Giáo trình Phiên dịch học văn hóa-Trường hợp cải biên văn học phương tây ở nam bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Phiên dịch học văn hóa-Trường hợp cải biên văn học phương tây ở nam bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_phien_dich_hoc_van_hoa_truong_hop_cai_bien_van_ho.pdf
Nội dung text: Giáo trình Phiên dịch học văn hóa-Trường hợp cải biên văn học phương tây ở nam bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
- Khoa học Xã hội & Nhân văn 23 PHIÊN DỊCH HỌC VĂN HÓA – TRƯỜNG HỢP CẢI BIÊN VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX CULTURAL TRANSLATION - LITERARY ADAPTATION OF WESTERN LITERATURE IN SOUTHERN VIET NAM AT THE END OF 19th CENTURY AND THE BEGINNING OF 20th CENTURY Phạm Thị Tố Thy1 Tóm tắt Abstract Xuất phát từ lý thuyết phiên dịch học văn hóa, From the theory of cultural translation, the paper bài viết xác định thuật ngữ cũng như vị trí, vai trò deals with the definition of “literary adaption” and its role in the literature translation. Based on của “cải biên văn học” trong hoạt động dịch thuật that, the research paper introduce the translation văn học. Trên cơ sở đó, bài viết giới thiệu một số works of Western literature in Southern Viet Nam công trình chuyển ngữ từ các tác phẩm văn học from the end of 19th century to 1945s so as to find phương Tây được thực hiện vào giai đoạn cuối thế out the roles of the literary adaption in the process kỉ XIX đến năm 1945 tại Nam Bộ nhằm tìm hiểu of literary translation in Southern Viet Nam as vai trò của hoạt động cải biên trong tiến trình văn well as the process of the literary modernization in Viet Nam. The paper also expects to definite học dịch ở Nam Bộ nói riêng, tiến trình hiện đại some characteristics of the literary translation in hóa nền văn học dân tộc nói chung. Bài viết cũng the beginning of the Nam Bo Quoc ngu literature. hướng tới xác định một số đặc điểm của hoạt động Keywords: literary adaption, Nam Bo Quoc ngu dịch văn học ở nước ta thời kì đầu nền văn học literature, cultural translation, Western literature quốc ngữ. translation. Từ khóa: Cải biên văn học, văn học Quốc ngữ Nam Bộ, phiên dịch học văn hóa, dịch văn học phương Tây. 1. Mở đầu1 dựng nên một nền văn học Quốc ngữ Nam Bộ Văn học Quốc ngữ Nam Bộ được hình thành “mang trong nó nội dung hiện đại hóa với sắc thái từ nửa cuối thế kỉ XIX, có nhiều đóng góp quan độc đáo như của một phong trào canh tân văn hóa” trọng cho nền văn học dân tộc. Trong tiến trình (Cao Tự Thanh 2009 ). Trên cơ sở vận dụng lý văn học sử Việt Nam, nền văn học Quốc ngữ thuyết phiên dich học văn hóa, bài viết bước đầu Nam Bộ không chỉ dừng lại ở vai trò tiên phong, tìm hiểu thuật ngữ dịch – cải biên và những nội mở đường cho quá trình hiện đại hóa văn học, hàm liên quan trong các công trình nghiên cứu mà trước hết đây là nguồn tư liệu vô giá lưu dịch thuật, từ đó tìm hiểu hiện tượng phóng tác, giữ tiếng nói, ngôn ngữ của con người Nam Bộ; cải biên văn học phương Tây trong nền văn học cung cấp những thông tin quý báu về đời sống, quốc ngữ Nam Bộ qua việc khảo sát hoạt động xã hội, phong tục tập quán, tính cách của con dịch thuật, cải biên của hai nhà văn: 1). Trương người Nam Bộ. (Lê Giang 2011, tr. 2) Minh Ký với những công trình cải biên văn học phương Tây đầu tiên; 2). Hồ Biểu Chánh – Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của người cải biên nhiều tác phẩm văn học phương dân tộc, văn học Quốc ngữ Nam Bộ đóng vai Tây nhất ở Nam Bộ tính đến năm 1945. Bài viết trò chuyển tiếp giữa hệ văn hóa truyền thống cũng góp phần xác định một số đặc điểm của và hiện đại, giữa những giá trị nội sinh và ngoại hoạt động dịch văn học ở nước ta thời kì đầu nền sinh với những bước đi rất cân nhắc, từ việc văn học quốc ngữ. làm quen với văn hóa ngoại lai qua các công trình dịch thuật, sau đến Việt hóa các tác phẩm 2. Nội dung phương Tây qua các công trình cải biên và cuối 2.1. Xác định thuật ngữ “cải biên văn học” cùng là những sáng tác văn học thực thụ tạo Nghiên cứu dịch thuật được xem là một bộ 1 Thạc sĩ, Khoa Ngôn ngữ-Văn hóa-Nghệ thuật Khmer Nam Bộ, môn học thuật khá mới, giảng dạy và nghiên cứu Trường Đại học Trà Vinh Số 20, tháng 12/2015 23
- 24 Khoa học Xã hội & Nhân văn về các lí thuyết và hiện tượng dịch thuật. Các lí hoạt động mang tính tái sáng tạo có sự chủ động thuyết dịch thuật vốn đã được manh nha từ rất của dịch giả, và do vậy, trong quá trình giao lưu sớm ở cả phương Tây lẫn phương Đông, nhưng đa chiều với nguyên tác và với độc giả, trong đó mãi đến nửa sau thế kỉ XX mới xuất hiện các người tiếp nhận là mục đích cuối cùng của dịch công trình mang tính tổng hợp các khái niệm và thuật, dịch giả có thể “đột phá mô hình phiên lí thuyết thuộc lĩnh vực này. Tuy nhiên, hầu như dịch truyền thống”, thay đổi, cải biên cho phù trong những công trình lí thuyết dịch thuật được hợp với “khuynh hướng tiếp nhận và tầm đón xuất bản sớm nhất của thế kỉ XX, trọng điểm nhận thẩm mĩ của người đọc.” nghiên cứu dịch thuật vẫn xoay quanh ý niệm Cũng xuất phát từ lý thuyết văn hóa so sánh, “dịch thế nào” và tìm kiếm các tiêu chí dịch sao khi bàn “Về vấn đề các quan hệ văn học”, cho trung thành nhất với nguyên tác. Nói cách Konrat đã phân loại các cấp độ tiếp nhận văn khác, buổi đầu của lí thuyết dịch thuật chủ yếu học ngoại lai, trong đó dịch thuật được nhắc đến xuất phát từ lập trường ngôn ngữ. Từ góc độ như một trong những hình thức xâm nhập hữu ngữ học, dịch thuật, hiểu một cách chặt chẽ là hiệu của một nền văn học vào thế giới của một việc chuyển một văn bản từ ngôn ngữ này sang nền văn học khác, và ông khẳng định quy mô ngôn ngữ khác, sao cho “trung thành” với thông tác động của hình thức thâm nhập này “hết sức điệp gốc. Và do vậy, bất kì sự sai lệch nào xét về to lớn” so với việc tiếp xúc thẳng văn hóa ngoại câu chữ, cú pháp hay nội dung giữa bản dịch và lai trong dạng nguyên tác. Xét từ các hình thức bản gốc, người ta sẽ quy kết mọi điều không hay quan hệ văn học, Konrat không chỉ dừng lại ở cho dịch giả, “dịch là phản” – một đúc kết có từ dịch thuật với ý nghĩa là hoạt động chuyển ngữ, rất lâu của ngạn ngữ Ý. Từ những năm 70 của trung thành với nội dung bản gốc mà do sự chi thế kỉ XX, nghiên cứu dịch thuật chuyển sang phối từ những cách lĩnh hội nguyên tác khác một trang mới với sự xuất hiện của trường phái nhau, do “yêu cầu của thời đại” nên “quan hệ văn hóa, nghiên cứu dịch thuật từ các phương văn học” còn được hình thành bởi những hành diện văn hóa, “những nghiên cứu này đã chuyển động khác – những kiểu dịch sáng tạo. Đó có từ nghiên cứu dịch thuật với tư cách là hoạt thể là sự phóng họa lại những nội dung, những động chuyển ngữ sang nghiên cứu bối cảnh văn đề tài từ nguyên tác; hay xuất phát từ sự thích hóa xuất hiện hành vi dịch thuật và nghiên cứu nghi với bạn đọc, quan hệ văn học được thiết lập những nhân tố tương quan khác khống chế dịch trên hình thức “thích nghi dân tộc”, tức là cải thuật.” (Đỗ Văn Hiểu 2012). Chính khi nghiên biên cốt truyện của nguyên tác, thay thế những cứu văn bản dịch trong bối cảnh văn hóa, đặt chất liệu trong bản gốc bằng những chất liệu, trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ đa chiều giữa những yếu tố phù hợp với quan niệm và thị hiếu tác giả - nguyên tác – dịch giả – bản dịch – của phía tiếp nhận. Ngoài ra, còn có các kiểu độc giả, trong đó dịch giả đóng vai trò “song phóng họa thể loại hay vay mượn một số mô típ, trùng thân phận”, lý thuyết dịch đã mở rộng hơn đề tài, chi tiết của nguyên tác. Như vậy, quan cái phạm vi chuyển ngữ trực tiếp, chỉ chú trọng niệm về các hình thức thiết lập nên các quan hệ vào sự trung thành, sự tương đương. Trong bài văn học của Konrat giúp hình dung về một hành luận Dịch thể loại (Translating Genre), Susan động mang tính sáng tạo tiếp nối công việc dịch Bassnett đã khẳng định rằng: “Khi văn bản đang thuật – “cải biên” những sáng tác văn chương dịch không có được cái hình thức tương đương của các nền văn học khác nhau trên thế giới. trong nền văn học đích, ấy là lúc dịch giả có thể Điểm đáng chú ý ở đây là, sự cải biên này được kiến tạo một hình thức hoặc một thể loại hoàn thực hiện “theo một dạng thể thích nghi với bạn toàn mới cho nền văn học đó, hoặc phá tung văn đọc”, và do vậy được gọi là sự “thích nghi dân bản gốc để cho nó phù hợp với tầm đón nhận tộc” (Konrat 1997, tr. 275). của độc giả đích.”2. Theo đó, dịch thuật còn là Nữ học giả Corinne Lhermitte, trong bài 2 Trích từ Chương II - “Genre in Adaptation and Translation” trong báo “Adaptation as Rewritting: Evolution of a Garin Dowd, Lesley Stevenson và Jeremy Strong (biên tập). 2006. Concept” (Cải biên như sự viết lại: Sự tiến hóa Genre Matters - Essays in Theory and Criticism. The University of Chicago Press. 178 trang của một khái niệm) xuất bản trên Reveu Lisa/ Số 20, tháng 12/2015 24
- Khoa học Xã hội & Nhân văn 25 Lisa-e-journal năm 2004, cũng xuất phát từ ngờ” (nguyên văn “suddenly”), cải biên trong phương diện so sánh – lịch sử, đã trình bày chi thời kì Khai Sáng được nhìn nhận gắn liền với tiết cách hiểu thuật ngữ “adaptation” trong các khái niệm “đạo văn” (plagiarism), và vì thế sự trường hợp khác nhau theo trục niên biểu, đồng sáng tạo, “sự phát triển nghệ thuật được đặt thời mở rộng lý thuyết thể loại của M. Bakhtin dưới lớp kính hiển vi của luật pháp”. Như nữ trong việc nghiên cứu sự tiến hóa của cải biên học giả đã nói rõ trong phần tóm tắt, mục đích văn học với tư cách là một thể loại. Theo bài báo là truy nguyên lịch sử vận động của cải Corinne Lhermitte, xét trên bình diện từ nguyên biên học như là một tiểu thể loại của dịch thuật học, “adaptation” có nguồn gốc từ chữ Latinh trên các bình diện từ nguyên học, văn hóa học “adaptatio” – vốn là “một hình thức đặc thù của và ngôn ngữ học; lần lượt nội dung bài viết đã dịch thuật cho phép sự sáng tạo nhất định, cải trình bày rằng qua các giai đoạn lịch sử, sự tiến biên hàm nghĩa là sự biến đổi, sự điều chỉnh và hóa của tiểu thể loại này vô cùng phức tạp, câu sự chiếm dụng khi được sử dụng đầu tiên vào chuyện chấp nhận và không chấp nhận tính khả thế kỉ XIII”. Do vậy, từ thời Trung cổ, thuật ngữ chuyển ngữ/khả chuyển thể của một nguyên tác “translatio” bao gồm các cách hiểu: dịch thuật, vẫn không có hồi kết thúc. Bài báo cung cấp cải biên và diễn ngôn mang tính phúng dụ hay một quan niệm khá rõ của Corinne Lhermitte ẩn dụ mở rộng. Thông qua sự phân tích, diễn đối với cải biên văn học, theo đó cải biên có một giải quá trình chuyển hóa hai khái niệm cải biên mối quan hệ gần gũi với dịch thuật – “quan hệ và dịch thuật trong các giai đoạn lịch sử khác họ hàng” (kindship), là một “phương thức dịch nhau, từ thời Trung cổ đến thời kì Khai sáng và thuật” đóng vai trò như một giải pháp giúp dịch sang cả giai đoạn giải cấu trúc, nữ học giả đã giả/nhà văn trau dồi tài năng nghệ thuật, góp trình bày những quan điểm trái chiều nhau trong phần làm phong phú nền văn học của các dân cách hiểu thuật ngữ cải biên. Trong suốt chiều tộc. Ý tưởng về việc xem dịch thuật như là sự dài gần năm thế kỉ - từ thời Trung Cổ đến trước viết lại vốn đã được André Lefevere và Susan thời kì Khai Sáng, cải biên được xem là một hoạt Bassnett công bố trong công trình Translation, động dịch thuật năng động, tích cực – “một cố Rewriting, and the Manipulation of Literary gắng tập thể hướng đến tri thức và tiến bộ”, một Fame (1992), trong đó nhóm tác giả đề xuất ý tiểu thể loại của dịch thuật, một sự viết lại cho tưởng nghiên cứu dịch thuật như một hình thức phù hợp với “những chuẩn mực của nền văn hóa viết lại, được chuyển ngữ và được tiếp nhận đích đương thời”, hướng tới mục đích “góp phần trong khung ý thức hệ và chính trị của hệ thống làm giàu có ngôn ngữ và xây dựng một nền văn văn hóa đích. Lefevere cho rằng bất kì văn bản chương bản địa” (Corinne Lhermitte 2004). Đến nào, đặc biệt những văn bản văn chương, khi giai đoạn bùng nổ chuyển thể sân khấu ở thế kỉ được chuyển ngữ đều có chủ ý của người dịch XVII, cải biên thêm nét nghĩa là một hoạt động trong việc “cải biên” văn bản gốc ở một mức độ chuyển thể sáng tạo, “tái sinh” những tác phẩm ý thức hệ hoặc thi pháp của một giai đoạn, một văn học trong hình hài những kịch bản sân khấu, thời đại, hoặc cả hai, đang giữ ảnh hưởng trong kịch bản điện ảnh. Một số học giả, theo dẫn giải ngôn ngữ đích. Có thể thấy rằng bài viết của nữ của Corinne Lhermitte, đã sử dụng những ẩn dụ học giả Corinne Lhermitte đã tiếp tục phát triển liên quan đến “tục ăn thịt người” hay đề xuất ý tưởng này bằng việc định danh và đi sâu tìm ý niệm “những người đẹp không chung thủy” hiểu cụ thể một hình thức viết lại của dịch thuật khi bàn về hoạt động cải biên văn học. Sự so – cải biên văn học. sánh, ẩn dụ này nhằm hướng đến khẳng định cải Một nhà nghiên cứu dịch thuật trẻ, Henry biên trong hoạt động dịch văn học như là “một Whittlese, trong công trình A Typology of giải pháp” của các dịch giả nhằm làm giàu hơn Derivatives: Translation, Transposition, ngôn ngữ bản địa, tô thêm vẻ đẹp cho “văn học Adaptation (Hệ thống các loại hình phát sinh: quê nhà”. Vấn đề Corinne Lhermitte muốn nhấn dịch thuật, chuyển vị, cải biên), đăng trên Tạp mạnh, sau những quan điểm phổ dụng xem cải chí Khoa học Dịch thuật (Translation Journal) biên (adaptation) như một tiểu thể loại của dịch tháng 6/2012, cho rằng trong giai đoạn hậu hiện thuật từ thế kỉ XVIII trở về trước, “một cách bất Số 20, tháng 12/2015 25
- 26 Khoa học Xã hội & Nhân văn đại, sự cải biên (adaptation) trở thành một hiện tiến hình văn học Việt Nam phát triển mạnh từ tượng phổ biến: cải biên trong văn chương, trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII, khi loại hình âm nhạc và trong điện ảnh. Theo tác giả, nếu tiểu thuyết tài tử giai nhân của văn học Trung việc dịch (transalation) một văn bản phải tuân Quốc xâm nhập vào nền văn học dân tộc. Trong theo những nguyên tắc, quy ước cụ thể để đảm công trình “Lược đồ quan hệ tiểu thuyết Hán bảo tính chính xác với bản gốc, thì ngược lại gần Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nước trong như không có một nguyên tắc hay tiêu chuẩn nào khu vực”, Trần Nghĩa đã sử dụng thuật ngữ cải đối với các hình thức của một tác phẩm cải biên. biên trong khi bàn về những tiểu thuyết Hán Trọng tâm của bài báo trình bày cách hiểu của Nôm Việt Nam được chuyển thể từ tác phẩm tác giả về sự chuyển vị/hoán vị (transposition) văn học cổ Trung Quốc. Nhà nghiên cứu ước trong dịch thuật - một hoạt động dịch giữ vai trò khoảng “trong số 90 tiểu thuyết Hán – Nôm chuyển tiếp giữa dịch thuật (translation) và cải Việt Nam , có ít nhất 20 trường hợp chuyển biên (apdaptation). Henry Whittlesey đã cung thể (adaptation) từ tác phẩm văn học Trung cấp khá chi tiết những lí giải cùng các minh Quốc”. Ở đây, ông có sự phân biệt khá rạch chứng để độc giả hiểu và chia sẻ với quan điểm ròi giữa chuyển thể (adaptation) và mô phỏng của mình. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, thật (imitation), trong đó hình thức chuyển thể/cải ra dịch – chuyển vị cùng các hình thức cụ thể biên được đề cập trong bài viết “là vay mượn chính là sự mở rộng hơn cách hiểu thuật ngữ cốt truyện từ tiểu thuyết văn xuôi, hí khúc, thoại dịch – cải biên (adaptation). Theo đó, hoạt động bản, ca bản, truyện kí hoặc biến văn của Trung dịch thuật này có thể bao gồm các dạng thức: cải Quốc rồi chuyển thể thành tiểu thuyết chữ Nôm biên nội dung; cải biên hình thức; cải biên nội thể lục bát, thất ngôn bát cú hay thất ngôn tứ dung và hình thức; cải biên tác phẩm văn học tuyệt. Chúng vừa mang tính chất dịch thuật thành kịch bản sân khấu hay một thể loại truyền (translation), lại vừa mang tính chất cải biên thông khác (Henry Whittlese 2012). Xu hướng (adaptation)” (Trần Nghĩa 1999). Trong khi đó, “chuyển vị thể loại” trong dịch thuật vốn đã những tiểu thuyết mô phỏng viết bằng chữ Hán được Susan Bassnett dành nhiều trang để phân chủ yếu “vay mượn phương thức chuyển tải (thể tích và dẫn chứng từ văn học châu Âu trong bài loại, văn liệu, ), kĩ thuật trình bày (kĩ xảo) luận Dịch thể loại, trong đó quan điểm chung của tiểu thuyết cổ Trung Quốc” (Trần Nghĩa của Susan Bassnett là xem dịch – chuyển vị thể 1999), một tác phẩm mô phỏng thành công sẽ loại như một trong những hoạt động dịch sáng trở thành mẫu mực về mặt thể loại và từ đó khai tạo, đồng thời cũng là một trong những phương sinh ra những tác phẩm bản địa cùng tính chất, cách hữu hiệu để nhận diện “quá trình biến đổi chẳng hạn Truyền kì mạn lục do Nguyễn Dữ thể loại như là những quá trình sửa đổi bất tận”. soạn phỏng theo Tiễn đăng tân thoại (tác giả Cù Tựu trung lại, một số công trình nghiên cứu Hựu, người Trung Quốc, đời Minh) đã làm tiền dịch thuật tiếp cận từ lý thuyết văn hóa nói trên đề cho sự ra đời những tác phẩm mô phỏng tiếp đã góp phần xác lập cách hiểu thuật ngữ “cải sau đó trong nền văn học Hán Nôm của dân tộc biên” cũng như lịch sử vận động của thuật ngữ như: Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Tân này trong lịch sử nghiên cứu dịch thuật của nhân truyền kì lục (Phạm Quý Thích), Thánh Tông loại. Những luận điểm của các học giả trước hết di thảo (khuyết danh), Bài viết cũng đề cập khẳng định cải biên là một thể loại dịch thuật, riêng tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du – một hoạt động dịch mang tính sáng tạo và từ đó một trường hợp cải biên tác phẩm văn học nước xác định vị trí, vai trò của hoạt động này trong ngoài thành công bậc nhất trong nền văn học dân sự tiến hóa của các nền văn học. tộc – nhằm nhấn mạnh đến giá trị của hoạt động dịch – chuyển thể/cải biên. Theo Trần Nghĩa, Ngược dòng lịch sử dịch thuật Việt Nam, với chính sự chuyển dịch sáng tạo của Nguyễn Du, vốn tài liệu đã tìm hiểu, chúng tôi chưa thể khẳng linh hoạt chuyển từ thể loại văn xuôi trong bản định cụ thể thời gian xuất hiện tác phẩm cải biên gốc sang thể thơ lục bát và bằng tiếng mẹ đẻ với văn học nước ngoài đầu tiên ở Việt Nam, nhưng những tình điệu dân tộc đã mang lại thành công có thể nhận thấy hoạt động dịch – cải biên trong vượt bậc của Truyện Kiều. Số 20, tháng 12/2015 26
- Khoa học Xã hội & Nhân văn 27 Đồng quan điểm của nhà nghiên cứu Trần Nam là thực tiễn hoạt động văn học Việt Nam Nghĩa, trong hành trình khơi sâu những giá trị nhưng cách hiểu của các ông về hoạt động cải của nền văn học cổ của dân tộc, học giả Nguyễn biên văn học không xa lạ với quan điểm của Nam, trên cơ sở tiếp cận đa dạng các xu hướng các nhà nghiên cứu dịch thuật quốc tế đã trình nghiên cứu phiên dịch học lịch sử - văn hóa, bày trên, cũng đồng xem cải biên là một hoạt liên văn bản, cũng đã khẳng định “những thành động dịch sáng tạo với mục đích trước hết nhằm tựu về văn học so sánh Trung Việt cho thấy phong phú hóa nền văn học nước nhà, đồng thời nhiều trường hợp điển hình về việc người Việt là cơ hội để các dịch giả - tác giả đào luyện thêm Nam thưởng thức và dựa vào tiểu thuyết cổ điển nghệ thuật viết văn. Trung Quốc để cải biên, viết thành tiểu thuyết Trở lại thực tế hoạt động văn chương ở Nam Hán văn của mình” . Ông cũng cho rằng hoạt Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, những nhân động “cải biên từ văn xuôi tự sự (tiểu thuyết vật chính tham gia trực tiếp vào công việc thiết Hán văn) sang vận văn quốc âm (truyện thơ lập quan hệ văn học Đông – Tây đã từng có Nôm lục bát) trở thành con đường chủ yếu giới những bộc bạch nào liên quan đến hành động thiệu các giá trị văn chương nước ngoài (chủ “thích nghi dân tộc”? Trương Minh Ký, người yếu là từ Trung Quốc) đến đại chúng” (Nguyễn mở đầu phong trào dịch văn học phương Tây Nam 2002, tr. 36). ở Nam Bộ, đã có quan niệm khá độc đáo, phản Trong bài luận khá dài bàn về “Truyện Nôm, ánh cái gốc văn hóa Hán Nôm vẫn còn vương vài khía cạnh văn học sử”, Lại Nguyên Ân đã vấn ít nhiều trong lớp trí thức Tây học ngay trình bày quan điểm của ông đối với vấn đề trong những dòng đầu của tác phẩm Phú bần chuyển dịch, vay mượn tác phẩm nước ngoài truyện diễn ca, “Phú bần truyện thiệt tiếng tây. thông qua hiện tượng diễn Nôm trong lịch sử Diễn ra quấc ngữ cho bầy trẻ coi”. Với Trương văn học dân tộc. Theo ông, hoạt động diễn Nôm tiên sinh, dịch – cải biên văn học phương Tây ở thể loại truyện, “nếu xét ở cấp độ các yếu tố không xa mấy kiểu diễn Nôm các tác phẩm Hán ngôn ngữ cấu thành văn bản tác phẩm, ta cũng học đã rất phổ biến ở Nam Bộ, vốn đã được Lại có thể nói đến những thao tác dịch thuật được Nguyên Ân bàn khá kĩ trong tài liệu đã dẫn. biểu hiện ở những ngôn liệu, thi liệu vay mượn Đến Hồ Biểu Chánh, quan niệm của ông về hoạt và Việt hóa, tương tự như đối với thơ Nôm. Nếu động này được trình bày cụ thể như sau: “Đọc xét ở cấp độ tác phẩm thì chỗ đáng quan tâm tiểu thuyết hay tuồng Pháp văn hễ tôi cảm thì tôi nhất là những truyện có gốc tích ngoại lai, chủ lấy chỗ tôi cảm đó mà làm đề, rồi phỏng theo ít yếu là vay mượn tác phẩm Trung Hoa” (Lại nhiều, hoặc tách riêng ra làm mà sáng tác một Nguyên Ân 1996). Từ đó, dẫn theo Kiều Thu tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Tuy tôi nói phóng Hoạch, ông cho rằng trong danh mục gồm 100 tác song kỳ thiệt tôi lấy đại ý mà thôi, mà có khi truyện nôm có khoảng 20 truyện vay mượn hoặc tôi lật ngược với đại ý, làm cho cốt truyện trái cải biên từ truyện tích Trung Hoa. Dù mới dừng hẳn, tâm lý khác xa với truyện Pháp” (Dẫn theo lại phân tích một vài trường hợp truyện Nôm cụ Huỳnh Thị Lành 2007, tr. 45). Như vậy, nhà văn thể nhưng Lại Nguyên Ân “vẫn tin rằng hoạt Hồ Biểu Chánh đã ý thức rất rõ hoạt động phóng động diễn nôm nói chung, nhóm truyện Nôm nói tác, cải biên văn học. Tuy nhiên, từ lời phát biểu riêng, nhất là các truyện Nôm mượn tích từ văn trên, có thể nhận một điểm khá thú vị ở hoạt học Trung Hoa (từ thế kỷ XIX trở về trước) chính động này của tiên sinh, cũng là một nét đặc thù là vùng thượng nguồn, nơi ra đời của văn học của hoạt động dịch – cải biên văn học phương dịch, một bộ phận cấu thành quan trọng của văn Tây ở Nam Bộ giai đoạn đầu, là hành động học trung đại Việt Nam” (Lại Nguyên Ân 1996). phóng tác, cải biên không chỉ xuất phát trên cơ Điểm qua một số công trình nghiên cứu liên sở tiếp nhận một tiểu thuyết văn chương mà còn quan hoạt động cải biên trong nền văn học Hán có thể thông qua một tuồng hát, một vở kịch. – Nôm, chúng tôi nhận thấy, dù đối tượng tiếp Trong các công trình nghiên cứu gần đây, cận trong bài viết của Trần Nghĩa, Lại Nguyên thực hiện cùng với chủ trương khôi phục lại Ân hay của nhà nghiên cứu dịch thuật Nguyễn diện mạo nền văn học Quốc ngữ Nam Bộ cuối Số 20, tháng 12/2015 27
- 28 Khoa học Xã hội & Nhân văn thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các học giả ít nhiều có tiết, nhân vật trong nguyên tác để sáng tác một trình bày cách hiểu về hoạt động phóng tác văn tác phẩm mới. học, chủ yếu trong các bài viết liên quan đến nhà - Thứ ba, hoạt động cải biên đóng một vai trò văn Hồ Biểu Chánh. Khi phân tích sự thẩm thấu quan trọng trong việc thúc đẩy giao lưu giữa các của một số mô hình tiểu thuyết phương Tây vào nền văn học, qua đó góp phần thúc đẩy nền văn thực tế văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, Phạm học dân tộc phát triển. Xuân Thạch đã phát biểu ngắn gọn: “Nhiều sơ đồ cốt truyện được sử dụng lại gần như nguyên Hiện nay, thuật ngữ “cải biên” (adaption) vẹn dưới dạng phóng tác, một hành vi thực chất được sử dụng phổ biến trong trường hợp cải là sử dụng công cụ nghệ thuật từ những nền văn biên/chuyển thể tác phẩm văn học thành các hóa ngoại lai để phục vụ ý đồ nghệ thuật của kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh. Đây cũng chủ thể sáng tạo” (Phạm Xuân Thạch 2002)3. là một hình thức phiên dịch văn chương, không Cụ thể hơn, xuất phát từ lý thuyết văn học so dừng lại ở sự chuyển ngữ mà các nhà cải biên sánh, Hoàng Cẩm Giang đã có sự so sánh, đối đã thực hiện việc chuyển thể, làm biến đổi dạng chiếu cách hiểu thuật ngữ “phóng tác” trong thức hoặc còn gọi là sự chuyển dịch liên kí hiệu. các công trình, giáo trình nghiên cứu văn học, Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) đã trong các từ điển văn học, từ điển tiếng Việt định nghĩa cải biên là “sửa đổi ít nhiều hoặc đã xuất bản và đi đến kết luận: “xem xét hiện biên soạn lại (thường nói về vốn nghệ thuật tượng phóng tác không chỉ là việc chuyên chú cũ)”. Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ xem “tác phẩm được phóng tác đã vay mượn biên) cũng định nghĩa tương tự, cải biên là “sửa những gì” mà quan trọng hơn là cách thức, mức đổi hoặc biên soạn lại theo hướng mới: cải biên độ của sự tiếp nhận và động lực thực sự của quá một số làn điệu dân ca – cải biên tuồng cổ”. 4 trình này” (Xem Hoàng Cẩm Giang 2013) . Tuy Trong bài viết, chúng tôi sử dụng thuật ngữ nhiên, trong dịch văn học, tiến trình chuyển dịch “cải biên văn học” nhằm hướng đến các công một tác phẩm văn học có thể đi từ dịch nguyên trình dịch văn học phương Tây ở Nam Bộ cuối tác, đến hoạt động phóng tác và sau cùng là mô thế kỉ XIX đến năm 1945 dưới những hình phỏng, cải biên; hiểu đơn giản, đó là con đường thức phóng tác, mô phỏng. Theo đó, sẽ bao đi từ thích ứng đến vận dụng, chế tác cho phù gồm những công trình cải biên hình thức, tức là hợp với nhu cầu. chuyển dịch từ thể loại này sang thể loại khác, Khảo qua những công trình nghiên cứu trong “thi vận hóa một bản văn xuôi, và ngược lại diễn và ngoài nước liên quan đến cội nguồn, quá thành văn xuôi một văn bản bằng thơ” (Francois trình vận động và vai trò trong nền văn học nhân Ost 2011, tr. 195), những công trình cải biên nội loại của hoạt động cải biên học, chúng tôi rút ra dung hoặc cải biên cả nội dung và hình thức. ra một số vấn đề sau: 2.2. Hoạt động cải biên văn học phương Tây ở - Thứ nhất, cải biên học đã xuất hiện từ khá Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỉ XIX đến năm 1945 sớm trong các nền văn học trên thế giới. Tại Các công trình dịch văn học phương Tây Việt Nam, hoạt động cải biên văn học đã phát sang chữ Quốc ngữ ở Nam Bộ được thực hiện triển mạnh mẽ từ cuối thế kỉ XVIII gắn với hiện khá sớm xét trong bối cảnh văn học dân tộc tượng diễn Nôm các truyện tích gốc Trung Hoa. cũng như bối cảnh Đông Á, chính thức bắt đầu - Thứ hai, hoạt động cải biên được đặt trong với những dịch phẩm từ bộ truyện ngụ ngôn mối quan hệ với dịch thuật, cụ thể là một loại La Fontain của Trương Minh Ký đăng trên Gia hình dịch sáng tạo, trong đó dịch giả/tác giả vay Định báo từ năm 1881. Trong khoảng thời gian mượn nội dung nhưng chuyển thể hình thức của 20 năm cuối thế kỉ XIX, hầu hết công trình dịch bản gốc hoặc vay mượn hình thức và một số tình văn học phương Tây ở Nam Bộ, chủ yếu văn học Pháp, đều do Trương Minh Ký thực hiện, 3 Bài viết đã đăng trên Tạp chí Nhà văn, tháng 7/2002. với tổng cộng khoảng 07 công trình gồm hàng 4 Bài viết đã đăng trong sách 100 năm nghiên cứu và đào tạo các ngành khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà trăm tác phẩm khác nhau. Sang đầu thế kỉ XX, Nội, tr.153-171. Số 20, tháng 12/2015 28
- Khoa học Xã hội & Nhân văn 29 phong trào dịch văn học phương Tây ở Nam Bộ Minh Ký đã được xuất bản gồm: Chuyện nở rộ với nhiều dịch giả, nhiều dịch phẩm gồm Phansa diễn ra quấc ngữ (1882 – bản in lần 2 đủ thể loại (thơ, tiểu thuyết, kịch) được công bố năm 1884), Truyện Phansa diễn ra quấc ngữ trên báo, tạp chí và xuất bản, đáp ứng rộng rãi (1884), Phú bần truyện diễn ca (1885 – bản nhu cầu đọc của công chúng. Giai đoạn này bắt in lần 2 năm 1896), Truyện Phansa diễn ra đầu xuất hiện những tác phẩm phóng tác văn quấc ngữ (1886), Télémaque (1887); bên cạnh học phương Tây, tiêu biểu với những tên tuổi đó, hai công trình đã được tiên sinh dịch sang Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt, Khi thực chữ quốc ngữ nhưng chỉ mới cho đăng trên Gia hiện hệ thống hóa hoạt động cải biên văn học định báo, chưa in thành sách: Francinet (khởi phương Tây ở Nam Bộ, chúng tôi nhận thấy các đăng trên Gia định báo từ số 36, năm thứ 21, công trình tập trung vào Hồ Biểu Chánh, xoay ngày 5/9/1885), Phansa quấc sử diễn ca (khởi quanh tìm hiểu đặc điểm, nhân vật, thể loại và đăng Gia định báo từ số 14, năm thứ 27, ngày đối chiếu giữa công trình phóng tác của ông và 7/4/1891). Sơ lược nội dung của các công trình bản gốc tiếng Pháp hoặc có một số nhà nghiên ấy như sau: cứu tìm cách so sánh, đánh giá tác phẩm của Hồ 1. Chuyện Phansa diễn ra quấc ngữ đã Biểu Chánh trong tương quan với các tác giả được khởi đăng trên Gia Định báo từ năm 1881, miền Bắc và miền Trung. Thế nhưng, lịch sử gồm 16 truyện ngụ ngôn của La Fontaine được cải biên văn học phương Tây cũng xuất phát từ dịch dưới hình thức văn vần, đặc điểm chung chính Trương Minh Ký, với hầu hết công trình của các bản dịch này là trước khi kết thúc, dịch dịch thuật được thực hiện theo hình thức cải giả thường dành vài câu thơ để nêu lên đạo lí rút biên tác phẩm văn học phương Tây. ra từ câu chuyện. 2.2.1. Trương Minh Ký – người mở đầu phong 2. Truyện Phansa diễn ra quấc ngữ bao trào cải biên văn học phương Tây ở Nam Bộ gồm các dịch phẩm được thể hiện dưới hình Có thể nói, so với các học giả cùng thời, công thức văn xuôi, chuyển dịch từ các truyện ngụ việc biên dịch các tác phẩm văn học Pháp sang ngôn của nhiều tác giả khác nhau như J. Wirth, chữ quốc ngữ của Trương Minh Ký có nhiều P. Larousse, R. Dodsley, , không có truyện thuận lợi hơn. Bởi lẽ, thứ nhất tiên sinh được ngụ ngôn của La Fontaine. tiếp xúc với tiếng Pháp từ rất sớm, sau đó lại trở 3. Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ được thành thầy dạy Pháp ngữ; thứ đến tiên sinh lại dịch giả cho đăng lần hồi trên Gia Định báo từ có cơ hội sang tận nước Pháp dự Hội đấu xảo, năm 1881 đến năm 1886, gồm 150 truyện, có cả tại đây ông được tiếp xúc trực tiếp với những văn vần lẫn văn xuôi. Bằng Giang, trong quyển học giả nổi tiếng ở Pháp, được tạo cơ hội tìm Văn học Quốc ngữ Nam kỳ 1865 – 1930, cho hiểu nền văn hóa của Pháp quốc – vốn được xem rằng đây là tác phẩm in lại toàn bộ các bản dịch là nền văn hóa tiêu biểu cho phương Tây giai truyện ngụ ngôn La Fontaine ra chữ quốc ngữ 5 đoạn đó . Ngoài ra, một thuận lợi khác không của Trương Minh Ký. Sau khi so sánh đối chiếu thể không nhắc đến là nghề thông dịch của tiên giữa tư liệu của Bằng Giang, tư liệu trên Gia sinh, chính kinh nghiệm phiên dịch nhiều năm Định báo và các tác phẩm dịch truyện ngụ ngôn đã giúp ông rất nhiều trong việc chuyển ngữ các đã được xuất bản của Trương Minh Ký, người tác phẩm văn học Pháp. Như vậy, với Thế Tải viết nhận thấy đây có thể là quyển sách tổng hợp tiên sinh, việc biên dịch từ văn học Pháp sang toàn bộ bản dịch truyện ngụ ngôn nước ngoài ra chữ quốc ngữ rõ ràng không phải là một thách chữ quốc ngữ của Thế Tải tiên sinh, không hẳn thức lớn, thế nên ở phương diện nào đó có thể chỉ gồm truyện ngụ ngôn La Fontaine như ý kiến xem bộ phận này là một thành công không nhỏ của Bằng Giang. Ngoài nội dung tác phẩm được trong sự nghiệp văn học của tiên sinh. Các công chuyển sang chữ quốc ngữ, ở mỗi mẩu chuyện trình dịch thuật văn học Pháp – Việt của Trương tiên sinh thêm vào một vài câu thơ giảng nghĩa hoặc một câu ca dao, tục ngữ quen thuộc để độc 5 Sau chuyến đi này, Trương Minh Ký đã xuất bản tác phẩm “Chư quấc thại hội” (1891) – một trong những công trình du kí đầu tiên viết giả hiểu rõ hơn ý nghĩa của tác phẩm. bằng chữ Quốc ngữ. Số 20, tháng 12/2015 29
- 30 Khoa học Xã hội & Nhân văn 4. Phú bần truyện diễn ca được xuất bản lần lời ta dịch, Nam bang tường sự tích này hay. đầu vào năm 1885 tại nhà hàng C.Guilland et Những ai phải quấy gian nguy, Truyện xưa tạc Martinon, tái bản lần hai vào năm 1896 tại nhà để, gương rày bày soi. ie in C.Rey, Curiol et C , Rue Catinat et d’Ormay, Xét về các công trình dịch thơ ngụ ngôn của Sài Gòn. Trước đó đã được khởi đăng trên Gia La Fontaine và các tác giả khác, có thể thấy định báo từ số 47 ngày 22/11/1884 dưới tên Phú Trương Minh Ký đã tiên phong chuyển ngữ bần truyện, tuy nhiên đăng không liên tục, kéo khoảng 150 tác phẩm ngụ ngôn phương Tây ra dài trong hai năm 1884 và 1885. Hiện người chữ quốc ngữ dưới các hình thức văn xuôi và viết đã sưu tầm được bản in của Phú bần truyện văn vần, trong đó dịch giả có dụng ý diễn giải diễn ca tái bản vào năm 1896. Cuối truyện, có in thêm trong bản dịch những câu hát dân gian. dòng chữ ghi rõ thời gian Trương tiên sinh hoàn Trong bài viết Thi pháp dịch thuật (Qua một số thành tác phẩm: “Chợ Lớn, giáp thân niên cửu bản dịch thơ Pháp – Việt), khi bàn về hoạt động ngoại sơ nhựt nhựt (19 Octobre 1884)”. Đây dịch của Trương Minh Ký với ý nghĩa ông là cũng chính là bản in được các học giả sử dụng người đầu tiên dịch thơ Pháp sang tiếng Việt, trong các công trình nghiên cứu hoặc các bài Nguyễn Duy Bình đã nhận xét như sau: “Đọc báo về Trương Minh Ký hay liên quan đến tác các bản dịch của ông, chúng ta thấy ông cắt xén, phẩm Phú bần truyện diễn ca. Riêng về bản in thêm bớt rất nhiều và thậm chí chỗ này chỗ khác lần đầu năm 1885, Bằng Giang có giới thiệu và ông còn thêm cả ca dao, tục ngữ của người Việt trích dẫn hai câu đầu trong quyển Văn học quốc vào để bản dịch trở nên dễ tiếp cận hơn đối với ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, tuy nhiên chúng công chúng độc giả Việt Nam» (Nguyễn Duy tôi vẫn chưa từng nhìn thấy toàn vẹn văn bản Bình 2014, tr. 60). Trên cơ sở khảo sát chi tiết và còn đang tiếp tục sưu tầm. Ngoài ra, chúng các dịch phẩm truyện ngụ ngôn La Fontaine, có tôi cũng sưu tầm được một số trích đoạn Phú sự đối sánh với nguyên bản, nhà nghiên cứu tiếp bần truyện đã đăng trên Gia định báo ở các năm tục khẳng định: «Dịch giả không bám sát từng 1884 và 1885. câu từng chữ mà chỉ lấy một số ý trong nguyên 5. Francinet là truyện dịch dưới hình thức bản để tái tạo thành một tác phẩm thi ca mới» văn xuôi dành cho thiếu nhi, được khởi đăng (Nguyễn Duy Bình 2014, tr. 60)6. Chúng tôi cho trên Gia Định báo từ số 36, ngày 5.9.1885, rằng những nhận xét trên hoàn toàn xác đáng, ở chưa in thành sách. Theo tư liệu chúng tôi đang đây xin nói rõ thêm, việc chú giải thêm các câu có, tức phần đăng trên năm báo thứ 21 (1885), tục ngữ, ca dao dân tộc, những đoạn thơ đúc truyện gồm 7 phần, mỗi phần đăng trên một kết bài học luân lí trong bản dịch truyện ngụ số báo nhưng không liên tục, dừng lại ở số 50, ngôn phương Tây được dịch giả Trương Minh ngày 12.12.1885. Ký thể hiện trên cả bản dịch văn vần lẫn văn 6. Télémaque xuất bản năm 1887 tại S.: Imp. xuôi. Chẳng hạn, kết thúc bản dịch bằng văn Commerciale Rey, Curiol & Cie, Rue Catinat vần truyện Con ve với con kiến đăng trên Gia et d’Ormay, 1887. Trước đó cũng đã được Định báo (số 17, ngày 16/6/1883) là một đoạn đăng trên Gia Định báo bắt đầu từ số 25 ngày thơ gồm 6 câu đúc kết bài học đạo lý : 20.6.1885. Nguyên bản có tên là Les aventures Đây khuyên tích cốc phòng cơ, de Télémaque (Tê – lê – mác phiêu lưu ký), một Ở đời liệu trước chớ chờ ăn năn. sáng tác của Fénelon được Trương tiên sinh Người giàu có, kẻ khó khăn, dịch sang chữ quốc ngữ dưới hình thức thơ lục Lấy dư cho thiếu lòng hằng nghĩa nhơn. bát. Tác phẩm được xuất bản năm 1887, nhưng Mang ơn thì phải biết ơn, khởi đăng trên Gia Định báo từ số báo năm thứ Làm ơn ai đợi đền ơn bao giờ.7 21, 1885. Còn trong bản dịch có tiêu đề Sỏi sạn dưới 7. Phansa quốc ngữ diễn ca mới đăng trên 6 Nguyễn, Duy Bình. 2014. Lưng chừng Babel. NXB Đại học Vinh, Gia Định báo (bắt đầu từ số 14, năm 27, ngày Nghệ An. 59-70. 7.4.1891), chưa in thành sách. Trong bài thơ 8 7 Tuy nhiên, trong bản in Chuyện Phansa diễn ra quốc ngữ năm câu mở đầu có đoạn như sau: Pháp quốc sử lựa 1884, dịch giả rút gọn chỉ 2 câu đầu của đoạn thơ để kết dịch phẩm Con ve với con kiến. Số 20, tháng 12/2015 30
- Khoa học Xã hội & Nhân văn 31 hình thức văn xuôi đăng trên Gia Định báo số 40 và Phạm Việt Tuyền đã nói đến? Riche et pauvre ngày 04/10/1884, Trương tiên sinh đã đúc kết của E. Souvestre là một tác phẩm văn xuôi, dài bằng câu tục ngữ «Trên đời chi khó, gắng vó 301 trang (không kể trang bìa). Bản in chúng thì nên». tôi đang giữ do nhà xuất bản Michel Lévy thực Xét riêng dịch phẩm Phú bần truyện diễn ca, hiện vào năm 1858 tại Paris. Trên cơ sở lược người viết cho rằng cần đi sâu tìm hiểu công trình dịch Riche et pauvre của E.Souvestre, chúng tôi này, bởi đây có thể xem là công trình phóng tác nhận thấy về cơ bản cốt truyện của tác phẩm tiểu thuyết phương Tây đầu tiên của nền văn học này có nét gần gũi với Phú bần truyện diễn ca Quốc ngữ Nam Bộ. Ngay dòng đầu của truyện, của Trương Minh Ký, mặc dù tên các nhân vật tác giả đã viết rõ “Việc đời nhơn lúc thảnh chính và bối cảnh của hai truyện không hoàn thơi. Phansa ngoại truyện diễn lời quấc âm” toàn giống nhau. Câu chuyện xoay quanh chủ (Bản in năm 1885, dẫn theo Bằng Giang) hoặc yếu nhân vật chính Antoine Larry – con nhà “Phú bần truyện thiệt tiếng tây. Diễn ra quấc nghèo, mồ côi cha, đang theo đuổi việc học để ngữ cho bầy trẻ coi” (Bản in lần 2 năm 1896). trở thành luật sư; với sự hỗ trợ, chia sẻ của chàng Georges Randel – con nhà giàu, phấn đấu học Để có câu trả lời chính xác hơn Phú bần hành để trở thành bác sĩ. Với đặc trưng thể loại truyện diễn ca là tác phẩm dịch thuật hay dịch văn xuôi, câu truyện được xây dựng với nhiều và phóng tác, thiết nghĩ việc truy tìm nguồn gốc kịch tính và rất nhiều đoạn đối thoại hấp dẫn, nguyên bản tiếng Pháp của tác phẩm này đóng trong đó tác giả dành nhiều trang viết về mối vai trò rất quan trọng. Trong khi hầu hết các tác tình của chàng Antoine cũng như thể hiện diễn phẩm dịch của Trương Minh Ký đều có ghi rõ biến tâm lí của nhân vật chính này sau cái chết tên nguyên bản, tên tác giả, và cả năm xuất bản, của người yêu. Theo chúng tôi, Riche et pauvre nơi xuất bản; nhưng với Phú bần truyện diễn của E.Souvestre chính là nguyên bản tiếng Pháp ca, chúng tôi chỉ tìm thấy dòng chữ ghi như của Phú bần truyện diễn ca. Và như vậy, rõ ràng sau trên trang bìa của bản in lần 2: “PHÚ BẦN Trương Minh Ký không chỉ đơn thuần làm công TRUYỆN DIỄN CA = RICHE ET PAUVRE việc chuyển ngữ Riche et pauvre, mà ông đã par Thế Tải, Trương Minh Ký”. Như vậy, có thể gia công rất nhiều trong việc phóng tác một tác hiểu nguyên bản tiếng Pháp của Phú bần truyện phẩm văn xuôi nước ngoài trở thành câu truyện diễn ca có tên là Riche et pauvre, dịch nôm na viết bằng thơ lục bát mang đậm tính dân tộc. có nghĩa là Chuyện giàu nghèo, còn tác giả là Chúng tôi xin trích lược giới thiệu một số nhân ai, xuất bản năm nào, ở đâu thì không có thông vật chính của hai tác phẩm: tin cụ thể. Như đã nói trên, thông tin về Phú bần truyện diễn ca được dịch thuật và phóng Phú bần truyện diễn ca Riche et pauvre - Nhà nghèo, - Nhà nghèo, tác từ một tác phẩm văn xuôi bằng tiếng Pháp cha bệnh nặng mồ côi cha, mẹ xuất phát từ học giả người Pháp H.Cordier và rồi mất, mẹ già có cửa hàng Georges Antoine 1 yếu. văn phòng Phạm Việt Tuyền. Thế nhưng, hiện giờ chúng ta (Do) Larry - Về sau trở phẩm ở ngoại ô vẫn chưa tìm thấy những văn bản hay bút tích thành văn thừa Autrin. nào của hai học giả này liên quan đến Phú bần tướng - Luật sư truyện diễn ca của Trương Minh Ký. Thực tế, - Nhà giàu, cha - Nhà giàu, cha Alfred là tổng trấn Georges là người chế đây là những thông tin lấy từ bài viết về Trương 2 (An Pháp) - Sau trở thành Randel tạo đồng hồ Minh Ký và Phú bần truyện diễn ca của Bằng võ thừa tướng - Bác sĩ Giang. Như vậy, việc tìm hiểu tác phẩm Riche et - Cậu học trò khoảng mươi - Người con pauvre – nguyên bản của Phú bần truyện diễn ca Louis 3 tuổi, rất kính Louise gái Antoine (Luy) và những thông tin về tác giả, thể loại, là thực mến thầy yêu sự cần thiết. Thông qua Internet, hiện chúng tôi Georges. đã tìm được một tác phẩm văn xuôi viết bằng Riche et Pauvre là một trong hai quyển tiểu tiếng Pháp của tác giả Émile Souvestre (1806 thuyết đầu tay của E.Souvestre – tiểu thuyết 3 - 1854) có tên là Riche et pauvre . Liệu đây có gia người Pháp. Người đọc dễ dàng tìm thấy ở phải là tác phẩm văn xuôi mà học giả H.Cordier Số 20, tháng 12/2015 31
- 32 Khoa học Xã hội & Nhân văn nhân vật Antoine Larry hình ảnh của chàng trai Ở đây, hầu như nhân vật đã được dịch giả Souvestre thời thanh thiếu niên – sớm mất cha, Trương Minh Ký Việt Nam hóa hoàn toàn, học ngành Luật tại Rennes. E. Souvestre sinh chúng ta không chỉ thấy ở trong đấy hình ảnh ngày 15/04/1806 tại Morlaix – Finistère, từng của con người Việt Nam mà còn nhận ra những là nhà báo, giáo viên và giáo sư, nhưng nghề bộc bạch của một nhà nho về thế cuộc, về số nghiệp chính là sáng tác văn chương. phận của con người lồng trong những lời phát Ngoài phần lung và kết, Phú bần truyện diễn biểu của nhân vật. ca gồm 12 thứ, 700 câu lục bát. Nội dung kể Từ câu chuyện có nguồn gốc tận nước Pháp về hai người bạn, một là An Pháp (Alfred) con xa xôi, dưới ngòi bút phóng tác của Trương nhà giàu có, danh giá; còn người kia có tên là Minh Ký, Phú bần truyện diễn ca đã trở nên Do (Georges), gia cảnh hết sức khó khăn, nhà gần gũi với người Việt hơn. Cái hay của bản túng thiếu, cha già lại lâm trọng bệnh. Cả hai dịch là ở chỗ Thế Tải tiên sinh đã dân tộc hóa, người đều là những bậc tài năng nhất nhì của địa phương hóa tác phẩm nhưng vẫn không trấn Tây Thành. An Pháp tuy giàu có nhưng tấm làm mất đi nội dung cốt lõi, thể hiện một ý lòng luôn rộng mở. Trước tình cảnh túng thiếu, thức tự chủ trong việc tiếp nhận văn học nước lao đao của Do, chàng động lòng thương tình ngoài – kết hợp hài hòa cái hay của văn học nên tìm mọi cách giúp đỡ bạn, lúc thì mua tranh nước ngoài với bản sắc văn hóa của dân tộc. ủng hộ, khi thì chu cấp cả tiền ăn học và phụng 2.2.2. Hồ Biểu Chánh – Người cải biên nhiều dưỡng mẹ già của bạn để anh ấy toàn tâm học tác phẩm văn học phương Tây ở Nam Bộ hành. Còn Do, tuy nghèo khó nhưng vẫn tìm mọi cách vươn lên. Chính lòng kiên trì, vượt Hồ Biểu Chánh là nhà văn tiêu biểu nhất khó của chàng cộng với sự giúp đỡ của những trong hoạt động nghệ thuật phóng tác. Trong người tốt bụng (nhà sư, bà vú, vợ chồng thợ số 64 cuốn tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh đã có tiện, ) nên cuối cùng công danh đều hiển đạt. 14 cuốn dựa theo tiểu thuyết phương Tây, gồm Truyện kết thúc trong sự hiển vinh của cả hai 13 tác giả Pháp và 1 tác giả Nga, gồm: Vậy nhân vật chính. Như đã nói, Phú bần truyện diễn mới phải phỏng theo Le Cid của P. Corneille, ca không đơn thuần là tác phẩm dịch toàn văn từ Ai làm được phỏng theo André Cornélis của nguyên tác tiếng Pháp mà còn có một phần lớn Paul Bourget, Chúa tàu Kim Quy phỏng theo công sức sáng tạo của Thế Tải tiên sinh. Những Le comte de Monte Cristo của A. Dumas, Cay nhân vật trong tác phẩm đã được tiên sinh biến đắng mùi đời phỏng theo Sans Famille và Chút hóa thành những con người Việt Nam thực sự, phận linh đinh phỏng theo En Famille của mang những phẩm chất, tính cách của dân tộc Hector Malot, Thầy Thông ngôn phỏng theo Les Việt Nam; mặt khác cách sinh hoạt, cách suy Amours d’Estèves của Theuriet, Ngọn cỏ gió nghĩ và cả lối học hành, thi cử trong đó cũng đùa phỏng theo Les Misérables của V.Hugo; 3 được thay đổi theo truyền thống văn hóa Việt cuốn Kẻ làm người chịu phỏng theo Les deux Nam. Nhân vật chính – chàng Do xuất hiện Gosses, Vì nghĩa vì tình phỏng theo Fanfanet- không mang chút dáng dấp của kẻ học sĩ phương Claudinet, Cha con nghĩa nặng phỏng theo Le Tây mà ngược lại chỉ thấy hình ảnh của chàng Calvaire của P.Décourselle, Ở theo thời phỏng nho sĩ Hán học rất đặc trưng phương Đông: theo Topaze của Marcel Pagnol, Ông Cử phỏng theo L’artisto, Đóa hoa tàn phỏng theo Le Do nầy trí cả tài cao, Rosaire, Người thất chí phỏng theo Crime et Dõi theo đạo chánh, xen vào thánh môn Châtiment của F. Dostoievski. Rồi những địa danh như: kinh thành, Qua so sánh các tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chùa chiền, ; những nhân vật cụ thể phóng tác từ tiểu thuyết Pháp, chúng ta nhận khác như: viên ngoại, nhà sư, đều là thấy khả năng tiếp biến văn học phương Tây những khung cảnh, những con người rất của Hồ Biểu Chánh đã có những bước phát triển tiêu biểu của nền văn hóa phương Đông. mới. Nếu ở tác phẩm cải biên đầu tay Vậy mới phải, Hồ Biểu Chánh viết dưới dạng truyện thơ, Số 20, tháng 12/2015 32
- Khoa học Xã hội & Nhân văn 33 theo bố cục của một truyện thơ Nôm: lung – câu văn học đang phát triển sẽ có xu hướng được chuyện – kết, thì sang Ai làm được – tiểu thuyết dịch lớn hơn là một nền văn học tự nhận thức hiện thực đầu tiên của Việt Nam, tác giả đã có là đã phát triển ở trình độ cao”8. Trong quá trình sự thay đổi hoàn toàn trong thể loại. Huỳnh hiện đại hóa nền văn học dân tộc, dịch và cải Thị Lành đã nhận xét khá sâu sắc những bước biên văn học ở Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đến phát triển của Hồ Biểu Chánh trong hoạt động năm 1945 đi theo một tiến trình gần như đồng phóng tác – cải biên văn học phương Tây như bộ với các nền văn học lớn trên thế giới, như sau: “Nếu ở Cay đắng mùi đời, Hồ Biểu Chánh Itamar Even-Zohar đã từng chỉ ra những điều theo sát từng nhân vật, từng diễn biến trong tác kiện cho một nền dịch thuật nở rộ khi bàn về phẩm Sans Famille thì đến Ngọn cỏ gió đùa chỉ vị trí của văn học dịch trong đa hệ thống văn còn phảng phất bóng dáng của Les Misérable” chương như sau: “ a) Khi một đa hệ thống chưa (Huỳnh Thị Lành 2007, tr. 53). Tiếp nối những được kết tinh, nghĩa là khi một nền văn học còn công trình cải biên của những dịch giả - nhà “trẻ”, đang trong quá trình được hình thành; b) văn thế hệ trước, Hồ Biểu Chánh đặt trọng tâm khi một nền văn học hoặc ở “bên lề” (bên trong thể hiện tính dân tộc, tính địa phương với một một nhóm lớn các nền văn học có liên quan), ý thức dân tộc hoá mạnh mẽ trong quá trình hoặc “yếu” và có thể cả hai, và c) khi có những phóng tác, tránh “không làm tổn thương đến điểm ngoặt, những khủng hoảng hoặc khoảng thuần phong mỹ tục Việt Nam như trường hợp chân không trong một nền văn học” (Itamar Ánh Nguyệt (Fantine) trong Ngọn cỏ gió đùa” Even – Zohar 2014, tr. 151). Xuất phát từ góc hay “Từ cảm hứng “báo thù rửa hận” trong Le nhìn lý thuyết phức hệ, Nguyễn Duy Bình cũng comte de Monte Cristo, Hồ Biểu Chánh thiên về cho rằng sự nở rộ của hoạt động dịch văn học ý tưởng nhân quả và luân lý trong Chúa tàu Kim Pháp giai đoạn này tương ứng với trường hợp Quy” (Huỳnh Thị Lành 2007, tr. 53). Độc giả (a) của Even-Zohar : “Sự lên ngôi của văn học dễ dàng nhận thấy sự hiện diện đậm nét những dịch nói chung và dịch văn học Pháp nói riêng phản ánh, những cảm hứng về các vấn đề tình giai đoạn này có thể giải thích bằng sự tương người, đạo lý, nhân nghĩa trong một phạm vi tác của nhiều hệ thống: hệ thống văn học dân cuộc sống rộng lớn. tộc, hệ thống thể chế, hệ thống văn hóa – giáo Khi nhận định về vai trò, khả năng của Hồ dục, hệ thống báo chí” (Nguyễn Duy Bình 2014, Biểu Chánh trong nghệ thuật phóng tác, Trần tr. 23). Hoạt động cải biên văn học giai đoạn Hữu Tá đã đánh giá cao sự cảm thụ tinh tế và này đã phản ánh quá trình hiện đại hóa nền văn khả năng phóng tác tài hoa của ông. Ở đây, học dân tộc: đi từ truyện giải trí (ngụ ngôn) đến chúng tôi cho rằng chính sự dung dị trong cách truyện tâm lí – xã hội; từ chuyển dịch sang văn sử dụng ngôn ngữ, sự sâu sắc trong nội dung vần đến hình thức văn xuôi, từ truyện cực ngắn đạo lí và khả năng thuần thục với kĩ thuật viết đến truyện tương đối dài, tiểu thuyết; từ việc tiểu thuyết phương Tây đã giúp cho những tác dịch trực tiếp đến thích ứng, vận dụng và cải phẩm của Hồ Biểu Chánh đến với người đọc biên phù hợp bối cảnh, nhu cầu, một cách tự nhiên, khiến cho họ “cứ ngỡ là gặp Đặc điểm dễ thấy, cũng là một hạn chế của ở đây những vùng đất Nam bộ, sống lại không hoạt động dịch và cải biên văn học phương Tây khí một thời của vùng đất này với những con ở Nam Bộ giai đoạn này là hầu hết nguyên tác người chất phác trung thực, hiền lương đã đổ thuộc nền văn học Pháp ngữ. Những dịch giả/ mồ hôi và máu trên các miệt đồng, các kênh tác giả thực hiện dịch/cải biên hầu hết đều do rạch đồng bằng sông Cửu Long” (Huỳnh Thị những trí thức đã từng du học ở phương Tây Lành 2007, tr. 53). hoặc được đào tạo trong nền giáo dục chịu ảnh hưởng Tây học. 2.4. Đặc điểm của hoạt động cải biên văn học trong quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc 8 Trích từ Chương II - “Genre in Adaptation and Translation” trong Susan Bassnett đã nhận định tiến trình hiện Garin Dowd, Lesley Stevenson và Jeremy Strong (biên tập). 2006. Genre Matters - Essays in Theory and Criticism. The University of đại hóa của một nền văn học như sau: “Một nền Chicago Press. 178 trang Số 20, tháng 12/2015 33
- 34 Khoa học Xã hội & Nhân văn Tính chất tiên phong, mở đường của hoạt tiếp nối truyền thống văn học Nam Bộ đã từng động cải biên văn học. Thật ra, chúng tôi cho thành công rực rỡ trong sáng tác của Nguyễn rằng hoạt động dịch thuật này của lớp nhà văn Đình Chiểu. trong đó đạo đức đã thành đạo lý, Nam Bộ buổi đầu không chỉ mang tính chất tiên cách sống, cách cư xử ở đời – một hình thức đạo phong, mà đó là sự dấn thân, khởi phát có phần lý nhân dân, đạo đức bình dân. bị động theo chủ trương của chính quyền Pháp 3. Kết luận nhưng dần trở thành lực lượng chủ động đi tìm những thể nghiệm mới, bộc bạch những quan Trong giai đoạn nền văn học Quốc ngữ phôi niệm mới. Có ý kiến nhận xét thế này: “Trong thai, những công trình cải biên đầu tiên của chặng đường mở đầu này, ý nghĩa của sự hội Trương Minh Ký đã mang đến cho nền văn học nhập thế giới trước hết là sáng tác theo mẫu hình dân tộc những luồng gió mới, những thể loại thể loại văn học phương Tây hiện đại. Nhưng mới, những thể nghiệm mới và cả những quan đó là một thử thách quá lớn với nhà văn Việt niệm rất mới. Đến Hồ Biểu Chánh – một hiện Nam khi đã có gan từ bỏ nền cựu học nhưng tượng cải biên văn học tiêu biểu, thể loại tiểu vẫn “còn vương tơ lòng”, lại là lúc nền Tây học thuyết đã trở thành một thể loại văn học quen chưa thật sự cắm sâu trong nền tảng tri thức của thuộc đối với độc giả Nam Bộ, đặc biệt góp họ. Họ vượt qua thử thách đó bằng cách ban đầu phần quan trọng đặt nền móng cho giai đoạn mô phỏng (bắt chước) một tác phẩm văn học phát triển của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam Pháp để viết tác phẩm của mình.” (Lê Văn Tùng những năm đầu thế kỷ XX. 2014). Hoàn toàn thống nhất rằng, trong buổi Những tác phẩm cải biên văn học đã giúp sơ khai của nền văn học Quốc ngữ, các nhà văn chúng ta nhìn nhận rõ hơn một quy luật vận Nam Bộ đã đi từ chuyển ngữ trực tiếp các tác động của văn học trong buổi giao thời, một phẩm văn chương từ Pháp văn sang chữ Quốc quy luật tiếp nhận ảnh hưởng của văn hoá-văn ngữ, sau đến sáng tác theo mẫu hình thể loại học ngoại lai. Đó là con đường đi từ “văn học văn học phương Tây hiện đại. Nhưng, không dịch”, đến “phóng tác” và cuối cùng là “sáng hẳn đó lại là thử thách đối với họ, mà có khi đó tác”. Thiết nghĩ hiện tượng này không phải là là sự chủ động, chủ động lựa chọn cách tiếp cận hiện tượng cá biệt chỉ có ở Việt Nam, mà có luồng văn hóa ngoại lai, chủ động đáp ứng nhu lẽ nó cũng đã xuất hiện trong các nền văn học cầu thưởng thức của đối tượng tiếp nhận, hay Đông Á trong tiến trình tiếp xúc, tiếp nhận văn nói cách khác là nắm bắt tầm đón nhận của công hóa phương Tây (Nhật Bản, Triều Tiên, Trung chúng Nam Bộ. Quốc ). Rõ ràng sự nảy sinh nhu cầu phóng Cảm hứng đạo lý truyền thống là cảm hứng tác là một hiện tượng có quy luật đối với những chủ đạo của các tác phẩm cải biên văn học dân tộc muốn bứt phá khỏi truyền thống để xây phương Tây ở Nam Bộ. Trước sự du nhập ồ ạt dựng một mô hình văn học hoàn toàn mới lạ, thể của văn hóa phương Tây, xã hội Việt Nam có hiện bản lĩnh “đồng hoá” và “sáng tạo” đặc biệt những chuyển biến mạnh mẽ, đặc biệt là vùng của con người Việt Nam, từ đó giúp nhận diện đất Nam Bộ chịu sự cai trị trực tiếp của thực dân rõ ràng hơn vị trí quan trọng của những nhà văn Pháp. Các giềng mối xã hội Việt Nam dưới chế đi tiên phong trong thời kỳ đầu của nền văn học độ phong kiến ngày càng rạn nứt để thay vào đó hiện đại. bằng một thể chế mới. Sự đổi thay này diễn ra liên tục và lan tỏa sâu rộng từ thành thị đến nông thôn. Phần lớn các tác phẩm tiểu thuyết của các nhà văn ở Nam bộ thời kỳ này thường hay đề cập đến vấn đề luân thường đạo lý. Do vậy, cảm hứng chủ đạo của các nhà văn Nam bộ là cảm hứng “vì nghĩa”, “xả thân thủ nghĩa”. Một sự Số 20, tháng 12/2015 34
- Khoa học Xã hội & Nhân văn 35 Tài liệu tham khảo Bassnett, S. và Lefevere, A. 1990, Translation, History and Culture. Printer, London. Cao, Tự Thanh. Những tiền đề xã hội của văn học Quốc ngữ Nam Kỳ đầu thế kỉ XX, xem ngày 12/01/2016, . Đỗ, Văn Hiểu. Mĩ học tiếp nhận với dịch thuật và giảng dạy văn học dịch, xem ngày 12/01/2016, . Francois, Ost. 2011. Dịch – Sự bảo vệ và minh giải đa ngôn ngữ. NXB Lao động. 638 trang Garin, Dowd, Lesley, Stevenson and Jeremy, Strong (biên tập). 2006. Genre Matters – Essays in Theory and Criticism. The University of Chicago Press, 178 trang. Henry, Whittlesey. The Transpositon of form, xem ngày 12/01/2016, . Henry, Whittlesey. A Typology of Derivatives: Translation, Transposition, Adaptation, xem ngày 12/01/2016, . Hoàng, Cẩm Giang. Một góc nhìn về quan hệ Đông Tây qua hiện tượng phóng tác trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, xem ngày 12/01/2016, . Hoàng ,Phê (Chủ biên). 2012. Từ điển Tiếng Việt. NXB Từ điển Bách Khoa. 1522 trang Huỳnh ,Thị Lành. 2007. Vị trí của Hồ Biểu Chánh trong văn xuôi Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỉ XX (1900-1932). Luận án tiến sĩ Ngữ văn. Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Itamar, Even – Zohar (Trần Hải Yến, Nguyễn Đào Nguyên dịch). 2014. Lý thuyết đa hệ thống trong nghiên cứu văn hóa, văn chương. NXB Thế Giới. 485 trang. Lại, Nguyên Ân. 1996. Truyện Nôm – Vài khía cạnh văn học sử, xem ngày 12/01/2016, . Lê, Giang. 2011. Khảo sát, đánh giá và bảo tồn văn học Quốc ngữ Nam Bộ 1930 – 1945, Báo cáo tổng kết đề tài KHCN cấp ĐHQG trọng điểm. Lê, Văn Tùng, Ba chặng đường hội nhập thế giới của văn học Việt Nam hiện đại, Xem ngày 08/10/2015, . Nguyễn, Duy Bình. 2014. Lưng chừng Babel – Tiểu luận văn chương và dịch thuật. NXB Đại học Vinh. 382 trang. N. Konrat. 1997. Phương Đông và Phương Tây, NXB Giáo dục. 354 trang. Nguyễn, Nam. 2002. Phiên dịch học lịch sử, văn hóa – Trường hợp Truyền kỳ mạn lục. NXB Đại học Quốc gia. 474 trang Nguyễn, Như Ý (Chủ biên). 2013. Đại từ điển tiếng Việt. NXB ĐHQG TP. HCM. 1903 trang Phạm, Xuân Thạch. Sự thẩm thấu của một số mô hình tiểu thuyết phương Tây vào thực tế văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, xem ngày 12/01/2016, . Phạm, Xuân Thạch. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh – nhìn từ sự phát triển của văn học và văn hóa Nam Bộ đầu thế kỷ XX, xem ngày 12/01/2016, . Phạm, Thị Tố Thy. 2011. Về Phú bần truyện diễn ca của Trương Minh Ký – tác phẩm “gây nhiễu” nhất nhì trong lịch sử văn học Quốc ngữ Nam Bộ. Tạp chí Đại học Sài Gòn - Bình luận văn học niên giám 2011. Trần, Nghĩa .1999. “Lược đồ quan hệ tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nước trong khu vực” in trong Tạp chí Hán Nôm số tháng 2/1999, xem ngày 12/01/2016, . Võ, Văn Nhơn. 2011. Ảnh hưởng của tiểu thuyết nước ngoài đối với sự hình thành và phát triển nền tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kỳ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Southeast Asia Journal. Vol. 21. No.1. Tr. 209-227. Số 20, tháng 12/2015 35