Khóa luận Các mô hình quản lý bền vững tài nguyên rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy-Nam Định - Nguyễn Kim Long

pdf 76 trang huongle 1400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Các mô hình quản lý bền vững tài nguyên rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy-Nam Định - Nguyễn Kim Long", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkhoa_luan_cac_mo_hinh_quan_ly_ben_vung_tai_nguyen_rung_ngap.pdf

Nội dung text: Khóa luận Các mô hình quản lý bền vững tài nguyên rừng ngập mặn tại vườn quốc gia Xuân Thủy-Nam Định - Nguyễn Kim Long

  1. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG ISO 9001 : 2008 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH: KỸ THUẬT MÔI TRƢỜNG Sinh viên : Nguyễn Kim Long Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Hoàng Thị Thúy HẢI PHÒNG - 2012 Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 1
  2. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG CÁC MÔ HÌNH QUẢN LÝ BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN RỪNG NGẬP MẶN TẠI VƢỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY - NAM ĐỊNH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY NGÀNH: KỸ THUẬT MÔI TRƢỜNG Sinh viên : Nguyễn Kim Long Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Hoàng Thị Thúy HẢI PHÒNG - 2012 Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 2
  3. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Sinh viên: Nguyễn Kim Long Mã SV: 120177 Lớp: MT1201 Ngành: Kỹ thuật môi trƣờng Tên đề tài: Các mô hình quản lý bền vững tài nguyên rừng ngập mặn tại Vườn quốc gia Xuân Thủy - Nam Đị nh. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 3
  4. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI 1. Nội dung và các yêu cầu cần giải quyết trong nhiệm vụ đề tài tốt nghiệp 2. Các số liệu cần thiết để thiết kế, tính toán. 3. Địa điểm thực tập tốt nghiệp. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 4
  5. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường CÁN BỘ HƢỚNG DẪN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP Ngƣời hƣớng dẫn thứ nhất: Họ và tên: Hoàng Thị Thúy Học hàm, học vị: Thạc sỹ Cơ quan công tác: Trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng Nội dung hƣớng dẫn: Đề tài tốt nghiệp đƣợc giao ngày tháng năm 2012 Yêu cầu phải hoàn thành xong trƣớc ngày tháng năm 2012 Đã nhận nhiệm vụ ĐTTN Đã giao nhiệm vụ ĐTTN Sinh viên Người hướng dẫn Nguyễn Kim Long ThS. Hoàng Thị Thúy Hải Phòng, ngày tháng năm 2012 Hiệu trƣởng GS.TS.NGƢT Trần Hữu Nghị Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 5
  6. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường PHẦN NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN 1. Tinh thần thái độ của sinh viên trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp: 2. Đánh giá chất lƣợng của khóa luận (so với nội dung yêu cầu đã đề ra trong nhiệm vụ Đ.T.T.N trên các mặt lý luận, thực tiễn, tính toán số liệu ): 3. Cho điểm của cán bộ hƣớng dẫn (ghi bằng cả số và chữ): Hải Phòng, ngày tháng 12 năm 2012 Cán bộ hƣớng dẫn (Ký và ghi rõ họ tên) ThS. Hoàng Thị Thúy Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 6
  7. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Lời cảm ơn Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn đến các thầy, cô giáo trường Đại học dân lập Hải Phòng, những người đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt những kiến thức bổ ích cho em, đó chính là những nền tảng cơ bản, là những hành trang vô cùng quý giá, là bước đầu tiên cho em bước vào sự nghiệp sau này trong tương lai. Đặc biệt là cô giáo Hoàng Thị Thúy - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ dạy, quan tâm và hướng dẫn em trong suốt quá trình học tập và thời gian thực hiện bài khóa luận. Nhờ đó, em mới có thể hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp này. Bên cạnh đó, em cũng xin được gửi lời cảm ơn tới toàn thể các anh chị cán bộ làm việc tại Vườn Quốc gia Xuân Thủy đã cho phép và tạo điều kiện em được khảo sát, nghiên cứu tại khu vực. Dù rất bận rộn với công việc nhưng các anh chị vẫn dành thời gian hướng dẫn,cung cấp số liệu và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để em có thể tìm hiểu, thu thập thông tin phục vụ cho bài khóa luận tốt nghiệp. Cuối cùng, em xin gửi làm cám ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình làm bài khóa luận của mình. Trong quá trình làm bài khóa luận, vì kiến thức và kỹ năng còn hạn chế nên luận văn của em chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ phía quý thầy, cô trong ban hội đồng tốt nghiệp để kiến thức của em ngày càng hoàn thiện hơn và rút ra được những kinh nghiệm bổ ích có thể áp dụng vào thực tiễn một cách hiệu quả trong tương lai. Kính chúc mọi người luôn vui vẻ, hạnh phúc, dồi dào sức khỏe và thành công trong công việc Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Nguyễn Kim Long Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 7
  8. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 8
  9. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường MỞ ĐẦU Rừng ngập mặn không chỉ là một yếu tố cảnh quan đặc sắc mà còn là hệ sinh thái giàu có bậc nhất của vùng bờ biển nhiệt đới. Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng trong việc hạn chế tác hại của gió bão, nƣớc triều dâng, bảo vệ đê chống bão biển, góp phần mở rộng đất liền. Rừng ngập mặn còn là nơi sinh sống và phát triển của nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao và nhiều động vật trên cạn khác nhƣ chim, thú, bò sát, góp phần làm đa dạng hệ sinh thái, là nguồn tài nguyên phong phú đầy tiềm năng giúp phất triển kinh tế của ngƣời dân quanh khu vực. Nƣớc ta có đƣờng bờ biển kéo dài hơn 3200 km, do vậy các loại hình đất ngập nƣớc ven bờ rất phong phú (nhƣ rừng ngập mặn, bãi triều lầy, vịnh, bán đảo, cửa sông, rạn san hô). Tuy nhiên, những hoạt động khai thác quá mức và gây ô nhiễm nghiêm trọng trong những năm gần đây đã làm thu hẹp đáng kể hệ sinh thái này, mà rõ nhất là rừng ngập mặn. Kết quả cho thấy việc phá rừng để sản xuất theo các mục đích trên đã bị thất bại hoặc năng suất rất thấp, môi trƣờng bị thoái hóa nghiêm trọng, đời sống của ngƣời dân ven biển bị gió, bão đe dọa. Nhiều nơi sau khi phá hỏng, đê điều đã bị hƣ hỏng. Ngƣợc lại, vùng nào bảo vệ rừng tốt thì đê điều, các khu nuôi trồng thủy hải sản không bị hƣ hại, đời sống, tài sản của nhân dân đƣợc bảo vệ. Do đó, việc quản lý khai thác rừng ngập mặn một cách hiệu quả và hợp lý là việc làm rất cần thiết và quan trọng. Đề tài quản lý sau đây nghiên cứu “Các mô hình quản lý bền vững tài nguyên rừng ngập mặn tại Vƣờn quốc gia Xuân Thủy - Nam Định”. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 9
  10. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường CHƢƠNG I : TỔNG QUAN 1.1. Khái niệm rừng ngập mặn Rừng ngập mặn (RNM) là kiểu rừng phát triển trên vùng đất lầy, ngập nƣớc mặn vùng cửa sông, ven biển, dọc theo các sông ngòi, kênh rạch có nƣớc lợ do thủy triều lên xuống hàng ngày. Rừng ngập mặn phát triển mạnh ở vùng nhiệt đới có khí hậu nóng ẩm và một phần nhỏ ở vùng cận nhiệt đới. Khác với cây rừng trên đất liền chỉ sống ở nơi có nƣớc ngọt, cây rừng ngập mặn sống đƣợc trên nền đất lầy ngập nƣớc mặn định kỳ nên đƣợc gọi là cây ngập mặn. 1.2. Các yếu tố môi trường cần thiết cho RNM phát triển [4] Nhiệt độ: Các loại cây phát triển ở rừng ngập mặn chủ yếu là các loại cây nhiệt đới ƣa khí hậu nóng ẩm. Vì vậy, ở vùng nhiệt đới, đặc biệt là những vùng nằm ở gần đƣờng xích đạo có nhiệt độ cao quanh năm thì rừng ngập mặn phát triển rất mạnh, diện tích lớn, cây to, rừng rậm rạp. Ở vùng cận nhiệt đới do khí hậu lạnh về mùa đông nên rừng ngập mặn thƣa thớt hơn, cây nhỏ, số lƣợng loài ít hơn ở vùng nhiệt đới. Vì những yếu tố trên, rừng ngập mặn ở miền nam Việt Nam thƣờng phát triển xanh tốt và đa dạng hơn ở miền bắc. Ở miền bắc có mùa đông lạnh nên số loài cây ngập mặn kém đa dạng hơn. Lƣợng mƣa: Cũng nhƣ nhiều loài cây khác, cây rừng ngập mặn cần nƣớc mƣa để sinh trƣởng và phát triển, đặc biệt là trong thời kì ra hoa, kết quả. Nƣớc mƣa pha loãng nồng độ muối trong đất và nƣớc, tránh cho nƣớc không bị quá mặn, nhất là trong những ngày nắng nóng. Thủy triều: Cây rừng ngập mặn chỉ phát triển tốt ở những nơi có nƣớc triều lên xuống hàng ngày. Ở nơi cao, đất khô ít khi ngập triều, cây kém phát triển, cây con thƣờng không mọc đƣợc. Ngƣợc lại, khi đắp các bờ bao để nuôi trồng thủy hải Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 10
  11. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường sản làm cho nƣớc ngập úng lâu ngày cây ngập mặn sẽ chết do rễ hô hấp kém dẫn đến việc trao đổi khí giữa cây và môi trƣờng giảm. Điều này thƣờng làm cho cây rừng ngập mặn chết hàng loạt, đồng thời hồ nuôi bị ô nhiễm do xác cây phân hủy làm giảm năng suất nuôi trồng hải sản. Độ mặn của đất và nƣớc: Độ mặn quá cao hoặc quá thấp đều không thích hợp cho rừng ngập mặn phát triển. Hầu hết các loài cây ngập mặn phát triển tốt ở nƣớc có độ mặn trung bình từ 1,5 - 2,5%. Một số loại cây chịu đƣợc độ mặn cao nhƣ cây mắm, sú, trong khi đó một số loài lại ƣa môi trƣờng nƣớc lợ có độ mặn thấp nhƣ bần, dừa nƣớc. Những loài khác nhƣ đƣớc, đâng, vẹt, trang thích nghi với độ mặn trung bình. Địa hình và chất đất: Rừng ngập mặn phát triển tốt trên các bãi lầy bằng phẳng, dốc thoải, những vùng ven biển cửa sông có nhiều đảo che chắn ít chịu ảnh hƣởng của gió bão. Mỗi loài cây của rừng ngập mặn lại thích nghi với địa hình cao thấp khác nhau. Các cây mắm, bần sống ở nơi đất thấp, cấc loài nhƣ dà, cóc, vẹt dù lại sống ở nơi đất cao. Đất phù sa chứa nhiều mùn và khoáng chất là tốt nhất cho rừng ngập mặn phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện ít đất phù sa, nhiều cát, cây ngập mặn vẫn có thể sống nhƣng thƣờng thấp bé, phân cành nhiều và lớn chậm hơn. 1.3. Các đặc điểm sinh học của cây ngập mặn [4] 1.3.1. Hệ rễ Cây ngập mặn có hệ thống rễ phát triển hơn nhiều so với cây sống trên đất liền. Ngoài những rễ sâu ăn dƣới đất, các cây này có nhiều rễ phát triển nổi trên mặt đất giữ cho cây đứng vững trên bùn nhão không ổn định. Các rễ nổi trên mặt đất còn có chức năng thu nhận và dự trữ khí giúp cây hô hấp trong môi trƣờng ngập nƣớc, thiếu không khí. Rễ hô hấp: Phần ngoài của rễ xốp và mềm, có nhiều khoang chứa không khí dự trữ cho cây sử dụng khi nƣớc ngập cao. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 11
  12. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Rễ chống và bạnh gốc: Rễ mọc từ thân, cành ra và phân nhánh khi gần đâm xuống đất giúp cây cắm chặt trên nền bùn nhão hoặc khi có sóng lớn. Bạnh gốc là phần bè rộng ra ở gốc thân, thƣờng hay gặp ở cây trang và cây vẹt khi đã trƣởng thành. Bạnh gốc cũng góp phần giúp cây đứng vững hơn trong môi trƣờng ngập nƣớc. 1.3.2. Các dạng quả hạt và trụ mầm Quả và hạt của cây ngập mặn có thể chia ra hai dạng khác nhau: Dạng thứ nhất gồm các cây có quả và hạt thông thƣờng nhƣ giá, ô rô, bần, quả chín rụng xuống đất, hạt nảy mầm thành cây con. Dạng thứ hai nhƣ ở các loài cây đƣớc, vẹt, trang, dà, thì hạt nảy mầm ngay khi quả còn ở trên cây mẹ thành một bộ phận dài, dính liền với quả gọi là trụ mầm. Bộ phận dài này chính là một cây con tƣơng lai nên đƣợc gọi là hiện tƣợng “ sinh con trên cây mẹ”. Khi quả chín, nó tự tách ra khỏi cây mẹ rồi rụng xuống, trụ mầm cắm vào trong bùn mọc thành cây con. Các loài cây nhƣ mắm, sú hạt cũng nảy mầm khi quả còn trên cây nhƣng trụ và lá mầm đƣợc bao kín trong vỏ quả nên đƣợc gọi là hiện tƣợng “nửa sinh con trên cây mẹ”. Sinh con và nửa sinh con trên cây mẹ là các hiện tƣợng sinh sản đặc biệt của rừng ngập mặn, giúp cây thích nghi với môi trƣờng sống độc đáo mà thƣờng ở các rừng khác không có. 1.4 . Rừng ngập mặn trên thế giới và Việt Nam [4] 1.4.1. Rừng ngập mặn trên thế giới Trên thế giới có khoảng 16.670.000 ha RNM với hơn 100 loài cây , trong đó Châu Á chiếm 41% diện tích (khoảng hơn 7 triệu ha), Châu Mỹ có 5.781.000 ha và Châu Phi có 3.402.000 ha. Hai nƣớc có diện tích RNM lớn nhất là Indonesia và Brazin (mỗi nƣớc có RNM rộng hơn 3 triệu ha). Vùng Đông Nam Á gồm các nƣớc nhƣ Malaysia, Mianma, Philippin, Thái Lan, Việt Nam là nơi có RNM phát triển của thế giới. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 12
  13. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường 1.4.2. Rừng ngập mặn ở Việt Nam Việt Nam có bờ biển dài khoảng 3260km và hệ thống sông ngòi dày đặc, cứ 20km bờ biển lại có 1 cửa sông, chở phù sa đổ ra biển tạo ra nhiều bãi lầy thuận lợi cho sự hình thành và phát triển các rừng ngập mặn. Khu vực Nam Bộ với hệ thống sông Cửu Long mỗi năm tải ra biển hàng trăm triệu tấn phù sa, độ cao thủy triều từ 2,5 đến 3,5m, quanh năm khí hậu nắng ấm, nhiệt độ trung bình 26°C, không có mùa đông lạnh nên rất thuận lợi cho rừng ngập mặn phát triển. Nơi có rừng ngập mặn phát triển tốt nhất là bán đảo Cà Mau. Trƣớc chiến tranh, diện tích rừng ngập mặn Việt Nam là 400.000ha, phân bố chủ yếu ở khu vực Nam Bộ (250.000ha). Trong đó, 2 vùng có rừng ngập mặn tập trung là bán đảo Cà Mau (150.000ha) và vùng rừng Sác gần Biên Hòa và Sài Gòn (40.000ha). Chiến tranh hóa học của Mỹ từ năm 1962 đến 1971 đã hủy diệt 104.939ha rừng ngập mặn (năm 1963 rừng ngập mặn của Việt Nam chỉ còn 290.000ha). Sau này giải phóng đất nƣớc, nhiều diện tích rừng lại bị khai thác quá mức, lấy đất làm nông nghiệp, mở đƣờng giao thông và xây dựng nhà cửa. Tác hại lớn nhất là việc phá rừng làm đầm nuôi tôm đã phá hủy hầu hết rừng phòng hộ ven biển Việt Nam (năm 1982 diện tích rừng ngập mặn chỉ còn 252.000ha). Tuy nhiên, hiện nay nhiều vùng rừng đã và đang đƣợc trồng mới bởi 1 số tổ chức nhƣ JICA Nhật Bản, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Đan Mạch hay của chính quyền các vùng có rừng ngập mặn phát triển, Hiện nay, theo kết quả thống kê diện tích rừng ngập mặn từ các tỉnh ven biển Việt Nam tập hợp lại, tính đến tháng 12/2001 thì Việt Nam có tổng diện tích RNM khoảng 155.290ha. Trong đó diện tích RNM tự nhiên chỉ có 32.402ha chiếm 21%, diện tích RNM trồng 122.892ha chiếm 79%. Rừng trồng có đặc điểm là độ che phủ thấp, thuần loài, độ đa dạng sinh học thấp hơn rừng tự nhiên. Rừng ngập mặn Việt Nam có 51 loài cây đã đƣợc thống kê, phân bố không giống nhau ở 4 khu vực từ Bắc vào Nam : Khu vực ven biển Đông Bắc từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Đồ Sơn (Hải Phòng). Các loài cây chủ yếu là đâng, vẹt dù, trang, sú, mắm biển. Do Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 13
  14. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường nhiệt độ không khí vào mùa đông thấp nên cây có kích thƣớc nhỏ, chỉ cao khoảng 1,5-7m. Khu vực ven biển đồng bằng Bắc Bộ từ Đồ Sơn đến Lạch Trƣờng (Thanh Hóa). Rừng tập trung nhiều ở vùng cửa sông nƣớc lợ với các loài cây chủ yếu nhƣ bần chua, trang, sú, ô rô. Cây bần có kích thƣớc khá lớn, cao 8-12m, đƣờng kính 15-20cm. Khu vực ven biển miền Trung kéo dài từ Lạch Trƣờng tới Vũng Tàu, bãi hẹp ít phù sa do bờ biển dốc, nhiều gió bão nên rừng chỉ là những dải hẹp ở phía trƣớc các cửa sông. Các loài cây chủ yếu là đƣớc, đâng, vẹt dù, sú, mắm. Cây thƣờng nhỏ, phân cành nhiều. Khu vực ven biển Nam Bộ từ Vũng Tàu tới Hà Tiên, điều kiện đất đai rất thuận lợi nên rừng ngập mặn phát triển tốt nhất, đặc biệt là bán đảo Cà Mau. Rừng có nhiều loài cây nhƣ đƣớc, đƣng, vẹt khang, vẹt tách, vẹt trụ, mắm trắng, mắm đen, mắm quăn, mắm biển, trang, dừa nƣớc, dà vôi, dà quánh, cóc vàng, cóc đỏ, các cây thƣờng có kích thƣớc lớn. 1.5.Vai trò của rừng ngập mặn [4], [6] Rừng ngập mặn đóng vai trò to lớn đối với việc phát triển kinh tế và bảo vệ môi trƣờng. Có thể chia vai trò của rừng ngập mặn đối với con ngƣời thành hai loại: - Vai trò trực tiếp cung cấp các tài nguyên của rừng. - Vai trò gián tiếp trong việc bảo vệ môi trƣờng sống của con ngƣời, điều hòa khí hậu, đảm bảo khai thác bền vững các nguồn lợi kinh tế ven biển. 1.5.1. Các tài nguyên trực tiếp từ rừng a. Tài nguyên lâm nghiệp Công dụng của các loài thực vật rất đa dạng. Tỷ lệ các loài đƣợc sử dụng so với tổng số loài rất lớn. Rừng ngập mặn cung cấp cho nhân dân địa phƣơng những nhu cầu cần thiết hàng ngày nhƣ gỗ xây dựng, lá lợp nhà, thực phẩm, dƣợc phẩm, chất đốt, thức ăn gia súc, Trong số các loài cây ngập mặn đã đƣợc điều tra ở Việt Nam, ngƣời ta chia ra các nhóm sau: Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 14
  15. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường 30 loài cây cho gỗ, than, củi: loài cây cho gỗ giá trị nhất là đƣớc đôi, gỗ đƣớc có thể phục vụ cho xây dựng, sản xuất giấy, cây rừng ngập mặn còn là nguồn cung cấp than củi quan trọng, nhiều loại than cho nhiệt lƣợng cao. 6 loài cây cho tanin: lƣợng tanin ở vỏ cây ngập mặn khá cao, chất lƣợng tốt. Tanin dƣợc dùng trong công nghiệp thuộc da, nhuộm vải, làm keo dán, thuốc chữa bệnh, Tanin đƣợc chiết xuất từ vỏ các loài cây nhƣ đƣớc, trang, sú, vẹt, 14 loài cây làm phân xanh, cải tạo đất: một số loài cây ngập mặn cung cấp phần thân và lá làm nguyên liệu ủ phân xanh nhƣ cây mắm, trang, do chúng có hàm lƣơng đạm, muối, Iot cao, làm phân bón cho cây vừa tốt, lại ít sâu bệnh và nấm. 20 loài cây làm thuốc chữa bệnh: Nhiều loài cây ngập mặn là những cây thuốc dân gian chữa các bệnh thông thƣờng nhƣ: chất tanin ở vỏ đƣớc, dâng chữa bỏng; lá và rễ cây dà vôi chữa sốt rét; ô rô chữa thấp khớp; chồi và rễ non của dừa nƣớc chữa bệnh mụn nhọt, đau răng, đau đầu 9 loài cây chủ thả cánh kiến nhƣ tràm, đƣớc, 21 loài cây cho mật nuôi ong nhƣ các loài mắm, sú, vẹt, đƣớc, chàm, trang, Trong các sản phẩm nông nghiệp, rừng ngập mặn đem lại nguồn mật ong rừng có giá trị kinh tế cao. Các loài cây ở rừng ngập mặn ra hoa xen kẽ nhau nên quanh năm đều có hoa thu hút các đàn ong mật, do tính đa dạng của các loài hoa nên mật ong rừng ngập mặn rất quý. Ngày nay, ngoài việc khai thác tự nhiên, ngƣời ta còn nuôi ong trong các khu rừng. Nghề nuôi ong trong rừng ngập mặn là một hoạt động sản xuất tƣơng đối đơn giản, không làm ảnh hƣởng đến môi trƣờng, ngƣợc lại còn làm tăng năng suất cây rừng nhờ quá trình thụ phấn hoa của ong nên rất đƣợc quan tâm và khuyến khích. Loài cây dừa nƣớc cho nhựa để sản xuất đƣờng, rƣợu, lá lợp nhà. 10 loài cây làm thức ăn vật nuôi: lá cây rừng ngập mặn chứa nhiều đạm là nguồn thức ăn tốt cho vật nuôi. Nếu biết khai thác hợp lý và chế biến tốt Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 15
  16. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường thì chúng sẽ là nguồn nguyên liệu sản xuất thức ăn khô giàu dinh dƣỡng cho cả gia súc, gia cầm và tôm cá nuôi lồng bè. Ngoài ra còn một số loài cây sử dụng cho công nghiệp nhƣ làm nút chai, cốt mũ, cho sợi. Cũng còn một số công dụng chƣa đƣợc chú ý nhƣ làm giấy, ván ép Trong tƣơng lai chúng ta cần tổ chức chế biến, sử dụng. b. Tài nguyên động vật Rừng ngập mặn vừa cung cấp thức ăn trực tiếp (mùn, bã hữu cơ, lá, quả, ), vừa cung cấp gián tiếp qua quần xã động - thực vật làm thức ăn cho các loài lớn hơn. Vì vậy, thành phần hệ động vật trong rừng ngập mặn rất phong phú. Hải sản: Hệ sinh thái rừng ngập mặn đƣợc coi là hệ sinh thái có năng suất sinh học rất cao, đặc biệt là nguồn lợi thủy sản. Kết quả điều tra cho thấy trong rừng ngập mặn nƣớc ta có tới 80 loài giáp xác nhƣ tôm, cua, còng, cáy, hơn 160 loài thân mềm nhƣ ngao, sò, ốc, điệp, ngán, vạng, và khoảng 250 loài cá có giá trị khai thác khác. Động vật trên cạn: Rừng ngập mặn là môi trƣờng trú ẩn và cung cấp nguồn thức ăn phong phú nên có rất nhiều loài động vật quý sinh sống nhƣ cá sấu, rái cá, trăn, rắn, kì đà, khỉ, Ngoài ra, rừng ngập mặn còn là nơi thu hút nhiều loài chim nƣớc, chim di cƣ và các loài dơi quạ tạo thành các vƣờn chim, sân chim lớn với hàng vạn chim non và dơi trong mùa sinh sản. Ví dụ nhƣ sân chim Tân Khánh ở tỉnh Cà Mau rộng 130 ha đƣợc coi là sân chim lớn nhất Đông Nam Á. Sân chim có rất nhiều loài chim quý hiếm của thế giới nhƣ sếu đầu đỏ, cò thìa, diệc, hạc cổ trắng, già đẫy, bồ nông, 1.5.2 . Vai trò gián tiếp đối với môi trƣờng sống, khí hậu, phát triển kinh tế a. Vai trò của rừng ngập mặn đối với môi trƣờng, khí hậu Rừng ngập mặn góp phần mở rộng đất liền và chống thiên tai, xói lở: Sự phát triển của rừng ngập mặn và mở rộng diện tích đất bồi là hai quá trình luôn luôn đi kèm nhau trừ một số trƣờng hợp đặc biệt. Nhìn chung, những bãi bồi có điều kiện thổ nhƣỡng, khí hậu phù hợp, có nguồn giống và đƣợc bảo vệ đều có cây ngập mặn. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 16
  17. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Rễ cây rừng ngập mặn, đặc biệt là hệ thống rễ ở những rừng mọc dày đặc có tác dụng ngăn chặn hiệu quả hoạt động công phá bờ biển của sóng, đồng thời là vật cản làm tăng cƣờng khả năng lắng đọng trầm tích, làm cho nền đất đƣợc nâng cao dần lên và hình thành nên những bãi bồi mới. Nhờ đó là đất liền đƣợc lấn dần ra biển. Rừng ngập mặn còn đƣợc coi nhƣ là những bức tƣờng xanh hạn chế xói lở bờ biển và bờ sông do gió bão và sóng lớn gây ra. Dải rừng ngập mặn rộng, có nhiều tầng tán với nhiều loài cây có tác dụng làm giảm cƣờng độ và làm tan sóng đánh vào sƣờn đê. Vì vậy rừng ngập mặn có tác dụng to lớn trong việc bảo vệ cuộc sống và tài sản của ngƣời dân ven biển. Điều hòa khí hậu: Cũng nhƣ các loại rừng nội địa khác, rừng ngập mặn có tác dụng to lớn trong việc điều hòa khí hậu trong vùng. Về mùa hè, các cây thoát hơi nƣớc nhiều làm tăng độ ẩm không khí, giảm nhiệt độ giúp khí hậu mát mẻ do đó làm tăng lƣợng mƣa ở khu vực. Rừng ngập mặn còn đƣợc ví nhƣ một nhà máy lọc sinh học khổng lồ, không chỉ hấp thụ CO2 do hoạt động công nghiệp và sinh hoạt thải ra, còn sinh ra một lƣợng O2 rất lớn trong quá trình quang hợp làm cho bầu không khí xung quanh khu vực thêm trong lành. Tác dụng phân hủy chất thải: Rừng ngập mặn còn là nơi lƣu giữ và phân huỷ các chất thải từ lục địa chuyển ra. Nhờ các vi sinh vật mà các chất này bị phân hủy trở thành chất dinh dƣỡng cho nhiều sinh vật khác và môi trƣờng đƣợc làm sạch. b. Vai trò của rừng ngập mặn đối với phát triển kinh tế Rừng ngập mặn là nơi nuôi trồng, cung cấp thức ăn cho các loài thủy hải sản: Rừng ngập mặn góp phần duy trì nguồn dinh dƣỡng giàu có đảm bảo cho Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 17
  18. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường sự phát triển của các loài sinh vật. Ngoài các chất thải bã, xác chết của các loài động vật, lƣợng rơi rụng của bản thân cây rừng là nguồn thức ăn nuôi sống hàng loạt các loài hải sản vốn rất đa dạng và phát triển phong phú trong rừng ngập mặn nhƣ tôm, cua, cá, ngao, sò, Rừng ngập mặn là môi trƣờng nuôi trồng các nguồn lợi thủy sản nhƣ ngao, tôm, cua, cá bằng phƣơng pháp quảng canh. Với đặc tính lên xuống của thủy triều, ngƣời dân nuôi trồng hải sản tại rừng ngập mặn sẽ rất ít phải cung cấp thức ăn cho con giống cũng nhƣ việc quan tâm tới chất lƣợng nƣớc, môi trƣờng sống vì rừng ngập mặn chính là môi trƣờng tốt nhất cho các loài hải sản phát triển. Rừng ngập mặn là nguồn cung cấp con giống cho việc nuôi trồng thủy hải sản: với nguồn thức ăn phong phú và nhiều chỗ trú ẩn, rừng ngập mặn là môi trƣờng sống và sinh sản của rất nhiều loài hải sản quý nhƣ tôm, cua, ngao, sò, Vì thế, đây là nơi khai thác con giống với số lƣợng lớn cho các khu nuôi trồng thủy sản. Du lịch sinh thái và nghiên cứu khoa học: Với hệ sinh thái phong phú và đa dạng, rừng ngập mặn có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy. Tại Việt Nam, những năm gần đây khách du lịch có xu hƣớng tìm đến nghiên cứu, tham quan các khu rừng ngập mặn nên nguồn lợi ngành du lịch cũng đƣợc tăng lên, giúp tăng việc làm, thu nhập của ngƣời dân quanh khu vực. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 18
  19. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường CHƢƠNG II : ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tƣợng [7], [8] Đối tƣợng của nghiên cứu là Vƣờn quốc gia Xuân Thủy thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Vƣờn quốc gia Xuân Thủy là một khu rừng ngập mặn thuộc khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng. Đây là rừng ngập mặn đầu tiên ở Việt Nam đƣợc quốc tế công nhận theo công ƣớc Ramsar (Công ước bảo vệ những vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt như là nơi cư trú của những loài chim nước) là rừng ngập mặn thứ 50 của thế giới. Vƣờn quốc gia Xuân Thủy đƣợc nâng cấp từ Khu bảo tồn đất ngập nƣớc Xuân Thủy theo quyết định số 01/2003/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 2 tháng 1 năm 2003. Đây là vùng cửa sông ven biển tiêu biểu cho mẫu chuẩn của hệ sinh thái rừng ngập mặn điển hình ở miền Bắc Việt Nam, là vùng đất đa dạng sinh học, chứa nhiều tài nguyên có giá trị về kinh tế và khoa học nên rất cần các biện pháp bảo tồn, quản lý thích hợp để có thể tiếp tục nghiên cứu, khai thác một cách bền vững nhất. Hình 2.1. Hình ảnh Vườn quốc Gia Xuân Thủy Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 19
  20. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Vị trí địa lý: Vƣờn quốc gia Xuân Thủy nằm ở phía Đông Nam huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, ngay tại cửa Ba Lạt của sông Hồng, cách Hà Nội khoảng 160km. Diện tích vùng lõi vƣờn khoảng 7.100 ha, gồm: 3.100 ha đất nổi và 4000 ha đất rừng ngập nƣớc. Diện tích vùng đệm khoảng 8000ha. Giáp giới và toạ độ địa lý: - Phía Đông Bắc giáp Sông Hồng - Phía Tây Bắc giáp các xã Giao Thiện ,Giao An ,Giao Lạc ,Giao Xuân và Giao Hải. - Phía Nam giáp Vịnh Bắc Bộ. - Toạ độ địa lý: Từ 200 10' đến 200 15' Vĩ độ bắc. Từ 1060 20 ' đến 1060 32' Kinh độ đông. Địa hình: Vùng bãi bồi có độ cao trung bình từ 0,5 - 0,9m. Đặc biệt ở Cồn Lu có nơi cao tới 1,2 - 2,5 m. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Địa hình vùng bãi triều bị phân cắt bởi sông Vọp và sông Trà, chia khu vực thành 4 khu là: Bãi Trong, Cồn Ngạn, Cồn Lu và Cồn Xanh. Trong khoảng vài chục năm gần đây, vùng bãi triều cửa sông Hồng thuộc huyện Giao Thuỷ đƣợc con ngƣời quan tâm nhiều hơn để cố gắng khai thác sử dụng nguồn lợi tự nhiên phục vụ quốc kế dân sinh. Giai đoạn 1960 - 1985 là thời kỳ quai đê lấn biển theo phƣơng châm:"lúa lấn cói, cói lấn vẹt, vẹt lấn biển", ở giai đoạn này đã quai đê lấn biển đƣợc khoảng 300 ha ở sát chân đê Ngự Hàn (vùng Điện Biên - Xã Giao An). Từ năm 1985 - 1995 là giai đoạn mở cửa và thay đổi về chiến lƣợc phát triển kinh tế vùng biển. Phƣơng châm "vẹt lấn biển, tôm lấn vẹt" đã tạo ra hàng ngàn ha đầm tôm ở vùng Bãi Trong và Cồn Ngạn. Hai trục đƣờng 1 và 2 nối đê Ngự Hàn và đê Vành lƣợc đã tạo ra một vùng cảnh quan mới (vùng nuôi trồng thuỷ sản quảng canh cải tiến). Hàng ngàn ha rừng đã bị phá để làm đầm tôm. Gần 2000 ha bãi triều không còn giữ đƣợc cảnh quan tự nhiên nữa mà bị ngăn Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 20
  21. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường thành nhiều ô thửa để điều tiết nƣớc theo yêu cầu nuôi trồng thuỷ sản quảng canh của chủ đầm. Nhà nƣớc địa phƣơng cũng can thiệp khá mạnh bằng cách quy hoạch vùng nuôi, xây dựng các công trình giao thông thuỷ lợi, làm thay đổi đáng kể bộ mặt tự nhiên ở khu vực bãi bồi vùng cửa sông Hồng của Huyện Giao Thuỷ. Cảnh quan hùng vĩ và hoang dã của vùng bãi triều đã nhƣờng chỗ cho các mô hình canh tác mới của con ngƣời. Đồng thời kéo theo sự suy giảm về số lƣợng và chất lƣợng các loài động vật hoang dã và môi trƣờng sinh thái tự nhiên của khu vực. Tuy nhiên với tầm nhìn xa trông rộng, Chính phủ đã lƣu giữ lại một vùng đất ngập nƣớc nguyên sinh, hiện là vùng lõi của Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ, đây là một di sản thiên nhiên quý giá, không gì có thể thay thế đƣợc dành cho các thế hệ mai sau. Thổ nhưỡng: Đất đai toàn vùng cửa sông Hồng nói chung đƣợc thành tạo từ nguồn sa bồi (phù sa bồi lắng) của toàn bộ hệ thống sông Hồng. Vật chất bồi lắng bao gồm 2 loại hình chủ yếu: bùn phù sa (cố kết dần trở thành lớp đất thịt) và cát lắng đọng (tích đọng và di động do ngoại lực trở thành giồng cát). Mức độ cố kết khác nhau của loại đất thịt và mức độ nâng cao trình giồng cát đã tham gia vào sự khác biệt chi tiết của những loại tầng đất và phân bố đất với những loại hình: - Đất nhẹ, cát pha và thịt nhẹ, phần nhỏ cát thuần. - Đất trung bình, thịt trung bình. - Đất nặng từ thịt nặng đến đất sét (sét cố kết). Những nhóm đất chƣa ổn định còn bị ảnh hƣởng mạnh mẽ của nhật triều, sóng, dòng lũ và dòng chảy ven bờ, chƣa cố kết và ở dạng bùn lỏng. Tầng dƣới sâu đã dần dần ổn định và hình thành tầng dƣới, tầng trên không dầy quá 20 cm. Tập đoàn cây thuộc loại hình rừng ngập mặn có vai trò tích cực cố định lớp đất, nâng dần cốt cao trình ven biển. Lƣợng phù sa ở cửa Ba Lạt trung bình 1,8 gram trong 1 lít nƣớc là cơ sở hình thành những cồn đất bồi lắng kéo dài theo hƣớng Tây Nam (lƣỡi đất cửa sông). Độ pH của lớp đất khá ổn định (thịt - thịt nặng từ Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 21
  22. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường 7,2 - 7,6) và mức độ nhiễm mặn với mật độ biến động từ 17,2 - 20 miligam trong 100 gram đất khô lấy mẫu. Đất bùn lỏng hay đất đã cố định giàu dinh dƣỡng, thích hợp với nhiều loài cây ngập mặn. Thể hiện rất rõ mối quan hệ chặt chẽ và ảnh hƣởng tƣơng tác theo chiều hƣớng có lợi giữa thổ nhƣỡng với quần thể rừng ngập nƣớc, hình thành hệ sinh thái đặc trƣng của vùng cửa sông ven biển. Các loại đất cụ thể của khu vực đƣợc thể hiện qua 2 bảng: Bảng 2.1 Diện tích các loại đất đai ở vùng lõi VQGXT ĐV tính: ha Loại đất Đất còn Đất cát và cát Đất thịt + sét Tổng số ngập pha nƣớc Có thƣờng Có Đất Đất Có Đất Tổng phi Tổng Tổng xuyên và RNM trống trống rừng trống lao Khu vực sông lạch Cồn Ngạn 300 644 140 784 200 200 644 640 1284 Cồn Lu 1200 1118 250 1368 93 521 614 1211 1971 3182 Cồn Mờ 2500 134 134 2634 2634 Tổng 4000 1762 390 2152 93 855 948 1855 5245 7100 Vùng lõi của vƣờn rộng 7100 ha, trong đó 4000 ha đất ngập nƣớc, 3.100 ha đất nổi khi triều kiệt (gồm 948 ha đất cát và cát pha, 2152 ha đất thịt và sét). Nếu tính theo đất rừng thì có 1855 ha đất rừng ngập mặn và phi lao, 1245 ha đất trống. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 22
  23. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Bảng 2.2 Các loại đất đai ở vùng đệm ĐV tính: ha Loại đất Đất còn Đất cát & cát Đất thịt + sét Tổng số ngập pha nƣớc Có Có Đất Đất Có Đất thƣờng Tổng phi Tổng Tổng RNM trống trống rừng trống Khu vực xuyên lao 5 xã V.đệm 699,4 3576,6 3576,6 4276 4276 Bãi trong 708,0 844 992 1836 6 214 220,0 850 1914 2764 Cồn Ngạn 880 80 960,0 880 80 960 Tổng số 1407,4 1724 4648,6 6372,6 6,0 214 220 1730 6270 8000 Vùng đệm của vƣờn quốc gia rộng 8000 ha, trong đó 1407 ha là đất ngập nƣớc khi triều kiệt, 6593 ha là đất nổi (220 ha đất cát và pha cát, 6373 ha đất thịt và đất sét). Nếu tính theo đất rừng thì có 1724 ha đất rừng ngập mặn, 6 ha đất trồng phi lao và 4662 ha đất trống. Thủy văn: Thuỷ triều: thuỷ triều ở khu vực thuộc chế độ nhật triều với chu kỳ khoảng 25 giờ, thuỷ triều có biên độ khá lớn, biên độ trung bình 150-180 cm, thuỷ triều lớn nhất đạt đến: 4,5 m; nhỏ nhất là: 0,0 m Thuỷ văn: khu vực bãi triều huyện Giao Thuỷ đƣợc cung cấp nƣớc từ Sông Hồng, có 2 sông chính trong khu vực bãi triều là sông Vọp và sông Trà, ngoài ra còn một số lạch nhỏ cấp thoát nƣớc tự nhiên. - Sông Vọp: chảy từ cửa Ba Lạt ra biển Giao Hải dài khoảng 12 km, là ranh giới ngăn cách giữa Cồn Ngạn và Bãi Trong. Năm 1986, Đập Vọp đã ngăn Sông Vọp thành 2 phần Đông Vọp và Tây Vọp. Vì vậy không có nƣớc lƣu thông nhiều năm, lòng sông Vọp ở phía Sông Hồng đã bị phù sa lấp đầy. Năm 2002 Cầu Vọp đƣợc mở nhƣng lƣu lƣợng nƣớc qua sông Vọp hiện tại vẫn còn rất nhỏ Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 23
  24. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường - Sông Trà: chảy từ Cửa Ba Lạt xuống phía Nam ra biển gặp sông Vọp ở biển Giao Hải, dài khoảng 12 km và là ranh giới ngăn cách giữa Cồn Ngạn và Cồn Lu. Sông Trà bị lấp ở đoạn giữa (từ ngang Cồn Tàn - Bãi Nứt đến phía cuối Cồn Ngạn) do sóng biển đẩy giồng cát ở ngang khu vực Ba mô (Cồn Lu) tràn qua vùng bãi bồi ngập nƣớc và đã lấp đầy đoạn sông Trà nêu trên (đoạn giữa Sông Trà bị lấp dài gần 3 km). Nhƣ vậy sông Trà chỉ thông thƣơng khi thuỷ triều ngập tràn qua bãi sú vẹt. Đây cũng là một hạn chế lớn cho điều kiện thuỷ văn ở khu vực, ảnh hƣởng tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển kém hiệu quả của nhiều loài động thực vật ở khu cuối Cồn Ngạn và Cồn Lu. - Đặc điểm thuỷ văn của hệ thống Sông Hồng: Sông Hồng có tổng lƣợng nƣớc bình quân là 114.109 m3/năm và dòng bùn cát là 115 triệu tấn/ năm. Dòng bùn cát này góp phần bồi đắp lên châu thổ sông Hồng với tốc độ tiến ra biển bình quân 17 đến 83m/năm. Vào mùa lũ, lƣợng dòng chảy chiếm tới 75 - 90% tổng lƣợng nƣớc cả năm và mang tới 90% lƣợng bùn cát, gây ra sự ngập úng của vùng đồng bằng, bồi lấp luồng lạch cửa sông và làm cho khu vực cửa sông bị ngọt hoá. Ngƣợc lại vào mùa kiệt, vùng cửa sông bị thu hẹp, thuỷ triều lên, đƣa nƣớc mặn xâm nhập sâu vào lục địa theo các dòng sông, làm tăng phạm vi bị nhiễm mặn (vào sâu trong lục địa tới trên 20 km). Độ mặn nƣớc biển của khu vực biến thiên nhiều phụ thuộc vào pha của thuỷ văn và chế độ lũ của Sông Hồng. Vào mùa đông độ mặn trung bình của nƣớc biển tƣơng đối đồng nhất trong khoảng 28-30%. Vào mùa hè, độ mặn trung bình thấp hơn mùa đông, dao động trong khoảng 20-27 %. Khí hậu: Khu vực bãi triều của huyện Giao Thuỷ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Đầu mùa đông không khí lạnh khô, cuối mùa đông không khí lạnh ẩm. Mùa hạ từ tháng 5 đến tháng 9, khí hậu nóng ẩm, thƣờng xuyên xuất hiện dông bão và áp thấp nhiệt đới. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 24
  25. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Tổng lƣợng bức xạ lớn, từ 95 - 105 Kcal/cm2/năm. Tổng nhiệt năm từ 8000-85000C. Nhiệt độ trung bình năm là 240C, biên độ nhiệt trong năm rất lớn (từ thấp nhất là 6,80C đến cao nhất là 40,10C). Lƣợng mƣa trung bình năm là 1.175 mm. Số ngày mƣa trong năm là 133 ngày. Năm có lƣợng mƣa cao nhất là 2.754 mm, năm thấp nhất là 978 mm. Chế độ gió: từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau hƣớng gió thịnh hành là đông bắc. Sang mùa hạ (tháng 4-9) hƣớng gió thịnh hành là gió đông nam. Vận tốc gió trung bình vào khoảng 4-6m/s. Vào những ngày bão vận tốc gió có thể đạt đến 40-50 m/s. Hàng năm có khoảng 3-5 trận bão, chủ yếu tập trung vào các tháng 7,8,9. Cơn bão đặc biệt nhất xảy ra vào ngày 26/8/1973, mƣa và gió to đã tạo ra lũ lớn cắt đôi Cồn Lu thành hai phần để sông Hồng mở cửa chạy thẳng ra biển (hƣớng sông Hồng cũ, nay là sông Hồng lấp chảy về phía bãi triều của huyện Tiền Hải - Tỉnh Thái Bình). Địa danh Cồn Vành của Tỉnh Thái Bình đƣợc hình thành từ ngày đó. Độ ẩm không khí: khá cao, khoảng từ 70- 90%, các tháng 10,11,12 có độ ẩm không khí thấp (thƣờng nhỏ hơn 75%). Các tháng 2,3,4 có độ ẩm rất cao (80- 90%) thƣờng đi kèm theo mƣa phùn ẩm ƣớt. Độ bốc hơi trung bình 86 - 126 mm/tháng và đạt tối đa vào tháng 7. Độ bốc hơi trung bình năm là 817,4mm. Tài nguyên sinh vật: a. Hệ thực vật Số lƣợng và thành phần loài: Trƣớc năm 1999, đã phát hiện 95 loài và phát hiện bổ sung của Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ trong thời gian gần đây (đó là môt số loài ít phổ biến). Thành phần thực vật bậc cao có mạch VQG Xuân Thuỷ: Có các ngành: Khuyết thực vật - Psilotophyta (6loài), thực vật hạt kín Angiospermae (109 loài), thực vật hai lá mầm - Dicotyledones (85 loài), thực vật một lá mầm - Monocotyledones (34lòai). Tuy nhiên, thành phần họ và chi thực vật rất đa dạng so với tổng số loài, với chỉ có 116 loài nhƣng đó là sự đóng góp của 42 họ, 99 chi thực vật. Có tới 24 họ chỉ có 1 loài trong họ, 6 họ có 2 loài, 4 Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 25
  26. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường họ có 3 loài, 2 họ có 4 loài, 6 họ còn lại có từ 5 loài trở lên. Họ có số loài lớn nhất là Họ Cỏ (Poaceae)18 loài, sau đó là họ Cúc (Compocitae) 14 loài, họ Cói (Cyperaceae), 10 loài và họ Đậu (Leguminosae) 8 loài. Đối với các loài cây gỗ ở rừng ngập mặn thƣờng mọc tự nhiên thuần loài hoặc nếu đƣợc trồng thì cũng thuần loài nên chúng càng nghèo về thành phần loài. Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ có 14 loài cây gỗ, trong đó chỉ có 6 loài tham gia vào rừng ngập mặn và rừng phi lao tập trung, đó là các loài: mắm biển, sú, vẹt dù, trang, đƣớc và phi lao. Diện tích và phân bố của các loại rừng: Có khoảng 25 loài thích ứng với điều kiện sống ngập nƣớc và loại hình đất lầy thụt tạo nên trên 3000 ha rừng ngập mặn. Trải dài trên các giồng cát ở Cồn Lu và Bãi Trong có gần 100 ha rừng phi lao. Bảng 2.3 Diện tích các loại rừng và bãi bồi ở Vườn quốc gia Xuân Thuỷ Đơn vị tính : ha Hạng Bãi Tổng Diện tích đầm tôm Rừng Rừng mục bồi DT cồn không Có Không ngập Khu vực cát Tổng phi lao kể đất RNM rừng mặn trống khác Bãi trong 187 36 812 848 808 6,0 1849 Cồn ngạn 340 960 80 1040 556 1936 Cồn lu 639 67 67 1051 93,0 1850 Cồn 124 124 Xanh Tổng DT 1290 1063 892 1955 2415 99,0 5759 Phần 1103 217 217 1545 93 2958 diện tích thuộc VQGXT Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 26
  27. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường b. Lớp chim Theo điều tra bƣớc đầu của Birdlife international ở Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ đã gặp 219 loài chim thuộc 41 họ, 13 bộ. Khu hệ chim ở đây tiêu biểu là các loài bộ Hạc, bộ Ngỗng, bộ Rẽ và bộ Sẻ. Trong 13 bộ chim ở khu vực, Bộ Sẻ chiếm số lƣợng nhiều nhất tới 40% sau đó là bộ Rẽ, bộ Hạc, bộ Sếu và bộ Sả. Bộ Chim Lặn chỉ có hai loài. Nếu so sánh với Danh lục các loài chim Việt Nam ở Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ có: + 219 loài bằng 26,5 % của tổng số loài chim cả nƣớc 828 loài. + 41 họ bằng 50,61 % tổng số họ chim cả nƣớc 81 họ. + 13 bộ bằng 68,42% tổng số bộ chim cả nƣớc 19 bộ. Nhƣ vậy sự đa dạng của khu hệ chim ở Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ là tƣơng đối cao nếu so sánh với Vƣờn quốc gia khác. Các sinh cảnh chính thƣờng gặp là: rừng ngập mặn (64,6% ), bãi sậy và cói (67,4%), bãi bồi và cồn cát trống (55,1%), rừng phi lao (42,2%). Những loài chim quý hiếm đƣợc ghi vào sách đỏ quốc tế thƣờng gặp là: Cò thìa, Bồ nông, Cò trắng, Mòng bể mỏ ngắn, Choắt đầu ,Choi choi mỏ thìa, Choắt chân màng lớn, Te vàng. Hai loài Cò thìa và Mòng bể mỏ ngắn đƣợc coi là đỉnh của chuỗi dinh dƣỡng đã có mặt khá đông ở Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ. Có thời điểm loài Cò thìa đã chiếm tới 20% số cá thể còn lại của thế giới. Loài Choi choi mỏ thìa là loài cực hiếm, hầu nhƣ chỉ có thể thấy ở Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ. Có lúc đã phát hiện trên 20 cá thể. Những năm gần đây chỉ còn thấy dăm ba cá thể vào mùa di trú. Trong số 219 loài chim, có tới 150 loài di trú và gần 50 loài chim nƣớc. Những loài chim nƣớc và chim di cƣ có số lƣợng cá thể đông nhất: vào mùa di trú có thể gặp 30 đến 40 ngàn con (Tiêu chí của một vùng đất ngập nƣớc có tầm quan trọng quốc tế chỉ là 20.000 con). Hàng năm vào mùa đông, (Từ tháng 11, 12) chim di trú từ Siberi, Hàn Quốc, Bắc Trung Quốc di cƣ tránh rét xuống phía nam, Vƣờn quốc gia Xuân Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 27
  28. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Thuỷ là ga chim quan trọng trong chu trình di cƣ của nhiều loài chim. Đến Vƣờn quốc gia Xuân Thủy, chim di trú dừng chân để nghỉ ngơi và tích luỹ năng lƣợng cho hành trình di cƣ dài hàng ngàn km của mình. Khi mùa xuân ấm áp chim lại từ phía Nam (Australia, Malayxia, Indonêxia) trở về nơi sinh sản (khoảng tháng 3,4) lại dừng chân ở Xuân Thuỷ. Có những loài đã trú đông ở Xuân Thuỷ thời gian khá dài, nhƣ Cò Thìa (từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau). Vƣờn quốc gia Xuân Thủy cũng là địa điểm lý tƣởng của nhiều loài chim định cƣ. Chính vì vậy Vƣờn quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc bảo tồn các loài chim, bao gồm cả chim bản địa và đặc biệt quan trọng đối với dòng chim di trú quốc tế. c. Lớp thú Theo điều tra sơ bộ có khoảng chục loài thú ở trên cạn là các loài: dơi, chuột, cầy, cáo , ở dƣới nƣớc có ba loài quí hiếm là: Rái cá (Lutra lutra), Cá heo(Lipotes vexilifer) và Cá heo ông sƣ (Neophocaera phocaenoides). Cá heo thƣờng gặp vào mùa mƣa bão (Từ tháng 8 đến tháng 10 hàng năm). d. Các lớp bò sát, lƣỡng cƣ và côn trùng Theo số liệu điều tra chƣa đầy đủ,đã có hàng trăm loài sinh sống ở Vƣờn quốc gia Xuân Thủy tạo nên sự phong phú và cân bằng hài hoà của hệ sinh thái. Số liệu về đa dạng sinh học của các lớp Bò sát và Lƣỡng cƣ đƣợc điều tra sơ bộ là 27 loài, côn trùng có 112 loài. e. Tài nguyên thuỷ sản Thực vật thuỷ sinh: Thành phần rong biển ở khu vực khác nhau về tình trạng phát triển. Các loài rong có giá trị kinh tế thuộc 2 ngành rong đỏ và rong xanh, tiêu biểu là Rong câu chỉ vàng (Gracilaria bodgettii). Trong các thuỷ vực của vùng cửa sông có lau sậy, cói và rong tảo. Đa số rong tảo là nguồn thức ăn quan trọng của tôm cá và các loài động vật thuỷ sinh khác. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 28
  29. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Theo số liệu của Sở thuỷ sản, mùa khô 1996 có kết quả thu mẫu của 37 loài thuộc 4 ngành tảo nhƣ sau: Ngành tảo Silic (Bacillariophyta): 15 chi, 27 loài, chiếm 73% Ngành tảo Giáp (Pirophy): 2 chi, 4 loài, chiếm 10,8% Ngành tảo Lam (Cyanophyta): 2 chi, 3 loài, chiếm 8% Ngành tảo lục (Chlorophyta): 3 chi, 3 loài, chiếm 8% Kết quả thu mẫu mùa mƣa năm 1996 đƣợc 40 loài theo tỷ lệ: Ngành tảo Silic: 15 chi, 3 loài, chiếm 75% Ngành tảo Giáp: 1 chi, 5 loài, chiếm 12,5% Ngành tảo Lam: 2 chi, 2 loài, chiếm 2% Ngành tảo Lục: 3 chi, 3 loài, chiếm 7,5% Số tảo Giáp, Lục, Lam không có giá trị làm thức ăn cho thuỷ hải sản chiếm 25% tổng số loài. Mặc dù số loài phát hiện ở trên còn thấp nhƣng lại có mặt nhiều loài ƣu thế ở vùng cửa sông ven biển, ngành tảo Silic chiếm tỷ lệ lớn tạo lên sinh khối lớn làm thức ăn phong phú cho các loài động vật thuỷ sinh. Mật độ tế bào trung bình trong mùa mƣa là 140.370 tế bào /m3 nƣớc, mùa khô là 2.275.644 tế bào /m3 nƣớc. Nhƣ vậy có sự chênh lệch lớn giữa mùa khô và mùa mƣa. Mùa khô mật độ tế bào cao gấp 16 lần mùa mƣa. Đặc biệt là tảo Thalassiothrix có mật độ cá thể cao và xuất hiện phổ biến ở tất cả các trạm thu mẫu. Động vật nổi: Đóng vai trò quan trọng vùng cửa sông Hồng bao gồm 165 loài của 14 nhóm chính nhƣ: Copepoda, Cladocera, Siphonophora, Chaetognatha, Nauphius. Tất cả các nhóm phù du động vật ở Sông Hồng đều có giới hạn muối và độ rộng nhiệt, bắt nguồn từ biển nhiệt đới thích nghi với dao động lớn của độ muối ở môi trƣờng cửa sông và mật độ của chúng cũng dao động rất lớn tuỳ theo các điều kiện cụ thể của môi trƣờng. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 29
  30. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường *Định tính (Kết quả của Sở thuỷ sản 1996): Về mùa khô: thu đƣợc 33 loài, thuộc 7 nhóm. Chiếm ƣu thế là Copepoda với 19 loài, chiếm 57,5%. Về mùa mƣa: thu đƣợc 42 loài, thuộc 7 nhóm, nhóm Copepoda chiếm ƣu thế có 27 loài, chiếm 64,3%. *Định lƣợng: Sự phân bố cá thể động vật nổi chịu sự chi phối của độ muối là yếu tố giới hạn chủ yếu đối với sự xâm nhập của các loài động vật nổi vào vùng cửa sông và kiểm soát sự phát triển về số lƣợng của chúng. Về mùa khô mật độ cá thể đạt mức hàng chục ngàn con /m3 nƣớc. Về mùa mƣa mật độ cá thể giảm xuống dƣới 1000 con/m3. Nhìn chung mật độ cá thể giảm quá nửa. Riêng cửa Ba Lạt giảm chỉ còn 6%. Dù là mùa khô hay mùa mƣa, giáp xác chân chèo vẫn là nhóm có số lƣợng cá thể cao nhất, tạo lên sinh khối lớn, làm nguồn thức ăn phong phú cho các loài động vật khác trong vùng. Động vật đáy: Thành phần động vật đáy tƣơng đối phong phú, đã phát hiện 154 loài, thuộc các nhóm phổ biến nhƣ Polychaeta, Mollusca và Crustacea. Mùa khô chiếm 78%, mùa mƣa chiếm 59% số loài đã gặp. Trong đó có một số loài có giá trị kinh tế cao nhƣ: Ngao (Meretrix lusoria), Vọp (Mactra quadrangularis), Cua rèm (Scylla serrata), Ghẹ (Portunus penaeus), Tôm he (Penaeus Merguiensis), Tôm rảo (Metapennaus ensis), Tôm vàng (Metapenmus soyneri). Gần đây Tôm sú ( Pennaeus monodon) đã đƣợc đƣa vào nuôi có giá trị kinh tế khá cao, bổ xung cho cơ cấu loài hải đặc sản của vùng. Về định lƣợng của động vật đáy cỡ nhỏ thuộc nhóm giun nhiều tơ, ấu trùng, nhuyễn thể ở giai đoạn bám, ấu trùng giáp xác sống đáy với kết quả nhƣ sau: Mùa khô: 2.400 cá thể/m3 nƣớc (trung bình) Mùa mƣa: 450 cá thể/m3 nƣớc ( trung bình) Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 30
  31. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Cá: Vào những năm 1980 đã thống kê đƣợc 156 loài, năm 2002 điều tra sơ bộ thấy 107 loài thuộc 12 bộ, 44 họ, có trên 40 loài cá có giá trị kinh tế sản lƣợng cá đạt khoảng 4000tấn/năm. Một số loài có giá trị cao nhƣ: Cá vƣợc, Cá, Cá đối, Cá dƣa, Cá nhệch, Cá Tráp, Về mặt số lƣợng các loài cá trên chiếm tỷ lệ khá lớn. Tuy nhiên thời gian gần đây bị suy giảm do bị khai thác quá mức. Sự hình thành và phát triển của Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thủy (nay là Vườn quốc gia Xuân Thủy): [3] a. Tổ chức Để quản lý tốt khu Ramsar Xuân Thuỷ, năm 1992, ủy ban nhân dân huyện Xuân Thuỷ đã thành lập Trung tâm tài nguyên - môi trƣờng của huyện. Đây là một đơn vị sự nghiệp có quy mô biên chế nhỏ và năng lực mọi mặt còn có rất nhiều hạn chế. Từ ngày thành lập Trung tâm đã hợp tác với các đơn vị hữu quan để quản lý bảo vệ tài nguyên - môi trƣờng khu vực; tiếp nhận vốn ngân sách địa phƣơng để xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên và hợp tác với một số tổ chức quốc tế để tổ chức các dịch vụ phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, Trung tâm chỉ là một đơn vị nhỏ trực thuộc cấp huyện, không có tiềm lực tài chính và không đủ năng lực pháp lý để quản lý hiệu quả khu Ramsar Xuân Thuỷ. Mặt khác mô hình Trung tâm không nằm trong hệ thống quản lý bảo tồn thiên nhiên của quốc gia, nên không thể có đƣợc cơ chế và chính sách thích hợp để bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên - môi trƣờng ở khu vực. Năm 1993, ngành Lâm nghiệp đã đề xuất xây dựng khu Ramsar Xuân Thuỷ trở thành khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nƣớc Xuân Thuỷ thuộc hệ thống các Vƣờn quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên của Việt nam. Viện điều tra quy hoạch rừng - Bộ Lâm nghiệp đã tiến hành lập luận chứng kinh tế kỹ thuật cho Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nƣớc Xuân Thuỷ. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 31
  32. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Đƣợc sự uỷ quyền của Thủ Tƣớng Chính Phủ, ngày 19/1/1995, Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn) đã ký quyết định số: 26- LN/KH: Phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thuỷ. Từ đó trở đi Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nƣớc Xuân Thuỷ chính thức đƣợc thành lập, khu bảo tồn trực thuộc Chi Cục kiểm lâm Nam Định. Vốn dự toán đầu tƣ cho giai đoạn 1995-2005 là: 8.3 tỷ đồng. Sự kiện đó cũng tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức quốc tế quan tâm đầu tƣ phát triển cho Khu vực này. b. Các mục tiêu và chức năng cơ bản Theo luận chứng đã đƣợc phê duyệt (tháng 1/1995) các mục tiêu và chức năng cơ bản của Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nƣớc Xuân Thuỷ là: - Bảo vệ sinh cảnh của vùng diễn biến địa lý sinh học (những diễn biến về địa lý và quần thể sinh vật ở vùng cửa Ba Lạt & ven biển Đông). - Phòng hộ ven biển vùng cửa Sông Hồng. - Là hiện trƣờng nghiên cứu khoa học trong nƣớc và quốc tế. - Phát huy hiệu quả văn hoá giáo dục và du lịch sinh thái. - Góp phần tích cực vào chƣơng trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện Xuân Thuỷ và của tỉnh Nam Định. Hoạt động của đội ngũ cán bộ công chức Nói chung chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu quản lý bảo vệ tài nguyên - môi trƣờng, nghiên cứu khoa học và giao lƣu quốc tế. Ban quản lý Vƣờn quốc gia hiện có 12 nhân viên trong biên chế. Trong đó phân công: 2 lãnh đạo, 4 kỹ thuật, 2 hành chính, 4 bảo vệ tài nguyên - môi trƣờng. Việc phân công chỉ mang tính tƣơng đối bởi vì khi có công việc đòi hỏi phải tập trung nhiều nhân lực thì đơn vị phải dốc toàn bộ lực lƣợng vào để giải quyết. Bởi vậy tính chuyên môn không cao, hiệu quả công việc thấp. Hiện tại ở đơn vị có 5 kỹ sƣ lâm nghiệp, 2 kỹ sƣ sinh học, 1 kỹ sƣ nông nghiệp, 1 cử nhân kinh tế, 1 cử nhân ngoại ngữ và 2 trung cấp. Thiếu các cán bộ ở chuyên ngành: Thuỷ sản, Luật và Môi trƣờng. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 32
  33. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Điều kiện làm việc tƣơng đối khó khăn, cơ sở hạ tầng nhỏ bé xuống cấp, thông tin liên lạc rất trục trặc, thu nhập còn thấp. Những cán bộ của các Ban ngành hữu quan có hiểu biết về bảo tồn thiên nhiên đất ngập nƣớc không nhiều, nên hiệu quả của công tác lãnh chỉ đạo và phối kết hợp để thực hiện các chƣơng trình mục tiêu của Vƣờn quốc gia Xuân Thủy còn chƣa cao. Năng lực về pháp lý của Vƣờn quốc gia còn yếu: mới chỉ có một Hạt kiểm lâm với biên chế mỏng (4 ngƣời, trực thuộc Chi cục Kiểm lâm) nên không có đủ thẩm quyền để xử lý các vi phạm xâm hại tài nguyên - môi trƣờng ở khu vực. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ pháp lý và cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý chƣa tƣơng xứng với chức năng nhiệm vụ đƣợc giao. Nhiều chƣơng trình hoạt động đƣợc đề xuất trong Luận chứng kinh tế - kỹ thuật, nhƣng do có những khó khăn về vốn đầu tƣ nên chƣa đƣợc xây dựng thành kế hoạch hoạt động cụ thể. Các chính sách của Nhà nƣớc đã ban hành liên quan đến việc quản lý đất đai, quản lý tài nguyên rừng (nhƣ Nghị định 02 - CP ngày 15/1/1994 và quyết định số 202/TTg ngày 2/5/1994 của Thủ tƣớng Chính Phủ ban hành quy định về khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng rừng và nhiều văn bản khác ) là những văn bản tạo thuận lợi cho cơ chế quản lý Khu bảo tồn, nhƣng vẫn chƣa đƣợc tổ chức thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Cơ sở hạ tầng - Giao thông: đƣòng bộ ở khu vực Vƣờn quốc gia xuân Thuỷ phần lớn là hệ thống đƣờng tạm chạy qua nền đầm lầy nên chất lƣợng công trình còn rất thấp. Chỉ có 4 km đƣờng trục I (nối đê Ngự Hàn với nhà Môi trƣờng) đƣợc rải nhựa đƣờng cho xe ô tô đi lại dễ dàng. Về mùa mƣa xe cơ giới qua lại rất khó khăn vì đƣờng quá nhỏ và lầy lội. Đoạn đê Vành Lƣợc dài 9km cốt đất còn thấp và mặt đƣờng nhỏ, lại chƣa đƣợc rải đá cấp phối nên đi tuần tra gặp nhiều trở ngại. Nói chung hệ thống đƣờng bộ ở nội vi Vƣờn còn khá nhiều khó khăn, không đáp Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 33
  34. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường ứng đƣợc yêu cầu của việc thừa hành công vụ quản lý bảo vệ Vƣờn quốc gia Xuân thuỷ và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực. Đƣòng thuỷ: hoạt động giao thông thuỷ ở khu vực cũng gặp rất nhiều khó khăn trở ngại. Đặc biệt khi gặp triều kiệt các phƣơng tiện thuỷ lớn hầu nhƣ không thể cơ động đƣợc. - Hệ thống cấp điện và bƣu chính viễn thông: Điện lƣới: mới chỉ kéo tạm thời đến đầu đê Ngự Hàn (ở khu dân cƣ tập trung) nên Nhà môi trƣờng và hệ thống các đầm tôm ở Cồn Ngạn đến nay vẫn chƣa có điện lƣới để sử dụng trong sinh hoạt và sản xuất nuôi trồng thủy sản. Khu trung tâm hành chính - dịch vụ của Vƣờn quốc gia đã đƣợc cấp điện lƣới. Hệ thống thông tin liên lạc: cũng còn nhiều bất cập, sóng cáp điện thoại rất trục trặc. Đơn vị vẫn chƣa thể trang bị internet, máy fax và các phƣơng tiện thông tin tối thiểu khác phục vụ cho nhu cầu làm việc và học tập của cán bộ công chức. - Hệ thống nƣớc sạch: Do ở vùng đầm lầy cửa sông ven biển nên nƣớc sinh hoạt ở Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ còn gặp nhiều khó khăn. Nguồn nƣớc ngọt rất khan hiếm, chỉ trông chờ vào nguồn nƣớc mƣa ở một bể chứa nhỏ. Khu Trung tâm hành chính - dịch vụ của Vƣờn quốc gia Xuân Thủy đang đƣợc đầu tƣ một công trình cấp nƣớc sạch, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và dịch vụ du lịch ở Vƣờn quốc gia. 2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc áp dụng 2.2.1. Phƣơng pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết Phƣơng pháp phân loại theo lý thuyết: là phƣơng pháp sắp xếp các tài liệu khoa học thành hệ thống logic chặt chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học có cùng dấu hiệu bản chất, có cùng hƣớng phát triển để dễ nhận biết, dễ sử dụng theo mục đích nghiên cứu, giúp phát hiện các quy luật phát triển của đối tƣợng, sự phát triển của kiến thức khoa học để từ đó dự đoán đƣợc các xu hƣớng phát triển mới của khoa học và thực tiễn. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 34
  35. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Phƣơng pháp hệ thống hóa lý thuyết: là phƣơng pháp sắp xếp những thông tin đa dạng thu thập đƣợc từ các nguồn, các tài liệu khác nhau thành một hệ thống với kết cấu chặt chẽ để từ đó mà xây dựng một lý thuyết mới hoàn chỉnh giúp hiểu biết đối tƣợng đƣợc đầy đủ và sâu sắc hơn. Phân loại và hệ thống hóa là hai phƣơng pháp đi liền với nhau. Trong phân loại đã có yếu tố hệ thống hóa. Hệ thống hóa phải dựa trên cơ sở phân loại và hệ thống hóa làm cho phân loại đƣợc hợp lý và chính xác hơn. 2.2.2. Phân tích, tổng hợp tài liệu: Phân tích tài liệu là phƣơng pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu bằng cách phân tích chúng thành từng mặt, từng bộ phận để hiểu vấn đề một cách đầy đủ và toàn diện, từ đó chọn lọc những thông tin quan trọng cho đề tài nghiên cứu. Phƣơng pháp tổng hợp tài liệu là phƣơng pháp liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin, từ lý thuyết đã thu đƣợc để tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc hơn về vấn đề nghiên cứu. Phân tích tài liệu đảm bảo cho tổng hợp nhanh và chọn lọc đúng thông tin cần thiết. Tổng hợp tài liệu giúp phân tích sâu sắc hơn. 2.2.3. Phƣơng pháp phân tích hệ thống: Một hệ thống là một tập hợp các thành tố tƣơng tác với nhau. Sự thay đổi một thành tố sẽ dẫn đến sự thay đổi một thành tố khác, từ đó dẫn đến một thay đổi thành tố thứ ba Bất kỳ một tƣơng tác nào trong hệ thống cũng có tính nguyên nhân, vừa có tính điều khiển. Rất nhiều tƣơng tác có thể liên kết với nhau thành một chuỗi tƣơng tác nguyên nhân - kết quả. Với đối tƣợng nghiên cứu trong bài, chúng ta coi đó là một hệ thống, trong đó có các mối quan hệ tƣơng tác lẫn nhau mà tổng thể là mối quan hệ giữa con ngƣời và môi trƣờng. Phân tích hệ thống giúp giải quyết một số vấn đề chính trong quá trình thực hiện đề tài. Đề tài là một chuỗi những mắt xích gồm hiện trạng, những thuận lợi, khó khăn của các mô hình, phân tích nguyên nhân để từ đó đƣa ra giải pháp giả quyết vấn đề. Hệ thống luôn có sự học hỏi và rút kinh nghiệm liên tục trong quá trình phát triển. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 35
  36. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường 2.2.4. Phƣơng pháp khảo sát thực địa Phƣơng pháp này giúp thu thập thông tin về đối tƣợng bằng cách tiếp xúc trực tiếp và ghi lại trực tiếp toàn bộ các thông tin đặc trƣng của đối tƣợng có giá trị về phƣơng diện thực hiện mục tiêu nghiên cứu . Tiến hành khảo sát, đánh giá và kiểm định ngoài thực tế nhằm đảm bảo tính khách quan, khoa học, chính xác của đề tài và đồng thời giúp đề tài có tính cơ sở thực tiễn cao. Phƣơng pháp này rất quan trọng, quyết định phần lớn hieuj quả của nghiên cứu. Với đối tƣợng nghiên cứu trong bài, tiến hành khảo sát trong vùng lõi của rừng ngập mặn, các đầm nuôi tôm, nuôi ngao; các mô hình trồng nấm, nuôi ong mật tại các xã vùng đệm; khảo sát các loài sinh vật tại vƣờn quốc gia Xuân Thủy; khảo sát dọc theo các dòng sông Trà, sông Vọp và khu vực cầu Vọp, 2.2.5. Phƣơng pháp đánh giá nhanh môi trƣờng có sự tham gia của cộng đồng Đây là phƣơng pháp thu thập kinh nghiệm sâu, hệ thống, bán chính thức, thực hiện bởi cộng đồng nhằm khai thác thông tin về môi trƣờng và phát triển dựa trên nguồn tri thức cộng đồng kết hợp với khảo sát, kiểm tra thực địa. Tri thức cộng đồng là nguồn kiến thức thực tế vô cùng quan trọng trong việc đánh giá và quản lý bền vững môi trƣờng. Khác với các nhà khoa học là những ngƣời chỉ dành một phần thời gian tƣơng đối ngắn để quan sát, nghiên cứu một hệ đặc trƣng, những ngƣời dân địa phƣơng đã sống trong mối liên hệ mật thiết với thiên nhiên, môi trƣờng thực tế trong thời gian dài. Vì vậy, phƣơng pháp này cho một nguồn thông tin thực tế và quan trọng phục vụ cho vấn đề nghiên cứu. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 36
  37. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường CHƢƠNG III : MỘT SỐ MÔ HÌNH QUẢN LÝ BỀN VỮNG TẠI VƢỜN QUỐC GIA XUÂN THỦY 3.1. Mô hình tạo sinh kế bền vững cho ngƣời dân tại vùng đệm 3.1.1. Giới thiệu về vùng đệm a. Đặc điểm kinh tế tại vùng đệm [3] * Tình hình sử dụng đất: Theo quyết định số 01/2003/QĐ-TTg ngày 21/1/2003 của Thủ Tƣớng Chính Phủ đã khẳng định "Vùng đệm của Vƣờn quốc gia Xuân Thủy có tổng diện tích 8000 ha, bao gồm phần diện tích còn lại của Cồn Ngạn 960 ha (ranh giới tính từ phía trong đê biển - đê Vành Lƣợc - đến lạch sông Vọp) diện tích của Bãi Trong 2764 ha và diện tích của 5 xã: Giao Thiện, Giao An, Giao lạc, Giao Xuân và Giao Hải - huyện Giao Thuỷ rộng 4276 ha". Bảng 3.1 Thống kê diện tích tự nhiên của VQG Xuân Thủy Đơn vị tính: ha Hạng mục Diện tích đầm tôm D.Tích D.Tích Diện tích rừng Đất Tổng trồng D.Tích Khu vực Có đất Tổng thổ cƣ Canh RNM Phia Tổng khác tự rừng trống tác lao nhiên 5 xã vùng 272,8 2569,7 1433,5 4276 đệm Bãi trong 36 812 848 180 808 6 814 922 2764 Cồn Ngạn 880 80 960 960 Tổng cộng 916,0 892 1808,8 452,8 2569,7 808 6 814 2355,5 8000 - Địa dƣ 5 xã vùng đệm vẫn là khu vực độc canh cây lúa, chuyển dịch cơ cấu SXKD chậm, thời gian nông nhàn kéo dài, lao động dôi dƣ nhiều từ đó đã trực tiếp tạo nên sức ép khai thác tài nguyên lên vùng lõi. - Bãi trong: Phần đầm tôm trắng hiệu quả thâm canh rất thấp, rủi ro nhiều. Diện tích RNM mới trồng đã phát huy hiệu quả đối với nguồn lợi thuy sản. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 37
  38. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường - Cồn Ngạn: Những đầm tôm có rừng nuôi quảng canh cải tiến đạt hiệu quả tốt nhất (đầu tƣ ít, thu nhập ổn định , ít rủi ro). Đất đai ở vùng đệm có thể chia thành các dạng chính gồm: Đất thổ cƣ,đất canh tác nông nghiệp,đất nuôi trồng thuỷ sản, đất bãi bồi có rừng ngập mặn và một số ít đất còn ngập nƣớc ven theo các sông lạch. Đất thổ cƣ đƣợc cấu trúc theo mô hình sinh thái nhân văn VAC, nhƣng hiệu quả canh tác chƣa cao vì còn khá nhỏ lẻ. Đất canh tác nông nghiệp chủ yếu trồng 2 vụ lúa nƣớc có năng suất khá cao, nhƣng do bình quân diện tích quá thấp nên thu nhập từ trồng lúa và làm nông nghiệp nói chung không đủ sống. Vùng đất nuôi trồng thuỷ sản bao gồm khu vực đầm tôm nuôi quảng canh cải tiến rộng 2000 ha và gần 300 ha nuôi ngao quảng canh. Các mô hình nuôi trồng thuỷ sản nhƣ trên đã tạo công ăn việc làm và nguồn thu nhập đáng kể cho cộng đồng địa phƣơng. Diện tích rừng ngậpp mặn rộng gần 800 ha mới đƣợc phục hồi từ dự án DRC (Hội chữ thập đỏ Đan Mạch) đã có tác động rất tích cực đến môi trƣờng sinh thái của khu vực. *Tình hình đời sống của nhân dân các xã trong vùng đệm: - Tỷ lệ giàu nghèo: Theo tiêu chí phân loại hộ gia đình (năm 2002) và kết quả kiểm chứng trực tiếp một số hộ trong khu vực (căn cứ vào 2 nhân tố chủ yếu là: giá trị tài sản cố định và thu nhập bình quân hàng năm của hộ). Kết quả cho thấy: trong mấy năm gần đây các xã vùng đệm có số hộ giàu và khá tăng nhanh, số hộ nghèo giảm nhiều,chỉ còn khoảng 13,4% số hộ nghèo (thấp hơn bình quân chung của Huyện 1,4%), khá giàu 23,2%, trung bình 63,4%. - Tình hình thu nhập: Thu nhập các xã vùng đệm chủ yếu từ nông nghiệp và kinh tế biển,bình quân thu nhập đƣợc tính dựa theo các nguồn sau: + Thu về lƣơng thực chiếm: 39,3 % + Thu từ chăn nuôi gia súc gia cầm các loại chiếm: 10,0% + Thu từ kinh tế biển chiếm: 36,1% Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 38
  39. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường + Các ngành nghề khác nhƣ dịch vụ thƣơng mại, ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ,chiếm 14,6% - Điều kiện sinh hoạt gia đình: Trong những năm gần đây nền kinh tế trong khu vực đã có những bƣớc phát triển đáng kể,điều kiện sinh hoạt trong các hộ cũng từng bƣớc đƣợc cải thiện. Nhà cửa của các gia đình trong vùng chủ yếu là Nhà xây kiên cố và bán kiên cố chiếm 63%. Nhà cấp IV chiếm tỷ lệ nhỏ 37%. Các đồ dùng có giá trị phục vụ sinh hoạt tiện nghi cho gia đình nhƣ tivi, xe máy và các vận dụng có giá trị khác chiếm tỷ lệ khá cao. b-Đặc điểm về xã hội *Dân số và mật độ dân số: Năm xã vùng đệm Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ có 45.967 ngƣời, 11.464 hộ với tổng diện tích tự nhiên là 38,66 km² (theo số liệu thống kê của các xã năm 2002). Thực tế cho thấy số ngƣời trung bình trong một hộ hơi thấp, bình quân 4 ngƣời/hộ. Rất ít số hộ có 9-10 ngƣời và có 4 thế hệ sống chung một mái nhà. Mật độ dân cƣ các xã tƣơng đối đồng đều, trung bình 1.189 ngƣời/km². Xã có mật độ cao nhất là Giao Lạc 1331 ngƣời/km², xã có mật độ thấp nhất là Giao Thiện 1023 ngƣời/km². Tỷ lệ tăng dân số của 5 xã vùng đệm tƣơng đối đều, bình quân qua các năm là 1,2%. * Cơ cấu lao động: Số ngƣời trong độ tuổi lao động ở các xã vùng đệm là 23.412 ngƣời, chiếm 50,7% dân số. Trong đó lao động nữ là 12.046 ngƣời (chiếm 51,5%). Trung bình mỗi hộ có 2 ngƣời ở trong độ tuổi lao động. * Cơ cấu ngành nghề: Nhân lực trong khu vực vùng đệm tập trung chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp, chiếm 78,6% số lao động, còn lại là các ngành nghề khác nhƣ: thƣơng mại dịch vụ 2%, công nghệp và tiểu thủ công nghiệp, xây dựng 3,2% và thuỷ sản chiếm 16,2% số lao động. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 39
  40. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Nguồn lao động trẻ tuổi đời từ 16-44 tuổi chiếm 42,9 % tổng dân số, trong đó có khoảng 52% là lao đông nữ - đây cũng là lực lƣợng chính tham gia hoạt động khai thác tài nguyên ở khu vực Vƣờn Quốc gia Xuân Thuỷ.Vào những ngày nông nhàn thì số lao động dƣ thừa chiếm tới 2/3 tổng số lao động. Nguồn nhân lực này đã gây áp lực lớn đến tài nguyên - môi trƣờng ở khu vực Vƣờn Quốc gia Xuân Thuỷ. Nguyên nhân một phần là do không có ngành nghề phụ, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp không đảm bảo cuộc sống, mặt khác do sức hấp dẫn lớn của thị trƣờng hàng thuỷ sản hiện nay nên các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản và khai thác nguồn lợi tự nhiên ở vùng triều của Vƣờn Quốc gia Xuân Thuỷ đã lôi kéo hầu hết số đông lực lƣợng dôi dƣ của vùng đệm. 3.1.2. Tính cấp thiết về việc ra đời mô hình [3], [5] Các hoạt động gây áp lực đến Vườn Quốc Gia Xuân Thuỷ: Do điều kiện tự nhiên ƣu đãi nên nguồn lợi về tài nguyên thiên nhiên trong Vƣờn quốc gia Xuân Thủy rất phong phú, đặc biệt là nguồn lợi thuỷ sản. Chính vì vậy, từ lâu ngƣời dân đã khai thác sử dụng nguồn tài nguyên này thông qua các hình thức chủ yếu nhƣ: làm đầm tôm, vây vạng, đăng đáy, khai thác thủ công và chăn thả gia súc. * Hệ thống đầm tôm: Trong khu vực bắt đầu từ cuối năm 1980, ở vùng đệm có trên 2000 ha đầm tôm, trong ranh giới của Vƣờn quốc gia Xuân Thủy có 19 đầm tôm, phần lớn ký hợp đồng hết năm 2010, trong đó có 4 đầm sẽ hết hạn vào tháng 3/2004. Hiện trạng quản lý khai thác và sử dụng tƣơng đối ổn định. Ngƣời dân chủ yếu canh tác quảng canh cải tiến. Chủ đầm dùng thức ăn và con giống tự nhiên là chính. Thời gian gần đây đã bổ xung con giống tôm sú và một ít thức ăn công nghiệp. Hiệu quả nuôi trồng chƣa cao, tuy nhiên tƣơng đối ổn định (lợi nhuận bình quân khoảng 10 triệu đồng /ha,năm). Trong quá trình nuôi tôm các chủ đầm đã tỉa thƣa rừng xuống dƣới 50%. Đầm tôm là sinh cảnh của một số loài chim. Nhƣng thời gian gần đây số lƣợng chim về đầm đã giảm so với trƣớc đây do các hoạt động nuôi trồng và khai thác thuỷ sản đã gây nhiễu loạn với chim. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 40
  41. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường * Bãi Vạng: Các bãi vạng đƣợc ngƣời dân khai thác từ những năm 1990, hiện nay các bãi vạng đƣợc chia nhỏ từ 2-5 ha. Nguồn lợi từ bãi vạng này rất lớn. Năm 2004 ƣớc tính Bãi Vạng đã cho cộng đồng địa phƣơng thu nhập tới gần 100 tỷ đồng. Tuy nhiên bãi vạng chính là sinh cảnh quan trọng của chim nƣớc, đặc biệt đối với các loài di cƣ quí hiếm đang bị đe doạ ở mức toàn cầu. Tình hình quản lý bãi vạng không ổn định. Phần lớn diện tích do ngƣời dân tự lấn chiếm và bán trao tay cho các chủ vây khác. Chính quyền địa phƣơng và Vƣờn quốc gia xuân Thuỷ chƣa thực sự kiểm soát đƣợc hiện trạng nuôi trồng và khai thác ngao Vạng ở đây. Tình hình an ninh cũng khá phức tạp, đã phát sinh nhiều mâu thuẫn khá gay gắt giữa các đối tƣợng nuôi với nhau với ngƣời khai thác tự do và với các cấp quản lý. Nếu không có cơ chế quản lý thích hợp sẽ làm mất đi sinh cảnh quan trọng của Chim di trú ở khu vực, đồng thời làm tiêu tan một nghề nuôi trồng và khai thác ngao vạng giàu tiềm năng ở khu vực. * Đăng đáy: Hiện tƣợng đăng đáy đƣợc giăng khắp mọi nơi, mọi chốn có thể và tập trung dày đặc ở các lòng sông, lạch nƣớc đã ảnh hƣởng lớn đến cảnh quan và môi trƣờng ở khu vực. Chúng vừa góp phần khai thác cạn kiệt nguồn lợi thuỷ sản vừa gây nhiễu loạn đối với động vật hoang dã cần phải có các biện pháp nghiêm cấm và hủy bỏ. * Khai thác thủ công vào các nguồn lợi tự nhiên ở khu vực: Là một hoạt động phổ biến. Do sức hấp dẫn của thị trƣờng các mặt hàng thuỷ sản, nên đã lôi kéo hầu hết các lao động nông nhàn trong các xã vùng đệm và một số xã lân cận vào hoạt động này. Trung bình một ngày có tới 500 ngƣời, vào thời điểm nông nhàn và mùa vụ khai thác ngao giống và cua bể giống, con số này còn cao hơn nhiều (khoảng một vài ngàn ngƣời). Các sản phẩm tự nhiên chủ yếu gồm: cua bể, cá bớp, don, dắt, ngao giống, tôm rảo, cá các loại Hình thức khai thác gồm: kéo chài, thả lƣới, câu, mò móc, cuốc đã đem lại thu nhập đáng kể cho các hộ dân. Bình quân một ngày họ thu đƣợc khoảng 30-50.000 Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 41
  42. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường đồng. Ƣớc tính thu nhập từ khai thác tự do trên đạt khoảng 40-50 triệu đồng /ngày. Đặc biệt nghiêm trọng là việc dùng đèn soi để tìm bắt cua bể giống vào mùa đông sẽ gây nhiễu loạn sinh cƣ của các loài chim di trú quý hiếm. * Chăn thả gia súc: Có thời gian tại Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ có trên 500 con trâu, bò, dê của bộ đội biên phòng và dân địa phƣơng chăn thả tự do. Chúng tàn phá rừng và làm mất mỹ quan của khu vực, ảnh hƣởng tiêu cực đến sinh cảnh của các loài động vật hoang dã khác. Ngoài ra tình trạng tự do dựng lều lán để trông coi đầm tôm và vây vạng cũng đã gây ảnh hƣởng tiêu cực đến cảnh quan môi trƣờng trong khu vực, đặc biệt gây xáo trộn tới các sinh cảnh của những loài chim nƣớc. * Nhận xét: Đa số hộ dân ở vùng đệm có đất đai để canh tác nông nghiệp. Nhƣng thuần nông chỉ đủ ăn hoặc ở mức nghèo. Muốn kinh tế ổn định và phát triển họ phải hƣớng ra bãi bồi ven biển. Có trên 2000 ha đất bãi bồi đã đƣợc chuyển đổi làm đầm tôm và trên 500 ha vây vạng, nhƣng chỉ những ngƣời khá giả mới có khả năng làm chủ đầm tôm và chủ vây Vạng. Ngƣời nghèo buộc phải đi xa hơn để kiếm sống ở khu vực bãi bồi thuộc vùng lõi của Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ. Bởi vậy nếu nhìn nhận để giải quyết vấn đề ở góc độ xã hội và nhu cầu việc làm cần phải lƣu ý đến các nhân tố nhạy cảm nhƣ: môi trƣờng kiếm sống còn lại của ngƣời nghèo, nơi mà từ xa xƣa cha ông họ đã từng làm ăn ở đó. Công ƣớc Ramsar khuyến cáo: sử dụng khôn khéo tài nguyên đất ngập nƣớc Bởi vậy cần phải giải quyết vấn đề theo hai hƣớng: - Tạo cơ chế chính sách sử dụng khôn khéo và bền vững tài nguyên đất ngập nƣớc cho một bộ phận dân địa phƣơng ở ngay trong phân khu phục hồi sinh thái của Vƣờn quốc gia. - Tạo thu nhập thay thế cho cộng đồng để họ có đƣợc cuộc sống đảm bảo ở ngay nội vi vùng đệm. Từng bƣớc phấn đấu giảm sức ép về khai thác tài nguyên - môi trƣờng của cộng đồng địa phƣơng từ vùng đệm lên vùng lõi của Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 42
  43. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Để thực hiện điều đó, vƣờn quốc gia phối hợp cùng các dự án và chính quyền địa phƣơng triển khai và khuyến khích ngƣời dân hƣớng tới những mô hình kinh tế mới, ổn định bền vững về thu nhập lại vừa bảo vệ tài nguyên, nhằm giảm thiểu những tác động lên vƣờn quốc gia nhƣ phát triển du lịch, trồng nấm, nuôi ong, 3.1.3. Một số mô hình tạo sinh kế bền vững cho ngƣời dân vùng đệm [5] a. Du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Xuân thuỷ [1] Xu hƣớng du lịch sinh thái - một loại hình du lịch gần gũi với thiên nhiên, giúp bảo tồn tài nguyên, bảo vệ môi trƣờng và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống bản địa - đang tăng mạnh. Khách du lịch và cả các cƣ dân địa phƣơng đều thu đƣợc lợ ịch sinh thái. * Cơ sở của mô hình du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Xuân Thủy: Theo Tổ chức du lịch sinh thái quốc tế: “Du lịch sinh thái là chuyế trách nhiệm, đến những khu vực tự nhiên, gìn giữ bảo vệ môi trƣờng và góp phần cải thiện phúc lợi xã hội cho ngƣời dân đị chiến lƣợc du lịch sinh thái quố : “Du lịch sinh thái là chuyến du lịch tự nhiên bao gồm việc giáo dục, giải thích về môi trƣờng tự nhiên và quản lý bền vững về phƣơng diện sinh thái”. Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ là một địa điểm du lịch khá độc đáo. Nơi đây vừa có rừng, vừa có biển; khí hậu mát mẻ trong lành quanh năm. Về mùa chim di trú, du khách có thể trực tiếp chiêm ngƣỡng nhiều loài chim quý hiếm sống theo bầy đàn đông đúc. Nguồn lợi thuỷ sản cũng khá phong phú, góp phần tạo nên điểm nhấn của các tour du lịch. Du khách đến với Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ sẽ có dịp đƣợc thƣởng thức thứ văn hoá ẩm thực nồng nàn hƣơng biển. Kết hợp trên tuyến du lịch là những điểm thăm quan các danh thắng nổi tiếng của một miền quê văn hiến nhƣ: đền Tức Mạc - phủ Thiên Trƣờng; làng hoa cây cảnh Vị Khê - Điền Xá, chùa Keo - Cổ Lễ, toà thánh Phú Nhai - Bùi Chu, khu nghỉ mát tắm biển Quất Lâm Tất cả các giá trị cả về văn hoá vật thể và phi vật thể ở đây làm nền tảng cấu thành nên một tour du lịch khép kín mang một sắc Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 43
  44. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường thái riêng, kết hợp hài hoà giữa sinh thái và nhân văn. Đến với Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ du khách sẽ cảm nhận đƣợc tình cảm chân thành và sự hiếu khách đặc biệt của những ngƣời dân miền biển. Du khách cũng sẽ đƣợc chứng kiến lịch sử và nền văn hoá mở đất hào hùng của các thế hệ tiền bối. Đi giữa rừng phi lao ngút ngàn trải dài bên bờ biển rì rầm sóng vỗ, hay phóng tầm mắt qua những dải rừng ngập mặn rộng dài xanh ngăn ngắt, điểm xuyết bởi những cánh chim khoáng đạt và thanh bình. Ở Giao Xuân, khách du lịch nƣớc ngoài thích nhất tour đạp xe dọc tuyến đê biển, thăm chợ cá buổi sáng sớm, thăm những chòi nuôi ngao, vạng ven biển và tìm hiểu cuộc sống gắn liền với sông nƣớc của ngƣời dân nơi đây. Những làng nghề làm nƣớc mắm, quay chậu cảnh, nấu rƣợu cũng là các điểm tham quan thú vị trong tuyến du lịch này. Dọc con sông nhỏ chảy qua xã Giao Xuân, du khách còn đƣợc xem ngƣời dân chài làm nghề “đánh cồng cồng”, một loại hình đánh bắt cá trên sông, sử dụng thuyền nhỏ, vừa giăng lƣới, gỡ cá vừa lắc lƣ thuyền Xã Giao Xuân còn có những ngôi nhà bổi - nhà đặc trƣng của vùng đất ven biển ngập nƣớc, cũng là điểm đến thu hút du khách. Nhà bổi là những căn nhà khung gỗ, nền đất, đƣợc lợp bằng cói, mỗi mái nhà nặng hơn hai tấn, dày từ 1m- 1,2m, mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông. Qua thời gian, mái bổi xẹp dần xuống, nhƣng vẫn rất bền, chịu đựng đƣợc sức tàn phá của gió biển. Những căn nhà mái bổi ở Giao Xuân có tuổi thọ hàng trăm năm và đƣợc ngƣời dân rất giữ gìn từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ẩm thực cũng là điều hấp dẫn du khách ở Giao Xuân. Vùng đất ven biển đƣợc phú cho nhiều loại đặc sản nhƣ ngao, vạng, don, vọp, móng chân móng tay Ngƣời Nam Định cũng có nhiều cách chế biến món ăn rất đặc biệt, chẳng hạn con móng chân móng tay không chỉ luộc hay xào thông thƣờng mà còn trộn theo kiểu nem thính, ăn lạ miệng và hấp dẫn. Chính vì vậy, khu vực Vƣờn quốc gia Xuân Thủy có tiềm năng rất lớn để phát triển du lịch sinh thái. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 44
  45. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường * Nội dung thực hiện mô hình du lịch sinh thái: Từ năm 2006, vƣờn quốc gia Xuân Thủy phối hợp cùng Trung tâm bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng (MCD) giúp đỡ ngƣời dân xã Giao Xuân xây dựng tour du lịch sinh thái với điểm nhấn là tuyến xem chim trong khu vực vƣờn quốc gia. Dự án mang tên “Cộng đồng tham gia phát triển du lịch sinh thái tại xã Giao Xuân, vùng đệm Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định”. Ở xã Giao Xuân các tour du lịch sinh thái đi thăm vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ, làng chài, làng nghề và tuyến đê biển hiện đã đi vào ổn định, bắt đầu thu hút hàng trăm khách du lịch trong và ngoài nƣớc * Thực trạng hoạt động du lịch : Ban đầu, du khách tham gia tour du lịch này chủ yếu là khách nƣớc ngoài, các nhà khoa học, các nhà sinh vật học, sau này có nhiều du khách trong nƣớc, trong đó có cả các câu lạc bộ xem chim, đã kéo về đây chiêm ngƣỡng vẻ đẹp thú vị của vùng đất ngập mặn này. Địa chỉ “Vƣờn chim Xuân Thủy” xuất hiện cả trên những diễn đàn du lịch, thu hút nhiều du khách đam mê du lịch tới nghiên cứu và khám phá. Từ năm 2004, ngƣời dân Giao Xuân đã quen với sự có mặt của những du khách phƣơng xa. Để ngƣời dân thành thạo các nghiệp vụ du lịch, Trung tâm bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng MCD đã mời các giáo viên của trƣờng dạy nghề Hoa Sữa đến tận nơi hƣớng dẫn bà con cách dọn phòng, nấu ăn, phục vụ khách. Hiện nay, số nhà đủ điều kiện lƣu trú tại Giao Xuân vào khoảng hơn mƣời nhà. Thu nhập từ du lịch tuy chƣa nhiều nhƣng cũng tƣơng đối đều đặn, có thêm đồng ra đồng vào bên cạnh làm nông và nuôi trồng hải sản, giúp cho cuộc sống khấm khá hơn. Du lịch không chỉ làm thay đổi cuộc sống, mà còn thay đổi cả cách nghĩ của ngƣời dân ở đây. Trƣớc đây, phụ nữ trong gia đình chỉ là lao động phụ, hiếm khi ra khỏi nhà, càng không tham gia những hoạt động xã hội. Nhƣng kể từ khi Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 45
  46. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường phát triển du lịch sinh thái, rất nhiều phụ nữ đã tham gia các lớp học nghề, đi tuyên truyền bảo vệ môi trƣờng, bảo vệ nguồn lợi chim trời cá biển. Sự tuyên truyền kiến thức và thu nhập từ du lịch sinh thái cũng khiến cho nhiều thợ săn chim ở Giao Xuân bỏ nghề săn và tham gia vào câu lạc bộ bảo vệ chim trời do tổ chức Birdlife hỗ trợ thành lập góp bảo tồn sự đa dạng sinh thái của Vƣờn quốc gia Xuân Thủy. Hình 3.1. Du khách tham quan vườn quốc gia Xuân Thuỷ. Những năm gần đây lƣợng khách quốc tế đến Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ khoảng 30-40 đoàn/năm. Số lƣợng khách khoảng 100-200 lƣợt ngƣời/năm, với gần 30 quốc tịch. Khách có quốc tịch đông nhất là Anh, Mỹ, Hà Lan và Australia. Phần lớn du khách là những nhà khoa học về sinh học (nghiên cứu chim hoặc rừng ngập mặn và thuỷ sinh). Một số khách du lịch đến xem chim vào mùa chim di trú, theo thông tin trên mạng hoặc qua môi giới của các công ty lữ hành nhƣ: Sài Gòn Tourist, Dalat Tourist, Sao Mai, Hoàn kiếm Khách trong nƣớc gia tăng hàng năm, khoảng hơn 200 đoàn/năm. Số lƣợng khoảng 3000-5000 ngƣời/năm. Đối tƣợng chủ yếu là: sinh viên, học sinh, cán bộ thăm quan và con em địa phƣơng đi xa về thăm quê. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 46
  47. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Có thể thấy, mô hình du lịch sinh thái đã bắt đầu phát triển tại vùng đất ngập nƣớc này. Ngƣời dân có đƣợc công việc để sinh sống, hơn nữa, họ nhận thức đƣợc sâu sắc những tầm quan trọng và những giá trị quý báu mà khu bảo tồn mang lại cho họ. Thay đổi đƣợc nhận thức của ngƣời dân là điều quan trọng nhất trong việc bảo vệ thiên nhiên, và Vƣờn quốc gia Xuân Thủy là một trong số ít nơi áp dụng thành công phƣơng thức này. b. Mô hình nuôi ong lấy mật [7] Vƣờn quốc gia Xuân Thủy có thảm thực vật phong phú, bao la với rừng sú, vẹt ra hoa quanh năm, lại thêm vƣờn cây của các hộ gia đình xung quanh khu vực là nguồn thức ăn dồi dào của đàn ong mật. Điều kiện này rất thuận lợi cho ngƣời dân phát triển nghề nuôi ong. Để khuyến khích và phổ biến kinh nghiệm mô hình này, năm 2004, tại xã Giao An đã thành lập câu lạc bộ nuôi ong với thành viên nòng cốt ban đầu là những cựu chiến binh của xã. Thời gian đầu thành lập, câu lạc bộ có 13 thành viên với tổng số là 15 đàn ong. Đầu năm 2008, đƣợc sự hỗ trợ của Vƣờn quốc gia Xuân Thủy, chƣơng trình liên minh đất ngập nƣớc và UBND xã Giao An, câu lạc bộ đã phát triển lên 18 thành viên thuộc xã Giao An, Giao Thiện, Hồng Thuận và Hoành Sơn. Bình quân sản lƣợng mật đạt 600 - 700 kg/năm. Năm 2009, câu lạc bộ hoạt động rất tốt và thu đƣợc những kết quả sau: - Câu lạc bộ đã có trên 20 thành viên với 74 đàn ong, tổng sản lƣợng năm 2009 là 861kg mật. Điển hình có hộ đạt sản lƣợng tới 200kg, với thu nhập khoảng 15 triệu đồng/năm. - Câu lạc bộ mời chuyên gia của viện kinh tế sinh thái về tập huấn kỹ thuật nuôi ong chúa cho ngƣời dân. Từ đó đến nay, tất cả thành viên câu lạc bộ đều đã chủ động trong việc tạo ra ong chúa, nhân giống đàn ong. - Các thành viên trong câu lạc bộ đã tiến hành trồng những loại cây ăn quả dài ngày nhƣ vải, nhãn, thanh long, để tạo nguồn mật và phấn hoa phục vụ cho Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 47
  48. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường sự phát triển nghề nuôi ong, vừa tăng năng suất thu hoạch sản phẩm nông nghiệp. - Duy trì việc di dời đàn ong ra khu vực rừng sú, vẹt của Vƣờn quốc gia Xuân Thủy. Từ năm 2010 đến nay, câu lạc bộ đã phát triển lên khoảng 30 thành viên với tống số 150 đàn ong và đã di chuyển đàn ong vào khu vực rừng ngập mặn với quy mô lớn hơn. Hiện tại, giá mật ong khoảng 100.000 đồng/lít. Mặc dù nghề nuôi ong không đem lại những khoản lợi nhuận khổng lồ nhƣng những mô hình sinh kế này đã thổi luồng gió mới vào cuộc mƣu sinh của ngƣời dân vùng biển nơi đây. Cuộc sống của ngƣời dân không còn lênh đênh đánh bắt trên biển đầy khó khăn, nguy hiểm và cũng không phải vào vƣờn quốc gia khai thác trái phép làm tổn hại môi trƣờng của khu Ramsar đầu tiên ở Việt Nam. Ngƣời dân đã dần bằng lòng và chấp nhận một cuộc sống ổn định, phát triển bền vững hơn. Hình 3.2. Nuôi ong tại Vườn quốc gia Xuân Thủy c. Mô hình trồng nấm [7] Mô hình trồng nấm là một trong những mô hình sinh kế mới đang hoạt động rất hiệu quả đƣợc triển khai từ năm 2009 tại xã Giao Thiện, Giao An. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 48
  49. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Toàn xã Giao An có 2650 hộ dân với 10250 khẩu thì có tới hơn 70% hộ làm nghề nông. Mỗi khi tới vụ thu hoạch, rơm rạ đƣợc chất đống và đốt, gây khói mù làm ô nhiễm môi trƣờng, hoặc đƣợc đổ xuống sông trôi dạt ra cửa biển và chảy vào các đầm nuôi tôm cua, ngao vạm gây ảnh hƣởng đến môi trƣờng sống của các loài động thực vật trong vƣờn quốc gia, cũng nhƣ giảm năng suất của các đầm nuôi trồng thủy sản. Việc triển khai mô hình trồng nấm giúp cho nguồn rơm rạ đƣợc tận thu, tạo điều kiện cho các hộ gia đình tăng thu nhập cũng nhƣ hạn chế tình trạng khai thác tài nguyên vùng bờ biển một cách bừa bãi của ngƣời dân khi lúc nông nhàn, hơn nữa lại giúp giải tỏa đàn gia súc chăn thả trong vùng lõi của vƣờn. Bên cạnh đó, trồng nấm có thể làm quanh năm, đặc biệt là thời kỳ nông nhàn giúp giảm hiện tƣợng thanh niên phải ra thành thị kiếm việc. Đây là giá trị phi vật chất, nhƣng hết sức quan trọng đem lại niềm hạnh phúc cho ngƣời nông dân. Với sự hỗ trợ của Viện Phát triển các nguồn lực ven biển Á châu tại Việt Nam (CORIN-Asia) trong Chƣơng trình Liên minh Đất ngập nƣớc (WAP) đƣợc tài trợ bởi Cơ quan Hợp tác và Phát triển Thụy Điển (SIDA), Vƣờn quốc gia Xuân Thủy đã trợ giúp ngƣời nông dân chuyển đổi từ chăn thả gia súc tự do trong vùng lõi của Vƣờn sang trồng nấm, năm 2008, câu lạc bộ trồng nấm đƣợc thành lập. Lúc đầu chỉ có 4 thành viên, sau một năm, câu lạc bộ đã có Ban chủ nhiệm, tổ kỹ thuật, quỹ sinh kế chung lên đến 24 triệu đồng và 75 thành viên chia làm 4 tổ sản xuất hoạt động trên địa bàn của 7 xã vùng đệm và cận đệm của vƣờn quốc gia. Năng lực tổ chức, trình độ kỹ thuật và cơ sở vật chất đã từng bƣớc đƣợc hoàn thiện. Các thành viên trong câu lạc bộ không chỉ hỗ trợ nhau cùng sản xuất, mà còn tổ chức hoạt động xã hội khuyến khích tinh thần đoàn kết và quảng bá thƣơng hiệu “Nấm Vƣờn quốc gia Xuân Thủy”. 6 tháng đầu năm 2009, nhờ UBND xã và Vƣờn quốc gia Xuân Thủy hỗ trợ kinh phí, 12 hộ trồng nấm xã Giao An đã thu đƣợc sản lƣợng 4,5 tấn nấm tƣơi với giá 12.000 đồng/kg. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 49
  50. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Cả năm 2009, tổng giá trị sản phẩm nấm đạt 200 triệu đồng, bình quân lao động đạt gần 130.000 đồng/công nhật. Tổng số nguyên liệu sử dụng là 45,8 tấn cho 34 tấn sản phẩm. Sản phẩm chính của câu lạc bộ là nấm sò, nấm mỡ và nấm rơm. Trong đó, nấm sò là sản phẩm chủ lực đƣợc sản xuất quanh năm do dễ nuôi trồng lại cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn. Hiện nay, giá bán nấm sò vào khoảng 20.000 đồng/kg, nấm rơm: 40.000 đồn/kg, nấm mỡ: 25.000 đồng/kg. Tại xã Giao An hiện có hơn 30 hộ trồng nấm, xã Giao Thiện trên 15 hộ với mức thu nhập bình quân mỗi hộ gần 20 triệu đồng/năm. Có hộ gia đình thu trung bình 6 triệu đồng/tháng. Định hƣớng phát triển trong tƣơng lai của câu lạc bộ trồng nấm của Vƣờn quốc gia Xuân Thủy sẽ trở thành một tổ hợp sản xuất tạo sinh kế bền vững cho nhiều ngƣời nghèo, và đƣa thƣơng hiệu sản phẩm “Nấm Vƣờn Quốc gia Xuân Thủy” ra thị trƣờng khắp cả nƣớc. Hình 3.3. Mô hình trồng nấm d. Mô hình nuôi ngao [3], [7] Nghề nuôi ngao trên Cồn Lu, Cồn Ngạn và các vùng triều khác đã hình thành từ những năm 1990 và phát triển khá mạnh sau năm 2004. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 50
  51. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Tổng diện tích đất nuôi ngao năm 2006 là 1.431 ha, năm 2008 còn 1.222 ha và đang có xu hƣớng giảm. Trong đó, đất nuôi thuộc vùng đệm gần 400 ha, thuộc vùng phục hồi sinh thái vƣờn quốc gia trên 800 ha. Sản lƣợng địa phƣơng chiếm 44,3% sản lƣợng ngao miền bắc. Tổng sản lƣợng ngao năm 1990 là 4000 tấn, năm 2004, năng suất đạt trên 100.000 tấn, năm 2011 đạt 60.000 tấn. Hiện nay, địa phƣơng đã sử dụng tối đa các bãi bồi ngập nƣớc để nuôi ngao, tạo công ăn việc làm cho ngƣời dân địa phƣơng, thu nhập tăng cao cho các hộ gia đình, giảm tác động của ngƣời dân vào vùng lõi. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây một số hộ nuôi ngao cũng gặp nhiều khó khăn do không có kinh nghiệm nuôi, môi trƣờng ô nhiễm, ngao không lớn do thiếu thức ăn. Về thị trƣờng và tiêu thụ sản phẩm, trƣớc năm 2004 chủ yếu xuất sang Trung Quốc theo đƣờng tiểu ngạch và tiêu thụ nội địa. Từ năm 2005 đến nay lƣợng ngao tiêu thụ qua Trung Quốc giảm mạnh: năm 2009 xuất sang Trung Quốc 50.000 tấn, đến năm 2011 chỉ còn 5000 tấn. Thị trƣờng nội địa còn nhỏ hẹp, sức tiêu thụ thấp nên ảnh hƣởng lớn đến tốc độ phát triển. Để giải quyết vấn đề này UBND huyện Giao Thủy đã tổ chức nhiều chuyến đi tìm kiếm thị trƣờng nƣớc ngoài nhƣ là tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Bên cạnh đó ngƣời nuôi ngao cũng đã tăng cƣờng hợp tác liên kết mở rộng thị trƣờng ra các thành phố lớn, chú trọng công nghệ làm sạch ngao trƣớc khi bán, tổ chức tốt mạng lƣới tiếp thị, bán sỉ và bán lẻ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, khu vực miền Trung nên mỗi năm tiêu thụ đƣợc trên 5.000 tấn. Năm 2008, thông qua các nhà máy chế biến ở Vũng Tàu, Bến Tre xuất đi châu Âu gần 3.000 tấn. Thƣơng hiệu ngao Giao Thủy và đã đƣợc Cục Sở hữu công nghiệp cấp giấy chứng nhận nhãn, xuất xứ hàng hóa và mở website để quảng bá và tiêu thụ sản phẩm, đƣợc EU công nhận là thực phẩm an toàn cấp B liên tục từ năm 2004 đến nay. Tuy nhiên, tình hình nuôi ngao trong thời gian qua cũng xuất hiện nhiều yếu tố phát triển không bền vững nhƣ: Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 51
  52. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường - Diện tích bãi bồi bị khai thác tối đa vào nuôi ngao (diện tích nuôi ngao hiện tại gấp 10 lần diện tích so với 10 năm trƣớc) với hệ thống vây lƣới dày đặc, mật độ thả giống cao (5000 con/m²) làm mất cần bằng hệ sinh thái, năng suất, chất lƣợng sản phẩm giảm dần. Từ năm 2007 đến nay, thời gian ngao đạt đủ chất lƣợng khai thác đã tăng lên 3 năm, trƣớc năm 2007 chỉ khoảng hơn 2 năm. - Các khâu liên kết giữa phát triển nguồn giống, nuôi thƣơng phẩm và tổ chức tiêu thụ sản phẩm chƣa chặt chẽ làm cho sản phẩm bị ép giá, quy mô tiêu thụ nhỏ, thị trƣờng bị thu hẹp. Thêm vào đó là khó khăn về con giống cũng nhƣ thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm Để khắc phục tình trang đó, UBND huyện Giao Thủy đƣợc sự hỗ trợ của Trung tâm bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng MCD và sự tự nguyện thống nhất của các thành viên, ngày 26/2/2009 “Tổ hợp tác nuôi ngao bền vững” đƣợc thành lập. Tổ đã xây dựng đƣợc quy chế hoạt động chung và có hợp đồng giao kết. Hàng tháng tổ thƣờng xuyên tổ chức sinh hoạt, chia sẻ kinh nghiệm, tổng kết, xây dựng kế hoạch cho tháng tiếp theo và họp bất thƣờng khi có việc cần thiết. Tổ hợp tác ra đời nhằm tập hợp trí tuệ của nhiều ngƣời, cùng thống nhất và cùng thực hiện, tổ đã sắp xếp lại sản xuất, luôn theo sát kiểm tra các yếu tố môi trƣờng: - Quy định cho diện tích nuôi thả mỗi vây ƣơng nuôi tối thiểu là 0,5ha trở lên, khoảng cách giữa các vây lấy lối đi là 2m, đƣờng đi chính là 4m xung quanh xẻ lạch rộng 15m tạo môi trƣờng thông thoáng làm lƣu thông dòng chảy để thức ăn đƣợc vận chuyển dễ dàng và dành lại một phần đất để khai thác tự nhiên tạo điều kiện cho các đối tƣợng khác phát triển, nhằm phát triển đa dạng các đối tƣợng nuôi, tạo cân bằng sinh thái môi trƣờng. - Kích thƣớc thả con giống nhỏ nhất là 50-60 vạn con/kg. Thả với mật độ 5.000 con/m2. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 52
  53. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường - Qui hoạch lối đi ngập triều rộng 10 m hai bên các dòng sông, trên ranh giới quản lý giữa các xã; 2-3 m giữa các vùng nuôi để đảm bảo lƣu thông dòng triều, vận chuyển sản phẩm, chăm sóc, bảo vệ vùng nuôi. - Phục hồi thảm thực vật thân mềm trên cồn cát ven biển để giảm tốc độ xâm lấn vùng nuôi do cát bay: trồng và bảo vệ các loại thực vật có khả năng giữ đất nhƣ muống biển, cỏ đuôi ngựa trên các cồn cát mép biển. - Khoanh vùng khai thác ngao thƣơng phẩm có kiểm soát nhƣ: qui định thời gian khai thác, kích cỡ giống, phƣơng thức khai thác; động viên ngƣ dân trong vùng nuôi khai thác ngao giống đúng mùa vụ. - Kiểm soát chặt chẽ chất lƣợng giống nhập ngoại vào địa bàn, đồng thời có chính sách khuyến khích để hạn chế việc xuất giống đi nơi khác để đảm bảo chất lƣợng và đáp ứng cơ bản nhu cầu giống nuôi trong năm sản xuất. - Có cơ chế tích cực giúp các cơ sở sản xuất giống thuỷ sản tiếp nhận chuyển giao công nghệ và sản xuất thành công giống ngao bằng phƣơng pháp sinh sản nhân tạo. - Từng bƣớc áp dụng khoa học kỹ thuật, cải tạo bề mặt bãi nuôi. - Tiếp tục nuôi thử nghiệm các loài nhuyễn thể khác có giá trị kinh tế cao nhƣ sò huyết, hàu, sò lông, ốc hƣơng để sử dụng tiềm năng đất đai, nâng cao hiệu quả trên một đơn vị diện tích sản xuất. - Củng cố, bảo vệ và mở rộng tầm ảnh hƣởng của thƣơng hiệu “Ngao Giao Thuỷ”. Hình 3.4. Mô hình nuôi ngao Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 53
  54. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường 3.2. Mô hình khai thác ngao giống [2] 3.2.1. Hiện trạng vùng thực hiện mô hình Vùng đất ngập nƣớc ở cửa sông Hồng thuộc Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ là một vùng đất giàu tiềm năng.Từ đây đón nhận nguồn phù sa phong phú của Sông Hồng - con sông lớn nhất miền Bắc, đồng thời cũng là nơi gặp gỡ giữa sông và biển để hội tụ đầy đủ các nguồn lợi tự nhiên trời phú cho khu vực. Từ năm 2004, vào khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 7 ở khu vực xuất hiện nguồn lợi ngao giống (ngao cám và ngao thóc) tự nhiên với quy mô tƣơng đối lớn. Cộng đồng dân địa phƣơng đã tranh thủ khai thác nguồn lợi này để cung cấp con giống cho các khu nuôi trồng quảng canh loài ngao nói trên. Thị trƣờng tiêu thụ ngao giống không chỉ ở khu vực nuôi trồng quảng canh ngao (vạng) ở cuối Cồn Lu, Cồn Ngạn của huyện Giao Thuỷ mà còn đƣợc xuất sang các khu nuôi trồng ngao của các huyện và tỉnh lân cận. Hàng tỷ đồng lợi nhuận có đƣợc từ nguồn lợi giống tự nhiên trên vùng đất ngập nƣớc ở cửa Sông Hồng đã tạo nên sức hút mãnh liệt đối với rất nhiều đối tƣợng, cả từ cộng đồng địa phƣơng và những ngƣời từ nơi xa đến.Vào thời vụ cao điểm có tới hàng ngàn ngƣời dân và hàng trăm phƣơng tiện thuyền bè lớn nhỏ tham gia khai thác. Năm 2004, cộng đồng địa phƣơng đã có thu nhập ƣớc đạt từ 6-7 tỷ đồng; năm 2005 ƣớc thu nhập đạt từ 5-6 tỷ đồng (tƣơng đƣơng với: 35 - 45 tấn sản phẩm ngao giống tổng hợp, gồm hai loài chính là Ngao dầu - Meretrix lusoria và Ngao trắng- Meretrix lyrata. Toàn bộ sản phẩm ngao giống (dạng ngao cám và ngao thóc) trên đƣợc tiêu thụ hết ngay tại hiện trƣờng khai thác ngao giống tự nhiên ở khu vực. 3.2.2. Tính cấp thiết của việc xây dựng và thực hiện mô hình Hệ quả tất yếu của việc khai thác nguồn lợi ngao giống tự phát trái phép trên là gây mất an ninh trật tự và tác động xấu đến mục tiêu bảo tồn thiên nhiên của Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ. Chính quyền địa phƣơng và Ban quản lý Vƣờn quốc gia, mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhƣng không thể ngăn cản đƣợc dòng ngƣời đông đảo tràn về khu Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 54
  55. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường vực cửa sông Hồng để khai thác nguồn lợi Ngao giống tự nhiên theo mùa vụ một cách bừa bãi và trái phép. Nếu không sớm áp dụng các giải pháp quản lý tích cực và hữu hiệu sẽ dẫn đến nguy cơ không thể thực hiện đƣợc mục tiêu bảo tồn và phát triển bền vững Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ. Nguồn ngao giống tự nhiên có khả năng tự phục hồi cao, không khai thác sẽ gây lãng phí nên cần thực hiện mô hình khai thác một cách hiệu quả và bền vững để vừa phát triển nguồn lợi kinh tế vừa không gây ảnh hƣởng tới môi trƣờng. Vì vậy, việc xây dựng và tổ chức thực hiện mô hình khai thác nguồn lợi Ngao giống tự nhiên trên vùng đất ngập nƣớc ở cửa Sông Hồng, thuộc Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ là một việc làm rất thiết thực; đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cuộc sống và xu thế tiếp cận phƣơng pháp bảo tồn đất ngập nƣớc có sự tham gia hiệu quả của chính cộng đồng địa phƣơng. 3.2.3. Mục tiêu của mô hình Mục tiêu chung: Đảm bảo việc khai thác nguồn lợi ngao giống không làm ảnh hƣởng đến mục tiêu bảo tồn của Vƣờn theo Quyết định số 01/2003/QĐ-TTg ngày 2/1/2003 của Thủ tƣớng Chính phủ; đồng thời đảm bảo duy trì bền vững sinh cảnh sống, nguồn thức ăn của các loài sinh vật hoang dã, đặc biệt là các loài chim nƣớc di cƣ ở Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ. Mục tiêu ngắn hạn: Xây dựng cơ chế đồng quản lý sử dụng bền vững nguồn lợi Ngao giống (Ngao cám và Ngao thóc) tự nhiên trên vùng đất ngập nƣớc ở khu vực cửa Sông Hồng, thuộc Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ. Mục tiêu lâu dài: Tổ chức thực hiện mô hình quản lý sử dụng bền vững tài nguyên đất ngập nƣớc ở khu vực, nhằm kết hợp hài hoà giữa yêu cầu bảo tồn và phát triển, đáp ứng lợi ích trƣớc mắt của cộng đồng địa phƣơng, đồng thời đáp ứng lợi ích lâu dài của quốc gia và quốc tế ở Vƣờn quốc gia - Khu Ramsar Xuân Thuỷ. 3.2.4. Lựa chọn biện pháp quản lý khai thác bền vững nguồn lợi Ngao giống tự nhiên ở khu vực thực hiện mô hình Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 55
  56. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Nội dung hoạt động: Tổ chức cho cộng đồng địa phƣơng khai thác sử dụng bền vững nguồn lợi Ngao giống (Ngao cám và Ngao thóc) tự nhiên ở khu vực theo mùa vụ từ tháng 5 đến tháng 7 hàng năm. Khu vực khai thác nguồn lợi Ngao giống trong mô hình: là khu vực cửa Sông Hồng thuộc 2 xã Giao An và Giao Thiện có diện tích tự nhiên khoảng 700 ha. Đây là vùng đất còn đang ngập nƣớc đƣợc giới hạn bởi ranh giới của phần đất nổi khi triều kiệt của Cồn Ngạn, Cồn Lu và Cồn Xanh thuộc Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ. Cách thức tổ chức hoạt động khai thác nguồn lợi Ngao giống tự nhiên ở khu vực dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau: - Đảm bảo yêu cầu sử dụng bền vững tài nguyên đất ngập nƣớc, đáp ứng lợi ích trƣớc mắt của cộng đồng địa phƣơng, đồng thời phải thiết lập cơ chế quản lý chặt chẽ nhằm đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ tài nguyên môi trƣờng của Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ và đảm bảo an ninh trật tự của khu vực. - Có sự tham gia quản lý của các bên liên quan ở địa phƣơng (UBND xã, kiểm lâm và bộ đội biên phòng). - Cộng đồng địa phƣơng đƣợc hƣởng lợi từ việc thu hoạch nguồn lợi Ngao giống tự nhiên ở khu vực, đồng thời phải nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ công dân đã đƣợc thể chế hoá trong các văn bản pháp quy của cấp thẩm quyền (UBND xã, ban quản lý Vƣờn quốc gia Xuân Thủy) Việc tổ chức thực hiện: - Cơ chế đồng quản lý đƣợc vận hành trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm của các bên liên quan, trong đó có quy định trách nhiệm cụ thể của các thành viên. - Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban nhân dân huyện Giao Thuỷ, ngành thuỷ sản và các đơn vị hữu quan, đôn đốc giám sát việc thực hiện đề án và các quy định của luật hiện hành để đạt đƣợc hiệu quả quản lý tốt nhất. - Tăng cƣờng tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cộng đồng để tạo lập ý thức trân trọng các giá trị của tự nhiên, tiến tới mục tiêu thực hiện sự nghiệp bảo Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 56
  57. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường tồn thiên nhiên ở Khu Ramsar Xuân Thuỷ bằng trách nhiệm của chính cộng đồng địa phƣơng, để từng bƣớc tiến đến thực hiện tốt mục tiêu phát triển bền vững. Thành phần tham gia hoạt động quản lý giám sát và khai thác nguồn lợi Ngao giống tự nhiên ở khu vực bao gồm: - Các cơ quan ban ngành hữu quan ở tỉnh Nam Định và huyện Giao Thuỷ. - Ban quản lý khai thác nguồn lợi Ngao giống tự nhiên ở khu vực - Các thành viên trong tổ tự quản - Các tổ chức, cá nhân trực tiếp nhận thuê khoán đất mặt nƣớc để khai thác nguồn lợi Ngao giống tự nhiên ở khu vực - Những ngƣời dân hành nghề khai thác Ngao giống tự nhiên hoặc làm các dịch vụ, thu mua bằng mọi hình thức tại khu vực. Hoạt động được phép trong khu vực: - Chỉ đƣợc phép khai thác nguồn lợi Ngao giống (Ngao cám và Ngao Thóc) tự nhiên theo mùa hè từ tháng 5 đến tháng 7 hàng năm trên vùng đất ngập nƣớc ở khu vực cửa Sông Hồng thuộc Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ để không ảnh hƣởng tới hoạt động của các loài chim di trú (chủ yếu xuất hiện vào mùa đông). - Chỉ đƣợc dùng những phƣơng tiện và công cụ thủ công (công cụ cầm tay, không có động cơ) để khai thác Ngao giống (loại Ngao cám và Ngao thóc). - Có thể dựng lều lán tạm thời để cƣ ngụ trong mùa vụ khai thác (dùng cọc tre làm khung và căng vải bạt). Hết mùa khai thác phải dỡ bỏ để bàn giao nguyên trạng mặt bằng khu vực đất ngập nƣớc trên cho Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ quản lý. Hoạt động bị nghiêm cấm: - Các hoạt động khai thác thuỷ sản mang tính huỷ diệt nhƣ : dùng xung điện, thuốc nổ, hoá chất độc hại, các loại lƣới bị cấm hoặc có mắt lƣới nhỏ hơn quy định làm cạn kiệt nguồn lợi thuỷ sản. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 57
  58. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường - Các hoạt động làm thay đổi cảnh quan môi trƣờng tự nhiên của khu vực nhƣ: khai thác Ngao giống bằng máy, làm chòi kiên cố, đào đắp làm thay đổi dòng chảy tự nhiên - Các hành vi gây ô nhiễm môi trƣờng vùng triều. - Chặt phá cây và làm cháy rừng vì bất kỳ một mục đích nào. - Săn bẫy chim thú và các loài động vật hoang dã khác. - Sử dụng đất ngập nƣớc không đúng mục đích. - Sang nhƣợng trái phép hoặc tranh chấp, lấn chiếm đất bãi bồi và đất ngập nƣớc. - Buôn bán trái phép các sản phẩm thuỷ sản ở khu vực quản lý chung. 3.2.5. Kết quả Thực hiện Quyết định số: 1951/QĐ-UBND, ngày 24/8/2006 của UBND tỉnh Nam Định về việc phê duyệt Đề án thí điểm khai thác nguồn lợi Ngao giống tự nhiên ở cửa sông Hồng thuộc Vƣờn quốc gia Xuân Thủy. Ban quản lý vƣờn quốc gia đã phối hợp với UBND huyện Giao Thủy và các cấp ngành ở địa phƣơng để tổ chức triển khai mô hình trên địa bàn 2 xã Giao An và Giao Thiện trong các mùa khai thác ngao giống từ năm 2006 đến năm 2010. Ngày 9/10/2006, UBND huyện Giao Thủy đã ban hành quyết định số: 2423/QĐ-UBND V/v thành lập Ban quản lý khai thác nguồn lợi Ngao giống ở khu vực sông Hồng thuộc Vƣờn quốc gia Xuân Thủy. Hàng năm, vào cuối mùa vụ khai thác ngao giống, Ban quản lý khai thác ngao giống đã yêu cầu UBND các xã liên quan báo cáo kết quả thực hiện mô hình và đánh giá kết quả này về mọi mặt trong năm. Thực tế cho thấy: từ năm 2006 đến nay, công tác quản lý bảo vệ tài nguyên môi trƣờng và hoạt động khai thác ngao giống đã đƣợc các bên liên quan thực hiện đúng với các nội quy của đề án. Địa phƣơng đã thu đƣợc một nguồn ngân sách tƣơng đối lớn đáp ứng cho nhu cầu chi phí phúc lợi. Từ việc cho nhân dân thuê đất mặt nƣớc ở cửa sông Hồng khai thác ngao giống theo mùa vụ, qua đó cũng đã ổn định đƣợc an ninh trật tự đồng thời cảnh quan môi trƣờng trong vùng vẫn đƣợc đảm bảo. Mặc dù Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 58
  59. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường trong quá trình thực hiện vẫn còn một số tồn tại nhỏ và phát sinh các yếu tố khách quan và chủ quan khiến nguồn lợi ngao giống tự nhiên bị suy giảm, nhƣng các mục tiêu cơ bản của mô hình vẫn đƣợc Ban quản lý Vƣờn quốc gia Xuân Thủy và các bên liên quan phối hợp chặt chẽ để tổ chức các biện pháp khắc phục, thực hiện đạt hiệu quả thiết thực. Sau đây là bảng báo cáo thống kê số thu nộp vào ngân sách địa phƣơng của các hộ tham gia mô hình khai thác ngao giống qua các năm: Bảng 3.2 Kết quả thực hiện cụ thể của UBND xã Giao Thiện Số thu NS STT Năm Số hộ tham gia Diện tích (ha) (đồng) 1 2007 24 259,7 420.070.000 2 2008 20 170 111.240.000 3 2009 11 150 188.000.000 4 2010 13 150 96.000.000 Tổng thu 815.310.000 Bảng 3.3 Kết quả thực hiện cụ thể của UBND xã Giao An Số thu NS STT Năm Số hộ tham gia Diện tích (ha) (đồng) 1 2006 215 450 400.000.000 2 2007 240 450 385.000.000 3 2008 235 450 410.000.000 4 2009 245 400 370.000.000 5 2010 210 400 312.000.000 Tổng thu 1.887.000.000 Qua kết quả thực tiễn cho thấy mô hình khai thác Ngao giống tự nhiên tại khu vực Vƣờn quốc gia Xuân Thủy đã trực tiếp tạo nên sự ổn định và phát triển bền vững cho kinh tế xã hội của địa phƣơng. Thông qua mô hình đồng quản lý sử dụng bền vững nguồn lợi ngao giống trên, cộng đồng địa phƣơng sẽ có đƣợc thu nhập tƣơng đối khá để cải thiện đời sống. An ninh trật tự và mục tiêu bảo vệ tài nguyên môi trƣờng ở khu vực đƣợc đảm bảo vì có sự cam kết và tham gia Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 59
  60. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường chủ động của chính cộng đồng; ý thức trách nhiệm chung của cộng đồng đối với sự nghiệp bảo tồn và phát triển bền vững Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ cũng đƣợc tăng cƣờng theo chiều hƣớng tích cực. Để đạt mục tiêu đã đề ra, Ban quản lý Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ cùng với cộng đồng địa phƣơng cần phải tổ chức thực hiện mô một cách chu đáo. Đồng thời phải có giám sát, đánh giá thƣờng xuyên và điều chỉnh kịp thời khi phát hiện các vấn đề phát sinh nhằm xây dựng thành công mô hình đồng quản lý sử dụng bền vững nguồn lợi Ngao giống tự nhiên ở khu vực. 3.3. Mô hình sử dụng bền vững tài nguyên rừng ngập mặn và nguồn lợi thủy sản mang lại lợi ích cho phụ nữ nghèo thông qua cơ chế đồng quản lý trong vùng lõi của Vườn quốc gia Xuân Thủy [3], [7] 3.1.1. Giới thiệu về vùng lõi a. Đặc điểm tự nhiên vùng lõi Tổng diện tích tự nhiên của Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ là 7100 ha,trong đó: đất nổi 3.100 ha,đất ngập nƣớc 4.000 ha. Bảng 3.4. Diện tích tự nhiên của Vườn quốc gia XT. ( Đơn vị tính ha) Cồn Ngạn Khu vực Cồn Lu Cồn Xanh Tổng cộng (Phần thuộc Hạng mục ( toàn bộ ) (Cồn Mờ ) (DT 3 đảo ) VQG) Đất nổi 984 1982 134 3100 Đất ngập nƣớc 300 1200 2500 4000 Tổng cộng 1284 3182 2534 7100 Đây là những vùng quan trọng nhất của Vƣờn Quốc gia Xuân Thuỷ, có chức năng bảo vệ và tôn tạo những cảnh quan tiêu biểu của khu vực đƣợc bảo tồn. Bảo tồn các quần xã thực vật, bảo vệ khu làm tổ, cƣ trú và nơi kiếm ăn của các loại động vật hoang dã, đặc biệt là chim nƣớc. Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 60
  61. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường Tạo nơi cƣ trú thích hợp cho các loài thuỷ sản và cung cấp nguồn giống tự nhiên cho khu vực. Cung cấp địa bàn du lịch sinh thái và bảo vệ tài nguyên môi trƣờng đặc thù của khu vực. Vùng lõi là khu vực đƣợc bảo vệ nghiêm ngặt, không có bất kỳ hoạt động nào của con ngƣời đƣợc phép diễn ra ở đây. Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ là thành viên đầu tiên của Việt nam tham gia Công ƣớc quốc tế Ramsar (Công ƣớc bảo tồn những vùng đất ngập nƣớc có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt nhất là nơi cƣ trú của những loài chim nƣớc, RAMSAR, IRAN, 1971). Một trong các khuyến cáo quan trọng của Công ƣớc Ramsar đối với các nuớc thành viên là sử dụng khôn khéo và bền vững tài nguyên đất ngập nƣớc nhằm đáp ứng lợi ích trƣớc mắt của cộng đồng địa ph- ƣơng, đồng thời đáp ứng lợi ích lâu dài của quốc gia và quốc tế. b. Các kiểu quần xã thực vật chính trong Vƣờn quốc gia Xuân Thủy Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ có trên 120 loài thực vật bậc cao, trong đó có gần 20 loài thích nghi với điều kiện sống ngập nƣớc cấu thành lên rừng ngập mặn. Do có lịch sử phát triển tự nhiên khá phức tạp nên đã hình thành các loại hình rừng ngập mặn đặc thù ở khu vực: - Rừng ngập mặn trồng thuần loại và hỗn giao: đây là loại hình rừng ngập mặn tƣơng đối phổ biến, phân bố từ khu vực giữa đến cuối Cồn Ngạn và Cồn Lu. Ban đầu các dự án chỉ trồng thuần loài trang, về sau trồng bổ sung dâng và bần chua. Diện tích rừng ngập mặn trên đã khá xanh tốt, có độ che phủ cao, nhƣng khả năng thích ứng với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt kém hơn các loại hình rừng ngập mặn khác. - Rừng ngập mặn hỗn giao tự nhiên: đây là loại hình rừng ngập mặn có tầm quan trọng đặc biệt đối với khu vực. Chúng có độ che phủ cao, sinh khối lớn và có khả năng thích nghi với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt tốt nhất. Loại hình rừng ngập mặn này có thành phần loài đa dạng nhất và phân bố tập trung ở khu Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 61
  62. Khóa luận tốt nghiệp Ngành: Kỹ thuật môi trường vực đầu Cồn Lu và Cồn Ngạn (thuộc phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Vƣờn quốc gia). - Rừng ngập mặn trong các đầm tôm: đây cũng là một loại hình rừng ngập mặn đặc biệt. Chúng tồn tại do có đƣợc các cá thể và các loài cây rừng ngập mặn của loại hình rừng ngập mặn tự nhiên, thích nghi đƣợc với điều kiện sống ngập nƣớc thƣờng xuyên ở trong các đầm tôm. Số lƣợng loài cây, độ che phủ và diện tích đều kém hơn hai loại hình rừng ngập nêu trên. Các loài cây chủ yếu gồm sú, bần chua, ô rô (là những loài cây rừng ngập mặn có nguồn gốc tự nhiên). c. Các nhân tố tác động đến bảo tồn tài nguyên thực vật và động vật hoang dã ở Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ * Ảnh hƣởng của nƣớc đối với việc bảo vệ ĐDSH ở khu vực: Ở Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ, thời gian qua do có những sự can thiệp bất hợp lý của con ngƣời và một số yếu tố bất lợi của tự nhiên nên chế độ nƣớc ở Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ đã diễn ra không bình thƣờng. Khu vực giáp cửa sông Hồng đã bị ngọt hoá do đập Vọp ngăn sông Vọp và sông Trà bị lấp ở khúc giữa đã ngăn chặn sự lƣu thông bình thƣờng của hai nguồn nƣớc; nguồn nƣớc ngọt của sông Hồng và nguồn nƣớc mặn của biển Giao Hải. Các loài cây ƣa ngọt đã có điều kiện phát triển mạnh (bần chua, Sậy, Cói) ở vùng cửa sông Hồng. Ngƣợc lại phần đất ở xa cửa sông bị mặn hoá, loài hà (một loài nhuyễn thể sống bám vào cây rừng ngập mặn) phát triển rất mạnh, khiến cho cây rừng ngập mặn bị xâm hại ở nhiều nơi. Hà làm rừng ngập mặn kém phát triển, thậm chí còn bị chết hàng loạt. Sự thay đổi về chế độ thuỷ văn kéo theo sự biến đổi về đa dạng sinh học của vùng cửa sông. Đa dạng sinh học bị suy giảm mạnh, các loài thuỷ hải sản có giá trị kinh tế không thể phát triển, nhƣờng chỗ cho các loài kém giá trị hơn của hệ sinh thái nƣớc ngọt. Tƣơng tự nhƣ vậy, khi độ mặn lên khá cao quanh năm, rất khó có đƣợc các loài thuỷ hải sản có giá trị kinh tế. Sự suy giảm về số và chất lƣợng tài nguyên rừng và động thực vật thuỷ sinh là hệ quả tất yếu dẫn Sinh viên: Nguyễn Kim Long - MT1201 62