Khóa luận Một số giải pháp marketing nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Một số giải pháp marketing nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_mot_so_giai_phap_marketing_nham_day_manh_tieu_thu.pdf
Nội dung text: Khóa luận Một số giải pháp marketing nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đang trên đà phát triển và hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đã cho phép các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng buôn bán hợp tác với nƣớc ngoài. Đây là một cơ hội nhƣng đồng thời cũng là một thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế thị trƣờng, các doanh nghiệp phải đối mặt với cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải thay đổi cơ cấu tổ chức cho phù hợp với thực tế, phải có biện pháp quản lý năng động, linh hoạt, phải xây dựng, áp dụng các chiến lƣợc kinh doanh phù hợp. Muốn vậy, doanh nghiệp phải thực hiện sản xuất, kinh doanh theo hƣớng thị trƣờng, theo khách hàng và áp dụng hoạt động marketing vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Trên thực tế trong đó việc xây dựng và hoàn thiện một hệ thống marketing-mix với chiến lƣợc và biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Đây là giải pháp đắc dụng nhất để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn hoạt động trong lĩnh vực buôn bán vật liệu xây dựng và dịch vụ vận tải. Vì vậy, vấn đề tiêu thụ sản phẩm của công ty là hoạt động quan trọng nhất. Trong năm 2011 và những tháng đầu năm 2012, trƣớc tình hình kinh tế khó khăn, sản phẩm của các doanh nghiệp tồn đọng nhiều, công ty đang sử dụng các biện pháp marketing nhằm tăng khả năng tiêu thụ. Qua một thời gian khảo sát thực tế tại doanh nghiệp, vận dụng những kiến thức đã học đƣợc ở nhà trƣờng vào thực tiễn sản xuất, đề tài khoá luận: “Một số giải pháp marketing nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn” nhằm góp phần giải quyết mấy vấn đề thực tiễn đang đặt ra hiện nay. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, khoá luận gồm ba chƣơng: Chương 1: Hoạt động marketing trong tiêu thụ sản phẩm- Một số vấn đề lý luận Chương 2: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công ty TNHH Lê Sơn. Chương 3: Một số giải pháp Marketing nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 1
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Chương 1 HOẠT ĐỘNG MARKETING TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1. Khái niệm và vai trò của tiêu thụ sản phẩm trong hoạt động của doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm về tiêu thụ sản phẩm Đứng trên góc độ marketing: tiêu thụ sản phẩm là quản trị hệ thống kinh tế và những điều kiện tổ chức có liên quan đến việc điều hành và vận chuyển hàng hoá, từ ngƣời sản xuất đến ngƣời tiêu dùng với điều kiện hiệu quả tối đa. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng: Tiêu thụ là giai đoạn cuối của quá trình sản xuất kinh doanh, thông qua tiêu thụ mà thực hiện đƣợc giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm. Ngoài ra, còn có rất nhiều quan điểm về hoạt động tiêu thụ sản phẩm bằng các cách tiếp cận khác nhau. Đặc trƣng lớn nhất của tiêu thụ hàng hoá là sản xuất ra để bán. Do đó khâu tiêu thụ sản phẩm là một trong những khâu cực kỳ quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Đây là cầu nối trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Quá trình tiêu thụ chỉ kết thúc khi quá trình thanh toán giữa ngƣời mua và ngƣời bán diễn ra nhằm chuyển quyền sở hữu hàng hoá. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng về sản phẩm, doanh nghiệp phải thực hiện rất nhiều nghiệp vụ sản xuất ở các khâu, bao gồm: phân loại, lên nhãn hiệu bao bì, bao gói và chuẩn bị các lô hàng để xuất bán và vận chuyển theo yêu cầu của các khách hàng. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải tổ chức lao động hợp lý ở nhiều công đoạn. Đặc biệt là lao động trực tiếp ở các kho hàng hoá và phân loại sản phẩm của doanh nghiệp. Từ cách lý giải trên, tiêu thụ sản phẩm là tổng thể các giải pháp nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu thị trƣờng. Nó bao gồm các hoạt động: tạo nguồn, chuẩn bị hàng hoá, tổ chức mạng lƣới bán hàng, xúc tiến bán hàng với nhiều hoạt động phụ trợ cho việc thực hiện sau bán hàng. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 2
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Trong nền kinh tế thị trƣờng, hoạt động tiêu thụ sản phẩm không đơn giản chỉ là quá trình chuyển quyền sở hữu hàng hoá đến khách hàng mà còn là một quá trình bao gồm nhiều công việc khác nhau từ việc nghiên cứu nhu cầu, tìm nguồn hàng, xúc tiến bán hàng cho đến các dịch vụ sau bán nhƣ: chuyên chở, bảo hành, tƣ vấn kỹ thuật, lắp đặt 1.1.2. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế làm cho thị trƣờng thế giới trở thành một thị trƣờng thống nhất và mang tính rủi ro cao. Vì thế, khâu tiêu thụ sản phẩm là khâu giữ vai trò quyết định. Nó cho biết thị phần của doanh nghiệp và khẳng định uy tín của doanh nghiệp trên thƣơng trƣờng. Vì thế, các nhà quản trị doanh nghiệp ngày càng chú ý hơn đến công tác tiêu thụ sản phẩm. Đó vừa là cơ sở, vừa là điều kiện để doanh nghiệp có thể tồn tại trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Tiêu thụ sản phẩm đánh dấu thành quả hoạt động của toàn bộ doanh nghiệp. Để có thể tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá, phƣơng châm của bất kỳ doanh nghiệp hoặc nhà sản xuất nào cũng phải hƣớng tới khách hàng, coi khách hàng là trung tâm. Mục tiêu của công tác tiêu thụ là bán hết sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp với doanh thu tối đa và chi phí thấp nhất có thể. Do vậy, khác với quan niệm trƣớc đây, hiện nay, tiêu thụ không còn là khâu đi sau sản xuất, chỉ đƣợc thực hiện khi sản phẩm đã hoàn thành. Tiêu thụ hiện giờ phải chủ động đi trƣớc một bƣớc, đƣợc tiến hành trƣớc quá trình sản xuất. Đó là triết lý kinh doanh đƣợc đúc kết qua thực tiễn. Với mọi doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực, từ sản xuất đến dịch vụ nhƣ: Bảo hiểm, Ngân hàng, Tƣ vấn kỹ thuật khâu tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp là điều hết sức quan trọng. Nó quyết định rất lớn đến sự thành bại của doanh nghiệp. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với mỗi doanh nghiệp, sản phẩm dù có tốt đến mấy nhƣng nếu không tổ chức tốt khâu tiêu thụ sản phẩm làm cho sản phẩm không đến đƣợc tay ngƣời tiêu dùng hoặc không đƣợc ngƣời tiêu dùng biết đến và tin dùng thì sản phẩm đó cũng không bán đƣợc, không cạnh tranh đƣợc với những sản phẩm thay thế và kết quả là doanh nghiệp không thu hồi đƣợc những chi phí đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm. Nhƣ vậy, có tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp mới thu hồi vốn để tiến hành tái sản xuất, tăng nhanh tốc độ luân chuyển Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 3
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, còn ngƣời tiêu dùng thì thỏa mãn đƣợc nhu cầu, mong muốn của mình do những tiện ích của sản phẩm mang lại. 1.1.2.1. Tiêu thụ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục. Tiêu thụ là khâu quan trọng nối liền sản xuất với tiêu dùng, đảm bảo sự cân đối giữa cung và cầu, góp phần ổn định giá cả thị trƣờng. Quá trình tiêu thụ sản phẩm sẽ kết thúc khi quá trình thanh toán giữa bên mua và bên bán diễn ra và quyền sở hữu hàng hóa đó đã đƣợc chuyển đổi, hàng hóa đƣợc chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và đƣợc xã hội thừa nhận. Do đó, khi một lƣợng hàng hóa đƣợc tiêu thụ, doanh nghiệp nhận về một lƣợng tiền tệ nhất định đƣợc gọi là doanh thu, lấy doanh thu này trừ đi những chi phí đã bỏ ra, doanh nghiệp có đƣợc lợi nhuận. Nếu doanh thu lớn hơn chi phí thì doanh nghiệp không những bù đắp đƣợc những chi phí đã bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, mà còn có thể dùng phần lợi nhuận thu đƣợc để tái sản xuất, mở rộng đầu tƣ nhằm sinh lợi cao hơn. Trong trƣờng hợp này quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đƣợc diễn ra một cách liên tục. Ngƣợc lại, nếu doanh thu nhỏ hơn chi phí, tức là hoạt động tiêu thụ không hiệu quả thì doanh nghiệp không bù đắp đƣợc những chi phí đã bỏ ra, không có vốn để tái sản xuất, do đó hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ bị gián đoạn, nếu kéo dài lâu, doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng phá sản. 1.1.2.2. Tiêu thụ sản phẩm góp phần tăng doanh thu, lợi nhuận và mở rộng qui mô sản xuất. Doanh nghiệp có thể thu đƣợc lợi nhuận từ rất nhiều hoạt động khác nhau: tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp làm ra, đầu tƣ tài chính, doanh thu từ hoạt động bất thƣờng Nhƣng nói chung, với bất kì doanh nghiệp nào, hoạt động tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ vẫn là hoạt động đem lại tỉ suất lợi nhuận lớn nhất, đặc biệt đối với các doanh nghiệp thƣơng mại thì tỉ trọng này còn lớn hơn. Mỗi một chu kì sản xuất kinh doanh dài hay ngắn đều phụ thuộc vào thời gian thu hồi vốn, tức là phụ thuộc vào tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Lợi nhuận do hoạt động tiêu thụ mang lại là cơ sỏ chủ yếu để doanh nghiệp có đủ vốn mở rộng qui mô sản xuất, từ việc mở rộng qui mô sản xuất doanh nghiệp lại có cơ hội đạt hiệu quả kinh tế theo qui mô, tăng khả năng sinh lợi. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 4
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng 1.1.2.3. Tiêu thụ sản phẩm góp phần củng cố, nâng cao vị thế và mở rộng thị phần của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trƣờng, khi sự cạnh tranh ngày càng gay gắt thì việc xác định cho mình một vị thế trên thị trƣờng ngày càng trở nên quan trọng vì nó quyết định đến hình ảnh, vị trí của công ty, của sản phẩm trong lòng ngƣời tiêu dùng, mà ngƣời tiêu dùng chính là ngƣời quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Vị thế này đƣợc thể hiện thông qua tỉ trọng doanh thu, số lƣợng hàng hóa, dịch vụ bán ra của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trƣờng hàng hóa, dịch vụ đó. Khi tỉ trọng này càng lớn thì vị thế của doanh nghiệp càng cao, lúc này doanh nghiệp sẽ nắm đƣợc quyền kiểm soát thị trƣờng và có điều kiện tăng thị phần của mình trên thị trƣờng. Để có đƣợc điều này, ngoài việc phải có sản phẩm, dịch vụ vƣợt trội so với đối thủ cạnh tranh, điều rất quan trọng là doanh nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Vì hoạt động tiêu thụ là cầu nối giữa doanh nghiệp với ngƣời tiêu dùng, nó giúp cho sản phẩm đến đƣợc tận tay ngƣời tiêu dùng và thỏa mãn nhu cầu của họ, đồng thời nó lại cung cấp những thông tin phản hồi từ phía ngƣời tiêu dùng cho doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp nhận biết đƣợc nhu cầu thực sự từ phía khách hàng để đƣa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn và kịp thời nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Mặt khác, bán hàng trong hoạt động tiêu thụ là khâu có quan hệ mật thiết với khách hàng, ảnh hƣởng trực tiếp đến ấn tƣợng, niềm tin và sự tái tạo nhu cầu của họ nên nó cũng là vũ khí cạnh tranh hiệu quả của doanh nghiệp trên thị trƣờng. 1.1.2.4. Tiêu thụ còn thực hiện chức năng giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm. Theo quan điểm của Marketing hiện đại và cũng là quan niệm về sản phẩm đƣợc sử dụng phổ biến hiện nay: Sản phẩm là tất cả những cái, những yếu tố có thể thỏa mãn nhu cầu, mong muốn của ngƣời tiêu dùng, cống hiến những lợi ích cho họ và đƣợc chào bán trên thị trƣờng với mục đích thu hút sự chú ý, mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng. Những lợi ích mà sản phẩm mang lại cho ngƣời tiêu dùng đƣợc gọi là giá trị sử dụng. Nhƣ vậy, xét về khía cạnh của ngƣời tiêu dùng thì cái mà sản phẩm mang lại cho họ đó là giá trị sử dụng, nhƣng những lợi ích của sản phẩm chỉ bộc lộ khi ngƣời tiêu dùng sử dụng sản phẩm. Nhƣ vậy, để có đƣợc giá trị sử dụng đó họ phải bỏ ra chi phí (về tiền của, thời gian, sức lực ) để mua và sử dụng sản Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 5
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng phẩm. Tức là, họ phải tham gia vào hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp. Nhƣ vậy hoạt động tiêu thụ đã thực hiện chức năng giá trị sử dụng của sản phẩm. Mặt khác, ở phía doanh nghiệp, giá trị sản phẩm là những hao phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm đó và nó đƣợc biểu hiện dƣới hình thái tiền tệ (giá thành của sản phẩm). Chỉ đến khi sản phẩm đƣợc tiêu thụ thì doanh nghiệp mới thu hồi đƣợc những hao phí đã bỏ ra và tái sản xuất sản phẩm. 1.2. Marketing và hoạt động marketing trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm 1.2.1. Khái niệm marketing và các khái niệm liên quan 1.2.1.1. Khái niệm marketing Theo Phillip Kotler: Marketing là một dạng hoạt động của con ngƣời nhằm thỏa mãn những nhu cầu và mong muốn của họ thông qua trao đổi. 1.2.1.2. Một số khái niệm liên quan * Nhu cầu (needs): là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con ngƣời cảm nhận đƣợc. Nhu cầu của con ngƣời rất đa dạng và phức tạp. Nó bao gồm cả những nhu cầu sinh lý cơ bản nhƣ: ăn, mặc, sƣởi ấm và an toàn tính mạng lẫn những nhu cầu xã hội, về sự thân thiết gần gũi, uy tín và tình cảm gắn bó, cũng nhƣ những nhu cầu cá nhân về tri thức và tự thể hiện mình. Nếu nhu cầu không đƣợc thỏa mãn thì con ngƣời sẽ cảm thấy khổ sở và bất hạnh. Và nếu nhu cầu đó có ý nghĩa càng lớn đối với con ngƣời thì nó càng khổ sở hơn. Con ngƣời không đƣợc thỏa mãn sẽ phải lựa chọn một trong hai giải quyết: hoặc là bắt tay vào tìm kiếm một đối tƣợng khác có khả năng thỏa mãn đƣợc nhu cầu, hoặc là cố gắng kiềm chế nó. * Mong muốn ( wants): là một nhu cầu có dạng đặc thù, tƣơng ứng với trình độ văn hóa và nhân cách của cá thể. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 6
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Khi đói có ngƣời thích ăn cơm, có ngƣời thích ăn phở, ăn bánh Hay nhƣ nghe nhạc có ngƣời thích nghe nhạc trữ tình, tiền chiến, có ngƣời lại thích nghe nhạc rock, pop Khi xã hội càng phát triển thì mong muốn của con ngƣời cũng càng tăng lên. Các nhà sản xuất, về phía mình luôn hƣớng hoạt động của mình vào việc kích thích ham muốn mua hàng. Họ cố gắng thiết lập mối liên hệ giữa những sả phẩm của mình và nhu cầu của con ngƣời. Họ tuyên truyền hàng hóa là phƣơng tiện thỏa mãn một hay nhiều nhu cầu đặc thù. Nhà kinh doanh không tạo ra nhu cầu mà nhu cầu tự nó đã tồn tại. Ngƣời bán hàng thƣờng nhầm lẫn mong muốn với nhu cầu. Ngƣời sản xuất mũi khoan đất có thể cho rằng ngƣời tiêu dùng cần mũi khooan của họ trong khi thực tế ngƣời tiêu dùng lại cần lỗ khoan. Khi xuất hiện một loại hàng hóa mới có thể khoan tốt hơn và rẻ hơn thì khách hàng sẽ có mong muốn mới về hàng hóa mới mặc dù nhu cầu cũ vẫn không thay đổi là lỗ khoan. * Yêu cầu (demands): là mong muốn có khả năng thanh toán. * Hàng hóa: là tất cả những cái gì có thể thỏa mãn đƣợc mong muốn hay nhu cầu và đƣợc cung ứng cho thị trƣờng nhằm mục đích thu hút sự chú ý, mua sử dụng hay tiêu dùng. Giả dụ một ngƣời phụ nữ cần làm đẹp. Tất cả những hàng hóa có khả năng thỏa mãn đƣợc nhu cầu này hợp thành một danh mục hàng hóa để lựa chọn. Danh mục này bao gồm mỹ phẩm, quần áo mới, tắm nắng, dịch vụ trang điểm, thẩm mỹ Không phải tất cả những thứ hàng hóa này đều đƣợc ƣa chuộng nhƣ nhau. Chắn hẳn ngƣời đó sẽ mua những sản phẩm dễ kiếm và rẻ tiền hơn trƣớc tiên. Hàng hóa càng đáp ứng đầy đủ những mong muốn của ngƣời tiêu dùng thì ngƣời sản xuất càng thành đạt nhiều hơn. Khái niệm hàng hóa không chỉ giới hạn ở những đối tƣợng có hình thể. Hàng hóa có thể là tất cả những gì có khả năng phục vụ, tức là thỏa mãn đƣợc nhu cầu. Ngoài vật phẩm và dịch vụ ra hàng hóa còn có thể là nhân cách, địa điểm, tổ chức, loại hình hoạt động và ý tƣởng. Ngƣời tiêu dùng quyết định xem chƣơng trình giải trí nào trên tivi, đi nghỉ ở đâu, giúp đỡ tổ chức nào . Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 7
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng * Chi phí: Theo quan điểm của ngƣời tiêu dùng thì chi phì đối với một loại hàng hoá là tất cả những hao phí mà ngƣời tiêu dùng phải bỏ ra để có đƣợc lợi ích từ việc tiêu dùng hàng hoá đó đem lại. Nhƣ vậy, để có đƣợc lợi ích tiêu dùng, khách hàng phải chi ra tiền của, sức lực thời gian công sức thậm chí cả những chi phí để khắc phục hậu quả bởi việc tiêu dùng sản phẩm hàng hoá đó. Đây cũng là cơ sở để khách hàng lựa chọn những sản phẩm khác nhau trong việc thoả mãn cùng một nhu cầu. Khi đánh giá đƣợc giá trị tiêu dùng và chi phí đối với hàng hoá, khách hàng sẽ có cơ sở để lựa chọn hàng hoá với mục tiêu thoả mãn lợi ích tốt nhất và với mức chi phí có thể chấp nhận đƣợc. Sự thoả mãn là mức độ về trạng thái cảm giác của ngƣời tiêu dùng, bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu đƣợc từ tiêu dùng sản phẩm với những kì vọng của họ. * Trao đổi: là hành vi nhận từ một ngƣời nào đó thứ mà mình muốn và đƣa lại cho ngƣời đó một thứ gì đó. Trao đổi là một trong bốn phƣơng thức thông qua đó từng ngƣời có thể nhận đƣợc cái mà mình muốn: tự cung- tự cấp, chiếm đoạt, ăn xin, trao đổi. Trong bốn phƣơng thức này, trao đổi là có nhiều ƣu điểm nhất. Ở đây con ngƣời không xâm phạm đến quyền lợi của ngƣời khác, không phải lệ thuộc vào lòng từ thiện của ai, không phải tự làm ra bất cứ thứ gì. Trao đổi là khái niệm cơ bản của khoa học marketing. Để thực hiện đƣợc trao đổi tự nguyện cần tuân thủ năm điều kiện sau: - Tối thiểu phải có hai bên. - Mỗi bên phải có một cái gì đó có thể có giá trị đối với bên kia. - Mỗi bên đều phải có khả năng giao dịch và vận chuyển hàng hóa của mình. - Mỗi bên phải hoàn toàn đƣợc tự do chấp nhận hay khƣớc từ đề nghị của bên kia. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 8
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng - Mỗi bên đều phải nhận thấy là nên hay muốn giao dịch với bên kia. Năm điều kiện này mới chỉ tạo ra khả năng trao đổi. Còn việc trao đổi có đƣợc thực hiệ ộc vào sự thỏa thuận giữa các bên về những điều kiện trao đổi. * Giao dịch: là một cuộc trao đổi mang tính chất thƣơng mại những vật có giá trị giữa hai bên. Nhƣ vậy điều kiện của giao dịch thƣơng mại chỉ có thể diễn ra thực sự khi hội đủ các điều kiện sau: - Ít nhất có hai vật có giá trị. - Những điều kiện thực hiện giao dịch đã hoàn tất. - Thời gian thực hiện giao dịch thoả thuận xong. - Địa điểm giao dịch đã đƣợc thoả thuận. Những thoả thuận này có thể thực hiện trong các cam kết hoặc hợp đồng giữa hai bên trên cơ sở một hệ thống pháp luật buộc mỗi bên phải thực hiện các cam kết của mình. Khi thực hiện các giao dịch, hai bên dễ phát sinh mâu thuẫn. Vì vậy, giao dịch lần đầu hoặc đối với những khách hàng mới thƣờng rất khó khăn. Những công ty thành công thƣờng cố gắng thiết lập mối quan hệ bền vững, lâu dài, tin cậy với tất cả các đối tƣợng giao dịch thƣơng mại có liên quan trên cơ sở triết lý marketing quan hệ. * Thị trường: là tập hợp những ngƣời mua hàng hiện có và sẽ có. Trao đổi và giao dịch dẫn chúng ta đến khái niệm thị trƣờng. Có nhiều cách tiếp cận thị trƣờng. Theo quan điểm Marketing, thị trƣờng bao gồm tất cả các khách hàng tiềm ẩn có cùng một nhu cầu và mong muốn cụ thể sẵn sàng và có khả năng tham gia vào trao đổi để thoả mãn nhu cầu đó. Nhƣ vậy, theo khái niệm này, quy mô thị trƣờng sẽ phụ thuộc vào lƣợng ngƣời có cùng mong muốn, nhu cầu, lƣợng thu nhập, lƣợng tiền mà họ sẵn sàng bỏ Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 9
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng ra để mua sắm hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu, mong muốn đó. Quy mô thị trƣờng không phụ thuộc vào số ngƣời đã mua hàng và cũng không phụ thuộc vào số ngƣời có nhu cấu và mong muốn khác nhau. Mặc dù tham gia vào thị trƣờng phải có cả ngƣời mua và ngƣời bán, những ngƣời làm marketing lại coi ngƣời bán là hợp thành ngành sản xuất-cung ứng, còn ngƣời mua hợp thành thị trƣờng. Bởi vậy họ thƣờng dùng thuật ngữ thị trƣờng để chỉ nhóm khách hàng có nhu cầu và mong muốn nhất định, do đó đƣợc thoả mãn bằng một loại sản phẩm cụ thể. Họ có đặc điểm giới tính hay tâm lý nhất định, ở độ tuổi nhất định và sinh sống ở một vùng cụ thể. Do đó, nếu không có sự hiểu biết đầy đủ về khái niệm nhu cầu, sản phẩm, chi phí, sự thoả mãn, trao đổi, giao dịch, thị trƣờng thì không thể hiểu đúng đắn và đầy đủ khái niệm Marketing. 1.2.2. Vai trò của hoạt động Marketing trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm 1.2.2.1. Mối quan hệ giữa tiêu thụ sản phẩm và Marketing Trƣớc hết, cần phân biệt rõ hoạt động Marketing và hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Nhiều ngƣời nhầm lẫn Marketing với tiêu thụ và kích thích tiêu thụ. Không có gì khó hiểu bởi lẽ mọi ngƣời thƣờng xuyên bị quấy rầy bởi những mục quảng cáo trên đài, báo, tivi, những tờ rơi quảng cáo gửi trực tiếp qua đƣờng bƣu điện, gửi tận tay, qua fax, qua email, những chuyến viếng thăm của những ngƣời chào hàng, những nhân viên tiếp thị, giới thiệu sản phẩm, phát quà khuyến mại, những pano, apich giới thiệu sản phẩm tất cả những dạng quảng cáo tiếp thị này có thể gặp ở bất cứ nơi nào và bất cứ ở đâu dù bạn đang ở công sở, ở nhà hay đi trên đƣờng. Lúc nào cũng có một ngƣời nào đó đang cố gắng bán một thứ gì đó cứ nhƣ là chúng ta chẳng thể nào tránh khỏi bệnh tật, cái chết và sự mua sắm. Do đó đã có rất nhiều ngƣời lầm tƣởng Marketing là bán hàng, là tiêu thụ hàng hoá, và họ thấy ngạc nhiên khi biết rằng tiêu thụ không phải là khâu quan trọng nhất của hoạt động marketing. Sự phân tích đó cho thấy hoạt động tiêu thụ sản phẩm là một bộ phận của Marketing mix tức là một bộ phận của tập hợp các thủ đoạn Marketing cần phải kết hợp chúng lại để tác động mạnh nhất đến thị trƣờng. Ngày nay, sự phát triển mạnh Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 10
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng của kinh tế thị trƣờng cùng với sự cạnh tranh khốc liệt, các nhà kinh doanh muốn doanh nghiệp và sản phẩm của mình đứng vững trên thị trƣờng thì họ phải cố gắng sao cho bán đƣợc nhiều sản phẩm và chiếm đƣợc thị phần lớn trên thị trƣờng. Tuy nhiên, với một hàng hoá kém thích hợp với đòi hỏi của ngƣời tiêu dùng về chất lƣợng, công dụng, đặc tính, tính năng, giá cả thì dù cho ngƣời ta có mất bao nhiêu công sức và tiền của để đẩy mạnh tiêu thụ khuyến khích khách hàng thì việc mua chúng vẫn hạn chế. Ngƣợc lại, nếu nhà kinh doanh hiểu rõ mối quan hệ và hoạt động Marketing và công tác tiêu thụ sản phẩm thì họ sẽ thành công trong việc đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá thông qua việc tìm hiểu kỹ nhu cầu của khách hàng, tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu đó, quy định một mức giá thích hợp và kich thích tiêu thụ có hiệu quả. 1.2.2.2. Vai trò của Marketing trong đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Nhƣ đã nêu ở trên, việc tiêu thụ và kích thích tiêu thụ là một trong những bộ phận của hoạt động Marketing. Đó là tiêu thụ đƣợc nhiều sản phẩm với doanh thu cao và chi phí thấp thông qua việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Bằng việc duy trì sự hài lòng của khách hàng về sản phẩm, doanh nghiệp càng ngày càng có chỗ đứng trong lòng khách hàng do vật phẩm của doanh nghiệp đƣợc khách hàng ƣu tiên lựa chọn. Kết quả là, số lƣợng sản phẩm dịch vụ mà công ty cung cấp tiêu thụ ngày càng nhiều, lợi nhuận doanh nghiệp ngày càng lớn. Theo Peter Druker, một trong những nhà lý luận chủ chốt về các vấn đề quản lý đã nhận xét nhƣ sau: “ Mục đích của Marketing không cần thiết đẩy mạnh tiêu thụ. Mục đích của nó là nhận biết và hiểu khách hàng kỹ đến mức độ hàng hoá và dịch vụ sẽ đáp ứng đúng thị hiếu và tự nó tiêu thụ được”. Điều này không hẳn là việc kích thích tiêu thụ không còn ý nghĩa nữa mà đúng hơn, nó trở thành bộ phận của Marketing mix. Và nhận xét trên đã cho thấy vai trò to lớn của hoạt động Marketing, vị trí của nó ảnh hƣởng quyết định đến quá trình tiêu thụ. Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, là một thực thể sống. Để tồn tại, cơ thể đó cần phải trao đổi chất với môi trƣờng bên ngoài-thị trƣờng. Quá trình này diễn ra càng nhanh với quy mô càng lớn thì cơ thể đó càng khoẻ mạnh. Ngƣợc lại, nếu quá trình trao đổi đó diễn ra yếu ớt thì cơ thể đó có thể què quặt ốm yếu. Hoạt động Marketing chính là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trƣờng đồng thời cũng Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 11
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng là kết nối các hoạt động khác của doanh nghiệp với nhau và hƣớng hoạt động của doanh nghiệp theo thị trƣờng, lấy nhu cầu thị trƣờng và ƣớc muốn của khách hàng là chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Mục tiêu cơ bản thúc đấy hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận. Để thực, doanh nghiệp cần tiêu thụ đƣợc sản phẩm, do vậy tất yếu phải hƣớng ra thị trƣờng. Điều này không chỉ đơn thuần nhƣ lâu nay các nhà quản trị doanh nghiệp vẫn nghĩ là chỉ cần giao vài hoạt động hƣớng ra thị trƣờng nhƣ: tạo ra sản phẩm có chất lƣợng cao hơn, hoặc phòng kỹ thuật thực hiện, phòng tiêu thụ áp dụng những biện pháp bán hàng mới, phòng kinh doanh quy định giá bán và quảng cáo sản phẩm đã là bao hàm đầy đủ nội dung marketing. Tuy nhiên, mục tiêu lớn nhất của hoạt động Marketing là đảm bảo sản xuất và cung cấp những mặt hàng hấp dẫn cho thị trƣờng mục tiêu. Nhƣng sự thành công của chiến lƣợc và chính sách Marketing còn phụ thuộc vào sự vận hành của các chức năng khác trong công ty. Hoạt động khác trong công ty không vì mục tiêu của hoạt động Marketing thông qua các chiến lƣợc cụ thể để nhằm vào khách hàng- thị trƣờng cụ thể thì hoạt động đó sẽ trở nên mò mẫm mất phƣơng hƣớng. Tóm lại, Marketing đã tác động đời sống của mỗi con ngƣời trong xã hội, nó đƣợc áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực ngoài lĩnh vực kinh tế. Nó không chỉ thu hút đƣợc sự quan tâm của các nhà hoạt động kinh tế mà còn cả trong lĩnh vực phi thƣơng mại. Nó trở thành chìa khoá dẫn đến thành công của nhiều doanh nghiệp trong việc tăng khả năng tiêu thụ và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 1.3. Nội dung của hoạt động marketing trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. 1.3.1. Nghiên cứu và xác định nhu cầu 1.3.1.1. Nội dung hoạt động nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường Ngƣời tiêu dùng là ngƣời trả lƣơng cho doanh nghiệp, quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Do đó một điều rất quan trọng mà doanh nghiệp phải làm đầu tiên là xác định chính xác nhu cầu khách hàng. Để xác định đúng nhu cầu khách hàng, doanh nghiệp phải thực hiện tốt hoạt động nghiên cứu thị trƣờng. Mục đích của hoạt động nghiên cứu thị trƣờng là nghiên cứu xem thị trƣờng đang cần loại sản phẩm gì? Số lƣợng bao nhiêu? Đặc điểm kinh tế kĩ thuật của sản Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 12
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng phẩm đó? Doanh nghiệp có khả năng đáp ứng đƣợc nhu cầu nào của thị trƣờng và đáp ứng đƣợc đến đâu? Nhu cầu đó có thƣờng xuyên thay đổi không? Hiện tại có bao nhiêu sản phẩm cạnh tranh? Điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh? Chiến lƣợc mà họ đang thực hiện . Nói tóm lại, kết thúc hoạt động nghiên cứu thị trƣờng, doanh nghiệp cần phải trả lời đƣợc câu hỏi: Nên sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất nhƣ thế nào? Hoạt động nghiên cứu thị trƣờng đƣợc tiến hành theo các bƣớc nhƣ sau: * Bước 1: Thu thập thông tin Có rất nhiều nguồn thông tin mà doanh nghiệp có thể sử dụng để thu thập nhƣ: thu thập từ hoạt động điều tra thị trƣờng trực tiếp, thông qua các tài liệu có sẵn, hoặc thông qua các tổ chức chuyên nghiên cứu thị trƣờng Về cơ bản doanh nghiệp cần thu thập những thông tin liên quan đến các vấn đề: cung, cầu, giá cả, tình hình cạnh tranh trên thị trƣờng và các yếu tố ảnh hƣởng đến chúng. + Nghiên cứu cầu hàng hóa: Cần xác định đƣợc tổng khối lƣợng hàng hóa và cơ cấu hàng hóa tiêu dùng thông qua mua sắm hoặc sử dụng với giá cả thị trƣờng trong một khoảng thời gian nhất định. Sau đó so sánh kết quả nghiên cứu với số liệu thống kê của các kì trƣớc hoặc so sánh kết quả giữa các khu vực thị trƣờng với nhau để xác định xu hƣớng biến động của nhu cầu hàng hóa trong từng thời kì, từng khu vực thị trƣờng. + Nghiên cứu cung hàng hóa: Xác định xem các đơn vị sản xuất có khả năng cung ứng cho thị trƣờng tổng số bao nhiêu hàng, khả năng nhập khẩu bao nhiêu, khả năng dự trữ xã hội bao nhiêu, tỉ lệ cung của doanh nghiệp là bao nhiêu? Tính chất thời vụ của sản xuất cũng nhƣ tiêu dùng sản phẩm. + Nghiên cứu giá cả thị trường: Gồm có sự hình thành giá cả, các nhân tố tác động, chênh lệch giữa giá bán và giá mua và dự đoán những diễn biến của giá cả thị trƣờng. Căn cứ vào mục tiêu kinh doanh, chính sách giá cả của doanh nghiệp để xác định giá mua, giá bán của doanh nghiệp cho phù hợp. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 13
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng + Nghiên cứu sự cạnh tranh trên thị trường: Cần phải xác định số lƣợng, mức độ tham gia của các đối thủ cạnh tranh, ƣu nhƣợc điểm của đối thủ, điểm mạnh, điểm yếu của ta so với đối thủ cạnh tranh, kế hoạch sản xuất, kinh doanh cũng nhƣ các biện pháp cạnh tranh mà đối thủ đang sử dụng. * Bước 2: Xử lý thông tin: Nguồn thông tin thu thập đƣợc có thể rất nhiều nhƣng không phải cái nào cũng có thể sử dụng đƣợc cho mục đích nghiên cứu. Do đó, sau khi thu thập thông tin phải tiến hành xử lý chúng, loại bỏ những thông tin không quan trọng, chƣa chính xác hoặc chƣa có tính thuyết phục. * Bước 3: Xây dựng các phƣơng án và lựa chọn phƣơng án tối ƣu. Trên cơ sở nguồn thông tin đã lựa chọn ở trên ta tiến hành xây dựng những phƣơng án kinh doanh có thể thực hiện đƣợc. Sau đó, tiến hành đánh giá tính khả thi của từng phƣơng án để lựa chọn phƣơng án hiệu quả nhất. Doanh nghiệp có thể nhờ tới các nhân viên nghiên cứu thị trƣờng hoặc các chuyên gia để thực hiện công việc này. 1.3.1.2. Các hình thức nghiên cứu thị trường * Nghiên cứu khái quát thị trường: Thông qua việc nghiên cứu khái quát thị trƣờng giúp cho doanh nghiệp xác định đƣợc tổng cung; tổng cầu; giá cả; sự vận động của các tham số đó theo thời gian. Trên cơ sở đó doanh nghiệp có đƣợc những dự định về việc thâm nhập thị trƣờng hoặc đánh giá lại các chính sách, sách lƣợc của mình trong thời gian dài đối với một thị trƣờng nào đó. Ƣu điểm của phƣơng pháp này là chi phí thấp, tiết kiệm đƣợc nhân lực, song mức độ tin cậy thấp. *Nghiên cứu chi tiết thị trường: Thực chất của hình thức này là nghiên cứu thái độ, hành vi và đặc điểm ngƣời tiêu dùng nhƣ: sở thích, thói quen, thu nhập, cá tính . Khi nghiên cứu chi tiết thị trƣờng, doanh nghiệp phải xác định tỉ trọng thị trƣờng doanh nghiệp đạt Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 14
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng đƣợc, thị trƣờng của doanh nghiệp khác cùng ngành, so sánh về chất lƣợng, giá cả, mẫu mã sản phẩm, dịch vụ phục vụ khách hàng của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh từ đó có sự thay đổi cho phù hợp nhằm thu hút thêm nhiều khách hàng đến với doanh nghiệp. 1.3.2. Xây dựng chiến lược sản phẩm 1.3.2.1. Khái niệm sản phẩm Sản phẩm là tất cả những gì có thể thoả mãn đƣợc nhu cầu đƣợc mang ra chào bán trên thị trƣờng với mục đích thu hút sự chú ý, mua sử dụng hay tiêu dùng của khách hàng. Sản phẩm là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của hệ thống Marketing mix. Theo quan điểm Marketing thì sản phẩm thực chất là tất cả các lợi ích mà doanh nghiệp chào bán cho khách hàng và họ cảm nhận đƣợc. Mỗi đơn vị hàng hoá mà doanh nghiệp chào bán đƣợc cấu thành bởi các yếu tố khác nhau. Các yếu tố này đƣợc sắp xếp thành ba cấp độ cơ bản: Đó là sản phẩm ý tƣởng; sản phẩm hiện thực và hàng hoá hoàn chỉnh. Chiến lƣợc của doanh nghiệp liên quan đến sản phẩm bao gồm hàng loạt các chiến lƣợc và quyết định mà doanh nghiệp cần phải quan tâm. 1.3.2.2.Chất lượng sản phẩm Khi cuộc sống ngày càng đầy đủ hơn thì con ngƣời càng quan tâm hơn đến sự hƣởng thụ và sức khỏe của mình. Chất lƣợng sản phẩm là một trong những yếu tố quyết định trực tiếp đến sức khỏe và mức độ thỏa mãn của ngƣời tiêu dùng nên ngày càng đƣợc coi trọng. Tùy từng giai đoạn mà con ngƣời quan niệm về chất lƣợng sản phẩm khác nhau, chất lƣợng sản phẩm cũng thay đổi theo sự thay đổi của khoa học và công nghệ. Ngày xƣa, khi khoa học kĩ thuật chƣa phát triển, cung nhỏ hơn cầu thì khách hàng không đòi hỏi nhiều về hình thức của sản phẩm, các dịch vụ đi kèm, hay thƣơng hiệu của sản phẩm . Cái mà họ quan tâm là độ bền của sản phẩm, càng bền càng tốt. Nhƣng ngày nay, khi cung lớn hơn cầu, chất lƣợng sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào đặc tính nội tại của sản phẩm mà còn là chất lƣợng của các dịch vụ đi kèm, hình dáng có tiện lợi, bắt mắt hay không? có đảm bảo sức khỏe của ngƣời tiêu dùng không? Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 15
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Tuy nhiên, tùy từng loại khách hàng, yêu cầu về chất lƣợng sản phẩm khác nhau chứ không nhất thiết sản phẩm phải có chất lƣợng cao mới là tốt. Mặt khác, chất lƣợng sản phẩm thƣờng tỉ lệ thuận với chi phí sản xuất nên ảnh hƣởng tới giá thành, thƣờng thì sản phẩm chất lƣợng cao thƣờng đi với giá cao. Nhóm khách hàng có thu nhập trung bình thì chỉ mua đƣợc những sản phẩm bình dân nên chất lƣợng cũng vừa phải. Còn nhóm thu nhập cao thƣờng yêu cầu cao hơn về chất lƣợng, thể hiện đƣợc đẳng cấp, địa vị của họ trong xã hội. Do đó, trƣớc khi đƣa ra chính sách về chất lƣợng sản phẩm, doanh nghiệp cần phải xem xét đến tiềm lực của mình, nhóm khách hàng mà doanh nghiệp định hƣớng tới, chất lƣợng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh rồi mới quyết định. 1.3.2.3. Quyết định về nhãn hiệu Đây là một trong những quyết định quan trọng nhất khi soạn thảo chiến lƣợc Marketing, quyết định này có liên quan trực tiếp đến việc định vị hàng hoá có liên quan trên thị trƣờng. * Nhãn hiệu là tên, dấu hiệu, biểu tƣợng, hình vẽ hay sự phối hợp của chúng, có công dụng để xác nhận hàng hoá hay dịch vụ của một ngƣời bán và phân biệt chúng với hàng hoá của đối thủ cạnh tranh. Tên nhãn hiệu: là bộ phận của nhãn hiệu mà ngƣời ta có thể đọc đƣợc. Dấu hiệu của nhãn hiệu(biểu tƣợng) là bộ phận của nhãn hiệu mà ngƣời ta có thể nhận biết đƣợc, nhƣng không thể đọc đƣợc, ví dụ nhƣ hình vẽ, màu sắc, kiểu chữ đặc thù Dấu hiệu của hàng hoá: là nhãn hiệu hay bộ phận của nó đƣợc bảo vệ về mặt pháp lý. Dấu hiệu hàng hoá bảo vệ quyền tuyệt đối của ngƣời bán trong việc sử dụng tên nhãn hiệu và/hay dấu hiệu của nhãn hiệu (biểu tƣợng). * Quyết định gắn nhãn hiệu Trƣớc kia phần lớn các hàng hoá không có tên nhãn hiệu, nhƣng để phân biệt và định vị hàng hoá của mình, các doanh nghiệp đã quyết định gắn nhãn hiệu và phổ cập rộng rãi đến mức độ ngày nay hầu hết các sản phẩm đều có tên nhãn hiệu. Những quả cam cũng đƣợc đóng dấu, muối cũng đƣợc ngƣời ta gắn nhãn hiệu thậm Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 16
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng chí đƣợc đựng trong những vỏ hộp rất hấp dẫn Tuy nhiên việc quyết định có gắn nhãn hiệu cho hàng hoá không còn phụ thuộc loại sản phẩm và chiếc lƣợc của từng doanh nghiệp. Vì nếu doanh nghiệp không tiến hành gắn nhãn hiệu cho sản phẩm của mình thì sẽ giảm chi phí về giá thành sản phẩm từ đó giảm bớt đƣợc giá bán cho ngƣời tiêu dùng nhờ vào tiết kiệm bao bì, chi phí cho thiết kế nhãn hiệu, quảng cáo * Quyết định về chủ của nhãn hiệu:Có ba cách lựa chọn ai làm chủ nhãn hiệu Thứ nhất, có thể đƣa hàng hoá của mình ra thị trƣờng với chính nhãn hiệu của nhà sản xuất. Thứ hai, sản phẩm đƣợc gắn nhãn hiệu của ngƣời trung gian, ngƣời phân phối hay nhà kinh doanh. Thứ ba, Các sản phẩm đƣợc cung cấp trên thị trƣờng vừa mang nhãn hiệu của nhà phân phối, vừa mang nhãn hiệu của nhà trung gian. * Quyết định về đặt tên của nhãn hiệu Khi quyết định đặt tên cho sản phẩm mà mình cung cấp doanh nghiệp có thể thông qua một trong các quyết định sau: Tên nhãn hiệu riêng biệt. Theo chiến lƣợc này những tên nhãn hiệu riêng biệt có ƣu thế là không ràng buộc uy tín của công ty với một mặt hàng cụ thể, dù mặt hàng đó có đƣợc thị trƣờng chấp nhận hay không chấp nhận thì thất bại của mặt hàng đó cũng không gây tổn hại đến các mặt hàng khác và không ảnh hƣởng đến uy tín của công ty trong khi thực hiện chiến lƣợc này thì làm tăng chi phí cho hoạt động đƣa sản phẩm ra thị trƣờng của công ty. Chiến lƣợc này thƣờng đƣợc sử dụng cho cùng một loại mặt hàng nhƣng có đặc tính khác nhau ít nhiều. Tên nhãn hiệu thống nhất cho tất cả các loại hàng hoá. Ƣu điểm của chiến lƣợc này là giảm chi phí cho việc đƣa hàng ra thị trƣờng. Lý do là doanh nghiệp không cần tốn kém chi phí quảng cáo để đảm bảo cho mọi ngƣời biết tên nhãn hiệu và tạo ra sự ƣa thích nó. Hơn thế nữa việc tiêu thụ sẽ thành công nếu tên tuổi của nhà sản xuất đã đƣợc thị trƣờng chấp nhận (có thƣơng hiệu). Việc gắn tên nhãn Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 17
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng hiệu trong trƣờng hợp này sẽ không thích hợp nếu công ty sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá hoàn toàn khác nhau. Tên nhãn hiệu tập thể cho các họ hàng hoá. Việc đặt tên nhãn hiệu cho họ hàng hoá có thể phát huy đƣợc những ƣu điểm và giảm bớt đƣợc những nhƣợc điểm của cách thức đặt tên trên. * Quyết định về giới hạn sử dụng nhãn hiệu. Doanh nghiệp phải trả lời câu hỏi có nên mở rộng giới hạn sử dụng tên nhãn hiệu đã thành công hay không? Chiến lƣợc mở rộng giới hạn của nhãn hiệu là bất cứ ý đồ nào sử dụng nhãn hiệu đã thành công khi đƣa ra thị trƣờng những mặt hàng đã cải tiến hay những hàng hoá mới. Việc mở rộng giới hạn nhãn hiệu giúp ngƣời sản xuất tiết kiệm đƣợc chi phí cho việc tuyên truyền các nhãn hiệu mới và đảm bảo cho hàng hoá đƣợc phân biệt một cách nhanh chóng. * Quyết định về quan điểm nhãn hiệu. Quan điểm nhãn hiệu là quan điểm mà ngƣời bán sử dụng hai hay nhiều nhãn hiệu giúp cho ngƣời sản xuất có khả năng nhận thêm mặt bằng ở các cửa hàng để trƣng bày sản phẩm của mình. Mặt khác không có nhiều ngƣời tiêu dùng trung thành với một nhãn hiệu hàng hoá đến mức độ không muốn thử một hàng hóa khác. Thêm vào đó việc tạo ra các hàng hoá mới sẽ kích thích sự sáng tạo và tích cực hoạt động của các nhân viên. Đồng thời quan điểm nhiều nhãn hiệu cho phép chú ý đến những lợi ích khác nhau, nhờ vậy mà mỗi nhãn hiệu có thể thu hút cho mình một nhóm ngƣời tiêu dùng riêng. 1.3.2.4. Quyết định về bao bì sản phẩm Bao gói đƣợc cấu thành bởi bốn yếu tố: lớp tiếp xúc với hàng hoá, lớp bảo vệ lớp tiếp xúc, bao bì vận chuyển, nhãn hiệu và các thông tin mô tả hàng hoá. Một số hàng hóa đƣa ra thị trƣờng không nhất thiết phải đƣợc bao gói. Nhƣng đối với đa số sản phẩm, bao gói là yếu tố rất quan trọng trên nhiều phƣơng diện khác nhau. Ngày nay, bao gói trở thành một công cụ khá đắc lực của hoạt động Marketing vì: bao bì góp phần tạo ra hình ảnh về doanh nghiệp và nhãn hiệu, tạo ra khái niệm và ý niệm về sự cải tiến hàng hoá. Mặt khác, mức giàu sang và khả Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 18
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng năng tiêu dùng ngày càng tăng cùng với sự phát triển của hệ thống các cửa hàng tự phục vụ và tự chọn ngày càng tăng do đó bao bì hàng hoá sẽ có sức hấp dẫn và lôi kéo ngƣời tiêu dùng lựa chọn sản phẩm. * Các quyết định về bao gói là: - Xây dựng quan niệm bao gói - Quyết định các khía cạnh: kích thƣớc, màu sắc, vật liệu, nội dung trình bày có gắn nhãn hiệu hay không - Quyết định thử nghiệm bao gói: thử nghiệm về kỹ thuật, hình thức, kiểu dáng về khả năng chấp nhận của ngƣời tiêu dùng - Cân nhắc các khía cạnh lợi ích ngƣời tiêu dùng, xã hội, bản thân công ty. - Quyết định thông tin trên bao gói 1.3.2.5. Quyết định về dịch vụ đối với khách hàng Một trong những yếu tố cấu thành nên hàng hoá hoàn chỉnh là dịch vụ khách hàng. Tuỳ thuộc vào từng loại hàng hoá, yêu cầu của dịch vụ khách hàng là khác nhau. Khi xác định dịch vụ, phải thông qua ba quyết định dịch vụ sau: Quyết định về hệ thống dịch vụ tổng hợp: nhà kinh doanh thƣờng phải nghiên cứu ngƣời tiêu dùng để có thể chào mời khách hàng những dịch vụ chủ yếu nào và tầm quan trọng của từng loại dịch vụ đó. Tuy nhiên việc cung cấp các dịch vụ không đơn giản. Dịch vụ có thể là hết sức quan trọng đối với ngƣời tiêu dùng nhƣng không phải là yếu tố quyết định lựa chọn ngƣời cung ứng, nếu tất cả những ngƣời cung ứng hiện có đều cung ứng nó ở mức độ chất lƣợng khác nhau. Quyết định về mức độ dịch vụ: Ngƣời tiêu dùng không chỉ quan tâm tới bản thân dịch vụ, mà còn cả về chất lƣợng và khối lƣợng dịch vụ nữa. Vì vậy công ty cần phải theo dõi xem dịch vụ của mình và đối thủ cạnh tranh đáp ứng đƣợc sự mong đợi của khách hàng đến mức độ nào. Có thể phát hiện một số thiếu sót trong dịch vụ nhƣ tiến hành mua so sánh, thƣờng xuyên thăm dò ý kiến ngƣời tiêu dùng, đặt các thùng góp ý và giải quyết Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 19
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng các đơn khiếu nại. Tất cả những công việc đó sẽ giúp công ty ý niệm đƣợc công việc của mình và những khách hàng bị thất vọng sẽ hài lòng. Quyết định hình thức làm dịch vụ: Nhà cung cấp sẽ phải quyết định xem dịch vụ sẽ phải đƣợc cung ứng dƣới hình thức nào tức doanh nghiệp tự tổ chức lực lƣợng cung cấp dịch vụ hay dịch vụ đƣợc cung cấp bởi các trung gian buôn bán, hay là dịch vụ do tổ chức đứng độc lập bên ngoài cung cấp. Đồng thời trả lời câu hỏi đơn giá của dịch vụ nhƣ thế nào? tức là dịch vụ đƣợc cung cấp miễn phí hay theo mức giá cả nào. Bộ phận làm dịch vụ phục vụ khách hàng: Do tính chất quan trọng của của việc cung ứng dịch vụ với tính chất cạnh tranh, nhiều công ty đã thành lập những bộ phận để giải quyết các vấn đề bán chịu, cung ứng vật tƣ và thông tin. Ví dụ có những công ty đã dành những đƣờng điện thoại riêng miễn phí để giải quyết nhanh chóng các khiếu nại và thắc mắc của khách hàng. Thông qua những ý kiến đóng góp của khách hàng, bộ phận dịch vụ khách hàng có thể đƣa ra đề nghị thay đổi kết cấu và hệ thống kiểm tra sản phẩm, cách bán hàng Việc giữ chân các khách hàng mới hay những ý đồ lấy lại khách hàng đã mất. Việc cung ứng các dịch vụ cho khách hàng cần đƣợc phối hợp với nhau nhằm đảm bảo cho ngƣời tiêu dùng hài lòng và tạo ra sự trung thành của họ đối với công ty. 1.3.2.6. Quyết định về chủng loại và danh mục sản phẩm Chủng loại sản phẩm: là một nhóm sản phẩm có liên quan chặt chẽ đến nhau do giống nhau chức năng hoặc bán chung cho một nhóm khách hàng, hay qua cùng một kiểu tổ chức thƣơng mại hay trong khuôn khổ cùng một dãy giá. Mỗi chủng loại hàng hoá đòi hỏi chiến lƣợc Marketing riêng biệt. Phần lớn các công ty đều giao việc phụ trách một nhóm chủng loại cho một ngƣời quản lý. Ngƣời quản lý phải thông qua các quyết định quan trọng về bề rộng của chủng loại hàng hoá và các mặt hàng tiêu biểu cho nó. * Quyết định về bề rộng của chúng loại sản phẩm. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 20
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Bề rộng của chủng loại sản phẩm là tự phân giải về số lƣợng các mặt hàng thành phần theo một tiêu thức nhất định ví dụ theo kích cỡ, theo công suất Bề rộng của chủng loại sản phẩm do mục tiêu của công ty quyết định một phần. Những công ty đang muốn nổi tiếng là ngƣời cung ứng một loại sản phẩm đầy đủ và/hay đang phấn đấu chiếm lĩnh phần lớn thị trƣờng hay mở rộng thị trƣờng, thƣờng có chủng loại hàng hoá rộng. Họ ít lo lắng hơn khi có những mặt hàng của họ không sinh lời. Còn những công ty quan tâm trƣớc hết đến tính sinh lời cao của doanh nghiệp thì thƣờng có chủng loại hàng hoá sinh lời hẹp. Cùng với thời gian, chủng loại hàng hoá thƣờng đƣợc mở rộng ra. Công ty có thể phát triển chủng loại hàng hoá bằng hai cách: phát triển và bổ sung. * Quyết định phát triển chủng loại hàng hoá Phát triển hƣớng xuống dƣới. Nhiều công ty lúc đầu chiếm lĩnh phần phía trên của thị trƣờng rồi sau đó mở rộng chủng loại sản phẩm của mình để chiếm lĩnh cả phần dƣới. Việc phát triển xuống dƣới có vai trò kìm hãm đối thủ cạnh tranh tiến công hay xâm nhập vào phần thị trƣờng đang phát triển nhanh nhất. Phát triển hƣớng lên trên. Những công ty đang hoạt động ở những phần dƣới của thị trƣờng có thể muốn xâm nhập vào những phần lớn ở phía trên. Họ có thể bị hấp dẫn bởi nhịp độ tăng trƣởng cao hơn của những phần bên trên của thị trƣờng hay khả năng sinh lời cao hơn của chúng. Cũng có thể công ty chỉ muốn xác lập vị trí của mình nhƣ là một nhà cung ứng đầy đủ Quyết định phát triển hƣớng lên trên có thể là mạo hiểm. Những đối thủ cạnh tranh phía trên không những đã chiếm lĩnh chắc chắn vị trí của mình mà còn có thể chuyển sang phản công bằng cách thâm nhập vào những phần phía dƣới của thị trƣờng. Phát triển theo hai hƣớng: một công ty đang hoạt động ở phần giữa của thị trƣờng có thể quyết định phát triển hàng hoá của mình đồng thời theo cả hai hƣớng lên trên và xuống dƣới. * Quyết định bổ sung chủng loại sản phẩm: Việc mở rộng chủng loại hàng hoá sản phẩm có thể thực hiện bổ sung những hàng hoá mới trong khuôn khổ hiện có. Nguyên nhân dẫn đến cần bổ sung chủng loại hàng hóa có thể là do mong muốn thu thêm lợi nhuận, muốn tận dụng đƣợc Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 21
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng năng lực sản xuất dƣ thừa, mƣu tính thoả mãn những nhà doanh nghiệp khi họ phàn nàn về những chỗ trống trong chủng loại hàng hoá hiện có, mƣu tính trở thành công ty công ty chủ chốt với đầy đủ chủng loại, muốn xoá bỏ những chỗ trống không có đối thủ cạnh tranh. Việc bổ sung các hàng hoá quá mức sẽ làm giảm lợi nhuận, bởi vì các mặt hàng bắt đầu cản trở việc tiêu thụ sản phẩm của nhau, còn ngƣời tiêu dùng thì lúng túng. Vì vậy khi sản xuất các sản phẩm mới, công ty phải nắm chắc rằng sản phẩm mới phải khác hẳn các sản phẩm đã sản xuất. Danh mục sản phẩm là tổng hợp các chủng loại sản phẩm và các đơn vị sản phẩm cụ thể do một ngƣời bán chào hàng cho ngƣời mua. Danh mục hàng hoá đƣợc phản ánh qua bề rộng mức độ phong phú, bề sâu và mức độ hài hoà của nó. Bề rộng của danh mục sản phẩm là tổng số các nhóm chủng loại hàng hoá. Mức độ phong phú của danh mục sản phẩm là tổng số những mặt hàng thành phần của nó. Bề sâu của danh mục sản phẩm là tổng số các đơn vị sản phẩm cụ thể đƣợc chào bán trong từng mặt hàng riêng của một chủng loại sản phẩm. Mức độ hài hoà của danh mục sản phẩm phản ánh mức độ gần gũi của sản phẩm thuộc các nhóm, chủng loại khác nhau xét theo góc độ mục đích sử dụng cuối cùng hoặc yêu cầu về tính chất sản xuất, các kênh phân phối hay một tiêu chuẩn nào đó. Bốn thông số đặc trƣng cho danh mục sản phẩm mở ra cho doanh nghiệp bốn phƣơng thức để mở rộng hoạt động của mình. Doanh nghiệp có thể mở rộng danh mục hàng hoá bằng cách bổ sung thêm chủng loại hàng hóa mới; có thể làm tăng mức độ phong phú của những nhóm chủng loại hàng hoá đã có, đƣa công ty đến dần lên vị trí của công ty có chủng loại hàng hoá đầy đủ; có thể đƣa ra phƣơng án cho từng mặt hàng đã sẵn có tức là phát triển bề sâu của danh mục hàng hoá; cuối cùng là tuỳ theo công ty có muốn dành đƣợc uy tín vững chắc trên một lĩnh vực nào đó hay là muốn hoạt động trên nhiều lĩnh vực, công ty có thể phấn đấu theo hƣớng tăng hay giảm mức độ hài hoà giữa các mặt hàng thuộc các nhóm chủng loại khác nhau. Nhƣ vậy, chiến lƣợc sản phẩm là một hoạt động nhiều chiều, phức tạp đòi hỏi phải thông qua những quyết định về những đặc điểm cụ thể của danh mục hàng hoá, chủng loại hàng hoá, việc sử dụng tên nhãn hiệu, bao gói và dịch vụ. Những Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 22
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng quyết định này đƣợc thông qua không chỉ trên cơ sỏ những hiểu biết về khách hàng và những quan điểm của đối thủ cạnh tranh, mà còn phải thƣờng xuyên quan tâm ngày càng nhiều đến ý kiến của xã hội và các đạo luật có ảnh hƣởng đến lĩnh vực sản xuất hàng hoá. 1.3.2.7. Thiết kế và Marketing về sản phẩm mới Theo quan điểm Marketing sản phẩm có thể là những sản phẩm mới về nguyên tắc, sản phẩm mới cải tiến từ các sản phẩm hiện có hoặc những nhãn hiệu mới do kết quả nghiên cứu, thiết kế thử nghiệm của công ty. Những dấu hiệu quan trọng nhất để khẳng định sản phẩm mới hay không là sự thừa nhận của khách hàng. Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp phải thƣờng xuyên đƣa ra thị trƣờng những sản phẩm mới. Đồng thời phải biết cách quản lý sản xuất chúng trong điều kiện thị hiếu luôn thay đổi, những biến đổi công nghệ và tình hình cạnh tranh. Trong suốt thời gian tồn tại mọi sản phẩm hàng hoá đều phải trải qua các giai đoạn: giai đoạn tung ra thị trƣờng; giai đoạn tăng trƣởng; giai đoạn chín muồi và giai đoạn suy thoái. Do những thay đổi của môi trƣờng bên ngoài nhƣ: khoa học công nghệ, tình hình cạnh tranh, công ty không chỉ dựa vào hàng hoá hiện tại. Ngƣời tiêu dùng mong muốn và chờ đợi sử dụng những sản phẩm mới và hoàn hảo. Các đối thủ cạnh tranh thì nỗ lực tối đa để cung cấp cho ngƣời tiêu dùng những sản phẩm mới đó. Vì thế, mỗi công ty phải có chƣơng trình đƣa ra sản phẩm mới của mình. Công ty có thể có đƣợc sản phẩm mới bằng hai cách. Một là, có thể kiếm ở ngoài, tức là mua toàn bộ của một công ty nào đó nhƣ mua bằng sáng chế hoặc giấy phép sản xuất hàng hoá của ngƣời khác. Thứ hai là thành lập một bộ phận tự nghiên cứu và thiết kế. Trong phần này chúng ta chỉ đề cập đến vấn đề thiết kế sản phẩm mới. Thiết kế và cung ứng sản phẩm mới là một việc làm cần thiết nhƣng cũng rất mạo hiểm vì chúng có thể thất bại do những nguyên nhân khác nhau. Vì vậy để hạn chế bớt các rủi ro các chuyên gia- những ngƣời sáng tạo ra sản phẩm mới phải tuân thủ nghiêm ngặt các bƣớc trong qúa trình đƣa ra sản phẩm mới. Quá trình này bao gồm các giai đoạn: hình thành ý tƣởng, lựa chọn ý tƣởng; soạn thảo dự án và kiểm tra; soạn thảo chiến lƣợc Marketing; phân tích khả năng sản xuất và tiêu thụ; thiết kế sản phẩm; thử nghiệm trong điều kiện thị trƣờng và triển khai sản xuất đại trà. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 23
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Tóm lại việc đƣa sản phẩm mới ra thị trƣờng là đòi hỏi tất yếu của sự nảy sinh nhu cầu. Việc thử nghiệm sản phẩm mới có thể thất bại. Mức độ rủi ro cao, liên quan đến việc đổi mới rất lớn nhƣng lợi ích vật chất gắn liền với nó cũng rất lớn. Sự đảm bảo thành công cho hoạt động đổi mới là việc xây dựng một cơ cấu tổ chức lành mạnh để nghiên cứu những ý tƣởng về hàng hoá mới, tiến hành nghiên cứu nghiêm túc và thông qua những quyết định có căn cứ cho từng giai đoạn sáng tạo ra sản phẩm mới. 1.3.2.8. Phân tích chu kì sống của sản phẩm 0 T1 T2 T3 T4 Thời gian 0 T T T T 0 1 2 3 4 Do thị trƣờng là có hạn, nhu cầu lại thƣờng xuyên thay đổi nên không có một 0t sản phẩm nào có thể tồn tại vĩnh viễn trên thị trƣờng mà nó chỉ có thể tồn tại trong g một thời gian nhất định gọi là “chu kì sống sản phẩm”. Chu kì sống sản phẩm là khoảng thời gian kể từ khi sản phẩm xuất hiện cho tới khi biến mất khỏi thị trƣờng. Thông thƣờng mỗi sản phẩm thƣờng trải qua 4 giai đoạn nhƣ sau: xuất hiện, tăng trƣởng, bão hòa và suy thoái. + Giai đoạn 1 ( 0 – T1 ) “Xuất hiện”: Đây là giai đoạn bắt đầu tung sản phẩm ra thị trƣờng, chƣa có nhiều ngƣời biết đến, doanh số bán ra thấp, chi phí lớn do ngoài việc phải bỏ chi phí để nghiên cứu, sản xuất sản phẩm doanh nghiệp còn phải chi ra một lƣợng tiền khá lớn để quảng bá sản phẩm của mình đến đông đảo ngƣời tiêu dùng. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 24
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng + Giai đoạn 2 ( T1 – T2 ) “Phát triển”: Sau giai đoạn thâm nhập thị trƣờng, nếu sản phẩm đƣợc ngƣời tiêu dùng chấp nhận thì nó sẽ đƣợc nhiều ngƣời biết đến và tiêu dùng hơn, uy tín của sản phẩm tăng dần và doanh số bán ra tăng nhanh, giai đoạn này bắt đầu xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh thâm nhập thị trƣờng. + Giai đoạn 3 ( T2 – T3 ) “Bão hòa”: Ở giai đoạn này lợi nhuận của doanh nghiệp đạt mức cao nhất, đồng thời số lƣợng đối thủ cạnh tranh tham gia thị trƣờng ngày càng nhiều, thị trƣờng bị chia nhỏ, mức tăng doanh thu có dấu hiệu chững lại. + Giai đoạn 4 ( T3 – T4 ) “ Suy thoái”: Sản phẩm trở nên lỗi thời, số lƣợng ngƣời tiêu dùng giảm dần và doanh số tụt xuống, sản phẩm trở nên kém hiệu quả. Chu kì sống sản phẩm nó phụ thuộc vào chính sản phẩm đó là loại sản phẩm nào, vào thị trƣờng của sản phẩm và chính sách Marketing của doanh nghiệp. Các sản phẩm công nghiệp thì chu kì sống thƣờng dài hơn sản phẩm tiêu dùng. Một sản phẩm có thể không có chỗ đứng ở thị trƣờng này nhƣng lại cần thiết ở thị trƣờng khác hoặc đang ở giai đoạn bão hòa hoặc suy thoái ở thị trƣờng này nhƣng có thể bắt đầu ở một thị trƣờng khác. Có điều này là do vừa có sự tƣơng đồng lại vừa có sự khác biệt về nhu cầu ở các thị trƣờng khác nhau. Sự tƣơng đồng thể hiện ở chỗ: nhiều khi nhu cầu ở những nhóm khách hàng giống nhau ở các thị trƣờng khác nhau là tƣơng đối giống nhau nhƣng đặc điểm về thu nhập, trình độ dân trí, thói quen, lối sống ở các thị trƣờng này lại khác nhau, do đó có thể nhu cầu xuất hiện ở thị trƣờng này trƣớc, thị trƣờng kia sau dẫn đến tình trạng một sản phẩm đang bão hòa ở thị trƣờng này nhƣng có thể bắt đầu ở thị trƣờng khác. Sự khác biệt về nhu cầu giữa các thị trƣờng phần lớn là do sự khác biệt về văn hóa, nó dẫn đến có thể một sản phẩm bán rất chạy ở thị trƣờng này nhƣng không thể bán đƣợc ở thị trƣờng khác. Ví dụ nhƣ những ngƣời theo đạo Hindu kiêng thịt bò thì không thể bán những sản phẩm làm từ thịt bò cho họ đƣợc trong khi đó một số nƣớc ở châu Âu lại rất thích thịt bò. Khi phân tích chu kì sống của sản phẩm, doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến các đặc điểm nêu trên để từ đó có thể tìm ra đƣợc các giải pháp kéo dài chu kì sống của sản phẩm có lợi cho doanh nghiệp. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 25
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Nghiên cứu chu kì sống sản phẩm là rất cần thiết để giúp doanh nghiệp chủ động trong việc xây dựng kế hoạch tiêu thụ cho phù hợp với từng giai đoạn nhất định nhằm tận dụng tối đa những giai đoạn có lợi cho doanh nghiệp đồng thời có thể chủ động rút lui hoặc thay đổi chiến lƣợc của mình khi sản phẩm bƣớc vào giai đoạn suy thoái. 1.3.3. Chiến lược giá 1.3.3.1. Chiến lược giá và nội dung Chiến lƣợc về giá là bao gồm tất cả các quyết định về giá mà nhà quản trị phải soạn thảo và tổ chức để đạt đƣợc mục tiêu mà doanh nghiệp theo đuổi. Nó chứa đựng nhiều vấn đề hơn là đề xuất mức giá. Chiến lƣợc mức giá bao gồm những nội dung cơ bản sau: - Nắm bắt và xác định một cách chính xác mức độ ảnh hƣởng của các nhân tố tác động đến các quyết định về giá. - Xác định mức giá bán, giá chào hàng, giá chiết khấu, giá sản phẩm mới, khung giá, giá giới hạn thời hạn thanh toán Đó là việc xác định mức giá cụ thể cho từng mặt hàng, từng kiểu kênh phân phối, thời gian và địa điểm tiêu thụ, phƣơng thức thanh toán. - Ra quyết định thay đổi giá bao gồm các quyết định điều chỉnh và thay đổi giá theo môi trƣờng kinh doanh luôn biến đổi. - Lựa chọn những ứng xử thích hợp trƣớc những hoạt động cạnh tranh qua giá của đối thủ cạnh tranh. 1.3.3.2. Xác định các giới hạn và độ linh hoạt cần thiết Nguyên tắc chung khi định giá sản phẩm là giá cả phải bù đắp đƣợc chi phí sản xuất kinh doanh đã bỏ ra và phải có lãi. Song thực tế thì không phải lúc nào nguyên tắc này cũng đƣợc đảm bảo hoặc thực hiện đƣợc. Ví dụ nhƣ: trong giai đoạn mới thành lập công ty, chi phí ban đầu bỏ ra rất lớn: chi phí thuê địa điểm, mua sắm máy móc, thiết bị, chi phí đào tạo .Nhƣng doanh nghiệp không thể tính toàn bộ chi phí đó vào giá thành của sản phẩm để thu hồi vốn ngay đƣợc, làm nhƣ Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 26
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng thế giá thành sẽ đội lên rất cao so với mức trung bình của thị trƣờng và không bán đƣợc. Do đó, doanh nghiệp mới thành lập thƣờng phải chịu lỗ hoăc hòa vốn mấy năm mới bắt đầu có lãi. Thế nhƣng, việc bán với giá thành thấp hơn chi phí cũng phải tôn trọng nguyên tắc giới hạn tối thiểu của giá: P ≥ SAVC ( Giá bán sản phẩm tối thiểu là bằng chi phí biến đổi trung bình ngắn hạn – còn gọi là điểm đóng cửa doanh nghiệp ) trừ trƣờng hợp doanh nghiệp bán phá giá để thu hồi vốn. Khi mua hàng, khách hàng thƣờng mua với khối lƣợng khác nhau, vào những thời gian khác nhau với khả năng mặc cả khác nhau Mặt khác, do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt nên rất khó áp dụng một mức giá cố định. Trên thực tế, ngƣời bán có thể tăng giá khi cầu tăng, chiết khấu khi khách hàng mua với khối lƣợng lớn, giảm giá đối với khách hàng mua trong thời gian ế ẩm . Để có cơ sở cho việc tăng, giảm giá trong từng tình huống cụ thể, trong chính sách giá doanh nghiệp cần phải xác định độ linh hoạt của giá. Độ linh hoạt này có thể đƣợc qui định bằng mức tăng giảm tuyệt đối của giá đơn vị sản phẩm ( ΔP ) hoặc tỉ lệ tăng giảm giá đơn vị sản phẩm ( %ΔP) với chính sách này ngƣời bán có thể chủ động tăng giảm giá trong độ linh hoạt cho phép đó. Ngoài giới hạn đó, những ngƣời dƣới quyền khi quyết định giá bán cần phải xin chỉ thị của cấp trên. Trƣờng hợp doanh nghiệp lựa chọn mức độ linh hoạt của giá bằng 0 (ΔP = 0) thì những ngƣời dƣới quyền không đƣợc phép tự động tăng, giảm giá. 1.3.3.3. Phương pháp định giá * Tính giá theo phương pháp chi phí bình quân: Đây là phƣơng pháp tính giá đơn giản nhất là tính thêm một khoản tăng vào giá thành của hàng hoá. Phƣơng pháp này vẫn đƣợc sử dụng rất phổ biến vì những nguyên nhân sau: thứ nhất là những ngƣời bán biết nhiều về chi phí hơn là về nhu cầu gắn giá với chi phí ngƣời bán có thể đơn giản hoá cho mình đƣợc vấn đề về giá cả. Ngƣời đó sẽ không phải luôn điều chỉnh giá theo biến động của nhu cầu; thứ hai là nếu phƣơng pháp này đƣợc tất cả các công ty sử dụng thì giá của họ chắc chắn sẽ không giống nhau, cho nên sự cạnh tranh giá cả chỉ còn ở mức tối thiểu; thứ ba là nhiều ngƣời cho rằng phƣơng pháp tính chi phí bình quân cộng lãi công bằng hơn cả đối với cả ngƣời mua và ngƣời bán. Khi nhu cầu cao ngƣời bán không o ép ngƣời mua và đồng thời Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 27
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng có khả năng thu đƣợc định mức lợi nhuận công bằng trên số vốn đầu tƣ. Tuy nhiên phƣơng pháp này không tính đến những đặc điểm của nhu cầu hiện tại và cạnh tranh, vì vậy không cho phép định ra giá tối ƣu. Tính giá dựa trên cơ sở phân tích điều kiện hoà vốn và đảm bảo lợi nhuận mục tiêu. Một trong những phƣơng pháp hình thành giá cả trên cơ sở chi phí là phƣơng pháp tính có đảm bảo lợi nhuận mục tiêu. Phƣơng pháp này đòi hỏi các phƣơng án giá khác nhau, ảnh hƣởng của chúng đối với khối lƣợng tiêu thụ cần thiết để vƣợt qua mức hoà vốn và thu đƣợc lợi nhuận mục tiêu, cũng nhƣ phân tích xác suất để đạt đƣợc tất cả những điều đó với từng mức hàng hoá có thể. * Xác định giá trên cơ sở giá trị cảm nhận: Doanh nghiệp định giá của sản phẩm căn cứ vào cảm nhận của ngƣời mua chứ không phải căn cứ vào chi phí để sản xuất ra sản phẩm. Khi sử dụng phƣơng pháp này công ty phải phát hiện những ý niệm giá trị nào đó có trong ý thức của ngƣời tiêu dùng về hàng hoá của đối thủ cạnh tranh. Đôi khi có thể đặt câu hỏi ngƣời mua sẵn sàng chi tiêu nhiều tiền thế nào cho mỗi mức độ lợi ích kèm theo hàng bán. Nếu công ty đặt giá hàng hoá quá cao so với giá trị cảm nhận của khách hàng thì hàng hoá của công ty sẽ bán chậm. Ngƣợc lại, nếu công ty định giá quá thấp hàng hoá của mình so với giá trị cảm nhận của khách hàng thì hàng hoá của công ty sẽ bán chạy trên thị trƣờng nhƣng đem về cho công ty lợi nhuận ít hơn mức đáng lẽ có thể đạt đƣợc với mức giá nâng cao hơn ngang với mức giá trị của chúng trong ý niệm ngƣời mua. Nhƣng việc xác định giá trị cảm nhận của ngƣời tiêu dùng về hàng hoá là không dễ dàng và giá trị cảm nhận này còn khác nhau đối với mỗi ngƣời phụ thuộc vào từng yếu tố. Do vậy doanh nghiệp phải thực hiện tốt hoạt động của hệ thống Marketing mix để vừa tìm hiểu, xác định giá trị cảm nhận của khách hàng, đồng thời cũng tác động đến sự cảm nhận này. * Xác định giá cả của hàng hoá căn cứ vào mức giá hiện hành: Khi xác định mức giá cả dựa vào mức hiện hành chủ yếu công ty dựa vào giá của đối thủ cạnh tranh và ít quan tâm đến các chỉ tiêu chi phí hay nhu cầu. Công ty có thể định giá thấp hoặc cao hơn giá của đối thủ cạnh tranh chính. Phƣơng pháp hình thành giá trên cơ sở mức giá hiện hành đƣợc áp dụng khá phổ biến trong trƣờng hợp khó định Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 28
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng lƣợng đƣợc tính co giãn của cung cầu. Nguyên nhân là mức giá hiện hành là sự thể hiện quyết định sáng suốt của tập thể ngành. Ngoài ra họ còn cho rằng lấy giá theo giá hiện hành có nghĩa là duy trì trạng thái cân bằng bình thƣờng trong ngành. * Xác định giá trên cơ sở đấu thầu kín: Phƣơng thức hình thành giá cạnh tranh đƣợc áp dụng trong những trƣờng hợp các công ty đang tranh giành nhau nhận đấu thầu trong quá trình đấu thầu. Trong những tình huống nhƣ vậy công ty xuất phát từ những dự kiến giá chào hàng của đối thủ cạnh tranh chứ không phải từ mối tƣơng quan giá cả đó và các chỉ tiêu chi phí hay nhu cầu. Công ty muốn giành đƣợc hợp đồng thì cần phải đặt giá thấp hơn giá của các công ty khác. Nhƣng giá đó không thể thấp hơn giá thành, nếu không công ty sẽ chuộc lấy thất bại về mặt tài chính. 1.3.3.4. Các chiến lược về giá * Xác định giá cho sản phẩm mới: Xác định giá cho sản phẩm mới thực sự: khi công ty tung ra thị trƣờng một sản phẩm mới có bằng sáng chế và xác định giá cả, có thể chọn hoặc là chiến lƣợc “hớt phần ngon” hoặc là chiến lƣợc bám chắc thị trƣờng. Chiến lược “hớt phần ngon” là chiến lƣợc mà khi tung sản phẩm mới ra thị trƣờng công ty thƣờng đặt cho sản phẩm mới mức giá cao mà chỉ có một phần thị trƣờng chấp nhận đƣợc, sau khi làn sóng tiêu thụ sản phẩm bắt đầu chậm lại, công ty sẽ giảm giá để thu hút lớp khách hàng tiếp sau chịu đƣợc giá mới. Việc sử dụng phƣơng pháp “hớt phần ngon”của thị trƣờng có ý nghĩa trong những điều kiện sau: 1) thấy có mức nhu cầu hiện tại cao từ phía khá đông ngƣời mua; 2) chi phí sản xuất loạt nhỏ không đến nỗi cao để có thể ngốn hết phần lời của công ty; 3) giá lúc đầu cao sẽ không thu hút những đối thủ cạnh tranh mới; 4) giá cao duy trì hình ảnh chất lƣợng cao của hàng hóa. Chiến lược bám chắc thị trường: Ngƣợc lại một số công ty lại xác định cho sản phẩm mới của mình một mức giá tƣơng đối thấp với hi vọng thu hút đƣợc nhiều ngƣời mua và giành đƣợc thị phần lớn thông qua việc bám chắc thị trƣờng. Việc xác định giá thấp sẽ đƣợc thuận lợi trong những điều kiện sau: 1) thị trƣờng rất nhạy cảm về giá và giá thấp sẽ góp phần mở rộng thị trƣờng; 2) khi tăng khối Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 29
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng lƣợng sản xuất các chi phí về sản xuất cũng nhƣ phân phối sản phẩm sẽ giảm; 3) giá hạ không hấp dẫn với những đối thủ cạnh tranh và tiềm ẩn. Xác định giá cho hàng hóa mới - nhái lại: Công ty dự định đƣa ra sản phẩm mới- nhái lại sẽ vấp phải nhiều khó khăn trong việc xác định vị trí của nó theo các chỉ tiêu chất lƣợng và giá cả. Do vậy, công ty phải nghiên cứu quy mô hay mô hình tăng trƣởng của thị trƣờng với từng đối thủ cạnh tranh và từng vị trí để xác định giá cả cho sản phẩm của mình. * Xác định giá cho danh mục hàng hoá: Quan điểm hình thành giá cả thay đổi nếu hàng hoá là một phần của danh mục hàng hoá. Trong trƣờng hợp này, công ty đã cố gắng xây dựng một hệ thống giá đảm bảo thu lợi nhuận tối đa cho toàn bộ danh mục hàng hoá. Việc tính giá không đơn giản, vì những mặt hàng khác nhau có liên quan với nhau theo mức độ nhu cầu và chi phí gặp phải những mức độ cạnh tranh khác nhau. Việc xác định giá trong tình huống này có thể xảy ra bốn tình huống: * Xác định giá cho chủng loại hàng hoá: Trƣờng hợp này là do công ty thƣờng tung ra thị trƣờng không chỉ một hàng hoá riêng biệt mà cả một chủng loại hàng hoá và doanh nghiệp phải xác định khung giá rõ ràng và khoảng cách giữa giá và các sản phẩm kề nhau. Khi xác định bậc giá cho từng mức phải chú ý những sự khác biệt về giá thành của hàng hóa, sự khác nhau về cách đánh giá của ngƣời mua về tính chất của hàng hóa cũng nhƣ giá của đối thủ cạnh tranh. - Xác định giá cho những hàng hóa phụ thêm: Nhiều công ty, cùng với hàng hóa chính, còn chào bán một số sản phẩm phụ thêm hay bổ trợ. Ngƣời mua ô tô có thể đặt thêm hệ thống nâng kính tự động, thiết bị chống đổ mồ hôi cho kính và điều chỉnh cƣờng độ chiếu sáng của đèn pha. Nhƣng việc xác định giá cho hàng hóa phụ thêm là một vấn đề phức tạp. - Xác định giá cho những phụ tùng bắt buộc. Trong một số ngành nghề công nghiệp, ngƣời ta sản xuất cái gọi là phụ tùng bắt buộc, tức là những thứ để sử dụng với hàng hoá chính (ví dụ nhƣ lƣỡi dao bào, phim ảnh). Những nhà sản xuất hàng hóa chính( bàn dao cạo, máy ảnh) thƣờng định giá thấp cho chúng, nhƣng lại định phụ giá cao đối với những phụ tùng bắt buộc. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 30
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng - Xác định giá cho những sản phẩm phụ của sản xuất. Khi sản xuất các sản phẩm thƣờng kèm theo những sản phẩm phụ. Những sản phẩm phụ không có giá trị, nhƣng để vứt bỏ nó thì phải tốn không ít tiền, nên tất cả những điều đó ảnh hƣởng đến mức giá của sản phẩm chính. Ngƣời sản xuất luôn tìm kiếm thị trƣờng cho những sản phẩm phụ và thƣờng sắn sàng bán chúng với giá bất kỳ nếu nó bù đắp đƣợc chi phí vận chuyển và bảo quản. Điều này cho phép giảm giá sản phẩm chính làm cho nó cỏ khả năng cạnh tranh hơn. 1.3.3.5. Các chiến lược điều chỉnh giá cơ bản - Định giá hai phần: các doanh nghiệp dịch vụ (điện thoại, khu giải trí) thƣờng sử dụng cách định giá hai phần. Một phần cho mức giá chuyển quyền sử dụng hàng hoá đó ở mức tối thiểu, phần thứ hai của giá là phần trả cho những tiêu dùng vƣợt quá mức tối thiểu. - Định giá trọn gói: với cách định giá này, thay vì việc bán những sản phẩm riêng lẻ, ngƣời bán sẽ tập hợp những sản phẩm thành bộ hoặc trọn gói theo nguyên tắc giá cả gói luôn nhỏ hơn tổng số tiền mua hàng theo phƣơng thức riêng lẻ. - Định giá theo phƣơng thức địa lý: là cách thức mà doanh nghiệp định giá bán sản phẩm của mình theo nguyên tắc địa lý. Họ có thể lựa chọn một trong các cách định giá là: xác định giá FOB hay giá CIF; xác định giá thống nhất bao gồm cả chi phí vận chuyển; hoặc áp dụng gía bán cho từng khu vực. 1.3.3.6. Xác định giá có chiết khấu và bù trừ - Chiết giá vì thanh toán bằng tiền mặt: có nghĩa là giảm giá cho ngƣời mua thanh toán nhanh hóa đơn. Kiểu chiết khấu này đƣợc áp dụng trong nhiều ngành hoạt động và giúp cho cải thiện tình trạng khả năng thanh toán của ngƣời bán và giảm bớt chi phí có liên quan đến việc thu hồi tiền cho vay và nợ khó đòi. - Chiết giá cho số lƣợng mua lớn: đó là việc giảm giá cho những ngƣời mua với số lƣợng lớn trong một thời gian nhất định. Loại chiết khấu này khuyến khích ngƣời mua gia tăng khối lƣợng hàng hoá và tập trung mua nhiều lần vào một ngƣời bán. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 31
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng - Chiết khấu chức năng (chiết khấu thƣơng mại): là chiết giá ngƣời sản xuất áp dụng cho các thành viên trong kênh phân phối. Phần chiết giá này phải bao gồm hai bộ phận: chi phí mà các thành viên trong kênh phân phối phải bỏ ra để tiến hành các hoạt động phân phối hàng hoá theo chức năng của họ và lãi thoả đáng cho những lỗ lực và phải gánh chịu rủi ro của các thành viên trong kênh. - Chiết khấu thời vụ: là việc giảm giá cho những khách hàng mua hàng hoá và dịch vụ trái vụ. Loại chiết khấu này cho phép ngƣời sản xuất duy trì mức bán hàng hoá trong suốt cả năm. - Bù trừ: bù trừ ở đây có nghĩa là những dạng khác nhau của chiết khấu so với giá quy định. Ví dụ bù trừ trao đổi hàng là việc giảm giá hàng mới với điều kiện giao lại hàng cũ. Bù trừ trao đổi hàng đƣợc áp dụng nhiều nhất trong việc buôn bán ô tô và một số loại hàng lâu bền khác. Bù trừ kích thích tiêu thụ có nghĩa là chi tiền hay chiết khấu để thƣởng cho những nguwoif kinh doanh đã tham gia vào các chƣơng trình quảng cáo và duy trì tiêu thụ. 1.3.3.7. Xác định giá để khuyến khích tiêu thụ ( định giá khuyến mại) Định giá khuyến mại là hình thức điều chỉnh giá tạm thời (thực hiện trong thời gian nhất định) nhằm hỗ trợ các hoạt động xúc tiến bán. Có một số hình thức xúc tiến bán phổ biến nhƣ sau: - Định giá lỗ để lôi kéo khách hàng. - Định giá cho những đợt bán hàng đặc biệt - Giá trả góp: thực chất là hình thức tài trợ lãi suất cho khách hàng với lãi suất thấp - Bán hàng theo phiếu mua hàng: giảm giá cho những khách hàng có phiếu mua hàng. - Chiết giá về tâm lý: lúc đầu bán giá cao sau đó đƣa giá bán thấp. 1.3.3.8. Định giá phân biệt Các doanh nghiệp có thể điều chỉnh mức giá cơ bản để phù hợp cho với những điều kiện khác biệt của khách hàng, của sản phẩm hoặc của các yếu tố khác Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 32
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng chứ không phải là chi phí. Khi áp dụng mức giá phân biệt, doanh nghiệp sẽ áp dụng những mức giá khác nhau cho từng khách hàng đối với cùng một loại sản phẩm. Một số hình thức giá phân biệt: - Định giá theo khách hàng. - Định giá theo địa điểm. - Định giá theo hình ảnh. - Định giá lúc cao điểm, lúc thấp điểm. 1.3.3.9. Thay đổi giá Trong nhiều trƣờng hợp do biến đổi của môi trƣờng kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải thay đổi giá của mình, nghĩa là phải chủ động thay đổi ngay cả mức giá cơ bản. Chủ động cắt giảm giá: các doanh nghiệp buộc phải cắt giảm giá của mình khi phải đối mặt với những tình huống sau: dƣ thừa năng lực sản xuất, thị phần thị trƣờng giảm sút, khống chế thị trƣờng bằng cách bán hạ giá. Chủ động tăng giá: có nhiều trƣờng hợp doanh nghiệp chủ động tăng giá. Tuy phải đối mặt với những rủi ro của việc tăng giá, song thành công đó sẽ đem lại cho doanh nghiệp sự ổn định hoặc gia tăng lợi nhuận. Các tình huống dẫn đến việc chủ động tăng giá của các doanh nghiệp là do lạm phát chi phí, do cầu tăng quá mức so với cung. 1.3.3.10. Đối phó với việc thay đổi của giá của đối thủ cạnh tranh (lựa chọn các phản ứng về giá cạnh tranh). Để đối phó với việc thay đổi giá của đối phƣơng, trƣớc khi phản ứng doanh nghiệp cần phải xem xét các vấn đề: tại sao đối thủ cạnh tranh lại đổi giá; đối thủ cạnh tranh dự định thay đổi giá tạm thời hay lâu dài; hậu quả ảy đến với lợi nhuận và thị phần của doanh nghiệp nếu nhƣ doanh nghiệp không đối phó; có những cách đối phó nào doanh nghiệp có thể áp dụng; phản ứng tiếp theo của đối thủ cạnh tranh là gì. Sau đó tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh mà doanh nghiệp có thể lựa chọn một số phƣơng pháp sau: giảm giá bán sản phẩm với giá thấp hơn đối thủ Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 33
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng cạnh tranh (chỉ áp dụng khi doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính và không vi phạm pháp luật); giữ nguyên giá thúc đẩy các hoạt động Marketing mix để giữ khách hàng nhƣ: đẩy mạnh quảng cáo, khuyến mại ; nâng giá cùng với cải tiến chất lƣợng, mẫu mã sản phẩm, vây hãm hình ảnh của doanh nghiệp cạnh tranh, phƣơng án này chỉ tỏ ra hiệu quả khi khách hàng ít nhạy cảm về giá và ƣa thích sản phẩm có chất lƣợng cao. 1.3.4. Chiến lược phân phối sản phẩm 1.3.4.1. Kênh phân phối và chức năng của kênh phân phối Kênh phân phối là một tập hợp các công ty hay cá nhân tự gánh vác hay giúp đỡ chuyển giao cho một ai đó quyền sở hữu đối với một hàng hóa cụ thể hay dịch vụ trên con đƣờng từ nhà sản xuất đến ngƣời tiêu dùng. * Chức năng của kênh phân phối: - Nghiên cứu , thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo thuận lợi cho trao đổi. - Kích thích tiêu thụ soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng hóa. - Thiết lập các mối quan hệ , tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những ngƣời mua tiềm ẩn. - Hoàn thiện hàng hóa làm cho hàng hóa đáp ứng đƣợc những yêu cầu của ngƣời mua. Việc này liên quan đến các dạng hoạt động nhƣ sản xuất, phân loại, lắp ráp và đóng gói. - Tiến hành thƣơng lƣợng những việc thỏa thuận với nhau về giá cả và những điều kiện khác để thực hiện bƣớc tiếp theo là chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng. - Tổ chức lƣu thông hàng hóa, vận chuyển và bảo quản, dự trữ hàng hóa. - Đảm bảo kinh phí, tìm kiếm và sử dụng nguồn vốn để bù đắp các chi phí hoạt động của kênh. - Chấp nhận rủi ro, gánh chịu trách nhiệm hoạt động của kênh. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 34
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Nhƣ vậy, lựa chọn kênh phân phối phù hợp là một nội dung quan trọng trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Có 3 loại kênh phân phối: kênh trực tiếp, kênh gián tiếp và kênh hỗn hợp. 1.3.4.2. Các loại kênh phân phối *Kênh trực tiếp: Là loại kênh mà ngƣời sản xuất bán trực tiếp sản phẩm cho ngƣời tiêu dùng cuối cùng mà không qua trung gian. + Ưu điểm: là chi phí phân phối thấp do không có trung gian, doanh nghiệp tiếp xúc trực tiếp với ngƣời tiêu dùng do đó tiếp nhận thông tin nhanh chóng và chính xác. + Nhược điểm: khó tiếp cận đƣợc thị trƣờng ở xa, đòi hỏi doanh nghiệp phải có hệ thống thƣơng mại điện tử phát triển thì mới có thể tiếp xúc đƣợc với nhiều khách hàng. Ngoài ra, do không có sự hỗ trợ của các trung gian nên sự hiện diện của sản phẩm trên thị trƣờng là thấp. *Kênh gián tiếp: Là kênh mà trong đó doanh nghiệp bán sản phẩm cho ngƣời tiêu dùng thông qua trung gian bao gồm: ngƣời bán buôn, đại lý, ngƣời bán lẻ, ngƣời môi giới. Ưu điểm: có thể tiếp cận đƣợc các thị trƣờng ở xa, sự hiện diện của sản phẩm trên thị trƣờng lớn. + Nhược điểm: chi phí phân phối lớn, có thể xuất hiện những mâu thuẫn, xung đột giữa các trung gian trong kênh, việc tổ chức, quản lý kênh khó khăn hơn. Ngoài ra, do không đƣợc tiếp xúc trực tiếp với ngƣời tiêu dùng mà chủ yếu lấy thông tin từ các trung gian phân phối, do đó những thông tin mà họ mang lại đôi khi bị sai lệch so với thực tế. *Kênh hỗn hợp: Là loại kênh mà trong đó việc phân phối sản phẩm đƣợc thực hiện bằng các kết hợp cả hai hình thức trực tiếp và gián tiếp. Do đó có thể tận dụng đƣợc ƣu điểm của từng loại kênh. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 35
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Doanh nghiệp cần phải căn cứ vào tiềm lực về tài chính, khả năng quản lý, vào đặc điểm sản phẩm của mình, loại kênh phân phối đang đƣợc sử dụng phổ biến trên thị trƣờng trƣớc khi quyết định loại kênh phân phối mà doanh nghiệp sử dụng. Doanh nghiệp có thể tự tạo lập kênh phân phối riêng cho mình hoặc sử dụng những kênh sẵn có trên thị trƣờng. 1.3.4.3. Cấu trúc kênh phân phối Các tổ chức và cá nhân tham gia kênh phân phối với cách thức liên kết khác nhau hình thành nên cấu trúc kênh khác nhau. Cấu trúc kênh phân phối đƣợc xác định qua chiều dài và chiều rộng của hệ thống kênh. Chiều dài của kênh phân phối: Chiều dài của kênh phân phối trƣớc hết xác định bằng số cấp độ trung gian có mặt trong kênh. Một kênh phân phối đƣợc gọi là kênh phân dài nếu có nhiều cấp độ trung gian trong kênh. Bề rộng của kênh: Để đạt đƣợc sự bao phủ thị trƣờng tốt nhất mỗi doanh nghiệp cần phải quyết định số lƣợng mỗi trung gian ở các kênh phân phối. Doanh nghiệp phải lựa chọn nhiều phƣơng thức phân phối khác nhau mà mỗi phƣơng thức có một số trung gian thƣơng mại khác nhau. Có ba phƣơng thức phân phối sản phẩm: phân phối rộng rãi, phân phối duy nhất, phân phối chọn lọc. 1.3.4.4. Các quyết định phân phối sản phẩm Xử lý đơn đặt hàng: việc phân phối sản phẩm bắt đầu với một đơn đặt hàng. Bộ phận xử lý đơn đặt hàng phải thực hiện các công việc càng nhanh càng tốt. Họ phải nhanh chóng kiểm tra khách hàng, đặc biệt là khả năng thanh toán của khách hàng. Các đơn lập càng nhanh càng tốt để gửi tới các bộ phận khác nhau. Các thủ tục để giao hàng cho khách hàng kịp thời. Nhiều công ty đã sử dụng các công cụ thông tin tiên tiến để thực hiện nhanh nhất quy trình xử lý đơn đặt hàng. - Quyết định về kho bãi dự trữ: doanh nghiệp phải quyết định số lƣợng những địa điểm kho bãi, quyết định xây kho riêng hay thuê kho bãi công cộng, doanh nghiệp sử dụng các kho bảo quản lâu dài hay các kho trung chuyển. - Quyết định về vận tải. - Quyết định hàng hóa dự trữ trong kho Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 36
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng 1.3.5. Tổ chức hợp đồng tiêu thụ sản phẩm Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm có thể đƣợc thỏa thuận dƣới hình thức văn bản hoặc bằng miệng giữa ngƣời bán và ngƣời mua. Ngƣời bán ở đây có thể là nhà sản xuất hoặc các trung gian. Ngƣời mua ở đây có thể là ngƣời tiêu dùng cuối cùng hoặc là các trung gian mua sản phẩm về để bán cho ngƣời tiêu dùng cuối cùng hoặc mua nguyên, nhiên, vật liệu về để sản xuất sản phẩm. Thông thƣờng, một hợp đồng tiêu thụ thƣờng có các nội dung sau: + Khối lƣợng sản phẩm, loại sản phẩm đã chấp nhận bán. + Giá cả, phƣơng tiện và phƣơng thức thanh toán: thanh toán bằng tiền mặt, séc hay tiền gửi ngân hàng + Địa điểm và hình thức giao, nhận hàng; thời hạn giao hàng; thời điểm thanh toán; ngƣời giao, nhận hàng; ngƣời thanh toán. + Điều khoản qui định trách nhiệm giữa các bên khi có vi phạm xảy ra. Ngoài ra, còn có các qui định nhƣ: chi phí vận chuyển bên nào chịu, chi phí thiệt hại, hao hụt hàng hóa do ai chịu . Sau khi hợp đồng đƣợc kí kết, doanh nghiệp phải tiến hành tổ chức thực hiện hợp đồng, công việc này phụ thuộc vào hàng hóa của doanh nghiệp thuộc loại nào, khoảng cách từ nơi bán đến nơi mua là bao xa, cùng trong một địa phƣơng, một quốc gia hay ở các nƣớc khác nhau .Tuy nhiên, nó thƣờng bao gồm các hoạt động sau: + Chuẩn bị hàng hóa, nhân sự, phƣơng tiện và các thủ tục cần thiết để có thể giao hàng đúng thời hạn. + Tổ chức vận chuyển hàng hóa đến nơi qui định. + Làm các thủ tục giao nhận hàng và thanh toán. Việc tổ chức thực hiện tốt hợp đồng sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp với khách hàng, tạo dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa hai bên. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 37
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng 1.3.6. Tổ chức thực hiện kế hoạch bán hàng cho doanh nghiệp: Việc tổ chức bán hàng theo kế hoạch sẽ giúp doanh nghiệp quản lý hoạt động bán hàng một cách hiệu quả, giảm chi phí quản lý, chi phí bán hàng từ đó góp phần làm giảm giá thành sản phẩm. 1.3.6.1. Nội dung kế hoạch bán hàng của doanh nghiệp * Mục tiêu và nhiệm vụ bán hàng: việc bán hàng thƣờng đặt ra một hoặc một số mục tiêu sau: thâm nhập thị trƣơng mới, tăng sản lƣợng bán, tối đa hóa doanh số, tối đa hóa lợi nhuận hay bán hết hàng ứ đọng. Từ các mục tiêu chung doanh nghiệp cụ thể hóa thành những nhiệm vụ chủ yếu nhƣ sau: + Sản lƣợng bán: xác định cho từng mặt hàng và cho tất cả các mặt hàng + Doanh số bán: doanh số trên từng đơn vị sản phẩm, doanh số cho toàn bộ khối lƣợng sản phẩm dự tính bán đƣợc, doanh số cho từng khách hàng, cho từng thời kì khác nhau hoặc trên một nhóm khách hàng. + Chi phí bán hàng, chi phí lƣu thông, chi phí marketing. + Tổng mức lãi thu đƣợc: tính trên từng mặt hàng và toàn bộ các mặt hàng. * Tiến độ bán hàng: rất quan trọng vì nó không chỉ ảnh hƣởng tới quá trình bán mà nó ảnh hƣởng trực tiếp tới tiến độ sản xuất, kinh doanh và tiến độ cung ứng. Do đó doanh nghiệp cần hoạch định vấn đề này một cách chi tiết. * Điều kiện liên quan tới việc bán hàng: Địa điểm bán hàng, trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho việc bán hàng, phƣơng thức thanh toán, lựa chọn và đào tạo nhân viên bán hàng * Lƣợng dự trữ cho bán hàng: việc dự trữ hàng hóa là không thể thiếu để đảm bảo đáp ứng một cách kịp thời, liên tục nhu cầu của khách hàng. Việc xác định lƣợng sự trữ nó phụ thuộc vào dự báo nhu cầu khách hàng, đặc tính của từng loại mặt hàng, lƣợng hàng tồn kho đầu kì và khả năng sản xuất của doanh nghiệp. * Dự đoán những biến động trong quá trình bán hàng: biến động về nguồn cung ứng nguyên vật liệu, biến động về giá cả trên thị trƣờng, biến động về khí hậu, thời tiết đối với các sản phẩm có tính chất mùa vụ, biến động về sản phẩm Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 38
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng thay thế .Từ đó, dự kiến các chƣơng trình dự phòng và cách ứng xử nếu xảy ra các biến động đó. 1.3.6.2. Quá trình xác định kế hoạch bán hàng của doanh nghiệp + Bƣớc 1: Tập hợp các thông tin cần thiết làm căn cứ cho việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ bán hàng. + Bƣớc 2: Xây dựng các phƣơng án về mục tiêu, nhiệm vụ bán hàng trong thời kì hoạch định. Trên cơ sở đó đƣa ra các mục tiêu tác nghiệp của chƣơng trình bán hàng. + Bƣớc 3: Vạch ra toàn bộ các công việc chính cần thực hiện để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu đã đề ra, sau đó phân chia chúng thành các phần việc hay các dự án. Xác định mối quan hệ giữa các phần việc và sắp xếp chúng theo trình tự thực hiện một cách khoa học nhất. Từ đó lập tiến độ bán hàng, thời hạn bắt đầu và kết thúc, tiến độ cung ứng hàng hóa trong thời gian đó. + Bƣớc 4: Phân bổ nguồn nhân lực một cách hợp lý để thực hiện các phần việc trên. + Bƣớc 5: Lựa chọn và quyết định cách thức thực hiện, các nguồn chi phí và các nguồn lực khác giành cho việc bán hàng. 1.3.7. Các hoạt động xúc tiến hỗ trợ cho công tác tiêu thụ 1.3.7.1. Quảng cáo: Quảng cáo là việc sử dụng các phƣơng tiện truyền tin để truyền các thông tin về hàng hóa, dịch vụ, về doanh nghiệp tới đối tƣợng ngƣời nhận tin là các khách hàng mà doanh nghiệp hƣớng tới. Mục đích của quảng cáo là nhằm thu hút sự chú ý, quan tâm của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghệp từ đó kích thích trí tò mò muốn đƣợc mua và sử dụng sản phẩm. Để hoạt động quảng cáo có hiệu quả cao, doanh nghiệp cần phải bảo đảm cho các hoạt động quảng cáo tuân theo một quá trình thống nhất bao gồm các nội dung cơ bản sau: Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 39
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng + Xác định mục tiêu cho quảng cáo: mục tiêu này sẽ chi phối toàn bộ quá trình hoạt động quảng cáo. Những mục tiêu này phải xuất phát từ những quyết định về thị trƣờng mục tiêu, về định vị sản phẩm và về chƣơng trình Marketing – mix của doanh nghiệp. Thông thƣờng mục tiêu quảng cáo thƣờng hƣớng vào các vấn đề: tăng số lƣợng hàng tiêu thụ trên thị trƣờng truyền thống, mở ra thị trƣờng mới, giới thiệu sản phẩm mới, xây dựng và củng cố uy tín của những nhãn hiệu hàng hóa và uy tín của doanh nghiệp. + Xác định ngân sách cho quảng cáo: để xác định ngân sách cho quảng cáo cần căn cứ vào mục tiêu quảng cáo, tình hình tài chính của doanh nghiệp, sự phân phối ngân sách dành cho quảng cáo so với các hoạt động xúc tiến khác. Việc phân phối ngân sách cho quảng cáo phải phù hợp với qui mô của quảng cáo không đƣợc quá nhiều hoặc quá ít. + Quyết định nội dung truyền đạt: nội dung của quảng cáo phải đảm bảo đƣợc ba tính chất: tính hấp dẫn, tính độc đáo và tính đáng tin cậy. Thông điệp quảng cáo phải nói lên những điều đáng mong ƣớc hay thú vị về sản phẩm, đồng thời phải nói lên những khía cạnh độc đáo, khác biệt so với các sản phẩm khác. Sau khi đã chọn đƣợc nội dung cho quảng cáo doanh nghiệp phải lựa chọn đƣợc hình thức để thể hiện nội dung đó: lựa chọn ngôn ngữ, xác định cấu trúc thông điệp, lựa chọn phƣơng tiện truyền tin thích hợp. + Quyết định phƣơng tiện quảng cáo: Doanh nghiệp cần căn cứ vào mục tiêu quảng cáo, đối tƣợng quảng cáo, đối tƣợng nhận tin để chọn phƣơng tiện truyền tin cụ thể. 1.3.7.2. Xúc tiến bán (khuyến mại) Xúc tiến bán là nhóm công cụ truyền thông sử dụng hỗn hợp các công cụ cổ động, kích thích khách hàng nhằm tăng nhanh nhu cầu về sản phẩm tại chỗ, tức thì. Xúc tiến bán có tác động trực tiếp và tích cực tới việc tăng doanh số bằng những lợi ích vật chất bổ sung cho ngƣời mua. Có thể phân chia các công cụ xúc tiến bán thành các nhóm sau + Nhóm công cụ tạo nên lợi ích kinh tế trực tiếp thúc đẩy ngƣời tiêu dùng bao gồm: hàng mẫu, phiếu thƣởng, gói hàng chung, quà tặng Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 40
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng + Nhóm công cụ thúc đẩy hoạt động của các trung gian trong kênh phân phối: các nhà sản xuất dùng kĩ thuật nhằm tăng cƣờng sự hợp tác, đẩy mạnh tiêu thụ của các nhà phân phối nhƣ: Tài trợ về tài chính khi mua hàng, tài trợ quảng cáo, hàng miễn phí. + Hội nghị khách hàng, hội chợ và triển lãm thƣơng mại. + Trƣng bày hàng hóa tại nơi bán, sử dụng các cửa hàng, quầy hàng giới thiệu sản phẩm. + Tổ chức các cuộc thi, các trò vui chơi có thƣởng. 1.3.7.3. Marketing trực tiếp Bản chất của Marketing trực tiếp là cố gắng kết hợp cả 3 yếu tố: quảng cáo, xúc tiến bán và bán hàng cá nhân để đi đến bán hàng trực tiếp mà không qua trung gian. Những công cụ chủ yếu của Marketing trực tiếp là: + Marketing bằng Catalog + Marketing bằng thƣ trực tiếp + Marketing qua điện thoại + Marketing trực tiếp trên truyền hình (phát các chƣơng trình truyền hình giới thiệu về sản phẩm và cho khách hàng số điện thoại miễn phí để đặt hàng hoặc sử dụng toàn bộ chƣơng trình truyền hình cho việc bán sản phẩm và dịch vụ) + Computermarketing: thực hiện các hoạt động Marketing và bán hàng thông qua hệ thống máy tính có nối mạng 1.3.7.4. Mở rộng quan hệ công chúng Tuyên truyền là một bộ phận cấu thành nên khái niệm rộng đó là hoạt động tổ chức dƣ luận xã hội và dƣ luận thị trƣờng. Hoạt động dƣ luận xã hội có một số nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ bảo đảm cho doanh nghiệp có tiếng tốt, xử lý các tin đồn, các hình ảnh bất lợi đã lan tràn ra ngoài. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 41
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Tuyên truyền có tác động sâu sắc đến mức độ hiểu biết của xã hội, có khả năng thuyết phục ngƣời mua lớn, và ít tốn kém nhiều hơn so với hoạt động của quảng cáo. Nội dung tuyên truyền bao gồm: tuyên truyền cho sản phẩm, tuyên truyền hợp tác, vận động hành lang, tuyên truyền về xử lý những vụ việc bất lợi. Những quyết định cơ bản về tuyên truyền: xác định mục tiêu, thiết kế thông điệp và chọn công cụ tuyên truyền, thực hiện tuyên truyền, đánh giá kết quả tuyên truyền. 1.3.7.5. Bán hàng cá nhân Bán hàng là công cụ hiệu quả nhất ở giai đoạn hình thành sự ƣa thích và niềm tin của khách hàng và giai đoạn ra quyết định mua trong qúa trình mua hàng. Bán hàng cá nhân đòi hỏi sự giao tiếp của hai hay nhiều ngƣời. Hai bên có thể nghiên cứu trực tiếp nhu cầu và đặc điểm của nhau, đồng thời có sự linh hoạt trong giao tiếp cho phù hợp. Bán hàng trực tiếp hình thành nên nhiều mối quan hệ phong phú và đa dạng, từ quan hệ mua hàng thông thƣờng đến quan hệ thân mật, thuỷ chung gần gũi giữa doanh nghiệp và khách hàng mà doanh nghiệp thiết lập theo quan điểm Marketing. Việc bán hàng trực tiếp khuyến khích ngƣời mua đáp ứng lại, thể hiện thông tin phản hồi cho ngƣời bán vì ngƣời bán trực tiếp giao dịch, đã hình thành nên cơ chế thuận lợi, riêng biệt để ngƣời mua cung cấp thông tin ngƣợc chiều và có phản ứng đáp lại. Tham gia vào bán hàng của doanh nghiệp gồm rất nhiều ngƣời trong doanh nghiệp nhƣ ngƣời nhận đơn đặt hàng, ngƣời bán hàng trực tiếp Nhiều doanh nghiệp duy trì lực lƣợng bán hàng rất đông đảo. Lực lƣợng này cần phải đƣợc tổ chức và quản lý một cách khoa học. Quá trình bán hàng bao gồm các khâu sau: thăm dò và đánh giá, tiền tiếp xúc, tiếp xúc, giới thiệu và chứng minh, xử lý những từ chối, kết thúc, theo dõi. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 42
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Chương 2 THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ HOẠT ĐỘNG MARKETING TẠI CÔNG TY TNHH XÂY DỰNG VẬN TẢI LÊ SƠN 2.1. Tổng quan về công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn 2.1.1. Tên địa chỉ công ty Công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn do bà Lê Thị Nga làm giám đốc có tên tiếng Anh ( tên giao dịch) là: LE SON CONSTRUCTION TRANSPORT COMPANY LIMITED. Địa chỉ: Số 503 đƣờng 5/3,phƣờng Hùng Vƣơng, quận Hồng Bàng, Hải Phòng, Việt Nam Giấy ĐKKD: 0204002177 do phòng đăng kí kinh doanh, sở Kế hoạch & Đầu tƣ thành phố Hải Phòng cấp ngày 31/3/2009. Điện thoại: 0912520226 * 0936585285 * 0313850336 Fax :0313 850 336 Email: leson.co.ltd@gmai.com Mã số thuế: 4600359768 do Cục Thuế TP. Hải Phòng cấp Tài khoản: 102010000116745 Ngân hàng công thƣơng Hải Phòng 2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp Lịch sử hình thành: Sự gia nhập WTO đã làm cho đất nƣớc ta có một bƣớc chuyển mình rất nhanh chóng về tốc độ phát triển và đô thị hóa vì thế cuộc sống của ngƣời dân đƣợc nâng cao. Đặc biệt có thể nhìn thấy rõ sự phát triển này ở các thành phố lớn của đất nƣớc nhƣ Hải Phòng Nhu cầu xây dựng các công trình công cộng, phúc lợi xã hội ngày một tăng. Nhận thấy đƣợc nhu cầu cần thiết và cấp bách của thị trƣờng đầy tiềm năng Công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn đã ra đời. Nhằm phục vụ Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 43
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng nhu cầu xây dựng công trình, nhà ở của thị trƣờng.Công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn viết tắt là Lê Sơn Co. LTD đƣợc thành lập từ năm 2009 đến nay. Quá trình phát triển: Chỉ qua ba năm hoạt động đầu tiên, tổng số vốn của công ty từ 1.900.000.000đ đã tăng lên 5.000.000.000đ. Công ty đã mở rộng qui mô hoạt động, vƣợt qua những khó khăn ban đầu và cạnh tranh gay gắt bằng chiến lƣợc kinh doanh của công ty đã đƣợc ngƣời tiêu dùng chấp nhận. Lê Sơn Co.,LTD xem trọng việc bảo vệ an toàn cho con ngƣời và thiết bị thi công, tài sản của nhà đầu tƣ và thực hiện việc bảo vệ môi trƣờng trên các công trình, cũng nhƣ xây dựng các công trình bền vững có chất lƣợng và giá cả phù hợp với ngân sách nhà đầu tƣ, bàn giao công trình đúng tiến độ, bảo hành công trình chu đáo, thoả mãn nhu cầu của nhà đầu tƣ. Lê Sơn Co.,ITD luôn mong muốn đƣợc tiếp xúc với tất cả các chủ đầu tƣ để đƣợc mở rộng quan hệ hợp tác lâu dài phát triển bền vững. Đi lên từ lĩnh vực kinh doanh gạch chỉ, gạch lỗ, đến nay Lê Sơn Co.,ITD đã mở rộng thêm qui mô và lĩnh vực kinh doanh sang nhiều mặt hàng xây dựng khác nhƣ: cát, đá và vận chuyển 2.1.3. Chức năng và nhiệm vụ của công ty * Chức năng - Chức năng và nhiệm vụ của công ty đƣợc ghi trong quyết định thành lập và giấy phép kinh doanh là: - Mua bán vật liệu xây dựng nhƣ gạch, cát, đá - Thiết kế thi công công trình dân dụng, nhà ở, sửa chữa nhà ở. - Tƣ vấn xây dựng đấu thầu, dịch vụ môi giới nhà đất - San lấp mặt bằng - Dịch vụ vận tải hàng hóa đƣờng bộ bằng xe cẩu, xe tải, xe ben. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 44
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng * Nhiệm vụ Nghiên cứu thị trƣờng, nắm vững nhu cầu thị trƣờng từ đó tìm kiếm khách hàng mở rộng thị trƣờng tiêu thụ. Tổ chức tìm kiếm khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn hàng. Tổ chức quá trình mua, dự trữ, bảo quản, bán hàng, tổ chức quá trình thiết kế thi công, sữa chữa các công trình theo hợp đồng. Không ngừng hoàn thiện cơ cấu, tổ chức quản lý mạng lƣới kinh doanh của công ty theo hƣớng gọn nhẹ linh hoạt và hiệu quả. Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực pháp luật cho phép, thực hiện công tác thống kê kế toán theo pháp lệnh của nhà nƣớc, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nƣớc, với xã hội và ngƣời lao động. Chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. 2.1.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty 2.1.4.1.Mô hình tổ chức bộ máy của công ty :trực tuyến Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 45
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CÔNG TY TNHH XÂY DỰNG VẬN TẢI LÊ SƠN GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC P. kế toán P.thiết P. P.kế P.kinh hành kế marketing hoạch doanh chính p. hành p.kỹ chính thuật Ban Các điều hành đội thi công phƣơng tiện thiết bị xe máy thi công và cung cấp vật tƣ Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 46
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng 2.1.4.2. Chức năng nhiệm vụ của các bộ phận quản lý *Giám đốc: Là ngƣời có thẩm quyền cao nhất điều hành chung mọi hoạt động kinh doanh. Là ngƣời đại diện cho toàn bộ cán bộ công nhân viên, đại diện pháp nhân và chịu trách nhiệm cao nhất về mọi hoạt động kinh doanh cũng nhƣ kết quả hoạt động của công ty. Giám đốc là ngƣời quyết định và trực tiếp lãnh đạo các bộ phận chức năng, hƣớng dẫn cấp dƣới về mục tiêu thực hiện và theo dõi quá trình thực hiện của đơn vị trực thuộc. *Phó giám đốc: Là ngƣời có trách nhiệm hƣớng dẫn, kiểm tra các ban trong các mặt kinh tế, kỹ thuật, các công trình xây dựng theo hợp đồng kinh tế mà công ty đã ký kết với đối tác. Là ngƣời triển khai cho các quyết định của giám đốc, điều hành công ty khi giám đốc vắng mặt, chịu trách nhiệm trƣớc giám đốc về nghiệp vụ chuyên môn, xây dựng các kế hoạch, tổ chức quản lý các hoạt động kinh doanh thƣơng mại, lập báo cáo định kỳ trình lên giám đốc. *Phòng Kế toán- Tài chính: - Tham mƣu cho giám đốc công ty trong lĩnh vực quản lý tài chính, công tác hạch toán kế toán trong toàn công ty theo đúng điều lệ thống kê kế toán, quy chế tài chính và pháp luật của nhà nƣớc. - Tham mƣu đề xuất với giám đốc ban hành các quy chế về tài chính phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của đơn vị, xây dựng các định mực kinh tế kỹ thuật, định mức chi phí, xác định giá thành đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. - Thƣờng xuyên đánh giá hiệu quả kinh doanh có đề xuất và kiến nghị kịp thời nhằm tạo nên tình hình tài chính tốt nhất cho công ty. - Phản ánh trung thực về tình hình tài chính của công ty và kết hợp các hoạt động khác của công ty. - Định kỳ lập báo cáo theo quy định lập kế hoạch thu chi ngân sách nhằm đáp ứng nhu cầu tố của công ty. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 47
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng - Căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm của công ty tổ chức kế hoạch tài chính và quyết định niên độ kế toán hàng năm. - Kiểm tra, kiểm soát việc thu chi, thành toán các khoản nợ, theo dõi tình hình công nợ với khách hàng, tình hình nộp ngân sách của nhà nƣớc. *Phòng Tổ chức- Hành chính: Có nhiệm vụ thực hiện các công việc hành chánh nhƣ tiếp nhận, phát hành và lƣu trữ công văn, giấy tờ, tài liệu. Quản lý nhân sự, nghiên cứu, xây dựng cơ cấu tổ chức của công ty. Thực hiện một số công việc về chế độ chính sách cũng nhƣ vấn đề lƣơng bổng khen thƣởng. Quản trị tiếp nhận lƣu trữ công văn từ trên xuống, chuyển giao cho các bộ phận có liên quan. Có chức năng tiếp nhận thông tin, truyền tin truyền mệnh lệnh giúp giám đốc công ty trong việc quản lý điều hành đơn vị và trong quan hệ công tác với cấp trên, cấp dƣới, khách hàng, bố trí phân công lao động, giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị. Tham mýu cho giám đốc công ty trong việc tổ chức bộ máy quản lý, tổ chức cán bộ gồm: tuyển dụng lao động, phân công điều hành công tác, bổ nhiệm cán bộ, khen thƣởng kỉ luật. Tham mƣu cho giám đốc trong việc thực hiện chế độ chính sách cho ngƣời lao động nhƣ: chế độ tiền lƣơng, nâng lƣơng. Nâng bậc, chế độ bảo hiểm. Quản lý hồ sơ cán bộ theo phân cấp quản lý cán bộ. Thực hiện công tác đối nội, đối ngoại tổ chức công tác bảo vệ nội bộ, bảo vệ an ninh trật tự trong cơ quan Tham mƣu cho giám đốc trong việc quản lý và điều hành công tác công văn giấy tờ, in ấn tài liệu, quản lý phƣơng tiện trang thiết bị, văn phòng, xe ôtô, trụ sở làm việc và công tác lễ tân của công ty theo đúng quy định của công ty và nhà nƣớc. Thanh tra kiểm tra mọi hoạt động của đơn vị, ngăn chặn và kiểm tra tài liệu trƣớc khi lƣu trữ. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 48
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng *Phòng marketing: Nhiệm vụ tiếp cận và mở rộng thị trƣờng, phân đoạn thị trƣờng phù hợp với mục đích kinh doanh của công ty, quảng cáo sản phẩm mới, tìm kiếm khách hàng, thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm, quản lý các cửa hàng giới thiệu sản phẩm và các đại lý công ty, thực hiện các giao dịch và các hoạt động sản xuất trong và ngoài nƣớc. *Phòng Kinh doanh: Thu thập thông tin trên thị trƣờng về các mặt hàng kinh doanh của công ty có phù hợp với thị hiếu ngƣời tiêu dùng, nghiên cứu nhu cầu thị trƣờng và tìm kiếm thị trƣờng mới, đồng thời hỗ trợ giám đốc ký kết hợp đồng. *Phòng Kế hoạch: Tiếp nhận và điều động các công nhân viên, lập các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, luôn nắm bắt thông tin về giá cả, biến động của thị trƣờng để lập định mức, chỉ tiêu đồng thời kiểm tra chất lƣợng công trình. *Phòng Kỹ thuật: Quản lý và tổ chức thực hiện xây dựng cơ bản theo quy chế và pháp luật của nhà nƣớc hiện hành, đồng thời nghiên cứu các tiến bộ kỹ thuật ứng dụng vào thi công, hƣớng dẫn nhằm nâng cao tay nghề cho công nhân, tăng khả năng nghiệp vụ cho nhân viên. Theo dõi bám sát tiến độ thi công, quản lý kiểm tra số lƣợng nguyên vật liệu nhập và xác định mức vật liệu tiêu hao ổn định hợp lý. Tổ chức nghiệm thu khối lƣợng công trình, duyệt quyết toán công trình hình thành. *Phòng Thiết kế: Thiết kế các công trình dân dụng, công nghiệp, trang trí nội ngoại thất, showroom, văn phòng theo tiêu chuẩn kỹ thuật và quy định chung của các cấp có thẩm quyền. *Các Đội thi công: Trực tiếp tổ chức thi công, xây dựng các công trình theo ðúng bản vẽ, tiến độ, dƣới sự hƣớng dẫn của phòng kỹ thuật và sự chỉ đạo của Giám đốc. Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 49
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Nhƣ vậy, mỗi phòng ban trong công ty đều có chức năng nhiệm vụ riêng nhƣng giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ dƣới sự điều hành của Ban Giám Đốc công ty nhằm đạt lợi ích cao nhất cho công ty. 2.2. Các đặc điểm kinh tế kĩ thuật của công ty Công ty tổ chức sản xuất kinh doanh theo chiến lƣợc đa dạng hoá lĩnh vực kinh doanh với mục đích phân tán rủi ro, tránh việc tập trung quá nhiều nguồn lực vào một lĩnh vực, một mặt hàng để hạn chế rủi ro, tận dụng ƣu thế của từng mặt hàng, đồng thời phục vụ tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng, tạo đủ việc làm cho toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty, trong đó lĩnh vực kinh doanh gạch xây dựng là hoạt động chính, là mặt hàng chủ đạo của công ty. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty khá hiện đại. Hiện nay, công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn có kho bãi rộng rãi, hệ thống kho đƣợc trang bị đầy đủ các phƣơng tiện kĩ thuật đảm bảo có thể bảo quản tốt hàng hoá và thực hiện tốt các nghiệp vụ nhập kho và xuất kho; các cửa hàng đƣợc bố trí ở những nơi thuận tiện cho vận chuyển, diện tích đủ lớn để chứa hàng, hệ thống ánh sáng, cách bày biện hàng hoá đảm bảo cho khách hàng có thể xem xét hàng hoá một cách dễ dàng và sát thực nhất, các phòng ban đƣợc trang bị đầy đủ các thiết bị giao dịch: điện thoại, máy tính, bàn làm việc 2.2.1. Đặc điểm về sản phẩm của công ty Nhƣ đã nói trên sản phẩm của công ty là vật liệu xây dựng, mà sản phẩm chính là gạch xây dựng. Kinh doanh trong lĩnh vực rất cần đến chất lƣợng sản phẩm, nên công ty lựa chọn rất nhiều thƣơng hiệu uy tín cho nhiều sự lựa chọn đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Những thƣơng hiệu mà chi nhánh lựa chọn bao gồm: - Gạch Đồng Tâm - Gạch Quỳnh Sơn - Gạch nung Đông triều - Gạch Viglacera - Cát Vĩnh Phú Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 50
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Do sản phẩm thuộc nhóm ngành vật liệu xây dựng nên sức tiêu thụ của nó phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của ngành này. Hiện nay, ngành vật liệu đang có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân do đó khả năng tiêu thụ sản phẩm thuộc ngành càng cao. Thế nhƣng, một vấn đề đặt ra đối với sản phẩm là: Nếu chỉ nhìn bề ngoài thôi thì rất khó nhận biết đƣợc chất lƣợng sản phẩm, do đó nếu sản phẩm bị làm giả thì rất khó nhận biết, chỉ đến khi đem vào sử dụng mới phát hiện đƣợc. Vì vậy rất dễ bị kẻ xấu lợi dụng thƣơng hiệu của sản phẩm, đem ra những sản phẩm giả kém chất lƣợng, với mức giá rẻ hơn để thu hút khách hàng. 2.2.2. Đặc điểm về lao động của công ty Do lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty là: nhập khẩu và phân phối các sản phẩm vật liệu xây dựng chứ không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nên số lƣợng công nhân viên của công ty không nhiều, vào khoảng 60 ngƣời trong đó chủ yếu là lao động trực tiếp (chiếm khoảng 81%). Mặc dù số lƣợng không nhiều nhƣng đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty rất năng động, nhiệt tình, đƣợc tuyển chọn, có trình độ chuyên môn (có tới 10 ngƣời tốt nghiệp Đại học, 15 ngƣời tốt nghiệp hệ cao đẳng, số ngƣời còn lại thấp nhất cũng phải tốt nghiệp từ Trung học phổ thông trở lên), mặt khác bộ máy quản lý của công ty đƣợc thiết kế khá gọn gàng và có sự chuyên môn hóa cao nên quản lý công nhân viên làm việc khá hiệu quả. 2.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty TNHH xây dựng vận tải Lê Sơn. 2.3.1. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để thấy đƣợc hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần phân tích chỉ tiêu doanh thu thuần và lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua bảng báo cáo kết quả kinh doanh qua các năm: Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 51
- Chuyên đề tốt nghiệp Trường Đại Học Dân Lập Hải Phòng Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2010- 2011 (đơn vị tính: VNĐ) Chỉ tiêu Mã số Năm 2010 Năm 2011 1.Doanh thu bán hàng và 1 73.247.136.860 109.870.750.290 cung cấp dịch vụ 2. Các khoản giảm trừ doanh 2 0 0 thu 3. Doanh thu thuần về bán 10 73.247.136.860 109.870.705.290 hàng và cung cấp dịch vụ (10 = 01-02) 4. Giá vốn hàng bán 11 69.222.749.219 103.834.123.828 5. Lợi nhuận gộp về bán hàng 20 4.024.387.641 6.036.581.461 và cung cấp dịch vụ 6. Doanh thu hoạt động tài 21 6.208.923 9.313.384 chính 7. Chi phí tài chính 22 644.761.921 967.142.881 Trong đó: Chi phí lãi vay 23 644.761.921 967.142.881 8. Chi phí quản lý kinh doanh 25 4.461.004.443 6.691.506.064 9. Lợi nhuận thuần từ hoạt 30 (1.075.169.400) (1.612.754.10 ) động sản xuất kinh doanh[ 30 =20 + (21 – 22) – (24 + 25)] 10. Thu nhập khác 31 2.599.949.460 3.899.924.190 11.Chi phí khác 32 0 105.143.143 12. Lợi nhuận khác 40 2.599.949.460 3.794.781.047 13.Tổng lợi nhuận kế toán 50 1.524.780.060 2.182.026.947 trƣớc thuế 14. Chi phí thuế thu nhập 51 381.195.015 545.506.736 doanh nghiệp hiện hành 15. Lợi nhuận sau thuế thu 60 1.143.585.045 1.636.520.211 nhập doanh nghiệp : ( 60 = 50 – 51) Nguyễn Thị Thùy Trang – QT1202N 52