẳng (đường thẳng đó chính là trục dọc của đường chạy hoặc một đường thẳng song song với đường trục đó trong ô chạy). Để giao động của trọng tâm cơ thể theo chiều lên – xuống, phải ổn định góc độ đạp sau và đạp sau với góc độ nhỏ. - Mối quan hệ giữa tần số và độ dài của bước chạy Trong chạy, tần số và độ dài của bước là hai thành phần chủ yếu quyết định tốc độ chạy. Nếu ta chạy một cự li với độ dài trung bình của 1 bước chạy là l (m) và với tần số (x) bước trong 1 giây (s), thì có thể tính tốc độ chạy (v) theo công thức: v = xl (m/s). Rõ ràng là để tăng tốc độ chạy ta phải tăng tần số và độ dài của bước chạy. Nếu chạy được với bước chạy càng dài và với tần số bước (số bước chạy được trong một đơn vị thời gian) càng cao thì tốc độ chạy cũng càng cao. Tuy nhiên, giữa độ dài bước và tần số bước lại tỉ lệ nghịch với nhau: Độ dài của bước chạy càng dài, càng khó chạy với tần số cao; Ngược lại khi cố chạy với tần số bước cao ta rất khó chạy với độ dài bước lớn. Chạy ở các cự li khác nhau đòi hỏi chạy với các tốc độ khác nhau. Do đó, không có một tiêu chuẩn chung cố định về tần số và độ dài bước chạy. Nhìn chung, việc tập để chạy đúng kĩ thuật, không căng thẳng trong sự phối hợp tối ưu giữa tần số và độ dài bước chạy là điều rất quan trọng cần có ở người chạy nói chung và các học sinh tập chạy nói riêng. Nghiên cứu một chu kì chạy, người ta thấy rằng, để tăng tốc độ chạy cần tăng hiệu quả đạp sau (đạp sau nhanh, mạnh, duỗi hết khớp, phương hướng đạp sau thống nhất với hướng vận động và góc độ đạp sau phù hợp) và rút ngắn thời gian bay trên không.
  36. Tìm hiểu lực chống trước trong đi và chạy, sự ảnh hưởng của lực chống trước đến thành tích trong đi và chạy. Lực chống trước: Khi chân chống trước tác động một lực xuống đất. Áp lực trên điểm tựa chống trước gây ra phản lực P2 cùng phương nhưng ngược chiều chuyển động (theo định luật 3 của Niutơn). Phản lực chống trước P2 chia thành hai lực thành phần: Thành phần lực thẳng đứng chống đỡ trọng lượng cơ thể. Thành phần lực nằm ngang có hướng ngược chiều và kìm chế chuyển động của cơ thể về trước. Nếu lực thành phần nằm ngang của phản lực chống trước lớn thì tốc độ chuyển động cơ thể về trước càng bị tổn thất. Do vậy, muốn giảm lực thành phần nằm ngang của phản lực chống trước cần đặt chân chống trước gần điểm dọi trọng tâm cơ thể, hay nói cách khác làm tăng cường góc rơi khi đặt chân chống trước. - Biểu diễn bằng sơ đồ, rút ra sự giống nhau, khác nhau của chu kì đi và chạy Giống nhau Hoạt động của đi và chạy đều là hoạt động có chu kì, có sự phối hợp của tay, thân người, chân lăng, chân chống. Khác nhau - Thời gian của đi dài hơn thời gian chống của chạy. - Đi có chống đơn và chống kép (cả hai chân chạm đất). - Chạy không có chống kép, chỉ có chống đơn và bay (hai chân không chạm đất). Hình 3. Lực chống trước (P2)
  37. Hình 4. Sơ đồ chu kì đi và chạy NHIỆM VỤ 1. Cá nhân đọc thông tin sau: - Phân tích một chu kì trong đi và chạy. - Hoạt động của các bộ phận cơ thể trong một chu kì đi và chạy. - Sự di chuyển của trọng tâm cơ thể trong đi và chạy. - Mối quan hệ giữa tần số và độ dài của bước chạy. Sinh viên viết thu hoạch qua thực hiện nhiệm vụ 1. 2. Thảo luận theo nhóm học tập với câu hỏi - Tại sao người ta nói hoạt động đi và chạy là hoạt động mang tính chu kì? - Một chu kì đi và chạy có mấy bước? Đó là những bước nào? Có mấy thời kì? Là những thời kì nào? Có mấy giai đoạn? Là những giai đoạn nào?
  38. - Cơ sở nào để phân chia các giai đoạn và các thời kì trong đi và chạy? - Sự khác nhau của chu kì đi và chạy. - Mối quan hệ giữa tần số và độ dài của bước chạy đến thành tích trong chạy. Sinh viên viết thu hoạch qua thực hiện nhiệm vụ 2. 3. Hoạt động cả lớp. Đại diện nhóm thể hiện sự hiểu biết của mình. - Mô tả giới hạn của thời kì chống trước, chống sau, chuyển sau, chuyển trước trong đi và chạy. - Phân tích lực chống trước trong đi và chạy, sự ảnh hưởng của lực chống trước đến thành tích trong đi và chạy. - Phân tích lực đạp sau trong đi và chạy, sự ảnh hưởng của lực đạp sau đến thành tích trong đi và chạy. - Biểu diễn bằng sơ đồ, rút ra sự giống nhau, khác nhau của chu kì đi và chạy. Sinh viên viết thu hoạch qua thực hiện nhiệm vụ 3. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG 2 Đánh dấu x vào ô trống trước những nội dung và phương án đúng. 1. Tại sao người ta nói hoạt động đi và chạy là hoạt động mang tính chu kì? a. Có sự phối hợp giữa chân và tay trong hoạt động. b. Có sự phối hợp giữa chân, tay và thân người trong hoạt động. c. Có sự phối hợp giữa chân, tay trong hoạt động và được lặp đi lặp lại nhiều lần. 2. Một chu kì đi và chạy có mấy bước? Đó là những bước nào? Có mấy thời kì? Là những thời kì nào? Có mấy giai đoạn? Đó là những giai đoạn nào? a. Một chu kì đi và chạy có 1 bước. b. Một chu kì đi và chạy có 2 bước. - Có 2 thời kì a. Thời kì chống tựa. b. Thời kì lăng chân (đưa chân). - Có 3 thời kì a. Thời kì chống tựa. b. Thời kì lăng chân (đưa chân). c. Thời kì bay.
  39. - Có mấy giai đoạn? a. Có một giai đoạn. b. Có hai giai đoạn. c. Có ba giai đoạn. d. Có bốn giai đoạn. - Những giai đoạn nào? a. Giai đoạn chống trước. b. Giai đoạn chống sau. c. Giai đoạn lăng sau. d. Giai đoạn lăng trước 3. Trong thứ tự sắp xếp các giai đoạn sau đây, sắp xếp nào là đúng cho một chu kì đi và chạy? a. Giai đoạn chống sau, chống trước, lăng trước, lăng sau. b. Giai đoạn chống trước, chống sau, lăng sau, lăng trước. c. Giai đoạn lăng sau, chống trước, lăng trước, chống sau. 4. Cơ sở nào để phân chia các giai đoạn và các thời kì trong đi và chạy? a. Lấy mặt trước, sau của cơ thể để phân chia. b. Lấy điểm dọi trọng tâm cơ thể để phân chia. c. Lấy điểm chống tựa để phân chia. 5. Sự khác nhau của chu kì đi và chạy. a. Trong một chu kì đi có hai lần chống tựa (chống kép). b. Trong một chu kì chạy có một lần chống tựa (chống đơn). c. Giai đoạn lăng chân của chạy dài hơn đi. d. Giai đoạn chống tựa của đi dài hơn chạy. e. Trong chu kì chạy có giai đoạn bay. h. Trong chu kì đi không có giai đoạn bay. Hoạt động 3. KĨ THUẬT ĐI THƯỜNG VÀ KĨ THUẬT BỔ TRỢ CHẠY CỰ LI NGẮN (2 tiết) THÔNG TIN CƠ BẢN - Kĩ thuật đi trên vạch kẻ thẳng, đi hai tay chống hông, đi bước ngắn, bước dài, đi kiễng gót, đi cúi người, đi nhấc cao đầu gối và đi khom
  40. Kĩ thuật đi của học sinh Tiểu học Đi theo vạch kẻ thẳng Bồi dưỡng tư thế đi đúng, bảo đảm hai bàn chân bước thẳng về hướng trước, phòng tránh các thói quen đi chữ bát, đi vòng kiềng. - Tư thế chuẩn bị: Đứng chân trước sát vạch xuất phát thẳng hướng với vạch kẻ thẳng, chân sau kiễng gót, hai tay buông tự nhiên. - Động tác: Khi có lệnh, đi thường theo vạch kẻ, đầu và chân thẳng, mắt nhìn ra trước cách chân 3 - 4m, bàn chân chạm đất phía trước nhẹ nhàng thẳng hướng với vạch kẻ (có thể giẫm đè lên vạch kẻ hoặc song song sát hai bên vạch kẻ), hai tay phối hợp tự nhiên. Hình 5. Các tư thế đi, chạy Đi theo vạch kẻ thẳng, hai tay chống hông Tập tư thế của thân trên khi đi thẳng, hai vai giữ thăng bằng, tránh vẹo lệch hoặc lắc lư. - Tư thế chuẩn bị: Đứng chân trước sát vạch xuất phát, chân sau kiễng gót, hai tay chống hông (hai ngón cái hướng ra sau lưng). - Động tác: Khi có lệnh, đi thường theo vạch kẻ thẳng hai tay chống hông đến đích. Khi đi thân người thẳng, mắt nhìn cách chân 3 - 4m (cách đặt bàn chân như đi thường theo vạch kẻ thẳng). Hình 6. Đi theo vạch kẻ thẳng, hai tay chống hông Đi theo vạch kẻ thẳng, hai tay dang ngang
  41. - Tư thế chuẩn bị: Đứng chân trước sát vạch xuất phát, chân sau kiễng gót, hai tay dang ngang, bàn tay sấp. - Động tác: Khi có lệnh, đi thường theo vạch kẻ thẳng, nhưng đi ở tư thế hai tay dang ngang đến đích. Khi đi thân người thẳng, mắt nhìn cách chân 3- 4m (cách đặt bàn chân như đi thường theo vạch kẻ thẳng). Đi theo vạch kẻ thẳng, hai tay dang ngang - Tư thế chuẩn bị: Đứng chân trước sát vạch xuất phát, chân sau kiễng gót, hai tay dang ngang, bàn tay sấp. - Động tác : Khi có lệnh, đi thường theo vạch kẻ thẳng, nhưng đi ở tư thế hai tay dang ngang đến đích. Khi đi thân người thẳng, mắt nhìn cách chân 3 - 4m (cách đặt bàn chân như đi thường theo vạch kẻ thẳng). Hình 7. Đi theo vạch kẻ thẳng, hai tay dang ngang Đi kiễng gót, hai tay chống hông - Tư thế chuẩn bị: Đứng chân trước sát vạch xuất phát, chân sau kiễng gót, hai tay chống hông, bàn tay sấp. - Động tác: Khi có lệnh, đi theo vạch kẻ thẳng, nhưng đi ở tư thế kiễng gót hai tay chống hông (gót chân không chạm đất) và cố gắng giữ thăng bằng đến đích. Khi đi thân người thẳng, mắt nhìn cách chân 3 - 4m (cách đặt bàn chân như đi thường theo vạch kẻ thẳng). Đi nhanh, chuyển sang chạy Đi nhanh dần, hai tay đánh về trước, khuỷu tay dần dần co lên, người hơi ngả về trước, lưng thẳng, bước đi ngắn, nhanh, sau đó chuyển sang chạy, mắt nhìn về trước, phối hợp nhịp nhàng chân nọ tay kia. - Tư thế chuẩn bị: Đứng chân trước sát vạch xuất phát, chân sau kiễng gót, thân người hơi ngả ra trước, hai tay buông tự nhiên hoặc hơi co. - Động tác: Khi có lệnh, đi theo vạch kẻ thẳng tốc độ tăng dần từ 4 đến 5m rồi chuyển sang chạy 10 - 15m (do giáo viên quy định). Khi chạy không đặt gót chân chạm đất mà đặt nửa trên của bàn chân chạm đất một cách nhẹ nhàng, thẳng với hướng chạy, hai tay phối hợp tự nhiên. Sau khi qua đích giảm dần tốc độ và đi thường theo một hàng dọc về tập hợp ở cuối hàng.
  42. Hình 8. Đi nhanh, chuyển sang chạy Đi vượt chướng ngại thấp - Tư thế chuẩn bị: Đứng chân trước, chân sau, hai chân rộng bằng nhau sau vạch xuất phát, hai tay buông tự nhiên, thân người hơi ngả về phía trước, trọng tâm dồn nhiều vào chân trước. Kẻ vạch chuẩn bị xuất phát cách nhau 1m. Cách vạch xuất phát 10 – 20m kẻ vạch đích. Từ vạch xuất phát đến vạch đích, giáo viên kẻ một số vạch ngang song song cách nhau 0,3 – 0,4cm để học sinh đi qua và đặt một số chướng ngại vật cao không quá 0,2 – 0,4m (tận dụng các dụng cụ sẵn có). Tập hợp học sinh thành 4 hàng dọc sau vạch chuẩn bị tương ứng với những phương tiện trên. - Động tác: Khi có lệnh, từng em đi theo đường quy định. Khi gặp những chướng ngại nằm ngang thì bước hoặc nhảy qua đó đi thường về đích và vòng về tập hợp cuối hàng chuẩn bị cho lần thực hiện tiếp theo. Hình 9. Đi vượt chướng ngại vật thấp Đi chuyển hướng phải, trái - Tư thế chuẩn bị: Kẻ các vạch chuẩn bị và vạch xuất phát cách nhau 1m. Cách vạch xuất phát 20 - 25m kẻ vạch đích. Từ vạch xuất phát đến vạch đích, giáo viên kẻ một số vạch mốc (dấu nhân, dấu chấm, cờ nhỏ theo đường dích dắc cách nhau 3 - 5m). Tập hợp học sinh theo 4 - 6 hàng dọc sau vạch chuẩn bị. - Tư thế chuẩn bị: Đứng chân trước, chân sau, hai chân rộng bằng nhau sau vạch xuất phát, hai tay buông tự nhiên, thân người hơi ngả về trước, trọng tâm dồn nhiều vào chân trước. - Động tác: Khi có lệnh, từng em đi thường hoặc đi nhanh theo đường quy định. Sau khi đi xong về tập hợp ở cuối hàng. Động tác đi tự nhiên, khi cần chuyển hướng thì mũi bàn chân xoay về hướng đó, thân người ngay ngắn.
  43. Tập luyện chạy cự li ngắn là quá trình hoàn thiện kĩ thuật và phát triển thể chất nhằm nâng cao thành tích chạy ở các cự li ngắn. Do vậy đây cũng chính là quá trình rút ngắn thời gian phản xạ và nâng cao tốc độ chạy của người tập phát triển sức nhanh. Sức nhanh là một tố chất vận động quan trọng không thể thiếu được của hoạt động nhằm phát triển toàn diện tố chất thể lực con người. Muốn có sức nhanh thì tập luyện chạy cự li ngắn là rất hiệu quả. Với các học sinh phổ thông nói chung và sinh viên nói riêng, luyện tập cự li ngắn là nội dung không thể thiếu được trong giáo dục thể chất và tiêu chuẩn rèn luyện thân thể trong nhà trường. Người ta đã xác định những lứa tuổi phù hợp nhất cho việc tập luyện phát triển từng tố chất vận động. Với sức nhanh, để phát triển tần số động tác phù hợp với lứa tuổi 9 - 12 tuổi và 14 – 16 tuổi; để phát triển tốc độ một cử động: 9 - 13 tuổi; để phát triển tốc độ phản xạ: 9 - 12 tuổi. để phát triển tố chất sức mạnh tốc độ: 9 – 10 tuổi và 14 - 17 tuổi. Như vậy, lứa tuổi học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở rất phù hợp với tập luyện và phát triển sức nhanh. + Tố chất sức nhanh và khả năng chạy cự li ngắn tốt là yêu cầu đối với vận động viên của hầu hết các môn thể thao, đặc biệt đối với các môn thể thao có di chuyển. Tập chạy cự li ngắn tốt chính là cơ sở để tập tốt và đạt thành tích cao ở nhiều môn thể thao khác. + Cũng như tập nhiều môn thể thao khác, tập chạy cự li ngắn cũng mang lại cả những biến đổi về thể hình và chức năng của người tập. Các vận động viên chạy cự li ngắn thường là những người khoẻ mạnh và có cơ thể phát triển cân đối. Do vậy, cần khai thác tác dụng tốt của tập chạy cự li ngắn về cả phương diện hình thái, chức năng và sức khoẻ nói chung. HƯỚNG DẪN HỌC TRÍCH ĐOẠN BĂNG HÌNH TD3 NHỮNG KĨ NĂNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN LỚP 3 B1. Trong khi xem băng hình, sinh viên suy nghĩ về những vấn đề sau: a) Sinh viên luôn luôn liên hệ những điều kiện ở lớp học trong băng hình với lớp học của mình. Nếu điều kiện học tập của lớp không giống lớp học trong băng, bạn hãy điều chỉnh để đảm bảo giờ học của bạn cũng thành công tương tự như giờ học trong băng. b) Những mục tiêu dạy học của giáo viên trong băng hình. * Về phương pháp Giáo viên hỗ trợ học sinh học tập trong nhóm, đặc biệt là nhóm yếu. Giáo viên cũng khuyến khích các thành viên trong nhóm hỗ trợ lẫn nhau. * Về kết quả học tập Sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát kĩ thuật các động tác đi thường, học sinh hiểu và biết được: - Khái niệm về các động tác đi thường.
  44. - Kĩ thuật động tác các kiểu đi thông thường. - Biết tên gọi các kiểu đi thông thường. Thông qua hoạt động nhóm, các em nắm vững được tên gọi các động tác đi thông thường. Mặt khác hỗ trợ lẫn nhau trong nhóm giúp các em biết được cụ thể kĩ thuật của các kiểu đi thông thường, đồng thời tăng thêm sự hiểu biết để vận dụng nó vào trong cuộc sống và hoạt động vui chơi. Để ghi nhớ mục tiêu đó, sinh viên cần quan sát cẩn thận khi xem băng để nắm được các mục tiêu đó đạt được đến đâu. Trong băng hình, sau khi xem băng khoảng 1 phút, sinh viên sẽ thấy phần phụ đề yêu cầu bạn dừng băng và thực hiện hoạt động trong phần (B3) của tài liệu hướng dẫn. Có một số phụ đề như vậy trong băng hình. Tuy nhiên, khi xem băng hình lần đầu tiên sinh viên nên xem liên tục hết cả đoạn băng hình, đồng thời cần lưu ý điểm (a) và điểm (b) ở trên. Hướng dẫn về trích đoạn băng hình học tập môn TD3 (những kĩ năng vận động cơ bản đi thường, trò chơi vận động) đối với học sinh lớp 3. Thời gian: 18 phút. Trích đoạn băng hình này được quay ở một lớp học bình thường. Đây là trích đoạn băng hình biên tập một bài học điền kinh ngoài trời. Trích đoạn băng hình này không có lời bình mà chỉ ghi lại các sự kiện diễn ra trên lớp. Tuy nhiên, tài liệu hướng dẫn học đưa ra nhiều nhận xét bổ sung về các hoạt động trên lớp. Mã số thời gian được liên hệ ở góc dưới bên phải màn hình. Mã số này được tăng lên sau mỗi giây, chỉ ra thời gian từ khi băng hình bắt đầu (00:00; 00:01; 00:02; 00: 03; và cứ tiếp tục). Nó giúp tài liệu hướng dẫn học xác định vị trí những chi tiết nhất định của bài học trên băng hình. Mã số thời gian cũng có ích khi bạn xem băng hình theo nhóm. Nếu bạn nhận thấy một tình tiết hay hành vi cụ thể mà bạn muốn xem lại, khi đó bạn không nên dừng băng ngay vì như thế sẽ làm ngắt quãng việc xem băng của các đồng nghiệp. Bạn chỉ cần ghi lại mã số thời gian và sau đó xem lại dựa vào mã số thời gian. Bây giờ bạn hãy xem trích đoạn băng hình 2B – Mã thời gian 00: 00 – 17:35. B2. Các hoạt động sau khi xem lại băng hình lần đầu Sau khi xem, bạn có thể thảo luận và phân tích băng hình, đồng thời hãy lập thử kế hoạch một bài học có sử dụng hình thức: Học theo nhóm (kiểu nhóm cùng trình độ như trong băng hình) và dạy thử bài học đó (dạy cả bài hay một phần) để bạn và đồng nghiệp phân tích như dưới đây. Sau khi lập kế hoạch và dạy xong, bạn hãy thảo luận về giờ dạy ở nhóm, đánh giá và phân tích nội dung, hình thức của dạy học theo nhóm trong giờ dạy đó. Nếu bạn có máy quay video,
  45. nhóm có thể thảo luận và xem lại phần ghi hình giờ dạy của bạn. Nếu không có máy quay, nhóm có thể thảo luận về giáo án mà bạn đã soạn. Giải pháp thay thế là bạn có thể mời một nhóm sinh viên dự giờ dạy của bạn và sau đó thảo luận về sự thành công của giờ dạy đó. B3. Xem băng hình theo 6 đoạn băng ngắn, dừng lại sau mỗi đoạn để thực hiện các hoạt động cụ thể liên quan đến mỗi đoạn. 1. Bạn xem băng hình từ đầu (00:00) tới mã số thời gian 01:24 ghi ở góc bên phải màn hình. Tại đây có phụ đề yêu cầu bạn dừng băng và tiến hành các hoạt động (ghi ý kiến của bạn vào vở học tập). Bạn hãy quan sát cách đặt vấn đề thông qua hoạt động toàn thể để vào bài của giáo viên, cụ thể là trước khi bước vào hoạt động nhóm và đưa ra ý kiến của mình về các vấn đề cụ thể sau: - Cách đặt vấn đề đã kích thích tinh thần học tập của học sinh chưa? - Thời gian dành cho hoạt động này đã phù hợp chưa? 2. Bạn tiếp tục xem băng hình tới mã số thời gian 06:45. Tại đây phụ đề yêu cầu bạn dừng băng và tiến hành các hoạt động (ghi ý kiến của bạn vào vở học tập). a) Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm: nhóm 1 khá; nhóm 2, 3 trung bình, nhóm 4 yếu. Cách chia nhóm và xác định vị trí của nhóm đã rõ ràng chưa? b) Cách hướng dẫn các nhóm trưởng và cả lớp hiểu nội dung hoạt động nhóm đã cụ thể, rõ ràng chưa? Bạn có thể đưa ra cách làm của mình. c) Theo bạn đối với học sinh lớp 3 có cần vai trò của nhóm trưởng trong hoạt động của nhóm không (trong băng có nhóm trưởng)? Tại sao? d) Vai trò của giáo viên trong việc giúp đỡ nhóm yếu, tác dụng của sự giúp đỡ. e) Vai trò của giáo viên đối với phát triển thêm nội dung cho nhóm khá, giỏi. Cách phát triển nội dung. Bạn có thể đưa ra cách làm của mình. g) Sự tương tác trong các nhóm cùng trình độ thể hiện trong băng hình có hiệu quả không? Lưu ý: 1) Để việc học của bạn có kết quả tốt, bạn hãy suy nghĩ và thực hiện các hoạt động trong phần B3 trước khi đọc các phản hồi dưới đây. 2) Đối với một số hoạt động, hoạt động tập luyện nhóm của bạn là cần thiết và đủ, do đó không có thông tin phản hồi. 3) Phản hồi cho các hoạt động chỉ là nhận xét của tác giả. Phản hồi cho các hoạt động có tính mở, do đó không có phản hồi đúng “duy nhất”. Thông tin phản hồi cho đoạn 2. a. Cách chia nhóm và cách xác định vị trí nhóm của giáo viên khá rõ ràng và cụ thể.
  46. b. Cách hướng dẫn các nhóm trưởng và cả lớp hiểu nội dung hoạt động và cách tổ chức hoạt động của giáo viên là khá tốt, phù hợp với đối tượng học sinh lớp 3. c. Trong hoạt động nhóm, đối với học sinh lớp 3, nhất thiết phải có vai trò nhóm trưởng vì các em đã có tư duy hiểu biết. Chính vì vậy, giáo viên phải chuẩn bị nội dung các hoạt động phù hợp với khả năng của các em. (d) và (e) đối với các nhóm khá, giỏi và yếu, giáo viên cần giúp đỡ học sinh để làm sáng tỏ kiến thức hiện tại các em có. Sau đó giáo viên cần giúp đỡ học sinh xây dựng kiến thức mới dựa trên nền tảng của kiến thức đã có. B5. Tiếp tục theo dõi băng hình đến chỉ số thời gian 17: 08. Tại thời điểm này màn hình xuất hiện đoạn thuyết minh chỉ cho bạn cần biết dừng lại và thực hiện các hoạt động trong phần này (viết ra ý kiến của bạn dưới mỗi câu hỏi). Bạn suy nghĩ và thảo luận nhóm về lợi ích của hoạt động tập thể (sử dụng sau khi hoàn thành làm việc nhóm và làm việc theo nhóm) nhằm phát triển và củng cố nội dung bài học. Có thể sử dụng mẫu phiếu sau để theo dõi hoạt động học tập qua băng hình: PHIẾU THEO DÕI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP QUA BĂNG HÌNH Trường: Họ và tên sinh viên: Đơn vị (lớp, khoá): Nội dung bài dạy: Thời Nội dung hoạt động của GV Nhận xét ưu nhược gian và HS và ý kiến đề xuất Đánh giá chung
  47. Kết quả bài dạy: - Phần chuẩn bị: - Phần nội dung: - Phần phương pháp: - Phần kết thúc: NHIỆM VỤ 1. Cá nhân đọc thông tin sau: - Đi trên vạch kẻ thẳng. - Đi hai tay chống hông. - Đi bước ngắn, bước dài, đi kiễng gót. - Đi cúi người, đi nhấc cao đầu gối và đi khom. 2. Tìm hiểu và tập luyện theo nhóm học tập với nội dung - Mô tả và thực hiện kĩ thuật đi theo vạch kẻ thẳng. - Mô tả và thực hiện kĩ thuật đi hai tay chống hông. - Mô tả và thực hiện kĩ thuật đi bước ngắn, đi bước dài, đi kiễng gót. - Mô tả và thực hiện kĩ thuật đi cúi người, đi nhấc cao đầu gối và đi khom. 3. Hoạt động cả lớp. Đại diện nhóm học tập thể hiện kĩ thuật trước lớp, cá nhân rút ra kết luận đúng về kĩ thuật đi thường. * Xem băng hình (TD3) 7 - 8 phút. - Xem hướng dẫn học trích đoạn băng hình TD3: Những kĩ năng vận động cơ bản lớp 3 (trang 50). - Mô tả và thể hiện kĩ thuật các kiểu đi thường. - Mô tả và thực hiện kĩ thuật đi theo vạch kẻ thẳng. - Mô tả và thực hiện kĩ thuật đi hai tay chống hông. - Mô tả và thực hiện kĩ thuật đi bước ngắn, bước dài, đi kiễng gót. - Mô tả và thực hiện kĩ thuật đi cúi người, đi nhấc cao đầu gối và đi khom. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG 3 Đánh dấu x vào ô trống trước những nội dung và phương án đúng. 1. Đi theo vạch kẻ thẳng: a. Đi hai chân trùng trên vạch kẻ thẳng. b. Đi hai chân hai bên vạch kẻ thẳng, không giẫm lên vạch kẻ.
  48. c. Khi đi, mắt nhìn thẳng phía trước cách chân 5 - 6m. d. Khi đi, mắt nhìn thẳng phía trước cách chân 3 - 4m 2. Đi hai tay chống hông: a. Khi đi hai chân kiễng gót. b. Khi đi hai chân không kiễng gót. c. Hai tay chống hông, hai ngón cái ra trước. d. Hai tay chống hông, hai ngón cái ra sau. e. Khi đi, mắt nhìn thẳng phía trước cách chân 5 - 6m. h. Khi đi, mắt nhìn thẳng phía trước cách chân 3 - 4m. Hoạt động 4. TÌM HIỂU KĨ THUẬT GIAI ĐOẠN CHẠY GIỮA QUÃNG TRONG CHẠY CỰ LI NGẮN (2 tiết) THÔNG TIN CƠ BẢN - Kĩ thuật giai đoạn chạy giữa quãng Giai đoạn chạy giữa quãng - Giới hạn: Kết thúc giai đoạn chạy lao sau xuất phát đến khi cách đích từ 15 đến 20m là giai đoạn chạy giữa quãng. - Nhiệm vụ: Duy trì tốc độ cao đã đạt được ở kết thúc chạy lao (mà không phải tiếp tục tăng tốc độ chạy). Trong giai đoạn này, kĩ thuật chạy khá ổn định. - Kĩ thuật: Bàn chân đặt xuống mặt đường chạy có hoãn xung bằng cách đặt từ nửa trước bàn chân. Điểm đặt chân thường ở phía trước trọng tâm cơ thể từ 30 đến 40cm tuỳ theo tốc độ chạy. Tiếp đó là chân chống trước chuyển sang chống thẳng đứng rồi thành đạp sau; đồng thời với động tác đạp sau là động tác đưa chân kia về trước. Khi chân đạp sau duỗi hết cũng là lúc hoàn thành đưa lăng chân kia (đùi chân này được nâng đủ cao - gần song song với mặt đất). Tốc độ chạy chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả đạp sau nên động tác đó cần được thực hiện chủ động nhanh về tốc độ, mạnh và đúng hướng khi dùng sức. Để hỗ trợ cho đạp sau, chân đưa lăng cũng phải đưa nhanh và đúng hướng. Để đưa chân lăng được nhanh, sau khi đạp sau, cẳng chân được thu về phía đùi, vừa thu bán kính động tác, vừa giúp thả lỏng các cơ vừa phải dùng sức tích cực trong chống tựa và đạp sau. Cần cố gắng đưa chân lăng về trước chứ không phải là lên cao, để không giảm hiệu quả của lực đạp sau.
  49. Hình 10. Kĩ thuật chạy giữa quãng trong chạy cự li ngắn Do sức mạnh của hai chân thường không đều nên tốc độ chạy khó ổn định (vì tần số và độ dài bước không ổn định, khi chân khoẻ đạp sau bước chạy sẽ dài hơn), cần chú ý tập cho hai chân khoẻ đều để hạn chế ảnh hưởng xấu đó. Ngay khi chân chống trước chạm mặt đường, vai và hông phải chủ động chuyển về trước (giúp cơ thể chuyển nhanh từ chống trước sang đạp sau). Chuyển động của vai so với hông cũng so le như tay với chân. Thân trên cần được giữ ở độ ngả về trước nhất định (khoảng 5 độ so với phương thẳng đứng) tuy vẫn có sự thay đổi trong từng bước chạy: ngả nhiều hơn khi đạp sau và ít ngả hơn khi cơ thể bay trên không ). Hai tay gập ở khuỷu, đánh so le và phù hợp với nhịp điệu hoạt động của hai chân. Góc gập không cố định: nhỏ khi kết thúc đánh trước hoặc đánh sau, lớn khi qua vị trí thẳng đứng. Khi đánh tay hai vai phải thả lỏng, khi đánh về trước thì khuỷu tay hơi khép vào trong, khi đánh ra sau thì khuỷu tay hơi mở (nhưng không phải đánh sang hai bên) để giữ thăng bằng cho cơ thể. Hai bàn tay nắm hờ (hoặc duỗi các ngón tay). Không được dùng sức để duỗi thẳng các ngón tay hoặc cũng không nắm chặt bàn tay; Cả hai đều gây căng thẳng ảnh hưởng xấu tới tần số và nhịp điệu chạy. Khi chạy giữa quãng (cũng như chạy trên toàn cự li) việc thở vẫn tiến hành thậm chí còn thở tích cực hơn lúc bình thường. Tuy nhiên phải bảo đảm rằng việc thở đó không làm rối loạn kĩ thuật và nhịp điệu chạy. Để tăng tốc độ chạy, có nhiều người chủ động
  50. tăng nhịp thở, nhưng cũng có người cố nhịn thở. Dù theo cách nào cũng không được vì vậy mà làm rối loạn nhịp điệu chạy. Nhìn chung, do đoạn chạy giữa quãng là dài so với các đoạn khác nên thành tích chạy 100m phụ thuộc rất lớn vào thành tích ở đoạn chạy giữa quãng. Chạy giữa quãng tốt là chạy được với tần số và độ dài bước lớn nhưng phù hợp với đặc điểm của mỗi người. Phối hợp nhuần nhuyễn giữa dùng sức và thả lỏng, đảm bảo cho cơ bắp được hoạt động với hiệu suất cao nhất. Cần chạy nhẹ nhàng, thả lỏng, không có các động tác thừa. Do chạy cự li 60 - 80m ngắn hơn nên đoạn chạy giữa quãng ở các cự li đó phải rút ngắn tương ứng. Cần sớm vào giai đoạn rút về đích, tránh tình trạng sau khi qua đích vẫn còn sung sức trong khi thành tích chạy lại kém. - Giai đoạn chạy giữa quãng quyết định đến thành tích chạy. Giai đoạn chạy giữa quãng chiếm quãng đường dài nhất, kĩ thuật chạy giữa quãng ổn định nhất, cho phép người chạy phát huy tốt nhất tốc độ của mình để đạt thành tích cao. - Kĩ thuật chạy đường vòng khác chạy đường thẳng ở những điểm: Kĩ thuật chạy ở đường vòng Chạy ở đường vòng người chạy luôn bị lực li tâm F tác động. Mà F = mv2/r; Trong đó m là khối lượng cơ thể người chạy; v là tốc độ chạy; r là bán kính đường vòng. Lực li tâm luôn luôn kéo người chạy ra xa ô chạy phía trong (bên trái). Nếu không có cách khắc phục hiệu quả, người chạy sẽ không tiếp tục chạy được trong ô của mình hoặc phải chạy với cự li dài hơn quy định dẫn đến bị thiệt thòi về thành tích. Khi chạy ở đường vòng, toàn bộ cơ thể phải ngả vào phía trong (bên trái). Cần thay đổi độ ngả phù hợp với sự tăng hoặc giảm lực li tâm để không chạy mất bình thường. Khi chạy ở đường vòng chân và tay phải làm việc tích cực hơn so với chân và tay trái. Chân phải đạp sau tích cực hơn và khi đưa lăng về trước đùi hướng vào trong. Tay phải đánh mạnh hơn, với biên độ lớn hơn. Khi đánh về sau hơi mở rộng. Tay trái đánh với biên độ hẹp hơn so với tay phải. Khi đặt chân, cả chân phải và chân trái đều cố đặt sát vạch phía trong ô chạy mũi chân hơi chếch vào trong. Nếu khi chạy từ đường thẳng vào đường vòng - độ ngả của thân trên tăng dần, thì khi chạy từ đường vòng ra đường thẳng, độ ngả đó giảm dần (Hình 11).