Giáo trình Nghiên cứu sự hiện diện của nhóm phthalates trong vùng hạ lưu lưu vực Sài Gòn-Đồng Nai Hoàng Thị Thanh Thủ
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Nghiên cứu sự hiện diện của nhóm phthalates trong vùng hạ lưu lưu vực Sài Gòn-Đồng Nai Hoàng Thị Thanh Thủ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_nghien_cuu_su_hien_dien_cua_nhom_phthalates_trong.pdf
Nội dung text: Giáo trình Nghiên cứu sự hiện diện của nhóm phthalates trong vùng hạ lưu lưu vực Sài Gòn-Đồng Nai Hoàng Thị Thanh Thủ
- Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 217-223 Nghiên cứu sự hiện diện của nhóm phthalates trong vùng hạ lưu lưu vực Sài Gòn - Đồng Nai Hoàng Thị Thanh Thủy*, Cấn Thu Văn, Nguyễn Đinh Tuấn Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh, 236B Lê Văn Sỹ, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh Nhận ngày 08 tháng 8 năm 2016 Chỉnh sửa ngày 26 tháng 8 năm 2016; Chấp nhận đăng ngày 16 tháng 12 năm 2016 Tóm tắt: Hiện nay, các sản phẩm nhựa ngày càng phổ biến và được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực của đời sống cũng như công nghiệp. Trong quá trình sản xuất nhựa, vai trò của các phthalate là rất quan trọng bởi chúng là các chất phụ gia làm tăng độ dẻo và bền cho các sản phẩm nhựa, đặc biệt là PVC. Một vài phthalate cũng được sử dụng như các dung môi hòa tan. Có đến hàng trăm sản phẩm có phthalate ví dụ như gạch nhựa, keo dán, chất tẩy rửa, dầu bôi trơn, nội thất ô tô, quần áo mưa và hóa mỹ phẩm (xà phòng, dầu gội, keo xịt tóc và sơn móng tay). Tuy nhiên, phthalate cũng đồng thời là các hợp chất gây rối loạn nội tiết. Sự có mặt của các phthalate, cụ thể là di 2-ethylhexyl phthalate (DEHP) có thể gây ảnh hưởng đến các hoc-môn sinh dục ở cơ thể người, đặc biệt là nam giới. Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy DEHP gây rối loạn sinh lý biến đổi giới tính ở bé trai và gây dậy thì sớm ở các bé gái. Chính vì lý do này, DEHP nói riêng và phthalate nói chung đã và đang được các nhà khoa học quan tâm. Bài báo trình bày các kết quả nghiên cứu bước đầu về sự hiện diện của nhóm chất ô nhiễm nói trên trong vùng hạ lưu lưu vực Sài Gòn - Đồng Nai. Kết quả phân tích đã cho thấy nhóm chất gây rối loạn nội tiết phthalates có tần suất phát hiện cũng khá cao, đặc biệt trong pha rắn (trầm tích). Do đó, rất cần có các nghiên cứu chi tiết hơn về sự tồn lưu của nhóm chất ô nhiễm này trong môi trường và các rủi ro sinh thái có thể xảy ra. Từ khóa: Chất gây rối loạn nội tiết, phthalate, lưu vực sông, nước mặt, trầm tích. 1. Mở đầu * không gắn kết với các chất dẻo và sản phẩm nên có thể phân tách từ các sản phẩm do nhiệt, Khi được sử dụng như các chất phụ gia trong phản ứng với chất lỏng và chất béo, các chất công nghiệp, các phthalate (PE) không liên kết xúc tác. Sự phân tách này có thể xảy ra trong hóa học với các nguyên liệu nên có thể di suốt vòng đời của sản phẩm từ các giai đoạn chuyển từ các sản phẩm vào môi trường trong sản xuất, sử dụng và chôn lấp. Ngoài ra các PE quá trình sử dụng và chôn lấp [1]. Các nghiên cũng là thành phần của nhiều sản phẩm khác cứu đã cho thấy có đến 95 % - 99,9 % các PE như keo dán, chất tẩy rửa, dầu bôi trơn và hóa mỹ phẩm. Do đó, các PE có mặt trong nhiều ___ loại nguồn thải bao gồm hoạt động công * Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-983029127 nghiệp, bãi chôn lấp của các sản phẩm và chất Email: httthuy@hcmunre.edu.vn 217
- 218 H.T.T. Thủy và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 217-223 thải công nghiệp, bãi chôn lấp chất thải đô thị, 100 doanh nghiệp thuộc các khu công nghiệp quá trình sử dụng bùn lắng từ trạm xử lý nước trên địa bàn TP. HCM, tỉnh Đồng Nai và tỉnh thải làm phân bón và các sản phẩm khác có Bình Dương. chứa các PE. Sự hiện diện của các PE trong môi trường không khí, đất, nước mặt và trầm tích 2.2. Khảo sát đánh giá sự hiện diện của các PE sông, và sinh vật do kết quả của việc sản xuất, trong vùng hạ lưu lưu vực Sài Gòn - Đồng Nai sử dụng và chôn lấp các sản phẩm có PE đã 2.2.1. Vị trí lấy mẫu được xác nhận qua nhiều nghiên cứu [2, 3]. Các vị trí lấy mẫu được lựa chọn đặc trưng Nước thải là nguồn ô nhiễm chủ yếu của nhóm cho nguồn tiếp nhận là vùng hạ lưu lưu vực Sài các PE trong môi trường. Các PE thường hiện Gòn - Đồng Nai. Các vị trí được lựa chọn là các diện trong nước rỉ rác [4, 5], nước thải trước vị trí lấy mẫu đặc trưng cho nguồn cấp nước và sau xử lý của các trạm xử lý nước thải, bùn hoặc tiếp nhận nhiều loại nguồn thải. Mẫu được thải [6, 7]. lấy theo hai thời điểm (năm 2012 và 2013). Ở Hiện nay, trong danh sách “Thống kê phát mỗi vị trí đã tiến hành thu thập cả hai loại mẫu thải” của Cục Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA’s (nước mặt và trầm tích). Toxics Release Inventory (TRI.list)) đã có các 2.2.2. Phương pháp lấy mẫu và bảo quản mẫu dữ liệu của hai PE là DBP và DEHP. Các dữ Mẫu nước được lấy trong phạm vi cách bờ liệu liên quan cho thấy hai PE này có khả năng khoảng 2 - 3 m. Đối với mẫu trầm tích sử dụng hiện diện trong tất cả các hợp phần môi khoan tay bằng thép. Độ sâu lấy mẫu tối đa là trường. Dữ liệu năm 2007 đã cho thấy tải 40 cm. Các chỉ tiêu dễ thay đổi theo thời gian lượng phát thải của DBP và DEHP là 152 tấn (pH, DO, nhiệt độ) được đo tại hiện trường từ 134 nguồn phát thải trực tiếp và 557 tấn từ bằng máy đo đa thông số HQ40D (Hatch, Mỹ). 251 nguồn thải gián tiếp. Các số liệu này cũng Mẫu phân tích các chỉ tiêu hóa lí khác được lưu chỉ ra rằng tải lượng phát thải của các PE đối trong bình nhựa dung tích 2 L và gửi phân tích. với các hợp phần môi trường có thể được sắp Đối với các mẫu phân tích nồng độ PE được lưu xếp theo thứ tự giảm dần như sau: đất, không trong chai thủy tinh sẫm màu dung tích 4 L và khí và nước mặt [8]. Các PE trong khí quyển được bổ sung Sodium azide (NaN3) với liều sau khi được giải phóng có thể bị hấp thu bởi lượng 0,5 g NaN3/L nước mẫu nhằm hạn chế các vật thể rắn và di chuyển một khoảng cách quá trình phân hủy sinh học [9, 10]. khá xa. Trong môi trường đất và trầm tích, các 2.2.3. Phương pháp phân tích các PE PE là những chất ô nhiễm bền nên khả năng Các chỉ tiêu phân tích mẫu bao gồm 6 PE là tích lũy sinh học cao. Một số PE là những chất BBP (Benzylbutylphthalate), DBP (Dibutyl gây rối loạn nội tiết và do đó có hại đối với phthalate), DNOP (Di-n-octyl phthalate), quá trình sinh sản. DEHP (Di(2-ethylhexyl) phthalate), DIDP (Diisodecyl phthalate) và DINP (Di-isononyl phthalate). Đơn vị phân tích là Công ty TNHH 2. Phương pháp nghiên cứu MTV Khoa học Công nghệ Hoàn Vũ. Phương pháp phân tích theo phương pháp chuẩn của 2.1. Khảo sát hiện trạng sử dụng các PE tại các Hiệp hội các nhà phân tích (Association of khu công nghiệp Official Analytical Chemists - AOAC 2007.01). Mẫu nước được cho vào ống ly tâm chứa Các thông tin về hiện trạng sử dụng các PE hỗn hợp 0,15 ± 0,03g MgSO4 và 0,05 ± 0,01g trong công nghiệp được tiến hành theo bảng câu bột PSA, trộn đều mẫu và sau đó ly tâm ở tốc hỏi đối với hai loại hình doanh nghiệp có thể sử độ 3.000 vòng/phút trong 3 phút. Dịch chiết dụng PE dưới dạng chất phụ gia trong quá trình được phân tích PE bằng máy sắc ký khí ghép sản xuất là i) sản xuất sản phẩm nhựa và ii) hóa khối phổ GC-MS/MS. mỹ phẩm. Số lượng doanh nghiệp khảo sát là Mẫu trầm tích được thêm vào 10 ml
- H.T.T. Thủy và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 217-223 219 acetonitrile (1% acid acetic) và lắc trong vòng 1 lượng DEHP trong mẫu nước mùa khô 2013 phút. Sau đó, thêm tiếp vào hỗn hợp 4 ± 0,2g (DN-HA1 và DN-HA2: 9-25 µg/L) đã giảm MgSO4 và 1 ± 0,05g CH3COONa, trộn đều mẫu hơn nhiều trong năm 2012 (DN-HA1: 53 µg/L). và ly tâm 3.000 vòng/phút trong 3 phút. Sau khi Nhưng dư lượng DEHP vẫn hiện diện ở mức độ ly tâm, dịch chiết được tiếp tục xử lý như mẫu khá cao và thường xuyên trong mẫu trầm tích nước và tiêm vào máy GC-MS/MS. của vị trí này (1,48 - 2,66 mg/kg). Do đó, có thể Thiết bị sắc ký khí Thermo GC-MS/MS đánh giá rằng tuy dư lượng trong pha nước TSQ 7000 được sử dụng để xác định nồng độ giảm nhưng dư lượng trong trầm tích lại tăng các PE. Các thông số cơ bản của điều kiện vận nên rủi ro của DEHP tại khu vực này vẫn cần hành như sau: (1) Cột: ZB-MR2 30m x 0,32mm được xem xét. Bên cạnh đó, tại vị trí DN- x 0,25 µm; (2) Khí mang: Helium với tốc độ HA1 cũng đã phát hiện dư lượng khá cao của dòng 1,7 ml/phút; (3) Nhiệt độ bộ phận tiêm các PE khác trong cả hai loại mẫu nước mặt mẫu: 300 ºC. và trầm tích: DBP trong mẫu nước 51 µg/L, Giới hạn phát hiện (LOD) đối với các PE BBP và DBP trong mẫu trầm tích lần lượt là theo các chỉ tiêu BBP, DBP, DNOP, DEHP, 0,25 và 0,09 mg/kg và của đợt khảo sát mùa DIDP và DINP bằng phương pháp AOAC mưa năm 2012. Tại vị trí DN-HA2 tuy không 2007.01 là 2 µg/l và 0,01 mg/kg. phát hiện dư lượng trong mẫu nước nhưng đã phát hiện dư lượng của DBP, DEHP, DIDP và DINP khá phổ biến trong trầm tích, đặc biệt 3. Kết quả và thảo luận tại thời điểm mùa khô, tháng 4/2013. Do đó, tại khu vực này rất cần lưu ý về sự hiện diện Các kết quả xử lý thống kê về dư lượng của dư lượng các PE. nhóm các PE trong vùng nghiên cứu được tổng Tại vị trí lân cận trạm bơm của Nhà máy hợp tại Bảng 1. Dư lượng các PE ở vùng hạ lưu nước Biên Hòa cũng phát hiện dư lượng DEHP sông Đồng Nai nhìn chung cao hơn so với sông tại thời điểm khảo sát mùa khô 2013, trong khi Sài Gòn. đó cũng tại vị trí này trong đợt khảo sát mùa mưa 2012 đã không phát hiện dư lượng DEHP. 3.1. Sông Đồng Nai Bên cạnh đó, vị trí này cũng là vị trí duy nhất đã phát hiện dư lượng DINP duy nhất trong Trong các mẫu nước của vùng hạ lưu sông tổng số 11 mẫu nước của sông Đồng Nai. Đồng Nai, DEHP có tần suất cao nhất (4/11 vị Tương tự như tại khu vực lân cận Trạm bơm trí) tiếp theo là DBP và DINP (một vị trí duy Hóa An, dư lượng các PE trong trầm tích ở khu nhất) và ba PE khác (BBP, DNOP và DIDP) vực lân cận Nhà máy nước Biên Hòa cũng xuất đều không phát hiện được. Dư lượng của hiện khá phổ biến và hàm lượng thậm chí còn DEHP biến thiên khá lớn, thay đổi từ 9 – 53 cao hơn cả khu vực Trạm bơm Hóa An. Ví dụ µg/L. Nhưng xu thế của nhóm các PE là tích như hàm lượng DEHP tại hai vị trí DN-BH1 và lũy chủ yếu trong pha rắn (trầm tích). Hầu hết DN-BH2 đã lên tới 135 và 102 mg/kg. Tuy tất cả các mẫu trầm tích đều phát hiện dư nhiên, tại đợt khảo sát tháng 8/2013, nồng độ lượng của DEHP (8/11 mẫu) và DINP (7/11 DEHP ở vị trí DN-HB2 đã giảm xuống chỉ còn mẫu) (Bảng 3). DIDP và DBP có cùng tần suất 0,7 mg/kg. xuất hiện là 4/11 mẫu. BBP chỉ xuất hiện tại Tại khu vực phà Cát Lái, xu thế tích lũy một vị trí duy nhất. trong pha rắn của các PE cũng được thể hiện Tại khu vực lân cận trạm bơm Hóa An đã rõ khi chỉ phát hiện dư lượng DEHP và DINP tiến hành khảo sát tại hai vị trí DN-HA1 và trong mẫu trầm tích (2,18 và 0,22 mg/kg) còn DH-HA2. Dư lượng DEHP đã phát hiện được các mẫu nước thì nồng độ các PE đều nhỏ trong cả hai đợt khảo sát 2012 và 2013 (3/4 hơn LOD. mẫu). Tuy nhiên, một điểm cần lưu ý là dư
- 220 H.T.T. Thủy và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 217-223 3.2. Sông Sài Gòn nhiên, trong mẫu trầm tích, tần suất xuất hiện của các PE thường xuyên hơn. DEHP vẫn được Trong các mẫu nước của sông Sài Gòn chỉ phát hiện nhiều nhất (7/12 mẫu), tiếp theo là phát hiện được DEHP ở một vị trí duy nhất ở hạ DINP (3/12 mẫu) (Bảng 1). BBP và DIDP chỉ lưu cầu An Hạ vào thời điểm tháng 4/2013. phát hiện được duy nhất tại một vị trí và tương Ngoài ra năm PE khác đều không phát hiện tự như sông Đồng Nai, DNOP không phát hiện được (BBP, DBP, DNOP, DIDP và DINP). Tuy được trong số tất cả 12 mẫu phân tích. Bảng 1. Kết quả nghiên cứu dư lượng các PE tại vùng hạ lưu lưu vực Sài Gòn - Đồng Nai Mẫu nước (µg/l) Mẫu bùn (mg/kg) BBP DBP DNOP DEHP DIDP DINP BBP DBP DNOP DEHP DIDP DINP Khu vực nghiên cứu max 51 53 0 2,2 0,28 0,19 135 1,0 3,2 min 9 0 0,25 0,04 0,26 0,08 0,05 TB 27 0,27 0,13 17 0,54 0,71 Độ lệch chuẩn 17 0,02 0,07 41 0,43 1,1 Tần suất xuất hiện (mẫu) 0 1 0 5 0 1 2 4 0 15 5 10 Tần suất xuất hiện (%) - 4 22 - 4 9 17 - 65 22 43 Sông Đồng Nai max 51 53 2,2 0,25 0,19 135 1,01 3,21 min 9 0,04 0,7 0,08 0,14 TB 25 0,13 31 0,63 0,96 Độ lệch chuẩn 20 0,07 55 0,44 1,24 Tần suất xuất hiện (mẫu) 0 1 0 4 0 1 1 4 0 8 4 7 Tần suất xuất hiện (%) - 9 - 17 - 9 9 36 - 72 36 63 Sông Sài Gòn max 33 0,28 2,0 0,20 0,20 min 0,26 0,20 0,05 TB 0,73 0,20 0,12 Độ lệch chuẩn 0,64 0,08 Tần suất xuất hiện (mẫu) 0 0 0 1 0 0 1 0 0 7 1 3 Tần suất xuất hiện (%) - - - 8 - - 8 - - 58 8 25 Ghi chú: Các giá trị thống kê chỉ tính trên các mẫu có nồng độ > LOD; max; giá trị lớn nhất, min: giá trị nhỏ nhất, TB: giá trị trung bình số học.
- H.T.T. Thủy và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 217-223 221 Tại khu vực lân cận trạm bơm Hòa Phú chỉ Tương tự, tại khu vực Bình Khánh cũng đã phát hiện được dư lượng của BBP, DEHP và phát hiện được dư lượng của DEHP và DINP DIDP trong mẫu trầm tích của đợt khảo sát tại thời điểm khảo sát tháng 11/2013 nhưng tháng 10/2012. Ở đợt khảo sát tháng 4/2013 thì nồng độ thấp hơn so với khu vực Thủ Thiêm dư lượng DEHP đã giảm và < LOD. (DEHP: 0,26 mg/kg và DINP: 0,05 mg/kg). Tương tự, tại khu vực Bến đò Bình Mỹ cũng Tại thời điểm mùa khô (tháng 4/2013) thì dư chỉ phát hiện dư lượng DEHP trong mẫu trầm lượng của các PE này đều nhỏ hơn giới hạn tích của đợt khảo sát tháng 10/2012. Còn trong phát hiện. Đối với mẫu nước thì dư lượng các mẫu nước và mẫu trầm tích của đợt khảo sát PE đều nhỏ hơn giới hạn phát hiện trong cả hai tháng 10/2013 dư lượng của DEHP đều < LOD. đợt khảo sát. Tại khu vực cầu An Hạ các kết quả phân tích 3.3. Thảo luận cho thấy diễn biến khá phức tạp của các PE. Trong các mẫu nước chỉ phát hiện được duy Nhìn chung các PE thường gặp ở khu vực nhất dư lượng của DEHP tại vị trí duy nhất là nghiên cứu bao gồm DEHP và BBP, DBP, hạ lưu cầu An Hạ (SG-AH2: 33 µg/L). Tuy DIDP, DINP. Trong đó, đáng lưu ý DEHP là nhiên, trong các mẫu trầm tích thì sự xuất hiện một chất có thể gây rối loạn nội tiết đã xuất của DEHP khá thường xuyên hơn với 3/4 mẫu hiện khá phổ biến trong trầm tích. Độ lệch phân tích. Dư lượng DEHP thay đổi từ 0,31 – chuẩn cũng cao hơn hẳn giá trị trung bình của 2,02 mg/kg. Tại chân cầu An Hạ chỉ phát hiện DEHP cho thấy có sự biến thiên khá lớn giữa được dư lượng DEHP tại thời điểm tháng các vị trí khảo sát. Điều này cũng thể hiện tác 10/2012, sang đến tháng 4 năm 2013 thì tại vị động của các nguồn thải nhân sinh đối với các trí này dư lượng DEHP< LOD. Tuy nhiên, ở hai nồng độ tự nhiên của lưu vực. Còn các PE khác vị trí thượng lưu và hạ lưu của cầu An Hạ đều thể hiện mức dư lượng và độ lệch chuẩn khá xác định được dư lượng DEHP (SG-AH2: 0,31 thấp, và có thể chủ yếu là giá trị nền. mg/kg và SG-AH3: 0,38 mg/kg). Điều này cho thấy sự hiện diện của các PE nói chung và Sự biến thiên theo thời gian của các PE cũng DEHP nói riêng trong các mẫu môi trường rất không rõ rệt giữa hai thời điểm lấy mẫu. Ngay khó xác định và phụ thuộc rất nhiều vào các cả tại vị trí lân cận Nhà máy nước Biên Hòa, yếu tố khách quan (lấy mẫu, bảo quản mẫu, nơi đã phát hiện dư lượng DEHP rất cao trong phân tích, v.v). Bên cạnh DEHP, thời điểm trầm tích cũng chỉ mang tính chất thời điểm. tháng 10/2012 tại vị trí cầu An Hạ là vị trí duy Theo chiều dòng chảy từ thượng lưu đến hạ nhất đã phát hiện được dư lượng DINP. Dư lưu của cả hai sông Sài Gòn và Đồng Nai đều lượng các PE khác đều nhỏ hơn giới hạn phát không thể hiện xu thế rõ rệt. Nguyên nhân có hiện trong cả hai đợt khảo sát. Do tần suất xuất thể do đây là một nghiên cứu bước đầu, nên số hiện khá phổ biến của DEHP tại khu vực cầu lượng vị trí lấy mẫu và độ lặp còn thấp. An Hạ nên có thể khẳng định sự hiện diện của Mặc dù số lượng vị trí khảo sát và tần suất chất ô nhiễm này. lấy mẫu còn hạn chế nhưng kết quả nghiên cứu Tại khu vực Thủ Thiêm, cũng đã phát hiện của đề tài cũng đã bước đầu cho thấy có sự hiện được dư lượng của DEHP (0,74 mg/kg) và diện của các PE tại vùng hạ lưu lưu vực Sài DINP (0,12 mg/kg) trong mẫu trầm tích tại Gòn - Đồng Nai. Nguồn thải chủ yếu của các thời điểm khảo sát tháng 11/2013. Tuy nhiên, PE ở khu vực nghiên cứu có thể bao gồm nước tại thời điểm mùa khô (tháng 4/2013) thì dư thải có dư lượng các PE tồn lưu trong suốt vòng lượng của các PE này đều nhỏ hơn giới hạn đời của các sản phẩm PVC hoặc các sản phẩm phát hiện. Đối với mẫu nước thì dư lượng các khác như hóa mỹ phẩm, mực in, PE đều nhỏ hơn giới hạn phát hiện trong cả hai Với một ngoại lệ là dư lượng DNOP rất thấp đợt khảo sát. và nhỏ hơn LOD trong tất cả các mẫu phân tích,
- 222 H.T.T. Thủy và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 217-223 các PE khác (BBP, DBP, DEHP, DIDP và định kỳ để có thể xác định chính xác sự hiện DINP) đều thể hiện xu thế tích lũy trong trầm diện của nhóm chất ô nhiễm này. tích. Nguyên nhân là do bên cạnh hệ số tan thấp thì các PE có hệ số Kow cao nên một lần nữa thể hiện tính chất kỵ nước và có xu thế tích lũy 4. Kết luận trong pha rắn (sinh vật, trầm tích) cao hơn trong pha lỏng. Hệ số Kow tăng cùng với chiều dài Lần đầu tiên, các nghiên cứu liên quan đến của chuỗi alkyl và do đó các PE có trọng lượng chất ô nhiễm gây rối loạn nội tiết DEHP và các phân tử lớn (DEHP, DIDP, DINP) sẽ ít tan hơn PE đã được triển khai. Với số lượng mẫu còn và do đó dư lượng của các PE này đều cao hơn hạn chế nên kết quả nghiên cứu của đề tài chỉ là các PE có trọng lượng phân tử thấp (BBP, những khảo sát sơ bộ ban đầu để khẳng định sự DBP). Mặt khác, quá trình phân hủy sinh học tồn lưu của các chất ô nhiễm PE tại khu vực hạ có thể là quá trình phân hủy chủ yếu và đã làm lưu lưu vực Sài Gòn - Đồng Nai. Tuy nhiên, từ giảm dư lượng của các PE trong môi trường các kết quả của đề tài cũng đã cho thấy trong nước [11]. Các nghiên cứu của hai nhóm tác tả thời gian tới cần có các nghiên cứu chi tiết và Cartwright và Yuan đã cho thấy các PE với đầy đủ hơn về sự tồn lưu của các PE trong các trọng lượng phân tử thấp như BBP, DBP đều hợp phần môi trường (không khí - đất - nước phân hủy khá nhanh trong đất và trầm tích hiếu mặt/trầm tích - sinh vật) để có thể có các kết khí và do đó là các chất ô nhiễm kém bền – có luận chính xác về nguồn gốc, sự chuyển hóa và thể tính chất này cũng tương tự như trong môi tác động tiêu cực có thể có của nhóm chất ô trường nước [12, 13]. Có lẽ chính vì vậy, dư nhiễm này. lượng của các PE này khá thấp trong trầm tích. Đặc biệt nghiêm trọng, DEHP – một các PE Lời cảm ơn cần quan tâm nhiều nhất do đã được xếp vào danh sách các chất có thể gây rối loạn nội tiết – Bài báo hoàn thành dựa trên kết quả của đề đã được phát hiện có dư lượng và tần suất xuất tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ hiện cao nhất tại khu vực nghiên cứu. Nguyên cấp Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhân có thể do chất phụ gia này được sử dụng TNMT.04.30, đơn vị chủ trì: Trường Đại học rộng rãi trong công nghiệp. Đồng thời các sản Tài nguyên và Môi trường TP.HCM, chủ nhiệm phẩm có chứa DEHP cũng đang được sử dụng đề tài: PGS.TS. Nguyễn Đinh Tuấn, thời gian thường xuyên cũng có thể là nguyên nhân dẫn thực hiện 2012-2014. đến sự phân tách các DEHP từ sản phẩm và hiện diện trong nước thải sinh hoạt và từ đó di chuyển đến lưu vực Sài Gòn - Đồng Nai. Bên Tài liệu tham khảo cạnh đó, do có hệ số tan rất thấp, có tính kị nước nên trầm tích là môi trường tích lũy của [1] Cadogan D. F., Papez M., Poppe A. C., Pugh D. DEHP và chất ô nhiễm này có thể tồn lưu trong M. and Scheubel J. - An assessment of the trầm tích một thời gian dài. release, occurrence and possible effects of plasticizers in the environment. Prog. Rubber. Tóm lại, dư lượng của nhóm chất các PE ở Plastics Technol. 10 (1993) 1-19. dạng hòa tan trong nước tại vùng hạ lưu lưu vực [2] Wensing M., Uhde E. and Salthammer T. - Sài Gòn - Đồng Nai còn khá thấp. Nhưng các Plastics additives in the indoor environment - PE này chủ yếu tích lũy trong trầm tích của flame retardants and plasticizers. Sci. Total. sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Do PE là các Environ. 339(1-3) (2005) 19 - 40. chất có thể gây rối loạn nội tiết nên sự hiện diện [3] Mackintosh C.E., Maldonado J., Hongwu J., Hoover N., Chong A., Ikonomou M.G. and Gobas của dư lượng các chất này trong vùng hạ lưu F.A.P.C. - Distribution of phthalate esters in a lưu vực Sài Gòn - Đồng Nai cần được quan trắc marine aquatic food web: comparison to
- H.T.T. Thủy và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 217-223 223 polychlorinated biphenyls. Environ. Sci. Technol. Data Release, Released March 14, 2009. 38 (2004) 2011-2020. [4] Schwarzbauer J., Heim. S, Brinker S. and Littke [9] Land & Water Autralia. Endocrine Disrupting R. - Occurrence and alteration of organic Chemicals in the Australian Riverine contaminants in seepage and leakage water from a Environment. waste deposit landfill. Water Res. 36 (2002) 2275-2287. 403/pr071403.pdf. [5] Zheng Z., He P-J, Shao L-M and Lee D-J - [10] Fromme H., Küchler T., Otto T. , Pilz K., Müller J. Phthalic acid esters in dissolved fractions of , Wenzel A. - Occurrence of phthalates and landfill leachates. Water Res. 41 (2007) 4696 bisphenol A and F in the environment. Water Res. - 4702. 36 (2002) 1429 -1438. [6] Marttinen S. K., Kettunen R. H., Sormunen K. M. [11] Staples C.A. (editor) - The handbook of and Rintala J. A. - Removal of bis(2-ethylhexyl) environmental chemistry. Phthalate esters, phthalate at a sewage treatment plant. Water Res. Springer, Berlin, (2003) pp. 85 - 124. 37 (2003) 1385 - 1393 [12] Cartwright C. D., Thompson I. P. and Burns R. G. [7] Roslev P., Vorkamp K., Aarup J., Frederiksen K. - Degradation and impact of phthalate plasticizers and Nielsen P. H. - Degradation of phthalate on soil microbial communities. Environ. Toxicol. esters in an activated sludge wastewater treatment Chem. 19 (2002) 1253-1261. plant. Water Res. 41 (2007) 969 - 976 [13] Yuan S. Y., Liu C., Liao C. S. and Chang B. V. - [8] EPA. 2009. U.S. Environmental Protection Occurrence and microbial degradation of Agency. Toxics Release Inventory (TRI) phthalate esters in Taiwan river sediments. Program: Get TRI Data and Tools. 2007 Public Chemosphere 49 (10) (2002) 1295-1299. Study on The Occurrence of Phlathates in Downstream Area of Sai Gon - Dong Nai River Basin Hoang Thi Thanh Thuy, Can Thu Van, Nguyen Dinh Tuan Ho Chi Minh City University of Natural Resources and Environment, 236B Le Van Sy, Ward 1, Tan Binh Dist. Ho Chi Minh City Abstract: Phthalates are a group of chemicals used as plasticizers, which provide flexibility and durability to plastics such as polyvinyl chloride (PVC). Some phthalates are used as solvents (dissolving agents) for other materials. They are used in hundreds of products, such as vinyl flooring, adhesives, detergents, lubricating oils, automotive plastics, plastic clothes (rain coat), and personal- care products (soap, shampoo, hair spray, and nail polish). However, phthalates are synthetic endocrine-disrupting chemicals. Previous studies have linked prenatal exposure to phthalates (DEHP) to male reproductive system abnormalities, sexual developments of boys and girls. The paper reported the primarily study on the occurrence of phthalates in the of Saigon - Dongnai river basin. The analytical results have showed the residues of those contaminants in aquatic system. Phthalates were detected both in water and sediment. Thus, a more detailed study is necessary to identify the occurrence and fate as well as ecological risks of those contaminants in aquatic system. Keywords: Endocrine disruptor, phthalate, river basin, water, sediment.