Giáo trình Tác động của biến đổi khí hậu lên tính đa dạng sinh học trong các khu đất ngập nước và bảo tồn thiên nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long

pdf 8 trang huongle 2240
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Tác động của biến đổi khí hậu lên tính đa dạng sinh học trong các khu đất ngập nước và bảo tồn thiên nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tac_dong_cua_bien_doi_khi_hau_len_tinh_da_dang_si.pdf

Nội dung text: Giáo trình Tác động của biến đổi khí hậu lên tính đa dạng sinh học trong các khu đất ngập nước và bảo tồn thiên nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long

  1. Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010 TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LÊN TÍNH ĐA DẠNG SINH HỌC TRONG CÁC KHU ĐẤT NGẬP NƯỚC VÀ BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (Impacts of Climate Change to the Biodiversity in the Wetlands and Natural Conservation Areas of the Mekong River Delta) Lê Anh Tuấn Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên, trường Đại học Cần Thơ E-mail: latuan@ctu.edu.vn Tóm tắt Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng hạ lưu cuối cùng của lưu vực sông Mekong trước khi chảy ra biến. Dựa vào định nghĩa về đất ngập nước theo Công ước Ramsar (1971), ĐBSCL được xem là vùng đất ngập nước lớn nhất Việt Nam xấp xỉ 4 triệu ha diện tích. Vùng này là nơi có tính đa dạng sinh học phong phú. Đồng bằng có khoảng 280,000 ha rừng có thể phân làm 2 nhóm theo phân lọại sinh thái rừng đất ngập nước của Tổ chức Lương Nông (FAO, 1994): đất ngập nước rừng tràm và đất ngập nước rừng sát ven biển. Toàn khu vực có 11 khu đất ngập nước tự nhiên cần được bảo tồn. Các khu đất ngập nước này đang bị nguy cơ đe doạ bởi các yếu tố đe doạ hệ sinh thái đất ngập nước bao gồm việc tháo nước hay san lấp các khu vực đất ngập nước của con người, thay đổi các điều kiện thuỷ văn trong khu vực đất ngập nước, bị thoái hoá dần do các ô nhiễm không có nguồn và do sự xâm chiếm của các sinh vật ngoại lai. Hiện nay, quần thể thực vật đất ngập nước còn bị đe doạ bởi các ảnh hưởng của vấn đề thay đổi khí hậu toàn cầu và sự dâng lên của nước biển. Sự hình thành các công trình trên hệ thống sông Mekong ở thượng nguồn như đập nước – hồ chứa của các nhà máy thủy điện, các khu công nghiệp, các khu dân cư tập trung ở dọc theo bờ sông làm mất dần diện tích và chất lượng sinh học ở các khu đất ngập nước và rừng ngập nước khiến sự đa dạng sinh học của các thực vật vùng đất này bị đe dọa suy giảm. Bài báo cáo này khái quát các nguy cơ tiềm năng đe dọa tính đa dạng sinh học ở trong các khu đất ngập nước và bản tồn thiên nhiên ở vùng ĐBSCL do các tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu và nước biển dâng cũng như các hệ thống công trình ở thượng nguồn khu vực. Cuối cùng là các đề xuất về chính sách ứng phó nhằm giảm thiểu các nguy cơ và bảo vệ các hệ sinh thái quý giá của vùng này. Từ khóa: Biến đổi khí hậu, Đa dạng sinh học, Đất ngập nước, Bảo tồn thiên nhiên. 1 “Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
  2. Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010 1. BỐI CẢNH KHU VỰC Đồng bằng sông Cửu Long là vùng hạ lưu cuối cùng của sông Mekong trước khi đổ ra biển Đông và vịnh Thái Lan. Đồng bằng nằm trọn vẹn trong khu vực Châu Á gió mùa, khí hậu nóng và ẩm. Đất của vùng ĐBSCL hình thành chủ yếu là do sự bồi tụ phù sa sông Mekong với diện tích tự nhiên rộng trên 4 triệu hecta. Toàn đồng bằng có hơn 2,1 ha là đất canh tác, chủ yếu là canh tác lúa và nuôi trồng thủy sản. Dân số vùng đồng bằng là hơn 18,6 triệu người (2009) sống tập trung dọc theo các nguồn nước như vùng ven sông Hậu và sông Tiền, vùng trũng tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, vùng Đồng Tháp Mười, vùng ven biển và vùng lõm bán đảo Cà Mau. Mỗi năm, từ tháng 5 đến tháng 10, vùng ĐBSCL nhận được từ 1.800 – 2.200 mm lượng mưa rơi. Kết hợp giữa lũ trên sông chính, lượng nước tràn từ biên giới Campuchea, mưa tại chỗ và ảnh hưởng của thủy triều biển Đông và vịnh Thái Lan khiến nhiều nơi vùng ĐBSCL bị ngập nước, dao động trong khoảng 1,2 – 1,9 triệu ha. Dọc theo 600 km vùng ven biển, thủy triều đã đẩy nước mặn vào làm khoảng 500.000 ha đất bị nhiễm mặn. Ngoài ra, vùng ĐBSCL còn có 2 triệu ha đất nhiễm phèn. Có thể nói, gần như toàn bộ ĐBSCL là một vùng đất ngập nước lớn nhất Việt Nam (Tuan và Wyseure, 2007), trong đó nhiều kiểu hình đất ngập nước rất đa dạng khác nhau. Nếu so sánh với tổng diện tích đất ngập nước ở Việt Nam, ước lượng vào khoảng 5.810.000 hecta (Dực, 1998; Scott, 1989), thì diện tích đất ngập nước ở ĐBSCL chiếm từ 65 -70% diện tích đất ngập nước toàn quốc. Hình 1 là bản đồ các khu đất rừng ngập nước ở ĐBSCL, trên bản đồ có ghi tên 11 vùng đất ngập nước cần được bảo tồn theo tổ chức Birdlife International (1999), chi tiết ở Bảng 1. Hình 1: Bản đồ đất ngập nước rừng ở ĐBSCL (Nhân, 1997) 2 “Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
  3. Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010 Bảng 1: Môi trường sống của 10 khu đất ngập nước ưu tiên bảo tồn (Birdlife International, 1999) Diện tích các vùng đất ngập nước bảo tồn (ha) Kiểu môi Lung Bãi Đất Vồ U Minh Hà Trà Tỉnh Tràm Láng Tổng trường sống Ngọc Bồi Mũi Dơi Thượng Tiên Sư Đội Chim Sen Hoàng Vùng trồng 2.344 3.077 5.421 đước Vùng đước 748 1.134 1.882 tái sinh Vùng đước 771 711 lâu năm Bãi bùn 1.504 1.050 2.554 Đầm lầy 646 720 519 1.366 dừa nước Vùng định cư 283 486 1.022 2.012 12.140 2.101 47 154 557 2.225 519 và canh nông Vùng đầm lầy 222 727 1.019 90 20 520 23 21.027 mở Đồng cỏ 1.721 8.509 85 379 3.609 2.621 Đồng cỏ xen 429 1.872 1.606 71 71 510 955 14.303 tràm Tràm trồng 1.040 5.500 2.309 3.188 568 581 2.099 9705.514 Tràm trưởng 881 4.123 62 5.066 16.255 thành Tổng (ha) 5.525 7.238 2.713 10.992 22.918 14.388 861 1.644 7.740 3.280 77.299 ĐBSCL có 280.000 ha rừng có thể phân làm 2 nhóm theo sinh thái rừng đất ngập nước (FAO, 1994): đất ngập nước rừng tràm và đất ngập nước rừng sát ven biển. Vùng ĐBSCL có khoảng 22 khu vực đất rừng ngập nước tập trung (cả nước ngọt và nước mặn) có giá trị cao trong hệ sinh thái khu vực. Các khu rừng ngập nước là nơi lưu trữ carbon, giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ nguồn nước, điều hòa khí hậu và cung cấp dưỡng chất cho hệ sinh thái. Trong các khu rừng ngập mặn, thống kê có 38/46 loài cây có giá trị kinh tế, phổ biến là các loài mắm trắng, đước, bần trắng, bần chua, vẹt tách, dà quánh, dà vôi, giá, cóc vàng, dừa nước. Các vùng này là nơi cư trú cho nhiều loài cá và động vật thủy sinh ven biển. Tại các khu rừng tràm nội địa, có thể thống kê có đến 77 loài cây tràm hiện diện. Sự gia tăng dân số, ước tính mức tăng 2,3% tạo nên một áp lực lên hệ sinh thái nhiệt đới và tài nguyên khu vực. Suốt 2 thập niên vừa qua, nhiều khu rừng ngập mặn đã bị tàn phá để dành chỗ cho việc nuôi trồng thủy sản, chủ yếu là nuôi tôm, các loài cá và nghêu sò. Nhìn chung, các vùng đất ngập nước quan trọng đang bị đe dọa do khai thác thiếu tái tạo và quản lý yếm kém. Một nghiên cứu ước tính cứ mỗi hecta đất rừng ngập mặn bị tàn phá có thể gây tổn thất chừng 0,7 tấn cá vùng ven biển hằng năm (Hang and An, 1999). 2. XU THẾ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Nhiều nghiên cứu và phân tích khoa học trong các năm qua cho thấy khí hậu ở vùng ĐBSCL đang có những biểu hiện thay đồi trong quá khứ đện tại hiện tại và sẽ tiếp tục thay đổi trong tương lai. Vùng ĐBSCL được xác nhận là nơi chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu và 3 “Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
  4. Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010 nước biển dâng (IPCC, 2001, 2007). Cán cân tài nguyên nước ở vùng ĐBSCL sẽ có những thay đổi có ý nghĩa trong tương lai (ADB, 1994; MONRE, 2003). Hanh và Furukawa (2007) đã chỉ ra các bằng chứng cho thấy mực nước biển trung bình đo được tại Vũng Tàu (Biển Đông) đã gia tăng 25 cm trong 20 năm qua; sự dâng lên nước biển trong khu vực cũng gây nên hiện tượng sạt lở ven biển. Quan sát cũng cho thấy hiện tượng sạt lở ven biển xảy ra suốt 60 km dọc theo khu vực Gành Hào. Rủi ro ở ĐBSCL, bao gồm cả hạn hán và lũ lụt, sẽ gia tăng với các trận mưa có cường độ cao và các ngày hạn kéo dài (Peter và Greet, 2008). Dựa vào kết quả phân tích và chi tiết hóa qua mô hình PRECIS, Supparkorn (2008) đã cảnh báo hạn hán sẽ nặng nề hơn ở các vùng ven biển Việt Nam trong mùa khô. Điều này đồng hành với sự gia tăng xâm nhập mặn vào vùng ven biển. Tuan and Supparkorn (2009), qua sự hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu – Đại học Cần Thơ (Việt Nam) và Trung tâm START vùng Đông Nam Á, Đại học Chulalongkorn (Thái Lan) cho thấy so với số liệu khí hậu nền của thập niên 1980, sang thập niên 2030, nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô sẽ gia tăng từ 33-35°C lên 35-37°C; lượng mưa đầu vụ Hè Thu (15/4 - 15/5) sẽ giảm chừng 10-20% và biên ngập lũ vào tháng 9 – tháng 10 có xu thế mở rộng về phía bán đảo Cà Mau. Áp thấp nhiệt đới và bão có khuynh hướng gia tăng vào cuối năm và số trận bão lốc đổ bộ trực tiếp vào vùng ven biển ĐBSCL sẽ có xu thế gia tăng. Bảng 2 cho thấy xu thế các yếu tố khí hậu xuất hiện trong tương lai ở ĐBSCL. Bảng 2: Xu thế thay đổi khí hậu và các thiên tai khác ở ĐBSCL trong 3 thập kỷ sắp tới Yếu tố khi hậu Xu thế Khu vực bị tác động chủ yếu An Giang, Đồng Tháp, Long An, Nhiệt độ max, min, trung bình mùa khô Ò Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang Các vùng giáp biên giới với Số ngày nắng nóng trên 35°C mùa khô Ò Cambodia, vùng Tây sông Hậu Lượng mưa đầu mùa (tháng 5, 6, 7) Ô Toàn đồng bằng SCL Lượng mưa cuối mùa (tháng 8, 9, 10) Ò Các vùng ven biển ĐBSCL Lốc xoáy – gió lớn – sét Ò Các vùng ven biển, hải đảo ĐBSCL Các vùng ven biển bán đảo Cà Mau, Mưa lớn bất thường (> 100 mm/ngày) Ò vùng giữa sông Tiền và sông Hậu Các vùng ven biển bán đảo Cà Mau, Áp thấp nhiệt đới và bão ven biển Ò vùng giữa sông Tiền và sông Hậu Vùng Tứ giác Long Xuyên – Hà Lũ lụt (diện tích ngập và số ngày ngập) Ò Tiên, vùng Đồng Tháp mười, vùng giữa sông Tiền và sông Hậu Nước biển dâng - Xâm nhập mặn Ò Các tỉnh ven biển Các tỉnh ven biển, vùng giữa sông Sạt lở Ò Tiền và sông Hậu Tác động của triều cường Ò Toàn đồng bằng Sự thay đổi mực nước ngầm Ô Toàn đồng bằng 4 “Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
  5. Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010 3. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LÊN TÍNH ĐA DẠNG SINH HỌC KHU ĐẤT NGẬP NƯỚC VÀ BẢO TỒN THIÊN NHIÊN Đất ngập nước có nhiều chức năng quan trọng trong cân bằng nguồn nước, kiểm soát lũ lụt, bổ sung nguồn nước ngầm, xử lý nước thải, bảo tồn sự đa dạng sinh học và cung ứng các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển rừng. Sự hiện hữu các vùng đất ngập nước có ý nghĩa tích cực về mặt xã hội - văn hóa và nhiều cơ hội cho các nghiên cứu và giáo dục môi trường sinh thái (Tuấn et.al, 2009). Các vùng bảo tồn đất ngập nước tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long có tính đa dạng sinh học cao nhưng rất nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố thời tiết cực đoan và khí hậu thay đổi. Sự dâng mực nước trong tương lai làm cho các nguồn dinh dưỡng và đặc tính sinh – hóa – lý của dòng chảy thay đổi cũng sự hiện tượng ngập thay đổi sẽ là mối đe dọa mới cho các hệ sinh thái khu vực. Một số các tác động này lên sự tổn thương về đa dạng sinh học các vùng đất ngập nước có thể phỏng đoán như phân tích ở Bảng 3. Bảng 3: Một số tác động do biến đổi khí hậu lên tính đa dạng sinh học vùng đất ngập nước Xu thế biến đổi Tác động lên Các tổn thương về đa dạng sinh học khi hâu đặc điểm tự nhiên đất ngập nước tự nhiên • Khô hạn ¾ Cây khô và chết nhiều hơn • Thiếu nước ngọt ¾ Nguy cơ cháy rừng lớn Nhiệt độ • Bốc hơi cao ¾ Sự tăng trưởng thực vật chậm lại tăng cao • Nước ngầm sụt giảm ¾ Nguồn cá giảm sút • Phèn xuất hiện ¾ Muỗi, sâu bệnh, chuột gia tăng số lượng • Nhiễm mặn cao hơn ¾ Nguồn lương thực bị sút giảm ¾ Chu kỳ sinh học bị thay đổi • Thiếu mưa đầu vụ Lượng mưa ¾ Ảnh hưởng sự ra hoa và kết trái của thực vật • Tăng mưa cuối vụ phân bố bất ¾ Cây con bị hư hại thường • Mưa lớn bất thường ¾ Dòng chảy thay đổi • Ngập úng cục bộ ¾ Nguồn lương thực bị sút giảm ¾ Xáo trộn hệ sinh thái • Xâm nhập mặn sâu hơn ¾ Nhiều loài động và thực vật nước lợ và • Thu hẹp diện tích đất Nước biển dâng nước ngọt có thể bị chết • Xâm thực – xói lở mạnh ¾ Một số vùng đất rừng sát bị hủy diệt • Triều cường lớn hơn ¾ Nguồn lương thực bị sút giảm • Tàn phá vùng ven biển ¾ Rừng bị tàn phá, gãy đổ • Đẩy nước mặn vào sâu ¾ Các vườn chim bị hư hại và giảm sút Bão - lốc xoáy • Ngập úng cục bộ ¾ Một số động vật rừng bị tiêu diệt • Ô nhiễm sau bão tăng ¾ Giảm chất lượng đất và nước Biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan khác sẽ tác động không chỉ ở khu vực ĐBSCL mà còn ảnh hưởng lên toàn bộ lưu vực sông Mekong làm tình hình thêm nghiêm trọng. Do nhu cầu phát triển kinh tế, an ninh năng lượng, an ninh lương thực và sức ép dân số, khiến các nước ở thượng nguồn sông Mekong sẽ quyết tâm đẩy mạnh việc khai thác nguồn nước sông Mekong. Các đập thủy điện, công trình chuyển nước sông cho các vùng khô hạn, sự hình thành các khu công nghiệp, khu dân cư dọc theo 2 bờ sông sẽ làm tình hình thêm nghiêm trọng. Hệ quả là dòng chảy sông Mekong sẽ thất thường hơn, mùa khô càng ít nước và mùa lũ sẽ nặng nền hơn, 5 “Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
  6. Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010 lượng phù sa tự nhiên sẽ bị giữ lại ở các hồ chứa khiến đất đai vùng đồng bằng sẽ ít màu mỡ hơn, kết quả bồi tụ vùng bán đảo Cà Mau sẽ giới hạn lại và nguồn dinh dưỡng cho hệ thực và động vật sẽ nghèo nàn hơn. Các đập thủy điện sẽ làm nguồn cá giảm sút nghiêm trọng và thu hẹp các vùng dự trữ sinh quyển cũng như các khu bản tồn đất ngập nước tự nhiên. Các khu rừng ngập mặn ở Bán đảo Cà Mau, các khu rừng tràm U Minh, Trà Sư, Tam Nông, các vùng đồng cỏ ở Kiên Giang, Đồng Tháp bị đe dọa cháy, tàn phá và thu hẹp diện tích khiến khả năng tích giữ carbon giảm sút khiến tình hình gia tăng hiệu ứng nhà kính toàn cầu thêm tồi tệ. Khả năng ngăn sóng biển sẽ hạn chế khi các khu rừng ngập mặn bị tàn phá, Sự giảm sút chất lượng môi trường, tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học khiến cư dân vùng ĐBSCL vốn nghèo lại càng khốn khổ hơn. Dự báo hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng, thời tiết cực đoan sẽ làm thu hẹp nguồn sống dựa vào tự nhiên của cư dân sẽ tạo ra hiện tượng di dân cơ học từ các vùng nông thôn lên đô thị gia tăng. Hệ quả là quy hoạch có nguy cơ bị phá vỡ, ô nhiễm và tệ nạn xã hội gia tăng khó kiểm soát hơn. Một bộ phận di dân không thích nghi cuộc sống đô thị sẽ quay trở lại vùng ven biển, vùng rừng, vùng đất ngập nước để tiếp tục tàn phá các nguồn tài nguyên còn sót lại. Quá trình này có thể sơ đồ hóa như hình 2. Hình 2: Mối quan hệ giữa biến đổi khí hậu – sinh thái – tài nguyên – di dân (Nguồn: Tuấn, 2010) 6 “Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
  7. Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010 4. ĐỀ XUẤT CÁC CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ Việc ứng phó với biến đổi khí hậu không dễ dàng, tốn kém và phải có sự nổ lực tất các lĩnh vực trong một thời gian dài. Các vùng bảo tồn tự nhiên, các khu rừng nhiệt đới và vùng đất ngập nước có vai trò rất lớn trong việc lưu trữ lượng carbon, giảm thiểu ô nhiễm, lọc nước và bảo vệ tính đa dạng sinh học nhưng các vùng này cũng rất nhạy cảm với sự thay đổi tự nhiên và nhân tạo. Hiện nay, việc nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu lên sự bảo tồn đa dạng sinh học chưa nhiều và chưa sâu. Do tầm quan trọng của vấn đề, cần phải có các chính sách ứng phó ở cấp vĩ mô để điều chỉnh các quy hoạch trong quá khứ trước khi tình hình trở nên nghiêm trọng và khó khăn hơn. Dưới đây là một số đề xuất: o Quốc hội cần tiến đến hình thành một bộ Luật về Biến đổi Khí hậu hoặc bổ sung tác động của biến đổi khí hậu vào các điều lệ trong Luật Đa dạng Sinh học (2008), Bảo vệ Môi trường (2005), Luật Tài nguyên Nước (1998), Luật Luật Bảo vệ và phát triển rừng (1991), và các bộ luật có liên quan khác. o Bộ Tài nguyên và Môi trường phải kết hợp với các địa phương tiến hành một loạt quy hoạch phát triển bền vững đất ngập nước có tính đến các kịch bản của biến đổi khí hậu. o Các Ban Chỉ đạo khu vực cần phối hợp với Đài Khí tượng – Thủy văn Khu vực thực hiện các quy trình phối hợp theo dõi, phân tích và cảnh báo thiên tai liên vùng. o Các Ủy ban Chính quyền cấp Tỉnh nên thành lập các Ban Chỉ đạo Ứng phó với Biến đổi Khí hậu cấp Tỉnh và lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội địa phương. o Các Ban ngành khác nhau xây dựng Kế hoạch Hành động Thích nghi với Biến đổi Khí hậu. o Các Viên nghiên cứu và Trường học tiếp tục các đề tài nghiên cứu, chạy mô hình mô phỏng và xây dựng chương trình nâng cao năng lực và giáo dục tuyên truyền về biến đổi khí hậu xuống cấp cộng đồng. Hình thành mạng lưới trao đổi thông tin về biến đổi khí hậu. o Huy động sự ủng hộ và liên kết nghiên cứu với các Tổ chức Chính phủ và Phi chính phủ về Biến đổi khí hậu. o Các địa phương giới thiệu các mô hình giảm nhẹ và thích nghi với biến đổi khí hậu. Ứng phó với biến đổi khí hậu vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài. Người dân vùng ĐBSCL đang chuyển dần từ quan điểm “Sống chung với lũ” sang quan điểm mở rộng hơn “Sống chung với biến đổi khí hậu”. Việc quản lý bền vững hệ sinh thái độc đáo và tính đa dạng sinh học quý gia của lưu vực sông Mekong đang tạo một sự quan tâm lớn không chỉ trong cộng đồng các nhà khoa học trong nước mà còn lôi kéo sự chú ý đến nhiều tổ chức quốc tế vì tầm quan trọng của lưu vực sông Mekong nói chung và ĐBSCL nói riêng. Hơn lúc nào hết, cần có một sự liên kết giữa chính quyền, các nhà khoa học, các doanh nghiệp và cộng đồng cư dân trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ xảy ra trong khu vực mà chúng at không thể né tránh được. Lê Anh Tuấn Tháng 5/2010 7 “Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn
  8. Diễn đàn “Bảo tồn Đa dạng Sinh học và Biến đổi Khí hậu”, Thảo cầm viên Saigon, 22/5/2010 TÀI LIỆU THAM KHẢO ADB (Asian Development Bank), 1994. Climate Change in Asia: Vietnam Country Report, p.27. BirdLife Interantional Vietnam Programme. 1999. The Conservation of Key Wetlands Sites in the Mekong Delta. Conservation Report, N° 12, Hanoi Dực, L.D. 1998. Báo cáo tổng quan về đất ngập nước Việt Nam. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Hà Nội. FAO (Food and Agriculture Organization), 1994. Mangrove forestry guidelines, FAO, Rome, Italy. IPCC, 2001. Climate Change 2001: The Scientific Basis. Cambridge University Press, Cambridge, United Kingdom and New York, NY, USA, p. 881. IPCC, 2007. Climate change 2007: Impacts, adaptation, and vulnerability. Cambridge University Press, Cambridge, United Kingdom, p. 1000. MONRE (Ministry of Natural Resources and Environment), 2003. Vietnam Initial National Communication under the United Nations Framework Convention on Climate Change (Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho Công ước khung của Liên hiệp quốc về Biến đổi Khí hậu). Hanoi, Vietnam. Peter, C. and Greet, R., 2008. Climate Change & Human Development in Vietnam: A case study for the Human Development Report 2007/2008. Oxfam and UNDP. Nhan, N.V., 1997. Wetland mapping in the Mekong Delta and Tram Chim area using Geographical Information Systems (GIS). Proceedings of a workshop on balancing economic development with environmental conservation, Safford, R.J., D. V. Ni, E. Maltby and V. T. Xuan (eds.), RHIER, London University, UK. 1997:87-93pp. Hang, T.T.T. and An, N.T.N., 1999. An economic Analysis of the Can Gio Mangrove Scheme in Ho Chi Minh City. In: Economy & Environment Case Studies in Vietnam, EEPSEA, Singapore, 205-221. Hạnh, P.T.T and Furukawa, M., 2007. Impact of sea level rise on coastal zone of Vietnam. Bull. Fac. Sci., Uni. Ryukyus, 84:45-59 Tuan, L.A. and Guido W., 2007. Action Plan for the Multi-level Conservation of Forest Wetlands in the Mekong River Delta, Vietnam. International Congress on Development, Environment and Natural Resources: Multi-level and Multi-scale Sustainability. Cochabamba, Bolivia. Tuan, L.A. and Suppakorn, C., 2009. Climate change in the Mekong River Delta and key concerns on future climate threats. Paper submitted to DRAGON Asia Summit, Seam Riep, Cambodia. Tuấn, L.A., Việt, L.H., và Guido, W., 2009. Đất ngập nước kiến tạo. Nxb. Nông nghiệp, TP. HCM. Tuấn, L.A., 2010. Tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng lên tính đa dạng sinh học và xu thế di dân vùng ven biển bán đảo Cà Mau. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Bảo tồn các giá trị dự trữ sinh quyển và hỗ trợ cư dân vùng ven biển tỉnh Cà Mau trước biến đổi khí hậu”, UBND Tỉnh Cà Mau, tháng 4/2010, trang 79-85. Scott, D. A. 1989. A directory of Asian wetland, IUCN, Cambridge, UK. Suppakorn, C., 2003. Information for Sustainable Development in Light of Climate Change in Mekong River Basin, Proceedings of “Regional Conference on Digital GMS”, AIT, Bangkok, Thailand, p.108-115. 8 “Tác động của Biến đổi Khí hậu lên tính Đa dạng Sinh học trong các khu Đất ngập nước và Bảo tồn Thiên nhiên vùng Đồng bằng Sông Cửu Long”, Lê Anh Tuấn